Thời gian và phận người
trong
thơ Trương Đăng Dung
Ám ảnh về cái chết có lẽ là
ám ảnh lớn nhất mỗi đời người vì mỗi phút trôi qua là một bước con người
xích lại gần hơn với cái chết. Sống gửi thác về...
Thế đấy, trong con mắt người
xưa, gửi là cõi tạm; về mới là vĩnh cửu. Đi, té ra cũng là
để trở về: Thân cát bụi lại trở về cát bụi.Theo đó, cái chết là một giới hạn có
tính mặc định. Ý niệm về cái chết, bởi thế, cũng là ý niệm về thời gian. Nhưng
con người, với bản chất là một thi sĩ, không cam chịu trước mặc định ấy mà luôn
tìm cách nới rộng giới hạn kia bằng sự mơ tưởng nghệ thuật. Chính trong mơ tưởng
và bằng mơ tưởng, con người được nhân đôi, được sống nhiều kiếp trong một kiếp
đời ngắn ngủi. Bởi vậy, như một ám ảnh vô thức và hữu thức, thức nhận về thời
gian đã trở thành yếu tố trội bật trong sáng tạo của nhiều người. Trương Đăng
Dung cũng không là ngoại lệ.
Trở đi trở lại trong Những
kỷ niệm tưởng tượng (1) của Trương Đăng Dung là tiếng cựa mình của thời gian, của
tình yêu và cái chết, là nỗi bất an trước một thực tại phi lý. Đó là một thế giới
ngập đầy hiện sinh trong cái nhìn trắc ẩn của một kẻ sớm tự
nguyện đứng về phe nước mắt.
Đỗ Lai Thúy đã bắt mạch
trúng những chuyển động ngầm ẩn bên trong thế giới mơ tưởng kia của Trương Đăng
Dung khi gọi Những kỷ niệm tưởng tượng là thơ - thời - gian (2).
Dĩ nhiên, đó không phải là thời gian vũ trụ tuần hoàn kiểu thơ ca trung đại,
cũng không còn là kiểu thời gian của mỹ học lãng mạn thời thơ mới, cho dù đây
đó ở Trương Đăng Dung vẫn còn những bước chuyển ngập ngừng. Thời gian thơ
mới, trong cái nhìn của triết học nhân sinh, về cơ bản vẫn là thời gian bên
ngoài. Xuân Diệu là thi sĩ lắng nghe bước đi của thời gian đặc biệt tinh tế: Ngẩng
đầu ngắm mãi chưa xong nhớ/ Hương bưởi thơm rồi: đêm đã khuya. Dẫu vậy, thời
gian ấy vẫn là thời gian khách thể. Đến các thi sĩ trường thơ Loạn, như một gây
hấn nhằm kiếm tìm một hệ mỹ học mới/ khác, đã bắt đầu xối trộn các chiều không/
thời gian trong sinh thể nghệ thuật của mình: Van lạy không gian xóa những
ngày (Hàn Mặc Tử). Thơ Loạn, trong cái
nhìn của Chế Lan Viên là thứ thơ: “thoát hiện tại”, “xối trộn dĩ vãng”, “ôm
trùm tương lai” (Tựa Điêu tàn). Những quẫy đạp để phá bỏ giới hạn không/
thời gian kia đã giúp các thi sĩ trường thơ Loạn mở rộng chiều kích khám phá thế
giới, đào sâu hơn nữa vào cái “rộng rinh không bờ bến” của cái tôi cá nhân. Hệ
quả, trong khi Hàn Mặc Tử nhìn thời gian bằng cái nhìn siêu thực thì Chế Lan
Viên nghiêng đậm chất siêu hình. Là kẻ đến sau, một mặt coi quan niệm thời gian
trong thơ truyền thống như một kinh nghiệm nghệ thuật để “khắc phục vật
liệu” và vượt thoát, mặt khác, quan trọng hơn, chịu ảnh hưởng trực tiếp tư tưởng
triết học của M. Heidegger, Trương Đăng Dung đã góp vào thơ Việt đương đại
một cách cảm nhận mới về thời gian. Đó là thời gian bên trong: thời gian là tồn
tại, tồn tại là thời gian. Cái nhìn mới mẻ này, tự nó, đã là một
đóng góp đáng kể vào một nền thơ vốn nặng chất duy tình và tựa nhiều vào vần điệu.
Tôi không có ý coi nhẹ bản năng/ duy tình vì đó là yếu tố khởi đầu của thi tài,
nhưng tựa mãi vào năng khiếu tất sẽ mòn. Tôi cũng không có ý hạ thấp vần điệu,
nhưng tựa quá nhiều vần điệu đã trở thành “Xưa như Diễm”. Con đường làm mới thơ
có nhiều ngả hướng, và đường thơ Trương Đăng Dung cũng chỉ là một hướng tìm
tòi. Nhưng điều quan trọng nằm ở chỗ, anh đã phổ vào thơ mình những suy tư đậm
màu triết học, không phải thứ triết học cao đàm khoát luận mà là thứ triết học
gắn liền với nhân sinh, là triết học nhân sinh. Đây là điều thơ Việt hiện nay
còn nhiều khuyết hụt.
Nếu các nhà triết học cận đại
trong khi xem nhẹ “tinh thần” và đề cao con người như là chủ thể của một thế giới
ngày càng bị “vật hóa”, đã bỏ rơi và lãng quên “hữu thể” thì M. Heidegger “hướng
tới” và “vượt lên” bằng cách” trở về”: về với một thế giới tinh khôi,
toàn vẹn đã bị lãng quên và bị tước đoạt. Tinh thần này, về bản chất, mang đặc
tính của thơ ca: Thơ là sự trở về. M. Heidegger, qua diễn dịch của
Bùi Văn Nam Sơn, cho rằng, ngôn ngữ cũng giống như ý thức “đan dệt một làn da sống
động, ấm áp bao quanh thế giới, không phải là sản phẩm khô khan của trừu tượng
hóa, mà cùng chia sẻ khổ vui với thế giới”( 3). Là “ngôi nhà của hữu thể”, ngôn
ngữ vừa do con người kiến tạo, vừa quy định chủ thể của sự kiến tạo. Những tư
tưởng độc đáo trên đây của M.Heidegger đã ảnh hưởng to lớn đến tinh thần phương
Tây hiện đại như một cảnh báo và thức tỉnh: để tránh khỏi những áp lực, âu lo
và tìm kiếm ý nghĩa của tồn tại, con người phải biết ý thức riết róng về cái chết
và sự hữu hạn, từ đó, biết coi trọng các giá trị đã có trong quê hương đích thực
của mình(4). Thực ra trước Trương Đăng Dung, những tư tưởng triết học nhân sinh
này đã ám rất sâu vào nhiều thi sĩ tài hoa khác, trong đó, đáng chú ý nhất là
Bùi Giáng: Xin chào nhau giữa con đường- Mùa xuân phía trước miên trường
phía sau. Kẻ tài thơ ấy cũng yêu Nguyễn Du, yêu những gì thuộc về nước mắt: Bây
giờ riêng đối diện tôi - Còn hai con mắt khóc người một con. Chỉ có điều, nếu
Bùi Giáng quậy phá để tạo nên những cuộc hôn phối kỳ lạ giữa cổ và kim, giữa
cao sang và thông tục, thì Trương Đăng Dung chừng mực hơn nhiều. Chừng mực nhưng
chất chứa dồn nén, khắc khoải bên trong. Khắc khoải bởi sự mất mát đang
diễn ra ngay trong hiện tại:
Thôi em đừng khóc
rồi sẽ qua đi kiếp người ngắn
ngủi,
một ngày kia hết mọi buồn
vui
chui xuống cỏ ta sẽ nằm dưới
cỏ
bàn tay ta bất động giữa đất
dày
bàn tay ta thôi tìm nhau run
rẩy.
(Ảo ảnh)
Dồn nén, chừng mực nhưng
Trương Đăng Dung không có ý thỏa hiệp với những quy phạm nghệ thuật có sẵn. Bởi
lẽ về bản chất, tiếng thơ Trương Đăng Dung gần hơn với tiếng nói “ngoại vi”, tiếng
nói của kẻ yếu. Tôi nghĩ, tập thơ này nếu ra đời cách đây quãng vài ba chục
năm, nó rất dễ bị coi là thứ quả trái mùa, bởi những suy tư kia của một kẻ Tây
học sẽ bị rơi vào lạc lõng. Mà đúng thế, đến tận hôm nay, nhiều khi ý nghĩ của
Trương Đăng Dung vẫn hiện lên như ý nghĩ của một kẻ lạc lõng bởi con đường anh
đi chẳng khác gì một độc đạo, độc hành. Trương Đăng Dung không ham đăng đàn diễn
thuyết, nhưng những phá cách trong tư duy và giọng điệu ấy đủ sức khuấy động một
cộng đồng diễn giải còn mang nặng giáo điều. Và ngược lại, cũng tìm thấy
không ít sẻ chia – từ những ai muốn tìm cái khác. May mắn cho Trương Đăng Dung
là tập thơ ra đời khi đổi mới đã thực sự là môt tiến trình. Nói thế để thấy
sự mới mẻ trong trong thơ Trương Đăng Dung trước hết là sự mới mẻ về tư tưởng.
Bàn đỡ và sự thâm hậu của tư tưởng giúp Trương Đăng Dung không lạm dụng kỹ thuật
tân kỳ mà thơ anh đầy trắc ẩn, suy tư. Trong chính sự suy tư ấy, Trương Đăng
Dung tìm thấy tự do nội tại, tự do lang thang suốt mọi ngõ ngách của thế giới nội
cảm. Thế giới ấy tuy không lìa gốc rễ cội nguồn nhưng đã được bồi đắp nhiều hơn
bởi những tư tưởng của M. Heidegger, A. Camus, F Kafka..., những bậc thầy hiện
sinh thường trực nỗi âu lo và mất niềm tin trước một thực tại đổ nát, đau
thương. Đó là những bước chân lang thang gắn liền với rất nhiều hoài nghi: Có
môt thời? Đêm ở Roma... Ngấm sâu tinh thần M.Heidegger qua Sein und
Zeit, Trương Đăng Dung coi hữu thể và thời gian là tương quan cốt yếu kiến
tạo đặc tính tươi xanh và bí ẩn của thế giới:
Anh không thấy thời gian
trôi
thời gian ở trong máu, không
lời
ẩn mình trong khóe mắt, làn
môi
trong dáng em đi nghiêng
nghiêng
như đang viết lên mặt đất thành lời
về kiếp người ngắn ngủi
(Anh không thấy thời gian trôi)
Khắp sinh quyển Những kỷ
niệm tưởng tượng, hầu như chỗ nào cũng chứng kiến sự hắt bóng của thời gian, là
thời gian, là sự sống và cái chết gần kề: mùa trăng sắp lụi,răng mẹ rụng lúc
nào không biết nữa, sợ thời gian rình trong sợi tóc, anh nghe ngày một gần hơn
tiếng lũ quạ...Điều gì đang đợi ta ở cuối con đường, phía sau những chuyển động
không ngừng? Đó là cái chết. Nhưng ngay cả cái chết cũng không khép lại, mà đó
cũng là một chuyển động. Liệu rằng, sau những chuyển động ấy, cuộc đời có tái
sinh? Câu hỏi ấy Trương Đăng Dung không trả lời. Vì với anh, hữu thể mang khuôn
mặt của thực tại, để trải/ hiểu thực tại ấy, người ta cần phải sống, phải không
ngừng cật vấn về tồn thể. Từ ảnh xạ của M. Heidegge và tư tưởng hiện sinh,
Trương Đăng Dung nói về cái chết không phải như một nỗi khiếp sợ mà để thấu rõ
hơn nỗi cô đơn bản thể, từ bi đát và phi lý mà ngộ ra cái hữu lý truy tìm. Cũng
bởi thế, thực tại trong thơ Trương Đăng Dung nhuốm đầy bi kịch. Tính nhân văn của
tập thơ toát lên từ chính quá trình suy nhận về những bi kịch bất tận của cõi
người...
Có một thời ta đã sống thật
sao?
Những câu thơ trong bài thơ
này, hiểu một cách bề mặt, là khả năng tái nhận thức đời sống từ những trải
nghiệm cá nhân. Nhưng sâu hơn, đó là sự tra vấn không ngừng về tồn thể. Càng
tra vấn và càng chứng nghiệm về sự phi lý và hữu hạn, con người càng thấy mình
cô đơn. Tôi nghĩ, Trương Đăng Dung không thể có tập thơ này nếu anh không mang
trong mình một khối cô đơn định mệnh. Nỗi cô đơn gắn với cảm giác sợ người.
Trong cô đơn, lúc nào anh cũng nhìn thấy những bức tường ngăn cách bản ngã và
tha nhân. Văn minh kỹ trị có thể tạo ra ảo giác về sự tiến bộ và văn minh,
nhưng mặt trái của nó là thủ tiêu hơi ấm của con người, cắt đứt sự kết nối của
tình thương. Với cách hình dung như thế, liệu lịch sử có phải là sự tiến
bộ như ta hằng tưởng? Hay đó cũng là một ảo ảnh của con người? Lại nhớ đến Nguyễn
Huy Thiệp: Đến bao giờ, hỏi đến bao giờ, mặt đất này mới xuất hiện tiến
bộ?. Chính vì suy tư về thực tại phi lý và sự lãng quên hữu thể của con
người, Trương Đăng Dung không cần đến nhiều lời, vẫn có những khám phá rất sâu
về thân phận. Tôi nghĩ, tham gia vào quá trình khám phá này, ngoài mẫn cảm cá
nhân, còn có sự trợ lực của tư tưởng triết mỹ phương Tây, và nữa, sự tiếp sức của
dưỡng chất văn hóa phương Đông, khi mà ở thời trai trẻ, Trương Đăng Dung đã dịch Truyện
Kiều - một kiệt tác về thân phận: Trăm năm trong cõi người ta- Lời rằng
bạc mệnh cũng là lời chung. “Lời chung” chính là một khái quát về bi
kịch nhân thế trong cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Du.
Phận người trong thơ Trương
Đăng Dung không bị quy định bởi từ trường tụng ca và những lời hoa mỹ. Trái lại,
nó luôn gắn với nỗi đau trần thế, trong bùn đất trần thế mà hiển lộ vẻ vẻ
đẹp người - những vẻ đẹp mang màu sắc chịu nạn:
Tôi lại nhìn thấy họ
những người vợ suốt đêm vá
lưới
mắt quầng thâm nhìn chồng.
Ngoài kia
biển dâng triều, sóng cồn
lên sôi động
(Tôi lại nhìn thấy họ)
Những câu thơ này không phản
ánh thứ “hiện thực” thông thường mà là sản phẩm của tưởng tượng, nơi lưu giữ tầng
sâu ký ức, bất chợt bùng vỡ trong những giấc mơ, vì thế mà đầy ám ảnh.
Nhà thơ đã nhìn thấy gì trong những giấc mơ ấy? Thiên tai. Địch họa. Chết chóc.
Tha hương...Tất thảy đều lam lũ, khó nhọc, đầy nước mắt. Nỗi đau khổ ấy không
chỉ có trong thời chiến mà tồn tại ngay cả thời hậu chiến, trong những bước
chân phiêu bạt xứ người để mưu sinh. Tôi nhớ, cảm nhận này cũng từng hiện hữu
trong diễn ngôn chấn thương của Bảo Ninh, trong những giấc mơ “và khi tro bụi”
của Đoàn Minh Phượng, và trước đó, “tổ quốc nhìn từ xa” trong thơ Nguyễn Duy
hay những tiên cảm cuối thập niên bảy mươi của thế kỷ XX trong cái nhìn không
còn trong veo của Lưu Quang Vũ.... Đặt những suy tư về thân phận của Trương
Đăng Dung trong dải phổ văn học sau 1975 để thấy, chấn thương và cảm nhận về mất
mát là một chủ đề của văn học đương đại, là một hình thức nhận biết và lý giải
cuộc sống trong tính đa chiều. Vậy là Trương Đăng Dung có những kẻ đồng hành,
nhưng đồng hành mà vẫn khác biệt. Sự khác biệt ấy, chủ yếu xuất phát từ ý niệm
về thời gian và màu sắc hiện sinh phủ đầy trong thi giới Trương Đăng Dung. Cũng
không có gì quá khó hiểu khi Trương Đăng Dung tìm cách biểu đạt nó qua số phận
đàn bà. Họ là người mẹ, người em, người vợ...Thơ Việt cũng như thơ nhân loại từng
có không ít câu thơ hay về phụ nữ. Viết về phụ nữ, Trương Đăng Dung nghiêng nhiều
về bi kịch:
Những người đàn bà đi trong
bình minh
chiếc làn xách tay
mấy quả trứng, mớ rau
và một ít bóng đêm sót
lại.
… Họ đi hàng dọc
gương mặt không trang
điểm
như vừa được vớt lên từ
đáy giếng.
(Những người đàn bà)
Không gian bình minh như một
khung khổ nghệ thuật làm nổi bật sự lam lũ, nhọc nhằn. Một kiểu đặc tả ngược
sáng. Những người đàn bà nhọc nhằn không còn sinh khí đến mức mang sắc vẻ nhợt
nhạt của cái chết. Bài thơ chuyển tải thông điệp về một thực tại mà ở đó cái đẹp
bị lâm nguy, con người bị hủy hoại trong những trò chơi lỗi nhịp.
Không khó khăn gì để người đọc
nhận thấy mối đồng cảm giữa những câu thơ trên đây với Những người đàn bà
gánh nước sông của Nguyễn Quang Thiều.Kém “may mắn” hơn, thơ Nguyễn
Quang Thiều ra mắt người đọc vào những năm đầu 90 của thế kỷ trước và nhà thơ lập
tức bị ném đá vì tội ... bêu xấu phụ nữ. Người ta căn vặn: sao không viết về
người đàn bà với công thức mỹ học “công, dung, ngôn, hạnh” mà nói về sự nhếch
nhác của con người? Nay nhìn lại, mới thấy những nỗ lực “lạ hóa” trở nên vô
nghĩa với kiểu tiếp nhận này. Vả lại cả hai, Thiều và Dung đều là những kẻ Tây
học, hẳn bị rơi vào bẫy ngoại lai và khinh rẻ giống loài? Nhưng nỗi đau trong
thơ họ còn nguyên: vì sao những người đàn bà kia khốn khổ đến kiệt tàn sức sống?
Rộng hơn, thân phận của người đàn bà cũng là thân phận của chúng ta, thân phận
của lũ kiến trong cái trò chơi đầy phi lý này. Không ai khác, chính con người
đã dựng lên trò chơi và mắc bẫy trò chơi. Mắc bẫy mà không tự biết và vô cảm
trước cạm bẫy đời.
Nói đến cái chết, sự phi lý
và nỗi đời mong manh, Trương Đăng Dung có nhiều thơ hay về tình yêu.
Trong cái nhìn của Trương Đăng Dung, tình yêu là hòa ca của tồn tại, là những
giây phút rực rỡ nhất của tồn thể, tại đó cả hai “rủ nhau làm sự sống”. Coi hiện
tại là trung tâm quy chiếu các chiều thời gian, sợ tình yêu biến mất ngay chính
thời hiện tại, Trương Đăng Dung cần đến vật chứng trong khi bản thân anh chắc
gì đã tin vào sự hằng tồn của vật chứng:
Em đừng xếp lại chăn
em đừng chải lại tóc
em đừng tô lại môi
cứ để nguyên áo quần trên ghế
cứ để nguyên hiện trạng căn
phòng.
Anh cần vật chứng
Trước thời gian.
(Vật chứng)
Nói thế để thấy Trương Đăng
Dung biết kiếm tìm niềm tin sau bao nỗi hoài nghi và vấp ngã tinh thần. Trước
Trương Đăng Dung, R. Tagore có câu thơ nổi tiếng: Em thế nào thì cứ thế mà đến - Chớ có loạy hoay sửa soạn áo quần. Thơ Tagore nói về sự chân thật tự nhiên
của người tình, vì tình yêu đâu cần trang sức, còn “vật chứng” mà Trương Đăng
Dung nói đến xuất phát từ nỗi e sợ tất cả biến mất trước thời gian: Sợ thời gian
rình trong từng sợi tóc - khi môi ta rời nhau - hơi ấm đã thuộc về quá khứ.Không
nghi ngờ gì, đây là những khoảnh khắc hiện sinh có mặt trong thơ Dung. Một hoài
nghi gắn liền với tiếng thở dài đời người như khói sương cứ bàng bạc
trong tưởng tượng:
Có thể em vẫn nhớ những vầng
trăng thức trắng
lá rơi thảng thốt trước thềm.
có thể em vẫn nhớ một bóng
hình, giọng nói
đã tan trong sương khói
những kiếp người.
(Có thể)
Những câu thơ mang chứa những
vẻ đẹp buồn. Nó gói ẩn những chắt chiu chiêm nghiệm. Những bản tình ca trong
thơ Trương Đăng Dung là thế, ngân lên những giai âm tao nhã mà không kém phần mãnh
liệt.
Trong thơ ca đương đại, tình
yêu và sex được nói nhiều. Có người coi đó là “mode”, có người coi là sự giải
phóng ẩn ức và bản ngã, có người từ tình yêu mà suy ngẫm về kiếp người. Trương
Đăng Dung nói về yêu và sex vì tồn tại và nghĩa lý của tồn tại. Tôi muốn
dừng lâu hơn ở bài Anh chiếm chỗ bóng đêm để từ đó lạm bàn một chút về
việc nhiều nhà thơ đương đại bị hút vào chủ đề nhạy cảm ( hot) này. Đã có không
ít cây bút ngộ nhận rằng nói thật nhiều về sex bằng ngôn ngữ thông tục là một bằng
chứng về tính hiện đại của thơ, là hình thức coi trọng sự dân chủ giữa các từ.
Điều ấy chỉ đúng một phần, bề mặt. Điều quan trọng hơn bảo đảm cho tính
hiện đại trong diễn ngôn tính dục là ở chiều sâu cảm nhận và lý giải, ở khả
năng mở ra vô tận những hưởng thụ văn hóa khi nói về sex, coi nó như một phương
diện biểu đạt sự thấu hiểu, trao nhận sâu xa của con ngườì, làm cho con người
nhận ra nghĩa lý của tồn tại. Với cái nhìn như thế, tôi nhận thấy có ba vấn đề
đáng chú ý khi tìm hiểu ngôn ngữ tính dực trong thơ Trương Đăng Dung. Thứ nhất,
sex là một sự sống và là một nghệ thuật. Nghệ thuật ấy cần đến sự trang nhã và
mạnh mẽ trong cực điểm của hòa hợp. Vì nói theo diễn đạt của Freud, nó là lực
sống. Và là những tận hiến tột cùng:
Những khoảnh khắc trong đêm
những đường cong
như sóng vươn về phía trước
hơi thở như gió
đắm say và gấp gáp.
... Anh chiếm chỗ bóng đêm
Anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông
Có tự ngàn đời
Để cho em rạng rỡ.
(Anh chiếm chỗ bóng đêm)
Thứ hai, trong những điên rồ
hiến nhập, ý thức về hiện tại vẫn là ý thức nổi bật nhất. Nó có mặt ngay cả khi
Trương Đăng Dung sử dụng ngôn ngữ của A. Schopenhauer “Có phải chúng ta
đang bị tự nhiên lừa”. Lý trí mách bảo như thế, nhưng là con người, Trương Đăng
Dung vẫn muốn bị lừa “để chiếm chỗ bóng đêm - để có em vĩnh viễn!. Đó là
mâu thuẫn muôn đời mà tình yêu và những giây phút thănghoa nhất của nó không dễ
gì hóa giải. Nó cũng là một sắc thái đầy phi lý của trò chơi. Thứ ba, diễn ngôn
tính dục thơ Dung như một minh chứng về tương quan giữa tự do và quyền lực.
Không một quyền lực nào có thể tước bỏ tự do, không một ràng buộc nào
ngăn cản được tình yêu dù biết rằng kiếp đời là ngắn ngủi. Tình yêu, với
cái nhìn như thế, tự nó, cao hơn cái chết, và đối mặt cái chết, ta có thể an
lòng về thực tại Anh không còn gì ngoài em. Chúa đã ra đi, Thượng đế đã chết,
chiến tranh như một trò chơi tai ác vẫn hiện hữu, những bức tranh đẫm máu còn
nhắc nhở con người không được phép lãng quên. Những ghi chép hè năm 2009 xem
ra vẫn còn tiếp tục khi cái phi lý đã được coi là hợp lý. Trò chơi tai ác ấy
mang khuôn mặt của hiện tại nhưng lại có một lịch sử xa xưa:
Đấu trường Colosseo lạnh
lung
những bóng ma vất vưởng
những khán đài âm u
đêm khép lại
đâu là lịch sử
đâu là trò chơi?
Mona Lisa mỉm cười
bí ẩn
(Đêm ở Roma)
Cũng bởi ý thức rốt ráo về
thực tại và thời gian mà Trương Đăng Dung gửi gắm cho con: bố chỉ mong
trái tim con đừng bao giờ lạc lõng - trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con.
Những điều đã nói ở trên cho
phép ta ghi nhận đóng góp của một tập thơ có khả năng đánh thức tư duy thơ Việt
đương đại: cần phải tăng thêm tính tư tưởng và tính hiện đại cho thơ. Chiều sây
mỹ cảm và tinh thần triết học trong thơ Trương Đăng Dung đủ sức mời gọi những
diễn dịch khác nhau. Đó cũng là độ mở cần thiết của những văn bản thơ hiện đại.
Xin được nói thêm rằng, bản
thân nhan đề tập thơ - Những kỷ niệm tượng tượng - đã hé lộ trường
mỹ học thơ Dung. Một thứ mỹ học đã vượt khỏi tầm kiểm soát của mô hình phản ánh
hiện thực “chân chân chân, thật thật thật” để xuyên qua những bức tường của tri
giác đặng nghe thấy mạch đập bản thể hiện tồn. Hình thức, trong Những kỷ
niệm tưởng tượng là hình thức quan niệm, hình thức của tư tưởng, nên nó
chính là tư tưởng, có khả năng xâm thực người đọc bằng những suy cảm sâu xa.
Tính hiện đại trong thơ Trương Đăng Dung, vì thế, mang chứa nhịp thở mỹ học hiện
đại và hậu hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà Trương Đăng Dung có ý thức xóa
nhòa các ranh giới: ranh giới thời gian trên nền quy chiếu hiện tại; ranh giới
của quốc gia vì dù chủng tộc khác nhau, văn hóa khác nhau thì tất thảy đều là
con người. Xóa bỏ mọi ranh giới có thể coi là một thủ pháp nghệ thuật hữu dụng,
vì mờ hóa đã trở thành đặctrưng cốt yếu của tư duy nghệ thuật hiện đại.
Theo đó, tính nhân loại trở thành một cảm thức nghệ thuật chi phối cách kiến tạo
lời của Trương Đăng Dung. Giấc mơ của Kafka, Những kỷ niệm tưởng tượng...là
những thi phẩm thể hiện rõ mạch chảy này.
Chú trọng sự kết tinh của chữ,
quan tâm đến nhịp điệu và hơi thở của cấu trúc, Trương Đăng Dung, cứ thế, buộc
người đọc cảm nhận thơ mình trên tinh thần của một lỗ tai mới, một kinh nghiệm
và một trường thẩm mỹ mới. Chữ nghĩa Trương Đăng Dung mang tính chắt lọc, đến mức
có thể hình dung nó như những nét chạm khắc tinh xảo với những chuyển động tinh
tế: Bao nhiêu lần khép cửa - em vẫn thấy mình chưa ở bên trong - Và cặp
môi hồng - mím chặt vào nhau an ủi (Thành phố phía chân trời). Từ bài thơ
đầu in trên Văn nghệ đến tập thơ này kịp ra đời là quãng thời gian
hơn ba mươi năm. Mới hay, Trương Đăng Dung coi trọng chất hơn lượng.
Ngẫm ra, đó cũng là một phương diện khác của ý thức về thời gian và nghĩa lý của
tồn tại.
Sống như là quá trình thỏa
thuận
Nhiều người cho rằng Những
kỷ niệm tưởng tượng có phần đơn điệu, mono, chưa đa dạng. Nhưng đó là
lựa chọn của Trương Đăng Dung. Là nhà khoa học làm thơ, Trương Đăng Dung yêu sự
chặt chẽ và tạo dựng cấu trúc thi phẩm trên dòng tư tưởng nhất quán của mình.
Điều này có lý của riêng của Trương Đăng Dung, bởi Dung ý thức về sự thỏa thuận.
Làm thơ, phát ngôn, và sống...đều là quá trình thỏa thuận. Thỏa thuận cũng
là bài thơ khép tập, nhưng lại hé mở một lộ trình. Lộ trình ấy chủ yếu vẫn được
thi triển trên quan niệm về thời gian và trò chơi ngôn ngữ theo tinh thần hiện
đại khi mà bản thân cuộc sống cũng được coi là một văn bản: “Ngôn từ kết nối
phân chia, ngôn từ tự do tạo nghĩa”, “Thế giới không thuần nhất - bấp bênh, những
ý nghĩa thỏa thuận”. Đó cũng là điều tôi cảm nhận được từ những bài thơ mới
công bố gần đây của Trương Đăng Dung trên tờ Tạp chí Thơ. Nó là sự
tiếp nối những cuộc viễn du trong thẳm sâu tâm tưởng mà Trương Đăng Dung đã thực
hiện trong hàng chục năm qua.
Cái gọi là sự thỏa thuận
cũng là một phạm trù rất quan trọng của mỹ học tiếp nhận, một phương diện mà
Trương Đăng Dung dày công nghiên cứu. Bất cứ văn bản và sự đọc nào cũng tồn tại
trên những thỏa thuận. Ở những văn bản nghệ thuật đích thực, sự thỏa thuận ấy mở
ra rất nhiều chiều. Để diễn giải thơ của Trương Đăng Dung, người đọc cần phải
có những kiến thức triết học và một nền tảng mỹ học cần thiết. Vẫn biết Trương
Đăng Dung không chỉ hướng tới lớp người đặc tuyển. Anh viết cho mọi người, và
thông qua những thỏa thuận, người đọc có thể gặp ở nơi này, nơi kia một chia sẻ
về thân phận, về sự phi lý của cõi đời, về những sinh linh mà Dung đã và chưa gặp,
chưa kịp cảm giao. Để từ đó, trong lang thang suy tưởng, nhà thơ nghĩ về dân tộc
và nhân loại, nghĩ về lịch sử và số phận con người. Trong miền suy tưởng về sự
phi lý và vỡ vụn của thế giới, Trương Đăng Đung đã bước chân mình vào chu cảnh
hậu hiện đại. Đó là những bước đi tự nhiên mà không hề gượng ép.
Mang đậm chất triết học,
nhưng Những kỷ niệm tưởng tượng không rơi vào khô khan bởi Trương
Đăng Dung biết xử lý hài hòa tình và lý. Những bậc cao thủ thi ca thường
biết đốt trí tuệ thành tình cảm và biết đốt tình cảm để thăng hoa thành trí tuệ.
Thơ Trương Đăng Dung là nỗ lực hiện thực hóa quá trình dung hợp hai cực
ngược chiều. Bài thơ “Đêm ở Roma” là một trong những thi phẩm thể hiện
rõ cách xử lý mối tương quan này.
Nói về Roma nhưng Trương
Đăng Dung không rơi vào kể tả, một thủ pháp mà những kẻ non tay rất dễ vừa
lòng. Trường suy tư của thi sĩ bắt đầu từ cái nhìn ngược sáng. Trong bóng đêm,
nhà thơ nghẹ nhịp thở Roma chính từ lồng ngực mình: tôi thức với trái tim
- những ý nghĩ lang thang trong lồng ngực - không còn đủ sức - chạy theo
con tàu. Đi kiệt cùng nỗi cô đơn và những suy tưởng cá nhân, Trương Đăng
Dung gỡ hết bức tường này để tiếp tục đối mặt với những bức tường khác cùng vô
vàn câu hỏi “đâu là lịch sử - đâu là trò chơi?” Nụ cười bí ẩn của người
đẹp trong tranh L. Vinci thực chất là bí ẩn của hữu thể. Mỗi người sẽ biết cách
trả lời nếu họ đạt tới satna. Nhưng điều cần nói thì Trương Đăng
Dung đã nói: sự nhầm lẫn của con người nằm ở chỗ con người hợp thức hóa những
trò chơi vô nghĩa lý. Chỉ khi nào nhận ra bản chất phi lý của trò chơi, ta mới
chạm được vào chân lý. Toàn bộ thi giới Trương Đăng Dung gắn liền với một đề
nghị đầy khắc khoải của anh: con người hãy biết sống với nhau một cách nhân ái
và khoan dung. Trái đất cần hơi ấm tình người và niềm cảm thông đồng loại. Đó mới
đích thực là lõi cốt của tồn tại.
Tôi nghĩ, tại đấy, Trương
Đăng Dung sẽ nhận được sự chia sẻ của lịch sử qua lời Ph. Dotstoievxki: Tình
thương sẽ cứu chuộc thế giới. Một vẻ đẹp toàn thiện sẽ hiện lên tinh khôi từ sự
cứu chuộc ấy của con người.
1. Những kỷ niệm tưởng tượng - Thơ Trương Đăng Dung, Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2011.
2. Đỗ Lai Thúy: Trương Đăng
Dung với thơ - thời- gian, Lời giới thiệuNhững kỷ niệm tưởng tượng của
Trương Đăng Dung, Nxb Thế giới, H. 2011.
3. Xem: Bùi Văn Nam Sơn, Lời
giới thiệu Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại, Nxb Văn học, H. 2001, tr
29.
4. Diễn giải của Trương Đăng
Dung trong bản dịch Trên đường đến với ngôn ngữ của M. Heidegger, in trong Tác
phẩm văn học như là quá trình, Nxb KHXH, H.2004, tr 229 - 230
Nguồn: Văn hóa Nghệ An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét