Hồng Hà nữ sĩ - Hồng nhan
Nói về nỗi buồn
đau của người chinh phụ tất phải nói đến bài thơ Khuê oán của Vương
Xương Linh (*):
Khuê trung thiếu
phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Và khi đọc bài
thơ Khuê oán của nhà thơ thời Thịnh Đường này ta không thể không nghĩ
đến Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm và lúc đó cảm xúc của ta
tuôn trào, réo sôi như thác đổ chứ không chỉ là cái "khoảnh khắc đốn ngộ"
nữa:
Thuở trời đất
nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
(Thiên địa
phong trần/ Hồng nhan đa truân)
Và như một định
mệnh, Hồng Hà nữ sĩ của chúng ta bị câu thơ mở đầu này vận vào số phận một cách
nghiệt ngã: Hồng nhan đa truân! Quả là rất đa truân: Bà Điểm
kết hôn với Nguyễn Kiều, lúc đó là năm 1743, Bà Điểm đã 39 tuổi. Chỉ một tháng
sau, ông Kiều phải đi Sứ ba năm biền biệt: Bà Điểm phải sống trong nỗi sầu cô
quạnh không khác gì nàng chinh phụ trong Chinh phụ ngâm! Khi ông Nguyễn
Kiều trở về, này vui ngắn chăng tày gang, ông lại phải vào Nghệ An nhậm chức!
…Bà Điểm không muốn đi vào tận xứ Nghệ đường xa cách trở vì còn phải chăm sóc mẹ
già và vợ con người anh xấu số, bà cũng linh cảm thấy điềm gở về chuyến đi này!
Nhưng ông Nguyễn Kiều năn nỉ hết lời, muốn bà đi cùng vào xứ Nghệ… Bà phải chiều
chồng, làm bổn phận người vợ tòng phu, xuống thuyền cùng chồng đi vào Nghệ An,
với nỗi lòng lo âu buồn bã…Lúc thuyền đến bến Đền Sòng, nơi thờ Công Chúa Liễu
Hạnh, Bà bị cảm rất nặng. Biết mình không thể sống được, Bà trăn trối cùng chồng:
Chàng nên cố gắng lo tròn việc nước để trở về kinh sớm ngày nào tốt ngày đó, chớ
nên ở lâu nơi chốn biên thùy này mà dấn thân vào nơi gió bụi hiểm nguy!...Trối
xong, Bà từ trần, lúc đó là ngày 11 tháng 9 năm Đinh Mão (1748), hưởng
dương 44 tuổi. Bà chưa có con với Nguyễn Kiều. Bài văn tế của ông
Nguyễn Kiều đã nói được phần nào cái sự “Hồng nhan đa chuyên” của Hồng Hà nữ
sĩ:
Ô hô! Hỡi
nàng! Huệ tốt lan thơm!
Phong tư lộng lẫy, cử chỉ đoan trang,
Nữ đức trọn vẹn, tài học ngỡ ngàng.
Giáo mác, ấy bàn luận,
Gấm vóc, ấy văn chương.
Nữ trung, rất hiếm có như nàng.
Sao mà lại,
Gia thất chậm hơn Mạnh Quang (**),
Con cái hiếm hơn Trang Khương,
Dứt tuổi Từ Phi, vui tài Ban Nương (***).
Sao hóa cơ khó đoán,
Mà Thiên mệnh phi thường lắm thay!
Xưa nghe được tiếng nàng,
Bèn kết thân hai họ.
Nàng về nhà tôi, vẹn tròn đạo vợ,
Việc bút nghiên tài lạ hằng chuyên,
Nghề kim chỉ tay sành chẳng bỏ.
Thường thường đàm luận cổ thi,
Ngày ngày xướng thơ họa phú.
Ba năm đi sứ Bắc, mày liễu buồn chau,
Năm Sửu trở về nhà, mặt hoa cười nở.
Lúc rảnh việc, cùng vui thú văn hàn,
Mới có chỉ sai trở vào xứ Nghệ.
Non sông chẳng ngại đường dài,
Tần tảo quyết theo nội trợ.
Đường sông nghìn dặm gian nan,
Doanh liệt ba tuần tới đó.
Một bệnh càng thêm, trăm phương khó chữa,
Đào chưa quả đã vội khô,
Quế đang thơm mà đã rủ!
Rừng sâu bể rộng, nàng hỡi đi đâu?
Ngọc nát châu chìm, lòng tôi quặn nhớ.
Những muốn chèo thuyền lan mà sớm phát,
Đưa giá liễu chóng về,
Hẹn lại quê nhà an táng.
Dốc đem ý hậu theo đi.
Nhưng, nghĩa cùng thời trái việc hẳn lòng tùy,
Nửa bước khó dời trấn sở.
Một thân khó vẹn công tư.
Lối về trên bến, tạm dựng bàn thờ,
Lệ tiễn hai hàng chan chứa,
Tình thương một lễ đơn sơ,
Sóng gió xin đừng kinh sợ,
Đường đi chớ ngại rũ rờ.
Hương hồn nàng yên nghỉ,
Cố ấp tôi hằng mơ.
Thượng hưởng!
Phong tư lộng lẫy, cử chỉ đoan trang,
Nữ đức trọn vẹn, tài học ngỡ ngàng.
Giáo mác, ấy bàn luận,
Gấm vóc, ấy văn chương.
Nữ trung, rất hiếm có như nàng.
Sao mà lại,
Gia thất chậm hơn Mạnh Quang (**),
Con cái hiếm hơn Trang Khương,
Dứt tuổi Từ Phi, vui tài Ban Nương (***).
Sao hóa cơ khó đoán,
Mà Thiên mệnh phi thường lắm thay!
Xưa nghe được tiếng nàng,
Bèn kết thân hai họ.
Nàng về nhà tôi, vẹn tròn đạo vợ,
Việc bút nghiên tài lạ hằng chuyên,
Nghề kim chỉ tay sành chẳng bỏ.
Thường thường đàm luận cổ thi,
Ngày ngày xướng thơ họa phú.
Ba năm đi sứ Bắc, mày liễu buồn chau,
Năm Sửu trở về nhà, mặt hoa cười nở.
Lúc rảnh việc, cùng vui thú văn hàn,
Mới có chỉ sai trở vào xứ Nghệ.
Non sông chẳng ngại đường dài,
Tần tảo quyết theo nội trợ.
Đường sông nghìn dặm gian nan,
Doanh liệt ba tuần tới đó.
Một bệnh càng thêm, trăm phương khó chữa,
Đào chưa quả đã vội khô,
Quế đang thơm mà đã rủ!
Rừng sâu bể rộng, nàng hỡi đi đâu?
Ngọc nát châu chìm, lòng tôi quặn nhớ.
Những muốn chèo thuyền lan mà sớm phát,
Đưa giá liễu chóng về,
Hẹn lại quê nhà an táng.
Dốc đem ý hậu theo đi.
Nhưng, nghĩa cùng thời trái việc hẳn lòng tùy,
Nửa bước khó dời trấn sở.
Một thân khó vẹn công tư.
Lối về trên bến, tạm dựng bàn thờ,
Lệ tiễn hai hàng chan chứa,
Tình thương một lễ đơn sơ,
Sóng gió xin đừng kinh sợ,
Đường đi chớ ngại rũ rờ.
Hương hồn nàng yên nghỉ,
Cố ấp tôi hằng mơ.
Thượng hưởng!
Đoàn Thị Điểm (1705- 1748): hiệu Hồng Hà, biệt hiệu Ban Tang. Quê tại làng Hiến Phạm, tên nôm là
làng Giữa, xã Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Do lấy chồng họ Nguyễn
nên bà còn có tên là Nguyễn Thị Điểm.
Bà Đoàn Thị Điểm là con gái ông hương cống Đoàn Doãn Nghi, mẹ bà là người họ Vũ và là vợ hai ông Nghi, nhà ở phường Hà Khẩu, Thăng Long (phố Hàng Bạc bây giờ). Bà họ Vũ sinh một trai (1703) là Đoàn Doãn Luân và một gái (1705) là Đoàn Thị Điểm. Từ nhỏ, hai anh em bà đã theo mẹ về ở với ông bà ngoại là quan Thái lĩnh bá họ Vũ, và được dạy dỗ chu đáo lầu thông Tứ thư, Ngũ kinh như anh trai. Hai anh em Luân và Điểm lớn lên đều có dáng người đẹp đẽ, tư chất thông minh vượt bậc và có văn tài xuất chúng. Điều đặc biệt là số phận của hai anh em luôn gắn với nhau.
Đoàn Doãn Luân được thân phụ dạy cho chữ Hán ngay từ lúc 3 tuổi, đến khi 5 tuổi thì biết ráp thành câu, đến năm 10 tuổi thì học thông Kinh Sử, đến tuổi trưởng thành thì thi đậu Hương cống, nhưng sau đó lại rớt kỳ thi Hội. Đoàn Doãn Nghi hỏi cưới con gái của bạn học là Lê Hữu Hỷ cho con trai của mình. Con gái của Hỷ tên là Lê Thị Vy. Sau lễ Hỏi ít lâu, chẳng may Cô Vy bị bệnh đậu mùa, di chứng để lại là mặt bị rỗ hoa, chân tay lóng ngóng. Bên nhà gái thấy vậy cho người sang xin hủy bỏ cuộc hôn nhân này. Nhưng Đoàn Doãn Luân nhất quyết giữ hạnh quân tử, một dạ thủy chung, không đổi ý vì nhan sắc cô Vy đã bị hủy hoại, làm mọi người đều kính phục. Lê Thị Vy về nhà họ Đoàn, gặp hoàn cảnh nhà chồng mẹ hiền em thảo, hết lòng giúp đỡ mọi việc trong nhà. Năm 1726, cô Vy sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Đoàn Lệnh Khương , ba năm sau sinh thêm một trai đặt tên là Đoàn Doãn Y . Ngay từ khi lọt lòng, hai cháu Khương và Y đều được cô ruột là bà Điểm chăm sóc tận tình.
Năm 16 tuổi, Đoàn Thị Điểm đã nổi tiếng là một tài nữ trẻ tuổi. Quan Thượng Lê Anh Tuấn (1), vốn đã quen biết nhiều với Đoàn Doãn Nghi, mến tài văn chương và đức hạnh nên nhận Đoàn Thị Điểm làm con nuôi. Kể từ đó, Điểm về ở nhà của nghĩa phụ tại phường Bích Câu, kinh thành Thăng Long. Đây là khu dinh thự của các quan lớn trong triều như dinh quan Tham Tụng Nguyễn Công Hãn (2)... Quan lại, văn nhân khắp nơi đều lui tới các nhà quan Đại Thần ở phường Bích Câu tấp nập. Đó là dịp để Điểm quen biết nhiều người có danh vọng, có khoa bảng, cũng chính vì vậy mà tiếng tăm về tài ứng đối văn chương của tài nữ họ Đoàn được đồn vang.
Có một lần quan Tham Tụng Nguyễn Công Hãn sang chơi bên dinh của Thượng Thư Lê Anh Tuấn, thấy Cô Điểm đang đi một mình bên bờ dậu, ông dừng lại, bảo Cô Điểm làm câu đối lấy đề tài là đi một mình. Chỉ giây lát, Cô Điểm đọc: Đàm luận cổ kim tâm phúc hữu,/ Truy tùy tả hữu cổ quăng thần. (Nghĩa là: Bàn chuyện xưa nay, tim bụng là bạn, /Đi theo trái phải, tay chân là bề tôi).
Ông Hãn đã đỗ Tiến sĩ năm 21 tuổi, thường tự phụ về tài mẫn tiệp của mình, nay thấy Điểm chưa đầy 20 tuổi mà làm được như vậy thì vô cùng kinh ngạc, khen ngợi luôn miệng…
Bà Đoàn Thị Điểm là con gái ông hương cống Đoàn Doãn Nghi, mẹ bà là người họ Vũ và là vợ hai ông Nghi, nhà ở phường Hà Khẩu, Thăng Long (phố Hàng Bạc bây giờ). Bà họ Vũ sinh một trai (1703) là Đoàn Doãn Luân và một gái (1705) là Đoàn Thị Điểm. Từ nhỏ, hai anh em bà đã theo mẹ về ở với ông bà ngoại là quan Thái lĩnh bá họ Vũ, và được dạy dỗ chu đáo lầu thông Tứ thư, Ngũ kinh như anh trai. Hai anh em Luân và Điểm lớn lên đều có dáng người đẹp đẽ, tư chất thông minh vượt bậc và có văn tài xuất chúng. Điều đặc biệt là số phận của hai anh em luôn gắn với nhau.
Đoàn Doãn Luân được thân phụ dạy cho chữ Hán ngay từ lúc 3 tuổi, đến khi 5 tuổi thì biết ráp thành câu, đến năm 10 tuổi thì học thông Kinh Sử, đến tuổi trưởng thành thì thi đậu Hương cống, nhưng sau đó lại rớt kỳ thi Hội. Đoàn Doãn Nghi hỏi cưới con gái của bạn học là Lê Hữu Hỷ cho con trai của mình. Con gái của Hỷ tên là Lê Thị Vy. Sau lễ Hỏi ít lâu, chẳng may Cô Vy bị bệnh đậu mùa, di chứng để lại là mặt bị rỗ hoa, chân tay lóng ngóng. Bên nhà gái thấy vậy cho người sang xin hủy bỏ cuộc hôn nhân này. Nhưng Đoàn Doãn Luân nhất quyết giữ hạnh quân tử, một dạ thủy chung, không đổi ý vì nhan sắc cô Vy đã bị hủy hoại, làm mọi người đều kính phục. Lê Thị Vy về nhà họ Đoàn, gặp hoàn cảnh nhà chồng mẹ hiền em thảo, hết lòng giúp đỡ mọi việc trong nhà. Năm 1726, cô Vy sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Đoàn Lệnh Khương , ba năm sau sinh thêm một trai đặt tên là Đoàn Doãn Y . Ngay từ khi lọt lòng, hai cháu Khương và Y đều được cô ruột là bà Điểm chăm sóc tận tình.
Năm 16 tuổi, Đoàn Thị Điểm đã nổi tiếng là một tài nữ trẻ tuổi. Quan Thượng Lê Anh Tuấn (1), vốn đã quen biết nhiều với Đoàn Doãn Nghi, mến tài văn chương và đức hạnh nên nhận Đoàn Thị Điểm làm con nuôi. Kể từ đó, Điểm về ở nhà của nghĩa phụ tại phường Bích Câu, kinh thành Thăng Long. Đây là khu dinh thự của các quan lớn trong triều như dinh quan Tham Tụng Nguyễn Công Hãn (2)... Quan lại, văn nhân khắp nơi đều lui tới các nhà quan Đại Thần ở phường Bích Câu tấp nập. Đó là dịp để Điểm quen biết nhiều người có danh vọng, có khoa bảng, cũng chính vì vậy mà tiếng tăm về tài ứng đối văn chương của tài nữ họ Đoàn được đồn vang.
Có một lần quan Tham Tụng Nguyễn Công Hãn sang chơi bên dinh của Thượng Thư Lê Anh Tuấn, thấy Cô Điểm đang đi một mình bên bờ dậu, ông dừng lại, bảo Cô Điểm làm câu đối lấy đề tài là đi một mình. Chỉ giây lát, Cô Điểm đọc: Đàm luận cổ kim tâm phúc hữu,/ Truy tùy tả hữu cổ quăng thần. (Nghĩa là: Bàn chuyện xưa nay, tim bụng là bạn, /Đi theo trái phải, tay chân là bề tôi).
Ông Hãn đã đỗ Tiến sĩ năm 21 tuổi, thường tự phụ về tài mẫn tiệp của mình, nay thấy Điểm chưa đầy 20 tuổi mà làm được như vậy thì vô cùng kinh ngạc, khen ngợi luôn miệng…
Ông Đoàn Doãn
Nghi được bạn bè khuyên nên nhận một chức quan nhỏ, nhưng với tính phóng
khoáng, không quen gò bó luồn lụy, nên không chịu nhận, và chọn con đường dạy học.
Hơn nữa, Ông nghĩ con là Doãn Luân đã đỗ Hương Cống rồi, tuy rớt thi Hội, nhưng
còn trẻ, chắc sau này có thể đậu được, còn con gái là Đoàn Thị Điểm thì đã có
nơi quyền quí để nương tựa, bề gia thất sau này cũng dễ, nên Đoàn Doãn Nghi
chuyển đi dạy học ở thôn Lạc Viên, huyện An Dương, nay thuộc Hải Phòng.
Dạy học ở Lạc Viên được vài năm, Đoàn Doãn Nghi đau bệnh và mất tại đây, vào năm 1729. Anh em Luân và Điểm đưa xác cha về an táng tại quê nhà. Nhiều học trò của Ông Nghi góp tiền làm một nhà thờ, và dựng mộ bia cho thầy học. Bia dựng năm Kỷ Dậu (1729), thời vua Lê Vĩnh Khánh.
Nhân chuyến này, Đoàn Doãn Luân đưa vợ con về ở luôn quê nhà là làng Hiến Phạm, sau đó lại chuyển qua ở làng Vô Ngại gần bên. Lúc này, Đoàn Thị Điểm cũng xin với dưỡng phụ cho phép về quê nhà đặng săn sóc mẹ già, giúp anh và chị dâu quán xuyến công việc gia đình.
Đoàn Doãn Luân mở trường dạy học. Chị dâu trước đây là một tiểu thư khuê các, nhưng vì bệnh đậu mùa làm cho gương mặt trở nên xấu xí, tay như có tật, nên Cô Điểm đứng ra thay thế chị dâu lo việc tề gia nội trợ, lại giúp anh trong việc giao thiệp với bên ngoài. Cô Điểm tỏ ra rất đảm đang và lịch thiệp trong mọi công việc. Mỗi khi anh Luân đau ốm, Cô thường thay thế anh Luân giảng sách cho đám học trò.
Gia đình họ Đoàn đang sống an vui như thế thì Đoàn Doãn Luân bị bạo bịnh đột ngột từ trần, để lại hai đứa con thơ chưa đầy 10 tuổi với một người vợ gần như tật nguyền, và một mẹ già tóc bạc. Năm đó là năm 1735. Đoàn Thị Điểm đọc một bài văn tế trước quan tài của anh rất lâm ly thống thiết, nhắc lại cảnh gia đình đơn chiếc, ai nấy đều cảm động không cầm được lệ trào. Sau đó, Điểm và chị dâu đưa xác anh về an táng nơi quê nhà, kế mộ phần của cha.
Gia cảnh bây giờ rất hiu quạnh, chị dâu thì thiếu đảm đang, lại mất sinh kế nuôi sống gia đình. Đoàn Thị Điểm phải mở tiệm xem mạch và hốt thuốc Bắc cho dân quanh vùng. Đoàn Thị Điểm có tay phục dược, người đến xem mạch bốc thuốc khá đông, nhờ vậy có đủ tiền nuôi mẹ, lo cho hai cháu và chị dâu được tươm tất. Đối với mẹ thì Điểm trọn hiếu, đối với chị dâu thì trọn nghĩa, nuôi dạy hai cháu khôn lớn .
Trong thời gian này, nhiều người đem lễ vật trọng hậu tới cầu hôn, nhưng Điểm không đồng ý ai. Việc “ong bướm rập dìu” cũng có nhiều phiền toái. Nhân dịp có người tiến cử Điểm vào cung Chúa Trịnh để dạy học, Điểm không từ chối như lần ở với dưỡng phụ, liền nhận lời để khỏi phải lo đối phó với những kẻ không xứng đáng đến cầu hôn hoài. Nhưng khi ở trong cung, Điểm lại mục kích những điều xấu xa bỉ ổi trong đám quan lại, sự thối nát của triều đình, nên chán nản xin trở về quê nhà.
Lúc bấy giờ, giặc giã nổi lên đánh phá khắp nơi, Điểm phải đưa mẹ, chị dâu và hai cháu bỏ quê, về làng Chương Dương bên bờ sông Nhị Hà, gần Hà Nội. Năm ấy là năm 1739, Cô Điểm được 35 tuổi.
Đoàn Thị Điểm không muốn làm nghề xem mạch bốc thuốc nữa, mà mở trường dạy học, mong đem hết sở học truyền lại cho thế hệ sau, đào tạo lớp người mới, vừa có kiến thức cao, vừa có đạo đức để giúp dân giúp nước…Trong số học trò, có Đào Duy Doãn (3) ở làng Chương Dương, sau này thi đậu Tiến Sĩ năm 1760. Đoàn Lệnh Khương (4) sau này cũng nối nghiệp cô là Đoàn Thị Điểm, mở trường dạy học ở Thăng Long rất có tiếng, được người dân Thăng Long gọi là Nữ học Sư.
Dạy học ở Lạc Viên được vài năm, Đoàn Doãn Nghi đau bệnh và mất tại đây, vào năm 1729. Anh em Luân và Điểm đưa xác cha về an táng tại quê nhà. Nhiều học trò của Ông Nghi góp tiền làm một nhà thờ, và dựng mộ bia cho thầy học. Bia dựng năm Kỷ Dậu (1729), thời vua Lê Vĩnh Khánh.
Nhân chuyến này, Đoàn Doãn Luân đưa vợ con về ở luôn quê nhà là làng Hiến Phạm, sau đó lại chuyển qua ở làng Vô Ngại gần bên. Lúc này, Đoàn Thị Điểm cũng xin với dưỡng phụ cho phép về quê nhà đặng săn sóc mẹ già, giúp anh và chị dâu quán xuyến công việc gia đình.
Đoàn Doãn Luân mở trường dạy học. Chị dâu trước đây là một tiểu thư khuê các, nhưng vì bệnh đậu mùa làm cho gương mặt trở nên xấu xí, tay như có tật, nên Cô Điểm đứng ra thay thế chị dâu lo việc tề gia nội trợ, lại giúp anh trong việc giao thiệp với bên ngoài. Cô Điểm tỏ ra rất đảm đang và lịch thiệp trong mọi công việc. Mỗi khi anh Luân đau ốm, Cô thường thay thế anh Luân giảng sách cho đám học trò.
Gia đình họ Đoàn đang sống an vui như thế thì Đoàn Doãn Luân bị bạo bịnh đột ngột từ trần, để lại hai đứa con thơ chưa đầy 10 tuổi với một người vợ gần như tật nguyền, và một mẹ già tóc bạc. Năm đó là năm 1735. Đoàn Thị Điểm đọc một bài văn tế trước quan tài của anh rất lâm ly thống thiết, nhắc lại cảnh gia đình đơn chiếc, ai nấy đều cảm động không cầm được lệ trào. Sau đó, Điểm và chị dâu đưa xác anh về an táng nơi quê nhà, kế mộ phần của cha.
Gia cảnh bây giờ rất hiu quạnh, chị dâu thì thiếu đảm đang, lại mất sinh kế nuôi sống gia đình. Đoàn Thị Điểm phải mở tiệm xem mạch và hốt thuốc Bắc cho dân quanh vùng. Đoàn Thị Điểm có tay phục dược, người đến xem mạch bốc thuốc khá đông, nhờ vậy có đủ tiền nuôi mẹ, lo cho hai cháu và chị dâu được tươm tất. Đối với mẹ thì Điểm trọn hiếu, đối với chị dâu thì trọn nghĩa, nuôi dạy hai cháu khôn lớn .
Trong thời gian này, nhiều người đem lễ vật trọng hậu tới cầu hôn, nhưng Điểm không đồng ý ai. Việc “ong bướm rập dìu” cũng có nhiều phiền toái. Nhân dịp có người tiến cử Điểm vào cung Chúa Trịnh để dạy học, Điểm không từ chối như lần ở với dưỡng phụ, liền nhận lời để khỏi phải lo đối phó với những kẻ không xứng đáng đến cầu hôn hoài. Nhưng khi ở trong cung, Điểm lại mục kích những điều xấu xa bỉ ổi trong đám quan lại, sự thối nát của triều đình, nên chán nản xin trở về quê nhà.
Lúc bấy giờ, giặc giã nổi lên đánh phá khắp nơi, Điểm phải đưa mẹ, chị dâu và hai cháu bỏ quê, về làng Chương Dương bên bờ sông Nhị Hà, gần Hà Nội. Năm ấy là năm 1739, Cô Điểm được 35 tuổi.
Đoàn Thị Điểm không muốn làm nghề xem mạch bốc thuốc nữa, mà mở trường dạy học, mong đem hết sở học truyền lại cho thế hệ sau, đào tạo lớp người mới, vừa có kiến thức cao, vừa có đạo đức để giúp dân giúp nước…Trong số học trò, có Đào Duy Doãn (3) ở làng Chương Dương, sau này thi đậu Tiến Sĩ năm 1760. Đoàn Lệnh Khương (4) sau này cũng nối nghiệp cô là Đoàn Thị Điểm, mở trường dạy học ở Thăng Long rất có tiếng, được người dân Thăng Long gọi là Nữ học Sư.
Trong thời
gian Đoàn Thị Điểm dạy học, ông Nguyễn Kiều nhiều lần đến xin cầu hôn. Khi đó
Điểm đã 37 tuổi. Ông Nguyễn Kiều, hiệu là Hạo Hiên, sanh năm 1695 (lớn hơn Cô
Điểm 10 tuổi), tại làng Phú Xã huyện Hoài Đức, 18 tuổi đậu Giải Nguyên, 21 tuổi
đậu Tiến Sĩ, là người có tài văn học lỗi lạc.
Năm 1717, Nguyễn Kiều được bổ làm quan Đốc Đồng ở Nghệ An, và năm 1736 được thăng chức Thị Lang. Nguyễn Kiều đã có hai đời vợ. Vợ đầu tiên của Nguyễn Kiều là Lê Thị Hằng, con gái của quan Thượng Thư Lê Anh Tuấn, nghĩa phụ của Đoàn Thị Điểm. Thị Hằng đoản mệnh và không có con. Người vợ thứ hai tên là Nguyễn Thị Đoan, con gái của quan Tham Tụng Nguyễn Quí Đức (5). Thị Đoan sinh được hai con trai và một con gái, rồi cũng qua đời mà chưa tới 30 tuổi.
Ông Nguyễn Kiều hai lần gửi thư cầu hôn Đoàn Thị Điểm. Lần thứ nhất, Điểm đọc thư rồi than rằng: “Lúc trẻ ta mong được người này đến cầu hôn. Đã trải qua hơn 20 năm, ta không bao giờ nghĩ tới nữa. Ta từng nhủ lòng, hạng người tài tử giai nhân rất hiếm trên đời này. Tốt hơn ta nên rửa lấy lòng trần, an nhàn nuôi lấy khí tượng thanh bình”. Chừng 10 ngày sau, Nguyễn Kiều lại sai người mang thơ đến nữa. Trong bức thư kỳ này, lời lẽ rất khẩn thiết chân thành, có đoạn như sau: "Tôi rất bận việc quan, lại phải lo chuẩn bị lên đường, việc nhà không ai coi sóc và cai quản. Tôi nghĩ rằng Cô cùng nội trợ tôi vốn trước có tình nghĩa chị em, nếu Cô vui lòng đùm bọc cho nội trợ tôi thì thật là may mắn cho cả nhà tôi đó”.
Điểm đọc thư lần này có vẻ cảm động, nhưng vẫn chưa muốn đem mình vào cuộc hôn nhân muộn màng, gây thêm phiền nhiễu, nhưng mẹ già và cả gia đình đều muốn Điểm chấp nhận, nên Điểm bằng lòng kết hôn với Nguyễn Kiều, lúc đó là năm 1743, Điểm đã 39 tuổi.
Bà Đoàn Thị Điểm về nhà chồng, sống với chồng rất tâm đầu ý hợp, khi rảnh thường hay xướng họa thơ văn. Nhưng chưa đầy một tháng sau thì quan Thị Lang Nguyễn Kiều làm Chánh Sứ sang nhà Thanh. Ông phải từ giã Bà để phụng chiếu ra đi. Lệ thường, đi sứ như vậy trong vòng 2 năm thì trở về tới nhà, nhưng lần nầy, khi sứ bộ trở về tới Quảng Tây, gặp lúc vùng này có loạn nên bị nghẽn đường. Sứ bộ VN phải lưu lại cả năm trời. Trong thời gian này, Nguyễn Kiều làm nhiều bài thơ, tỏ nỗi nhớ nhung đến người vợ mới cưới nơi quê nhà, nhất là trong những ngày Tết tha hương…
Năm 1717, Nguyễn Kiều được bổ làm quan Đốc Đồng ở Nghệ An, và năm 1736 được thăng chức Thị Lang. Nguyễn Kiều đã có hai đời vợ. Vợ đầu tiên của Nguyễn Kiều là Lê Thị Hằng, con gái của quan Thượng Thư Lê Anh Tuấn, nghĩa phụ của Đoàn Thị Điểm. Thị Hằng đoản mệnh và không có con. Người vợ thứ hai tên là Nguyễn Thị Đoan, con gái của quan Tham Tụng Nguyễn Quí Đức (5). Thị Đoan sinh được hai con trai và một con gái, rồi cũng qua đời mà chưa tới 30 tuổi.
Ông Nguyễn Kiều hai lần gửi thư cầu hôn Đoàn Thị Điểm. Lần thứ nhất, Điểm đọc thư rồi than rằng: “Lúc trẻ ta mong được người này đến cầu hôn. Đã trải qua hơn 20 năm, ta không bao giờ nghĩ tới nữa. Ta từng nhủ lòng, hạng người tài tử giai nhân rất hiếm trên đời này. Tốt hơn ta nên rửa lấy lòng trần, an nhàn nuôi lấy khí tượng thanh bình”. Chừng 10 ngày sau, Nguyễn Kiều lại sai người mang thơ đến nữa. Trong bức thư kỳ này, lời lẽ rất khẩn thiết chân thành, có đoạn như sau: "Tôi rất bận việc quan, lại phải lo chuẩn bị lên đường, việc nhà không ai coi sóc và cai quản. Tôi nghĩ rằng Cô cùng nội trợ tôi vốn trước có tình nghĩa chị em, nếu Cô vui lòng đùm bọc cho nội trợ tôi thì thật là may mắn cho cả nhà tôi đó”.
Điểm đọc thư lần này có vẻ cảm động, nhưng vẫn chưa muốn đem mình vào cuộc hôn nhân muộn màng, gây thêm phiền nhiễu, nhưng mẹ già và cả gia đình đều muốn Điểm chấp nhận, nên Điểm bằng lòng kết hôn với Nguyễn Kiều, lúc đó là năm 1743, Điểm đã 39 tuổi.
Bà Đoàn Thị Điểm về nhà chồng, sống với chồng rất tâm đầu ý hợp, khi rảnh thường hay xướng họa thơ văn. Nhưng chưa đầy một tháng sau thì quan Thị Lang Nguyễn Kiều làm Chánh Sứ sang nhà Thanh. Ông phải từ giã Bà để phụng chiếu ra đi. Lệ thường, đi sứ như vậy trong vòng 2 năm thì trở về tới nhà, nhưng lần nầy, khi sứ bộ trở về tới Quảng Tây, gặp lúc vùng này có loạn nên bị nghẽn đường. Sứ bộ VN phải lưu lại cả năm trời. Trong thời gian này, Nguyễn Kiều làm nhiều bài thơ, tỏ nỗi nhớ nhung đến người vợ mới cưới nơi quê nhà, nhất là trong những ngày Tết tha hương…
Trong lúc Nguyễn
Kiều đi sứ Trung Hoa, ở nhà, Bà Đoàn Thị Điểm, khi thì ở bên nhà chồng săn sóc
ba đứa con của chồng trong đời vợ trước, khi trở về nhà mẹ ruột thăm hỏi mẹ
già, cùng chăm nom hai đứa cháu kêu bằng Cô ruột là Đoàn Lệnh Khương và Đoàn
Doãn Y…
Lại nói bà Đoàn Thị Điểm khi còn là thiếu nữ, lúc ở nhà của nghĩa phụ Lê Anh Tuấn tại phường Bích Câu, kinh thành Thăng Long, có dịp gặp Đặng Trần Côn (6). Côn nhỏ hơn Điểm hai tuổi, quê ở làng Nhân Mục. Đó là một trang thiếu niên anh tuấn tài hoa, năm 15 tuổi đã đậu Hương Cống.
Côn rất thích Điểm về nhan sắc cũng như về tài văn chương, nên có gửi đến Điểm một bài thơ tỏ ý cầu hôn. Điểm không trả lời nhưng nói với chị em bạn: “Cái ông Cống Đặng, miệng còn hôi sữa, làm thơ chưa xong mà lại đi nói chuyện vợ chồng!” Đặng Trần Côn nghe thuật lại thì tức lắm, nên cố gắng dùi mài kinh sử, đậu Tiến Sĩ trong kỳ thi Hội.
Đầu niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê Trung Hưng, gặp buổi chiến tranh giặc giã, trai tráng bị bắt đi lính đánh trận, gây cảnh ly tán đau đớn cho nhiều gia đình, Đặng Trần Côn cảm xúc, viết nên tác phẩm Chinh Phụ Ngâm bằng Hán văn theo thể thơ Cổ Nhạc Phủ. Khi viết xong Chinh Phụ ngâm, Đặng Trần Côn đưa cho ông Ngô Thời Sĩ (7) xem. Ông Sĩ xem xong lấy làm thán phục nói rằng: "Văn chương đã tới mức này thì Lão Ngô tôi chỉ còn biết bái phục mà thôi."
Đặng Trần Côn liền gửi tác phẩm này cho Bà Đoàn Thị Điểm xem, ngụ ý cho Bà biết rằng, trước đây Bà xem thường ông là lầm to... Tác phẩm Chinh phụ ngâm đến tay bà Điểm đúng lúc chồng bà đang đi sứ Trung Hoa. Bà Điểm xem xong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn thì rất cảm phục tài văn chương của họ Đặng, lại thấy tâm sự của nàng Chinh phụ trong tác phẩm cũng có phần tương đồng nỗi lòng của Bà lúc đó: Chồng đi sứ sang Tàu giống như đi lính thú chinh chiến ngoài biên thùy, Bà ở nhà lòng nhớ nhung lo lắng cho chồng không nguôi, lại còn lo phụng dưỡng mẹ già, nuôi nấng và dạy dỗ đàn con thơ của chồng xem như con ruột.
Tâm hồn của người Nữ sĩ rung động, và cũng muốn đáp lại tấm tình cảm của Đặng Trần Côn khi trước, Bà đã ngay tức thì diễn nôm tác phẩm Chinh Phụ Ngâm Hán văn của Đặng Trần Côn, theo lối thơ trữ tình hoàn toàn Việt Nam là song thất lục bát. Lòng nhớ nhung của Bà đối với chồng khi chồng phụng mạng đi sứ sang Bắc Kinh, cộng hưởng với tâm trạng của nàng Chinh phụ nhớ mong chồng đang đánh giặc ngoài quan ải, nên Bà diễn Nôm đoạn này thật cảm động:
Lại nói bà Đoàn Thị Điểm khi còn là thiếu nữ, lúc ở nhà của nghĩa phụ Lê Anh Tuấn tại phường Bích Câu, kinh thành Thăng Long, có dịp gặp Đặng Trần Côn (6). Côn nhỏ hơn Điểm hai tuổi, quê ở làng Nhân Mục. Đó là một trang thiếu niên anh tuấn tài hoa, năm 15 tuổi đã đậu Hương Cống.
Côn rất thích Điểm về nhan sắc cũng như về tài văn chương, nên có gửi đến Điểm một bài thơ tỏ ý cầu hôn. Điểm không trả lời nhưng nói với chị em bạn: “Cái ông Cống Đặng, miệng còn hôi sữa, làm thơ chưa xong mà lại đi nói chuyện vợ chồng!” Đặng Trần Côn nghe thuật lại thì tức lắm, nên cố gắng dùi mài kinh sử, đậu Tiến Sĩ trong kỳ thi Hội.
Đầu niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê Trung Hưng, gặp buổi chiến tranh giặc giã, trai tráng bị bắt đi lính đánh trận, gây cảnh ly tán đau đớn cho nhiều gia đình, Đặng Trần Côn cảm xúc, viết nên tác phẩm Chinh Phụ Ngâm bằng Hán văn theo thể thơ Cổ Nhạc Phủ. Khi viết xong Chinh Phụ ngâm, Đặng Trần Côn đưa cho ông Ngô Thời Sĩ (7) xem. Ông Sĩ xem xong lấy làm thán phục nói rằng: "Văn chương đã tới mức này thì Lão Ngô tôi chỉ còn biết bái phục mà thôi."
Đặng Trần Côn liền gửi tác phẩm này cho Bà Đoàn Thị Điểm xem, ngụ ý cho Bà biết rằng, trước đây Bà xem thường ông là lầm to... Tác phẩm Chinh phụ ngâm đến tay bà Điểm đúng lúc chồng bà đang đi sứ Trung Hoa. Bà Điểm xem xong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn thì rất cảm phục tài văn chương của họ Đặng, lại thấy tâm sự của nàng Chinh phụ trong tác phẩm cũng có phần tương đồng nỗi lòng của Bà lúc đó: Chồng đi sứ sang Tàu giống như đi lính thú chinh chiến ngoài biên thùy, Bà ở nhà lòng nhớ nhung lo lắng cho chồng không nguôi, lại còn lo phụng dưỡng mẹ già, nuôi nấng và dạy dỗ đàn con thơ của chồng xem như con ruột.
Tâm hồn của người Nữ sĩ rung động, và cũng muốn đáp lại tấm tình cảm của Đặng Trần Côn khi trước, Bà đã ngay tức thì diễn nôm tác phẩm Chinh Phụ Ngâm Hán văn của Đặng Trần Côn, theo lối thơ trữ tình hoàn toàn Việt Nam là song thất lục bát. Lòng nhớ nhung của Bà đối với chồng khi chồng phụng mạng đi sứ sang Bắc Kinh, cộng hưởng với tâm trạng của nàng Chinh phụ nhớ mong chồng đang đánh giặc ngoài quan ải, nên Bà diễn Nôm đoạn này thật cảm động:
Ðâu xiết kể
muôn sầu nghìn não.
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi,
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa,
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song;
Nương song luống ngẩn ngơ lòng.
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi,
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa,
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song;
Nương song luống ngẩn ngơ lòng.
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Đoàn Thị Điểm
viết sách nhiều nhưng thất lạc cũng nhiều, hậu thế chỉ còn biết đến hai tác phẩm
Hồng Hà nữ sĩ là Tục truyền kỳ và Chinh phụ ngâm.
Tục truyền kỳ:
Còn gọi là Truyền kỳ tân phả, viết bằng chữ nho, gồm có 7 truyện:
1/ Vân Cát thần nữ (bà chúa Liễu Hạnh);
2/ Hải khẩu linh từ (nữ thần Chế Thắng);
3/ An ấp liệt nữ (tiểu thiếp Đinh Nho Hoàn);
4/ Nghĩa khuyển thập miêu (chó nuôi
mèo);
5/ Hoành sơn tiến cục (cờ trên núi Hoành);
6/ Mai huyền (cây mai huyền bí);
7/ Yến anh đối thoại (Yến anh nói chuyện).
Hai truyện cuối trong danh sách trên đã bị thất lạc. Sách này là nối tiếp sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (8).
Sau khi thân phụ mất, Bà Đoàn Thị Điểm về quê nhà săn sóc mẹ già, sống chung với anh và chị dâu. Trong thời gian này, Bà viết tập sách Truyền Kỳ Tân Phả bằng Hán văn. Tác phẩm này được biên soạn rất công phu, nội dung viết về những người phụ nữ tài giỏi và tiết liệt, được anh của Bà là Đoàn Doãn Luân, hiệu là Tuyết Am, tự là Đạm Như Phủ, viết lời phê bình.
Trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Phan Huy Chú (9) ca ngợi tác phẩm Truyền Kỳ tân phả như sau: Lời văn trau chuốt, ý chuyện dồi dào.
Bản in sách Truyền kỳ tân phả năm Gia Long thứ 10 (1811), có ghi rõ tên tác giả là Hồng Hà Đoàn phu nhân, gồm ba truyện đầu trong bài văn tế kia, lại có thêm truyện Bích Câu kỳ ngộ, Tùng bách thuyết thoại và Long hổ đấu kỳ .
Truyện Bích câu kỳ ngộ có liên quan đến câu chuyện cổ tích về chàng Tú Uyên lấy vợ tiên, truyện liên quan đến đạo tu tiên ở VN, rất phát triển ở thế kỷ 18; truyện Tùng bách thuyết thoại được cải biên từ chuyện Lưu Bình Dương Lễ; ba truyện An Ấp liệt nữ, Vân Cát thần nữ, Hải Khẩu linh từ đều liên quan đến việc thờ cúng trong dân gian. Các truyện viết về các nhân vật lịch sử, là truyện “người thật việc thật”: Người liệt nữ ở An Ấp là chuyện về vợ Đinh Nho Hoàn, ông bị chết trên đường đi sứ Trung Quốc, bà đã tự tử theo chồng, được triều đình ban khen và cho lập đền thờ; Đền thiêng ở Hải Khẩu là chuyện về bà cung phi của vua Trần Duệ Tông, được thờ ở thôn Hải Khẩu, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh; câu chuyện lưu giữ lại dấu vết tục hiến tế thời xa xưa của VN. Nữ thần ở Vân Cát là chuyện về chúa Liễu Hạnh, một trong “tứ bất tử” của tín ngưỡng VN. Câu chuyện liên quan đến đạo thờ Mẫu ở VN. Nàng cung phi của Trần Duệ Tông và chúa Liễu Hạnh, đặc biệt là chúa Liễu Hạnh, được thờ ở nhiều nơi, truyện của Đoàn Thị Điểm về hai bà và thần tích rất giống nhau. Thần tích ở đền Hải Khẩu có khác một chút về đoạn kết, nhưng thần tích các đền thờ Liễu Hạnh thì hầu như không sai khác một chi tiết nào so với truyện trong Truyền kỳ tân phả. Với Truyền kỳ tân phả , có thể nói Đoàn Thị Điểm đã dựa vào cốt truyện, nguyên mẫu nhân vật trong văn học và tín ngưỡng dân gian để viết thành tác phẩm văn học, sau đó tác phẩm của bà lại được sử dụng lại làm thần tích, giúp cho hành trạng của vị thần được thờ công tích sáng rõ hơn, ảnh hưởng sâu rộng hơn.
Hai truyện cuối trong danh sách trên đã bị thất lạc. Sách này là nối tiếp sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (8).
Sau khi thân phụ mất, Bà Đoàn Thị Điểm về quê nhà săn sóc mẹ già, sống chung với anh và chị dâu. Trong thời gian này, Bà viết tập sách Truyền Kỳ Tân Phả bằng Hán văn. Tác phẩm này được biên soạn rất công phu, nội dung viết về những người phụ nữ tài giỏi và tiết liệt, được anh của Bà là Đoàn Doãn Luân, hiệu là Tuyết Am, tự là Đạm Như Phủ, viết lời phê bình.
Trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Phan Huy Chú (9) ca ngợi tác phẩm Truyền Kỳ tân phả như sau: Lời văn trau chuốt, ý chuyện dồi dào.
Bản in sách Truyền kỳ tân phả năm Gia Long thứ 10 (1811), có ghi rõ tên tác giả là Hồng Hà Đoàn phu nhân, gồm ba truyện đầu trong bài văn tế kia, lại có thêm truyện Bích Câu kỳ ngộ, Tùng bách thuyết thoại và Long hổ đấu kỳ .
Truyện Bích câu kỳ ngộ có liên quan đến câu chuyện cổ tích về chàng Tú Uyên lấy vợ tiên, truyện liên quan đến đạo tu tiên ở VN, rất phát triển ở thế kỷ 18; truyện Tùng bách thuyết thoại được cải biên từ chuyện Lưu Bình Dương Lễ; ba truyện An Ấp liệt nữ, Vân Cát thần nữ, Hải Khẩu linh từ đều liên quan đến việc thờ cúng trong dân gian. Các truyện viết về các nhân vật lịch sử, là truyện “người thật việc thật”: Người liệt nữ ở An Ấp là chuyện về vợ Đinh Nho Hoàn, ông bị chết trên đường đi sứ Trung Quốc, bà đã tự tử theo chồng, được triều đình ban khen và cho lập đền thờ; Đền thiêng ở Hải Khẩu là chuyện về bà cung phi của vua Trần Duệ Tông, được thờ ở thôn Hải Khẩu, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh; câu chuyện lưu giữ lại dấu vết tục hiến tế thời xa xưa của VN. Nữ thần ở Vân Cát là chuyện về chúa Liễu Hạnh, một trong “tứ bất tử” của tín ngưỡng VN. Câu chuyện liên quan đến đạo thờ Mẫu ở VN. Nàng cung phi của Trần Duệ Tông và chúa Liễu Hạnh, đặc biệt là chúa Liễu Hạnh, được thờ ở nhiều nơi, truyện của Đoàn Thị Điểm về hai bà và thần tích rất giống nhau. Thần tích ở đền Hải Khẩu có khác một chút về đoạn kết, nhưng thần tích các đền thờ Liễu Hạnh thì hầu như không sai khác một chi tiết nào so với truyện trong Truyền kỳ tân phả. Với Truyền kỳ tân phả , có thể nói Đoàn Thị Điểm đã dựa vào cốt truyện, nguyên mẫu nhân vật trong văn học và tín ngưỡng dân gian để viết thành tác phẩm văn học, sau đó tác phẩm của bà lại được sử dụng lại làm thần tích, giúp cho hành trạng của vị thần được thờ công tích sáng rõ hơn, ảnh hưởng sâu rộng hơn.
Truyền kỳ là
một thể loại có bề dày truyền thống, những tiền đề của nóđã có từ kho tàng
truyện kể dân gian của mỗi nước mà trong đó, yếu tố kỳ ảo tồn tại như một
quy luật của sự vận động tư duy của con người, thậm chí có thể hình dung
như một hình thái văn học vĩnh hằng của tất cả các dân tộc trên thế giới. Hình
thái đó từ những yếu tố tản mát, tan hoà trong hầu hết những dạng thức văn
học dân gian - trung đại tìm thấy một hình thức tồn tại ổn định mang
tính thể loại của Truyền kỳ mà giai đoạn Đường-Tống trong lịch
sử văn học Trung Quốc được xem như điểm mốc cho sự định hình và
phát triển. Ở Việt Nam, điểm mốc này gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Dữ
cùng tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của ông.Từ những tác phẩm đầu
tiên của thể loại truyền kỳ đến Truyền kỳ tân phả, Đoàn Thị Điểm đã được
kế thừa hai truyền thống: truyền thống dân gian và truyền thống truyền kỳ mà bậc
tiền bối trực tiếp là Nguyễn Dữ cùng những tiêu chuẩn có sẵn về mặt thể loại của
truyền kỳ Trung Quốc.
Với Đoàn
Thị Điểm, bên cạnh những mặt kế thừa là những nét sáng tạo mới độc đáo,
bên trong những mặt bảo lưu là những cách tân mang tính định hướng của tác
phẩm so với truyện kể dân gian. Không hư cấu cốt truyện,Đoàn Thị Điểm chỉ đào
sâu mối quan hệ nhân quả của của các yếu tố cốt truyện có sẵn, lồng vào nội
dung những quan điểm Nho gia cũng như tinh thần nhân văn của thời đại, đồng
thời mặc sức thể hiện khoái cảm nghệ thuật cá nhân ở bộ phận thơ từ; những cố gắng đó
cùng với những giai thoại đẹp của chính tác giả Đoàn Thị Điểm (vốn
có lẽ được lưu truyền từ lúc sinh thời mà sau khi bà mất khoảng 50 năm, Phạm Đình
Hổ (10), Nguyễn Án đã kịp ghi lại trong Tang thương ngẫu lục), tất
cả đã làm nên một truyền kỳ để đến mấy trăm năm sau vẫn còn tràn
trề nhựa sống. Vai trò Đoàn Thị Điểm - tác giả của những truyện Truyền
kỳ - ở đây là rất quan trọng bởi bà đã đem đến cho tác phẩm
một luồng sinh khí mới, khiến cho nó trở thành cơ sở cho văn học dân gian, tiếp
thêm sức mạnh để dòng văn học này sống mãi đến tận ngày nay trong dân
chúng ...
Chinh phụ ngâm
Cùng với Truyện
Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều
(11), bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Hồng Hà nữ sĩ được xem là tác phẩm
ưu tú nhất của nền thi văn trung đại Việt Nam.
Chinh phụ ngâm (khúc ngâm của người chinh phụ), còn có tên khác là Chinh phụ ngâm khúc là tác phẩm thơ chữ Hán của Đặng Trần Côn, ra đời trong khoảng năm 1741, giai đoạn sơ kỳ Cảnh Hưng và về sau được nhiều người dịch ra thơ Nôm.
Đây là thi phẩm chủ yếu viết theo lối tập cổ, có độ dài 483 câu thơ. Các câu thơ trong bài có độ dài ngắn khác nhau, theo thể trường đoản cú, câu dài nhất khoảng 12, 13 chữ, câu ngắn chỉ 3, 4 chữ.
Chinh phụ ngâm có hình thức là lời độc thoại nội tâm mà nhân vật chính-duy nhất, trong truyện là một người vợ có chồng đi chinh chiến, kể về nỗi khổ, nỗi cô đơn buồn tủi phải xa chồng. Tác phẩm mở đầu với khung cảnh của chiến tranh ác liệt và nhà vua truyền hịch kêu gọi mọi người tham gia chiến cuộc. Trong bối cảnh này, nàng chinh phụ hình dung cảnh chồng nàng lên đường phò vua giúp nước, ra đi với quyết tâm lập chiến công, với hình ảnh oai phong lẫm liệt trong chiếc chiến bào thắm đỏ và cưỡi con ngựa sắc trắng như tuyết. Sau cuộc tiễn đưa lưu luyến, người chinh phụ trở về khuê phòng và tưởng tượng ra cảnh tượng của chồng nơi chiến địa. Những xúc cảm về hình ảnh "lẫm liệt" của chồng phút chia ly đã dần tan biến, thay thế vào đó là nỗi lo sợ khủng khiếp về số phận của chồng giữa chiến trường khốc liệt, đầy oan hồn tử khí, và niềm đau khổ khôn nguôi về thân phận đơn chiếc của bản thân nàng. Trong phần tiếp theo, câu chuyện chủ yếu diễn tả tâm trạng cô quạnh, hiu hắt của người chinh phụ. Người chồng quá hạn không về, biệt tăm, và người chinh phụ đành phải tính thời gian bằng chu kỳ quyên hót, đào nở, sen tàn. Đó là tâm trạng "trăm sầu nghìn não" khi người chinh phụ quanh quẩn trước hiên, sau rèm, vò võ dưới đêm khuya vắng, đối diện với hoa, với nguyệt. Đó là tâm trạng chán chường khi tìm chồng trong mộng nhưng mộng lại buồn hơn, lần giở kỷ vật của chồng mong tìm chút an ủi nhưng sự an ủi chỉ le lói, thấy thân phận của mình không bằng chim muông, cây cỏ. Cuối cùng, chán chường và tuyệt vọng, người chinh phụ đã không còn muốn làm việc, biếng lơi trang điểm, ngày đêm khẩn cầu mong chồng trở về vui cảnh điền viên. Kết thúc khúc ngâm, người chinh phụ hình dung ngày chồng nàng trở về giữa bóng cờ và tiếng hát khải hoàn, được nhà vua ban thưởng và cùng nàng sống hạnh phúc trong thanh bình...
Chinh phụ ngâm (khúc ngâm của người chinh phụ), còn có tên khác là Chinh phụ ngâm khúc là tác phẩm thơ chữ Hán của Đặng Trần Côn, ra đời trong khoảng năm 1741, giai đoạn sơ kỳ Cảnh Hưng và về sau được nhiều người dịch ra thơ Nôm.
Đây là thi phẩm chủ yếu viết theo lối tập cổ, có độ dài 483 câu thơ. Các câu thơ trong bài có độ dài ngắn khác nhau, theo thể trường đoản cú, câu dài nhất khoảng 12, 13 chữ, câu ngắn chỉ 3, 4 chữ.
Chinh phụ ngâm có hình thức là lời độc thoại nội tâm mà nhân vật chính-duy nhất, trong truyện là một người vợ có chồng đi chinh chiến, kể về nỗi khổ, nỗi cô đơn buồn tủi phải xa chồng. Tác phẩm mở đầu với khung cảnh của chiến tranh ác liệt và nhà vua truyền hịch kêu gọi mọi người tham gia chiến cuộc. Trong bối cảnh này, nàng chinh phụ hình dung cảnh chồng nàng lên đường phò vua giúp nước, ra đi với quyết tâm lập chiến công, với hình ảnh oai phong lẫm liệt trong chiếc chiến bào thắm đỏ và cưỡi con ngựa sắc trắng như tuyết. Sau cuộc tiễn đưa lưu luyến, người chinh phụ trở về khuê phòng và tưởng tượng ra cảnh tượng của chồng nơi chiến địa. Những xúc cảm về hình ảnh "lẫm liệt" của chồng phút chia ly đã dần tan biến, thay thế vào đó là nỗi lo sợ khủng khiếp về số phận của chồng giữa chiến trường khốc liệt, đầy oan hồn tử khí, và niềm đau khổ khôn nguôi về thân phận đơn chiếc của bản thân nàng. Trong phần tiếp theo, câu chuyện chủ yếu diễn tả tâm trạng cô quạnh, hiu hắt của người chinh phụ. Người chồng quá hạn không về, biệt tăm, và người chinh phụ đành phải tính thời gian bằng chu kỳ quyên hót, đào nở, sen tàn. Đó là tâm trạng "trăm sầu nghìn não" khi người chinh phụ quanh quẩn trước hiên, sau rèm, vò võ dưới đêm khuya vắng, đối diện với hoa, với nguyệt. Đó là tâm trạng chán chường khi tìm chồng trong mộng nhưng mộng lại buồn hơn, lần giở kỷ vật của chồng mong tìm chút an ủi nhưng sự an ủi chỉ le lói, thấy thân phận của mình không bằng chim muông, cây cỏ. Cuối cùng, chán chường và tuyệt vọng, người chinh phụ đã không còn muốn làm việc, biếng lơi trang điểm, ngày đêm khẩn cầu mong chồng trở về vui cảnh điền viên. Kết thúc khúc ngâm, người chinh phụ hình dung ngày chồng nàng trở về giữa bóng cờ và tiếng hát khải hoàn, được nhà vua ban thưởng và cùng nàng sống hạnh phúc trong thanh bình...
Hiện nay, Chinh
phụ ngâm có 7 bản dịch và phỏng dịch bằng các thể thơ lục bát (3 bản) hoặc
song thất lục bát (4 bản) của các dịch giả Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích, v.v...
Bản dịch thành công nhất và phổ biến nhất lâu nay, theo thể song thất lục bát,
có độ dài 412 câu (theo bản in chữ Nôm cũ hiện còn, ký hiệu 1902:AB.26) hoặc
408 câu (một bản in khác lưu tại Thư viện Paris) có người cho là của Đoàn
Thị Điểm, lại có người cho là của Phan Huy Ích (12).
Chinh phụ ngâm cũng được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Bản dịch tiếng Pháp thực hiện bởi những nhà văn trong nhóm Mercure de France, bản tiếng Nhật do Giáo sư Takeuchi Yonosuke dịch, và tiếng Hàn do Bae Yang Soo thực hiện.
Chinh phụ ngâm ra đời trong bối cảnh phong trào nông dân khởi nghĩa nửa đầu thế kỷ 18 đang nổ ra khắp nơi. Vì thế, tác phẩm đã trở thành tiếng nói phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa do nhà nước phong kiến Lê-Trịnh phát động lúc bấy giờ nhằm đàn áp nông dân khởi nghĩa. Tuy nhiên, tính chất của chiến tranh chưa được tác giả ý thức rõ rệt, do đó, ở đoạn đầu khúc ngâm hình ảnh người chinh phu lúc ra đi còn mang tính lý tưởng hóa, và cuối khúc ngâm, còn là hình ảnh, dù chỉ là trong tưởng tượng với những sắc màu ảo tưởng, về sự tái hồi trong hào quang chiến thắng của người chồng.
Về nghệ thuật, cả nguyên tác và bản dịch lưu hành phổ biến hiện nay đều có những thành tựu rất lớn. Bút pháp tượng trưng, ước lệ được Đặng Trần Côn tiếp thu có sáng tạo từ kho tàng văn thơ chữ Hán cổ ra những câu phù hợp nhất với thi tứ của mình và dụng công sắp xếp thành kết cấu hoàn chỉnh, mang nhịp điệu của cuộc sống đương thời.Thể thơ trường đoản cú, còn gọi là Cổ Nhạc phủ, được Đặng Trần Côn sử dụng rất linh hoạt, giàu nhạc tính, tiết tấu biến hóa sinh động phù hợp với tình huống của nội dung, với nếp cảm, nếp nghĩ của người đương thời. Bản dịch hiện hành Chinh phụ ngâm cho thấy dịch giả biết phát huy những ưu điểm vốn có của nguyên tác, đồng thời thoát khỏi sự chi phối của nguyên tác (dịch thoát, còn gọi là diễn nôm chứ không chỉ là sự chuyển nghĩa, triết tự, bám sát từng câu từng chữ của nguyên tác) và điều đặc biệt là đã chuyển hóa tài tình từ thể thơ Cổ Nhạc phủ (rất thịnh hành thời Hán, Đường, Tống của Trung Quốc) sang thể thơ song thất lục bát là hoàn toàn của Việt Văn và sử dụng một cách tài hoa ưu thế của thể thơ song thất lục bát, đã vươn tới một sáng tạo tài tình bằng ngôn ngữ trong sáng hiện đại, kết cấu thanh vận khéo léo, láy âm điệp chữ tinh tế, gieo vào lòng độc giả âm hưởng xao xuyến vừa quen thuộc vừa đa dạng, và hầu như lúc nào cũng gây được hiệu quả thẩm mỹ… Vì thế, nhiều khi người ta chỉ biết đến bản dịch của Đoàn thị Điểm (thậm chí không còn coi đó là bản dịch mà coi đó là sáng tác của Đoàn Thị Điểm) mà không biết đến nguyên tác của Đặng Trần Côn! Ngay từ câu mở đầu, nguyên tác của Đặng chỉ có hai câu bốn chữ “Thiên địa phong trần/ Hồng nhan đa truân”, nghe có vẻ lạnh lùng, nghiệt ngã! Nhưng nữ sĩ họ Đoàn đã diễn tả được cả số phận của người chinh phụ khiến ta như nghe được tiếng thổn thức, nghẹn ngào của nhân vật: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi/ Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên…
Dưới đây là toàn bộ bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm:
Chinh phụ ngâm cũng được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Bản dịch tiếng Pháp thực hiện bởi những nhà văn trong nhóm Mercure de France, bản tiếng Nhật do Giáo sư Takeuchi Yonosuke dịch, và tiếng Hàn do Bae Yang Soo thực hiện.
Chinh phụ ngâm ra đời trong bối cảnh phong trào nông dân khởi nghĩa nửa đầu thế kỷ 18 đang nổ ra khắp nơi. Vì thế, tác phẩm đã trở thành tiếng nói phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa do nhà nước phong kiến Lê-Trịnh phát động lúc bấy giờ nhằm đàn áp nông dân khởi nghĩa. Tuy nhiên, tính chất của chiến tranh chưa được tác giả ý thức rõ rệt, do đó, ở đoạn đầu khúc ngâm hình ảnh người chinh phu lúc ra đi còn mang tính lý tưởng hóa, và cuối khúc ngâm, còn là hình ảnh, dù chỉ là trong tưởng tượng với những sắc màu ảo tưởng, về sự tái hồi trong hào quang chiến thắng của người chồng.
Về nghệ thuật, cả nguyên tác và bản dịch lưu hành phổ biến hiện nay đều có những thành tựu rất lớn. Bút pháp tượng trưng, ước lệ được Đặng Trần Côn tiếp thu có sáng tạo từ kho tàng văn thơ chữ Hán cổ ra những câu phù hợp nhất với thi tứ của mình và dụng công sắp xếp thành kết cấu hoàn chỉnh, mang nhịp điệu của cuộc sống đương thời.Thể thơ trường đoản cú, còn gọi là Cổ Nhạc phủ, được Đặng Trần Côn sử dụng rất linh hoạt, giàu nhạc tính, tiết tấu biến hóa sinh động phù hợp với tình huống của nội dung, với nếp cảm, nếp nghĩ của người đương thời. Bản dịch hiện hành Chinh phụ ngâm cho thấy dịch giả biết phát huy những ưu điểm vốn có của nguyên tác, đồng thời thoát khỏi sự chi phối của nguyên tác (dịch thoát, còn gọi là diễn nôm chứ không chỉ là sự chuyển nghĩa, triết tự, bám sát từng câu từng chữ của nguyên tác) và điều đặc biệt là đã chuyển hóa tài tình từ thể thơ Cổ Nhạc phủ (rất thịnh hành thời Hán, Đường, Tống của Trung Quốc) sang thể thơ song thất lục bát là hoàn toàn của Việt Văn và sử dụng một cách tài hoa ưu thế của thể thơ song thất lục bát, đã vươn tới một sáng tạo tài tình bằng ngôn ngữ trong sáng hiện đại, kết cấu thanh vận khéo léo, láy âm điệp chữ tinh tế, gieo vào lòng độc giả âm hưởng xao xuyến vừa quen thuộc vừa đa dạng, và hầu như lúc nào cũng gây được hiệu quả thẩm mỹ… Vì thế, nhiều khi người ta chỉ biết đến bản dịch của Đoàn thị Điểm (thậm chí không còn coi đó là bản dịch mà coi đó là sáng tác của Đoàn Thị Điểm) mà không biết đến nguyên tác của Đặng Trần Côn! Ngay từ câu mở đầu, nguyên tác của Đặng chỉ có hai câu bốn chữ “Thiên địa phong trần/ Hồng nhan đa truân”, nghe có vẻ lạnh lùng, nghiệt ngã! Nhưng nữ sĩ họ Đoàn đã diễn tả được cả số phận của người chinh phụ khiến ta như nghe được tiếng thổn thức, nghẹn ngào của nhân vật: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi/ Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên…
Dưới đây là toàn bộ bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm:
Thuở trời đất
nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên [1].
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Trống Trường Thành [2] lung lay bóng nguyệt, 5
Khói Cam Tuyền [3] mờ mịt thức mây.
Chín lần gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ,
Áo nhung[4] trao quan vũ từ đây. 10
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây[5] sá nào.
Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa[6].
Bóng cờ tiếng trống xa xa, 15
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền[7] mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời[8]. 20
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa[9],
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao[10].
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị[11], ào ào gió thu.
Ngòi đầu cầu, nước trong như lọc, 25
Ðường bên cầu, cỏ mọc còn non.
Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nước trong chảy, lòng phiền chẳng rửa,
Cỏ xanh thơm, dạ nhớ khó quên. 30
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay.
Bước đi một bước giây giây lại dừng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên san[12];
Múa gươm[13] rượu tiễn chưa tàn, 35
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử[14] ;
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba[15].
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. 40
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay!
Hà lương[16] chia rẽ đường này,
Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi.
Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu[17] 45
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương[18]
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng.
Hàng cờ bay trông bóng phất phơ. 50
Dấu chàng theo lớp mây đưa.
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Ðoái trông theo đã cách ngăn, 55
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh
Chốn Hàm Dương[19] chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương[20] thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. 60
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Chàng từ khi vào nơi gió cát, 65
Ðêm chăng này nghỉ mắt phương nao?
Xưa nay chiến địa dường bao!
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu!
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon. 70
Ôm yên, gối trống đã chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại[21],
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua[22].
Hình khe thế núi gần xa, 75
Ðứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi, buổi chiều như giội,
Nước lòng khe, nẻo suối còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây. 80
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hãn hải[23] thì miền Tiêu quan[24].
Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ 85
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong,
Lên cao trông thức mây lồng[25],
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương?
Chàng từ sang đông nam khơi nẻo
Biết nay chàng tiến thảo[26] nơi đâu? 90
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây
Nức hơi mạnh ơn dày từ trước;
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
Non Kỳ[27] quạnh quẽ trăng treo, 95
Bến Phì[28] gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt[29], nào ai gọi hồn? 100
Dấu binh lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai: già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu[30] tóc đã điểm sương mới về.
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ. 105
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo[31] đầu ngựa, giáo dan[32] mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi, 110
Nỗi lòng biết tỏ cùng ai?
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
Trong cửa này, đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia, há kiếp chàng vay[33]?
Những mong cá nước vui vầy, 115
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Chàng há từng học lũ vương tôn[34]?
Cố sao cách trở nước non,
Khiến người thôi sớm, thì hôm những sầu. 120
Trang phong lưu đang chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên;
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên Quan san để cách hàn huyên[35] cho đành?
Thuở lâm hành, oanh chưa bén liễu. 125
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già.
Ý nhi[36] lại gáy trước nhà líu lo,
Thuở đăng đồ[37] mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông, 130
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại đã bên sông bơ xờ[38].
Hẹn cùng ta: Lũng Tây[39] nham ấy,
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm?
Ngập ngừng lá rụng cành trâm, 135
Chiều hôm nghe dậy tiếng cầm[40] lao xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương[41] cầu nọ.
Chiều lại tìm nào có tiêu hao:
Ngập ngừng gió thổi áo bào
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào[42] mênh mông. 140
Tin thường lại người không thấy lại,
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp xung quanh,
Sân đi một bước trăm tình ngẩn ngơ!
Thư thường lại, người chưa thấy lại, 145
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang.
Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai?
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy[43].
Tiền sen[44] này đã nẩy là ba. 150
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng hoa[45] dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân[46] khuê phụ[47] nhớ thương.
Mẹ già phơ phất mái sương, 155
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì[48].
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách, thiếp làm phụ thân 160
Nay một thân nuôi già, dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mể biết bao.
Nhớ chàng trải mấy sương sao
Xuân từng đổi mới, đông nào có dư!
Kể năm đã ba tư cách diễn 165
Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang,
Ước gì gần gũi tấc gang,
Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Thoa cung Hán[49] thuở ngày xuất giá
Gương lầu Tần[50], dấu cũ soi chung. 170
Cậy ai mà gửi tới cùng,
Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu[51] thuở bé vui chơi.
Cậy ai mà gửi tới nơi, 175
Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân?
Trải mấy xuân tin đi tin lại,
Tới xuân này tin hăy vắng không.
Thấy nhạn luống tưởng thư phong[52].
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng. 180
Gió tây nổi, không đường hồng tiện[53],
Xót cõi ngoài tuyết quyến, mưa sa.
Màn mưa trướng tuyết[54] xông pha,
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
Ðề chữ gấm[55] phong thôi lại mở. 185
Gieo bói tiền[56] tin dở còn ngờ.
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.
Há như ai hồn say bóng lẫn,
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không. 190
Trâm cài, xiêm thắt[57] thẹn thùng,
Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng, thầm gieo từng bước,
Ngoài rèm thưa rủ, thác[58] đòi phen.
Ngoài rèm, thước chẳng mách tin, 195
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn[59] kia với bóng người khá thương, 200
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải, 205
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan[60] ngại chùng,
Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên, 210
Non Yên[61] dầu chẳng tới miền.
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ nhung đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng, 215
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ mòn gốc liễu.
Tuyết nhường cưa xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù,
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi. 220
Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên. Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm, 225
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!
Ðâu xiết kể muôn sầu nghìn não.
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi, 230
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa,
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song;
Nương song luống ngẩn ngơ lòng. 235
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Biếng trang điểm lòng người sầu tủi,
Xót nỗi chàng ngoài cõi Giang Lăng.
Khác gì ả Chức[62] chị Hằng[63],
Bến Ngân[64] sùi sụt cung trăng chốc mòng. 240
Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối,
Muộn chứa đầy, hãy thổi làm cơm.
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,
Sầu làm rượu nhạt, muộn dồn hoa ôi.
Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng. 245
Ôm đàn tranh, mấy phím rời tay;
Xót người hành dịch[65] bấy nay,
Dặm xa thêm mỏi, trắp đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt,
Trống tiều[66] khua như rứt buồng gan. 250
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly[67] mới biết tân toan[68] dường này.
Nếm chua cay, tấm lòng mới tỏ.
Chua cay này há có vì ai?
Vì chàng, lệ thiếp nhỏ đôi, 255
Vì chàng, thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng.
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn,
Bui[69] còn hồn mộng được gần,
Ðêm đêm thường tới Giang tân tìm người 260
Tìm chàng thuở Dương Đài[70] lối cũ.
Gặp chàng nơi Tương Phố[71] bến xưa:
Xum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
Giận thiếp thân lại không bằng mộng 265
Ðược gần chàng bến Lũng thành Quan.
Khi mơ, những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không!
Bui có một tấm lòng chẳng dứt,
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi! 270
Lòng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến nam, bãi che mặt nước,
Cỏ biếc um, dâu mướt màu xanh.
Nhà thôn mấy xóm[72] chông chênh, 275
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
Trông đường bắc, đôi chòm quán khách,
Rườm rà cây xanh ngắt núi non;
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu. 280
Non đông thấy lá hầu chất đống.
Trĩ xập xòe mai cũng bẻ bai,
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc, 285
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu:
Ngàn thông chen chúc khóm lau,
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về.
Trông bốn bề chân trời mặt đất;
Lên, xuống lầu thấm thoắt đòi phen; 290
Lớp mây ngại mắt khôn nhìn,
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc quan[73]?
Gậy rút đất[74] dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu[75] nào được thấy tiên,
Lòng này hóa đá cũng nên, 295
E không lệ ngọc mà lên trông lầu. Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong[76].
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong,
Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng? 300
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp nào dám nghĩ gần xa;
Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái, 305
Hoa để vàng bởi tại bóng dương;
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần?
Chồi lan nọ trước sân đã hái,
Ngọn tần kia bên bãi đưa hương. 310
Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
Ngửa trông xem vẻ thiên chương[77] thẫn thờ.
Bóng Ngân hán khi mờ khi tỏ,
Ðộ Khuê triền[78] buổi có buổi không.
Thức mây đòi lúc nhạt nồng, 315
Chuôi sao Bắc đẩu thôi đông lại đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành khô.
Lạnh lùng thay bấy nhiêu thu,
Gió mây hiu hắt trên đầu tường vôi. 320
Một năm một nhạt mùi son phấn,
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi:
Xưa sao hình ảnh chẳng rời,
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương[79]?
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ, 325
Thiếp dạo hài lối cũ rêu in.
Gió xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì[80].
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy[81],
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau; 330
Nọ thì ả Chức, chàng Ngâu.
Tới trăng thu lại bắc cầu qua sông.
Thương một kẻ phòng không luống giữ,
Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau;
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau, 335
Người đòi thấm thoắt qua màu xuân xanh
Xuân, thu để giận quanh ở dạ.
Hợp ly đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhiều nỗi tơi bời,
Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân. 340
Kìa Văn Quân[82] mỹ miều thuở trước,
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ gã Phan lang[83],
Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở, 345
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa!
Gái tơ mấy chốc sẩy ra nạ dòng
Gác nguyệt nọ mơ mòng vẻ mặt,
Lầu hoa kia, phảng phất mùi hương. 350
Trách trời sao để nhỡ nhàng,
Thiếp rầu, thiếp lại rầu chàng chẳng quên.
Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội?
Cũng dập dìu chẳng vội phân trương.
Chẳng xem chim yến trên rường, 355
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.
Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu, sen, là thức cỏ cây,
Ðôi hoa cũng sánh, đôi dây cũng liền. 360
Ấy loài vật tình duyên còn thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy, đây?
Thiếp xin về kiếp sau này,
Như chim liền cánh, như cây liền cành.
Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy, 365
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau,
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy.
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên; 370
Chàng nương vừng nguyệt phỉ nguyền,
Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn.
Lòng hứa quốc[84] tựa son ngăn ngắt,
Sức tý dân[85] dường sắt tri tri.
Máu Thiền Vu[86] quắc[87] Nhục Chi[88], 375
Ấy thì buổi uống, ấy thì bữa ăn.
Mũi đòng vác[89] đòi lần hăm hở,
Ðã lòng trời gìn giữ người trung.
Hộ chàng trăm trận nên công,
Buông tên ải bắc, treo cung non đoài. 380
Bóng cờ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại Thần kinh.
Non Yên[61] tạc đá đề danh,
Triều thiên[90] vào trước cung đình[91] dâng công,
Nước duềnh Hán vác đòng rửa sạch, 385
Khúc Nhạc Từ réo rắt ngợi khen.
Tài so Tần, Hoắc[92] vẹn tuyền,
Tên ghi gác Khói[93] tượng truyền đài Lân[94],
Nền huân tướng[95] đai cân rạng vẻ.
Chữ đồng hưu[96] bia để nghìn đông. 390
Ơn trên tử ấm, thê phong,
Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
Thiếp chẳng dại như người Tô phụ[97],
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương[98].
Khi về đeo quả ấn vàng, 395
Trên khung cửi, dám rẫy ruồng làm cao.
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng rũ lớp phong sương. Vì chàng tay chuốc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng. 400
Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Ðọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu.
Câu vui đổi với câu sầu.
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
Sẽ rót vơi lần lần từng chén, 405
Sẽ ca lần ren rén từng thiên
Liên ngâm đối ẩm đòi phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc sầu xa cách nhớ,
Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình. 410
Ngâm nga mong gửi chữ tình,
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu.
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên [1].
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Trống Trường Thành [2] lung lay bóng nguyệt, 5
Khói Cam Tuyền [3] mờ mịt thức mây.
Chín lần gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ,
Áo nhung[4] trao quan vũ từ đây. 10
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây[5] sá nào.
Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa[6].
Bóng cờ tiếng trống xa xa, 15
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền[7] mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời[8]. 20
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa[9],
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao[10].
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị[11], ào ào gió thu.
Ngòi đầu cầu, nước trong như lọc, 25
Ðường bên cầu, cỏ mọc còn non.
Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nước trong chảy, lòng phiền chẳng rửa,
Cỏ xanh thơm, dạ nhớ khó quên. 30
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay.
Bước đi một bước giây giây lại dừng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên san[12];
Múa gươm[13] rượu tiễn chưa tàn, 35
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử[14] ;
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba[15].
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. 40
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay!
Hà lương[16] chia rẽ đường này,
Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi.
Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu[17] 45
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương[18]
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng.
Hàng cờ bay trông bóng phất phơ. 50
Dấu chàng theo lớp mây đưa.
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Ðoái trông theo đã cách ngăn, 55
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh
Chốn Hàm Dương[19] chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương[20] thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. 60
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Chàng từ khi vào nơi gió cát, 65
Ðêm chăng này nghỉ mắt phương nao?
Xưa nay chiến địa dường bao!
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu!
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon. 70
Ôm yên, gối trống đã chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại[21],
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua[22].
Hình khe thế núi gần xa, 75
Ðứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi, buổi chiều như giội,
Nước lòng khe, nẻo suối còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây. 80
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hãn hải[23] thì miền Tiêu quan[24].
Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ 85
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong,
Lên cao trông thức mây lồng[25],
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương?
Chàng từ sang đông nam khơi nẻo
Biết nay chàng tiến thảo[26] nơi đâu? 90
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây
Nức hơi mạnh ơn dày từ trước;
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
Non Kỳ[27] quạnh quẽ trăng treo, 95
Bến Phì[28] gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt[29], nào ai gọi hồn? 100
Dấu binh lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai: già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu[30] tóc đã điểm sương mới về.
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ. 105
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo[31] đầu ngựa, giáo dan[32] mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi, 110
Nỗi lòng biết tỏ cùng ai?
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
Trong cửa này, đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia, há kiếp chàng vay[33]?
Những mong cá nước vui vầy, 115
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Chàng há từng học lũ vương tôn[34]?
Cố sao cách trở nước non,
Khiến người thôi sớm, thì hôm những sầu. 120
Trang phong lưu đang chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên;
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên Quan san để cách hàn huyên[35] cho đành?
Thuở lâm hành, oanh chưa bén liễu. 125
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già.
Ý nhi[36] lại gáy trước nhà líu lo,
Thuở đăng đồ[37] mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông, 130
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại đã bên sông bơ xờ[38].
Hẹn cùng ta: Lũng Tây[39] nham ấy,
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm?
Ngập ngừng lá rụng cành trâm, 135
Chiều hôm nghe dậy tiếng cầm[40] lao xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương[41] cầu nọ.
Chiều lại tìm nào có tiêu hao:
Ngập ngừng gió thổi áo bào
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào[42] mênh mông. 140
Tin thường lại người không thấy lại,
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp xung quanh,
Sân đi một bước trăm tình ngẩn ngơ!
Thư thường lại, người chưa thấy lại, 145
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang.
Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai?
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy[43].
Tiền sen[44] này đã nẩy là ba. 150
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng hoa[45] dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân[46] khuê phụ[47] nhớ thương.
Mẹ già phơ phất mái sương, 155
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì[48].
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách, thiếp làm phụ thân 160
Nay một thân nuôi già, dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mể biết bao.
Nhớ chàng trải mấy sương sao
Xuân từng đổi mới, đông nào có dư!
Kể năm đã ba tư cách diễn 165
Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang,
Ước gì gần gũi tấc gang,
Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Thoa cung Hán[49] thuở ngày xuất giá
Gương lầu Tần[50], dấu cũ soi chung. 170
Cậy ai mà gửi tới cùng,
Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu[51] thuở bé vui chơi.
Cậy ai mà gửi tới nơi, 175
Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân?
Trải mấy xuân tin đi tin lại,
Tới xuân này tin hăy vắng không.
Thấy nhạn luống tưởng thư phong[52].
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng. 180
Gió tây nổi, không đường hồng tiện[53],
Xót cõi ngoài tuyết quyến, mưa sa.
Màn mưa trướng tuyết[54] xông pha,
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
Ðề chữ gấm[55] phong thôi lại mở. 185
Gieo bói tiền[56] tin dở còn ngờ.
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.
Há như ai hồn say bóng lẫn,
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không. 190
Trâm cài, xiêm thắt[57] thẹn thùng,
Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng, thầm gieo từng bước,
Ngoài rèm thưa rủ, thác[58] đòi phen.
Ngoài rèm, thước chẳng mách tin, 195
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn[59] kia với bóng người khá thương, 200
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải, 205
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan[60] ngại chùng,
Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên, 210
Non Yên[61] dầu chẳng tới miền.
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ nhung đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng, 215
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ mòn gốc liễu.
Tuyết nhường cưa xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù,
Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên. Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm, 225
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!
Ðâu xiết kể muôn sầu nghìn não.
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi, 230
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa,
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song;
Nương song luống ngẩn ngơ lòng. 235
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Biếng trang điểm lòng người sầu tủi,
Xót nỗi chàng ngoài cõi Giang Lăng.
Khác gì ả Chức[62] chị Hằng[63],
Bến Ngân[64] sùi sụt cung trăng chốc mòng. 240
Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối,
Muộn chứa đầy, hãy thổi làm cơm.
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,
Sầu làm rượu nhạt, muộn dồn hoa ôi.
Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng. 245
Ôm đàn tranh, mấy phím rời tay;
Xót người hành dịch[65] bấy nay,
Dặm xa thêm mỏi, trắp đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt,
Trống tiều[66] khua như rứt buồng gan. 250
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly[67] mới biết tân toan[68] dường này.
Nếm chua cay, tấm lòng mới tỏ.
Chua cay này há có vì ai?
Vì chàng, lệ thiếp nhỏ đôi, 255
Vì chàng, thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng.
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn,
Bui[69] còn hồn mộng được gần,
Ðêm đêm thường tới Giang tân tìm người 260
Tìm chàng thuở Dương Đài[70] lối cũ.
Gặp chàng nơi Tương Phố[71] bến xưa:
Xum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
Giận thiếp thân lại không bằng mộng 265
Ðược gần chàng bến Lũng thành Quan.
Khi mơ, những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không!
Bui có một tấm lòng chẳng dứt,
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi! 270
Lòng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến nam, bãi che mặt nước,
Cỏ biếc um, dâu mướt màu xanh.
Nhà thôn mấy xóm[72] chông chênh, 275
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
Trông đường bắc, đôi chòm quán khách,
Rườm rà cây xanh ngắt núi non;
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu. 280
Non đông thấy lá hầu chất đống.
Trĩ xập xòe mai cũng bẻ bai,
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc, 285
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu:
Ngàn thông chen chúc khóm lau,
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về.
Trông bốn bề chân trời mặt đất;
Lên, xuống lầu thấm thoắt đòi phen; 290
Lớp mây ngại mắt khôn nhìn,
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc quan[73]?
Gậy rút đất[74] dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu[75] nào được thấy tiên,
Lòng này hóa đá cũng nên, 295
E không lệ ngọc mà lên trông lầu. Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong[76].
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong,
Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng? 300
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp nào dám nghĩ gần xa;
Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái, 305
Hoa để vàng bởi tại bóng dương;
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần?
Chồi lan nọ trước sân đã hái,
Ngọn tần kia bên bãi đưa hương. 310
Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
Ngửa trông xem vẻ thiên chương[77] thẫn thờ.
Bóng Ngân hán khi mờ khi tỏ,
Ðộ Khuê triền[78] buổi có buổi không.
Thức mây đòi lúc nhạt nồng, 315
Chuôi sao Bắc đẩu thôi đông lại đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành khô.
Lạnh lùng thay bấy nhiêu thu,
Gió mây hiu hắt trên đầu tường vôi. 320
Một năm một nhạt mùi son phấn,
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi:
Xưa sao hình ảnh chẳng rời,
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương[79]?
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ, 325
Thiếp dạo hài lối cũ rêu in.
Gió xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì[80].
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy[81],
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau; 330
Nọ thì ả Chức, chàng Ngâu.
Tới trăng thu lại bắc cầu qua sông.
Thương một kẻ phòng không luống giữ,
Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau;
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau, 335
Người đòi thấm thoắt qua màu xuân xanh
Xuân, thu để giận quanh ở dạ.
Hợp ly đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhiều nỗi tơi bời,
Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân. 340
Kìa Văn Quân[82] mỹ miều thuở trước,
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ gã Phan lang[83],
Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở, 345
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa!
Gái tơ mấy chốc sẩy ra nạ dòng
Gác nguyệt nọ mơ mòng vẻ mặt,
Lầu hoa kia, phảng phất mùi hương. 350
Trách trời sao để nhỡ nhàng,
Thiếp rầu, thiếp lại rầu chàng chẳng quên.
Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội?
Cũng dập dìu chẳng vội phân trương.
Chẳng xem chim yến trên rường, 355
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.
Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu, sen, là thức cỏ cây,
Ðôi hoa cũng sánh, đôi dây cũng liền. 360
Ấy loài vật tình duyên còn thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy, đây?
Thiếp xin về kiếp sau này,
Như chim liền cánh, như cây liền cành.
Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy, 365
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau,
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy.
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên; 370
Chàng nương vừng nguyệt phỉ nguyền,
Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn.
Lòng hứa quốc[84] tựa son ngăn ngắt,
Sức tý dân[85] dường sắt tri tri.
Máu Thiền Vu[86] quắc[87] Nhục Chi[88], 375
Ấy thì buổi uống, ấy thì bữa ăn.
Mũi đòng vác[89] đòi lần hăm hở,
Ðã lòng trời gìn giữ người trung.
Hộ chàng trăm trận nên công,
Buông tên ải bắc, treo cung non đoài. 380
Bóng cờ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại Thần kinh.
Non Yên[61] tạc đá đề danh,
Triều thiên[90] vào trước cung đình[91] dâng công,
Nước duềnh Hán vác đòng rửa sạch, 385
Khúc Nhạc Từ réo rắt ngợi khen.
Tài so Tần, Hoắc[92] vẹn tuyền,
Tên ghi gác Khói[93] tượng truyền đài Lân[94],
Nền huân tướng[95] đai cân rạng vẻ.
Chữ đồng hưu[96] bia để nghìn đông. 390
Ơn trên tử ấm, thê phong,
Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
Thiếp chẳng dại như người Tô phụ[97],
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương[98].
Khi về đeo quả ấn vàng, 395
Trên khung cửi, dám rẫy ruồng làm cao.
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng rũ lớp phong sương. Vì chàng tay chuốc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng. 400
Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Ðọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu.
Câu vui đổi với câu sầu.
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
Sẽ rót vơi lần lần từng chén, 405
Sẽ ca lần ren rén từng thiên
Liên ngâm đối ẩm đòi phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc sầu xa cách nhớ,
Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình. 410
Ngâm nga mong gửi chữ tình,
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu.
Chú thích của
bản dịch Chinh phụ ngâm:
1. Truân
chuyên: Gian nan khốn khó
2.Trường
Thành: Vạn lý trường thành, do Tần Thủy Hoàng xây dựng
3. Cam
Tuyền: Tên đất
4. Áo
nhung: Áo của quân nhân
5. Niềm
tây: Niềm riêng
6. Thê
noa: Vợ con
7. Thành
liền: Bởi chữ "liên thành" (những thành liền nhau). Điển tích: nước
Triệu có hai hòn ngọc bích. Vua nước Tần viết thư xin đem năm thành trì đổi ngọc
ấy. Về sau, vật gì quý báu gọi là có giá "liên thành"
8. Giặc
trời: Bởi chữ "thiên kiêu". Hán thư có câu: "Hồ giả thiên chi kiêu
tử" (giặc Hồ là đám con khó dạy của trời)
9. Da ngựa:
Bởi chữ "mã cách" (mã: ngựa, cách:da). Điển tích: Đời Đông Hán, Mã Viện,
tướng giỏi, từng nói: "Làm trai nên chết chốn sa trường biên ải, lấy da ngựa
bọc thây chôn mới gọi là trai".
10. Thái
Sơn, hồng mao: Tư Mã Thiên nói: "Người ta vẫn có cái chết, song có
cái chết đáng nặng như núi Thái Sơn, có cái chết không đáng nhẹ như lông chim hồng".
Ý nói có sự đáng chết và không đáng chết.
11. Cầu Vị (Vị
kiều): Lý Bạch có câu thơ "Tuấn mã nhược phong phiêu, minh tiên xuất Vị kiều"
12. Có
câu hát: "Tướng quân tam tiễn định Thiên Sơn, tráng sĩ trường ca nhập Hán
quan" (ba mũi tên của tướng quân lấy được núi Thiên Sơn, tráng sĩ hát dài
mà kéo quân vào cửa ải Hán).
13. Gươm (Long
Tuyền): Tên một thanh kiếm báu
14. Giới
Tử, Lâu Lan: Phó Giới Tử, tướng nhà Đường, dùng mưu giết chết vua đất Đại
Uyển là Lâu Lan.
15. Man
Khê, Phục Ba: Mã Viện, đời Đông Hán, lĩnh chức Phục Ba tướng quân, từng
đánh dẹp bọn rợ ở Man Khê
16. Hà
lương (hà: sông, lương: cầu). Ngày xưa tiễn đưa nhau thường đến chốn
"cầu sông"
17. Tế Liễu:
Hán Văn Đế đến doanh Tế Liễu là nơi đồn quân của tướng Chu Á Phu để khao thưởng
quân sĩ
18. Tràng
Dương: Tên đất (cũng là tên cung của nhà Tần)
19. Hàm
Dương: Tên đất, tây kinh của nhà Tần
20. Tiêu
Tương: Tên sông
21. Thành
Bạch Đăng, vua Hán Cao Tổ từng bị vây ở đấy, còn gọi là Bạch Thành.
22. Thanh
Hải: tên đất. Đời Đường, rợ Thổ Cốc Hồn hùng cứ ở đấy
23. Hãn hải:
Bãi sa mạc
24. Tiêu
Quan: tên cửa ải ở nơi hiểm trở. Các đời Đường, Tống xây lũy đắp đồn chống rợ
Thổ Phồn
25. Điển
tích: đời Đường, Địch Nhân Kiệt đi đánh giặc xa nhà, lên núi cao trông đám mây
trắng ở xa xa, nói với quân sĩ rằng: "Cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng ấy",
ý nói nhớ nhà.
26. Tiến
thảo (tiến: đi tới, thảo: đánh dẹp giặc cướp)
27. Non Kỳ (Kỳ
Sơn): núi Kỳ Liên, đời Hán, Hoắc Khứ Bệnh đánh rợ Hung Nô ở đấy
28. Bến
Phì (Phì Thủy): tên sông, Bồ Kiên, nước Tần, đem hàng trăm vạn quân đánh Tấn
ở sông này, thua trận, quân sĩ mười phần chết mất tám chín, thây chất thành gò
29.Mạc mặt:
vẽ ra nét mặt (dịch chữ "đan thanh" (đan: sắc đỏ, thanh: sắc xanh)
30. Ban
Siêu: danh tướng đời Hán, theo việc binh nhung ra xứ Tây Vực ở 31 năm, lập
nhiều công lớn, khi về đã quá 80 tuổi. Ban Siêu là anh ruột Ban Chiêu - tài nữ
viết Hán thư.
31. Tên
reo đầu ngựa (minh đích - minh: kêu, đích: mũi tên bịt sắt): tên nỏ bịt sắt,
bắn đi phát ra tiếng vang.
32. Giáo
dan (duyên can - duyên: leo, can: cán cây giáo): leo ngọn giáo mà lên mặt
thành (duyên - doan)
33. Vay:
Tiếng đệm của câu than thở
35. Quan
san, hàn huyên (quan: ải, san: núi, hàn: lạnh, huyên: ấm): ý nói cách
trở, không biết tin tức của nhau
36. Ý
nhi: chim én (yến) thường làm tổ trong mái nhà
37. Đăng
đồ: lên đường ra đi nơi xa
38. Có bản
chép: Tuyết mai trắng bãi phù dung đỏ bờ
39. Lũng
Tây (Lũng Tây sầm): núi nhỏ mà cao (sầm) ở đất Lũng Tây
40. Tiếng
cầm: tiếng chim chóc
41. Hán
Dương: tên đất
42. (Mộ
trào - mộ: chiều, trào: nước): con nước lên buổi chiều hôm
43. Diễn
khơi ngày ấy: từ ngày cách xa nhau
44. Tiền
sen: Dịch chữ "hà tiền" (hà: sen, tiền: đồng tiền), lá sen non nổi ở
mặt nước như đồng tiền
45. Hoàng
Hoa thú: lính thú đời xưa, cứ tháng 9 thì cắt đi, đến tháng 9 năm sau mới đổi về.
Tháng 9 là mùa hoa cúc nở, sắc vàng, cho nên gọi là "Hoàng Hoa thú".
46. Lão
thân: cha mẹ già
47. Khuê
phụ: người vợ ở chốn khuê phòng
48. Phù
trì: trông nom, ẵm bồng
49. (Hán
cung thoa): nhắc tích Hán Vũ Đế ban cho bà Triệu Tiệp Dư một cái thoa ngọc
50. (Tần
lâu kính): Tần Thủy Hoàng có cái gương lớn gọi là "chiếu đảm kính",
soi thấy mật trong thân thể, biết được người nào có tà tâm
51. Nhẫn đeo
tay, ngọc cài đầu(câu chỉ ngân, tao đầu ngọc): nhẫn đeo tay bằng bạc, trâm
cài đầu bằng ngọc
52. Lấy
tích Tô Vũ xé áo lụa viết thư, cột vào chân chim nhạn thả bay về Hán
53. Hồng
tiện: nhờ nhạn đem thư buộc ở chân (hồng: chim nhạn trống, nhạn: chim mái).
54. Màn
mưa trướng tuyết (hổ lang, trướng vi): trướng hổ, màn lang, chỉ những
nơiđóng quân ở cõi ngoài
55. (Cẩm
tự đề thi) : Đời Tấn, Đậu Thao đi lính, vợ là Thôi Huệ làm bài thơ "hồi
văn" dệt vào gấm dâng lên vua mà xin cho chồng về
56. (Kim
tiền vấn bốc): Gieo ba đồng tiền vàng khi bói quẻ
57. Xiêm
thắt: áo quần thắt nhỏ (thân thể gầy vì nhớ chồng)
58. Rủ
thác: bỏ rèm xuống, cuốn lên
59. Hoa
đèn: dịch chữ "đăng hoa" (đĩa đèn dầu xưa)
60. Dây
uyên, phím loan: hai sợi dây đàn như đôi chim uyên ương, hai phím đàn như
đôi chim loan phượng. Chinh phụ không muốn lên dây đàn, sợ đứt dây hóa ra điềm
xấu.
61. Non
Yên: Núi Yên Nhiên ở đất ngoại Mông Cổ. Đời Hậu Hán, Đậu Hiến đánh đuổi rợ Hung
Nô đến đấy, lên núi khắc công huân vào đá, rồi về.
62. Chức
Nữ
63. Hằng
Nga
64. Bến
sông Ngân Hà, nơi Ngưu Lang - Chức Nữ gặp gỡ
65. Hành
dịch: đi làm nghĩa vụ (đi lính)
66. Trống
canh ở trại quân
67. Khuê
ly: Xa cách nhau lâu ngày
68. Tân
toan (tân: cay, toan: chua): nỗi chua cay
69. Bui:
tiếng cổ: duy, chỉ
70. Dương
Đài: tên núi. Vua Tương Vương nước Sở mộng gặp thần núi Vu Sơn ở đấy
71. Tương
Phố: Bến sông Tiêu Tương
72. Nguyên
là chữ "tỉnh ấp" (tỉnh: giếng, ấp: xóm): những nơi xóm làng
74. Gậy rút
đất: Phí Trường Phòng học được thuật rút đất, hễ dùng cái gậy trỏ xuống đất thì
nghìn dặm đường cũng thu lại ở trước mắt
75. Khăn
gieo cầu: Thôi sinh vào núi lấy được tiên nữ làm vợ, học được phép tàng hình, lẻn
vào trong cung để tinh nghịch, bị đạo sĩ đuổi bắt. Chàng chạy về núi, còn cách
con sông, tiên nữ hóa phép ném cái khăn biến thành nhịp cầu ngũ sắc cho chàng
chạy qua.
76. Hai
câu này dịch hai câu thơ trong bài Khuê oán của Vương Xương Linh, thi
sĩ đời Đường: Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc/Hối giao phu tế mịch phong
hầu.
77. Thiên
chương: các vẻ trên trời, như: tinh tú, nhật, nguyệt...
78. Khuê
triền: độ đi của sao Khuê
79. Sâm, Thương:
sao Sâm (sao Hôm) ở phương tây, sao Thương (sao Mai) ở phương Đông, một ngôi hiện
ra thì một ngôi lặn đi, không cùng trông thấy nhau. Ý nói sự ly biệt
80. Lương
thì: thời tươi đẹp
81. Diêu
hoàng, Ngụy tử: Nhà Diêu Sùng có hoa mẫu đơn vàng
(hoàng), nhà Ngụy Nhân Phổ có hoa mẫu đơn tía (tử).
82. Văn
Quân: giai nhân đời Hán. Trác Văn Quân, góa chồng, nghe Tư Mã Tương Như đàn
khúc "Phượng cầu hoàng" liền ưng theo làm vợ. Sau Tương Như muốn lấy
vợ lẽ, Văn Quân bèn làm bài "Bạch đầu ngâm". Tương Như cảm kích,
thôi không lấy lẽ, cùng Văn Quân chung thủy đến già.
83. Phan
lang: người con trai tuấn tú đời Tấn, tên là Phan An Nhân, mỗi khi ra đường,
con gái hay ghẹo, ném quả đầy xe. Hai điển tích Văn Quân và Phan
lang ý nói: một ngày kia hai vợ chồng cùng già.
84. Hứa
quốc: Một lòng đem quân giúp nước
85. Tý
dân: Hết sức che chở nhân dân
86. Thiền
Vu: chúa của rợ Hung Nô
87. Quắc:
lỗ tai trái. Dâng đầu giặc ghi công chỉ cần xẻo lỗ tai tráiđem về nộp
88. Nhục
Chi: tên nước xưa ở miền Tây Vực
89. Đòng
vác: gươm giáo
90. Triều
thiên: thiên triều, triều (đình) vua
91. Nguyên
là chữ "Vị Ương cung": cung điện nhà Hán, chu vi rộng lớn, xây dựng
luôn, hết cung này đến điện nọ không bao giờ ngưng, cho nên đặt
tên "Vị Ương" (chưa hết); cũng như: dạ vị ương (đêm chưa sáng)
92. Tần, Hoắc:
tức Tần Thúc Bảo, Hoắc Phiêu Diêu
93. Gác
Khói: Lăng Yên các (Lăng Yên: cao vượt trên tầng mây khói), vua Đường Thái
Tông cho dựng để vẽ hình 24 công thần.
94. Đài
Lân: Lỳ Lân đài, vua Hán Tuyên Đế cho vẽ tượng 10 công thần ở đấy.
95. Nguyên
văn: "mao tư khoán" (mao: cỏ tranh, tư: cỏ gai, khoán: văn tự để
làm tin). Đời xưa phong hầu, vua ban cho đất ngũ sắc có bọc mao tư,
hoặc cho tấm thiết khoán (tấm sắt ghi công trạng). Dịch giả dùng "nền huân
tướng" dịch từ ngữ này (huân công, huân nghiệp: công to nghiệp lớn)
96. Đồng
hưu: bởi chữ "dữ quốc đồng hưu thích" (cùng lo cùng vui với nước
nhà)
97. Tô phụ:
vợ Tô Tần. Khi còn hàn vi, Tô Tần về nhà, người vợ cứ ngồi trên khung cửi,
không thèm đứng dậy
98. Lạc
Dương: chỉ Tô Tần, người Lạc Dương, chủ trương đi du thuy ết 6 nước hợp
tung chống Tần
Giai
thoại về những câu đối nhanh trí, thông minh của Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm
không những nổi danh về thơ phú, đọc rộng biết nhiều mà còn là một nữ sĩ nổi tiếng
với nhiều giai thoại về khả năng xuất khẩu tài tình:
1. Sử ký
Cô Điểm, khi
lên 6 tuổi, đang học Sử Ký của Tư Mã Thiên (13), anh là Đoàn
Doãn Luân lấy một câu trong Sử Ký ra câu đối: Bạch xà đương đạo, Quý bạt
kiếm nhi trảm chi.
Cô Điềm liền lấy
một câu cũng trong Sử kýđối lại: Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng Thiên
nhi thán viết.
Nghĩa là: Rắn
trắng giữa đường, Ông Quý (Lưu Bang) tuốt gươm mà chém.
Rồng vàng đội thuyền, Ông Vũ (Hạng Vũ) ngửa mặt lên Trời mà than.
2. Soi gương:
Doãn Luân đang
đứng bên bờ ao ngắm trăng, nhìn vào thấy Cô Điểm đang soi gương trang điểm nơi
cửa sổ, liền ra câu đối: Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm. Cô
Điểm liền đối lại: Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.
Nghĩa là: Trước
gương vẽ mày, một điểm hóa thành hai điểm, cũng có nghĩa là một Cô Điểm hóa
thành hai Cô Điểm. Tới ao xem trăng, một vừng trăng chuyển thành hai vừng
trăng, cũng có nghĩa là một anh Luân chuyển thành hai anh Luân. Sự tài tình ở
đây là cảnh rất thực, dùng được tên hai người đúng với cảnh vẽ mày và ngắm
trăng.
Có lần ở
Chương Dương, Bà Đoàn đang giảng sách cho học trò, tới đoạn: Đằng là nước nhỏ,
lại lọt vào giữa hai nước lớn là Tề và Sở, nên việc ngoại giao với hai nước lớn
rất khó khăn. Vào lúc ấy, ông hàng xóm có hai vợ gây lộn om sòm. Bà tức cười, bảo
học trò lấy đầu đề nước Đằng làm thơ bỡn ông hai vợ. Học trò có nhiều đứa làm
bài, nhưng bài của Đoàn Lệnh Khương (con của anh Luân) là có ý hay hơn cả, được
Bà chỉnh văn lại, ghi ra như sau đây:
Đằng quốc xưa nay vốn nhỏ nhen,
Lại thêm Tề, Sở ép hai bên.
Quay đầu với Sở, e Tề giận,
Ngảnh lại sang Tề, sợ Sở ghen.
Đằng quốc xưa nay vốn nhỏ nhen,
Lại thêm Tề, Sở ép hai bên.
Quay đầu với Sở, e Tề giận,
Ngảnh lại sang Tề, sợ Sở ghen.
Đúng là hoàn cảnh
của ông hàng xóm có 2 vợ hay ghen.
4. Thách đối
kén chồng:
Nhiều người
khoa bảng thời bấy giờ nghe tiếng Cô Điểm hương sắc vẹn toàn, văn chương lỗi lạc,
nên có ý muốn đến thử tài và cầu hôn, nhưng tất cả đều chịu thua và rút lui.
Ông Vũ Diệm, đỗ
Hoàng Giáp năm 1739, đến gặp Cô Điểm. Biết được dụng ý của người khách tài hoa
này, Cô Điểm liền ra tay trước, bằng cách sai con hầu bưng ra một khay trầu mời
khách, trên khay trầu Cô để một tờ giấy, trên đó Cô viết một câu đối nhờ khách
đối giúp: Đình tiền thiếu nữ khuyến tân lang. Câu này có nghĩa đen
là: Trước sân gió thoảng phất cây cau. Thiếu nữ là cơn gió nhẹ, tân lang là cây
cau; nhưng nghĩa bóng của câu này theo cách đồng âm: Trước sân, người con gái mời
chàng rể mới. (Thiếu nữ: Con gái. Tân lang: Chàng rể). Vũ Diệm thấy câu thách đối
khó quá, nên đành rút lui!
5. Cô Điểm nhiều
lần thách đối Trạng Quỳnh
Một hôm, Cô Điểm
đang ngồi bên cửa sổ thì Trạng Quỳnh tới, Cô liền đọc một câu thách đối:
Song song là
hai cửa sổ, hai người ngồi trong cửa sổ song song.
Trạng Quỳnh đối
không được, chịu thua rút lui.
Lần khác, Cô
Điểm gặp Trạng Quỳnh theo Cô lên phố Mía (Sơn Tây), Cô liền đọc một câu thách đối:
Lên phố Mía gặp
cô hàng mật, cầm tay kẹo lại hỏi thăm đường.
Trạng Quỳnh lại
chịu thua nữa, vì câu thách đối ra toàn là mía, đường, mật, kẹo, nên không thể
kiếm ra chữ để đối lại.
Lần khác, Trạng
lại gần chỗ Cô Điểm tắm, Cô liền ra một vế thách đối: Da trắng vỗ bì bạch.
Bì là da, bạch
là trắng, bì bạch là da trắng, nhưng hai tiếng này theo nghĩa nôm là để tượng
thanh, tiếng vỗ vào da thịt. Trạng Quỳnh cũng đành chịu thua.
Lần cuối, nhân
buổi Hội Xuân, Cô Điểm thuận tay bẻ một nhánh xương rồng, chợt thấy Quỳnh đi tới,
liền đọc: Cây xương rồng trồng đất rắn, long vẫn hoàn long.
Long, chữ Hán
là rồng, mà tiếng nôm nghĩa là lỏng, không chặt. Lần này, Quỳnh đối lại được,
chữ nghĩa rất chỉnh mà lại biểu lộ được sự ngang tàng của mình: Quả dưa
chuột tuột thẳng gang, thử chơi thì thử. Thử tiếng Hán là con chuột, nhưng
tiếng nôm nghĩa là làm thử, chưa phải làm thật.
Tương truyền,
sau lần đối này, Trạng Quỳnh và Cô Điểm không còn gặp nhau nữa.
6. Sứ Tàu bị lỡm:
Thời xưa, mỗi
lần có đoàn sứ bộ nước Tàu sang nước ta, triều đình thường kén chọn những người
văn hay chữ tốt, thạo việc ứng đối, để giả làm các công việc tạp dịch nơi công
quán, mục đích là "đón đầu" sứ Tàu để đối đáp Sứ Tàu làm cho họ kính
phục người nước Nam ta. Lần ấy, đoàn Sứ nhà Thanh sang nước ta, hai vị đứng đầu
là: Hàng Địch Lộc và Nhiệm Lan Chi. Trong số những người bán hàng trên đường Sứ
Tàu đi qua, có Cô Điểm và chú bé Trần Quang Trạch, mới hơn 10 tuổi mà đã giỏi
văn thơ ứng đối. Bộ điệu Sứ Tàu hống hách, thấy có cô bán hàng xinh đẹp thì
buông ghẹo một câu: Nam phương nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.
(Phương Nam có một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày).
Cô bán hàng đó
chính là bà Điểm, liền đáp lại: Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất.
(Nước Tàu phương Bắc các bậc đại phu đều bởi đường ấy mà ra).
(Nước Tàu phương Bắc các bậc đại phu đều bởi đường ấy mà ra).
Hai câu đối
trên, nếu giải nghĩa thanh thì đối nhau rất thanh, giải nghĩa tục thì đối nhau
rất tục, ý nghĩa hơn hẳn Sứ Tàu, thật xuất sắc tài tình. Sứ Tàu tưởng nói bỡn
như vậy là có thể hạ nhục Cô bán hàng, nào dè Cô hiểu ý, lanh trí trả lời đích
đáng, đem cái nhục trả lại chúng, làm chúng hổ thẹn rút lui, phục tài gái nước
Nam, không còn dám bỡn cợt nữa.
Về tài đối đáp
của Đoàn Thị Điểm cũng được Phan Kế Bính viết trong cuốn Nam Hải
dị nhân với nhan đề Nguyễn Thị Điểm (14).
Chú thích:
(*) Vương Xương
Linh (694 - 756) tự Thiếu Bá, người ở Vạn Niên, phủ Kinh Triệu (nay thuộc
thành phố Tây An), đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 15 (727). Vương Xương
Linh sở trường về thơ thất ngôn tuyệt cú, nội dung chủ yếu là tả sinh hoạt nơi
biên tái và cung oán, khuê tình, phong cách thanh tân dịu dàng trong sáng. Khuê
oán là tác phẩm tiêu biểu của Thi Thiên tử Vương Xương Linh. Khác với
những bài thơ thuộc chủ đề biên tái, miêu tả tâm trạng, tình cảm… của người
trực tiếp ra chiến trận, Khuê oán mang nỗi sầu của người thiếu phụ có
chồng đang tham gia chinh chiến. Khuê oán thường được một số
dịch giả, nhà nghiên cứu Việt Nam chọn làm ví dụ tiêu biểu cho khoảnh khắc đốn
ngộ trong Đường thi.
Khuê Oán
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Vương Xương Linh (698-756)
Dịch nghĩa: Nỗi oán trong phòng khuê.
Người thiếu phụ nơi phòng khuê không biết buồn
Ngày xuân trang điểm xong, bước lên lầu biếc
Chợt thấy màu dương liễu ở đầu đường
(Liền) hối hận đã để chồng đi tòng quân để kiếm phong hầu.
Dịch thơ: Nỗi oán trong phòng khuê.
Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu
Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu.
Ngô Tất Tố dịch thơ.
Trẻ trung nàng biết chi sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu ngắm gương.
Nhác trông vẻ liễu bên đường,
Phong hầu nghĩ dại, xui chàng kiếm chi.
Tản Đà dịch thơ.
(**) Nàng Mạnh Quang: Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có viết: Đã cho vào bậc Bố kinh / Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Bố kinh là hai chữ thu ngắn, Bố quần là chiếc quần bằng vải, kinh thoa là cái trâm cài đầu bằng gai. Bố kinh lấy từ chuyện Lương Hồng, Mạnh Quang trong sách Di Uyển của Trung Quốc:
Lương Hồng là một hàn sĩ ở Giang Nam, nghèo xơ xác, hiếu học, trọng đạo đức nhân nghĩa. Nhiều người rất cảm phục nhân cách của chàng , muốn tìm cách giúp đỡ , nhưng đều bị từ chối.
Trong số này, có nhà họ Mạnh, giòng dõi nho gia, giàu có mấy đời, có tiểu thư Mạnh Quang, sắc nước khuynh thành, vương tôn công tử gần xa đều ngấp nghé. Nhà họ Mạnh chủ động muốn nhận Lương Hồng làm rể. Lương Hồng cũng nghe tiếng gia đình họ Mạnh tuy giàu có, nhưng nổi tiếng mấy đời lương thiện, nên bằng lòng kết nghĩa trăm năm với nàng Mạnh Quang.
Ngày hợp hôn, Mạnh Quang muốn làm đẹp lòng chồng, trang điểm má phấn tô son, xiêm y lộng lẫy, vàng ngọc sáng ngời. Nào ngờ, trông thấy tân nương rực rỡ như vậy, tân lang lại tiu nghỉu, suốt bảy ngày đêm ủ ê không buồn động phòng hoa chúc. Thoạt đầu, Mạnh Quang đã quá lo âu, không hiểu mình đã lời ăn tiếng nói như thế nào để chàng phải phật ý; cuối cùng thì nàng cũng nghĩ ra và đã vất bỏ hết các xiêm y, trang sức sặc sỡ đó, mà chỉ mặc quần áo vải và đầu cài thoa gai đến bên chồng. Đến đây, Lương Hồng mới bật lên mừng rỡ, ôm chầm lấy tân nương:
- Đây mới thật là vợ của Lương Hồng. Trong phú quý, giàu sang, thường người ta không giữ được nhân nghĩa. Ta chỉ muốn sống trong thanh bần, tự mình cày ruộng mà ăn, dệt vải mà mặc, cuộc sống đạm bạc nhưng vợ chồng luôn có nhau, tương kính nhau.
Người đời sau lấy chữ Bố kinh trong điển tích này để nói đến các bà vợ hiền thục.
(***) Ban Chiêu (45-116), tự là Huệ Ban, được xem là nữ sử gia đầu tiên của Trung Quốc. Ban Chiêu sinh năm 45 trong một gia đình Nho giáo vào thời Đông Hán, Trung Quốc cách đây hơn 2000 năm. Bà là con gái của Ban Bưu - là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc thời bấy giờ, em gái của Ban Cố - nhà sử gia nổi tiếng. Bà còn có một người anh nữa là tướng quân Ban Siêu. Ban Chiêu thường được mời vào Hoàng cung để dạy kinh sử cho hoàng hậu và các quý nhân trong cung đình. Năm 14 tuổi, Ban Chiêu gả cho Tào Thế Thúc. Vì thế nên trong triều bà cònđược gọi là Tào phu nhân. Tổ ấm của đôi vợ chồng trẻ này rất hạnh phúc, nhưng chỉ được 10 năm, Tào Thế Thức qua đời, bà thủ tiết thờ chồng. Tài khiếu viết văn của Ban Chiêu trước hết thể hiện trong quá trình giúp anh trai tên là Ban Cố viết cuốn Tiền Hán Thư… Những phần do bà soạn, từ tập 13 đến 20 (bát biểu biên niên) và tập 26 (thiên văn chí), được coi là mẫu mực cho nhiều tác phẩm lịch sử về sau. Sau khi bộ "Tiền Hán Thư" cho xuất bản,đã được sự đánh giá rất cao. Chương gay cấn nhất trong "Tiền Hán Thư" là bảng thứ 7 "Bảng bách quan công khanh" và chí thứ 6 "Thiên văn chí", hai bộ phận này về sau đều do Ban Chiêu hoàn thành.
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Vương Xương Linh (698-756)
Dịch nghĩa: Nỗi oán trong phòng khuê.
Người thiếu phụ nơi phòng khuê không biết buồn
Ngày xuân trang điểm xong, bước lên lầu biếc
Chợt thấy màu dương liễu ở đầu đường
(Liền) hối hận đã để chồng đi tòng quân để kiếm phong hầu.
Dịch thơ: Nỗi oán trong phòng khuê.
Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu
Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu.
Ngô Tất Tố dịch thơ.
Trẻ trung nàng biết chi sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu ngắm gương.
Nhác trông vẻ liễu bên đường,
Phong hầu nghĩ dại, xui chàng kiếm chi.
Tản Đà dịch thơ.
(**) Nàng Mạnh Quang: Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có viết: Đã cho vào bậc Bố kinh / Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Bố kinh là hai chữ thu ngắn, Bố quần là chiếc quần bằng vải, kinh thoa là cái trâm cài đầu bằng gai. Bố kinh lấy từ chuyện Lương Hồng, Mạnh Quang trong sách Di Uyển của Trung Quốc:
Lương Hồng là một hàn sĩ ở Giang Nam, nghèo xơ xác, hiếu học, trọng đạo đức nhân nghĩa. Nhiều người rất cảm phục nhân cách của chàng , muốn tìm cách giúp đỡ , nhưng đều bị từ chối.
Trong số này, có nhà họ Mạnh, giòng dõi nho gia, giàu có mấy đời, có tiểu thư Mạnh Quang, sắc nước khuynh thành, vương tôn công tử gần xa đều ngấp nghé. Nhà họ Mạnh chủ động muốn nhận Lương Hồng làm rể. Lương Hồng cũng nghe tiếng gia đình họ Mạnh tuy giàu có, nhưng nổi tiếng mấy đời lương thiện, nên bằng lòng kết nghĩa trăm năm với nàng Mạnh Quang.
Ngày hợp hôn, Mạnh Quang muốn làm đẹp lòng chồng, trang điểm má phấn tô son, xiêm y lộng lẫy, vàng ngọc sáng ngời. Nào ngờ, trông thấy tân nương rực rỡ như vậy, tân lang lại tiu nghỉu, suốt bảy ngày đêm ủ ê không buồn động phòng hoa chúc. Thoạt đầu, Mạnh Quang đã quá lo âu, không hiểu mình đã lời ăn tiếng nói như thế nào để chàng phải phật ý; cuối cùng thì nàng cũng nghĩ ra và đã vất bỏ hết các xiêm y, trang sức sặc sỡ đó, mà chỉ mặc quần áo vải và đầu cài thoa gai đến bên chồng. Đến đây, Lương Hồng mới bật lên mừng rỡ, ôm chầm lấy tân nương:
- Đây mới thật là vợ của Lương Hồng. Trong phú quý, giàu sang, thường người ta không giữ được nhân nghĩa. Ta chỉ muốn sống trong thanh bần, tự mình cày ruộng mà ăn, dệt vải mà mặc, cuộc sống đạm bạc nhưng vợ chồng luôn có nhau, tương kính nhau.
Người đời sau lấy chữ Bố kinh trong điển tích này để nói đến các bà vợ hiền thục.
(***) Ban Chiêu (45-116), tự là Huệ Ban, được xem là nữ sử gia đầu tiên của Trung Quốc. Ban Chiêu sinh năm 45 trong một gia đình Nho giáo vào thời Đông Hán, Trung Quốc cách đây hơn 2000 năm. Bà là con gái của Ban Bưu - là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc thời bấy giờ, em gái của Ban Cố - nhà sử gia nổi tiếng. Bà còn có một người anh nữa là tướng quân Ban Siêu. Ban Chiêu thường được mời vào Hoàng cung để dạy kinh sử cho hoàng hậu và các quý nhân trong cung đình. Năm 14 tuổi, Ban Chiêu gả cho Tào Thế Thúc. Vì thế nên trong triều bà cònđược gọi là Tào phu nhân. Tổ ấm của đôi vợ chồng trẻ này rất hạnh phúc, nhưng chỉ được 10 năm, Tào Thế Thức qua đời, bà thủ tiết thờ chồng. Tài khiếu viết văn của Ban Chiêu trước hết thể hiện trong quá trình giúp anh trai tên là Ban Cố viết cuốn Tiền Hán Thư… Những phần do bà soạn, từ tập 13 đến 20 (bát biểu biên niên) và tập 26 (thiên văn chí), được coi là mẫu mực cho nhiều tác phẩm lịch sử về sau. Sau khi bộ "Tiền Hán Thư" cho xuất bản,đã được sự đánh giá rất cao. Chương gay cấn nhất trong "Tiền Hán Thư" là bảng thứ 7 "Bảng bách quan công khanh" và chí thứ 6 "Thiên văn chí", hai bộ phận này về sau đều do Ban Chiêu hoàn thành.
(1) Lê
Anh Tuấn (1676- 1741): hiệu Địch Hiên, quê làng Thanh Mai, huyện Tiên
Phong, tỉnh Sơn Tây nay là xã Thanh Mai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
Năm Giáp Tuất
1694, ông đỗ đồng tiến sĩ, 23 tuổi, làm Tả thị lang bộ Hộ rồi làm Bồi
tụng ở phủ chúa Trịnh và hầu giảng ở tòa Kinh diên, được phong tước Điện
Thành Nam. Đến năm Canh Tý 1720, thăng Thượng thư bộ Hình, tước Điện
Quận Công, rồi vào làm Tham tụng ở phủ chúa. Ít lâu được gia thăng Thiếu bảo
kiêm Đại học sĩĐông Các (1726); thăng Thượng thư bộ Hộ, gia Thái bảo
(1730). Về sau, bị chúa Trịnh nghi kị, phải ra làm Đốc trấn Lạng Sơn và
Thái Nguyên (Nhâm Tý 1732), rồi lại bị giáng làm Thừa chánh sứ Lạng Sơn (Giáp Dần
1734). Năm Bính Thìn 1736, chúa Trịnh buộc ông phải tự tử, thọ 65 tuổi. Năm Tân
Dậu 1741, chúa Trịnh Doanh lên nối nghiệp chúa, xét lại việc cũ, truy phong lại
quan tước của ông và truy tặng Thái Bảo, thụy là Đạt Nghi.
(2) Nguyễn
Công Hãng (1680-1732): tự Thái Thanh, hiệu Tĩnh Am, người làng Phù Chẩn,
huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc, nay là thôn Phù Chẩn, xã Phù Chẩn, huyện Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Là đại thần, nhà ngoại giao và là một nhà thơ thời Lê
trung hưng. Ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh
Thìn niên hiệu Chính Hòa 21 (1700) đời Lê Hy Tông lúc mới 20 tuổi, nổi tiếng
hay chữ, làm quan tới chức thượng thư bộ Lại, hàm Thái tử thái phó, sau lại thăng
thái bảo, xếp vào hạng tá lý công thần và được cử làm chánh sứ sang nhà
Thanh tháng 4 năm 1718. Năm 1720, thăng tham tụng. Sau do Trịnh Giang nghe lời
dèm pha bèn giáng chức điều ông đi làm thừa chính sứ Tuyên Quang và bắt
phải chết. Ông có nhiều đóng góp tích cực cho chính sách cai trị của triều đình
Lê-Trịnh đầu thế kỷ 18 và là người có công chấm dứt việc "cống người
vàng" hay "nợ Liễu Thăng" của VN với triều đình phong kiến
TQ.
(3) Bia Tiến
sĩ soạn năm 1760 có ghi rõ: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 5
người, trong đó có
Đào Duy Doãn (1726-?)
người xã Chương Dương huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Chương Dương huyện Thường
Tín tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Hiến sát sứ.
(4) Đoàn
Lệnh Khương (1726 - 1800): Đoàn Lệnh Khương là nữ sĩ đời Lê Ý tông,
con gái lớn của Đoàn Doãn Luân, gọi Đoàn Thị Điểm là cô ruột. Quê xã Giai
Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Năm lên 9 tuổi cha mất, bà nhờ cô nuôi dạy
thành tài, lại cũng nhờ ông thúc tổ bên ngoại là Liên Đình Hầu Lê Hữu
Kiều (4*) bảo dưỡng cho, nên cuộc sống cũng yên ổn. Đến tuổi trưởng
thành bà nổi danh tài sắc, nhưng tình duyên dở dang.
Đến năm bà 31
tuổi, nhận lời cầu hôn của Đốc đồng Sơn Nam là Nguyễn Xuân Huy,
góa vợ, tuổi đã trên 40. Bà sinh được một gái, nhưng mới được
hai tuổi thì con mất. Rồi chỉ được non bảy năm thì chồng mất năm Canh
Thìn 1760. Từ ấy bà sống cảnh đơn côi góa bụa, lên kinh đô dạy học tại
tư gia, được xa gần gọi là Nữ học sư.
(4*) Lê Hữu
Kiều (1691-1760): là Danh thần đời Lê Dụ Tông, Có sách chép là Lê Hữu
Khánh quê xã Liêu Xá, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương nay là xã liêu xá,
huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
Ông là con thứ
10 (út) của Hoàng giáp Lê Hữu Danh, em tiến sĩ Hữu Hỷ, tiến sĩ Hữu Mưu, và là
chú ruột Y sư Lê Hữu Huân tức Lê Hữu Trác (4**).
Năm 18 tuổi,
ông đỗ hương giải một lượt với anh là Hữu Mưu. Năm 25 tuổi đỗ khoa
hoành từ, 27 tuổi (Mậu Tuất 1718) đỗ đồng tiến sĩ.
Trải làm các
chức: Giám sát ở Thanh Hóa, Hiến sát ở Kinh Bắc, Tham khổn ở Thái Nguyên và Cao
Bằng, Phó đô ngự sử tại triều, ông được sĩ phu trọng vọng vì tính khảng
khái liêm chính…
(4**) Xem: Đỗ
Ngọc Thạch: HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG THƯỢNG KINH KÝ SỰ
(5) Nguyễn Quý Đức (1646 hay 1648-1720), hiệu Đường Hiên, tự Bản Nhân, đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ đệ tam danh, khoa thi năm Bính Thìn (1676), niên hiệu Vĩnh Trị thứ nhất. Quê ở làng Thiên Mỗ (tức làng Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội ngày nay).
(5) Nguyễn Quý Đức (1646 hay 1648-1720), hiệu Đường Hiên, tự Bản Nhân, đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ đệ tam danh, khoa thi năm Bính Thìn (1676), niên hiệu Vĩnh Trị thứ nhất. Quê ở làng Thiên Mỗ (tức làng Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội ngày nay).
Sau khi đỗ
cao, ông được triều đình cử giữ chức Thiên đô ngự sử, làm chánh
sứ sang Trung Quốc (1690), rồi làm Lại bộ tả thị lang. Ông được giao trọng
trách cùng với Lê Hy soạn tiếp bộ Đại Việt sử kí bản kỉ từ đời
Lê Huyền Tông đến đời Lê Gia Tông. Năm 1708, ông được cử làm Binh bộ
thượng thư và năm 1794, được phong hàm Thiếu phó Liêm quận công. Ông đã có
công tu tạo lại Văn Miếu, Hà Nội, dựng thêm bia tiến sĩ từ năm 1667 đến năm
1716 và trực tiếp giảng dạy ở Quốc Tử Giám, đào tạo nhiều nhân tài cho đất
nước. Khi ông mất triều đình nhà Lê truy tặng tước Thái tể Đại Tư
không, Thượng trụ quốc Thượng trật, ban tên thụy là Trịnh Mục.
(6) Đặng
Trần Côn (1710…1720? - 1745?) là tác giả của Chinh phụ ngâm, kiệt tác
văn học viết bằng chữ Hán. Quê ở làng Nhân Mục (còn gọi làng Mọc), huyện Thanh
Trì, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông đỗ Hương cống,
nhưng thi Hội thì hỏng. Sau đó làm huấn đạo trường phủ, rồi tri huyện
Thanh Oai, sau thăng chức Ngự sử đài đại phu.
(7) Ngô
Thì Sĩ (1726-1780), tự: Thế Lộc, hiệu: Ngọ Phong, đạo hiệu: Nhị
Thanh cư sĩ[1]. Ông là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng ở thế kỷ 18 tại
Việt Nam; được Phan Huy Chú đánh giá là người có "học vấn sâu rộng,
văn chương hùng vĩ, làm rạng rỡ cho tông phái nho gia, là một đại gia ở
Nam Châu".
(9) Phan Huy
Chú (1782 - 1840): tên chữ là Lâm Khanh, hiệu Mai Phong, thuở nhỏ có tên
là Hạo sau đổi tên là Chú, là một danh sĩ triều nhà Nguyễn. Phan Huy Chú
sinh ra ở Thăng Long và lớn lên ở tổng Thụy Khê, huyện Yên Sơn, tỉnh Sơn
Tây (nay là thôn Thuỵ Khuê, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Ông là con trai thứ ba
của danh sĩ Phan Huy Ích người làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức
Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Năm
1787, Phan Huy Ích bỏ làm quan với nhà Lê ở Thăng Long và lên Sài Sơn (Sơn Tây) định
cư. Ông đỗ 2 lần tú tài, người đương thời gọi ông là "kép Thầy",
làm quan dưới triều vua Minh Mạng, trải qua các chức Phủ thừa tỉnh Thừa Thiên,
rồi thăng Hiệp Trấn Quảng Nam, năm Quí Tị (1833)được bổ làm Tư vụ bộ Công. Chẳng
bao lâu ông cáo bệnh xin về hưu, dạy học ở làng Thanh Mai, huyện Tiêu Phong, tỉnh
Sơn Tây.
Ông là tác giả
bộ bách khoa Lịch triều hiến chương loại chí và nhiều tác phẩm khác.
Ông được người đời suy tôn là nhà bác học trên nhiều lĩnh vực của Việt
Nam.
(10) Phạm Đình
Hổ (1768-1839) tên chữ là Tùng Niên, Bỉnh Trực, hiệu: Đông
Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ. Ông là nhà nghiên cứu, là nhà văn , nhà thơ
Việt Nam khoảng cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Về sáng tác văn học
có hai tập bút ký: Vũ trung tùy bút và Tang thương ngẫu lục (hợp
soạn với Nguyễn Án).
Xem: Mùa
Mưa Đọc Lại Vũ Trung Tùy Bút - Đỗ Ngọc Thạch.
(11) Nguyễn
Gia Thiều (1741-1798), tức Ôn Như Hầu là một nhà thơ thời Lê Hiển
Tông. Quê ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ
Kinh Bắc, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong một gia đình đại
quý tộc, có nhiều người làm tướng, làm quan cho triều đình.Cung oán ngâm
khúc hay gọi tắt là Cung oán là tác phẩm kiệt xuất của Nguyễn
Gia Thiều, được viết bằng chữ Nôm, gồm 356 câu thơ làm theo thể song
thất lục bát. Có thể nói đây là sự tiếp nối tài tình Chinh
phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm cả về hình thức và nội dung của
Thể loại Truyện thơ Nôm với thể Song thất Lục bát.
Cung oán
ngâm khúc là bài ca ai oán của người cung nữ có tài sắc, lúc đầu được
nhà vua yêu chuộng, ái ân hết sức nồng nàn thắm thiết "mây mưa mấy giọt
chung tình - đ ình trầm hương khóa một cành mẫu đơn" ,
nhưng chẳng bao lâu đã bị ruồng bỏ. Ở trong cung, nàng xót thương cho thân
phận ḿnh và oán trách nhà vua phụ bạc "chơi hoa cho rữa nhuỵ dần lại
thôi". Cung nữ khát khao muốn "đ ạp tiêu phòng mà ra" để
trở về với cảnh đời "cục mịch nhà quê" thuở trước,
nhưng nàng vẫn tiếp tục bị giam cầm trong cung đi ện vàng son, trong
nỗi buồnđau sầu thảm và oán hờn chất chứa…
Thể thơ song
thất lục bát đ ến Nguyễn Gia Thiều đã đạt tới sự toàn mỹ:
làm cho nhạc đi ệu của Cung oán ngâm khúc hết sức réo rắt bởi
sự hòa thanh của hai vần trắc ở hai câu 7 (nghe gay gắt) và sự hòa hoãn ở hai
câu 6 - 8 (nghe êm dịu hơn). Vì thế Cung oán ngâm khúc được làm ra
không phải để đọc mà là để ngâm nga.
(12) Phan Huy
Ích (1750-1822): Quê ở làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang , trấn
Nghệ An, nay là xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; tên hiệu là Dụ
Am. Năm 1771, ông đỗ đầu khoa thi hương trường thi Nghệ An. Năm 1775, đỗ
đầu khoa thi hội, ông đư ợc bổ làm Hàn lâm thừa chỉ, rồi làm Đ ốc đ ồng
tỉnh Thanh Hóa...Tháng 5 năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc, xuống chiếu cầu hiền.
Phan Huy Ích cùng Ngô Thì Nhậm… ra hợp tác với Tây Sơn. Phan Huy Ích được phong
làm Tả thị lang Bộ Hộ. Năm 1792, được thăng Thị trung ngự sử ở tòa Nội các rồi
Thượng thư bộ Lễ. Mùa hạ năm 1802, quân Nguyễn Ánh ra Bắc. Ông bị bắt cùng với
Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thế Lịch, cả ba đều bị đánh đòn trước Văn Miếu. Năm 1814
ông về quê làng Thu Hoạch dạy học và sau đó lại ra Sài Sơn an dưỡng và mất ở đó
vào năm Nhâm Ngọ (1822). Theo các nhà nghiên cứu, trong thời gian này, ông hoàn
chỉnh bản dịch Chinh phụ ngâm (tác giả Đặng Trần Côn), mà người diễn
Nôm đầu tiên là Đoàn Thị Điểm.
(13) Tư
Mã Thiên (145 TCN - 86 TCN), tên tự là Tử Trường, là tác giả bộ Sử
ký, với bộ sử đó, ông được tôn là Sử thánh, một trong Mười vị
thánh trong lịch sử Trung Quốc. Ông làm chức Thái sử lệnh rồi Trung thư lệnh, đời
nhà Hán. Sử ký là công trình sử học lớn nhất của Trung Quốc và là một
trong những quyển sử có tiếng nhất của thế giới. Đặc biệt bộ sử này còn là
một trong những tác phẩm văn học ưu tú của nhân loại. Bộ sử vĩ đại này
miêu tả tổng quát về lịch sử Trung Quốc bao trùm 2.000 năm từ Hoàng Đế đến đời
Hán Vũ Đế. Công trình này là nền tảng cho các phát triển sau này trong sử
học Trung Hoa.
(14) Xin xem: Nhà
Nho - Nhà Báo: Đỗ Ngọc Thạch.
Đỗ Ngọc Thạch
đại lý vé máy bay eva tại tphcm
vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
korean airline vietnam
vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ nhất
vé máy bay đi canada giá rẻ
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich