Trường hợp ra đời của
tạp
chí Nam Phong
“Nam Phong có
vai trò quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam, nó cũng đã gây một ảnh hưởng
rất sâu xa trong giới trí thức Việt Nam trước kia”. Thế nhưng nhận định về mục
đích ra đời, về tên gọi và việc đóng cửa của tạp chí văn học này, hiện vẫn có
tình trạng mỗi người một phách, một phán đoán riêng, có chỗ suy diễn tùy tiện,
thiếu căn cứ. Để góp một chút tư liệu cho các bạn đọc quan tâm, chúng tôi xin
giới thiệu một bài viết trên Báo chí tập san bộ 3 năm 1972 của Huỳnh
Văn Tòng. Trước khi công bố bài báo này, tác giả Huỳnh Văn Tòng đã đệ trình luận
án tiến sĩ của ông về Lịch sử báo chí Việt Nam tại Đại học Văn khoa
và Khoa học nhân văn ở Paris (Sorbone) năm 1971.
Một lần nữa nói về tạp chí Nam
Phong, có lẽ nhiều người cho là khơi lại một đề tài quá cũ. Người ta đã tốn hao
rất nhiều giấy mực để bàn về tạp chí này. Từ những cuộc bút chiến xảy ra trong
năm 1924, 1925 giữa các “học phiệt” trong nhóm Phạm Quỳnh, và các ông Nghè Ngô
Đức Kế, Phan Khôi… trên nhiều báo như Nam Phong, Hữu Thanh, Phụ nữ
tân văn… cho đến cuộc tranh luận về “Vụ án Phạm Quỳnh” của hai giáo sư Nguyễn
Văn Trung và Thanh Lãng xảy ra năm 1962 ở Sài Gòn.
Bởi vậy khi viết bài này tác
giả không dám tự so mình ngang hàng với các bậc đàn anh mà tiếp tục tranh luận
về đề tài trên. Mục đích đề cập đến trường hợp ra đời của tạp chí Nam
Phong là muốn góp phần nhỏ mọn vào việc soi sáng phần nào trên khía cạnh lịch
sử và văn học nước nhà, vì như chúng ta đều biết, tạp chí Nam Phong đã
đóng góp một vai trò quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Nó cũng đã gây ảnh
hưởng rất sâu xa trong giới trí thức Việt Nam trước kia và cả ngày nay nữa. Bằng
chứng cụ thể nhất là văn chương của tạp chí này đã được đem giảng dạy trong
chương trình Trung học và Phạm Quỳnh đã được xem như là một “ông tổ của nền văn
học nước nhà”.
Tại sao tạp chí Nam
Phong ra đời?Vì lý do gì?Và do ai chủ xướng?
Có trả lời được những câu hỏi
trên chúng ta mới có thể biết được cái sứ mạng của nó, mục đích của nó và cuối
cùng giá trị của nó trong lịch sử văn học Việt Nam.
Ở Pháp, trong những năm tìm
kiếm tư liệu cho dự án Tiến sĩ về Lịch sử báo chí Việt Nam, tác giả may mắn
tìm được vài tài liệu của Pháp nói đến tờ Nam Phong. Căn cứ vào những tài
liệu này, ta có thể hiểu được lý do tại sao tạp chí này ra đời, do ai chủ xướng
và với mục đích gì. Tất cả những tài liệu này đều là tài liệu mật, trên có ghi
“Secret et Confidentiel”, những bản báo cáo và tường trình của viên Toàn quyền
Pháp ở Đông Dương gởi cho Tổng trưởng Bộ Thuộc địa Pháp ở Paris. Đó là những
tài liệu chắc chắn và đáng tin cậy.
Căn cứ vào những tài liệu
trên thì người chủ xướng ra tờ Nam Phong là viên Toàn quyền Pháp ở
Đông Dương lúc ấy là ông Albert Sarraut và người điều khiển trực tiếp tờ báo là
Louis Marty, Trưởng phòng Chánh trị và An ninh của Chính phủ Đông Pháp.
“Một tờ báo!Một cây viết!Quả
là một sức mạnh phi thường”[1]. Đó là lời nói của Albert Sarraut trong một bài diễn văn khai
mạc buổi họp của Nghiệp đoàn Báo chí thuộc địa tại Sài Gòn ngày 8.9.1917. Là một
người rất thông minh, quỷ quyệt và có tài mỵ dân, A.Sarraut (trước khi bước vào
con đường chính trị ông ta đã là một nhà báo) đã từng là biên tập viên thường
trực cho tờ La Dépêche du Midi ở tỉnh Toulouse. Do đó, biết lợi
dụng báo chí cho mục tiêu chính trị quả không còn ai hơn viên Toàn quyền này.
Có lẽ trong những viên Toàn quyền Pháp ở Đông Dương, ông này là một nhà chính
trị khôn khéo nhất và có tài mỵ dân giỏi đến nỗi một số trí thức Việt Nam lúc bấy
giờ đã tin tưởng một cách thành thật về cái “sứ mạng cao cả của đại Pháp ở Đông
Dương”. Ở đây, tác giả không muốn nói nhiều về Albert Sarraut mà chỉ muốn trả lời
câu hỏi tại sao Albert Sarraut cho ra đời tạp chí Nam Phong. Chính điều
này mới quan trọng vì nó cho biết cái dụng ý của người Pháp trong việc xuất bản
tờ tạp chí lớn nhất và quan trọng nhất ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
- Nguyên nhân gần: đánh bại ảnh
hưởng của Đức ở Đông Dương
- Nguyên nhân xa: tách rời
các giới sĩ phu Việt Nam ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa Tàu và “Pháp hóa” giới
trí thức này để dễ bề thống trị lâu dài.
1. Nguyên nhân gần: ảnh hưởng
của Đức ở Đông Dương
Trong các sách vở và những
tài liệu về lịch sử Việt Nam ít khi thấy nói đến ảnh hưởng của Đức ở Việt Nam.
Tuy nhiên, đây là một điều có thực và nó đã xảy ra trước và trong lúc chiến
tranh Âu châu 1914 - 1918. Có những tờ báo Pháp lúc ấy đã nói đến việc Pháp sắp
sửa nhượng Đông Dương cho Đức như tờ Les Annales Conloniales (ở
Pháp), tờ Humanité Indochinoise, Opinion (ở Việt Nam).
Có hai loại ảnh hưởng Đức ở
Việt Nam: ảnh hưởng trực tiếp và ảnh hưởng gián tiếp.
a.Ảnh hưởng gián tiếp: Chính
sách ảnh hưởng gián tiếp này của Đức ở Đông Dương đã làm cho Albert Sarraut lo
lắng nhiều nhất. Đó là một lối ảnh hưởng qua sự trung gian của các sách báo
Trung Hoa lúc bấy giờ tràn sang Việt Nam, phần lớn là các sách báo do các nhà cải
cách Trung Hoa viết như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu...v.v… Trong những sách
báo này, các tác giả thường hay ca tụng nền văn minh Đức và chê bai người Pháp.
Chính điều này đã làm cho Albert Sarraut lo sợ các giới sĩ phu Việt Nam lúc bấy
giờ sẽ chịu ảnh hưởng của các loại sách báo trên mà đâm ra chống Pháp.
Trong bản báo cáo của Albert
Sarraut gởi cho Tổng trưởng Bộ thuộc địa Pháp (sau ngày ấn hành tờ Nam
Phong) ngày 15.9.1917 có viết: “Trước ngày tuyên chiến (19.4.1918), nhu cầu tạo
nên một dư luận quần chúng bản xứ nhờ vào một chính sách tuyên truyền có phương
pháp và thường xuyên của kẻ địch (ám chỉ Đức) đã gây ra từ nhiều năm nay một sự
tiến hành rất quan trọng ở Viễn Đông và chính sách tuyên truyền lừa phỉnh của
chúng đã được phổ biến một cách sâu rộng trong các giới trí thức An Nam qua sự
trung gian của chữ Hán… Những hoạt động lâu dài này của kẻ thù đã thành công
trong việc chống lại chúng ta trong các giới Á châu và nó đã tạo ra khuynh hướng
thân Đức.”
Qua những nhận xét trên,
Albert Sarraut muốn nói đến những sách vở bấy giờ do các nhà cải cách Trung Hoa
viết có tính cách ca tụng Đức và chê bai người Pháp. Trong các loại sách trên,
ta ít khi thấy những loại nói đến nền văn minh Pháp. Trái lại, có những nhà xuất
bản đã cho phát hành rất nhiều sách đủ loại, dịch từ các sách Đức hoặc Anh.
Theo dư luận thông thường nhất của những tác giả các loại sách này thì nước
Pháp là một quốc gia cổ kính, có một quá khứ xa xăm xán lạn nhưng nền văn minh
Pháp đã đứng lại từ sau cuộc Cách mạng 1789 và từ đó quốc gia này không ngừng
sa sút và suy đồi. Các loại sách này không bao giờ nói đến những phát minh khoa
học hay phát triển kinh tế của Pháp vào thế kỉ 19, trong khi đó thì các tác giả
trên lại ca tụng người Đức và coi người Đức như những người đầu tiên đã phát
minh ra khoa học và làm cho nhân loại tiến bộ.
Một trong những tác phẩm
quan trọng và được biết đến nhiều nhất trong giới sĩ phu Việt Nam bấy giờ là những
tác phẩm của Khang Hữu Vi, trong ấy ông kể lại cuộc du hành của ông qua các nước
Âu châu năm 1900. Ông viết tất cả 11 quyển nói về một nước mà ông có dịp đi
qua.
Đọc qua những tác phẩm của
Khang Hữu Vi, Albert Sarraut phải tức giận và hằn học, ông ta không ngần ngại
gán cho Khang Hữu Vi là “một tên mật vụ rất đắc lực của Đức ở Trung Hoa”. Ông
ta nói: “Những điều mà Khang Hữu Vi nói về Pháp chỉ là những lời chỉ trích và
vu không thậm tệ mà từ 18 năm nay chưa thấy ai viết ở Trung Hoa. Chính cái tên
Khang Hữu Vi này đã liên kết với tướng Trung Hoa Tchang Hiun trong việc muốn phục
hưng chế độ quân chủ tại Bắc Kinh ngày 1.7.1916 vừa qua. Và này nay ai cũng đều
biết là cái dự định phục hưng ấy đã được Đức khuyến khích giúp đỡ tài chính”
Để hiểu rõ hơn về thái độ
thân Đức và chống Pháp của Khang Hữu Vi, xin trích ra đây một đoạn trong tác phẩm
của ông nói về Pháp:
“…Pari không được sạch sẽ
như Berlin và New York.
“Từ Are de Triomphe đến Viện
bảo tàng Louvre chỉ là một nơi du hý và ăn uống… Đàn ông và đàn bà ăn chơi phè
phỡn suốt ngày đêm.
“Nguồn lợi của thành phố
Pari chỉ thu hoạch được nhờ những nơi du hý và các nhà chứa… Số phụ nữ làm nghề
mãi dâm, theo con số chính thức có đến 15.000 người chưa kể những người khác
chưa biết đến. Đàn bà con gái ăn mặc đẹp, họ là những bà hoàng của châu Âu.
“Ngoài những bảo tàng viện
và tháp Eiffel, ở Pari không có gì đáng ngắm cả… Người Pari rất xảo quyệt và dối
trá. Khoa học và nghệ thuật Pháp rất thấp kém so với khoa học và nghệ thuật Đức
và Anh.
“Người Pháp rất thích xa
hoa, làm biếng và khó có thể làm cho nước họ trở thành một cường quốc.
“Các nhà trí thức thì hay
tranh luận một cách vô ích về vấn đề triết học…. Người dân thì thích vui đùa
chè chén và chưng diện quần áo tốt. Họ ham xem hát, lười biếng, ham se sua; với
những đặc tính nầy, họ không thể nào làm cho quốc gia họ trở nên một cường quốc
được. Họ đã thiết lập nền cộng hòa nhưng hoàn toàn quên hẳn ý nghĩa bình đẳng...;
họ thường hay bấu víu lấy cái thời vàng son ngày trước, mỗi người mỗi ý, nhiều
Đảng chính trị đối lập… Bởi vậy cho nên từ 100 năm nay, nhiều cuộc cách mạng đã
xảy ra… Và bao nhiêu xương máu đã đổ ra một cách vô ích. Họ rất dễ vui mà cũng
rất dễ giận. Đó là đặc tính của những người dã man. Người Pháp rất thích say
sưa rượu chè. Tôi đã thấy người Âu châu và người Mỹ say rượu như thế nào rồi.
Ban đêm họ nằm dài trên đường, làm ồn ào cả thành phố; về đến nhà, họ chửi bới
đánh đập vợ con có khi đến chết…. Thợ thuyền kiếm được bao nhiêu tiền đều đem
đi uống rượu hết, chính điều này đã đưa đến sự xa xỉ và sát nhân…
“Canh nông của Pháp cũng thấp
kém so với Anh. Nước Pháp không thể so sánh được với Anh và Đức.
“Chính vì lí do trên mà nước
Pháp không thể tiến bộ được….”[2]
Sự du nhập ảnh hưởng của Đức
vào Việt Nam qua sách vở Trung Quốc đã đóng một vai trò quan trọng trong các giới
sĩ phu của ta lúc bấy giờ. Vì muốn hiểu biết các nước Âu châu các nhà trí thức
Việt Nam bây giờ không có tài liệu nào ngoài những tác phẩm của Khang Hữu Vi;
đó là những tài liệu độc nhất viết bằng chữ Hán mà họ có thể đọc được. Và ảnh
hưởng của những quyển sách trên có một tầm quan trọng, mà theo A.Sarraut, là sự
phát hiện những phong trào chống Pháp trên toàn quốc bấy giờ mà tiêu biểu là vụ
một trái bom nổ tại khách sạn Hanoi Hotel do Quang phục Hội của Phan Bội Châu tổ
chức làm chết mấy sĩ quan Pháp. Và tờ Đông Dương tạp chí của Nguyễn
Văn Vĩnh trong số đầu (15.5.1913) đã tỏ ra rất thương xót những người đã “hy
sinh cho xứ An Nam này” và không tiếc lời nguyền rủa “những tên hủ Nho làm loạn
dám chống lại nước đại Pháp.”
A.Sarraut viết tiếp:
Gần đây, một trong những cộng
sự viên của tôi khi viếng thăm các tỉnh miền Bắc xứ An Nam đã nhận thấy rằng những
tác phẩm ngoại quốc phổ biến ở đây đều không đả động gì đến nước Pháp hoặc có
nhiều phán đoán không được tốt đẹp về nước Pháp. Các tác phẩm của Khang Hữu Vi
tiếp tục được phổ biến và lưu hành trong xứ bất chấp cả sự cấm đoán của chính
phủ về việc nhập cảng tất cả các loại sách Trung Hoa…”
Trên đây là ảnh hưởng gián
tiếp của Đức ở Đông Dương qua trung gian các sách vở Trung Hoa trong những năm
trước chiến tranh 1914 - 1918. Tuy nhiên, trong những năm chiến tranh, ta thấy
sự can thiệp của Đức càng rõ rệt hơn. Đó là sự can thiệp trực tiếp của Đức ở Việt
Nam.
b.Sự can thiệp trực tiếp của
Đức ở Việt Nam dưới hình thức các loại ấn phẩm: Chính sách tuyên truyền của Đức
ở Việt Nam, ngoài những sách báo Trung Hoa còn có một số ấn phẩm khác hoàn toàn
có tính cách chống Pháp và thân Đức. Những ấn phẩm này đã lan tràn từ Bắc chí
Nam. Mùa hè năm 1915, nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ đã khám phá ra được, trong
một cửa hàng người Trung Hoa ở Chợ Lớn những bích chương của Đức.
Những bích chương này “đã được
phát hành hàng triệu tờ nói về những nhà sáng lập ra đế quốc Pháp năm 1814 -
1815…., và hoàn toàn không đả động gì đến cái hay cái tốt của người Pháp và lịch
sử oai hùng của nước này. Đó là một cách tuyên truyền khéo léo và thâm độc, muốn
chống lại nó chỉ có một cách là phản tuyên truyền.”[3]
Dưới hình thức giúp đỡ tài
chính và quân sự: Ngoài hình thức tuyên truyền bằng sách báo và những ấn phẩm
khác người Đức còn can thiệp trực tiếp vào Đông Dương bằng viện trợ quân sự và
tài chánh cho các nhà cách mạng Việt Nam đương thời để chống lại Pháp.
Viên lãnh sự Pháp ở Quảng
Đông đã điện cho viên Toàn quyền Đông Pháp biết rằng có nhiều “nhóm phản loạn”,
được các Lãnh sự Đức ở đây cung cấp khí giới, đóng binh tại các vùng biên giới
Trung Việt, miền Lạng Sơn và Cao Bằng”[4].
Mặt khác, Đức đã hứa cung cấp
tiền cho Phan Bội Châu để mua khí giới của một nhóm người Nhật và thỏa thuận bí
mật tải các khí giới đạn dược này đến biên giới Hoa Việt[5]. Một người Trung Hoa tên là Wou Sao Lun, mật vụ của Đức, đã
nhiều lần làm trung gian cho những cuộc gặp gỡ giữa nước Đức và Phan Bội Châu ở
công viên Lao Man Tcho (Khu Shei Wou). Những cuộc gặp gỡ rất thường xuyên như vậy
đã xảy ra[6]. Ngoài ra Cường Để, qua sự trung gian của một người bạn Trung
Hoa, đã gặp gỡ nhiều lần viên Lãnh sự Đức ở Quảng Đông. Người ta còn nói đến một
cuộc xuất ngoại của Cường Để sang Berlin. Nhưng tin này đã được sở mật vụ Pháp ở
Hồng Kông cải chính.
Các sự kiện trên cho thấy ảnh
hưởng quan trọng của sự tuyên truyền Đức ở Đông Dương và điều này đã làm mất ăn
mất ngủ chính phủ Đông Dương lúc bấy giờ, đặc biệt là A.Sarraut. Tuy nhiên, trước
những tấn công ồ ạt của Đức (dưới mọi hình thức văn hóa, quân sự, tài chính….)
chính phủ Đông Dương hồi đó lại không chú trọng đến những sách vở và báo chí cần
thiết cho một cuộc phản tuyên truyền. Báo chí xuất bản bằng tiếng Việt hay chữ
Hán đều rất ít và rất đơn sơ, do đó, không thể đóng một vai trò hữu ích và đắc
lực cho chính quyền Pháp trong việc phản công lại chính sách tuyên truyền của Đức.
Ở Hà Nội, lúc bấy giờ chỉ có ba tờ Đại Nam đồng văn nhật báo, Đăng cổ tùng
báo, Đại Việt tạp chí. Ở Sài Gòn chỉ có vài tờ viết bằng tiếng Việt, nhưng hoàn
toàn có tính cách địa phương.
Chính trong hoàn cảnh này mà
chính phủ Đông Pháp có sáng kiến cho ra đời một số báo chí ngoài Bắc cũng như
trong Nam hầu phản công một cách ráo riết và có hệ thống trước sự tuyên truyền
của Đức và trước sự chống đối của các sĩ phu Việt Nam. Ảnh hưởng mạnh nhất
trong sự tuyên truyền của Đức là bêu xấu người Pháp, nền văn minh Pháp trong
các giới sĩ phu Việt Nam (qua sự trung gian của các sách vở Trung Hoa như đã
nói ở trên). Do đó, chính phủ Đông Pháp lúc bấy giờ, hay đúng ra, A.Sarraut đã
có hai biện pháp để chặn đứng phong trào “bêu xấu” nước Pháp trong giới sĩ phu
Việt Nam:
- Tán tụng và cơ ngợi người
Pháp
- Tách rời họ ra khỏi ảnh hưởng
Trung Hoa và “Pháp hóa” những thành phần ưu tú của xã hội Việt Nam
Nói tóm lại, A.Sarraut muốn
tạo ở nơi những nhà trí thức Việt Nam một thứ huyền thoại độc tôn về nền văn
minh Pháp và gây nên một thứ mặc cảm tự ti trong nhóm người này hầu phục vụ cho
một chính sách thống trị lâu dài của Pháp ở Việt Nam. Theo A.Sarraut, có nắm được
bọn sĩ phu Việt Nam, có dẫn dụ được những thành phần ưu tú này của xã hội Việt
Nam qua sự trung gian của những thành phần trí thức hợp tác.
Đối với A.Sarraut, để đạt được
mục đích trên, không có gì hay hơn là một chính sách tuyên truyền bằng báo chí.
Chính vì vậy mà dưới thời A.Sarraut có một số báo chí bằng tiếng Việt được ra đời.
Theo tờ Đại Việt tạp chí (số 3 tháng 3.1918), A.Sarraut cho phát hành,
ngoài hai tờ Đông Dương và Nam Phong ở Bắc, sáu tờ trong
Nam: Nam Trung nhật báo, An Hà nhật báo, Đại Việt tạp chí, Nữ giới chung,
Đèn nhà Nam, Quốc dân diễn đàn. Trong những tờ báo trên, hầu hết những tờ xuất
bản trong Nam đều nhằm vào chính sách ngắn hạn của A.Sarraut: thông tin và
tuyên truyền chống Đức. Còn hai tờ Đông Dương và Nam Phong ở
Bắc thì nhằm vào chính sách dài hạn: ca tụng người Pháp cốt để Pháp hóa các nhà
trí thức Việt Nam bấy giờ. Trong hai tờ này thì chỉ có tờ Nam Phong là
nổi bật hơn cả vì nó đã được chính phủ trực tiếp điều khiển. Còn tờ Đông
Dương thì không được cái hân hạnh sống lâu để đóng vai trò tán dương đại
Pháp như tờ Nam Phong của Phạm Quỳnh vì chủ bút, ông Nguyễn Văn Vĩnh,
tuy là một nhà báo có tài nhưng lại là một chính khách vụng về cho nên tạp chí
của ông đành chết yểu.
Với ý định muốn chinh phục
giới sĩ phu Việt Nam, “chính phủ Đông Pháp mới có sáng kiến thành lập một tạp
chí bằng tiếng bản xứ cho người An Nam để giáo dục và tuyên truyền, tức là mục
tiêu mà chúng ta phải theo”.
A.Sarraut viết tiếp: “Việc
thành lập tạp chí này, mà ban biên tập đã được giao phó cho những nhà trí thức
danh tiếng trong nước, đã được sửa soạn từ nhiều tháng trước, vì không những phải
gom góp các vật liệu trước mà còn phải đợi nhà in tìm mua máy móc và làm những
thứ chữ cần thiệt cho việc in tiếng quốc ngữ”[7].
Một khi vật liệu và máy móc
xong xuôi, “văn phòng chính trị và an ninh được phép, do nghị định ngày
30.12.1916, xuất bản một tạp chí giáo dục và tuyên truyền hầu phổ biến trong giới
trí thức An Nam”[8].
Tạp chí Nam Phong ra
đời[9], A.Sarraut giao cho Louis Marty trọng trách điều khiển. Tất cả
những bài vở trước khi in đều phải qua sự kiểm duyệt và chấp nhận của L.Marty.
Mục đích chính của tạp chí
cũng đã được A.Sarraut nói rõ trong bản tường trình của ông gởi cho Tổng trưởng
Thuộc địa Pháp ngày 15.9.1917:
“Mục đích của tạp chí này là
cung cấp cho giai cấp sĩ phu và trí thức An Nam những bài chính xác ngõ hầu họ
quan niệm được cái vai trò của nước Pháp trên thế giới về phương diện văn hóa,
khoa học và kinh tế. Tạp chí mới này, lấy tên là Nam Phong, sẽ đăng những
bài phân tích chính xác về những tác phẩm khoa học và văn chương hay nhất, tiểu
sử những nhà bác học danh tiếng nhất của chúng ta, những sự mô tả đẹp đẽ về nước
Pháp, những bài phiên dịch những truyện ngắn hay tiểu thuyết…. Ngay sau khi
phát hành, tạp chí này đã hoàn toàn thành công trong giới độc giả trí thức mà
nó muốn chinh phục và nhóm người này lần đầu tiên đã tìm thấy được một cái gì
tương đương với những sách vở mà họ đã gởi mua từ bên Tàu trước đây…”
Mặt khác, riêng việc L.Marty
chọn cái tên Nam Phong cho tờ báo (chắc chắn có sự tham dự ý kiến của
Phạm Quỳnh) cũng cho ta thấy rõ dụng ý khi cho ra đời tạp chí này. Theo L.Marty [10], sáng lập viên chính thức của tờ báo này, thì cái tên Nam
Phong được bắt nguồn từ một bài thơ cổ danh tiếng Trung Hoa được làm ra dưới
thời vua Thuấn (2255 trước Thiên chúa). Sau đây là bản dịch bằng tiếng Pháp của
L.Marty:
Les tièdes effluves du Vent
du midi
Dissipent les chagrins de
mon peuple
La saison deu Vent du midi
Accoit la richesse de mon
peuple!
Theo L.Marty, cái “ngọn gió
Nam” này đã được xoay chuyển sắp xếp theo những ảnh hưởng tốt nhất. Một trong
những đề mục thích hợp nhất cho tạp chí này nằm trong sự đối kháng của nền văn
minh Hy lạp chống lại nền văn minh của các nước Đức, chính hai chữ Nam
Phong là một ám chỉ rất thích hợp cho mục đích của nó. Đằng khác, như đã
nói, tạp chí này được đưa ra để nâng cao trình độ tinh thần và trí thức của dân
An Nam, từ đó người ta có thể tìm thấy ngay trong cái tên của tạp chí ngụ ý của
mục đích thứ hai: vì chữ “Nam” là chữ tắt của An Nam, nó có cái nghĩa bóng là
“ngọn gió tái tạo xứ An Nam” [11].
Như vậy mục đích của tờ Nam
Phong đã rõ. Nó là một dụng cụ cho bộ máy tuyên truyền của chính phủ Pháp;
nó có mục đích là tôn trọng, ca ngợi người Pháp, chống lại sự bêu xấu của Đức
qua các sách báo Trung Hoa ở Việt Nam. Chính vì vậy mà chúng ta không lấy gì
làm ngạc nhiên khi đọc trên bìa tờ Nam Phong những câu như: la France
devant le monde; son rôle dans la guerre des Nations… Và bìa sau của tờ báo với
hình “rồng Nam phun lửa diệt Đức tặc”. Và chúng ta có thể đọc trong Nam
Phong những bài viết về chiến tranh (1914-1918) với một giọng căm thù Đức
rất hăng say của ký giả Tuyết Huy: “Vái Trời phù hộ mẹ nuôi ta, mau mau giết hết
lũ yêu ma, mà vun lại mầm dân tộc” (Nam Phong, số 2).
2. Nguyên nhân sâu xa: Pháp
hóa giới trí thức Việt Nam
Ngoài việc chống Đức, Nam
Phong còn nhắm một chính sách dài hạn. Chính trong địa hạt này Nam
Phong đã đóng một vai trò rất quan trọng, vai trò ca tụng và tán dương nền
văn minh Pháp bị bêu xấu bởi sự tuyên truyền của Đức ở Việt Nam nhất là trong
các giới trí thức mà từ xưa nay chỉ biết có nền văn minh Trung Hoa mặc dù có sự
hiện diện của người Pháp là những kẻ chinh phục mới ở ngay trước mắt họ. Vì vậy,
tạp chí Nam Phong có cái sứ mạng là giới thiệu nền văn minh Pháp trước
nhân dân Việt Nam, nhất là với các sĩ phu Việt Nam bấy giờ; “Pháp hóa” những
thành phần ưu tú này của xã hội Việt Nam ngõ hầu dễ bề thống trị lâu dài trên
bán đảo Đông Dương. Chính L.Marty cũng xác nhận mục đích này của tờ Nam
Phong: “Tạp chí, có cái tên Nam Phong, được xuất bản hai thứ tiếng, chữ An
Nam và chữ Tàu. Nó nhắm mục đích phổ biến một cách sâu xa trong giới trí thức
An Nam và cái tầm hoạt động của nó còn lan rộng trong giới kiều dân Trung Hoa ở
Đông Dương và các tỉnh Trung Hoa gần biên giới Hoa Việt”[12].
Chính vì cái vai trò quan trọng
của nó mà A.Sarraut mới giao phó cho L.Marty đảm nhiệm, và tờ báo được lãnh phụ
cấp của chính phủ mỗi tháng là 400$, một số tiền rất lớn thời bấy giờ[13].
Đến khi viên chủ bút của nó
là ông Phạm Quỳnh được bổ nhiệm ra làm quan ở Huế, tờ báo vắng chủ, không tiền
phụ cấp nên đành đóng cửa. Đọc Nam Phong, số cuối cùng ra ngày 15.8.1934,
ta thấy những dòng sau đây bằng tiếng Pháp: “Ông bạn Hán Thu (Nguyễn Tiến Lãng)
đã cố gắng làm trẻ lại cơ quan của chúng tôi, nhưng vì sự khó khăn về ngân
sách, chính phủ không còn giúp đỡ chúng tôi nữa… Một tạp chí văn học sống nhờ
vào sự giúp đỡ của các Mạnh Thường Quân. Đông Pháp không còn là Mạnh Thường
Quân của chúng tôi nữa. Chúng tôi đành phải tự bay bằng đôi cánh riêng của
chúng tôi vậy”.
Theo những sự kiện mà tôi đã
trình bày ở trên, chúng ta biết tại sao, trong trường hợp nào tờ Nam Phong ra
đời và thâm ý chính trị của người Pháp trong khi cho phát hành tờ tạp chí văn học
này. Như vậy, chúng ta có thể nói rằng văn học của tạp chí Nam Phong là
một thứ văn học nhằm phục vụ cho mục đích chính trị của Pháp, vì nguyên do ra đời
của nó là một dụng ý chính trị, do đó mục tiêu cuối cùng của nó là một dụng ý
chính trị. Chúng ta không thể nào phán xét văn học của tạp chí Nam Phong một
cách riêng rẽ, một thứ văn học thuần túy và coi như không có liên quan gì đến
chính trị. Một sự nhận xét như thế là sai lầm và chủ quan, và dĩ nhiên là chúng
ta không khỏi rơi vào bẫy của chính sách tuyên truyền văn hóa của thực dân
Pháp.
Kết luận bài này, để nói lên
cái giá trị và địa vị của tờ Nam Phong trong lịch sử và văn học nước
nhà, tôi xin trích ra đây một đoạn nói về Nam Phongđăng trong báo Phụ
nữ tân văn (số 273, Paaques 1935), mà theo tôi không có gì xác đáng hơn
trong sự đánh giá đúng mức cái vai trò của tạp chí Nam Phong và của
ông Phạm Quỳnh mà một vài trí thức Việt Nam vẫn còn chiêm ngưỡng: “Cái tinh thần
của một người ăn vận quốc phục và cư xử như một giáo sĩ của đạo Nho truyền nhiễm
khắp Nam Phong thật là tẻ ngắt, thật là nông nổi, thật là hèn. Ông Phạm
Quỳnh hay khen, mà chỉ khen người có tiền của thế lực, đại khái như khen ông Bạch
Thái Bưởi. Chính cái tinh thần thấp hèn ấy là yếu tố cho một thứ văn học mà ta
có thể gọi là văn học Nam Phong. Học trò ở các trường Tiểu học phải đọc những
bài văn trích ở Nam Phong thiệt là một sự bất hạnh. Công chúng không
bao giờ mến ông Phạm Quỳnh, nhưng Nam Phong có lý tài vững vàng để xuất
bản thường xuyên và được quan quyền ủng hộ thì thế nào nó cũng có ảnh hưởng
trong hàng trí thức. Ảnh hưởng ấy là một cái ảnh hưởng rất xâu xa, cái văn học
hàng phục đã dẫn dụ một số người trí thức cúi đầu mà nhận hết thảy những sự bất
bình ở trong xã hội…Nam Phong đã ảnh hưởng sâu xa đến một số người viết
báo và văn sĩ, thứ nhất là những người sơ học chỉ nhờ đọc quốc văn mà biết văn
học, triết học. Vì thiếu phổ biến học thức, vì không am hiểu Pháp văn, thành ra
nhiều văn sĩ phải học trong Nam Phong các môn học thức phổ thông, và
nhân đó mà bị cảm nhiễm cái tinh thần nô lệ của nó. Cho đến nỗi nhiều nhà chủ
trương rằng nên đánh đổ ý kiến chính trị của ông Phạm Quỳnh mà yêu cái tài văn
chương của ông! Đó là một sự lầm lạc to tát: Tất cả ý kiến văn học, triết học,
xã hội, chính trị của ông Phạm Quỳnh làm thành một cái thống hệ, mà cái thống hệ
đó chỉ là cái chủ nghĩa khuất phục của một người muốn nhờ cây bút đưa đến chỗ
giàu sang….”.
Báo chí tập san bộ 3
năm 1972
Trường An sưu tầm và giới
thiệu
[1] “Un joural!Un plume!Quel prodigieux levier de foce!”
[2] Trích trong bản tường trình của Piri, nhân viên trường Viễn
đông Bác Cổ gởi cho Toàn quyền Pháp đề ngày 3.2.1911
[3] Bản báo cáo của Toàn quyền Đông Dương gởi cho Tổng trưởng
Bộ Thuộc địa đề ngày 21.12.1916
[4] Công điện mật của Toàn quyền Đông Dương gửi cho Tổng trưởng
Bộ Thuộc địa Pháp đề ngày 29.1.1916
[5] Công điện mật ngày 15.3.1915 của Lãnh sự Pháp ở Hồng Kông
gửi Toàn quyền Đông Dương
[6] Đã trích dẫn
[7] A.Sarraut, đã trích dẫn…
[8] Báo cáo của L.Marty gởi A.Sarraut về tờ Nam Phong,
22.8.1917
[9] Trước tờ Nam Phong, A.Sarraut có giao cho hai ông Phạm
Quỳnh và Nguyễn Bá Trạc làm một tờ báo tên là Âu châu chiến sử, viết bằng
chữ Hán và được gởi sang phổ biến bên Trung Hoa
[10] Bản báo cáo của L.Marty gởi A.Sarraut, Hà Nội ngày
22.8.1917.
[11] L.Marty, đã trích dẫn
[12] L.Marty, đã trích dẫn
[13] Đã trích dẫn.
eva air ticket
vé máy bay đi mỹ bao nhiêu tiền
korean air ho chi minh
mua vé máy bay đi mỹ ở đâu
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich