Thứ Hai, 31 tháng 10, 2016

Thêm một dị bản bài ca dao “Tát nước đầu đình”

Thêm một dị bản bài ca dao “Tát nước đầu đình”
Tát nước đầu đình là một bài Ca dao nổi tiếng của nền văn học dân gian Việt Nam, đã được lưu truyền rộng rãi ở hầu khắp mọi làng quê. Quá trình lưu truyền đó đã làm xuất hiện một số dị bản. Mới đây trong chuyến đi thực tế ở Đồng Xuân (tỉnh Phú Yên), chúng tôi đã sưu tầm được một bản Tát nước đầu đình, xin được giới thiệu cùng độc giả: 
Áo anh rách lỗ bàn sàng 
Cậy nàng mua vải vá quàng cho anh 
Vá rồi anh trả tiền công 
Đến lúc lấy chồng anh giúp của cho:
Giúp cho một quả xôi vò,

Một con heo béo, một vò rượu tǎm.

Giúp cho chiếc chiếu nàng nằm,
Đôi áo nàng bận đôi vòng nàng đeo.
Giúp cho quan mốt tiền cheo,
Quan nǎm tiền cưới, lại đèo bông tai 

Giúp cho một rổ lá gai 
Một cân nghệ bột với hai tô mè 
Giúp cho năm bảy lạng chè 
Cái ấm sắc thuốc cái bồ đựng than 
Giúp cho đứa nữa nuôi nàng 
Mai ngày trọn tháng cho chàng tới lui…
Điều dễ dàng nhận thấy bài ca dao nói trên có những dấu hiệu gần gũi với bài Tát nước đầu đình (Bản hiện hành do Vũ Ngọc Phan sưu tầm và giới thiệu). Biểu hiện rõ nhất là nội dung cảm hứng và kết cấu bài ca. Cả hai đều là ca dao tình yêu, xây dựng lời tỏ tình của chàng trai trên nền kết cấu “áo rách – nhờ khâu (vá) – trả công”Điểm giống nhau nầy rất căn bản cho ta xác lập mối liên hệ mật thiết giữa bài ca dao vùng đồng bằng Bắc Bộ với bài ca dao Đồng Xuân. Chắc chắn trong quá trình mở rộng địa bàn tồn tại bài ca dao Tát nước đầu đình đã được người dân Đồng Xuân tiếp nhận trên tinh thần địa phương hóa. Và do vậy bên cạnh việc giữ lại nét căn bản của bài ca, người dân Đồng Xuân đã có những sang tạo nhất định khiến cho bài ca có những điểm tương đồng (như vừa nêu) vừa có những dị biệt. Theo chúng tôi, sự khác nhau  giữa hai bài ca thể hiện ở ba điểm sau: 
Thứ nhất, bài ca dao Đồng Xuân không dùng lối nói đưa đẩy, bóng gió như ta đã thấy ở bài Tát nước đầu đình điều nầy có lý do của nó: người dân miền Trung vốn “ăn ngay nói thẳng”, không thích loanh quanh, vòng vèo. Lối đặt vấn đề trực tiếp là nguyên nhân dẫn tới việc lược bỏ 6 câu đầu. Do đó câu 1 của bài ca dao Đồng Xuân tương đương với câu 7 bài Tát nước đầu đình chính bản
Thứ hai, bài ca dao Đồng Xuân không chỉ đề cập tới nội dung “giúp của” phục vụ cho hôn lễ mà còn chú ý đến những việc làm sau hôn nhân. Sáu câu cuối bài mang một nội dung hoàn tòn mới so với bài Tát nước đầu đình. Ở đây việc mở rộng kết cấu có tác dụng nâng giá trị bài ca lên một bước mới, giúp người đọc có một sự nhìn đầy đủ về tính cách chủ thể trữ tình: thẳng thắn và chu đáo. 
Thứ ba, bài ca dao Đồng Xuân cũng có những điểm khác biệt so với bản Tát nước đầu đình  về mặt ngôn ngữ và chi tiết. Chẳng hạn, bản Đồng Xuân không nói “lợn” mà nói “heo” không nói “khâu” mà nói vá, không nói “giúp đôi chăn” mà nói “giúp đôi áo” … Điều nầy do sự quy định của phương ngữ  và điều kiện tự nhiên – sinh hoạt của mỗi vùng đất.
Những khác biệt nói trên giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường màu sắc địa phương cho bài ca. Ở đây có thể nói, quá trình hình thành dị bản Tát nước đầu đình diễn ra theo con đường địa phương . Nhờ vậy, trên nền cảm hứng chung, những dị bản phản ảnh được nếp cảm, nếp nghĩ của con người từng vùng đất khác nhau 
Cũng xin nói thêm, bài ca dao Đồng Xuân có sự gần gũi hơn so với bài ca dao phát hiện ở Bình Định năm 1986:
Tát Nước Đầu Đình (Bản Bình Định)
Áo anh đã rách hai tay 
Cậy nàng so chỉ và may cho cùng 
Vá rồi anh trả tiền công 
Mai mốt lấy chồng anh giúp của cho
Giúp cho quan mốt tiền cheo,

Quan nǎm tiền cưới, lại đeo mâm chè 

Giúp cho nửa dạ hột mè 
Nửa ang tiêu sọ, nửa ghè muối khô 
Giúp cho cái ấm cái ô 
Cái niêu sắc thuốc cái bồ đựng than 
Anh giúp cho một đứa nuôi nàng 
Lâu ngày chẵn tháng rồi chàng tới thăm…
Biểu hiện rõ nhất là ở cách tổ chức kết cấu bài ca. Điều nầy cũng dễ hiểu vì Bình Định và Phú Yên cùng chung một vùng văn hóa  - địa lý, con người vì thế có những tương đồng. Rất có thể, bản Đồng Xuân chính đã được tạo ra trên cơ sở bản Bình Định. 
Bài viết  chỉ nhằm mục đích giới thiệu một dị bản mới của Tát nước đầu đình. Người viết không đặt nhiệm vụ phân tích kỹ và sâu. Ở đây chỉ xin được nhấn mạnh: Những tác phẩm dân gian có giá trị bao giờ cũng mở ra được những chân trời sáng tạo mới. 
Hai bài ca dao Tát nước đầu đình

Bản dân gian
Hôm qua tát nước 
đầu đình
Bỏ quên cái áo 
trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,

Hay là em để 

làm tin trong nhà.
Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, 
mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy
về khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ trả công,
Đến khi lấy chồng 
anh sẽ giúp cho.
Giúp cho một thúng sôi vò,
 Một con lợn béo, 
một vò rượu tăm.
Giúp cho đôi chiếu 
em nằm,
Đôi chăn em đắp, 
đôi trằm em đeo.
Giúp cho quan tám 
tiền cheo,
Quan năm tiền cưới 
lại đèo buồng cau.



Bản Đồng Xuân
Áo anh rách lỗ bàn sàng
Cậy nàng mua vải 
vá quàng cho anh
Vá rồi anh trả tiền công
Đến lúc lấy chồng 
anh giúp của cho:
Giúp cho một quả xôi vò,

Một con heo béo, 

một vò rượu tǎm.
Giúp cho chiếc chiếu 
nàng nằm,
Đôi áo nàng bận 
đôi vòng nàng đeo.
Giúp cho quan mốt 
tiền cheo,
Quan nǎm tiền cưới, 
lại đèo bông tai

Giúp cho một rổ lá gai
Một cân nghệ bột 
với hai tô mè
Giúp cho năm bảy 
lạng chè
Cái ấm sắc thuốc 
cái bồ đựng than
Giúp cho đứa nữa 
nuôi nàng
Mai ngày trọn tháng
 cho chàng tới lui…
 Lê Nhật Ký
ĐHSP Qui Nhơn
Theo http://www.maxreading.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Se sắt vùng cao  Với giọng văn nhẹ nhàng, hiền lành, mộc mạc, đậm chất thơ và có phần trầm buồn nhưng gợi mở nhiều suy ngẫm, truyện của ...