Xin để yên chữ quốc ngữ
Trên tờ Đương Thời
số 35 (2011), sau khi dẫn chứng và phân tích các ý kiến khác nhau về việc “Thêm
ký tự F, J, W, Z trong bảng chữ cái tiếng Việt”, nhà nghiên cứu An Chi cho rằng
“chúng tôi hoàn toàn tán thành ông Trần Chút là chỉ chấp nhận 4 chữ cái đó như yếu
tố ngoại biên, giống như từ điển tiếng Ý đã làm. Không việc gì phải thay đổi bảng
chữ cái của chữ quốc ngữ”.
Dưới nhan đề “Thêm ký tự F,
J, W, Z trong bảng chữ cái tiếng Việt”, báo Tuổi Trẻ ngày 9.8.2011
đưa tin:
“Tối 8.8, ông Quách Tuấn Ngọc-
cục trưởng Cục Công nghệ thông tin (Bộ GD-ĐT), người trực tiếp soạn thảo thông
tư trên- cho biết dự thảo sẽ công bố trong tháng 8.2011 để xin ý kiến các nhà
ngôn ngữ học, tiếp tục hoàn chỉnh và dự kiến ban hành chính thức vào tháng
10.2011.
“Giải thích về việc bổ sung
các ký tự trên vào bảng chữcái tiếng Việt, ông Ngọc cho rằng chữ viết của VN hiện
nay được sáng tạo trên việc sử dụng ký tự Latin để ghi âm tiếng Việt nhưng đã
phức tạp hóa bằng các chữ kép thay thế cho nhóm ký tựF, J, W, Z khiến cho tiếng
Việt khó hòa nhập quốc tế.
“Tuy nhiên, trong cộng đồng
người sử dụng máy tính thì các ký tự trên đã trở nên quen thuộc, chủ yếu phục vụ
việc gõ các ký tự riêng của tiếng Việt là ă, â, ê, ơ, ư. Vì vậy, việc thừa nhận
nhóm ký tự trên trong bảng chữ cái tiếng Việt là cần thiết để thống nhất sử dụng
về chuẩn chính tả tiếng Việt trên môi trường máy tính và sách giáo khoa.”
(tr.15).
Ngày 10.8, Tuổi Trẻ đưa
tiếp tin “F, J, W, Z không thể nằm ngoài bảng chữ cái”, với một khung nhỏ (box)
nhan đề “Sẽ công bố và tiếp thu ý kiến trong vòng 60 ngày” (tr.13), mặc nhiên
coi như vấn đề đã được quyết định. Nhưng đến 11.8 thì báo Thanh Niên in
ngay trang 1 hàng tít “Bộ GD-ĐT không có chủ trương thêm ký tự F, J, W, Z” và
đăng cụ thể tại tr.2 mẩu tin ngắn do Tuệ Nguyễn viết:
“Sau khi một số báo thông
tin về việc dự thảo “Thông tư ban hành quy định về sử dụng font chữ tiếng Việt
trên máy tính trong hệ thống giáo dục quốc dân” của Bộ GD-ĐT có nội dung “thêm
ký tự F, J, W, Z trong bảng chữ cái tiếng Việt”, ngày 10.8, Bộ GD-ĐT đã có công
văn gửi các báo thông báo ý kiến chính thức về vấn đề này. Theo đó, “Việc đề xuất
“Thêm ký tự F, J, W, Z cho bảng chữ cái tiếng Việt” chỉ là ý kiến cá nhân một số
cán bộ nghiên cứu của Cục Công nghệ thông tin. Các ý kiến này chưa được đưa ra
thảo luận trong Ban soạn thảo, càng không phải là chủ trương, ý kiến của Bộ
GD-ĐT”. Công văn cũng nêu rõ: Theo quy định, trong quy trình xây dựng thông tư,
có việc xin ý kiến rộng rãi qua mạng. Nhưng đến nay bản dự thảo vẫn chưa có
phiên bản đầu tiên, chưa có nội dung cụ thể để phát triển thành văn bản của
thông tư, nên chưa đến giai đoạn công bố để xin ý kiến rộng rãi.”
Cùng ngày, Tuổi trẻ đã
mở mục thảo luận “Thêm ký tự F, J, W, Z: nên không?” (tr.13), với ý kiến của
PGS.TS Phạm Văn Tình (Nên), GS.TSKH Nguyễn Đức Dân (Nên), PGS.TS Bùi Mạnh Hùng
(Không nên), đặc biệt là với box “Bộ GD-ĐT: Chỉ là ý kiến cá nhân ”. Ngày 12.8, Tuổi
Trẻ khép lại việc thảo luận dưới đề mục “Đề nghị có luật ngôn ngữ, văn tự”
(tr.12), với ý kiến của GS Nguyễn Minh Thuyết (Cần có chuẩn chung và sớm đưa
vào luật), GS.TS Đinh Văn Đức (Là chuyện đại sự của văn hoá), ông Trần Chút (Chỉ
chấp nhận như yếu tố ngoại biên), TS Giáo dục Lê Vinh Quốc (F, J, W, Z là các
chữ cái thông dụng).
Trở lên, chúng tôi đã điểm lại
vấn đề thông qua Tuổi Trẻ và Thanh Niên là hai tờ báo giấy
có số lượng phát hành thuộc loại cao nhất để bạn đọc có điều kiện tìm hiểu một
cách dễ dàng và rộng rãi vấn đề quan trọng và tế nhị liên quan đến chữ quốc ngữ.
Ngoài ra, chúng tôi còn muốn nói đến những câu trả lời rất đáng chú ý của GS Trần
Trí Dõi cho cuộc phỏng vấn do Nguyễn Hường (VietNamNet) thực hiện nữa. Riêng
chúng tôi thì, cũng như nhiều người khác, đã làm quen với thứ chữ này từ thuở
lên năm, với những a, á mặt trăng (ă), ớ đội nón (â), bê có bụng (b), xê cù
ngoéo (c), dê có đít (d), đê gạch đầu (đ), v.v., cho đến i cà rết (y) nên nếu
tình yêu dành cho tiếng mẹ đẻ đậm đà bao nhiêu thì tình yêu dành cho nó cũng đậm
đà bấy nhiêu.
Nói một cách tuyệt đối khách
quan – nên chẳng có gì là không công bằng – thì chữ quốc ngữ ra đời chỉ
là do nhu cầu truyền đạo của Giáo hội Công giáo La Mã – có mục đích chính trị
nào hay không thì chúng tôi không bàn đến ở đây – chứ dứt khoát không vì bất cứ
một lợi ích nhỏ nhoi nào của người dân Đại Việt cả. Một số giáo sĩ phương Tây,
với sự giúp đỡ của một số giáo dân người Việt vô danh, đã tạo ra một thứ chữ,
không biết đã giúp ích cho việc truyền đạo của họ đến đâu, nhưng đã được người
Việt Nam nhận lấy mà biến thành một lợi khí vô cùng hữu hiệu cho việc phát triển
văn hoá và văn học của dân tộc. Vì nhận thức như thế cho nên, không kể đến thái
độ và lập trường chính trị cụ thể, chỉ riêng về vấn đề trên thì chúng tôi hoàn
toàn đồng ý với Charlie Nguyễn khi tác giả này cả quyết rằng các giáo sĩ thừa
sai không phải là những người có công với văn hóa Việt Nam. Không, một triệu lần
không! Và chúng tôi cũng hoàn toàn tán thành luận điểm sau đây của tác giả đó:“
Chữ quốc ngữ đã được sáng tạo trong khuôn khổ chiến lược xâm lăng Á Châu của Bồ
Đào Nha trong thế kỷ XVII.” Cho nên ta có thể khẳng định một cách ung dung,
bình thản rằng việc người Việt Nam biến thứ văn tự đang xét thành “Chữ Quốc Ngữ”
và thành lợi khí cho việc phát triển văn hoá và văn học của dân tộc chỉ là chuyện
“gậy ông đập lưng ông” (chữ của Charlie Nguyễn) đối với bọn xâm lược mà thôi. Bây
giờ, chữ quốc ngữ đã hiển nhiên là quốc gia văn tự. Từ một công cụ có
lẽ cũng chẳng lấy gì làm trơn tru, trôi chảy cho việc truyền đạo của La Mã, nó
đã trở thành quốc bảo của người Việt Nam.
Đã là quốc bảo thỉ phải mang
những đặc thù của quốc bảo. Không có các chữ cái F, J, W, Z là một trong những
đặc thù của chữ quốc ngữ. Có 5 dấu thanh là một đặc thù khác nữa của nó. Có 6
chữ cái ghi nguyên âm có mang dấu phụ là đặc thù thứ ba của chữ quốc ngữ. Những
đặc thù này đã được định hình, định vị và từ lâu đã trở thành truyền thống mà
không gây phương hại gì cho công cuộc hội nhập của Việt Nam với thế giới. Ông
Quách Tuấn Ngọc nói rằng việc thiếu mất bốn chữ F, J, W, Z khiến cho tiếng Việt
khó hòa nhập quốc tế thì chỉ là nguỵ biện cho mục đích riêng của công nghệ
thông tin mà thôi. Cũng xin nói thêm rằng trong 26 chữ cái La Tinh thông dụng
và quen thuộc hiện nay thì tiếng La Tinh cổ điển chỉ có 20 chữ, không có 6 chữ
J, K, U, W, Y và Z, trong đó có J, W và Z mà ông Ngọc và những người cùng quan
điểm đòi thêm vào. Lại xin nói thêm rằng tuy đều thoát thai từ tiếng La Tinh
nhưng tiếng Pháp thì công nhận đủ 26 chữ, tiếng Ý chỉ thừa nhận có 21 chữ truyền
thống, trừ 5 chữ J, K, W, X, Y (tuy 5 chữ này vẫn được ghi nhận làm “chữ cái”
trong từ điển, với số từ hữu quan có thể đếm trên đầu ngón tay), tiếng Tây Ban
Nha có 29 chữ truyền thống vì có thêm CH, LL và Ñ còn tiếng Bồ Đào Nha thì chỉ
có 23 chữ, đến 1990 mới chính thức thêm K, W và Y thành 26 chữ. Trong khi tiếng
Tây Ban Nha xếp những chữ kép CH và LL vào bảng chữ cái thì tiếng Bồ Đào Nha lại
không làm như thế: LH của Bồ, tương đương với LL của Tây, nhưng Bồ không
xếp vào bảng chữ cái như Tây. Ngay trong nhóm ngôn ngữ cùng có xuất xứ là
tiếng La Tinh mà mỗi ngôn ngữ lại xử lý một kiểu thì việc đòi đưa 4 chữ F, J,
W, Z vào bảng chữ cái quốc ngữ (mà lại chỉ là để tạo thuận lợi cho công nghệ
thông tin) thì chỉ là chuyện “nhiễu sự” mà thôi. Sinh sự thì chưa biết sẽ còn sự
gì sinh ra nữa! Đây là ta chỉ mới nói đến các ngôn ngữ cùng sử dụng loại hình
chữ cái La Tinh chứ đối với những ngôn ngữ sử dụng các loại hình chữ cái khác,
chẳng hạn tiếng Nga dùng chữ Cyrillic hoặc tiếng Hy Lạp sử dụng chữ Hy Lạp thì
sao? Thêm những tên cha căng chú kiết của hệ chữ cái khác vào để “hội nhập”,
nghĩa là để “sinh sự” chăng? Thì đây, ta hãy nghe GS Trần Trí Dõi phát biểu :
“Nếu như chỉ xuất phát từ
yêu cầu “điều chỉnh” của “công nghệ thông tin” thì chỉ là công việc của riêng
môn “công nghệ thông tin”. Không nên gắn nó với việc điều chỉnh bảng chữ cái
chính tả tiếng Việt liên quan đến hoạt động giáo dục hiện nay, vì chữ viết và
chính tả là một vấn đề xã hội. Việc điều chỉnh bảng chữ cái chính tả tiếng Việt
liên quan đến hoạt động giáo dục chắc chắn sẽ tiêu tốn rất nhiều “tiền thuế
của dân” và nhiều chuyện chi phí vô hình khác (Chúng tôi nhấn mạnh –
AC). Liệu chúng ta đảm bảo với người dân việc chi tiêu ấy chắc chắn đã đến lúc
là cần thiết và có kết quả tốt?”
Huống chi, riêng về mặt thuần
tuý chuyên môn thì những gì ông Quách Tuấn Ngọc nêu ra cũng đều thực sự phi lý.
Vẫn là lời GS Trần Trí Dõi:
“Tôi xin nói rằng về mặt
ngôn ngữ học không có chuyện tiếng Việt và chữviết của nó lại là trở ngại
cho việc nó hòa nhập quốc tế (Chúng tôi nhấn mạnh- AC). Cái trở ngại
là do người sử dụng nó, người nhận nhiệm vụ làm cho nó hòa nhập thếgiới không đủ
hiểu biết để thực hiện nhiệm vụ nên đã đưa ra lý do để biện minh cho mình mà
thôi. Nhiều chữ viết trên thế giới có thuận lợi bằng chữ viết của tiếng Việt
đâu mà người ta vẫn không đặt ra vấn đề "khó hòa nhập quốc tế".”
Nói chung, những ý kiến tán
thành việc thêm 4 chữ cái kia đều không có tính thuyết phục, trong đó có ý kiến
của GS Nguyễn Đức Dân, là người đã nêu chủ trương “đưa ngôn ngữ chat vào từ điển
tiếng Việt” mà chúng tôi đã cực lực bài bác trên Đương Thời 31 (tháng
5.2011). PGS.TS Phạm Văn Tình thì nhận xét rằng “từ điển tiếng Việt đã sử dụng
33 chữ cái”, hàm ý rằng trong đó đã có F, J, W, Z. Ta hãy thử quan sát vần “J”
trong Từ điển tiếng Việt 2003 của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ
biên. Vẻn ven chỉ có 12 mục, trong đó một mục dành cho chính chữ J và một mục
là J, ký hiệu của Joule. Chính thức là từ thì chỉ còn đúng một chục : – jacket,
– jambông, – javel, – jazz, – jean, – jeep, – jiujitsu,
– joule, – judo, – jun. Trong một chục từ này thì jun và joule chỉ
là một nên thực tế chỉ có 9 từ có phụ âm đầu J; mà trừ jambông đầu gà
đít vịt ra, 8 từ kia đâu có phải là tiếng Việt. Thế thì cái giá trị của vần J ở
đây chỉ là zero (bản thân chữ này cũng không hề là tiếng Việt!). Vần
W chỉ có 7 mục; đến như Z thì vần này chỉ có 6 mục, trong đó Z là bản thân chữ
cái, zeta là tên một chữ cái Hy Lạp, zloty là tên đơn vị tiền tệ
của Ba Lan, Zn là ký hiệu hoá học của nguyên tố kẽm. Chỉ có vần F thì
tương đối “phong phú” nhưng vẫn chưa đầy 50 mục từ, trong đó nhiều trường hợp
là đồng nghĩa dị tự, có những trường hợp chỉ là ký hiệu, có trường hợp như FOB
chỉ là acronym (tên tắt bằng chữ cái đầu của mổi từ trong cụm). Nói tóm lại thì
ta không nên hiểu lầm cái ý của TS Tình, mà Tuổi Trẻ ngày 11.8.2011
đã lấy làm đề mục (“Từ điển tiếng Việt đã sử dụng 33 chữ cái”). Ông chỉ chủ
trương đưa thêm 4 ký tự trên để mở rộng khả năng xử lý văn bản mà thôi. Vì vậy
nên, ở đây, chúng tôi hoàn toàn tán thành ông Trần Chút là chỉ chấp nhận 4 chữ
cái đó như yếu tố ngoại biên, giống như từ điển tiếng Ý đã làm. Không việc
gì phải thay đổi bảng chữ cái của chữ quốc ngữ.
Gút lại , trước cái cách lập
luận của ông Quách Tuấn Ngọc, để kết luận, chúng tôi muốn mượn lời của GS Trần
Trí Dõi:
“Nếu chỉ là việc “thêm các
ký tự này” dùng cho “công nghệ thông tin” thì không liên quan gì đến bảng
chữ cái tiếng Việt. Môn học này, hay tài liệu giới thiệu về “công nghệ thông
tin” chỉ cần nêu “phàm lệ” là đủ, không cần phải điều chỉnh bản chữ cái của tiếng
Việt làm gì.
“Nhân đây, tôi xin nói thêm
rằng tiếng Việt là một vấn đề của ngôn ngữ học nên bản chất của nó là một vấn đề
xã hội chứ không đơn thuần là một vấn đề của kỹ thuật. Cách suy nghĩ xuất phát
từ kỹ thuật và nói rằng ngôn ngữ không đáp ứng cái yêu cầu của mình nó gần giống
như việc người đóng giầy yêu cầu khách đẽo chân cho vừa với giầy mình đóng.”
An Chi
Nguồn Đương Thời 35
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét