Dấu chân
qua trảng cỏ - Thanh Thảo
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Gió nghiêng ngả giữa màu xanh
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào ai biết đi gần đi xa.
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lối mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhoè?...
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân nho nhỏ không lời không tên
Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
Ai đi gần ai đi xa
Những gì gợi lại chỉ là dấu chân.
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường...
Gió nghiêng ngả giữa màu xanh
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào ai biết đi gần đi xa.
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lối mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhoè?...
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân nho nhỏ không lời không tên
Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
Ai đi gần ai đi xa
Những gì gợi lại chỉ là dấu chân.
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường...
Nguồn: Trường Sơn - đường khát vọng, NXB Chính trị quốc gia, 2009.
DẤU CHÂN NHỮNG NGƯỜI LÍNH TRẺ
VÀ THƠ THANH THẢO - Lại Nguyên Ân
Khi Thanh Thảo bước vào thực
tế cuộc kháng chiến chống Mỹ thì những người lính cùng thế hệ với anh - Ngày
nay đã gần như có thể gọi một cách xác định là "thế hệ thứ ba" − đã
bước vào khoảng giữa cuộc đọ sức. Cứ xem những biểu hiện trong thơ của lớp trẻ
cùng thế hệ ấy cũng rõ. Đã qua trước anh, những ngày mới vào cuộc với rất nhiều
dự cảm − hào hứng, háo hức và ít nhiều băn khoăn - mà chỉ một Cuộc chia ly
màu đỏ thôi, cũng đủ cho ta hình dung. Khi các tập thơ Sức mới ra
đời và gây nhiều chấn động trong giới viết trẻ và giới đọc trẻ (tất nhiên không
chỉ giới trẻ) thì Thanh Thảo mới bước vào trường Đại học, sâu tít trên non ngàn
hậu phương. Khi giải thưởng thơ của tuần báo Văn nghệ được trao cho
tác giả những bài Lửa đèn, Hương thầm, v.v… thì Thanh Thảo mới ra trường,
đang lúc sửa soạn ba-lô vào cuộc. Kể vài điều trên, tôi muốn nói những thành
công tính theo thời gian của các bạn thơ cùng lứa tuổi trước anh như Thái
Giang, Nguyễn Mỹ, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Vũ Quần Phương, Phạm Tiến Duật, Thanh
Nhàn, v.v… không thể không in dấu vào anh cũng như nhiều bạn thơ trẻ khác nữa
khi các anh lúc này mới chuẩn bị nhập cuộc. Nói điều này chủ yếu để nói sự tiếp
tục trong cùng một lớp nhà thơ trên một mối quan tâm chạy suốt trong sáng
tác của họ: ấy là cố gắng phác họa chân dung tinh thần của lớp người cùng thế hệ
mình đang mang trên vai cái trọng trách mà lịch sử và dân tộc dành cho. Nếu
Thanh Thảo được thừa nhận là có những thành công nào đó thì thành công ấy, đến
lượt nó, lại là sự nối tiếp của các bạn thơ trước anh.
Tôi hình dung gương mặt tinh
thần − được soi vào thơ − của "thế hệ thứ ba" (đã có một cách gọi ước
lệ như vậy) trưởng thành với cuộc chống Mỹ cứu nước như sau.
Ở thời điểm mở đầu, với những
dự cảm vào cuộc. Chia tay gần như một mô-típ thơ điển hình, không chỉ với cuộc Cuộc
chia ly màu đỏ mà đến tận Hương thầm. Sau hơn một chút, đã vào cuộc rồi,
sự cảm nhận thử thách vẫn còn có vẻ mới mẻ nên nó thiên về nói cái thanh tao,
đường hoàng. Sự sống giữa bom đạn, sự sống át đạn bom − gần như là một mô-típ
thơ nữa, khá tiêu biểu, nó là một tứ thơ lớn của cả một thời đại và của nhiều lứa
tuổi nhà thơ. Không đọc đúng lúc của nó, không dễ hiểu đúng sự đồng cảm khá nhất
quán khi ấy với những Tình yêu và báo động, Trở lại trái tim mình, Âm
thanh im lặng, Tiếng gà trưa. Thiên nhấn vào cái yên trong cái độn− đó gần
như một đặc trưng cấu tứ − (Sau thời điểm những bài thơ này, dầu muốn nói "tất
cả như là trong báo yên" thì cái động vẫn nổi lên hơn, chẳng qua là lấy
động làm yên). Sau hơn một chút nữa, xa thêm một chút nữa về thời gian, khi những
con đường Trường Sơn trở nên quen thuộc nhiều hơn với bàn chân tuổi trẻ, thì
cái gương mặt của họ soi vào thơ dường như đã có biến đổi. Cái dáng dấp học
sinh mảnh mai và hơi e dè từ lúc nào không rõ đã thành cái vóc dạc người lính dạn
dĩ hơn, từng trải hơn để có thể khá ngạo nghễ "không có kính, ừ thì
có bụi". Phù hợp với lúc trước thì chỉ nhìn ra thơ ở những chỗ vốn là
nên thơ, phù hợp với lúc này, bắt đầu thấy thơ ở những chỗ có vẻ như không
"thơ" lắm, không "thơ" mấy.
Từ chân dung học trò sang
chân dung người lính, thật ra vẫn là một đối tượng ấy, vẫn một lớp người ấy. Họ
đi tiếp thì thơ cũng phải tiếp tục đi. Những khoảng trời và vùng đất trong thơ
trẻ được mở ra gần như là thuận chiều với sự mở ra, đi tới của bước chân những
người lính trẻ cùng thế hệ họ.
Trở lại Thanh Thảo, anh là một
trong số rất nhiều người làm thơ viết văn đi vào chiến trường cuối những năm
60, suốt dọc Trường Sơn, theo dấu chân người lính trẻ, đến tận những con đường
qua sình lầy của đồng bằng Nam Bộ. Cũng một thực tế chiến đấu bao trùm cả nước,
nhưng đã ở vào một thời điểm khác, một không gian khác, một môi trường cụ thể
khác, và tâm trạng người lính, đời sống chiến đấu của người lính, đời sống nhân
dân trong vùng sát nách giặc đã dội vào thơ các anh với những âm điệu và màu sắc
có khác. Thấm thía hơn với thực tế chiến tranh, có thời gian hơn để suy cảm về
chặng đường chiến đấu, về trách nhiệm và số phận thế hệ mình, về đất nước và
nhân dân − những điều này đem lại những nét mới mẻ hơn của thơ lớp trẻ mà chúng
ta có thể thấy qua thơ của những Nguyễn Khoa Điềm, Dương Hương Ly, Nguyễn Duy,
Ngô Thế Oanh, Trần Mạnh Hảo, Văn Lê, Diệp Minh Tuyền… Thanh Thảo là thuộc vào số
này.
Có thể quan sát theo đề tài
để nói thơ Thanh thảo viết về cuộc chiến đấu ở dọc Trường Sơn và đồng bằng Nam
Bộ, viết về con người và vùng đất ở đây… Đó là một cách nói, cũng đúng thôi.
Nhưng tôi muốn nói đến một quan tâm xuyên suốt, một ý tứ chủ đạo, một điểm
"ngời sáng" trong thơ anh: ấy là cố gắng phác họa chân dung tinh
thần của những người trẻ tuổi − người lính − cùng thế hệ anh. Nó như một
nhiệt hứng sáng tác đã xâu chuỗi các bài thơ ngắn của tập Dấu chân qua trảng
cỏ làm một, xâu chuỗi tập thơ này với trường ca Những người đi tới biển là
một.
Nét thứ nhất mà anh vẽ ra về
họ là nét bình thường. Bình thường, gần như tầm thường nữa là khác. Đây cũng là
tứ thơ chung của cả thời đại − những anh hùng vô danh, càng vô danh càng anh
hùng. Có khi Thanh Thảo đem soi vào một cái gì khác − những ngôi sao xa
xôi (Những ngôi sao bám chặt mảnh đất này, vùi trong đất và lấm đầy bùn đất),
những hạt gạo gần gũi (…những hạt gạo trên sàng,, sàng qua lửa qua bom, qua đắng
cay còn nguyên chất gạo) cũng như đem ví với đám đế − những cây sậy mỏng manh −
với những ngọn cỏ, những hạt cát bình thường mà có lẽ cả đến con mắt người yêu
cũng không dễ tìm ra. Cái nét bình thường, vô danh này ở người lính
trẻ được nhấn vào đến là nhiều lần trong thơ Thanh Thảo.
Anh thành kính trước những
chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại giữa Trường Sơn.
Những người ra đi không để lại
tuổi tên
lúc ngã xuống tôi chỉ kịp
nhìn nấm đất
Anh đưa vào thơ bức tranh chỉ
có những dấu chân − dấu chân những chiến sĩ đã đi qua trên đường chiến trận.
Ai đi gần ai đi xa
những gì gởi lại chỉ là dấu
chân
vùi trong trảng cỏ thời
gian…
Anh rất già dặn để có thể vẽ
chân dung đối tượng trong trạng thái không có đối tượng, ở trường hợp vừa nêu
trên cũng như ở trường hợp khác, khi chỉ gặp những xác tăng giặc rỉ nát bên đường
mà lại hình dung về những người chiến thắng − những bông "hoa đâu mất", màu
áo xanh mất hút cuối rừng.
Có thể nói, Thanh Thảo đã
tìm được khá nhiều cung bực, nhiều sắc thái để tô đậm nét vô danh, bình thường ở
những người lính cùng thế hệ. Nhưng nét vô danh, bình thường này được nhấn đi
nhấn lại nhiều lần đến thế thì quả không phải là sự vô tình: nó như báo trước một
thầm thì gì nữa, một xác nhận về đặc điểm thế hệ, hơn nữa, một thứ "tuyên
ngôn". Quả là qua thơ Thanh Thảo, những người lính chống Mỹ cùng thế hệ
anh đã tuyên ngôn khá nhiều, "tự bạch" khá nhiều.
Ta đọc được cái tự ý thức về
thế hệ này ngay trong những lời nói với các bà mẹ:
Đêm nay con nằm nhẩm tên từng
đứa
mai này đây sẽ tràn xuống đồng
bằng
chúng con đi như dòng sông
chảy xiết
chúng con đi rung từng trận
gió rừng
cả thế hệ xoay trần đánh giặc
mặc quần đùi khiêng pháo lội
qua bưng
vì mẹ sinh chúng con
vì chúng con là con mẹ
hoặc trong những lời nói với
người thuộc tầng lớp đàn anh đang cùng mình trong trận:
Chúng tôi những thằng lính
trẻ
lớn lên khắp trăm vùng gọi
nhau là đồng đội
đi chiến đấu ngủ bụi nằm bờ
đầu nguồn cuối bãi
nhiều đứa cùng tuổi với bài
hát của anh
lòng vô tư đã hát một
lần
và như anh ngã xuống.
Họ tự nhận về họ khá nhiều,
ưu điểm và nhược điểm, tính cách và quan niệm.
Những thằng con trai 18 tuổi
nhiều khi bực quá khóc òa
nhiều lúc tức mình chửi bâng
quơ
phanh ngực áo và mở trần bản
chất
mỉm cười trước những lời lẽ
quá to
Và như vậy, họ có ý thức, rất
ý thức, càng ngày càng ý thức, nhất là trên vấn đề nóng bỏng trước mắt: trách
nhiệm trước dân tộc và lịch sử, thái độ trước cuộc đụng đầu quyết liệt sống còn
với kẻ thù, chỗ đứng và lối sống của mình.
Người ta không thể chọn để
được sinh ra
nhưng chúng tôi đã chọn cánh
rừng phút giây năm tháng ấy.
Cũng như Hữu Thỉnh khi nói về
người lính giữa trận, thời điểm mà hình dung về Tổ quốc trở nên cụ thể, nó là
cái gốc sim phải giữ lấy, "một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn" không
có cách nào khác, trong thơ Thanh Thảo, người lính trẻ rất có ý thức về Tổ quốc,
qua những gì gắn bó nhất, cụ thể nhất.
Với những thằng con trai 18
tuổi
Tổ quốc là một nhịp tim có
thể khác thường
là một làn mây mỏng đến bâng
khuâng
là mùi mồ hôi thật thà của lính
đôi khi là một giọng nữ cao
nghe từ Hà Nội
hay một bát canh rau rừng
và lên tiếng tuyên thệ:
chúng tôi không muốn chết vì
hư danh
không thể chết vì tiền bạc
chúng tôi lạ xa với những
tin tưởng điên cuồng
những liều thân vô ích
đất nước đẹp mênh mang
đất nước thấm sâu đến tận
cùng xương thịt
chỉ riêng cho Người chúng
tôi dám chết
Người ta thường nói chất trẻ
là ở cái tươi mát, tươi tắn, non trẻ, xanh non… thơ Thanh Thảo không phải không
tươi mát, nhưng nó cũng rất nhiều đăm chiêu, suy tư. Nó thiếu "chất trẻ"
chăng? Quả là có lúc có thể trách thơ anh đôi chỗ hơi "già" − ví như
trước cái tên rất ngộ "Hoa đâu mất" mà chỉ cánh lính rất trẻ mới có
thể nghĩ ra, tứ thơ Thanh Thảo đặt lại quá đăm chiêu, tưởng như lẽ ra phải đặt
theo lối "không có kính, ừ thì ướt áo" như Phạm Tiến Duật mới là hợp
cảnh. Nhưng có lẽ nói chung, phải nên nhìn nhận "chất trẻ" ở một cái
gì đó sâu hơn, "bên trong" hơn. Tuổi trẻ vào đời mà khiến người ta thừa
nhận thì có lẽ là do người ta bắt đầu để ý đến cánh tay nó hăng hái giơ cao
xung phong, do nó mạnh về tính khuynh hướng, mạnh ở những dự định, đề nghị, quyết
tâm mà nó muốn làm − làm tốt, làm đẹp cho cuộc đời này, đất nước này. Trong thơ
Thanh Thảo, có lẽ cái cốt của chất trẻ là ở sự tự khẳng định mạnh mẽ của thế hệ
mình, một thế hệ do cách mạng đẻ ra và đào luyện từ trong lòng nôi một chế độ mới
và đem cống hiến cho chế độ toàn bộ khát vọng, nhiệt tình, ý thức cho đến cả
chính xương máu, số phận, sinh mạng mình.
Những tráng ca thuở trước
còn hát trong sách thôi
những thanh gươm yên ngựa
giờ đã cũ mèm rồi
bài ca của chúng tôi
là bài ca ống cóng
hành trang quân giải phóng
đơn giản nhất trên đời
… tháng năm sẽ dần phai
bao bài ca duyên dáng
nhưng tôi biết từ đây
như khắc vào đá tảng
như vạch vào thân cây
bài ca của hôm nay
thô sơ và hực sáng…
Ở những dòng thơ vừa trích,
nhà thơ đàn anh Tế Hanh đã nhận ngay ra chất tuyên ngôn của nó (xem Văn
nghệ số 52 - 1979). Tuyên ngôn về lẽ sống, trước tiên, và có lẽ tuyên ngôn
cả vê nghệ thuật.
Nét bình thường, vô danh và
sự tự khẳng định, tự ý thức, sự "tuyên ngôn" của những người lính trẻ
ở thơ Thanh Thảo không có sự đối chọi, ngược lại, đó là những nét hòa hợp, thống
nhất. Nó làm nên một mô-típ cấu tứ khá tiêu biểu cho các bài thơ Thanh Thảo.
Chiếc bòng con đựng những gì
mà đi cuối đất mà đi cùng trời
mang bao khát vọng con người
dấu chân nho nhỏ không lời
không tên
thời gian như cỏ vượt lên
lối mòn như sợi chỉ bền kéo
qua…
Có thể nói thơ Thanh Thảo đã
cố gắng nhận chân đúng cái tầm cỡ thực của đối tượng mình miêu tả, cố gắng này
đem lại cho thơ anh cái khoảng khoát, dài rộng của không gian và thời gian
trong những cảm nghĩ và liên tưởng. Thơ anh không thiếu cái cụ thể. Hơn nữa, có
thể lấy ra vô số những chi tiết cụ thể ấy, giống như từ các bút ký và ký sự về
sinh hoạt người lính và đời sống nhân dân, không khí những chiến trường, bề sâu
của địa hình, cho đến cả mùi lá mục của những cánh rừng già, mùi trống không những
hố bom, màu bông bèo và mùi bùn đất của đồng đưng sông nước Nam Bộ… Thế nhưng
nó vẫn rất giàu khái quát. Có thể đoán rằng trong tâm niệm sáng tác của anh,
đưa thật nhiều cái cụ thể vào thơ và thường xuyên nâng lên khái quát là hai
nguyên tắc song phương thường trực chỉ đạo người viết. Càng ngày, theo mạch
sáng tác, anh sẽ làm cho sự liên hệ giữa hai cái đó trở nên khó nhận ra hơn,
khó nhận ra nhưng rồi vẫn phải thấy. Cụ thể và khái quát đan dệt nhuần nhị
trong thơ anh, một thứ thơ rất mực tâm trạng.
Những cây đế mong manh
mọc ken thành đám đế
nơi có rắn và chuột đồng làm
ổ
màng nhện giăng những đường
tơ hoang vu
lũ giặc không ngờ nơi đó có
chúng tôi
những cây đế biết nghĩ suy
và cầm súng
Như ta thấy trong đoạn thơ vừa
trích, sự tự ý thức − đây là tự ý thức trước kẻ thù − đã vượt lên, nâng tầm cho
sự việc, mở đường cho sự việc đi vào thơ. Sự tự ý thức ấy đã định hướng cho những
lựa chọn gay gắt: trong giây phút quyết liệt trước kẻ thù, người chiến sĩ trẻ sẽ
chia đôi tiếng nổ quả thủ pháo cuối cùng cho mình và chúng nó mỗi bên một nửa
chăng? Và đây là câu trả lời:
Quả thủ pháo hãy giành cho
chúng nó
Trên ý hướng tự ý thức mạnh
mẽ này, thơ anh đã nói và nói thành công về cái chết, về sự mất mát hy sinh,
nói trong giọng trầm xuống, trong giọng nén lại.
Tin người bạn vừa nằm xuống
đến với tôi từ một giọng
bình thường
một người chưa quen
gió vần vụ trên nóc rừng buổi
sớm
Thảng hoặc đâu đó có ý nghĩ
cho rằng văn học viết về chiến tranh ở ta về sau này do có nói về mất mát hy
sinh nên có phần chân thật hơn. Không hẳn là như vậy. Chiến thắng, thành công
cũng chân thật như hy sinh mất mát, có khi còn chân thật hơn là đằng khác, vì
nó đã được xác nhận bằng sự thực bao quát, sự thực cuối cùng. Chân thật là ở
thái độ nhiều hơn là ở chỗ đưa ra loại sự việc nào. Cái nhìn thừa nhận thực tế,
thừa nhận sự thực trong tất cả mọi loại biểu hiện của nó bao giờ cũng dễ thuyết
phục hơn là cái nhìn muốn đơn giản hóa, muốn vỗ về làm yên lòng những người
đang giẫm chân trên mảnh đất thực của một cuộc đấu tranh sống còn. Thanh Thảo
chính đã thành công ở phần chân thật trong cảm quan về thực tại chiến đấu, một
thực tại đa dạng như ta vẫn thường nói, − có hy sinh mất mát, có chiến thắng,
lac quan; thơ anh đậm sắc thái bi hùng, trữ tình ở thơ anh không tách biệt mà
hòa hợp ở mức khá cao với tính sử thi, điều này đem lại thành công cho anh
trong cả những bài thơ ngắn lẫn trong trường ca trữ tình sử thi Những người
đi tới biển, một trường ca vào loại thành công nhất trong hướng phát triển của
thể loại này những năm gần đây.
"Ai cũng tiếc tuổi hai
mươi thì còn chi Tổ quốc" − lý lẽ này đã dẫn đến sự trình bày thẳng thắn
những hy sinh mất mát một cách tự nhiên, giản dị, bằng giọng nói thường, bằng
giọng nói trầm.
Những gì vỡ ra giờ rắn lại rồi
bạn ngã xuống nơi cần ngã xuống
một đời ấy cho yêu
thương và ước vọng
phút cuối cùng trần trụi thế
thôi
Cái đau xót trầm xuống này
cũng là tự nhiên, nó là cái tình giữa những người đồng đội gắn bó − chúng
tôi uống nước suối ăn lương khô, / miếng đường nhỏ chia ba trên đỉnh dốc −
chia nhau từng ngụm nước đến cái sống cái chết. Cảm giác sinh ly tử biệt này
không hàm một sự sợ hãi. Nó là sự cứng cỏi chấp nhận. Chỉ có xuất phát từ một
chủ nghĩa cá nhân cực đoan mới có sự sợ hãi; may thay, nhờ vũ trang bằng lý tưởng
của Đảng, nhờ ý thức được chính nghĩa của cuộc chiến đấu, văn học ta đã không
sa vào thứ sợ hãi bảo mạng.
Sự hy sinh này được ý thức bởi
tính chất ác liệt thực tế.
Trên bờ ruộng nhà mình
anh lặng lẽ gài bãi chết (*)
phía sau bãi chết − các
con anh
phía sau bãi chết − vợ
anh
phía sau bãi chết − nhà
anh
Không có cách nào khác, phải
bám đất.
Sống cồn đất, chết chôn trên
cồn đất
Ôi làm sao bỏ được nơi này
Hy sinh là điều không tránh
được. Cho nên, cái đáng nói hơn cả trong cuộc chiến đấu lâu dài này vẫn là niềm
tin, nó cho phép ta chấp nhận thử thách, hy sinh, cũng như dân gian xưa chấp nhận
mọi sự cay đắng đời thường, qua ý tứ gởi vào câu ca dao về ngọn rau răm.
"Rau răm ở lại chịu đời đắng cay" mặc ai kia như "cây cải theo
gió về trời".
Dẫu rằng thêm nữa đắng cay
Niềm tin nuôi lớn đất này
bao năm
Từ sự hy sinh, thơ Thanh Thảo
thường dẫn ý nghĩ chúng ta tới sự bất tử. Anh hình dung những người đã vĩnh viễn
nằm lại giữa Trường Sơn vẫn dõi theo bước chân đồng đội. Và cũng như Dương
Hương Ly (Bùi Minh Quốc) trong Bài thơ về hạnh phúc, anh nói về tâm niệm
cua những người còn sống nguyện đi tiếp con đường lớn mà những người đã khuất
phải dừng lại. Ý nghĩ về phần xương máu của đồng đội làm nên ngày gặp lại với
người yêu được diễn đạt thật cảm động.
Và em ơi ngày sum họp ngày
mai
giữa chúng mình còn bao bạn
bè ngã xuống
Những người ấy, những người
hay mơ mộng
tha thiết yêu và muốn làm được
chút gì
cho em cho anh cho đất nước
đôi tay họ đôi bàn tay trong
sạch
đã vùi sâu trong đất
sẽ vươn giữa hai ta như những
nhành cây
những nhành cây ôm chặt cuộc
đời này
giữ cho những lứa đôi tròn hạnh
phúc.
Nhiệt tình phát ngôn bằng
thơ cho sự tự ý thức của những người trẻ tuổi cùng thế hệ − ở đây là người lính
− đã khiến thơ Thanh Thảo giàu khái quát, giàu chất triết lý, nhưng khái quát
và triết lý ở anh thường không đưa thơ quay về dạng thuần túy chính luận. Cái cụ
thể ở thơ anh cũng giàu, cũng đầy lên, sung mãn như triết lý và khái quát, thậm
chí nhiều hơn thành phần triết lý và khái quát. Thơ anh không chỉ vẽ cái chân
dung tinh thần qua những quan niệm, những nhận thức, những khái niệm. Trong thực
tế máu lửa ác liệt, nhận thức là qua hành động, quan niệm bộc lộ trên lối sống,
trên những ứng xử cụ thể. Xích lại gần sự thực cụ thể trần trụi, thơ anh đồng
thời khắc họa cả diện mạo cụ thể của người lính cùng thế hệ.
Tổ ba người như ba ông táo
xáp vào − tiểu đội
có cơm ăn
ngủ lán hầm chỉ căng một
tăng
mắc võng đầu quay về một hướng
lắm câu đùa, nhiều tâm sự vụn
thân thiết lúc nào cũng
không hay
thằng lém ba hoa tán cả ngày
thằng ít nói có tài cải thiện
kiếm được gì anh em cùng
chén
bụng ổn rồi chuyện như bắp
rang
ngày nắng đêm mưa chuyện của
rừng
bom đạn Mỹ − chiến
trường phải đụng
gương mặt sốt soi vào vẫn
sáng
bùng tự nhiên như lửa trảng
dầu
Trên đây là chân dung đồng đội.
Chỗ khác, đó là chân dung bè bạn.
Người ta bảo cửa tâm hồn là
đôi mắt
tao nhớ mắt mày đen màu đen
che chở
những đêm Trường Sơn
mày lặng lẽ mang giùm tao
bao gạo
cơn sốt ập choáng người lảo
đảo
vẫn tay mày dìu đỡ tao
đi…
Chỗ khác nữa, có thể đã là
chân dung chính mình − mình đây nên hiểu rộng như là nhân vật trữ tình, mặc dù
điều được nói tới có thể là chuyện riêng của người làm thơ.
Buổi sớm ấy tôi bước vào tuổi
25
ở đường dây 559 − trạm
73
ngày sinh nhật bắt đầu bằng
cơn sốt
cổ đắng khô ngồi thở trên đỉnh
dốc
bạn mở bi đông nhường hớp nước
cuối cùng
hớp nước cuối cùng giữa cơn
sốt đầu tiên
ngày sinh nhật tuổi 25 mình
được uống.
Chân dung tập thể và chân
dung từng chiến sĩ, chân dung thế hệ và chân dung chính mình − không có gì khác
nhau trong tất cả những dạng thức đó. Và từ chân dung thế hệ mình đến chân dung
nhân dân cũng là một khoảng rất ngắn, rất gần. Chúng ta gặp hàng loạt những
chân dung như thế, ở Dấu chân qua trảng cỏ cũng như Những người
đi tới biển. Ở đây, không trực tiếp biểu hiện mình mà nén lặng hướng đôi mắt
nhìn ra xung quanh, nhân vật trữ tình trong thơ anh dường như được soi mình vào
trong nhân dân. Nhìn ra cái vô cùng lớn lao ở nhân dân, họ là cái giúp ta hình
dung ra Tổ quốc.
Đất nước đi đây hết thảy Con
Người
bóng họ tỏa mênh mang ngày nắng
gắt
họ đi như gió họ đứng như rừng
lúc nằm xuống họ hóa thành mặt
đất...
Khi các thần tiền đã an nghỉ
tận trời
nhân dân tôi khởi lên tự phù
sa vất vả
từ điệu múa hồn nhiên trên
vách đá
người mang gươm đi mở Nước đến
bây giờ
Nhân dân lớn ở những gì lớn
lao kỳ vĩ. Nhân vật trữ tình của Thanh Thảo xác nhận điều ấy bằng kinh nghiệm
riêng. Và cũng bằng kinh nghiệm sống riêng, anh thích nhìn họ ở những nét gần gụi,
cụ thể bình dị. Có lúc anh lên tiếng "đề nghị":
Những định nghĩa cao xa xin
dành cho người khác
tôi chỉ cảm thấy phía sau
gương mặt địa hình
phía sau mỗi người tôi
thương
còn ngọn lửa lung linh sống
động
Anh thích nói nét bình thường
chân chất này của nhân dân
Tôi thương quá những gì đã
cho tôi hình dung ra tổ quốc
sau tất cả những lớn lao
ngoài mặt
mở liếp cửa kia là gặp thật
những con người
da ta chạm tới niềm vui nỗi
khổ
chú Tám quen cởi trần má Năm
cười ít nói
cô Út hay thẹn thò ngồi nhóm
lửa
tên tuổi họ nhiều khi ta khó
hỏi
bao tai ương cứ dội xuống
theo mùa
nhưng theo mùa dòng sông vẫn
chảy
tấm lưng trần nâng dậy cả trời
sao
gió hồn nhiên lăn mình qua
trảng cỏ…
Không phải ngẫu nhiên tập
trường ca của Thanh Thảo có nhan đề Những người đi tới biển. Trong khá nhiều
hàm nghĩa, có một nghĩa khá rõ: anh nói về những người đi tới nhân dân,
hòa vào nhân dân trong một hành trình lịch sử (vốn khởi sự từ quá khứ và còn tiếp
đến tương lai). Những người đó là một thế hệ mới − những người lính cùng thế hệ
với tác giả − "hạt muối nhỏ ngây thơ thuần khiết, nó sung sướng được hòa
trong sóng nươc" − như một trong những câu khép lại tập trường ca, khép lại
mà như mở ra, vì "về với biển đâu phải là yên nghỉ/ tới cửa sông là bắt đầu
sóng gió", hành trình còn tiếp tục, cuộc đấu tranh vẫn còn, dưới nhiều dạng
thức mới, đối đầu những khó khăn và thử thách mới, những kẻ thù mới.
Thật ra thì thế hệ họ không ở
ngoài nhân dân. Họ vốn ở trong nhân dân. Nhưng nếu chỉ là chuyện con ốc nằm
trong vỏ ốc thì đã không có sự tự ý thức và họ đã không là họ với tư cách là một
thế hệ. "Đi tới" ở đây là hành động tự ý thức − tự ý thức bằng một
hành động lịch sử của cả thế hệ: đem xương máu bảo vệ Tổ quốc. Không có nhiệm vụ
lịch sử lớn lao đặt lên vai, khuôn mặt thế hệ thứ ba này chắc không nhanh chóng
hiện rõ như vậy, cả trong đời sống lẫn trong những biểu hiện thơ ca, biểu hiện
văn học. Ở phần thành công của thơ Thanh Thảo cũng như của cả lớp thơ trẻ, nhiều
lắm thì những tên tuổi nhà thơ cũng chỉ góp được một nửa công sức; phần còn lại,
lớn hơn, là của chính đời sống, đời sống chiến đầu của cả thế hệ mà họ thuộc
vào và nhân danh để cất lên tiếng nói trong thơ.
(*) Bãi chết - bãi lựu đạn gài cố định (chú thích trong bài thơ).
1-1980
Lại Nguyên Ân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét