Cảm xúc về
sông nước qua ca dao, dân ca Nam bộ
Nam bộ là một vùng sông nước có hệ thống sông ngòi chằng
chịt, cho nên từ lâu hình ảnh chiếc ghe, con đò, dòng sông, chiếc cầu... là
hình ảnh hết sức quen thuộc với người dân nơi đây. Ngay từ thuở lọt lòng, họ đã
được tắm mình giữa trời nước bao la rồi khi lớn lên họ phải đi qua những chiếc
cầu tre nối nhịp đôi bờ, những khi buông câu, thả lưới, những lúc chở hàng bông
ra chợ... họ cũng gắn chặt cuộc đời mình với dòng nước bao la.
Vì vậy, trong cuộc sống hàng ngày, cũng
như trong những câu ca dao, hò, vè dù thể hiện chủ đề nào, tâm trạng nào thì ít
nhiều hình ảnh dòng sông, chiếc ghe, con đò cũng hiển hiện trong đó. Người Nam bộ
thường có thói quen dùng lối nói ví von, mượn các hình ảnh quen thuộc của đời
thường gần gũi để thông qua đó nêu lên chủ đề mình định nói. Và các hình ảnh
quen thuộc đó, được lặp đi lặp lại trong cách nói của họ cho đến khi thành tiềm
thức, để khi có dịp thì tự động bật ra. Như: khi có khách ở xa đến thăm mình
thì người Nam bộ nói: từ xa lặn lội tới đây. Mặc dù có thể người đó
đi bằng xe đò hay xe Hon-đa. Hay từ "quá giang" vốn dùng cho việc đi
nhờ ghe cộ lại dùng cho việc đi nhờ xe hay đi cùng đường. Tất cả đó phải chăng
là dấu ấn của vùng sông nước đã ăn sâu vào huyết quản của họ.
Đi liền với hình ảnh sông nước là các
hình ảnh: chiếc ghe, con đò, con cá, con cua, cần câu, đăng, đó, nò... Đây là
hình ảnh mà ta thường gặp trong ca dao dân ca Nam bộ. Ngay cả việc
trông ngóng người yêu, người Nambộ cũng mượn hình ảnh chiếc ghe để nói lên
nỗi lòng của mình, nói lên sự trông ngóng, khấp khởi chờ mong người yêu đến
thăm mình:
Ghe ai đỏ mũi xanh lườn,
Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em.
Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em.
Ở đây người con gái nhận dạng chiếc ghe
của người yêu mình. Chiếc ghe của người yêu cô có đặc điểm: "đỏ mũi, xanh
lườn" nên khi thấy chiếc ghe có đặc điểm này thì cô gái mừng thầm, đinh
ninh là ghe của người yêu xuống thăm mình. Nhưng cô gái ở đây vẫn cẩn trọng,
không hấp tấp vội vã. Vì cả vùng sông nước này có biết bao chiếc ghe có cùng
đặc điểm đó, không khéo sẽ bị hớ. Nên cô gái mới đặt lời ướm hỏi. Từ
"phải" là một từ để hỏi nhưng ở đây là dạng hỏi tu từ. Không cần
người đáp. Hỏi để rào trước đón sau mà thôi. Có phải thì hãy đến nơi hẹn, hãy thẳng
nơi mà đến. Còn không phải thì chỉ việc đi ngang qua. Câu ca dao này còn có một
dị bản khác:
Chiếc ghe cũng là hình ảnh của cuộc sống
thương hồ, trên đó có chức năng như một ngôi nhà di động. Phía sau là cuộc sống
sinh hoạt của cả gia đình. Phía trước là dùng để chất hàng hóa bán. Cứ thế,
chiếc ghe vào từng con kinh, con rạch, hết nơi này đến nơi khác. Hết hàng thì
quay ra chợ bổ hàng rồi đi bán tiếp. Con người cũng sống trôi nổi cùng chiếc
ghe. Nhưng đôi khi chiếc ghe chở hàng chỉ có người chồng đảm nhận. Vợ con ở
nhà, người chồng đi buôn bán xa, vài ba ngày mới về một lần. Cho nên trông
chồng cũng là hình ảnh chiếc ghe và nhớ chiếc ghe cũng là nhớ chồng:
Ghe lui khỏi vịnh, em thọ bịnh liền,
Không tin anh hỏi xóm giềng mà coi.
Không tin anh hỏi xóm giềng mà coi.
Vì cuộc sống mưu sinh mà vợ chồng phải
xa cách, vắng nhau bao ngày là bao nỗi lòng nhung nhớ. Về nhà chưa được bao
lâu, lửa nồng chưa ấm anh đã vội ra đi. Nhưng vì cuộc sống không thể khác được
nên ghe người chồng vừa đi thì người vợ cũng vừa "thọ bịnh". Quả là
một tấm tình son sắt, thủy chung.
Hay giữa một đêm trăng thanh gió mát, một chiếc xuồng câu đang lờ
lững giữa dòng, bắt gặp chiếc xuồng của cô gái chở hàng bông ra chợ đang chèo
tới ở phía sau anh ta liền buông mấy lời chọc ghẹo:
Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi,
Kẻo giông khói đèn bờ bụi tối tăm.
Kẻo giông khói đèn bờ bụi tối tăm.
Cách chọc ghẹo của chàng trai ở đây rất
có lý, đồng thời thể hiện được sự quan tâm lo lắng của mình. Giữa trời nước bao
la mà chỉ có một mình cô gái chèo ghe chở hàng ra chợ. Anh lo lắng cho cô gái
bảo cô chèo mau lên, anh đợi, nếu không giông đến thổi tắt đèn mà cô thì có môt
mình biết phải làm sao. Cô gái cũng cảm thấy ấm lòng khi giữa đêm khuya thanh
vắng mà lại có người quan tâm đến mình, nên cô cũng hò đáp lại:
Nhứt nhựt tiểu thân chứ nhà của anh đâu mà em không biết,
Chứ gặp anh giữa đường, cái quyết chí mà thương anh.
Chứ gặp anh giữa đường, cái quyết chí mà thương anh.
Có khi họ nên duyên cũng từ đó. Chiếc
ghe, chiếc xuồng, dòng sông cũng là những hình ảnh được người dân Nam bộ gởi
gắm vào đó những nỗi niềm tâm sự, những cảm nhận của cuộc đời, than thân trách
phận, nói lên cuộc sống nghèo khó của mình:
Như đã nói, Nam bộ có hê thống
sông ngòi chằng chịt cho nên phương tiện đi lại của cư dân nơi đây trước kia
chủ yếu là ghe, xuồng. Ghe, xuồng là chân đi là phương tiện vận chuyển chủ yếu,
nên dù nghèo thiếu đến đâu người ta cũng cố dành dụm sắm cho mình một chiếc
xuồng để làm phương tiện đi lại. Tác giả của câu ca dao này có lẽ do quá nghèo
túng, nghèo đến nỗi không có chiếc xuồng để đi, mọi việc di chuyển chỉ bằng
cách lội sông. Mà không có xuồng cũng có nghĩa là thiếu phương tiện đánh bắt,
mà thiếu phương tiện đánh bắt thì làm sao có nhiều cá, tôm cho được. Mà không
có nhiều cá, tôm có nghĩa là không có tiền nên phải ăn " ròng bè
môn".
Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi!
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.
Đây cũng là lời than, than cho việc buôn
bán ế ẩm. Không có người mua nên phải chèo mãi, chèo đến mỏi mêt mà vẫn không
bán được hàng. Bìm bịp là loài chim rất quen thuộc ở Nam bộ, hễ nó
kêu là nước lớn, cho nên tiếng bìm bịp kêu cũng là lời dự báo cho con nước sắp
lên. Ngoài ra tiếng bìm bịp cũng là dùng để chỉ thời gian, thời gian của con
nước lớn, nước ròng, cũng là thời gian trong ngày. Lời than của cô gái ở đây
phải chăng ngụ ý trong từng tiếng kêu của con bìm bịp. Bìm bịp kêu nước lớn rồi
nước ròng, rồi bìm bịp kêu: nước lớn... cứ thế hết ngày mà bán buôn chẳng được
gì. Sự ngao ngán của cô gái phải chăng là thế.
Dời chưn bước xuống ghe buôn,
Sóng bao nhiêu gợn dạ buồn bấy nhiêu.
Sóng bao nhiêu gợn dạ buồn bấy nhiêu.
Lại một tâm trạng buồn cho những kiếp
thương hồ. Bước xuống ghe buồn cũng đồng nghĩa với việc xa nhà, phải đối mặt
với cuộc sống cô đơn, một mình mình đối diện với sông nước đêm đen. Ngoài ra
trong chuyến đi này, không biết buôn bán ra sao, lời lãi thế nào. Nhưng trên
hết là nỗi nhớ nhà da diết, nhớ vợ, nhớ con... còn buồn nào hơn nỗi buồn chia
ly. Ở đây tác giả so sánh nỗi lòng của mình với sóng nước. Sóng có bao nhiêu
gợn thì lòng mình cũng buồn bấy nhiêu, nhưng gợn sóng là vô vàn, không sao đếm
được. Cho nên tấm lòng của họ nhớ nhà, đau đáu chờ mong, buồn man mác cũng bấy
nhiêu, không sao nói hết được.
Bên cạnh đó hình ảnh của cầu ván, cầu tre, các phương tiện đánh
bắt cũng được người dân ở đây mượn làm phương tiện để nói nên nỗi lòng của
mình:
Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi.
Ví dầu mẹ chẳng có chi,
Chỉ con với mẹ chẳng khi nào mòn.
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi.
Ví dầu mẹ chẳng có chi,
Chỉ con với mẹ chẳng khi nào mòn.
Cầu tre, cầu ván là hai hình ảnh rất
quen thuộc đối với người dân Nam bộ. Nó thường được bắc qua những con
kinh, con rạch, sông nhỏ. Ở đây, người phụ nữ mở đầu bằng một hình ảnh rất quen
thuộc này như là một lời tâm sự của mình đối với con về tình mẫu tử thiêng
liêng. Có thể người phụ nữ này đã bị chồng phụ bạc nên cô rất đau buồn, coi như
là mất tất cả, cô chẳng còn thiết sống nữa. nhưng may còn được đứa con, nó là
nguồn an ủi vô giá đối với cô, níu chân cô lại trên cõi đời này. Vì vậy, mọi
tình yêu cô đều dành cho nó, xem như là nguồn an ủi duy nhất trong cuôc đời
mình.
Không chỉ là lời than thân trách phận, không chỉ là tình mẫu tử
bao la, lời tỏ tình dễ thương, sông nước Nam bộ còn phản ánh những nếp sinh
hoạt, những buổi lao động hết sức đời thường của họ. Thể hiện được một cuộc
sống đơn sơ, giản dị nhưng đầm ấm tình người, tình mẹ con, vợ chồng:
Cha chài mẹ lưới con câu,
Chàng rể đóng đáy, con dâu ngồi nò.
Chàng rể đóng đáy, con dâu ngồi nò.
Đây là một bức tranh sinh hoạt đời
thường, đầm ấm không khí gia đình ở Nam bộ gắn chặt cuộc sống của
mình với sông nước bao la. Không ai nạnh ai, mỗi người một việc, từ cha, mẹ đến
rể dâu ai cũng phải lao động, lao động với một tinh thần hăng say, yêu thích,
thể hiện được sự đoàn kết thương yêu lẫn nhau giữa các thành viên trong một gia
đình.
Hay:
Chiều chiều ông Lữ đi câu,
Bà Lữ đi xúc con dâu đi mò.
Bà Lữ đi xúc con dâu đi mò.
Cảnh mẹ chồng nàng dâu từ xưa đến nay
thiên hạ đã nói nhiều. Nhưng ở đây, ta thấy: mẹ chồng nàng dâu hết sức "ăn
ý", mặc dù không nói ra, nhưng qua cảnh sinh hoạt ta vẫn thấy được nàng
dâu và mẹ chồng rất hợp ý với nhau, ngay cả cha chồng cũng thế. Cả nhà cùng lao
động, không khí gia đình thật đầm ấm vui tươi.
Sông nước là một đặc trưng không thể
thiếu của Nam bộ, mà gắn liền với sông nước là ghe, xuồng, lưới, câu, hò, cầu
tre, cầu ván... tất cả đã trở thành rất quen thuôc với người dân Nam bộ. Cho
nên trong ca dao dân ca Nam bộ, để bộc lộ tâm trạng của mình thì người dân nơi
đây thường mượn các hình ảnh quen thuộc này để ví von, nhằm bộc lộ những gì
mình muốn nói, bởi tất cả đó đã trở thành thị hiếu của người dân nơi đây.
Cùng nằm trong cái nôi văn hóa của quê
hương, đất nước, ca dao dân ca Nam bộ đã mang đến cho kho tàng văn học dân gian
những vần ca dao ngọt ngào, tình tứ. Ca dao dân ca Nam bộ là sản phẩm của sự
suy tư, cảm xúc, sự trải nghiệm của con người, là tiếng nói của người Việt Nam,
đặc biệt là của nguời dân vùng đồng bằng Nam bộ, góp phần làm phong phú kho
tàng văn học dân gian của dân tộc.
TRẦN PHỎNG DIỀU
Nguồn Báo Cần
Thơ
đại lý vé máy bay eva tại tphcm
Trả lờiXóađặt vé máy bay đi mỹ ở đâu
vé máy bay korean air
đặt vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada tháng nào rẻ nhất
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch