Thứ Năm, 30 tháng 11, 2017

Hồn hậu, tinh tế trong những vần thơ

Hồn hậu, tinh tế trong những vần thơ
Với không ít người thường xuyên được tiếp xúc và sau khi đọc thơ của Tế Hanh đều không quá khó để nhận ra sự khác biệt đến mức tưởng chừng như đối lập giữa sự hồn hậu, tinh tế trong những vần thơ và cái vẻ bề ngoài ngu ngơ của ông. Hai thứ ấy dường như chẳng ăn nhập gì với nhau, nhưng nó vẫn kết hợp được một cách nhuần nhị trong con người này. Với nhà thơ Tế Hanh, câu châm ngôn: Nhìn mặt mà bắt hình dong, có vẻ như chẳng mấy hiệu nghiệm.
Nhà thơ Tế Hanh tên đầy đủ là Trần Tế Hanh, sinh ngày 20/6/1921 tại làng Đông Yên, phủ Bình Sơn, nay là xã Bình Dương, Bình Sơn, Quảng Ngãi. Cha ông là Trần Tất Tố, làm nghề dạy học và làm thuốc. Ông có bốn anh em, trong đó người em út là nhạc sĩ Trần Thế Bảo. Thuở nhỏ, ông học ở trường làng, rồi trường huyện. Năm 15 tuổi, ông ra học tại trường Khải Định (nay là trường Quốc học Huế).
Vốn sẵn ham thích thơ ca, lại được nhà thơ Huy Cận chỉ đường, nên Tế Hanh bắt đầu tập tọng làm thơ từ khá sớm. Năm 1938, lúc 17 tuổi, Tế Hanh đã có bài thơ đầu tiên: Những ngày nghỉ học. Sau đó, ông tiếp tục làm thơ, rồi tập hợp thành tập Nghẹn ngào. Nào ngờ năm 1939, tập thơ này của ông đã được giải khuyến khích của Tự lực Văn đoàn.
Vào cuối thời kỳ phong trào Thơ Mới, năm 1941, Tế Hanh và một số bài thơ của ông như Quê hương, Lời con đường quê, Vu vơ, Ước ao... được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong Thi nhân Việt Nam, xuất bản năm 1942.
Sau đấy ít lâu, tháng 8/1945, Tế Hanh tham gia Mặt trận Việt Minh, công tác trong ngành văn hóa, giáo dục ở Huế, Đà Nẵng. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, ông là Ủy viên giáo dục trong Ủy ban lâm thời thành phố Đà Nẵng. Từ năm 1949-1954, Tế Hanh làm việc tại Chi hội Văn nghệ Liên khu V. Sau Hiệp định Genève, 1954 ông tập kết ra Bắc, công tác ở Hội Văn nghệ. Năm 1957, Tế Hanh là một trong số những người tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam và trong Ban Biên tập tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ) của Hội. Nhiều năm sau đấy, ông còn là Ủy viên Ban chấp hành và Ban thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.
Vào những năm 80, mắt ông bị đau và mờ dần. Bệnh tật đã khiến ông liệt giường lúc mê lúc tỉnh trong nhiều năm. Ông qua đời vào lúc 12 giờ ngày 16 tháng 07 năm 2009, tại Hà Nội, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh xuất huyết não.
Trong cuộc đời cầm bút, nhà thơ Tế Hanh đã để lại một khối lượng tác phẩm
thơ khá đồ sộ, chủ yếu là thơ. Tuy nhiên, ngoài thơ, Tế Hanh còn là dịch giả thơ nổi
tiếng với nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn trên thế giới, viết tiểu luận phê bình văn học, thơ thiếu nhi...
Ông đã từng giành Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật đợt I, năm 1996 cho các tập thơ: Lòng miền Nam, Gửi miền Bắc, Tiếng sóng, Bài thơ tháng Bảy, Hai nửa yêu thương, Khúc ca mới, Đi suốt bài ca, Theo nhịp tháng ngày, Con đường và dòng sông, Bài ca sự sống; Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Hội Văn nghệ Liên khu V tặng.
Nhà thơ Tế Hanh luôn chiếm được cảm tình trong giới văn chương cùng thời và hậu thế. Nhà văn Nhất Linh, Chủ tịch Câu lạc bộ Tự lực văn đoàn đã có những nhận xét khá chuẩn xác về tài thơ của Tế Hanh ngay khi nhà thơ còn rất trẻ: Tế Hanh có rất nhiều hứa hẹn trở nên một thi sĩ có tài, ông có một linh hồn rất phong phú, có những rung động rất sâu sắc; và để diễn tả tâm hồn, ông có đủ nghệ thuật và cách đặt tìm câu chữ (1). Có lẽ đây là một nhận xét của một người vừa có tài nghệ thẩm thơ, vừa có quan hệ mật thiết với nhà thơ Tế Hanh.
Còn trong Thi nhân Việt Nam, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đánh giá cao Tế Hanh về độ tinh nhạy nắm bắt cảnh sinh hoạt thôn quê: Tế Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương, như tiếng hát của hương đồng quyến rũ, con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi... (2)
Nhà nghiên cứu- phê bình văn học Vương Trí Nhàn chia cuộc đời sáng tác của Tế Hanh ra làm hai thời kỳ và ông không ngại đặt Tế Hanh ngang tầm với nhiều tên tuổi lớn trong làng thơ Việt: Trong thơ Việt Nam tiền chiến, ông chưa bao giờ tạo được một sự hấp dẫn lạ lùng như Hàn Mạc Tử hoặc Nguyễn Bính, cũng không có lúc nào làm chủ thi đàn như Thế Lữ hoặc Xuân Diệu. Nhưng ông vẫn có chỗ của mình... Tập Nghẹn ngào từng được giải thưởng Tự lực văn đoàn, là một minh chứng sinh động nhất cho điều ấy. Từ sau 1945, ông vẫn làm thơ đều đều, những tập thơ mỏng mảnh, giọng thơ không có gì bốc lên nồng nhiệt, nhưng được cái tình cảm hồn nhiên, và tập nào cũng có một ít bài đáng nhớ, khiến cho ngay sau Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu người ta nghĩ ngay đến Tế Hanh (3). Có thể nói đây là một nhận định, đánh giá tương đối khách quan về Tế Hanh.
Có người còn cho rằng, trong số các nhà thơ Việt Nam hiện đại, đặc biệt là những người từng bước ra từ phong trào Thơ Mới, Tế Hanh là một người có dáng vẻ thi sĩ hơn cả với đôi mắt nồng nàn lạ (4). Chính cái sự nồng nàn lạ ấy của ông, trong mắt mọi người luôn thấy ông ngơ ngác buồn, lúc thì xa xăm, khi thì bâng quơ không rõ ngọn ngành. Cặp mắt ấy luôn thường trực và ông mang theo trong suốt cuộc đời lúc làm thơ cũng như khi tiếp xúc với mọi người. Và chúng trở thành một nét đặc trưng trong mọi hành vi ứng xử của ông với thiên nhiên đất trời, với cuộc đời và với con người.
Theo các nhà tướng số học, người có vẻ ngoài ngu ngơ như Tế Hanh rất dễ thành đạt trên đường quan lộ. Với dáng vẻ bề ngoài như thế, người ta thấy ông không phải là người tham lam, ít mưu mô, thậm chí là người dễ bảo, nên đặt vào chức vị nào mà chẳng được. Lại nữa một người có tài thơ, nhưng cái tình của ông dường như đã bày hết lên mặt chữ, khiến ai để ý có thể thấy được hết gan ruột của ông qua từng con chữ dùng dắng thế, còn hơi sức đâu mà nghĩ ra chiêu trò nọ, mẹo mánh kia:
Gặp em câu cuối cùng chưa nói
buổi sớm qua rồi, sắp hết trưa...
Vừa thực lại vừa mộng
Vừa gần lại vừa xa
(Mùa thu Yanta)
Tôi đã từng được tiếp xúc, trò truyện với nhà thơ Tế Hanh vào những tháng năm cuối đời, thấy ông là một người hiền lành, từ ánh mắt nhìn, giọng nói, cử chỉ, thậm chí còn hơi rụt rè, nhút nhát. Ông nói rất chậm, vừa nói vừa nghĩ điều gì đấy, đang nói bỗng dưng im lặng, khiến người nghe cảm thấy lời nói của ông chẳng ăn nhập gì với ý nghĩ. Điều ấy không chỉ tạo nên một phong cách sống của riêng nhà thơ, mà còn góp phần tạo nên một phong cách thi ca đậm chất Tế Hanh. Ngay tập thơ đầu tay ông cũng đã đặt cho nó một cái tên rất khó nói ra Nghẹn ngào. Có thể nói sự nghẹn ngào hay khó nói ra, tính chất lấp lửng là một phẩm chất đặc trưng của con người Tế Hanh cũng như thơ ông. Từ tập thơ đầu tiên cho đến những tập thơ sau này, ở đâu chúng ta cũng dễ dàng tìm ra những câu thơ như thế:
Chiều chiều đến, tựa người bên cửa sổ
Đợi hồn nào trở lại vẩn vơ song
Hay nghe ngóng ý về trong tiếng gió,
Tôi dần dần khô héo với chờ mong
Đến bây giờ than ôi tôi vẫn nhớ,
Vẫn thấy gì thiếu thốn ở trong lòng!
(Nhớ)
Cảm giác nhớ mong của ông là có thật, thế nhưng nhớ mong cái gì thì lại không rõ ràng, chỉ biết là: Đợi hồn nào trở lại vẩn vơ song và Vẫn thấy gì thiếu thốn ở trong lòng.
Có một điều chắc chắn rằng, không phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh và Hoài Chân chọn bốn bài thơ: Quê hương, Lời con đường quê, Ước ao và Vu vơ của Tế Hanh để in trong tập sách thẩm bình thơ rất nổi tiếng từ trước Cách mạng tháng Tám là Thi nhân Việt Nam. Thực ra, đây chưa hẳn là bốn bài thơ hay nhất của Tế Hanh, nhưng chúng lại đem đến cho người đọc dễ dàng nhận ra phong cách thơ của ông. Chúng ta thử đặt bốn bài thơ cạnh nhau và đọc đi, đọc lại vài lần, sẽ không hề khó nhận ra mẫu số chung của chúng. Dù viết về hai mảng đề tài khác nhau: quê hương và tình yêu đôi lứa, nhưng cả bốn bài đều vừa rất thực lại vừa rất mộng. Sự lẫn lộn giữa thực và mộng trong con người nhà thơ cũng như trong phần lớn các bài thơ của Tế Hanh đã tạo nên một phong cách riêng, không trộn lẫn với bất kỳ ai, đem đến cho người đọc một sức gợi tiềm tàng.
Ở bài Quê hương ông viết:
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
Và ở bài Con đường quê:
Tôi, con đường quê nhỏ chạy lang thang 
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng 
Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng 
Hương đồng quyến rũ hát lên vang ...
Tôi sống mê man tránh tẻ buồn 
Miệt mài, hể hả, đắm say luôn 
Tôi thâu tê tái trong da thịt 
Hương đất, hương đồng chẳng ngớt tuôn...
Cùng viết về một đề tài quê hương, ở mỗi bài có những chi tiết, hình ảnh thơ khác nhau, nhưng rất thực như: chiếc thuyền, cánh buồm vôi, màu nước xanh, cá bạc, hay con đường quê chạy đến cuối thôn, những đứa trẻ chạy lang thang, những tiếng hát trẻ thơ vang vọng khắp cả làng, hơi cỏ vướng. Bật nhú lên trên cái nền rất thực ấy là những cảm giác rất mơ hồ, đầy mộng tưởng như: chất muối thấm dần trong thớ vỏ, cái mùi nồng mặn quá, hương đất, hương đồng chẳng ngớt tuôn.
Còn ở bài Ước ao Tế Hanh đã tự thú rất chân thành:
Anh là kẻ say mê, nhưng nhút nhát; 
Không hiểu giùm, em lại nỡ cho anh 
Là không yêu, là một kẻ vô tình. 
Anh tức quá, đem lòng ao ước tệ: 
Nếu em chết! Chắc là anh có thể 
Tỏ mối tình lặng lẽ quá sâu thâm: 
Anh đến nơi em nghỉ giấc ngàn năm 
Ngồi điên dại sầu như cây liễu rủ 
Anh không uống, anh không ăn, không ngủ, 
Anh khóc than, than khóc đến bao giờ 
Nước mắt anh lầy lội cả nấm mồ 
Nhỏ từng giọt xuống thân em lạnh lẽo. 
Rồi anh chết, anh chết sầu, chết héo; 
Linh hồn anh thất thểu dỗi hồn em. 
Và ở đâu kia, ở cõi đời đêm 
Chắc em chẳng nghi ngờ tình anh nữa...
Chỉ vì tính nhút nhát mà người thơ phải thề non, hẹn biển cho đến chết. Ấy là sự chết sầu, chết héo của chàng thi sĩ đa tình này bị người yêu nghi ngờ tình anh thôi. Còn nếu em chất thật thì Anh đến nơi em nghỉ giấc ngàn năm/ Ngồi điên dại sầu như cây liễu rủ. Ai dám bảo người trông vẻ bề ngoài ngu ngơ như Tế Hanh lại không có một tình yêu mãnh liệt, đắm đuối như bất cứ chàng trai nào khi bị người yêu hiểu nhầm hay ngờ vực mình không yêu.
Sự ngơ ngác của nhà thơ không biết từ bao giờ đã trở thành gánh nặng tâm can với con người và với cuộc đời, nhất là khi ông đoái nhìn cảnh chia ly:
Những ngày nghỉ học tôi hay tới 
Đón chuyến tàu đi, đến những ga 
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt 
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa 
Tôi thấy tôi thương những chuyến tàu 
Ngàn đời không đủ sức đi mau 
Có chi vướng víu trong hơi máy 
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau ...
Kẻ về không nói bước vương vương 
Thương nhớ lan xa mấy dặm đường 
Lẽo đẽo tôi về theo bước họ 
Tâm hồn ngơ ngẩn nhớ muôn phương
Nhớ một ai đó hay một cái gì cụ thể cũng đã quí và khổ sở lắm rồi. Đằng này nhà thơ lại ngẩn ngơ nhớ bốn phương. Đúng là nhớ kiểu này chỉ có ở chàng thi sĩ đa tình Tế Hanh mà thôi.
Tác giả Cao Huy Thuần trong bài viết Nhớ Tế Hanh nhân ngày giỗ đầu của nhà thơ, in trên TuanVietnam đã rất có lý khi ông cho rằng: Thực và mộng cứ vậy mà gặp nhau, hỏi han nhau, sóng đôi với nhau, đôi lúc gây nhau. Cũng như buồn và vui, im và nói, chúng ẩn rồi hiện như một nỗi lòng khắc khoải không nguôi. Tuồng như khi anh thực là anh phải thực. Khi anh vui là anh phải vui. Khi anh hùng hồn là anh phải hùng hồn. không phải anh dối lòng đâu! Có ai thật với thơ như anh! Thật đến não lòng. Nhưng rồi cũng tuồng như khi anh buồn thì anh rất sâu, khi anh im là anh rất thực. Buồn, anh không cần biện minh. Vui , anh phải tuyên bố. Nói, anh phải tìm chữ. Im, ấy là lúc anh sống với mình.
Có một cách thứ ba nữa mà, lạ quá, dù ở ngoài đời hay ở trong thơ, Tế Hanh làm ai cũng chú ý, dường như đây mới là nét đặc biệt của riêng anh, cá tính của anh: anh ít nói, nói nửa chừng, nói nhát gừng, chưa nói đã im, miệng nói mà đầu để ở đâu đâu, như không phải đang nói với người đối diện mà nói với cái suy nghĩ vừa hiện ra nửa chừng trong đầu (5).
Thơ Việt từ cổ chí kim dễ có đến cả trăm, nghìn người làm. Có người suốt cả đời hì hục viết mà chỉ dừng lại ở cữ người biết làm thơ. Còn có người mới chỉ đặt bút lần đầu tiên đã khiến người khác cảm nhận được ngay chất thi sĩ chứa trong tâm hồn người ấy. Tế Hanh thuộc tuýp người thứ hai. Tuy nhiên chất thi sĩ không phải lúc nào cũng là bà đỡ cho sự thành công đối với mọi tác phẩm thi ca. Nó là yếu tố trời phú cho mỗi người, còn để có một sự nghiệp thi ca được cộng đồng thừa nhận, chắc chắn sẽ còn cần đến nhiều yếu tố khác nữa.
Để kết thúc bài viết này, tôi xin mượn lời trong một bài viết của Chế Lan Viên khá chính xác về cái tạng của Tế Hanh, về bầu khí nuôi dưỡng thơ Tế Hanh: Dù anh viết khá hay về biển, biển trong bão dữ, nghĩ đến anh, tôi vẫn nghĩ đến cái êm đềm của những dòng sông. Chim anh viết hay, không phải hải âu mà là chim én. Anh có thể tả mùa hè rực rỡ nhưng hình như anh xúc động nhất mùa thu... Nếu vào trong khu vườn, Xuân Diệu sẽ ngoạm vào các trái hồng lẫn trái xanh, Huy Cận lắng nghe chất nhựa trên cành, người nào đó sẽ hì hục tìm thơ trong bộ rễ âm thầm, còn với Hanh thì màu xanh của lá cũng đủ cho anh hạnh phúc (6).
Tham khảo
(1). Nhất Linh viết khi công bố giải vào năm 1939.
(2). Thi nhân Việt Nam- Hoài Thanh và Hoài Chân. Nxb Văn học, H, 2010.
(3). Cây bút, đời người- Vương Trí Nhàn- Tập chân dung văn học. Nxb Hội Nhà Văn, H, 2007.
(4). Thi nhân Việt Nam- Hoài Thanh- Hoài Chân. Nxb Văn học, H, 2010.
(5). Nhớ Tế Hanh. Cao Huy Thuần. TuanVietnam.net, số ra ngày 27/1/2011
(6) Tế Hanh hay Thơ và Cách mạng - Tuyển tập Tế Hanh, NXB Văn học, 1987.
Viên An
Theo http://vanhocquenha.vn/


1 nhận xét:

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...