Từ sau năm 1945 đến nay, nền văn chương nước nhà luôn được tô
đậm bởi một đội hình nhà văn - chiến sĩ trưởng thành từ trong khói lửa của cách
mạng và chiến tranh. Nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị làm nên bản sắc văn
chương nước nhà, mới đây Hội Nhà văn Việt Nam cho xuất bản Tuyển tập văn xuôi
và Tuyển tập thơ thế hệ nhà văn chống Mỹ cứu nước.
Xin được giới thiệu cùng bạn đọc truyện
ngắn “Mảnh làng trong tôi” của nhà văn Xuân Đức in trong Tuyển tập
văn xuôi thế hệ nhà văn chống Mỹ cứu nước.
MẢNH LÀNG TRONG TÔI
Làng tôi cách thị trấn Hồ Xá không xa, người lớn đi bộ gần một giờ, còn trẻ con
thì đủ sức níu lấy gánh mẹ mà chạy lon ton từ nhà lên chợ huyện. Thế mà đã có một
thời tôi ngỡ cái làng của mình như một miếng bìa rọc bỏ khỏi thân gỗ quý, như bị
lãng quên khỏi nhịp tiến văn minh của loài người. Tuổi thơ của tôi lớn dậy
trong những lũy tre rậm rịt, bịt bùng, với tiếng ru khàn khàn của bà già hàng
xóm giữa những buổi trưa xao xác ngọn gió Lào. Chợ kháng chiến họp trong Rú Lịnh,
một khoảng rừng còn lại của thời hoang sơ làm ranh giới cho mấy xã vùng đất đỏ
Vĩnh Linh. Có lần giặc Pháp càn về chiếm làng tôi ba ngày, cả làng chạy vào trú
giặc trong Rú Lịnh. Vẫn nấu cơm, vẫn mắc nôi ru trẻ và họp chợ. Làng đồng bằng
mà cuộc sống không khác mấy dân du mục.
Từ làng tôi đi ngược lên phố huyện, trước đây cũng là một
quãng rừng cằn. Một tên thực dân Pháp đã chiếm lấy mở thành Sở cao su. Tuy vậy,
rừng vẫn còn nhiều cây cối lúp xúp, đã là nơi trú ngụ của từng đàn lợn rừng, cọp,
beo và nhiều hoang thú khác. Dọc con đường lên phố huyện, ngay ở bìa rừng, chẳng
hiểu từ đời nào đã dựng lên chiếc am thờ thập thò trong mấy gốc si có bộ rễ chằng
chịt, ngoằn ngoèo đến quái dị. Đấy là nơi thiêng liêng khủng khiếp. Tôi không
thấy một người dân nào trong làng đến am thờ đó cúng bái, lễ lạc, nhưng hầu như
đêm nào cũng được nghe một chuyện ma quái rùng rợn ở chốn âm u đó.
Tôi lớn lên, không hề nhìn thấy một mái nhà gạch. Cả làng có
duy nhất một nhà được gọi là giàu thì mái đổ đất, nghĩa là vẫn nhà tranh, rui
tre như mọi nhà khác, nhưng phía trên giàn đòn tay được đổ một lớp đất sét để
chống cháy. Cuộc đời tôi phải kể ra mấy ấn tượng không phai nhạt về việc khám
phá ra "văn minh" của loài người. Đấy là lần đầu tiên tôi nhìn thấy
chiếc máy hát quay tay do một cán bộ thông tin của tỉnh mang về dịp giảm tô.
Tôi không sao đến gần để nhìn cho rõ chiếc máy, tôi chỉ thấy người điều khiển
quay liên tục mấy vòng rồi đặt cái cổ máy cho gục xuống đĩa. Thế là hát. Tôi
không thể hiểu được vì sao cái cổ bằng sắt đen bóng như một con đỉa biển kia lại
có thể bỏ lên bỏ xuống mềm mại như thế!.
Lần thứ hai, tôi theo bố đi từ nhà khi mặt trời chưa lặn, bới
theo gói cơm nhỏ lên phố huyện để "xem" đài. Dọc đường tôi gặp bao
nhiêu người khác trong xóm cùng đi. Những đoàn người từ các làng hẻo lánh như
làng tôi nườm nượp kéo về Hồ Xá lúc kháng chiến chống Pháp mới thành công chẳng
có được mấy nhà cửa. Người ta gắn chiếc loa phóng thanh hút sâu vào đầu hồi một
ngôi nhà tranh. Dân quê chúng tôi ngồi san sát phía dưới sân, trật tự, thật nín
lặng nghe tiếng đài. Cho đến bây giờ tôi vẫn cứ bất bình về việc tại sao hồi đó
người ta lại không gắn chiếc loa lồi ra bên ngoài. Thành thử sau một đêm nghe
đài no nê, ra về cả làng tôi vẫn không ai biết được tiếng hát, tiếng nói kia
phát ra từ đâu. Và cái nhà tranh trên phố Hồ Xá trở nên bí hiểm linh thiêng chẳng
kém gì cái am thờ trong Sở cao su người Pháp...
Có ai trả lời được mình trưởng thành từ lúc nào không? Tôi
cũng không thể nói cái làng tôi bước ra giữa nhịp đời văn minh từ khi nào, những
gì nhớ được và kể lại được chỉ là những ấn tượng không thể phai trong ký ức cá
nhân tôi mà thôi.
Hình như bắt đầu bằng những điệu múa. Chao ôi, những điệu múa
sao mà ngây ngô và dễ thương làm vậy! Tất cả xếp thành một vòng tròn, hát đi
hát lại một đoạn lời:
"Nhờ ơn có đảng
Vung tay phát động
Nhà nông chúng ta
Cố gắng tăng gia
Đêm thời đấu tranh
Cứ thế vừa đi vừa múa. Nói cho đúng không phải là múa mà là
nhại lại mấy động tác gieo mạ, cấy gặt rồi gánh lúa về. Có thế thôi mà chị hàng
xóm cạnh nhà tôi vì không có tốp nào cho đứng chung vào để đi vòng tròn đã khóc
ròng rã suốt một đêm. (Bây giờ nhờ trời chị ấy đã thành mẹ của sáu đứa con, có
ba là quân nhân cách mạng). Mỗi lần về làng tôi vẫn gặp chị, và không sao quên
được cái lần chị khóc vì không được múa. Cái cô gái thiếu niên ngây ngô ấy và
bà mẹ chiến sĩ hôm nay, một dấu gạch nối của thời gian thật kinh hoàng dữ dội
Cái dấu gạch nối ấy được chia trọn ra ba phần bằng nhau, y
như một sự sắp xếp trọn vẹn của lịch sử.
Nhà thơ Sađi của Ba Tư có 30 năm để học, 30 năm đi thực tế và
còn đúng 30 năm cuối đời để viết dưới vườn hồng. Làng tôi có 10 năm để sống đẹp
như tuổi dậy thì con gái, 10 năm vật lộn đến tận cùng sức lực với bão táp chiến
tranh và còn lại đến hôm nay là chẵn 10 năm để ngẫm nghĩ.
Làng tôi và tất cả các làng quê hẻo lánh khác của Vĩnh Linh
bước vào nhịp điệu cuộc sống mới không phải là những cô gái nhà quê ra tỉnh, mà
là những cô tấm lam lũ, bần hàn bước về chốn Hoàng cung lộng lẫy. Mười năm xây
dựng hòa bình có là bao so với chuỗi dài năm sáu trăm năm trước đó. Những cô
gái nhà quê Vĩnh Linh không phải chỉ biết soi gương chải tóc mà có thể nói là đủ
tư thế cho bao chàng trai Bắc Hà xiêu lòng. Xin đừng cho là quá lời, tôi có thể
nói ngay vài dẫn chứng. Đội tuyển bóng chuyền nữ Vĩnh Linh đã làm hoang mang
các tuyển thủ mạnh nhất miền Bắc. Đấy là năm 1963. Cũng năm ấy, huy chương vàng
bắn súng cũng thuộc về một cô gái Vĩnh Linh sau khi đánh bại tuyển thủ Quảng
Ninh ở vòng chung kết. Cũng năm ấy, cả hai đội tuyển học sinh giỏi Văn và Toán
của Ty giáo dục Vĩnh Linh đã làm cho học sinh phổ thông toàn miền Bắc ngẩn ngơ
kinh ngạc. (Đội toán giải nhất, đội văn giải nhì). Ôi, cái năm 1963 thực kỳ diệu!
Năm đó Trần Đức Vận đang tốt nghiệp cấp I. Tôi đi nhận phần thưởng học sinh giỏi
Văn toàn miền Bắc gặp anh - lúc ấy là một cậu bé đen điu thấp lùn - cũng đến nhận
giải thưởng học sinh giỏi toán lớp bốn của khu vực Vĩnh Linh. Và hai mươi năm
sau, tôi đến gõ cửa phòng riêng của vợ chồng anh tại khu tập thể trường Đại học
Ngoại ngữ Hà Nội. Chúng tôi nhận ra nhau mà cũng gần như không nhận ra nhau.
Tôi trong bộ quần áo lính của hai mươi năm quân ngũ; anh - nhà toán học trẻ tuổi
nổi tiếng vào cỡ hiếm có của thế giới ngày nay.
Rồi, tất cả vóc dáng đẫy đà lực lưỡng ấy, tất cả tâm hồn rào
rạt đắm đuối ấy lao ầm vào một cuộc chiến tranh một mất một còn với tên Đế quốc
lớn nhất loài người. Làng tôi là một trong những trọng điểm của "pháo đài
bay không lồ - B52". Tôi nhớ, những ngày tháng 7 năm 1967. Lúc ấy, tôi
đang đóng quân ở một làng cạnh làng tôi, nhìn về xóm nhỏ của mình chỉ thấy ngập
trời màu đỏ của lửa than và bụi đất. Đầu tiên là những mái nhà bốc lửa, rồi đến
những lũy tre, những tán mít, rặng dầu sở, cuối cùng là cỏ. Cỏ tranh cháy rần rật,
cỏ mật cháy ngậm ngùi. Một thời hồi xuân của làng tôi đã cháy. Những lối mòn
nhân hậu, những thói quen cộng đồng, cả những bảo thủ, hủ tục cũng cháy nốt. Những
năm đó đố tìm thấy một bình hương, một bàn thờ, bói cũng chẳng tìm ra một lời khấn
vái... Chim chóc bay đi, ong vàng ong mật cũng lánh đi; gà rừng vắng dần đã
đành, gà nhà cũng thực hiếm hoi mới nhìn thấy. Đến lượt người già, phụ nữ, trẻ
con cũng đi sơ tán ra phương Bắc. Làng tôi trần sùi đàn ông và đất đỏ. Làng lặn
sâu xuống địa đạo. Làng cất tiếng hát giọng trầm, tiếng hát của loại cung bậc
thâm trầm nhất trong giàn nhạc, cung bậc của gân bắp và sâu thẳm cõi lòng. Cứ
thế làng tôi đi qua mười năm nữa, cộng mười năm mượt mà trước đó để có chẵn cái
tuổi thanh niên. Hai mươi năm ngọt bùi nghĩ cũng chẳng ai bằng, đắng cay kể
cũng chẳng mấy ai sánh được. Nghĩ cho cùng đời một con người có được một khoảng
vài chục năm sống hết mình như vậy thì còn phải nuối tiếc điều chi! Nhưng đây lại
không phải là chuyện của một đời người. Tuổi của đất của làng dài lắm. Hai mươi
năm đâu có bõ bèn. Hôm nay, ngày mai, mai nữa, làng mình sẽ ra sao?
Một bạn văn của tôi thật chân tình, thật tâm đắc đã hỏi tôi:
"Tại sao anh lại cứ bám mãi vào cái làng xưa của anh như thế? Có gì chỗ đó
mà viết mãi?".
Tôi có thể trả lời với bạn thật dài dòng, cũng có thể trả lời
rất gắn gọn. Dài dòng là những chuyện trên dưới nghìn trang. Ngắn gọn là: chỗ
đó có tôi.
Tôi trở về làng với tư cách một người đồng thời với cái gạch
nối thời gian hai mươi năm ấy. Có lúc tôi cất vang tiếng gọi giữa làng xưa mà
nghe mất hút hồi âm của mình. Cái làng đồi đất đỏ cao nhất huyện Vĩnh Linh ấy
đã có nhiều sự đổi dạng. Người ta đổ dần ra phía thị trấn, đổ tràn ra dọc theo
trục đường Quốc lộ. Lại nghe đồn rằng chẳng bao lâu nữa, cái vùng đất đỏ ấy sẽ
được nhập vào một nông trường lớn để trồng cao su... Người hớn hở nghĩ đến ngày
mình được thành công nhân Nhà nước, tự mường tượng ra ngày cao su bạt ngàn phủ
kính màu đất đỏ, nhựa trắng loang lổ thân cây. Cả cái bệ làng xưa sẽ ứa dâng
tràn trề tiền của! Người lại ngậm ngùi nhớ lũy tre xưa, nhớ cái nhịp điệu kẽo
cà kẽo kẹt mỗi khi nồm lên, nam tới. Một nửa số nhà dời đi, một nửa số nhà vẫn
âm thầm nằm lại: Tôi mang trong lòng cả hai nỗi niềm ấy. Làng tôi bỗng nhiên
thưa thớt những nếp nhà, nhưng lại bộn bề tính toán trăn trở. Cả người đi, cả
người ở lại, ai cũng ngổn ngang lo liệu cho tương lai. Giọng hát ru bây giờ xem
chừng cũng vội vàng tất bật như làm ruộng khoán. Một gốc cây lưu niên cắm xuống
vườn không còn vẻ trầm tư đĩnh đạc như thuở nào mà nhấp nhổm phập phồng trong mọi
dự án khoanh vùng tương lai. Biết làm sao khác được.
Làng sinh ra đã lâu, thậm chí là đã quá lâu, nhưng ngỡ như bây giờ mới thật sự tới tuổi thành niên, sắp chọn ngành chọn nghề, sắp lấy chồng, sắp ăn riêng lập nghiệp. Làng tôi đã khôn ngoan lên. Đứa con khôn lên thường không chịu nằm trong nôi. Tuy vậy, người có nghĩa là người khi đã trưởng thành vẫn cầm chặt tao nôi ru cho con cháu mình được yên lành giấc ngủ.
Làng sinh ra đã lâu, thậm chí là đã quá lâu, nhưng ngỡ như bây giờ mới thật sự tới tuổi thành niên, sắp chọn ngành chọn nghề, sắp lấy chồng, sắp ăn riêng lập nghiệp. Làng tôi đã khôn ngoan lên. Đứa con khôn lên thường không chịu nằm trong nôi. Tuy vậy, người có nghĩa là người khi đã trưởng thành vẫn cầm chặt tao nôi ru cho con cháu mình được yên lành giấc ngủ.
Nghĩ vậy, mà tôi trở về làng. Tôi sẽ ở lại với người ở lại và
cùng đi với ai ra đi. Tôi sẽ viết bài báo tuyên truyền hùng hồn cho cái nông
trường cao su kia và viết đôi dòng lục bát về câu ra khàn khàn của bà già hàng
xóm mỗi khi gió lào xao xác. Bởi một lẽ đơn giản là, cái nông trường bạt ngàn
kia thì chưa hiện hình mà bà già nhà bên thì đã khuất. Mủ cao su còn lâu mới
làm bạn với làng còn câu ru thì hiện thời côi cút. May mà cũng còn kịp. Trong
tôi, trong anh, trong bao nhiêu người nữa vẫn còn nguyên vẹn những mảnh làng.
Những mảnh làng cứ vằng vặc sáng trong tâm thức mỗi người trên con đường đi tới
một cộng đồng vĩ đại hơn: Tổ quốc và no ấm. Tôi nghĩ thế và tôi tin như thế,
anh bạn văn tâm đắc ạ. Vì vậy mà tôi lại trở về làng.
Vinh Linh, 1978
Xuân Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét