Đà Lạt nằm trên Cao nguyên Langbiang có độ cao 1.500m.
Langbiang, còn được gọi là Lâm Viên, trước đây là địa bàn cư trú của các sắc tộc
người Lát, một nhánh của dân tộc K’Ho. Người Việt đầu tiên có ý định khám phá
vùng rừng núi Nam Trung Bộ là Nguyễn Thông, nhưng do nhiều lý do nên cho tới cuối
đời ông vẫn không thực hiện được ý định của mình.
Núi cao nhất Đà Lạt cũng là ngọn núi mang tên Langbiang. Thực
ra thì núi Langbiang có tới 3 ngọn chính: Chư Yen Du cao 2.075m còn gọi là núi
ông Nhút, núi Langbiang cao 2.167m còn gọi là Lâm Viên và núi Bi Doup cao
2.287m còn gọi là núi Bà vì hai ngọn núi trông tựa bộ ngực của phụ nữ.
Năm 1994, nhân một chuyến du lịch xuyên Việt với đoàn sinh
viên Mỹ đến Việt Nam trong học kỳ mùa hè tôi đã leo lên tới đỉnh Langbiang.
Chúng tôi leo ngọn Lâm Viên vì đây là ngọn núi dễ leo hơn 2 ngọn kia nhờ có đường
dẫn lên tới đỉnh.
Nói dễ leo nhưng đối với tôi lúc đó tuổi đã chớm 50 nên suốt
đoạn đường phải nghỉ nhiều chặng trong khi đám sinh viên Mỹ còn trẻ cứ phăng
phăng tới đỉnh. Lên đến nơi bao nhiêu mệt mỏi đều tan biến khi được nhìn xuống
cảnh quan thanh bình dưới chân núi. Bầu không khí mát lạnh. Vài cụm mây xuống gần
đỉnh núi càng làm tăng những giây phút thoát trần…
Hình tượng của ngọn núi Langbiang cũng đã được hai kiến trúc
sư người Pháp Monce và Revenron thể hiện trong kiến trúc 3 mái vòm nhọn của nhà
ga Đà Lạt. Công trình xây dựng nhà ga được khởi công năm 1932 đến năm 1936 mới
hoàn thành.
Khi vào lập nghiệp tại Đà Lạt năm 1953, gia đình tôi mua một
căn biệt thự mặt chính nhìn ra đường Phạm Hồng Thái, phía sau lưng là đường Lê
Thái Tổ. Từ nhà nhìn qua Phạm Hồng Thái, ở phía bên kia thung lũng, là đường rầy
xe lửa. Ngày hai buổi sáng-chiều có chuyến Đà Lạt-Tháp Chàm chạy qua.
Bọn trẻ chúng tôi vẫn thường băng qua thung lũng, chơi đùa
trên đường sắt vì biết rõ lịch tầu chạy mỗi ngày chỉ có 2 chuyến đi và về.
Chúng tôi có thói quen vẫy tay chào khách trên tầu và đôi khi cũng có người vẫy
lại.
Vì đây là đoạn cuối của cuộc hành trình nên chiều chiều vào
khoảng 4g chuyến xe lửa từ Tháp Chàm về luôn hú những hồi còi dài trước khi vào
ga Đà Lạt. Hình như tầu cũng biết mệt sau khi từ đồng bằng leo dốc lên cao
nguyên.
Tuyến đường sắt từ Đà Lạt đi Tháp Chàm (Phan Rang) là tuyến
đường sắt răng cưa duy nhất của Việt Nam từ trước đến nay. Rất tiếc là hệ thống
răng cưa này đã bị tháo dỡ bán sắt vụn gần hết sau năm 1975. Cây cầu sắt dành
cho tuyến đường sắt bắc qua sông Đa Nhim tại địa phận thị xã Dran cũng đã bị
tháo dỡ vào năm 2004.
Ga Đà Lạt hiện nay chỉ còn một chiếc đầu máy xe lửa hơi nước
chạy bằng than củi, hai chiếc khác đã được Bảo tàng Xe lửa Thụy Sĩ mua lại. Ga
Đà Lạt hiện nay là một địa điểm du lịch, hằng ngày có các chuyến tàu chở du
khách đi đến Trại Mát, cách ga 5km.
Hồ Xuân Hương nằm ngay trung tâm thành phố Đà Lạt, ngày xưa
có tên Grand Lac (Hồ Lớn). Riêng đối với tôi, Xuân Hương là một cái hồ mà nếu
chỉ chậm vài phút, tôi đã ngủ yên trong giòng nước mát lạnh!
Một buổi trưa tôi cùng vài đứa bạn học ra tắm ở hồ Xuân
Hương, phía vườn hoa Bích Câu. Dạo đó tôi chưa biết bơi nên chỉ đứng ở chỗ nông
nhưng một đứa bạn, cũng chỉ mới biết bơi sơ sơ, mắn tay kéo ra xa. Tôi hụt chân
và cố vùng vẫy nhưng càng lúc càng chìm xuống nước…
Trong khoảnh khắc đối diện với cái chết đang từ từ đến thì một
thanh niên đạp xe ngang qua thấy vậy nên vội vàng nhảy xuống nước vớt lên. Cho
đến giờ này tôi cũng không thể hình dung khuôn mặt của người đã cứu mình, lúc
đó chỉ biết bụng đã óch ách đầy nước. Trưa hôm đó ra đến cửa hàng của mẹ ngoài
chợ tôi không tài nào nuốt nổi một miếng cơm mà cũng không thể nào giải thích với
mẹ vì sao bụng đã no nước.
Viết lại những dòng này tôi xin tri ân người thanh niên đi xe
đạp đã xuất hiện đúng lúc như một phép lạ. Nếu không có anh thì chắc chắn giờ
này làm gì còn tôi ngồi viết những dòng hồi ức này.
Bây giờ ngồi nhớ lại chuyện xưa tôi bỗng giật mình vì cái tên
hồ thật thơ mộng nhưng cũng thật tàn nhẫn… Hồ Xuân Hương đã nuốt chửng biết bao
nhiêu mạng sống, có thể đó là những người không thiết sống nhưng cũng có thể đó
là những trường hợp như tôi, chỉ chậm vài phút không gặp người cứu thì giờ này
đã ngủ yên dưới lòng hồ.
Hồ Xuân Hương thực chất là một hồ nhân tạo, được đào vào năm
1919 do sáng kiến của Cunhac. Để tạo thành hồ, người ta đắp một cái đập chắn
dòng suối chảy qua thung lũng, trên mặt đập là một cây cầu mang tên Cầu
Ông Đạo. Đập này nằm trước dinh Quản Đạo mà vị Quản đạo bấy giờ là Phạm Khắc
Hòe (*) vẫn được dân địa phương gọi là Ông Đạo nên khi đập cũng là cầu
xây xong, người dân quen gọi là Cầu Ông Đạo.
Năm 1973, Nguyễn Vỹ, chủ tịch hội đồng thị xã, đề nghị đổi
tên Grand Lac thành Hồ Xuân Hương. Mấy chục năm qua, Hồ Xuân Hương là tấm gương
tự nhiên của thành phố đã làm tăng thêm vẻ yêu kiều, duyên dáng cho Đà Lạt bên
cạnh sự đơn điệu, cô quạnh của những cánh rừng thông bạt ngàn.
Hồ có diện tích mặt nước rộng 25ha, chu vi dài 5,1km. Tôi
cũng đã từng có kỷ niệm chạy xe máy quanh hồ Xuân Hương với bạn trên chiếc xe
Puchs (lọai xe thời thượng của những năm 1960) chỉ để… đếm số cột đèn trồng
quanh hồ!
Xung quanh hồ nhiều kiến trúc độc đáo có giá trị nghệ thuật
và thẩm mỹ được xây dựng như khách sạn Palace, Thao trường Lâm Viên nối liền với
sân vận động, Nhà hàng Thanh Thủy, Thủy Tạ…
Đà Lạt còn có hồ Than Thở là một hồ nước tự nhiên. Trước đây
vùng hồ Than Thở có một cái ao gọi là Tơnô Pang Đòng. Vào năm 1917, người Pháp
đắp đập xây dựng hồ chứa nước cung cấp nước sinh hoạt cho thành phố Đà Lạt.
Người Pháp đặt tên hồ là Lac des Soupirs và người
Việt gọi là Hồ Than Thở. Vào lúc bình minh, sương mù bao phủ mặt hồ, tạo
nên một bức tranh thủy mạc tuyệt đẹp, nên sau năm 1975 hồ Than Thở còn mang
tên Hồ Sương Mai.
Nhà thờ Chính tòa Đà Lạt được chính thức khởi công vào 9 giờ
sáng Chủ Nhật, ngày 19/7/1931, do giám mục Colomban Dreyer (Khâm sứ Toà thánh tại
Đông Dương và Thái Lan) đặt viên đá đầu tiên. Nhà thờ được xây theo đồ án của
linh mục Céleste Nicolas, cha sở lúc bấy giờ.
Năm 1934, một thánh giá được đặt trên đỉnh tháp chuông chính.
Ở đỉnh tháp có gắn một con gà bằng đồng dài 0,66m, cao 0,58m. Cũng vì thế Nhà
thờ Chánh tòa sau này còn có tên Nhà thờ Con gà.
Con gà quay quanh một trục bạc đạn để chỉ hướng gió. Một số
người giải thích Con gà là biểu tượng của nước Pháp (Coq Gaulois) nhưng những
người Công giáo lại cho rằng Con gà là biểu tượng của sự sám hối, theo đoạn Tân
Ước kể lại việc Chúa Giê-su quở trách Phê-rô (một trong 12 tông đồ của Người): Ðêm
nay gà chưa gáy, con sẽ chối Ta ba lần…
Mặt bằng nhà thờ được xây dựng theo hình chữ thập giá có chiều
dài 65m, rộng 14m với tháp chuông cao 47m. Từ độ cao đó, tháp chuông nhà thờ có
thể nhìn thấy mọi nơi của thành phố.
Tường chịu lực của nhà thờ được xây bằng gạch đá dày khoảng
30-40cm. Trên tường trong nội thất được gắn các bức phù điêu với kích thước 1m
x 0,8m, làm bằng xi măng và sắt do nhà điêu khắc Xuân Thi thể hiện. Riêng phần
tường ngoài luôn được quét sơn màu hồng, càng tôn thêm sự trang nghiêm của một
công trình kiến trúc tôn giáo.
Đà Lạt vốn là vùng đất di cư của người gốc miền Trung nên
mang theo sự hiện diện của chùa chiền Phật giáo. Chùa Linh Quang, ngôi tổ đình
đầu tiên của Đà Lạt, tọa lạc trên đường Hai Bà Trưng do hòa thượng Thích Nhân
Thứ tạo lập năm 1931. Chùa Linh Sơn được xây dựng từ năm 1938 đến năm 1940 do sự
đóng góp của các Phật tử, nhất là ông Nguyễn Văn Tiến và Võ Đình Dung, những
người đã nhận thầu hầu hết các công trình kiến trúc thời bấy giờ.
Chùa Linh Phong nằm trên đường Hoàng Hoa Thám ở Trại Hầm, được
xây dựng năm 1944. Chùa dành riêng cho ni sư nên còn được gọi là Chùa Sư Nữ.
Nơi đây, bố mẹ và các em tôi quy y còn tôi đến giờ này vẫn chưa có… pháp danh!
Chùa Linh Phước còn được gọi là Chùa Ve Chai vì
trong sân có con rồng dài 49m được làm bằng 12.000 vỏ chai, sành sứ. Chùa là một
kiến trúc khảm sành độc đáo của Đà Lạt. Chùa tọa lạc tại Trại Mát, cách trung
tâm thành phố 10km về phía Đông.
Chùa Thiên Vương Cổ Sát được khởi xây năm 1958, cách trung
tâm Đà Lạt vào khoảng 5km, nằm trên một đồi thông. Chính điện chùa có 3 tượng
Phật cao 4m, được thỉnh từ Hồng Kông, trên đồi thông sau chùa là tượng Thích Ca
Phật Đài cao 20m. Chùa còn được gọi là Chùa Tàu, theo hệ phái Phật giáo
Huê Nghiêm của người Hoa.
Gần đây nhất, Đà Lạt có Thiền viện Trúc Lâm là thiền viện lớn
nhất Việt Nam, khánh thành năm 1994. Đây cũng là một trong những công trình xây
dựng Phật giáo lớn nhất sau năm 1975. Chùa tọa lạc bên cạnh hồ Tuyền Lâm trên một
khu đất rộng 25ha.
Hồ Tuyền Lâm cũng là một hồ nước thuộc thành phố Đà Lạt. Đây
là hồ nước ngọt rộng nhất Ðà Lạt, với diện tích khoảng 320ha, nằm cách trung
tâm thành phố khoảng 7km và cách thác Ðatanla 2km. Hồ nằm gần núi Phụng Hoàng,
đây được xem là khu phức hợp tập trung nhiều cảnh quan đẹp và dịch vụ du lịch
phong phú.
Hồ Tuyền Lâm có nhiều ốc đảo nhỏ và được bao bọc bởi khu rừng
thông. Một đập nước được xây dựng tại đây với chức năng điều tiết nước. Hiện
đang có dự án xây dựng khu du lịch nghỉ dưỡng, sân golf và khu săn bắn bên hồ.
Thiền viện Trúc Lâm được nối với trung tâm thành phố Đà Lạt bằng
hệ thống cáp treo, chuyên chở khách đến Thiền viện và quay về. Tháng 7/2009
trong một lần trở lại Đà Lạt với vợ chồng con gái từ Úc về tôi có dịp đi cáp
treo từ một qủa đồi mang tên Robin (gần đèo Prenn) để đến Thiền viện Trúc Lâm.
Giá vé cáp treo khứ hồi 60.000 đồng/người bao gồm tiền bảo hiểm, thuế VAT và
phí phục vụ.
Nơi cáp treo xuất phát có nhà hàng rộng mênh mông, chứa được
hàng ngàn thực khách nhưng có điều khách sử dụng cáp treo có thể đếm trên đầu
ngón tay còn khách trong nhà hàng thì chẳng thấy ai. Trước khi lên cabin cáp
treo, du khách có dịp ngắm toàn cảnh thành phố Đà Lạt trước mắt: những con đường
thành phố lên xuống uốn lượn, xa xa núi Langbiang, núi Voi – đúng là hình dáng
con voi – nằm xoải dài uy nghi vững chãi.
Lơ lửng giữa trời trên cáp treo tôi thoáng thấy những khoảng
rừng thông bị loang lổ tựa như chỗ đầu bị tróc mất tóc. Hình như đó là những
nơi người ta tranh thủ phá rừng để xây nhà cửa, dựng lên những cái hộp bê-tông
lớn nhỏ cao thấp lô nhô rối mắt.
Hệ thống cáp treo Ðà Lạt có thể nói là đáng tin cậy, do một
công ty Áo (Austria) vận hành. Các lồng cáp được đặt mua ở Thụy Sĩ, và máy móc
thiết bị do Ðức sản xuất. Việc bảo trì, điều hành và quản lý hệ thống xe cáp
treo do người Việt Nam đảm nhiệm, sau khi đã được các kỹ thuật viên của công ty
Áo huấn luyện kỹ càng suốt 3 tháng trời.
Tất cả 50 lồng cáp treo cùng di chuyển lên xuống suốt ngày, mỗi
lồng ngồi được 4 người. Trạm dừng của cáp treo đặt tại khu vực Trúc Lâm Thiền
Viện, cách trạm khởi hành 2,300 mét. Chuyến du hành trên không chỉ kéo dài đúng
12 phút.
Vợ chồng con gái cho biết cáp treo ở Tasmania chỉ là một cái
ghế có thanh sắt chắn phía trước, hoàn toàn không có cabin nên người ngồi trên
cáp treo cứ run như cầy sấy, sợ bị rớt xuống đất toi mạng. Cũng vì ấn tượng
kinh hòang với cáp treo Tasmania nên vợ chồng Hà nghe tới cáp treo là sợ phát
khiếp nhưng cũng liều đi cáp treo ở Đà Lạt.
Không ngờ cáp treo Việt Nam lại an toàn đến như vậy! Cabin là
một cái lồng kính, cửa khóa tự động nhưng cũng có thể mở cửa sổ để thò đầu ra
ngoài chụp ảnh. Về điểm này, ai dám bảo là Việt Nam lạc hậu hơn Úc?.
eva flight
vé máy bay từ mỹ đi việt nam
hãng korean air
bán vé máy bay đi mỹ giá rẻ
giá vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich