Hình thức và ý nghĩa của hình thức
trong sáng tạo nghệ thuật
Sự ràng buộc của những quan niệm cũ, giáo điều về sáng tạo
nghệ thuật, về nội dung và hình thức đã biến kiềm hãm thành tự kiềm hãm, không
hài lòng thành tự hài lòng, dẫn đến triệt tiêu và tự triệt tiêu những cái mới lạ,
những cái khác mình, những cái số đông không thừa nhận. Điều này bộc lộ khá rõ
trong thái độ đối với những tìm tòi về hình thức nghệ thuật trong sáng tác.
Hình thức và ý nghĩa của hình thức trong sáng tạo nghệ thuật
Mấy chục năm trở lại đây, đời sống văn học nghệ thuật nước ta
đã có những chuyển động mới. Đã xuất hiện những tác phẩm có giá trị thực sự. Đã
có những cách viết khác trước, những tìm tòi mạnh dạn về bút pháp, cách sử dụng
ngôn ngữ, cách tường thuật. Bên cạnh sự thay đổi về thế giới quan, về cảm hứng,
những đổi mới về cách thể hiện làm cho diện mạo của văn học, hội họa, sân khấu
có những nét mới, đời sống văn nghệ vì thế cũng sinh động hơn, đỡ nhạt tẻ hơn.
Tuy nhiên những thay đổi này có vẻ như còn lẻ tẻ, rời rạc và không mang tính đột
phá. Tình trạng ấy có gốc rễ sâu xa trong cái ngoài nghệ thuật, trong tính chất
nửa dơi nửa chuột của hoàn cảnh, trong não trạng ì ạch của xã hội nhưng đồng thời
cũng bắt nguồn từ chính bản thân những người trong giới sáng tác. Sự ràng buộc
của những quan niệm cũ, giáo điều về sáng tạo nghệ thuật, về nội dung và hình
thức đã biến kiềm hãm thành tự kiềm hãm, không hài lòng thành tự hài lòng, dẫn
đến triệt tiêu và tự triệt tiêu những cái mới lạ, những cái khác mình, những
cái số đông không thừa nhận. Điều này bộc lộ khá rõ trong thái độ đối với những
tìm tòi về hình thức nghệ thuật trong sáng tác.
Phải nói rằng ở nước ta từ 1945 đến nay chưa lúc nào vấn đề
hình thức nghệ thuật được đặt ra một cách thích đáng. Xuân Thu Nhã Tập với
những thể nghiệm mới của nó được nhắc đến chủ yếu vẫn như một ví dụ tiêu cực. Về
cơ bản, tư duy nghệ thuật phổ biến hiện nay vẫn là tư duy nội dung. Nội dung
quan trọng hơn hình thức, nội dung quyết định hình thức, nội dung và hình thức
có quan hệ lẫn nhau, nội dung thay đổi, hình thức thay đổi theo. Những cách hiểu
mối quan hệ giữa nội dung và hình thức theo một quan niệm duy vật biện chứng
đơn giản như vậy không những không giúp nhận thức đầy đủ mối quan hệ phức tạp
giữa nội dung và hình thức trong sáng tạo nghệ thuật mà còn dẫn đến việc hạ thấp
ý nghĩa của hình thức nghệ thuật, từ đó hiểu sai bản chất của nghệ thuật nói
chung.
Thật ra mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong nghệ thuật
phức tạp hơn rất nhiều và bản thân khái niệm hình thức nghệ thuật cũng như ý
nghĩa của nó cũng không hề đơn giản. Để hiểu vấn đề này không phải chỉ cần có sự
nhạy cảm thẩm mỹ mà còn cần có cái nhìn bao quát mang tính triết học, trên cơ sở
gắn nghệ thuật với sự sống, sự phát triển toàn diện của con người.
Chúng ta vẫn thường nghe nói trong nghệ thuật hình thức và nội
dung quan hệ với nhau rất chặt chẽ, nội dung có thể chuyển thành hình thức, quyết
định hình thức, hình thức gắn với nội dung, “có tính nội dung”. Những quan niệm
này không xuất hiện ngẫu nhiên mà có căn cứ triết học, mỹ học sâu xa, đặc biệt
là trong tư tưởng của Hegel.
Quả thật, có lẽ Hegel là người đầu tiên xem xét cặp phạm trù
Nội dung và Hình thức một cách hệ thống. Trong tác phẩm “Bách khoa thư các khoa
học triết học. Khoa học logic I”, trong phần “Học thuyết về bản chất”,
Hegel dành hẳn một mục bàn về Nội dung và Hình thức. Ông viết: “Nội dung không
phải là không có hình thức, trái lại, nó không chỉ có hình thức ở bên
trong nó mà còn có hình thức như cái gì ở bên ngoài [ngoại tại]
nó. Ta có ở đây sự hóa đôi của hình thức: một mặt như là sự phản tư – trong
mình, nó là nội dung; mặt khác, như là không được phản tư – trong mình, nó là sự
hiện hữu ngoại tại dửng dưng đối với nội dung” (1). Hình thức là nội dung, theo
Hegel, có thể xảy ra trong nhiều trường hợp: khi nó là “sự phản tư –
trong mình” như vừa nói ở trên, là “quy luật của hiện tượng” (2) cũng như khi nó
không phản tư – trong mình, dửng dưng với nội dung, nhưng “trong trường hợp đó,
bản thân nó cũng là một nội dung nhưng là một nội dung không – bản
chất, trực tiếp và dửng dưng với nội dung đúng thực” (3). Do tính chất của hình
thức và nội dung như vậy nên có “sự chuyển hóa qua lại của cái này thành cái
kia, khiến cho “nội dung” không gì khác hơn là sự chuyển hóa của hình thức
thành nội dung, và “hình thức” không gì khác hơn là sự chuyển hóa của nội
dung thành hình thức” (4). Hegel gọi sự chuyển hóa này là “mối quan hệ tuyệt
đối” giữa nội dung và hình thức và là “một trong những sự quy định quan trọng
nhất” (5).
Quan niệm về nội dung và hình thức này đã được Hegel triển
khai cụ thể hơn trong “Những bài giảng về Mỹ học”, khi ông xem xét nghệ thuật
như một giai đoạn trong sự vận động của ý niệm và do đó, cũng chính là một “hình
thức của Tinh thần tuyệt đối” (6). Chúng ta đều biết, theo Hegel, nghệ thuật,
tôn giáo và triết học là những hình thức tồn tại của Ý niệm, xuất hiện trong những
bước khác nhau của ý niệm trên con đường đạt đến sự hoàn thiện, đạt đến bản chất
của chính mình. Trong khuôn khổ của nghệ thuật, Ý niệm cũng có những hình thức
riêng, đó là “hình thức tượng trưng”, “hình thức cổ điển” và “hình thức lãng mạn” (7).
Theo cách gọi của Hegel, đây là “các hình thức của nghệ thuật” hay “các hình thức
chung”, “các hình thức phổ quát của nghệ thuật” (8). Các hình thức này khi được
hiện thực hóa nhờ những chất liệu khác nhau, sẽ hình thành những “loại
hình nghệ thuật” khác nhau như kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, thơ ca (9).
Các nghệ thuật này có quan hệ chặt chẽ với Ý niệm tuyệt đối bởi vì chúng “là sự
tồn tại hiện thực của các hình thức nghệ thuật” (10) mà hình thức nghệ thuật
bản thân nó không phải gì khác mà chính là sự bộc lộ của Ý niệm.
Có thể nói trong các tác phẩm triết học và mỹ học của mình,
Hegel sử dụng khái niệm hình thức chủ yếu trong nghĩa nói trên, tức là trong
tương quan của nó với nội dung được hiểu như Ý niệm tuyệt đối chứ không phải
hình thức như một nhân tố của tác phẩm nghệ thuật, như chất liệu và hệ thống
các phương tiện tổ chức nội dung cần diễn đạt. Hegel đã giải thích mối quan hệ
giữa hình thức và nội dung chủ yếu là trong tinh thần ấy. Chẳng hạn. Hegel viết:
“Một nội dung xác định cũng quy định cả hình thức tương ứng với nó” (11). Nội
dung không chỉ quy định hình thức mà còn có thể “chuyển vào hình thức”: “Để một
chân lý nào đó – Hegel viết – có thể trở thành nội dung đích thực của
nghệ thuật, điều cần thiết là trong bản thân nó phải chứa đựng khả năng chuyển
vào hình thức cảm quan một cách thích hợp” (12) hay nói cách khác, “chỉ ở
trong một phạm vi nhất định và đạt đến một trình độ nhất định thì chân lý mới có
thể tìm được sự thể hiện dưới hình thức tác phẩm nghệ thuật” (13). Theo
Hegel, nội dung và hình thức có quan hệ chặt chẽ với nhau: “Nội dung và hình thức
nghệ thuật thâm nhập vào nhau” (14). Những khiếm khuyết của hình thức có thể
xuất phát từ nội dung: “Tính chất không đáp ứng được của hình thức cũng bắt nguồn
từ tính chất không đáp ứng được của nội dung” (15). Còn nếu nội dung và hình kết
hợp với nhau một cách hài hòa thì đó là một trạng thái lý tưởng: “Ý niệm với tư
cách là hiện thực, khi nhận được hình thức thích đáng với khái niệm của mình,
chính là lý tưởng”(16). Sự thống nhất giữa hình thức và nội dung là yêu cầu
bắt buộc của tác phẩm nghệ thuật: “Trong nghệ thuật, cũng như trong mọi lĩnh vực
khác, chân lý và sự vững chắc của nội dung cốt yếu phải dựa trên một việc: nội
dung này tự cho thấy là đồng nhất với hình thức”(17) và “một tác phẩm nghệ
thuật thiếu hình thức thích đáng thì không thể được gọi là một tác phẩm nghệ
thuật”(18).
Có thể nói trong tác phẩm triết học và mỹ học của mình, Hegel
sử dụng khái niệm Hình thức chủ yếu trong tương quan với khái niệm Nội dung,
nghĩa là không thể hiểu Nội dung ngoài quan hệ với Hình thức và ngược lại,
không thể hiểu Hình thức ngoài quan hệ với Nội dung. Trong mối quan hệ này,
Hình thức có hai phương thức tồn tại: thứ nhất, nó như sự xác định của Nội
dung về phương diện lịch sử, tức là sự tồn tại của nội dung trong mỗi giai đoạn
vận động của mình. Khi Hegel gọi Nghệ thuật, Tôn giáo, Triết học là những hình
thức của Ý niệm hay Tượng trưng, Cổ điển và Lãng mạn là các hình thức chung của
nghệ thuật là ông sử dụng khái niệm Hình thức theo nghĩa đó. Thứ hai, Hình
thức như cái bên ngoài, cái hữu hình của nội dung, nhưng là cái bên ngoài không
dửng dưng với nội dung mà là “sự phản tư – trong mình” có cùng bản chất với Nội
dung và vì vậy cũng chính là Nội dung.
Bên cạnh đó, ta thấy Hegel còn nói đến Hình thức trong một
nghĩa khác, đó là hình thức không phải như hiện thân của Nội dung mà là phương
tiện diễn đạt của Nội dung. “Bản thân cái cảm tính trong tác phẩm nghệ thuật –
ông viết – là cái thuộc phạm vi của tinh thần, nhưng khác với ý tưởng
khoa học, cái tinh thần ở đây tồn tại về bề ngoài dưới hình thức một sự vật”(19).
Tính chất “sự vật” của tác phẩm nghệ thuật có được là do nó gắn với “chất liệu”:
“Cho dù tác phẩm nghệ thuật không thể nào thiếu được chất liệu cảm tính, thì chất
liệu này cũng chỉ được phép tồn tại như là cái vỏ và cái ngoại hiện của cái cảm
tính mà thôi(20). Chính trên cơ sở này, Hegel nhiều lần nói đến sự hoàn
thiện về kỹ thuật như một yêu cầu của tác phẩm nghệ thuật. Ông viết: “Chỉ khi lớn
tuổi các nhà thơ dân tộc của chúng ta (tức Goethe.W, Schiller.F – L.N.T chú
thích) mới dâng tặng cho chúng ta những tác phẩm sâu sắc và hoàn thiện về
hìnhthức (L.N.T nhấn mạnh), nảy sinh từ nguồn cảm hứng thực sự”(21), hoặc:
“Do bản chất của mình là có tính chất liệu và tính cá nhân, tác phẩm nghệ thuật
bị chi phối bởi nhiều yếu tố cụ thể hết sức đa dạng, trong đó quan trọng nhất
là thời gian và địa điểm ra đời của tác phẩm và sau đó là cá tính xác định của
mỗi nghệ sĩ và trình độ hoàn thiện về kỹ thuật của nghệ thuật”(22).
Như chúng ta thấy, rõ ràng ở đây, Hegel đã đề cập đến một
phương diện khác của hình thức, đến “mặt ngoài của hình thức”(23)theo cách nói
của ông, tức là hình thức trong ý nghĩa là sự diễn đạt của nội dung. Tuy nhiên,
Hegel đã không chỉ ra cụ thể tính chất của hình thức này và quan hệ của nó với
nội dung trong tác phẩm nghệ thuật ra sao. Điều này cũng là dễ hiểu, bởi vì
Hegel không phải là nhà lý luận nghệ thuật, ông là nhà triết học, mối quan tâm
chủ yếu của ông là những vấn đề về triết học. Nghệ thuật được ông xem xét chủ yếu
cũng dưới góc độ triết học. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà ông gọi những bài
giảng về mỹ học của mình là “Triết học Nghệ thuật” hay “Triết học của sáng tạo
nghệ thuật”.
Nghĩa thứ hai này của khái niệm Hình thức cũng như toàn bộ vấn
đề hình thức như là một phạm trù lý luận nghệ thuật chứ không phải phạm trù triết
học được đặt ra và giải thích đầy đủ và chi tiết nhất lần đầu tiên trong các
công trình của trường phái Hình thức Nga. Thật ra, nói cho công bằng, đồng thời
và trước các nhà Hình thức Nga một chút, phải kể đến C. Bell (1881-1964). Nếu
năm 1914 được đánh dấu như thời điểm khai sinh của trường phái Hình thức Nga với
việc in thành sách bài phát biểu của V. Shklovxky “Phục sinh của từ” tại một
quán cà phê ở Saint-Peterburg một năm trước đó, thì cũng vào năm 1914, C. Bell
xuất bản ở London cuốn sách gây tranh cãi trong thời gian dài nhan đề “Nghệ thuật”.
Trong tác phẩm nói trên, nhất là trong hai phần “Giả thuyết
thẩm mỹ” (The Aesthetic Hypothesis) và “Giả thuyết siêu hình” (The Metaphysical
Hypothesis), C. Bell đặt ra câu hỏi: cái gì làm cho một tác phẩm này được xem
là nghệ thuật, còn tác phẩm khác thì không và sau khi quan sát các hiện tượng
nghệ thuật, trước hết là nghệ thuật tạo hình, ông đi đến khẳng định: “Chỉ có một
câu trả lời duy nhất có thể – đó là hình thức có ý nghĩa” (24).
Hình thức có ý nghĩa (Significant form) là gì? C.Bell không có một định nghĩa thật rõ ràng. Ông viết: “Khi tôi nói hình thức có ý nghĩa là tôi muốn nói đến một sự phối hợp của các đường nét và màu sắc (trắng và đen cũng là màu) gây cho tôi những rung động về mặt thẩm mỹ”(25) và một chỗ khác: “Với ‘hình thức có ý nghĩa’, tôi muốn nói đến những sự sắp đặt và phối hợp làm cho chúng ta rung động theo một kiểu đặc biệt”(26). Như vậy, theo C. Bell “hình thức có ý nghĩa” – chứ không phải hình thức nói chung – là cái phân biệt tác phẩm nghệ thuật với không nghệ thuật và ít nhất nó phải có hai tính chất: thứ nhất, nó là những đường nét, màu sắc và sự phối hợp của các đường nét, màu sắc đó, và thứ hai, nó phải gây ra được rung động đặc biệt mà C. Bell gọi là “rung động thẩm mỹ”. Rung động thẩm mỹ khác “rung động đời sống” bình thường ở chỗ nó đưa con người vào một thế giới khác, “trong thế giới đó những rung động đời sống không có chỗ. Đó là một thế giới chỉ có những rung động với chính nó mà thôi”(27). Những rung động này do hình thức của tác phẩm gợi ra chứ không phải do những cảnh tượng được miêu tả trong tác phẩm hay những tư tưởng mang đến và do vậy, “để thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật, chúng ta không cần thứ gì ngoài cảm nhận về hình và màu và những kiến thức về không gian ba chiều”(28).
Hình thức có ý nghĩa (Significant form) là gì? C.Bell không có một định nghĩa thật rõ ràng. Ông viết: “Khi tôi nói hình thức có ý nghĩa là tôi muốn nói đến một sự phối hợp của các đường nét và màu sắc (trắng và đen cũng là màu) gây cho tôi những rung động về mặt thẩm mỹ”(25) và một chỗ khác: “Với ‘hình thức có ý nghĩa’, tôi muốn nói đến những sự sắp đặt và phối hợp làm cho chúng ta rung động theo một kiểu đặc biệt”(26). Như vậy, theo C. Bell “hình thức có ý nghĩa” – chứ không phải hình thức nói chung – là cái phân biệt tác phẩm nghệ thuật với không nghệ thuật và ít nhất nó phải có hai tính chất: thứ nhất, nó là những đường nét, màu sắc và sự phối hợp của các đường nét, màu sắc đó, và thứ hai, nó phải gây ra được rung động đặc biệt mà C. Bell gọi là “rung động thẩm mỹ”. Rung động thẩm mỹ khác “rung động đời sống” bình thường ở chỗ nó đưa con người vào một thế giới khác, “trong thế giới đó những rung động đời sống không có chỗ. Đó là một thế giới chỉ có những rung động với chính nó mà thôi”(27). Những rung động này do hình thức của tác phẩm gợi ra chứ không phải do những cảnh tượng được miêu tả trong tác phẩm hay những tư tưởng mang đến và do vậy, “để thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật, chúng ta không cần thứ gì ngoài cảm nhận về hình và màu và những kiến thức về không gian ba chiều”(28).
Nhưng vì sao “hình thức có ý nghĩa” lại có khả năng mang lại
cho chúng ta rung động thẩm mỹ? Do bản thân đường nét, màu sắc và sự phối hợp của
nó có gì đặc biệt chăng? C. Bell giải thích: “Hình thức được sáng tạo sở dĩ làm
chúng ta rung động sâu xa đến vậy là do nó thể hiện rung động của chính người
sáng tạo ra nó”(29). Như vậy, cái mà C. Bell gọi là “ý nghĩa” của hình thức
không phải ở chỗ hình thức mang một nghĩa (meaning) nào đó, chứa đựng một
nội dung tư tưởng nào đó như thoạt đầu người ta có thể nghĩ, mà là ở giá trị của
nó, ở chỗ nó có khả năng gây ra một cảm xúc thẩm mỹ nhờ tích tụ được một năng
lượng tình cảm mà nghệ sỹ khi sáng tác đã trút ra ở đầu ngọn bút. Chính ở chỗ
này, theo C. Bell “hình thức có ý nghĩa” khác “hình thức đẹp”. Cánh bướm
có thể rất đẹp nhưng nó không gây cho chúng ta một cảm xúc giống như tác phẩm
nghệ thuật. “Nó là hình thức đẹp (beautiful form) nhưng nó không phải là hình
thức có ý nghĩa (significant form). Nó cũng làm chúng ta rung động nhưng không
làm chúng ta rung động về mặt thẩm mỹ”(30).
Quan niệm của C. Bell về hình thức, đặc biệt là khái niệm “hình
thức có ý nghĩa” do ông đưa ra nhận được nhiều phản ứng khác nhau, trong đó có
cả những đánh giá nặng nề. “Khái niệm hình thức có ý nghĩa tự nó rất tiếc là
không xác định. – Noel Carroll viết – Nói chính xác thì nó là gì? Nhà
hình thức chủ nghĩa không chỉ cho chúng ta thấy cách nào có thể phân biệt đâu
là hình thức có ý nghĩa và đâu là hình thức không có ý nghĩa… Cái gì làm cho sự
sắp đặt các hình này thành có ý nghĩa còn cái khác thì không? Chúng ta không biết
làm sao xác định cả. Như vậy, sự mù mờ nằm ngay trong tim của chủ nghĩa hình thức.
Một lý thuyết như vậy là không hữu dụng vì thuật ngữ trung tâm của nó không rõ
ràng”(31).
C. Bell không phải là nhà triết học cũng không phải là nhà lý
luận nghệ thuật. Ông chủ yếu là nhà phê bình nghệ thuật và kinh nghiệm sáng tạo
của ông về cơ bản dựa vào hội họa và điêu khắc. Tham vọng của ông muốn đi tìm một
bản chất cốt lõi, một cái gì chung nhất cho các tác phẩm nghệ thuật với việc
đưa ra khái niệm “hình thức có ý nghĩa” có thể chưa thành công, tuy nhiên cảm hứng
về hình thức của ông góp phần tạo một cú hích quan trọng, thúc đẩy sự vận động
của tư duy nghệ thuật, dẫn đến sự hình thành và phát triển của trào lưu chủ
nghĩa hình thức nở rộ cả trong thực tiễn sáng tác lẫn trong phê bình – lý luận
thế kỷ XX. Bản thân khái niệm “hình thức có ý nghĩa” của C. Bell cũng đã được
tìm thấy trong công trình của M. Bakhtin và cho đến nay, C. Bell vẫn được đánh
giá như “kiến trúc sư buổi đầu của mỹ học phân tích đương đại… Lý luận nghệ thuật
mang tính chủ nghĩa hình thức của ông đã trở thành một trong những lý thuyết
kinh điển của mỹ học triết học thế kỉ XX”(32).
Đồng thời với C. Bell ở Anh, các nhà hình thức Nga như V.
Shklovsky, B. Eikhenbaum, B. Tomashevxky, Y. Tynyanov, R. Jakobson, V. Propp
cũng khơi dậy một phong trào tập trung vào nghiên cứu hình thức, tạo nên một
trường phái được mệnh danh trong lịch sử mỹ học và lý luận văn học là Chủ
nghĩa hình thức Nga. Các nhà hình thức Nga không đi sâu vào lý luận có tính chất
triết học về hình thức, vấn đề quan hệ giữa hình thức và nội dung mà chú ý trước
hết đến các yếu tố cụ thể của hình thức tác phẩm, đặc biệt là ngôn ngữ. Nếu những
khái quát của C. Bell chủ yếu căn cứ vào nghệ thuật tạo hình thì những kết luận
của các nhà hình thức Nga xuất phát từ việc khảo sát tác phẩm nghệ thuật ngôn từ.
Nhưng tham vọng của các nhà hình thức Nga lớn hơn C. Bell. Nếu C. Bell chỉ muốn
tìm câu trả lời cái gì làm cho tác phẩm nghệ thuật khác các tác phẩm khác, thì
các nhà hình thức Nga đi xa hơn, muốn tạo ra một “phương pháp hình thức” mà thực
chất là muốn “sáng tạo nên một khoa học văn học tự trị xuất phát từ những phẩm
chất độc đáo của chất liệu văn học” (B. Eikhenbaum) và từ đó xem xét lại cả
cách nghiên cứu lịch sử văn học: lịch sử văn học không phải lịch sử của các nhà
văn, các tác phẩm, các trào lưu với đời sống xã hội có quan hệ với chúng, mà là
sự tiến hóa của các hình thức và “sự nghiên cứu phải đi từ chức năng kiến tạo đến
chức năng văn học, từ chức năng văn học đến chức năng ngôn từ”(33).
Bên cạnh việc đi sâu khảo sát thi pháp của tác phẩm thơ và
truyện, nêu bật vai trò của các “mẫu hình nhịp điệu”, “chủ âm” trong thơ, phân
biệt cốt truyện (syuzhet) và cách kể (fabula) trong văn xuôi, các nhà hình thức
Nga, giống như C. Bell cũng nêu vấn đề: cái gì làm cho tác phẩm được xem là nghệ
thuật, cụ thể là cái gì biến lời nói thành thơ, cái gì có khả năng thống nhất tất
cả các loại hình nghệ thuật. Và họ cũng như C. Bell tìm yếu tố này không phải
trong nội dung mà trong hình thức của tác phẩm, trước hết là trong chất liệu,
trong ngôn ngữ. Nếu đối với C. Bell, đó là “hình thức có ý nghĩa” thì đối với
R. Jakobson, đó là “tính văn chương” còn với V. Shklovxky, đó là thủ pháp “lạ
hóa”. R. Jakobson viết: “Thơ ca là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó. Như
vậy, đối tượng của khoa học về văn chương không phải là văn chương, mà là tính
văn chương”(34), tức là “cái làm cho một tác phẩm này thành tác phẩm văn
chương” (35).
Ông giải thích thêm: “Đối tượng làm việc của nhà ngôn ngữ học khi phân tích văn bản thơ ca là “tính văn chương” hay nói cách khác, là quá trình biến lời nói thành tác phẩm thi ca và hệ thống các thủ pháp mà nhờ chúng, quá trình này được hoàn thành”(36). Trong quá trình ấy, R. Jakobson đặc biệt lưu ý đến khái niệm “chức năng thi ca”. Chức năng thi ca có mặt trong tất cả hoạt động ngôn ngữ của con người, nhưng có vai trò chủ đạo trong ngôn ngữ thơ. Theo ông, sở dĩ phải nghiên cứu kỹ chức năng thi ca và tính văn chương như những đặc điểm hình thức của thơ vì “hình thức thơ ca rõ ràng thuộc vào số các hiện tượng phổ quát của văn hóa nhân loại” (37).
Ông giải thích thêm: “Đối tượng làm việc của nhà ngôn ngữ học khi phân tích văn bản thơ ca là “tính văn chương” hay nói cách khác, là quá trình biến lời nói thành tác phẩm thi ca và hệ thống các thủ pháp mà nhờ chúng, quá trình này được hoàn thành”(36). Trong quá trình ấy, R. Jakobson đặc biệt lưu ý đến khái niệm “chức năng thi ca”. Chức năng thi ca có mặt trong tất cả hoạt động ngôn ngữ của con người, nhưng có vai trò chủ đạo trong ngôn ngữ thơ. Theo ông, sở dĩ phải nghiên cứu kỹ chức năng thi ca và tính văn chương như những đặc điểm hình thức của thơ vì “hình thức thơ ca rõ ràng thuộc vào số các hiện tượng phổ quát của văn hóa nhân loại” (37).
Nếu đối với R. Jakobson cái quyết định “tính văn chương” là vị
trí của “chức năng thi ca” trong văn bản thì đối với V. Shklovxky đó là cách sử
dụng ngôn ngữ bình thường làm sao để sự vật vốn đã quen thuộc hiện ra một cách
mới mẻ, lôi cuốn sự chú ý. V. Shklovxky gọi đó là thủ pháp “lạ hóa”(38). “Mục
đích của nghệ thuật – ông viết – là gợi lên một sự rung động về
sự vật như khi nó được cảm nhận, chứ không phải như nó vốn được biết. Thủ pháp
của nghệ thuật là làm cho đối tượng thành “lạ đi”, làm cho các hình thức khó
hơn, làm tăng độ khó và độ dài của sự cảm nhận bởi vì quá trình cảm nhận là quá
trình có mục đích thẩm mỹ tự thân và nó cần phải kéo dài ra. Nghệ thuật là cách
thưởng thức sự khéo léo của tác phẩm, còn tác phẩm thì không quan trọng”(39).
Tuy không phải không quan tâm đến nội dung của tác phẩm văn học,
đến ý nghĩa xã hội và đạo đức của văn học, nhưng các nhà hình thức chủ yếu vẫn
tập trung vào hình thức, coi cái được thông báo vẫn là cái ở hàng thứ hai và
quan niệm rằng nếu tác phẩm lôi kéo sự chú ý với mình là do chính hình thức của
nó thì ở đây hình thức đã trở thành một phần của nội dung bởi vì hình thức là một
phần của cái được thông báo. Việc coi trọng ý nghĩa của hình thức nghệ thuật,
nhất là đi sâu nghiên cứu các thủ pháp, đặc điểm ngôn ngữ thơ ca là một đóng
góp lớn của trường phái hình thức Nga. “Trong các công trình của các nhà hình
thức – M. Bakhtin viết – bên cạnh những khẳng định hoàn toàn không có
cơ sở, chủ yếu là những cái mang tính khái quát, chúng ta bắt gặp rất nhiều những
quan sát có giá trị khoa học… Việc nghiên cứu mặt kỹ thuật của tác phẩm
nghệ thuật ngôn từ nói chung lần đầu tiên đã được bắt đầu trên mảnh đất của mỹ
học chất liệu ở Tây Âu cũng như ở Nga”(40).
Tuy nhiên, ở đây chủ nghĩa hình thức Nga cũng vấp phải những
trở ngại rất lớn. Cái mà M. Bakhtin gọi là “những khẳng định hoàn toàn không có
cơ sở” chính là tham vọng của các nhà hình thức muốn biến “phương pháp hình thức”
thành phương pháp luận chung, biến thi pháp học từ một thứ “mỹ học chuyên
ngành”, “mỹ học chất liệu” (chữ dùng của M. Bakhtin) thành mỹ học triết học. “Mỹ
học chất liệu” của các nhà hình thức Nga, theo M. Bakhtin, hoàn toàn không có
liên hệ gì với mỹ học hình thức của Kant hay Herbart, chứ đừng nói gì đến mỹ học
nội dung của Hegel hay Schelling, bởi vì nó thiếu một cơ sở triết học – mỹ học
chung, không biết tự giới hạn mình chỉ trong mặt kỹ thuật của sáng tạo nghệ thuật
mà muốn vươn lên trở thành một lý luận có tính chất khái quát.
M. Bakhtin đã phân tích bốn sai lầm có tính chất nguyên tắc và những khó khăn không thể khắc phục được của mỹ học chất liệu, đó là, thứ nhất, nó không có khả năng luận giải khái niệm hình thức nghệ thuật; thứ hai, nó không có khả năng lý giải sự khác biệt căn bản giữa đối tượng thẩm mỹ và tác phẩm nghệ thuật, giữa các bộ phận và những liên hệ trong nội bộ đối tượng này với các bộ phận và những liên hệ có tính chất chất liệu bên trong tác phẩm; thứ ba, nó thường xuyên lẫn lộn hình thức kiến tạo với hình thức kết cấu(41) và cuối cùng, thứ tư, nó không giải thích được sự tồn tại của nhãn quan thẩm mỹ ở ngoài nghệ thuật (42).
M. Bakhtin đã phân tích bốn sai lầm có tính chất nguyên tắc và những khó khăn không thể khắc phục được của mỹ học chất liệu, đó là, thứ nhất, nó không có khả năng luận giải khái niệm hình thức nghệ thuật; thứ hai, nó không có khả năng lý giải sự khác biệt căn bản giữa đối tượng thẩm mỹ và tác phẩm nghệ thuật, giữa các bộ phận và những liên hệ trong nội bộ đối tượng này với các bộ phận và những liên hệ có tính chất chất liệu bên trong tác phẩm; thứ ba, nó thường xuyên lẫn lộn hình thức kiến tạo với hình thức kết cấu(41) và cuối cùng, thứ tư, nó không giải thích được sự tồn tại của nhãn quan thẩm mỹ ở ngoài nghệ thuật (42).
Trong công trình “Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức
trong sáng tác nghệ thuật ngôn từ” được viết năm 1924, M. Bakhtin đã trình bày
khá đầy đủ quan niệm của ông về hình thức nói chung cũng như những yếu tố tạo
nên hình thức của tác phẩm nghệ thuật, trước hết là nghệ thuật ngôn từ.
Lập trường xuất phát của M. Bakhtin ở đây là: hình thức phải
được giải thích trong quan hệ với nội dung, không tách rời nội dung. Chúng ta bắt
gặp ở ông những cách diễn đạt mối quan hệ giữa hình thức và nội dung rất gần với
Hegel. Chẳng hạn, ông viết: “Nhiệm vụ cơ bản của mỹ học là nghiên cứu đối tượng
thẩm mỹ trong sự độc đáo của nó… và trước hết, cần hiểu đối tượng thẩm mỹ một
cách tổng hợp trong toàn bộ của nó, hiểu hình thức và nội dung trong mối tương
quan tất yếu và cơ bản của chúng: hình thức như là hình thức của nội dung
và nội dung như là nội dung của hình thức, hiểu sự độc đáo và quy luật của mối
quan hệ tương hỗ giữa chúng”(43) (L.N.T nhấn mạnh). M. Bakhtin thường
xuyên nhắc lại điều này: “Hình thức nghệ thuật là hình thức của nội dung”(44), “Nội
dung chính là nội dung của một hình thức này và hình thức chính là hình thức của
nội dung này”(45) hoặc “Nội dung và hình thức thâm nhập vào lẫn nhau,
không tách rời nhau”(46). Như vậy, theo M. Bakhtin, hình thức không phải là cái
“có tính nội dung” như một số người vẫn nói, mà là chính nội dung, một nội dung
được diễn đạt trong hình thức(47).
Từ quan niệm trên, M. Bakhtin tiếp tục đi sâu diễn giải khái
niệm hình thức trong sáng tạo nghệ thuật. Theo ông, hình thức có hai mặt, nó vừa
là chất liệu, gắn với chất liệu, vừa là cái vượt ra khỏi giới hạn của chất liệu.
“Hình thức, ông viết, một mặt thực sự là có tính chất liệu, hoàn toàn tồn
tại dựa trên chất liệu và kết chặt với nó, mặt khác, về phương diện giá trị lại
đưa chúng ta vượt khỏi giới hạn của tác phẩm với tư cách là chất liệu được tổ
chức, là một vật”(48). Điều này gợi cho chúng ta nhớ tới câu nói của Hegel đã dẫn
ở trên: “Nội dung không phải là không có hình thức, trái lại, nó không chỉ có
hình thức ở bên trong mà nó còn có hình thức như cái gì ở bên ngoài [ngoại tại]
nó. Ta có ở đây sự hóa đôi của hình thức: một mặt… nó là nội dung, mặt khác… nó
là sự hiện hữu ngoại tại, dửng dưng đối với nội dung”. Cái mặt ngoại tại, dửng
dưng đối với nội dung này, đối với M. Bakhtin chính là chất liệu chưa được tổ
chức thành hình thức, chưa trở thành “hình thức có ý nghĩa nghệ thuật” hay “hình
thức có ý nghĩa thẩm mỹ”(49).
Đáng chú ý là ở đây thuật ngữ mà M. Bakhtin sử dụng hầu như
trùng với thuật ngữ “Hình thức có ý nghĩa” của C. Bell. Không rõ M. Bakhtin có
chịu ảnh hưởng của C. Bell không (bài viết của M. Bakhtin ra đời 10 năm sau khi
cuốn “Art” của C. Bell xuất bản), nhưng trong cách giải thích khái niệm này của
hai tác giả, chúng ta thấy có những điểm gặp nhau. Chẳng hạn, khi giải thích về
hình thức có ý nghĩa, M. Bakhtin viết: “Hình thức có ý nghĩa nghệ thuật quả thực
luôn có liên quan đến một điều gì đó, có định hướng giá trị đối với một cái gì
đó thông qua chất liệu kết chặt với chất liệu và không tách rời nó”(50). Ở một
chỗ khác, ông viết: “Trong hình thức tôi tìm thấy mình, tìm thấy
tính tích cực sáng tạo hình thức mang định hướng giá trị đang sản sinh của
mình, tôi cảm thấy một cách sinh động hoạt động tạo ra tác phẩm của mình, thêm
nữa, đó không chỉ trong khâu sáng tạo đầu tiên, không chỉ trong chính sự sáng
tác mà cả khi quan sát tác phẩm nghệ thuật: trong một mức độ nào đó tôi phải
trải nghiệm mình như là người sáng tạo ra hình thức để nói chung là làm sao có
thể có được hình thức có ý nghĩa nghệ thuật đúng như bản chất của nó”(51).
Nói cách khác, “hình thức có ý nghĩa nghệ thuật” là hình thức
có khả năng tác động vào người ta, làm sống dậy ở người ta cảm giác của người
sáng tạo, khơi dậy tình cảm của con người: “Tôi cần phải sống với hình thức giống
như thái độ định hướng giá trị tích cực của tôi đối với nội dung để tôi có thể
sống với nó về phương diện thẩm mỹ: trong hình thức và bằng hình thức tôi ca
hát, kể chuyện, miêu tả, bằng hình thức tôi thể hiện tình yêu của mình, sự khẳng
định và niềm yêu thích của mình”(52). Muốn làm được điều đó, tức là muốn trở
thành “hình thức có ý nghĩa thẩm mỹ”, hình thức phải “chứa đầy một năng lượng
tư tưởng tình cảm”(53).
Điều này làm chúng ta nhớ lại giải thích của C. Bell về “hình
thức có ý nghĩa”: “Hình thức có ý nghĩa – ông viết – truyền cho chúng
ta tình cảm mà người sáng tạo đã rung động, còn cái đẹp thì không truyền cái gì
cả”(54). Chính vì vậy, “hình thức có ý nghĩ có sức mạnh gợi nên tình cảm thẩm mỹ
ở bất cứ ai có khả năng rung động với nó”(55). Rõ ràng giữa C. Bell và M.
Bakhtin có những điểm chung: đó là cùng sử dụng thuật ngữ “hình thức có ý nghĩa”,
cùng khẳng định năng lượng cảm xúc tính tụ trong hình thức cũng như cùng nhấn mạnh
vai trò của người sáng tạo trong quá trình rung động và truyền rung động vào ngọn
bút. Tuy nhiên sự khác nhau ở đây cũng rất lớn.
Khác với khái niệm “hình thức có ý nghĩa” của C. Bell, M. Bakhtin
luôn luôn sử dụng khái niệm “hình thức có ý nghĩa nghệ thuật” hay “hình thức
có ý nghĩa thẩm mỹ” nhằm lưu ý rằng cái “ý nghĩa” mà hình thức
có ở đây không phải là ý nghĩa triết học, xã hội hay đạo đức mà là ý nghĩa thẩm
mỹ – nghệ thuật. Ý nghĩa thẩm mỹ này, và đây mới là sự khác nhau quan trọng,
theo M. Bakhtin, không thể tồn tại ngoài quan hệ với nội dung: “Nằm ngoài quan
hệ với nội dung – M. Bakhtin viết – tức là ngoài quan hệ với thế giới
và những nhân tố của nó, thế giới với tư cách là đối tượng của nhận thức và của
hành động luân lý, hình thức sẽ không thể có ý nghĩa thẩm mỹ, không thể thực hiện
được những chức năng cơ bản của mình”(56).
Quan niệm này hoàn toàn khác quan niệm của C. Bell: “Việc thưởng thức hình thức thuần khiết, C. Bell viết, đưa ta vào trạng thái hưng phấn một cách hết sức đặc biệt và hoàn toàn tách xa những quan tâm về cuộc sống”(57). Đặc biệt, nếu đối với C. Bell “hình thức có ý nghĩa” là khái niệm trung tâm, là cái phân biệt nghệ thuật với không nghệ thuật thì với M. Bakhtin, khái niệm này không có vị trí và tầm quan trọng như vậy. Việc ông phê phán “Mỹ học chất liệu” coi hình thức là nền tảng mà chúng tôi đã phân tích ở trên, nói lên điều đó.
Quan niệm này hoàn toàn khác quan niệm của C. Bell: “Việc thưởng thức hình thức thuần khiết, C. Bell viết, đưa ta vào trạng thái hưng phấn một cách hết sức đặc biệt và hoàn toàn tách xa những quan tâm về cuộc sống”(57). Đặc biệt, nếu đối với C. Bell “hình thức có ý nghĩa” là khái niệm trung tâm, là cái phân biệt nghệ thuật với không nghệ thuật thì với M. Bakhtin, khái niệm này không có vị trí và tầm quan trọng như vậy. Việc ông phê phán “Mỹ học chất liệu” coi hình thức là nền tảng mà chúng tôi đã phân tích ở trên, nói lên điều đó.
Đối với M. Bakhtin, hình thức nghệ thuật (cũng tức là “hình
thức có ý nghĩa nghệ thuật”) có vị trí rất lớn. Tuy nhiên, Ông cho rằng
không được coi nó là tất cả và nhất là không được đánh đồng nó với chất liệu.
Chính trên cơ sở sự phân biệt này, M. Bakhtin đã phát triển một tư tưởng rất có
giá trị về hình thức trong sáng tạo nghệ thuật. Đóng góp của M. Bakhtin không
phải là ở chỗ ông yêu cầu định nghĩa hình thức trong quan hệ với nội dung, nhấn
mạnh sự gắn kết chặt chẽ giữa nội dung và hình thức, sự thâm nhập, chuyển hóa
vào nhau của chúng. Điều này Hegel đã làm. Cái mới ở đây là cách giải thích cụ
thể của ông về hình thức trong tác phẩm nghệ thuật.
Tương tự với quan niệm của Hegel về “sự hóa đôi của hình thức”:
hình thức vừa là cái ở bên trong nội dung, vừa là cái ở bên ngoài nội dung, vừa
là chính nội dung, vừa là sự hiện hữu ngoại tại, dửng dưng với nội dung, M.
Bakhtin cho rằng hình thức trong nghệ thuật có hai mặt. Ông viết: “Hình thức
nghệ thuật là hình thức của nội dung nhưng là một hình thức hoàn toàn tồn tại dựa
trên một chất liệu, dường như dính chặt với chất liệu. Bởi vậy hình thức cần được
hiểu và nghiên cứu trên hai hướng: 1) Từ bên trong của đối tượng thẩm mỹ thuần
túy(58), như là hình thức kiến tạo, tức là hình thức có định hướng giá trị, hướng
tới nội dung, gắn với nội dung và 2) từ bên trong của toàn bộ tác phẩm được kết
cấu bằng chất liệu: đó là nghiên cứu kỹ thuật của hình thức”(59).
Theo M. Bakhtin, cần phân biệt đối tượng thẩm mỹ với tác
phẩm nghệ thuật, hình thức với chất liệu và hình thhức
kiến tạovới hình thức kết cấu. Ông cho rằng thiếu sót lớn nhất của “Mỹ học
chất liệu” và các nhà hình thức là họ đã nhầm lẫn các khái niệm này, từ đó dẫn
đến những sai lầm mang tính chất phương pháp luận và gặp những khó khăn không
giải quyết được.
Đối tượng thẩm mỹ là gì? M. Bakhtin giải thích: đó là “nội
dung của hoạt động thẩm mỹ (của quan sát) định hướng vào tác phẩm”, nó “khác
với bản thân tác phẩm bên ngoài là cái cho phép cả những cách tiếp cận
khác mà trước hết là sự tri nhận, tức là sự tiếp nhận cảm tính (bên ngoài) được
sắp đặt bởi các khái niệm”(60). Nhưng nội dung này không phải là cái gì hoàn
toàn trừu tượng: “Đối tượng thẩm mỹ là nội dung đã có một hình thức”(61).
Ông nói rõ hơn: “Đối tượng thẩm mỹ như nội dung của nhãn quan nghệ thuật
và sự kiến tạo của nội dung đó… là một thực tồn hoàn toàn mới, không mang tính
chất khoa học tự nhiên và cũng không mang tính chất tâm lý học và dĩ nhiên cũng
không phải ngôn ngữ học: đó là một tồn tại thẩm mỹ độc đáo, hình thành trong
khuôn khổ của tác phẩm nhờ con đường khắc phục tính xác định ngoài thẩm mỹ, tức
tính chất chất liệu – sự vật của nó(62).
Nói một cách dễ hiểu, theo quan niệm của M. Bakhtin, đối
tượng thẩm mỹ khác tác phẩm nghệ thuật. Đối tượng thẩm mỹ là nội dung
của cái nhìn nghệ thuật, là cách cảm nhận cuộc sống. Nội dung này có hình thức
của mình. M. Bakhtin gọi hình thức ấy làhình thức kiến tạo. Đối tượng thẩm mỹ
không phải là cái gì trừu tượng, không định hình mà đã xác định nhờ nội dung của
cái nhìn nghệ thuật đã có một hình thức là hình thức kiến tạo. Đối tượng thẩm mỹ
này khi được cụ thể hơn trong một chất liệu thì lúc đó chúng ta sẽ có tác
phẩm nghệ thuật. Cách tổ chức các chất liệu thành tác phẩm M. Bakhtin gọi
là kết cấu. Hình thức kết cấu là hình thức “cấp 2”, khác hình thức
kiến tạo là hình thức “cấp 1”. Các hình thức kết cấu là hình thức tổ chức chất
liệu, chúng mang tính chất mục đích luận, tính chất “phục vụ” cho một nhiệm vụ
nào đó và thường được đánh giá dưới góc độ thủ pháp, kỹ thuật, khác các hình thức
kết cấu là những hình thức của tồn tại thẩm mỹ trong sự độc đáo của nó, “những hình
thức của giá trị tâm hồn và thể xác của con người thẩm mỹ, những hình thức của
thiên nhiên như môi trường sống của con người,những hình thức của sự kiện trong
phương diện đời sống cá nhân, xã hội và lịch sử của nó”(63). Các hình thức kiến
tạo này không “phục vụ” cái gì cả, người ta không sáng tạo ra nó cũng như không
thể sáng tạo ra sự kiện. Hình thức kiến tạo quy định sự lựa chọn của hình thức
kết cấu. Ví dụ, bi kịch là hình thức kiến tạo, nó lựa chọn cho mình hình thức kết
cấu tương tự là kịch, hay trữ tình là hình thức kiến tạo thì chọn
các bài thơ trữ tình là hình thức kết cấu. Theo sự phân loại
này, châm biếm, anh hùng hóa, điển hình, tính cách là những hình thức
kiến tạo thuần túy, trường ca, truyện dài, truyện ngắn là những hình
thức thể loại thuộc hình thức kết cấu. Chương, khổ thơ haydòng thơ là
những đơn vị mang tính chất kết cấu thuần túy. Riêng tiết tấu, theo M.
Bakhtin, có thể thuộc loại này hay loại kia: nếu chúng ta hiểu tiết tấu như cái
gì bên trong thuộc tình cảm thì nó là hình thức kiến tạo, nếu hiểu nó như cách
sắp xếp các chất liệu âm thanh có thể cảm nhận, tri nhận trực tiếp bằng tai thì
nó thuộc hình thức kết cấu.
M. Bakhtin cho rằng một trong những sai lầm cơ bản của Mỹ học
chất liệu là nó không phân biệt được sự khác nhau giữa hình thức kiến tạo và hình
thức kết cấu, thường “hòa tan các hình thức kiến tạo vào các hình thức kết cấu”
và “biểu hiện cực đoan của khuynh hướng này là phương pháp hình thức Nga, ở đó
các hình thức kết cấu và thể loại có tham vọng ôm trọn toàn bộ đối tượng thẩm mỹ”(64).
Điều tệ nhất của mỹ học chất liệu, theo ông, là “kết cấu của tác phẩm trực tiếp
được coi là chính giá trị nghệ thuật, là bản thân đối tượng thẩm mỹ”(65).
Nói tóm lại, đối với M. Bakhtin, chất liệu không phải là hình
thức. Hình thức chỉ trở thành hình thức khi nó có quan hệ với nội
dung, là hình thức của nội dung. Chất liệu muốn trở thành hình thức
phải được tổ chức lại trong một kết cấu. Những hình thức kết cấu này
được quy định bởi những hình thức kiến tạo là hình thức tồn tại của bản
thân nội dung cái nhìn nghệ thuật hay nhãn quan thẩm mỹ. Nhờ có hình thức kiến
tạo này, nội dung của cái nhìn nghệ thuật trở thành đối tượng thẩm mỹ là
một tồn tại độc lập hoàn toàn, không dính gì đến chất liệu. Chỉ khi được hiện
thực hóa nhờ các chất liệu, đối tượng thẩm mỹ mới trở thành tác phẩm
nghệ thuật.
M. Bakhtin chủ yếu không phải là nhà lý luận văn học hay
nghiên cứu văn học. Đúng hơn, ông là nhà tư tưởng, nhà triết học. M. Bakhtin
không đi sâu vào tất cả các khía cạnh phức tạp và chi tiết về hình thức của tác
phẩm nghệ thuật, nhưng những quan niệm mang tính chất phương pháp luận cũng như
việc phân tích một số khái niệm của ông trên đây là những chỉ dẫn sâu sắc và có
ý nghĩa rất lớn trong việc nghiên cứu hình thức nghệ thuật.
Từ việc phân tích những quan niệm khác nhau về hình thức trên
đây, chúng ta thấy hình thức trong sáng tạo nghệ thuật là một khái niệm rất phức
tạp. Rốt cuộc thì hình thức nghệ thuật là gì, yếu tố nào là hình thức và bản chất
của nó nằm ở đâu. Đó là những vấn đề vẫn đang tiếp tục được thảo luận. Có ý kiến
cho rằng, trước hết, nên phân biệt hình thức của tác phẩm với hình
thức nghệ thuật của tác phẩm. Hình thức nghệ thuật là cái bên trong gắn với nội
dung còn hình thức của tác phẩm có thể bao gồm cả hình thức nghệ thuật và hình
thức vật chất của tác phẩm như bìa, giấy, chữ in đối với văn học, khung vải, giấy
đối với hội họa… Vấn đề hình thức vật chất bên ngoài có liên quan đến hình
thức tồn tại của tác phẩm(66). Nhưng bản thân hình thức nghệ thuật như là “cái
bên trong” so với cái có tính vật chất bên ngoài đến lượt mình cũng lại có hai
mặt: hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. Đối với M.
Bakhtin, có vẻ như “hình thức kiến tạo” là hình thức bên trong và “hình thức kết
cấu” là hình thức bên ngoài. Khái niệm “hình thức bên trong” theo R. Wellek &
A.Warren, bắt nguồn từ Plotinus và Shastesbury, về sau thường được sử dụng rộng
rãi trong mỹ học Đức, tuy nhiên việc đưa ra khái niệm này chỉ làm phức tạp thêm
vấn đề, bởi vì “ranh giới giữa hình thức bên trong và bên ngoài vẫn còn hoàn
toàn không rõ”(67).
Để khắc phục sự đối lập giữa nội dung và hình thức như giữa
cái trừu tượng và cái cụ thể, từ đó dẫn đến việc giải thích không đúng bản chất
của tác phẩm văn học, các nhà cấu trúc đề nghị thay khái niệm hình thức bằng
khái niệm “cấu trúc”và theo họ, ở đây chứa đựng “toàn bộ sự khác biệt giữa chủ
nghĩa hình thức với chủ nghĩa cấu trúc”(68). Sự khác biệt ấy nằm ở chỗ nào?
Trong bài viết “Cấu trúc và hình thức (Suy nghĩ về một công trình của Vlardimir
Propp)”, Lévi – Strauss giải thích: “Hình thức được xác định để đối lập với
một chất liệu xa lạ với nó; còn cấu trúc thì không có nội dung khác
biệt, nó chính là một nội dung có thể nắm bắt được trong một tổ chức logic, được
quan tâm như là một đặc điểm của hiện thực”, “Hình thức và nội dung đều cùng bản
chất, có thể làm sáng tỏ được bằng một phương pháp nghiên cứu như nhau. Nội
dung rút thực tiễn từ kết cấu của nó, và điều mà người ta gọi là hình thức
là “sự sắp đặt thành cấu trúc” những kết cấu cục bộ mà nội dung dựa vào”(69).
Theo Lévi – Strauss, “Đối với chủ nghĩa hình thức, hai lĩnh vực đó tuyệt đối
tách rời nhau, bởi chỉ có hình thức là rõ ràng, còn nội dung chỉ là cặn bã
không có ý nghĩa. Đối với chủ nghĩa cấu trúc không có sự đối lập ấy: không có một
bên là cái trừu tượng, còn bên kia là cái cụ thể”(70).
Cùng phê phán chủ nghĩa hình thức và cùng sử dụng khái niệm cấu
trúc, nhưng R. Ingarden có một cách giải thích khác về tác phẩm văn học, xuất
phát từ lập trường mang tính chất Hiện tượng học (Phenomenology). Ở đây “Tác phẩm
văn học được hiểu như một sản phẩm của những hoạt động sáng tạo chủ quan của
tác giả, hoàn toàn mang tính cố ý thuần túy. Nhân tố ngôn ngữ, xét về mặt kiến
tạo, giữ vai trò căn bản trong tác phẩm, nhưng xét về phương diện thẩm mỹ, chỉ
có vai trò phụ”(71). R. Ingarden không phân tích tác phẩm dựa trên việc sử dụng
khái niệm Nội dung và Hình thức mà theo “Quan niệm hai chiều và nhiều lớp” (72).
Trong chiều thứ nhất, theo ông tác phẩm có ít nhất bốn lớp:
1) lớp âm thanh của từ và những kết hợp ngôn ngữ ở một trật tự cao,
2) lớp của những kết hợp có nghĩa xác định (nghĩa của các từ và ý nghĩa của các câu),
3) lớp của những đối tượng được miêu tả (con người, sự vật, sự kiện) và
4) lớp của những hình dạng mang tính chất sơ đồ (73). Còn chiều thứ hai là chiều nào? R.Ingarden giải thích: “Cấu trúc và những đặc tính của các lớp nói trên tạo ra mối liên hệ hữu cơ của chúng. Còn các yếu tố của các lớp này (đặc biệt là những kết hợp ngôn ngữ) thì tạo ra trong tác phẩm một chiều khác: đó là sự tuần tự của các phần và các đoạn… Như vậy, tác phẩm đồng thời vừa là nhiều lớp, vừa là nhiều đoạn”(74). Theo R. Ingarden, quan niệm của ông cho phép “giải thích được bản chất của tất cả các yếu tố của tác phẩm văn học và chỉ ra được cấu trúc độc đáo cũng như phương thức tồn tại đặc thù của tác phẩm văn học và đồng thời với nó là mối liên hệ của tác phẩm với tác giả, với người đọc và cuối cùng là thái độ của nó với thế giới hiện thực”(75)
1) lớp âm thanh của từ và những kết hợp ngôn ngữ ở một trật tự cao,
2) lớp của những kết hợp có nghĩa xác định (nghĩa của các từ và ý nghĩa của các câu),
3) lớp của những đối tượng được miêu tả (con người, sự vật, sự kiện) và
4) lớp của những hình dạng mang tính chất sơ đồ (73). Còn chiều thứ hai là chiều nào? R.Ingarden giải thích: “Cấu trúc và những đặc tính của các lớp nói trên tạo ra mối liên hệ hữu cơ của chúng. Còn các yếu tố của các lớp này (đặc biệt là những kết hợp ngôn ngữ) thì tạo ra trong tác phẩm một chiều khác: đó là sự tuần tự của các phần và các đoạn… Như vậy, tác phẩm đồng thời vừa là nhiều lớp, vừa là nhiều đoạn”(74). Theo R. Ingarden, quan niệm của ông cho phép “giải thích được bản chất của tất cả các yếu tố của tác phẩm văn học và chỉ ra được cấu trúc độc đáo cũng như phương thức tồn tại đặc thù của tác phẩm văn học và đồng thời với nó là mối liên hệ của tác phẩm với tác giả, với người đọc và cuối cùng là thái độ của nó với thế giới hiện thực”(75)
Quan niệm về hình thức nghệ thuật của R. Ingarden, M. Bakhtin
và Lévi – Strauss dù dựa trên những lập trường phương pháp luận khác nhau căn bản,
vẫn có điểm chung – đó là thừa nhận vai trò của hình thức và quan hệ của hình
thức với nội dung theo truyền thống Hegel, bác bỏ quan niệm chủ nghĩa hình thức
theo cương lĩnh của C. Bell hay các nhà hình thức Nga. Có người gọi đó là quan
điểm “Tân hình thức” (Neoformalism)(76). Quan điểm này, như chúng ta thấy, có rất
nhiều điểm hợp lý. Tuy nhiên, theo Noel Carroll, quan điểm này vẫn chưa đem lại
một cách lý giải căn bản về bản chất của hình thức nghệ thuật, bởi vì “cái mà
chúng ta gọi là hình thức nghệ thuật của tác phẩm phụ thuộc vào quan niệm của
chúng ta về nội dung của tác phẩm. Nhưng khái niệm nội dung, như nó vẫn được hiểu,
lại hết sức lờ mờ”(77), thậm chí trong nhiều trường hợp “không phải tất cả các
tác phẩm nghệ thuật đều có nội dung”(78).
Một khó khăn nữa là, dù vấn đề nội dung quy định hình thức,
có ảnh hưởng đến hình thức được công nhận rộng rãi, nhưng cụ thể mối quan hệ đó
là như thế nào, nội dung đã tác động đến hình thức bằng cách nào – đó là những
câu hỏi không dễ trả lời. Ở đây có hàng loạt vấn đề đặt ra. Chẳng hạn, như
chúng ta biết, khi Hgel dùng chữ Hình thức, ông ám chỉ hai nghĩa: Hình thức
của sự phát triển và Hình thức của sự thể hiện. Trong trường hợp hình
thức là phương thức tồn tại của nội dung (đối với Hegel, đó là Ý niệm tuyệt đối)
trong quá trình phát triển của nó thì quy luật “nội dung chuyển thành hình thức”
là hoàn toàn dễ hiểu, bởi vì hình thức (chẳng hạn chủ nghĩa cổ điển) không phải
là gì khác mà chính là ý niệm tìm được hình thức tồn tại của mình trong giai đoạn
vận động ấy. Nhưng nếu đó là hình thức như là cái bên ngoài, thể hiện cái bên
trong thì trong trường hợp đó, cái bên trong chuyển thành cái bên ngoài như thế
nào, quyết định cái bên ngoài như thế nào, Hegel không chỉ ra rõ. Trong công
trình dẫn ra ở trên, M. Bakhtin đã nhận thấy điều đó và đặt vấn đề: “Bằng
cách nào mà hình thức vốn hoàn toàn được thực hiện dựa trên chất liệu, lại trở
thành hình thức của nội dung, gắn với nội dung về mặt giá trị, hay nói cách
khác, bằng cách nào hình thức kết cấu, tức việc tổ chức chất liệu thực hiện được
hình thúc kiến tạo, tức là thực hiện được sự thống nhất và tổ chức các giá trị
nhận thức và đạo đức” hay “Bằng cách nào mà hình thức với tư cách là sự thể
hiện bằng ngôn từ thái độ chủ quan chủ động đối với nội dung lại có thể trở
thành hình thức sáng tạo và hoàn kết nội dung?”(79).
M. Bakhtin giải thích như sau: “Tác giả – người sáng tạo là yếu
tố tạo thành của hình thức nghệ thuật” và chính “Tính chủ động tạo sinh của
tác giả – người sáng tạo và người tiếp nhận nắm lấy tất cả các phương diện của
ngôn từ: nhờ chúng anh ta có thể tạo ra một hình thức có khả năng hoàn kết, hướng
vào nội dung”(80). Ông phân biệt năm yếu tố của ngôn từ như là chất liệu của
tác phẩm văn học(81) và trình bày quá trình bản ngã sáng tạo của nghệ sỹ
và người tiếp nhận đi vào chất liệu, chuyển vào ngôn từ, trong đó, theo ông yếu
tố thứ năm tức cảm giác về tính chủ động ngôn từ, cảm giác về sự tạo ra một
cách chủ động âm thanh mang nghĩa là yếu tố điều khiển, là tiêu điểm của các
năng lượng tạo sinh, trong nó phản ánh cả bốn yếu tố kia.
Cách giải thích của M. Bakhtin mang đậm “phong cách M.
Bakhtin”, mang tính triết học nhiều hơn nghiên cứu văn học. Tuy nhiên đó là một
trong những nỗ lực hiếm hoi tìm kiếm cái cách mà “nội dung chuyển thành hình thức”,
hình thức bên trong chuyển thành hình thức bên ngoài, bởi vì thực ra vấn đề nội
dung và hình thức đã được đặt ra từ rất lâu(82) và tính có trước của nội
dung trong quan hệ với hình thức cũng đã được nói đến trong mỹ học phương Đông
từ rất sớm, nhưng bản thân cơ chế của việc chuyển từ nội dung thành hình thức,
từ ý ra lời ít khi được làm sáng tỏ đầy đủ. Chẳng hạn, trong tư tưởng thẩm mỹ cổ
Trung Hoa chúng ta thường bắt gặp quan niệm: “Đạo là gốc của Văn”, có Đạo rồi mới
có Văn hay “Ở trong lòng là chí, nói ra lời là thơ”. Nhưng từ Đạo ra văn
là một quá trình vô cùng phức tạp, từ “chí” ra thơ cũng trải qua nhiều chặng,
nhiều kiểu khác nhau. Chí có thể tồn tại ở nhiều dạng chứ không phải chỉ ở thơ.
Vậy thì chí khi nào thì đi vào thơ và làm thế nào để thành thơ. Chính Lưu Hiệp
cũng đã nhìn thấy điều đó khi ông viết: “Tình cảm khác nhau, văn cũng phải biến
đổi theo những thuật khác nhau, không thể không căn cứ vào tình cảm mà lập ra
cái thể của nó” (Văn Tâm Điêu Long)(83). Nhưng đây cũng vẫn là những ý tưởng
chung chung, giống như khi Hegel viết: “Để cho một nội dung có thể trở thành đối
tượng của miêu tả nghệ thuật, tự bản thân nó cũng phải có khả năng trở thành đối
tượng của sự miêu tả này”(84). Nói như vậy để thấy những phân tích trên đây của
M. Bakhtin cũng như quan niệm của ông về sự hình thành và đặc điểm của tiểu
thuyết như một thể loại được trình bày trong các công trình nổi tiếng như “Những
vấn đề của thi pháp Dostoievxky” có ý nghĩa rất lớn về phương pháp luận cũng
như về thi pháp học trong việc nghiên cứu hình thức của tác phẩm nghệ thuật nói
chung và tác phẩm văn học nói riêng.
Nghiên cứu hình thức nghệ thuật bằng cách đặt nó trong quan hệ
với nội dung, như chúng ta thấy, rõ ràng là một cách tiếp cận đúng, cho phép nhận
ra những đặc tính rất căn bản của hình thức cũng như những nét thuộc bản chất của
nghệ thuật. Tuy nhiên, để hiểu đầy đủ tính chất, vai trò và đặc biệt là ý nghĩa
của hình thức trong sáng tạo nghệ thuật, từ đó hiểu ý nghĩa của nghệ thuật đối
với đời sống con người, việc tuyệt đối hóa quan hệ nội dung – hình thức và nhất
là tuyệt đối hóa sự phụ thuộc của hình thức vào nội dung sẽ dẫn đến những ngộ
nhận, sai lầm không phải chỉ ở phương diện lý thuyết mà cả trong thực tiễn sáng
tác nghệ thuật.
Chúng ta đều biết khi nói đến ý nghĩa của hình thức nghệ thuật,
điều đầu tiên thường được nhắc đến đó là hình thức phụ giúp nội dung. Phụ giúp
như thế nào? Từ xưa, Khổng Tử đã nói: “Ngôn chi vô văn, hành nhi bất viễn” (Lời
không văn vẻ, không đi được xa). Trong Văn Tâm Điêu Long, Lưu Hiệp cũng viết: “Sách
và lời của thánh nhân đều gọi là văn chương, không văn vẻ sao được? Nước tinh lỏng
thì kết thành gợn sóng. Cây tinh chắc thì nở được hoa, đó là văn phụ thuộc vào
chất. Hổ báo mà không có vằn thì da vàng như của chó dê, con tê con chủy có da
cứng, nhưng màu da nó phải sơn đỏ, đó là chất nhờ văn vậy”(85). Ở đây vai trò của
hình thức là làm nổi bật, làm đẹp nội dung. Quan niệm này ngày nay đã trở thành
phổ biến: “Cái đẹp hoàn hảo của hình thức… – V. Soloviev viết – gia tăng
tác động của tinh thần được thể hiện trong nó”(86).
Nhưng bên cạnh vai trò tô điểm ấy, thực ra hình thức có một
chức năng căn bản hơn nhiều, đó là đem lại cho nội dung vốn là cái mang tính
tinh thần một sự tồn tại hiện thực – vật chất. M. Bakhtin giải thích điều này
như sau: “Đối tượng thẩm mỹ chỉ thực tồn thông qua việc tạo ra một tác phẩm sử
dụng chất liệu cụ thể (nhãn quan thẩm mỹ tồn tại bên ngoài nghệ thuật mang tính
lai tạp cũng chính vì ở đây không có được sự tổ chức chất liệu một cách hoàn hảo
ở một mức độ nào đó, ví dụ như khi nhìn ngắm thiên nhiên); trước khi tác phẩm
này được tạo ra và độc lập tách rời với sự sáng tạo này, đối tượng thẩm mỹ
không tồn tại, nó thực tồn lần đầu tiên là cùng với tác phẩm”(87). Ông còn nói
rõ hơn ở một chỗ khác. Trong cuốn “Những vấn đề của thi pháp Dostoievxky”, ông
viết: “Không hiểu hình thức mới của cái nhìn thì không thể hiểu đúng được những
gì mà lần đầu tiên được nhận ra và được phát hiện trong cuộc sống nhờ hình thức
ấy. Hình thức nghệ thuật nếu được hiểu đúng thì nó không tạo hình thức cho một
nội dung đã có sẵn và được tìm thấy, mà là cái hình thức cho phép lần đầu tiên
tìm thấy và nhận ra nội dung”(88).
Những ý kiến trên đây của M. Bakhtin là những chỉ dẫn sâu sắc
và cực kỳ quan trọng. Nó không phải chỉ lý giải đúng bản chất của mối quan hệ
giữa nội dung và hình thức mà còn nâng vị trí của hình thức nghệ thuật lên một
tầm cao khác, ở đó hình thức không phải có vai trò phụ thuộc mà là đồng đẳng với
nội dung, sinh ra cùng một lúc với nội dung, dính liền với nội dung, không tách
rời. Thậm chí nếu không có hình thức, không được diễn đạt ra bằng từ ngữ, bằng
màu sắc, đường nét, âm thanh, nội dung tự bản thân nó cũng là chưa hoàn chỉnh,
chưa được định hình, chưa hoàn kết. Chất liệu và cùng với nó là các thủ pháp, kỹ
thuật tổ chức chất liệu không chỉ mang lại cho nội dung một hình thức bên ngoài
mà còn làm cho nó trở nên đầy đủ, hoàn chỉnh. “Tư tưởng không thể hiện trong
ngôn từ mà được hoàn thành trong ngôn từ” (L. Vuigodsky) (89). Không hiểu
điều này sẽ không hiểu bản chất của sáng tạo nghệ thuật, không hiểu sứ mạng và
khó khăn của việc tìm tòi hình thức trong sáng tác nghệ thuật.
Khó khăn nằm ở chỗ, trước hết, nghệ sỹ phải tìm cho được một
hình thức mà ở đó nội dung cảm thấy nó hiện ra đầy đủ, trọn vẹn, đã “hoàn
thành”. Nhưng đây là công việc không dễ, bởi vì nội dung mà nghệ sỹ muốn diễn đạt
là một nội dung đặc biệt, khác các thông báo thông thường. Trong những văn bản
– không nghệ thuật (văn bản hành chính, khoa học) nội dung thông báo thường
mang tính chất đơn nghĩa, đã được xác định rõ ràng, đã hoàn kết, việc mã hóa thành
hình thức chỉ cần đơn giản, cốt làm sao người tiếp nhận nắm được cái nghĩa cơ bản,
hiểu vấn đề là được. Còn nội dung nghệ thuật thì khác, nó là thế giới tinh thần
của con người, là những băn khoăn về chân lý, day dứt về thiện ác, là tình yêu
cái đẹp, ước mơ hạnh phúc, khao khát tự do, hy vọng và tuyệt vọng. Nội dung nghệ
thuật cũng không phải là những tư tưởng có sẵn, những tình cảm chung chung mà
là những ý tưởng dang dở, những rung động không thể gọi tên, những cảm giác, ấn
tượng mờ ảo. “Cảm giác và tình cảm là những thứ cá biệt còn tư tưởng là những
cái chung chung” (T.S. Eliot)(90). Những ý nghĩa và tình cảm ấy như sự sống,
lúc nào cũng sinh sôi, biến đổi, đa dạng, riêng tư, không kết thúc. Đem lại cho
cái sinh thể riêng tư, đa dạng, luôn luôn biến động ấy một hình hài thích hợp
là điều vô cùng khó khăn. Không phải ngẫu nhiên mà từ xưa Khổng Tử đã nói: “Chất
thắng văn tất dã, văn thắng chất tử, văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử” (chất
nhiều hơn văn thì không tránh khỏi thô thiển, văn nhiều hơn chất thì không
tránh khỏi hư rỗng. Văn và chất phối hợpthích đáng thì đó mới là người
quân tử vậy)” (Luận Ngữ)(91). Yêu cầu về tính thích đáng này cũng là điều mà
Hegel coi là cái thuộc bản chất không thể thiếu của một tác phẩm nghệ thuật: “Một
tác phẩm nghệ thuật thiếu hình thức thích đáng thì không thể được gọi
là một tác phẩm nghệ thuật chính là vì lý do đó: nó không phải là một nghệ phẩm
đích thực”(92).
Nhưng thế nào là “hình thức thích đáng”? Nghệ thuật đã chọn
cho nội dung đặc biệt của mình một hình thức thích đáng đó là hình tượng.
Các hình tượng nghệ thuật với tính chất đa nghĩa, nửa hư nửa thực là
hình thức thích đáng nhất với tính chất đặc biệt của nội dung nghệ thuật. Nhưng
điều đó vẫn còn quá chung chung. Hình thức phải “thích đáng” với cái gì và “thích
đáng” như thế nào? Thích đáng theo kiểu “cấu trúc” phải phù hợp với “chất liệu”
như các nhà cấu trúc luận chủ trương hay theo kiểu ý cao cả thì lời văn phải
hùng tráng như quan niệm của mỹ học truyền thống phương Đông hay thích đáng
theo cách mà các nghệ sỹ thường nói là làm sao tìm được cách diễn tả đạt nhất,
thích hợp nhất điều mình muốn viết. Chẳng hạn, L. Tolstoi khi kể về công việc
sáng tác của mình, đã nói: “Anh không thể hình dung là tôi khó khăn như thế nào
khi bắt đầu những bước đầu tiên của công việc cày sâu trên cánh đồng mà tôi buộc
phải gieo hạt. Phải nghĩ cặn kẽ và nghĩ đi nghĩ lại tất cả những gì có thể xảy
ra với tất cả các nhân vật tương lai của tác phẩm sắp tới, một tác phẩm rất lớn,
và nghĩ thật kỹ hàng triệu những kết hợp có thể để lựa ra trong đó 1/1000000,
thật khó khủng khiếp”(93).
Cảm giác về sự khó khăn của việc tìm cho được hình thức diễn
tả thích đáng điều mình muốn nói là cảm giác chung của tất cả những người cầm
bút, là ám ảnh của mọi nghệ sỹ. Từ lâu, trong Văn Tâm Điêu Long, Lưu Hiệp
đã nhận thấy điều đó: “Khi trí tưởng tượng bắt đầu hoạt động, hàng vạn cảnh tượng
xô đẩy nhau xuất hiện trước mắt, những quy tắc hướng dẫn chẳng còn có giá trị
gì, nhà văn tha hồ thả mình trôi theo đà lôi kéo của trí tưởng tượng… Đến khi cầm
lấy bút, trước khi sáng tạo còn cảm thấy hào hứng tăng lên gấp bội. Đến khi
hoàn thành tác phẩm lại thấy chưa diễn tả được phân nửa điều mình muốn nói”(94).
Điều này cũng hoàn toàn không xa lạ với các nghệ sỹ thời nay. Họa sỹ Bùi Xuân
Phái cũng từng tâm sự: “Vẽ trúng ý thích cao độ của mình không
phải chuyện dễ”(95).
Vẽ trúng, viết trúng được điều mình nghĩ, điều mình muốn giãi
bày đúng là một nhu cầu của người sáng tác nghệ thuật và cũng là một đòi hỏi đối
với hoạt động sáng tạo hình thức, góp phần tạo nên giá trị của tác phẩm. Nhưng
nếu chúng ta quan niệm hoạt động sáng tạo nghệ thuật không phải chỉ là quá
trình đi từ nghệ sỹ đến tác phẩm mà còn là quá trình tiếp nhận, đi từ tác phẩm
đến người đọc thì cái hay, giá trị thẩm mỹ của tác phẩm không phải chỉ nằm ở chỗ
nghệ sỹ tìm được hình thức “thích đáng”, nói trúng ý nghĩ của mình, mà còn biểu
hiện ở chỗ người đọc, người xem cảm thấy nhà văn, họa sĩ đã nói trúng, suy tư,
cảm xúc của mình, điều mình cũng nghĩ, cũng cảm thấy nhưng tự mình không diễn tả
được và cũng thấy không phải ai cũng nói hộ mình một cách chính xác, đầy đủ như
vậy. Sức hấp dẫn của tác phẩm một phần nằm ở sự trùng hợp giữa kinh nghiệm sống
của nhà văn và người đọc. Sự trùng hơp này có được vừa do bản thân nội dung của
những kinh nghiệm sống ấy, vừa do hình thức trình bày nó, cách diễn tả nó. Đó
cũng là một khó khăn nữa của công việc sáng tác nghệ thuật và do đó cũng là một
tiêu chuẩn để đánh giá tác phẩm. “Tính nghệ thuật – F.Dostoievski viết
– là khả năng thể hiện tư tưởng của mình qua các nhân vật và hình tượng
trong tiểu thuyết rõ ràng đến mức độc giả khi đọc tiểu thuyết cũng hiểu tư tưởng
của nhà văn hoàn toàn giống như chính nhà văn hiểu nó khi viết tác phẩm của
mình”(96). L. Tolstoi còn nói rõ hơn: “Tác phẩm nghệ thuật – ông viết
– chỉ thực sự là tác phẩm nghệ thuật khi người tiếp nhận không thể hình
dung một cái gì khác hơn như chính là cái mình đã nhìn thấy, hoặc nghe thấy, hoặc
hiểu, khi anh ta trải qua cảm giác giống như là nhớ lại, rằng điều đó có lẽ
mình đã gặp nhiều lần, đã biết từ lâu, chỉ có điều mình không biết cách nói, thế
mà bây giờ người ta nói cho mình cái của chính mình… Còn nếu người tiếp nhận cảm
thấy cái mà nghệ sỹ trình bày cho anh ta cũng có thể là khác… thì khi đó không
còn là nghệ thuật nữa”(97).
Như đã nói ở trên, đây là một khó khăn rất lớn đối với việc
sáng tạo hình thức trong nghệ thuật. Tuy nhiên, khó khăn ấy không dừng ở đây.
Sáng tạo nghệ thuật rõ ràng không thể tách rời việc nghệ sỹ tạo
ra hình thức. Nhưng ở đây cũng có những điều cần xem xét kỹ. Đối với những “Hình
thức bên trong”, hoặc hình thức mà M. Bakhtin gọi là “hình thức kiến tạo”,
những nỗ lực của chủ quan nghệ sỹ hoàn toàn bị giới hạn, bởi vì theo như M.
Bakhtin giải thích, đây không phải là cái nghệ sỹ có thể tạo tác, sắp xếp như đối
với “hình thức kết cấu” mà chúng vốn là “những hình thức của giá trị tâm hồn và
thể xác của con người thẩm mỹ, những hình thức của thiên nhiên như là môi trường
sống của con người, những hình thức của sự kiện trong phương diện đời sống cá
nhân, xã hội và lịch sử của nó”. Nói cách khác, hình thức bên trong chịu sự quy
định trực tiếp của thế giới tinh thần của nghệ sỹ, nó là hình thức tồn tại trực
tiếp của những tư tưởng – tình cảm của nghệ sỹ. Nghệ sỹ không “sáng tạo” ra nó
mà chỉ thể hiện nó, hay nói chính xác hơn, là tìm cách để nó được tự thể hiện,
hiện ra trong tác phẩm nhờ những “hình thức bên ngoài”: chất liệu, thủ pháp.
Cách hiểu mối quan hệ giữa hình thức bên trong với nội dung như vậy rất gần với
cách hiểu tương quan giữa văn học và Đạo trong mỹ học cổ Trung Hoa và Việt Nam(98).
Nghệ sĩ không tạo ra Văn. Văn toát ra từ Tâm, từ Đạo, là vẻ bề ngoài của Đạo, của
Tâm, gắn chặt với Tâm, với Đạo. Đạo là cái hồn, cái cốt của Văn. Đạo đổi thì
Văn đổi. Tâm sáng thì văn đẹp. Trong việc tạo ra loại hình thức này, công lao
không thuộc về tài nghệ, sự khéo léo của nghệ sỹ mà thuộc về cái Đạo, cái Tâm.
Nói cái tài là ở cái tình chính vì vậy.
Tuy nhiên, trong nghệ thuật bên cạnh hình thức bên trong còn
có hình thức bên ngoài. Những hình thức này thường không quan hệ trực tiếp với
nội dung mà thông qua những hình thức bên trong, mặc dù vậy tính chất “phục vụ”
(chữ dùng của M. Bakhtin) của nó đối với nội dung là hoàn toàn rõ ràng. Điều đó
cũng có nghĩa là trong sáng tác nghệ thuật, nghệ sỹ phải tạo ra được những hình
thức (bên ngoài) “thích đáng”, có khả năng diễn tả những điều mình muốn nói
cũng như làm cho người tiếp nhận cảm thấy như được nói hộ, nói trúng ý mình.
Nhưng phải chăng chức năng và ý nghĩa của việc tạo ra những hình thức bên ngoài
chỉ có vậy và cái khó của sự sáng tạo hình thức cũng chỉ ở đó? Chúng ta phải
xem xét kỹ hơn điều này.
Trong tác phẩm Mỹ học, Hegel viết: “… những hình tượng
và âm thanh có tính cảm tính hiện ra trong nghệ thuật không chỉ vì bản
thân mình và sự biểu hiện trực tiếp của mình (chúng tôi nhấn mạnh –
L.N.T), mà còn để trong hình thức này có thể thỏa mãn những nhu cầu tinh thần
cao nhất, bởi vì chúng có khả năng đánh thức và chạm đến tất cả những gì sâu thẳm
của ý thức cũng như gợi lên tiếng vang của chúng trong tinh thần”(99). Như vậy,
theo Hegel, hình thức trong tác phẩm nghệ thuật bên cạnh việc hiện ra để thỏa
mãn một mục đích khác còn hiện ra cho chính nó. Thế nào là hiện ra cho chính
nó, “vì bản thân mình”? Trong một chỗ khác, Hegel viết: “Do bản chất chất liệu
và đơn nhất của nó, tác phẩm nghệ thuật được quy định bởi rất nhiều yếu tố bộ
phận khác nhau, trong đó quan trọng nhất là thời điểm và địa điểm xuất hiện của
tác phẩm, sau đó là cá tính riêng của nghệ sỹ và mức độ hoàn thiện về kỹ
thuật của nghệ thuật. Để có hiểu biết cơ bản về một tác phẩm nghệ thuật
nào đó và ngay cả chỉ để thưởng thức nó một cách đầy đủ, nhất thiết phải
chú ý đến tất cả các mặt này” (chúng tôi nhấn mạnh – L.N.T)(100).
Nghĩa là trong số “tất cả các mặt” tạo nên tác phẩm và có thể mang lại khoái cảm
cho độc giả, khán giả thì “mức độ hoàn thiện về kỹ thuật” là một mặt không thể
bỏ qua.
Từ ý kiến của Hegel trên đây, có thể thấy hình thức bề ngoài,
cái thường gắn với chất liệu, kỹ thuật, có giá trị riêng của nó. Giá trị đó
không phải lúc nào cũng phụ thuộc vào giá trị của nội dung mà nó thể hiện cũng
như biểu hiện ở tính “thích đáng”, tức sự tương thích của nó với nội dung. Bằng
chứng là nó có thể được coi là hoàn thiện cả trong trường hợp khi nội dung mà
nó thể hiện không đáp ứng yêu cầu của nghệ thuật chân chính. Hegel cũng đã thừa
nhận: “Có nghệ thuật mà xét về mặt kỹ thuật và các mặt khác có thể được
coi là hết sức hoàn thiện trong phạm vi nhất định của mình, nhưng khi
đối chiếu với khái niệm nghệ thuật và với lý tưởng thì không đáp ứng được – đó
không phải là nghệ thuật hoàn thiện”(101). Nghệ sĩ, hơn ai hết là những người
hiểu rõ giá trị đó của hình thức: “Các từ ngữ tự bản thân nó và độc lập với cái
nghĩa mà nó thể hiện (tức là độc lập với ý nghĩa từ vựng của nó) có một vẻ đẹp
và giá trị riêng” (C. Baudelaire)(102).
Như vậy cái khó của sáng tạo hình thức trong nghệ thuật đã
rõ. Một mặt, nghệ sĩ phải đem lại cho nội dung mà mình muốn thể hiện một hình
thức phù hợp với nó, mặt khác anh ta phải làm sao cho cái hình thức ấy đủ sức tồn
tại “vì bản thân mình”, tức là phải thật hoàn thiện để có thể mang lại một
khoái cảm thẩm mỹ riêng. Khó là ở chỗ có khi nói được ý lại không có được vẻ đẹp
của lời, còn nếu chạy theo vẻ đẹp của lời thì lại đánh mất ý. Đó là một “khó
khăn kép” mà không phải lúc nào người sáng tác cũng có thể vượt qua. Không phải
ngẫu nhiên nhà thơ Tế Hanh tâm sự:
Đọc một bài thơ hay
Ý nghĩa đầu tiên thấy mình làm được
Ý nghĩa sau cùng thấy mình bất lực
Đó là cái bất lực mà bất kỳ người cầm bút nào cũng cảm thấy hết
sức rõ rệt.
Để hiểu đầy đủ ý nghĩa của hình thức nghệ thuật và tài năng của
nghệ sỹ, cần phân biệt rõ hai mặt này trong chức năng của hình thức, đặc biệt
là đánh giá đúng mức giá trị của những tìm tòi, khám phá nhằm đem lại cho hình
thức nghệ thuật sự mới mẻ, độc đáo, gợi lên khoái cảm thẩm mỹ cao. Các nhà hình
thức không phải không có lý khi coi việc tạo ra hình thức là một yêu cầu tối
thượng của sáng tạo nghệ thuật, nhìn thấy ở đây bản chất của nghệ thuật và ý
nghĩa đặc trưng của nó đối với việc thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người. Nếu
sai lầm của chủ nghĩa hình thức là tuyệt đối hóa hình thức thì công lao của nó
cũng nằm ở đây. Nó lôi kéo sự chú ý của công chúng không chỉ vào nội dung, vào
sự kiện, ý nghĩa, con người mà còn vào câu chữ, đường nét, màu sắc, âm thanh,
nó muốn xem hình thức không chỉ như phương tiện truyền đạt, diễn tả mà còn
như đối tượng của sự nhìn ngắm, thưởng thức. Nó muốn khắc phục một thói
quen, một thị hiếu được hình thành từ lâu, đã trở thành thâm căn cố đế dưới ảnh
hưởng của quan niệm: nội dung quyết định hình thức, nội dung là chính, hình thức
là phụ, tức là cách tiếp nhận tác phẩm hướng thẳng ngay vào ý nghĩa, vào nội
dung câu chuyện, vào tình cảm, vào chủ đề, bỏ qua sự hiện diện của câu chữ,
hình ảnh, màu sắc, chỉ nhìn thấy giá trị của tác phẩm trong những cái được biểu
đạt, còn bản thân cái biểu đạt thì chỉ được coi như một kí hiệu, một phương tiện,
một sự vật vô hồn. Cách thưởng thức nghệ thuật như vậy hoàn toàn trái với bản
chất của sáng tạo nghệ thuật và xa lạ với cảm nhận của nghệ sĩ khi sáng tác. Đối
với nhà thơ, J.P. Sactre viết: “từ là sự vật chứ không phải là kí hiệu. Bản chất
hai mặt của kí hiệu cho phép, khi muốn, cái nhìn có thể xuyên qua nó như xuyên
qua tấm kính và hướng thẳng đến sự vật được gọi tên. Nhưng bản chất hai mặt này
cũng cho phép một cách khác: hướng cái nhìn vào chính sự tồn tại hiện thực của
kí hiệu và xem bản thân kí hiệu này như một sự vật. Người bình thường khi nói, ở
mặt phía kia của từ, gần sát với từ; còn nhà thơ thì luôn luôn ở phía bên này
(tức là ở ngoài từ – L.N.T). Đối với người bình thường, từ ngữ là những cái có
tính chất công cụ và quen thuộc như vật dụng trong nhà, còn đối với nhà thơ,
chúng là nguyên thủy, đầu tiên. Người nói coi từ ngữ như những quy ước hữu ích,
những công cụ bị mòn dần theo thời gian, và khi không dùng được nữa thì vứt bỏ;
còn đối với nhà thơ, chúng là hoa trái của thiên nhiên, cũng sinh sôi nảy nở
trên mặt đất, tự nhiên như cây cỏ”(103).
Đối với nghệ sĩ, câu chữ, màu sắc, âm thanh không chỉ là chướng
ngại cần phải chinh phục, vượt qua mà chúng còn là những sinh thể, những sự vật
có hồn. Nghệ sĩ vật lộn với chúng, sống với chúng, buồn vui với chúng. Anh ta
không diễn đạt, thể hiện ý nghĩa, tình cảm của mình trong từ ngữ, âm thanh, màu
sắc mà mang cho chúng một hình hài, một tồn tại hiện thực. Quá trình sáng tạo
nghệ thuật bao giờ cũng là sự kết hợp của hai dòng tình cảm khác nhau: dòng
tình cảm “đời” và tình cảm thẩm mỹ. Nhà thơ Xuân Diệu đã nói rất hay về quá
trình tâm lý này của người sáng tác: “Khi tôi nói xúc cảm, tôi không chỉ nói
rung động về tình cảm mà thôi, bởi vì người ta có thể rung động rất nhiều, thiết
tha chân thành đến ứa lệ, nhưng ra nước mắt chưa hẳn đã là thơ, khi tôi nói xúc
cảm là tôi nói rung động về tình cảm cộng với đồng thời một cơn rung động
về vần điệu, hình tượng, âm thanh, một hứng thú sáng tạo vậy”(104).
“Rung động về vần điệu, hình tượng, âm thanh” chính là nội
dung của “Hình thức ý nghĩa” mà C. Bell đã nói đến. Những từ ngữ, màu sắc, âm
thanh không chứa đựng những rung động này không phải là hình thức nghệ thuật
đích thực. Chính nhờ những rung động này, “hứng thú sáng tạo” này của nghệ sĩ
mà tác phẩm mang lại cho người thưởng ngoạn một rung động đặc biệt gọi là rung
động thẩm mỹ.
Đối với người bình thường, rung động thẩm mỹ không phải là dễ
và lúc nào cũng có thể đạt tới. Nó phụ thuộc vào hoàn cảnh thưởng ngoạn, vào sức
mạnh của “cơn rung động về vần điệu, hình tượng, âm thanh” mà người sáng tác
đưa vào tác phẩm cũng như bản tính, năng khiếu của từng người. Thông thường,
người ta hay hoặc chỉ có những “rung động về tình cảm mà thôi”. Ngay đối với
người sáng tác, không phải ai và lúc nào cũng có được “một cơn rung động về vần
điệu, hình tượng, âm thanh” thật mãnh liệt, nhấn chìm cả anh ta và do đó cuốn
hút, hấp dẫn người xem, người đọc. Điều đó chứng tỏ việc sáng tạo hình thức –
chúng ta muốn nói đến hình thức bên ngoài (từ ngữ, màu sắc, âm thanh…) gắn với
“hứng thú sáng tạo” của nghệ sĩ và rung động thẩm mỹ của người đọc, người xem,
người nghe cũng là một công việc hết sức khó khăn và có ý nghĩa rất to lớn. Cái
gọi là năng khiếu haytài năng nghệ thuậtnằm chính ở đây. Nghệ sĩ khác
người bình thường trước hết không phải ở cái tình, ở tư tưởng mà ở khả năng cảm
nhận và làm chủ con chữ, làm chủ ngọn bút, làm chủ phím đàn, ở khả năng mang lại
cảm giác về cái đẹp, sự hoàn thiện, khả năng “lạ hóa” những cái đã quen thuộc,
khả năng tìm thấy những cách diễn đạt mới mẻ, độc đáo. Trong cách nói hằng
ngày, chúng ta hay lạm dụng khái niệm tài năng, làm mất đi ranh giới giữa cái
có thực và cái hư ảo và từ đó vô tình hạ thấp giá trị của tài năng mà thực chất
là hạ thấp ý nghĩa của nghệ thuật.
Nghệ thuật ngoài ý nghĩa xã hội còn có một sứ mạng khác – sứ
mạng này thậm chí còn lớn lao hơn – đó là vai trò của nó đối với sự phát
triển của con người. Nghệ thuật, theo cách nói của Hegel là một “hình thức” tồn
tại và phát triển của ý niệm, tức là của nhận thức, của đời sống tinh thần của
con người. Ý thức con người sinh sôi, nảy nở trong nghệ thuật. Con người lớn
lên về mặt tinh thần trong nghệ thuật: tự do hơn, sâu sắc hơn, nhân văn hơn. Đời
sống tình cảm của con người trở nên phong phú, tinh tế, lung linh huyền ảo hơn
nhờ nghệ thuật. Nghệ thuật là mảnh đất nuôi dưỡng những phẩm chất và giá trị
tinh thần mà con người tích lũy được trong quá trình trút bỏ tính chất sinh vật
nguyên thủy của mình để trở thành “sinh vật có tính loài” (K. Marx), tức con
người có ý thức(105).
Quá trình “người hóa” này gồm hai mặt: Hegel giải thích nó
như sau: “Nhu cầu chung nhất về nghệ thuật xuất phát từ nguyện vọng hợp lý của
con người muốn nhận thức về tinh thần thế giới bên trong và bên ngoài bằng cách
hình dung nó như một đối tượng trong đó y nhận ra được “cái tôi” của mình. Con
người thỏa mãn nhu cầu tự do tinh thần này, một mặt, bằng cách ý thức được bên
trong cho mình cái đang tồn tại, mặt khác, bằng cách mang lại cho cái “tồn tại
cho mình”này một hình hài và khi tự nhân đôi mình, con người làm cho cái tồn tại
bên trong y trở thành cái mà bản thân mình và người khác có thể nhìn thấy và nhận
thức được”(106). Nói một cách khác, con người trưởng thành và trở nên người hơn
trong cả hai quá trình: quá trình phát triển của ý thức và quá trình làm cho ý
thức ấy trở thành trực quan để “con người ngắm nhìn bản thân mình trong thế giới
do mình sáng tạo ra” (K. Marx).
Trong thế giới do con người sáng tạo ra ấy có tác phẩm nghệ
thuật. Nhờ có sáng tạo nghệ thuật, không chỉ tinh thần mà cả giác quan của con
người cũng được thỏa mãn: “Phẩm chất đầu tiên của bức tranh – họa sĩ Pháp
E. Delacroix nói – đó là làm sao để nó trở thành ngày hội của đôi mắt”(107).
Không chỉ ý thức, tình cảm, đời sống tinh thần của con người phong phú hơn,
nhân đạo hơn mà đôi mắt, lỗ tai, bàn tay cũng sắc sảo, tinh tế, thính nhạy
và khéo léo hơn, các quá trình tâm sinh lý như trực giác, cảm giác, tri giác,
tưởng tượng cũng phức tạp hơn, phát triển hơn. Sự hình thành và phát triển
các quan năng này trực tiếp và chủ yếu là gắn vớiquá trình sáng tạo hình
thức nghệ thuật. Điều đó có nghĩa là sáng tạo nghệ thuật, trước hết là việc
mang lại cho tác phẩm một hình thức bên ngoài, có ý nghĩa rất lớn đối với sự
phát triển các giác quan và năng lực thể chất của con người, từ đó góp phần vào
làm tăng “chất người” của “sinh vật có tính loài”.
Nhờ có sáng tạo nghệ thuật, tài năng của con người
thể hiện trong việc chinh phục chất liệu, tìm tòi và sử dụng các thủ pháp, kỹ
thuật được nâng cao. Trong quá trình ấy, người sáng tác cũng sẽ nhận được một “hứng
thú sáng tạo” có khả năng mang đến một niềm vui, một hạnh phúc vô bờ. “Một người
khi đã vui với niềm vui sáng tạo thì những niềm vui khác là vô nghĩa” (J.W.
Goethe).
Nhờ những khám phá, tìm tòi về hình thức, những “cơn rung động
về vần điệu, hình tượng, âm thanh” của nghệ sỹ, công chúng cũng sẽ được thụ hưởng
một khoái cảm đặc biệt – đó là khoái cảm thẩm mỹ. Khoái cảm thẩm mỹ làm
cho đời sống con người giàu thêm, nâng tâm hồn con người lên, làm cho con người
cảm thấy đời sống bớt tầm thường, bớt trần tục hơn, thấy cuộc đời lung linh,
huyền ảo hơn. Tiếp xúc với nghệ thuật nhiều, đôi mắt con người cũng có khả năng
nhìn ra được nhiều cái đẹp hơn, đôi tai có thể lắng nghe trong từng âm thanh, từng
tiếng đàn những giọng điệu khác nhau, tiếng trong tiếng đục khác nhau. Bằng
cách ấy, nghệ thuật đã mở thêm một cánh cửa, một lối đi để con người đến với thế
giới bao la của tiếng nói, của âm thanh, ánh sáng, sắc màu trong đời sống,
trong thiên nhiên và do đó cũng mang lại cho người thưởng thức một niềm vui, một
hạnh phúc giống như “hứng thú sáng tạo” của nghệ sỹ. Bằng cách ấy, những sáng
tạo hình thức đã giúp vào sự hoàn thiện của con người: phát triển toàn diện thế
giới tinh thần và những giác quan gắn nối nó, thân thể tinh thần
của nó. Sáng tạo hình thức vì vậy không chỉ có ý nghĩa nghệ thuật, mà còn có ý
nghĩa nhân văn.
Hình thức nghệ thuật có ý nghĩa rất lớn. Nhờ nó nghệ thuật trở
thành nghệ thuật. Nghệ thuật không phải chỉ có hình thức. Nhưng không có hình
thức sẽ không có nghệ thuật. Ý nghĩa của hình thức không chỉ hạn chế trong quan
hệ của nó với nội dung. Bản thân hình thức cũng có giá trị riêng và tác động
riêng.
Ngày nay, việc đề cao hình thức không còn mới mẻ nữa. Nghiên
cứu hình thức trong sáng tác nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng đã khắc
phục được tính cực đoan của nó, đã không còn đóng vai trò là một phương pháp luận,
một “mỹ học chung” như M. Bakhtin đã từng phê phán. “Lý luận chung về các
hình thức văn học gọi là thi pháp học” (Gérard Genette) và “Thi pháp học không
phải là một phương pháp – như cấu trúc luận và những phương pháp khác – mà
đúng hơn là một cách nhìn các sự kiện” (Tzvetan Todorov)(108). Nhưng
điều đó không có nghĩa là tầm quan trọng của hình thức và việc nghiên cứu nó giảm
đi.
Thực tiễn sáng tác nghệ thuật, đặc biệt là trong thơ ca và
nghệ thuật tạo hình ở nước ta cũng như trên thế giới thế kỷ XX và đầu thế kỷ
XXI cho thấy các hình thức thể hiện đã có nhiều thay đổi căn bản, táo bạo, đã
trở nên đa dạng và khó hình dung hơn. Những tuyên bố ủng hộ cái mới bao giờ
cũng sẵn sàng, nhưng chấp nhận nó thì không dễ, nhất là chấp nhận cho mình. Thị
hiếu luôn luôn mang tính bảo thủ. Nếu thị hiếu ấy lại nhiễm sắc thái ý thức hệ
thì tình trạng lại còn nặng nề hơn. Bởi vậy hiện nay ở nước ta, thái độ đối với
hình thức nghệ thuật thể hiện trong cách tìm tòi, sáng tạo và cách cảm nhận,
đánh giá tác phẩm đang là một thách thức lớn đối với người sáng tác cũng như
công chúng. Ở đây không có giới hạn cho cái mới; chỉ có giới hạn về cái hay và
cái dở. Ở đây không phải tất cả màu nào, chữ nào, âm nào cũng đều được xem là
mang nghĩa, có nghĩa, có tính ngụ ý hay ẩn dụ. Nghĩa của hình thức có khi nằm
trong chính nó. Ở đây không thể lấy tấm lòng thay cho câu chữ, lấy ý để thay
cho lời, thay cho đường nét, màu sắc. Ở đây là chỗ của tài năng. Tài năng trong
sáng tác đã khó, tài năng trong thưởng ngoạn – thưởng ngoạn màu, thưởng ngoạn
chữ, thưởng ngoân âm – có lẽ còn khó hơn.
Bấy nhiêu thôi cũng đủ thấy cái khó của sáng tạo hình thức
trong nghệ thuật. Nhưng chính trong cái khó này bao hàm ý nghĩa, sứ mạng của
nó. Bởi vậy cổ vũ cho những tìm tòi mạnh dạn về hình thức cũng chính là cổ vũ
cho sáng tạo trong nghệ thuật, cổ vũ cho sự phát triển toàn diện, tự do của
con người.
(1) G.V.F. Hegel: Bách khoa thư các khoa học triết
học. Khoa học Logic I, dịch giả: Bùi Văn Nam Sơn. Nxb. Tri thức, H, 2008, tr.526.
(2), (4), (5) Sách đã dẫn, tr.526, 526, 527.
(3) Sđd, tr.532, dẫn giải của Bùi Văn Nam Sơn.
(6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (16),
(20), (21), (22), (23) G.V.F. Hegel: Mỹ học (bộ 4 tập, tiếng Nga), tập
1, M, 1968, tr.19, 95, 88, 89, 95, 20, 16, 16, 77, 80, 79, 44, 35, 41, 88.
(17), (18) Hegel: Bách khoa thư các khoa học triết
học. Sđd, tr.529, 527-528.
(19) Hegel: Bách khoa thư các khoa học triết học.
Sđd, tr.527-528.
(24), (25), (26), (27), (28), (29), (30) CLive Bell: Art,
trong sách Aesthetics: Classic Readings from The Western Tradition,
Jones and Bartlett Publishers, USA, 1996, p.328-329, 330, 332, 333, 333, 338,
338.
(31) Noel Carroll (tức Monroe C.Beardsley – L.N.T chú): Phylosophy
of Art, A Contemporary Introduction, Routledge, London and New York, 1999,
p.118.
(32) Encyclopedia of Aesthetics, Ed. By Michael Kelly,
Oxford University Press, New York, 1998, vol.1, p.251.
(33) Y. Tynyanov: On Literary Evolution (Về tiến
hóa văn học), trong sách: The Critical Tradtion. Classic Texts and
Contemporary Trends. Ed.by David H.Richter, New York, 1989.p.756.
(34) Literaturnoxt (tiếng Nga).
(35), (36), (37) R. Jakobson: Những công trình về thi
pháp học (tiếng Nga), M. 1987, tr.275, 81, 80.
(39) V. Shklovxky: Art and Technique (Nghệ thuật
như là thủ pháp), trong sách: The Critical Tradition: classic text
and contemporary Trends, Ed. By David H.Richter, New York, 1989, tr.741.
(40) M. Bakhtin: Những vấn đề văn học và mỹ học (tiếng
Nga). Nxb. Văn học, Moscow, 1975, tr.13.
(41) Hình thức kiến tạo: dịch từ tiếng Nga
“Arkhitektonitseskaia forma” và Hình thức kết cấu: “Kompozitxionnaia
forma”.
(42) Nhãn quan thẩm mỹ: chữ tiếng Nga: “Estetitseskoe
videnie”.
(43), (44), (45), (46), 48), (50), (51), (52), (53), (56),
(59), (60), (61), (62), (63), (64), (65) M. Bakhtin: Những vấn đề văn học
và mỹ học (tiếng Nga). Nxb. Văn học, Moscow, 1975, tr.70, 56,
42, 34, 24, 15, 57, 58, 14, 32, 56, 17, 70-71, 49, 20, 21, 18.
(47) Trong bài viết nói trên, M. Bakhtin có sử dụng mệnh đề “Xoderjatennaia
khudojextvennaia forma”, khiến một số người dịch là “hình thức nghệ thuật
có tính nội dung” và từ đó dẫn đến nói rằng: hình thức nghệ thuật không phải là
kỹ thuật thuần túy mà “có tính nội dung”. Cách diễn đạt này không phải hoàn
toàn sai, nhưng không chính xác về phương diện khoa học và cũng không đúng với
ý của M. Bakhtin: đối với ông, hình thức không phải chỉ có “tính nội dung” mà
là chính nội dung. Toàn văn câu M. Bakhtin viết như sau: “Ngôn ngữ với
tính xác định ngôn ngữ học của nó không đi vào bên trong của đối tượng thẩm
mỹ mà ở lại đằng sau nó, còn bản thân đối tượng thẩm mỹ thì được tạo
thành từ nội dung được hình thức hóa về phương diện nghệ thuật hay là từ hình
thức nghệ thuật của nội dung” (M. Bakhtin, Sđd, tr.49).
(49) Dịch từ chữ tiếng Nga: “khudojextveenno znatsimaia forma” và “Estetitsexki
znatsimaia forma”.
(54) C. Bell: Art, Sđd, tr.338.
(55) Bell: Art, Sđd, tr.337.
(57) C. Bell: Art, Sđd, tr.341.
(58) “Thuần túy” ở đây, theo M.Bakhtin nghĩa là còn chưa gắn
với chất liệu.
(66) Về phương thức tồn tại của tác phẩm văn chương, xem: R.
Wellek & A.Warren: Theory of Literature, chapter 12: “The Mode of
Existence of a Literary work of Art” (Phương thức tồn tại của tác phẩm văn học
nghệ thuật), Third Edition, A Hawest/HBJ Book, New York, 1977, tr.142-158,
R. Ingarden: Những công trình nghiên cứu về mỹ học(tiếng Nga). Nxb. Văn học
nước ngoài, Moscow, 1962, tr.21-91.
(67) R. Wellek & A. Warren: Theory of Literature,
Sđd, tr.140.
(68), (69), (70) Lévi –Strauss: Cấu trúc và hình thức, trong
sách Chủ nghĩa cấu trúc và văn học của Trịnh Bá Đĩnh. Nxb. Văn học,
2002, tr.421, 397, 421.
(71), (72), (74), (75) R. Ingarden. Những công trình
nghiên cứu về mỹ học (tiếng Nga), Moscow, 1962, tr.156.
(73) “Những hình dáng mang tính chất sơ đồ” theo R. Ingarden
là những hình ảnh, bức tranh ở dạng tổng quát, như sự vật nhìn từ xa, chưa rõ
đường nét cụ thể. “Những hình dáng” này không đơn thuần là những cái nhìn thấy
bằng mắt, nó được xác định cả bằng đặc điểm của đối tượng được quan sát lẫn
hoàn cảnh xảy ra sựquan sát và cả đặc điểm tâm sinh lý của chủ thể quan sát
(xem thêm R. Ingarden, Sđd, tr.28-29).
(76) Noel Carroll: Philosophy of Art, Sđd, tr.125-136.
(77) Noel Carroll, Sđd, tr.173.
(78) Noel Carroll, Sđd, tr.153.
(79) M. Bakhtin, Những vấn đề văn học và mỹ học (tiếng
Nga), Sđd, tr.57, 59.
(80) M. Bakhtin, Sđd, tr.58, 62.
(81) Năm yếu tố của ngôn từ gồm: 1) mặt âm thanh của
ngôn từ, tức chính yếu tố âm nhạc của nó, 2) nghĩa chỉ sự vật của từ (với tất cả
những sắc thái và biến thể của nó, 3) quan hệ ngôn từ (tất cả các quan hệ và
tương quan thuần túy ngôn từ), 4) ngữ điệu của ngôn từ (trên bình diện tâm lý,tức
bình diện tình cảm –ý chí), khuynh hướng giá trị của ngôn từ, thể hiện tính đa
dạng của những quan hệ giá trị ở người nói, 5) Cảm giác về tính chủ động ngôn từ,
cảm giác về sự tạo ra một cách chủ động âm thanh mang nghĩa (xem M.
Bakhtin, Sđd, tr.62).
(82) Trong “Văn Tâm Điêu Long”, Lưu Hiệp viết: “Tác phẩm văn
chương sở dĩ phức tạp là vì nội dung và hình thức(tôi nhấn mạnh
– L.N.T) đều đa dạng, người hiểu văn học thường có cái thích riêng của mình,
cho nên không ai thấy được toàn diện” (dẫn theo Phương Lựu: Tinh hoa lý luận
văn học cổ điển Trung Quốc. Nxb. Giáo dục, HN, 1989, tr.77).
(83) Dẫn theo Phương Lựu: Tinh hoa lý luận văn học cổ điển
Trung Quốc. Nxb. Giáo dục, HN, 1989, tr.64.
(84) Hegel, Mỹ học, Sđd, tr.75.
(85) Lưu Hiệp: Văn Tâm Điêu Long, dẫn theo Phương Lựu: Tinh
hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc. Nxb. Giáo dục, HN, 1989, tr.65-66.
(86) V. Soloviev: Bước đầu tiên hướng tới một mỹ học
đích thực. Trong sách “Siêu lý tình yêu” (Phạm Vĩnh Cư dịch). Nxb. Tri thức,
2011, tập 3, tr.72.
(87) M. Bakhtin: Những vấn đề văn học và mỹ học, Sđd, tr.55.
(88) M. Bakhtin: Những vấn đề của thi pháp Dostoievxky. Nxb.
Giáo dục, HN, 1993, tr.34.
(89) L.S. Vuigodsky, Tuyển tập các công trình tâm lý học (tiếng
Nga), Moscow, 1956, tr.323.
(90) T.S. Eliot: The Social Function of Poetry. Trong
sách “Poetry Theory and Practice”, New York, 1962, tr.133.
(91) Dẫn theo Phương Lựu: Tinh hoa lý luận văn học cổ điển
Trung Quốc. Nxb. Giáo dục, HN, 1989, tr.28.
(92) Hegel: Bách khoa thư các khoa học triết học,
Sđd, tr.527-528.
(93) L.N. Tolstoi, Thư gửi A.Fet, ngày 17/11/1870
trong cuốn L.N.Tolstoi bàn về văn học (tiếng Nga). Nxb. Văn học,
Moscow, 1955, tr.128.
(94) Lưu Hiệp: Văn Tâm Điêu Long. Dẫn theo: Dương Ngọc
Dũng “Dẫn nhập tư tưởng lý luận văn học Trung Quốc”. Nxb. Văn học, 1999, tr.211.
(95) Bùi Xuân Phái: Tâm tư nghệ thuật. Nxb. Mỹ Thuật,
2003, tr.72.
(96) F. Dostoievski: Bàn về nghệ thuật (tiếng Nga),
Moscow, 1973, tr.68-69.
(97) L. Tolstoi, Toàn tập (bộ 24 tập, tiếng Nga),
Moscow, tập 22, 1985, tr.343.
(98) Trong chương Nguyên Đạo (Văn Tâm Điêu Long),
Lưu Hiệp viết: “Bên cạnh con người, bất lỳ vật gì, cả động vật lẫn thực vật,
cũng đều có văn của nó cả. Con rồng, con phượng lấy vẩy, lông như vẽ thêm
mà báo trước điềm lành. Con hổ, con beo nhờ có bộ da vằn vện mà có vẻ uy
nghi. Màu sắc tươi đẹp của mây, của ráng còn vượt tài khéo của người họa
sĩ. Hoa lá của cỏ cây không chờ cái tài của người dệt gấm mới đẹp. Những
điều nói trên đâu phải là trang sức bên ngoài, mà là tự nhiên
đó vậy… Ôi! Những vật vô tri vô giác kia mà còn đẹp rực rỡ vậy, con người
là cái vật có tâm, lẽ nào chẳng có văn sao? (Dẫn theo Phương Lựu: Tinh
hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc. Nxb. Giáo dục, HN, 1989, tr.53)
(nhấn mạnh của chúng tôi – L.N.T).
(99) Hegel, Mỹ học, Sđd, tập 1, tr.45.
(100) Hegel, Mỹ học, Sđd, tập 1, tr.41.
(101) Hegel, Mỹ học, Sđd, tập 1, tr.80.
(102) Dẫn theo R.Jakobson: Những công trình về thi pháp học (tiếng
Nga). Nxb. Progress, Moscow, 1987, tr.83.
(103) J.P. Sactre: Văn học là gì? Trong sách: “Mỹ học và
lý luận văn học nước ngoài thế kỉ XIX – XX” (tiếng Nga). Nxb. Đại học Moscow,
1987, tr.317.
(104) Xuân Diệu: Đi trên đường lớn. Nxb. Văn học,
1968, tr.53.
(105) K.Marx: Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844.
Trích từ “C.Mác & F.Ăng-ghen tuyển tập” (6 tập). Nxb. Sự thật, 1980, tập
1, tr.120.
(106) Hegel, Mỹ học, Sđd, tập 1, tr.38
(107) E. Delacroix: Nhật ký của E. Delacroix (tiếng
Nga), Moscow, 1950, tr.586.
(108) French Literary Theory Today (Lý luận văn học
Pháp hiện nay), Ed. By Tzvetan Todorov, Cambridge University Press, New York, 1991,
tr.9, tr.3.
Lê Ngọc Trà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét