Dưới đây là bài diễn văn của Phạm Quỳnh trong ngày giỗ thi
hào Nguyễn Du ngày 8 tháng 12 năm 1924. Tòa soạn xin phép lược trích và đặt lại
đầu đề gửi đến độc giả.
Hôm nay là ngày giỗ cụ Tiên điền Nguyễn Tiên sinh, là bậc đại thi nhân
của nước Nam ta, đã làm ra bộ văn chương tuyệt tác là truyện Kim Vân Kiều.
Ban Văn học Hội Khai trí chúng tôi muốn nhân ngày giỗ này đặt một cuộc kỷ niệm để nhắc lại cho quốc dân nhớ đến công nghiệp [1] một người đã gây dựng cho quốc âm ta thành văn chương, để lại cho chúng ta một cái “hương hỏa” rất quý báu, đời đời làm vẻ vang cho cả giống nòi.
Chúng tôi thiết nghĩ một bậc có công với văn hóa nước nhà như thế, không phải là ông tổ riêng của một nhà một họ nữa, mà là ông tổ chung của cả nước; ngày giỗ ngài không phải là ngày kỷ niệm riêng của một nhà một họ nữa, chính là ngày kỷ niệm chung của cả nước.
Hiện nay suốt quốc dân ta, trên từ hàng thượng lưu học thức, dưới đến kẻ lam lũ làm ăn, bất cứ già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà, ai ai cũng biết truyện Kiều, ai ai cũng thuộc truyện Kiều, ai ai cũng kể truyện Kiều, ai ai cũng ngâm truyện Kiều, như vậy thời ai ai cũng đều hưởng cái công nghiệp của Cụ Tiên điền ta, ai ai cũng phải nhớ ngày giỗ Cụ và nghĩ đến cái ơn của Cụ tác thành cho tiếng nước nhà.
Muốn cảm cái ơn ấy cho đích đáng, hẵng thử giả thiết Cụ Tiên điền không xuất thế [2], Cụ Tiên điền có xuất thế mà quyển truyện Kiều không xuất thế, quyển truyện Kiều có xuất thế mà vì cớ gì không lưu truyền, thời tình cảnh tiếng An Nam đến thế nào, tình cảnh dân tộc ta đến thế nào?
Ban Văn học Hội Khai trí chúng tôi muốn nhân ngày giỗ này đặt một cuộc kỷ niệm để nhắc lại cho quốc dân nhớ đến công nghiệp [1] một người đã gây dựng cho quốc âm ta thành văn chương, để lại cho chúng ta một cái “hương hỏa” rất quý báu, đời đời làm vẻ vang cho cả giống nòi.
Chúng tôi thiết nghĩ một bậc có công với văn hóa nước nhà như thế, không phải là ông tổ riêng của một nhà một họ nữa, mà là ông tổ chung của cả nước; ngày giỗ ngài không phải là ngày kỷ niệm riêng của một nhà một họ nữa, chính là ngày kỷ niệm chung của cả nước.
Hiện nay suốt quốc dân ta, trên từ hàng thượng lưu học thức, dưới đến kẻ lam lũ làm ăn, bất cứ già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà, ai ai cũng biết truyện Kiều, ai ai cũng thuộc truyện Kiều, ai ai cũng kể truyện Kiều, ai ai cũng ngâm truyện Kiều, như vậy thời ai ai cũng đều hưởng cái công nghiệp của Cụ Tiên điền ta, ai ai cũng phải nhớ ngày giỗ Cụ và nghĩ đến cái ơn của Cụ tác thành cho tiếng nước nhà.
Muốn cảm cái ơn ấy cho đích đáng, hẵng thử giả thiết Cụ Tiên điền không xuất thế [2], Cụ Tiên điền có xuất thế mà quyển truyện Kiều không xuất thế, quyển truyện Kiều có xuất thế mà vì cớ gì không lưu truyền, thời tình cảnh tiếng An Nam đến thế nào, tình cảnh dân tộc ta đến thế nào?
Văn chương người ta thiên kinh vạn quyển, dẫu có thiếu mất một quyển cũng chẳng
hại gì. Văn chương mình chỉ độc có một quyển, vừa là kinh, vừa là truyện, vừa
là Thánh thư [3] Phúc âm [4] của cả một dân tộc, ví lại khuyết nốt thì
dân tộc ấy đến thế nào?
Than ôi! mỗi lần nghĩ tới mà không khỏi rùng mình, chột dạ, sửng sốt, rụng rời, tưởng như hòn ngọc ở trên tay bỗng rơi xuống vỡ tan tành vậy. Rồi mới tỉnh ra, sực nhớ đến mấy câu Kiều, vỗ bàn đập ghế, gõ dịp [5] rung đùi, lên giọng cao ngâm: “Lơ thơ tơ liễu buông mành,/ Con oanh học nói trên cành mỉa mai”, hay là: “Phong-trần mài một lưỡi gươm,/ Những phường giá áo túi cơm xá gì” bỗng thấy trong lòng vui vẻ, trong dạ vững vàng, muốn nhảy muốn múa, muốn reo muốn hò, muốn ngạo nghễ với non sông mà tự phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ!...
Có nghĩ cho xa xôi, cho thấm thía, mới hiểu rằng truyện Kiều đối với vận mệnh nước ta có một cái quý giá vô ngần.
Một nước không thể không có quốc hoa, Truyện Kiều là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc túy, truyện Kiều là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, truyện Kiều là quốc hồn của ta. Truyện Kiều là cái “văn tự” [6] của giống Việt Nam ta đã “trước bạ” [7] với non sông đất nước này. Trong mấy nghìn năm ta chôn rau [8] cắt rốn, gửi thịt gửi xương ở cõi đất này, mà ta vẫn hình như một giống ăn trọ ở nhờ, đối với đất nước non sông vẫn chưa từng có một cái văn tự văn khế phân minh, chứng nhận cho ta có cái quyền sở hữu chính đáng. Mãi đến thế kỷ mới rồi mới có một đấng quốc sĩ [9], vì nòi giống, vì đồng bào, vì tổ tiên, vì hậu thế, rỏ máu làm mực, “tá tả” [10] một thiên văn khế tuyệt bút, khiến cho giống An Nam được công nhiên [11], nghiễm nhiên [12], rõ ràng, đích đáng làm chủ nhân ông một cõi sơn hà gấm vóc.
Đấng quốc sĩ ấy là ai? Là Cụ Tiên điền ta vậy. Thiên văn khế ấy là gì? Là quyển truyện Kiều ta vậy.
Gẫm trong người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!
Báu ấy mà lọt đến tay ta, thật cũng là một cái phúc duyên cho ta, nhưng báu ấy ở trong tay Cụ lại chính là một cái túc duyên [13] của Cụ. Thiên văn tự tuyệt bút kia là gồm bao nhiêu giọt máu, bao nhiêu giọt lệ kết tinh lại mà thành ra, những khi đêm khuya thanh vắng vẫn thường tỉ tê thánh thót trong lòng ta, như “Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà” vậy.
Cái áng văn chương tuyệt tác cho người đời đó, an tri lại không phải là một thiên lịch sử thống thiết của tác giả?.
Ghi chú:
[1] công nghiệp: Công lao và sự nghiệp đối với xã hội;
Than ôi! mỗi lần nghĩ tới mà không khỏi rùng mình, chột dạ, sửng sốt, rụng rời, tưởng như hòn ngọc ở trên tay bỗng rơi xuống vỡ tan tành vậy. Rồi mới tỉnh ra, sực nhớ đến mấy câu Kiều, vỗ bàn đập ghế, gõ dịp [5] rung đùi, lên giọng cao ngâm: “Lơ thơ tơ liễu buông mành,/ Con oanh học nói trên cành mỉa mai”, hay là: “Phong-trần mài một lưỡi gươm,/ Những phường giá áo túi cơm xá gì” bỗng thấy trong lòng vui vẻ, trong dạ vững vàng, muốn nhảy muốn múa, muốn reo muốn hò, muốn ngạo nghễ với non sông mà tự phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ!...
Có nghĩ cho xa xôi, cho thấm thía, mới hiểu rằng truyện Kiều đối với vận mệnh nước ta có một cái quý giá vô ngần.
Một nước không thể không có quốc hoa, Truyện Kiều là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc túy, truyện Kiều là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, truyện Kiều là quốc hồn của ta. Truyện Kiều là cái “văn tự” [6] của giống Việt Nam ta đã “trước bạ” [7] với non sông đất nước này. Trong mấy nghìn năm ta chôn rau [8] cắt rốn, gửi thịt gửi xương ở cõi đất này, mà ta vẫn hình như một giống ăn trọ ở nhờ, đối với đất nước non sông vẫn chưa từng có một cái văn tự văn khế phân minh, chứng nhận cho ta có cái quyền sở hữu chính đáng. Mãi đến thế kỷ mới rồi mới có một đấng quốc sĩ [9], vì nòi giống, vì đồng bào, vì tổ tiên, vì hậu thế, rỏ máu làm mực, “tá tả” [10] một thiên văn khế tuyệt bút, khiến cho giống An Nam được công nhiên [11], nghiễm nhiên [12], rõ ràng, đích đáng làm chủ nhân ông một cõi sơn hà gấm vóc.
Đấng quốc sĩ ấy là ai? Là Cụ Tiên điền ta vậy. Thiên văn khế ấy là gì? Là quyển truyện Kiều ta vậy.
Gẫm trong người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!
Báu ấy mà lọt đến tay ta, thật cũng là một cái phúc duyên cho ta, nhưng báu ấy ở trong tay Cụ lại chính là một cái túc duyên [13] của Cụ. Thiên văn tự tuyệt bút kia là gồm bao nhiêu giọt máu, bao nhiêu giọt lệ kết tinh lại mà thành ra, những khi đêm khuya thanh vắng vẫn thường tỉ tê thánh thót trong lòng ta, như “Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà” vậy.
Cái áng văn chương tuyệt tác cho người đời đó, an tri lại không phải là một thiên lịch sử thống thiết của tác giả?.
Ghi chú:
[1] công nghiệp: Công lao và sự nghiệp đối với xã hội;
[2] xuất thế:
ra đời, nói một cách trân trọng;
[3] Thánh thư: sách Thánh;
[4] Phúc
âm: Tin lành;
5] dịp: nhịp;
[6] văn tự: giấy tờ do hai bên thỏa thuận
ký kết mua bán;
[7] trước bạ: đăng ký văn tự với một cơ quan nhà nước để
có tính pháp lý;
[8] rau: nhau;
[9] quốc sĩ: người tài nổi tiếng
trong cả nước;
[10] tá tả: viết dùm người khác;
[11] công nghiên: một
cách công khai;
[12] nghiễm nhiên: (thực hiện) một cách tự nhiên và đàng
hoàng, điều mà trước đó không ai ngờ;
[13] túc duyên: duyên sẵn từ kiếp
trước.
Phạm Quỳnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét