Ngôn ngữ và nhà thơ
I. Ngôn ngữ
Kinh Thánh kể về chuyện con cháu nhà Noé định xây một cái
tháp để lên thăm lại Vườn Eden - nước Thiên đàng sung sướng ngày xưa; nhưng
Chúa đã trừng phạt ý định ngông ngạo đó bằng cách làm lộn xộn tiếng “Esperanto”
của Ngài đi để con người không bao giờ có thể thực hiện được ý định đó nữa. (Từ
bấy, Tháp Babel đi vào điển tích có nghĩa là lộn xộn, mất trật tự; còn có nghĩa
là không tưởng). Thế là con người không còn thông cảm được với nhau và coi đó
là sự trừng phạt của Chúa.
Song, ngay cả tiếng Esperanto - ngôn ngữ nhân tạo do Zamenhof
đã nghĩ ra vào năm 1887 cũng không cứu vãn được tình trạng “lộn xộn”, “mất trật
tự” đó. Mỗi quốc gia, cộng đồng vẫn nói tiếng nói của mình.
“Hiện tượng lẫn lộn tiếng nói diễn ra sau ý đồ xây dựng tháp
Babel đánh dấu việc đa dạng hoá ngôn ngữ và do đó, truyền thống nguyên thuỷ
cũng trở nên đa dạng. Đó là hệ quả của việc tâm trí con người trở nên tối tăm,
khiến cho ngôn ngữ đã chuyển dần từ thống nhất thành đa dạng: đây có lẽ là một
quá trình tiến hoá bình thường, chứ không chỉ là sự trừng phạt của Chúa Trời.
Mallarmé đã viết: "Các ngôn ngữ đều không hoàn chỉnh vì là có nhiều, mà
không có một ngôn ngữ tuyệt đỉnh...”(1).
Trong Tạp chí Người đưa tin, Unesco, số 2/1994, Peter Muhlhausler
đã cho rằng: bảo tồn sự đa dạng về ngôn ngữ cũng là cách bảo tồn sự đa dạng về
cách thức tri nhận thế giới. Người sử dụng ngôn ngữ nào thì có cách tri nhận thế
giới theo ngôn ngữ đó: tiếng xứ Wales đã không phân biệt giữa xanh da trời với
xanh lá cây và chỉ gọi gọn là glas “vì trong thực tế họ đã không chú ý tới sự
khác nhau đó”.
Ngày nay mỗi dân tộc vẫn coi bản ngữ của mình là đẹp nhất thế
giới. Trong người Việt chúng ta cái cảm thức về ngữ nghĩa và âm hưởng cao rộng
của hai chữ “bầu trời” rất khác âm vang của từ này cùng nghĩa trong các tiếng
Pháp, tiếng Rumani, tiếng Anh (“le ciel”; “cerul”; “the sky”). Đó là tính chất
võ đoán (chủ quan) của ngôn ngữ: cùng một sự vật, hiện tượng lại được gọi khác
nhau. Câu nói của Hugo: “Có từ như một ánh nhìn, có từ như một nụ cười”(2) là nói đến ngôn ngữ của đồng bào ông mà
một người ngoại quốc dẫu rất giỏi tiếng Pháp cũng chưa chắc có được cảm thức
đó. Rimbaud còn “thấu thị” được màu sắc ngay cả ở những nguyên âm. Sau này
Proust còn cảm nhận được màu sắc, hình thái của những tên riêng (con người, địa
lý).
Âm vang của từ ngữ mang nghĩa do chính cảm thức, quán tính của cộng đồng.
Ngôn ngữ - “cái sản phẩm xã hội lưu giữ trong óc mỗi người” của mỗi cộng đồng là một “con bài bắt buộc” để các thế hệ sau cứ thế mà sử dụng; và là “sự chấp nhận trong một tập thể”, là “một cái gì người ta phải chịu chứ không phải là một quy tắc tự nguyện” (3). Xin lưu ý: các nhà ngôn ngữ học trên thế giới đều thống nhất: “Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, khẩu ngữ, võ đoán dùng trong các hoạt động giao tiếp của con người” (4). Theo đó, “ngôn ngữ” được hiểu là “lời nói” mà không phải là “chữ viết”.
Âm vang của từ ngữ mang nghĩa do chính cảm thức, quán tính của cộng đồng.
Ngôn ngữ - “cái sản phẩm xã hội lưu giữ trong óc mỗi người” của mỗi cộng đồng là một “con bài bắt buộc” để các thế hệ sau cứ thế mà sử dụng; và là “sự chấp nhận trong một tập thể”, là “một cái gì người ta phải chịu chứ không phải là một quy tắc tự nguyện” (3). Xin lưu ý: các nhà ngôn ngữ học trên thế giới đều thống nhất: “Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, khẩu ngữ, võ đoán dùng trong các hoạt động giao tiếp của con người” (4). Theo đó, “ngôn ngữ” được hiểu là “lời nói” mà không phải là “chữ viết”.
Lời nói có trước, chữ viết có sau. Tôi coi “chữ” là cái
“bóng” của “lời”, như chúng ta phải ra đời rồi mới có cái bóng của mình. “Tử ngữ”
là “cái bóng” đã nằm im hay tiếng vang trầm đục vọng tới chúng ta từ một sinh
ngữ trong quá khứ. Từ đây, để tránh lầm lẫn giữa “lời” và “chữ”, trong bài viết
tôi sẽ thống nhất cách dùng: ngôn ngữ (language - lời nói, tiếng); ngôn từ
(language verbal - chữ viết).
Đứa trẻ học nói trước khi học đọc, học viết. Lớn lên nó đi học,
biết đọc, biết viết rồi giỏi giang, được coi là người “có chữ”, ngày xưa gọi là
người “quân tử”. Kẻ “tiểu nhân” thấy người quân tử từ xa phải vái chào. Quân tử
được trọng vọng và được khao khát trong ca dao: “Một đêm quân tử nằm kề/Còn hơn
thằng ngọng vỗ về quanh năm" (5). Sự khao khát tinh khiết đó của các cô gái
là có lý: ngoài địa vị xã hội, tiền của... người “quân tử” còn nói năng dễ nghe
hơn “thằng ngọng” - (đương nhiên, không ai ngây thơ hiểu theo nghĩa đen của từ
này). Do áp lực của cặp đối lập “quân tử”/“thằng ngọng” mà ta đã bắt đầu đoán
ra được ẩn ý trong câu ca dao trên. Đó là: bằng trực giác, dân gian đã khái
quát được con đường đi của “chữ”. “Chữ” vào đầu rồi ra miệng thành “lời” mềm mại
“vỗ về” con người.
“Chữ” tác động trở lại cấu trúc nhân cách, trí tuệ.
II. Nhà thơ: từ ngôn ngữ đến ngôn từ thơ
Nhà thơ sẽ tính sao trước “con bài bắt buộc” đó? Con đường dẫn
đến bài thơ như thế nào? Bài thơ được làm bằng gì? Chúng ta đã quá quen với việc
đọc bài thơ bằng văn bản chữ. Và tưởng đâu đó là câu trả lời. Nhưng có bài thơ
chỉ thấy chữ mà không có thơ; và ngược lại, có bài thơ “không có chữ” hay ta
quên mất chữ mà lại rất thơ đã khiến ta phải đặt lại vấn đề sáng tạo thơ.
Mọi bài thơ về tình yêu đều chỉ gói gọn trong một câu: “Anh
yêu em” (Jacobson). Nhưng không bài nào giống bài nào do “tiếng lòng” của riêng
mỗi nhà thơ trước đối tượng yêu. Nói “tiếng lòng” là bao gồm nhiều thứ, trong
đó, “tức cảnh sinh tình” là một động lực: một cơn gió thu se lạnh, một tiếng
còi tàu, một sớm mùa đông, một ánh mắt, một nụ cười thoáng gặp, một bài hát xưa
cũ… Đã có nhiều “Mùa thu” đi vào trong thơ, nhưng “ngữ pháp” của “tiếng lòng” mỗi
nhà thơ không giống nhau nên ta đã có những bài thơ thu khác nhau.
Song giữa việc xúc động của “tiếng lòng” với việc “vật chất
hoá” nó ra trên trang giấy là hai chuyện khác nhau. Sắp xếp “tiếng lòng” như thế
nào cho hay, cho du dương hay có vần điệu để có được “cái thú được nghe lời
mình nói” là một việc làm nhọc lòng, nhưng tự nguyện.
Thơ là tự giác. Không ai bắt nhà thơ ngồi vào bàn gửi gắm tâm
sự của mình. “Tiếng lòng” giống như những sợi tơ lóng lánh sẽ theo ngòi bút chảy
xuống trang giấy “bện” thành các con chữ. Chữ viết là hình thức vật chất hoá ý
nghĩ, tư tưởng. Ngôn từ thơ “photo” lại “tiếng lòng” của nhà thơ.
Ai đã sáng tác đều đã có những lúc chập chờn, mộng mị giữa
“tiếng lòng” xôn xao với con chữ như lửa với gió: cả hai đều không cầm nắm được.
Bài học “thôi”, “xao” của Giả Đảo ngày xưa. Nhà thơ phải làm mới ngôn từ để
không bị sáo, rỗng, mòn. Mỗi thời đại có những “hình thái tu từ” (figure de
rhétorique) của mình để mang đến một “thực tại” và hình thức mới cho thơ. Giờ
đây nhà thơ sẽ rất ít dùng “tình xuân”, “chiều mộng”, “cõi đời”, “xuân hồng”,
“giọt lệ”, “giọt châu”, “nét thu”, “mắt nhung”,… với những “chàng”, “nàng” nữa
nếu không để đùa vui hay giễu nhại. Trong cuộc sống hôm nay chắc không chị em
nào tiễn chồng hay người yêu sang Pháp, lại bịn rịn vẫy tay “chia li” ở sân bay
Nội Bài bằng câu: “Chàng đi chân cứng đá mềm nhé. Đến nơi nhớ nhắn tin nhạn về
cho thiếp và các con đỡ ngày ngóng đêm mong, giọt sầu vời vợi, dầu hao bấc gầy...”.
Tự thân những từ ngữ, hình ảnh trên không có “tội”, chỉ do thời
đại từ chối chúng. Vấn đề thời gian đã nằm ngay trong ngôn ngữ. Nhà thơ phải vượt
lên thời gian để lao động thơ.
2. Bi kịch thứ hai của nhà thơ: lao động ngôn từ
Nhà thơ phải tạo ra từ ngôn ngữ chung một thứ “phương ngữ”
mang dấu ấn, “thương hiệu” riêng. Giống như đứa trẻ bập bẹ hoặc con người trong
buổi bình minh của nhân loại, anh ta tìm cách gọi tên các sự vật, hiện tượng.
Thơ vốn được coi là “một ngôn ngữ bí mật”, nhà thơ lao động trên sự bí mật đó.
Cái “ngu dại” của nhà thơ chính là ở công việc lao động khổ sai này: anh ta đã
không chịu “ăn sẵn” tiếng nói đã tiếp thu từ các thế hệ trước, mà lại đi tìm
cách biểu đạt khác, võ đoán về cùng một vấn đề.
Ngôn ngữ được “nâng cấp” trở thành ngôn từ thơ.
Nhà thơ “nhặt” tiếng nói thông tục, hằng ngày đặt cạnh nhau:
nhìn nắng anh ta không sợ nhức đầu hay đen da mà lại thấy là “nắng thuỷ tinh”,
“vàng bay trong nắng”, “đất thêu nắng”, “nắng tưới”, tôi còn thấy ở Đà Lạt có
“nắng lạnh”…; nhìn buổi chiều nhà thơ thấy “chiều lỡ thì”, “chiều mồ côi”; nhìn
sương, lại thấy là “sương trinh”, “sương âu yếm”; nhìn mưa, nhà thơ thấy “mưa
ái phi”, “mưa sành sứ”, “mưa hoa nhài”…; rồi đến trăng thì nhiều vô kể… Khi lựa
chọn những nắng, chiều, sương, mưa để kết hợp với các từ khác thì bỗng nhiên
tính võ đoán - “con bài bắt buộc” của ngôn ngữ - bị phá vỡ, bị rơi vào thế tùy tiện, không còn nét nghĩa “nhất thành bất biến” nguyên trạng nữa. Một “thực tại”
mới đã hiện ra.
Nhà thơ là người viết đè một ngôn từ khác lên tiếng nói sẵn
có của cộng đồng: cái bóng mờ ở hậu cảnh là bản ngữ - ngôn ngữ giao tiếp hằng
ngày, nôm na. Anh ta phải lao động cật lực mới mong có được ngôn từ mới cho thơ
trong những kết hợp “siêu hình” giữa các từ ngữ. Nhưng khi đã thành tựu, thì hạnh
phúc là vô biên. Chỉ có người lao động khổ sai với nó mới hưởng thụ được hết vị
ngọt ngào và cay đắng mà nó đem lại. Và do đó, anh ta giàu có hơn, phong phú
hơn.
“Chơi với từ không phải là một lạc thú vớ vẩn, mà là cả một hội
hè của trí tuệ, bởi vì có ngôn ngữ mới, ta có những tri thức mới”(6).
3. Bài thơ
Khó gọi đích danh: Thơ là gì? Nhưng tham vọng của con người lại
là đi tìm cái không thể nắm bắt được đó. “Thơ là sự phân vân giữa âm và nghĩa”
(P.Valéry); “Văn xuôi thuộc phía Con người, Thơ ca thuộc phe Thượng đế”
(J-P.Sartre); “Thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó” (Jacobson); làm
thơ là “gán ý nghĩa và nhiệt tình cho những vật vô tri vô giác và là một đặc
tính của nhi đồng” (Vico); “Làm thơ là nói để được cái thú nghe lời mình nói.
Yêu thơ là yêu những lời nói đẹp”; “Thơ là ngôn ngữ tự lấy mình làm cứu cánh”…
Chính định nghĩa của Sartre đã tôn vinh nhà thơ - người sánh vai với Chúa sáng
tạo ra ngôn ngữ.
Nhưng, thơ lại được sáng tạo trên sự võ đoán của ngôn ngữ,
nên việc định nghĩa nó cũng không thể không rơi vào võ đoán. Mỗi bài thơ hay đều
đề nghị một định nghĩa. Vẻ đẹp của thơ là tự trị, không chia sẻ. Nếu coi mỗi
bài thơ là một từ vựng (vocabulaire) - cái biểu đạt để định danh cái được biểu
đạt thì tính cách võ đoán của mỗi “từ vựng-thơ” đó là tùy thuộc vào “tiếng
lòng” (chủ quan) của nhà thơ. Có bao nhiêu nhà thơ thì có bấy bài thơ về tình
yêu, chiến tranh, tổ quốc, mùa thu, lòng yêu nước,… bấy nhiêu sự võ đoán phong
phú, đa dạng như trên 2500 ngôn ngữ trên hành tinh này.
Mỗi bài thơ hay là một định nghĩa cho thơ.
Về cơ bản, ngữ pháp của thơ khác với ngữ pháp điển phạm của
văn xuôi. “Ngữ pháp-tiếng lòng” cùng với văn hoá của nhà thơ làm nên “giọng”
hay “phong cách” (style) riêng. Đến lượt mình, vốn văn hoá, sự trải nghiệm tác
động trở lại cấu trúc “tiếng lòng” của nhà thơ như con đường của “chữ” với người
“quân tử” bên trên. Các nhà thơ lớn trên thế giới đều là những con người của
“giọng” độc đáo trên cái nền văn hoá sâu sắc, đa diện.
Mỗi thời đại, thế hệ có thi pháp và thẩm mỹ thơ của mình. Nhà
thơ “nói chí” của mình bằng tuyệt tác thơ. Mỗi tuyệt tác thơ là một niềm trân
trọng tiếng nói dân tộc. Cùng một đề tài, chẳng hạn yêu nước, mỗi nhà thơ có
cách diễn đạt khác nhau. “Ôi những cánh đồng quê chảy máu/Dây thép gai đâm nát
trời chiều” thì cũng ngang như: “Ôi Tổ quốc giang sơn hùng vĩ!/Đất anh hùng của
thế kỉ hai mươi” hoặc bình dị, gần gũi hơn theo kiểu định nghĩa: “Đất là nơi
anh đến trường/Nước là nơi em tắm”… Xét về giá trị nội dung yêu nước, cả ba trường
hợp trên đều như nhau; nhưng giá trị thẩm mỹ lại tuỳ thuộc vào sự thẩm định ở mỗi
độc giả, thêm vào đó là thẩm mĩ thời đại. Cùng về người con gái Sông Hương: ở Lời
kỹ nữ nhà thơ nhập vào hồn cô gái để than thở: “Em sợ lắm…”; còn ở Tiếng hát
sông Hương nhà thơ đối thoại cùng nàng rồi hứa hẹn: “Ngày mai…”; dù quyến rũ
hay gương mẫu, vẫn đều xót xa, cảm động và cảm thông.
Những chiêm nghiệm, triết lí nhân sinh, bình dị mà sâu xa:
“Em bảo Bóng tối không đáng sợ/Vì mắt nó mù không thấy xa”; “Buổi sáng thức dậy/Bắt
gặp tình thương đi đưa đám hận thù”; “Cái ác đã ngủ yên trong nhụy đắng/Cho đất
lành thơm mát đến rưng rưng”; “Chúng ta là đồ chơi của trí nhớ/Hay là đùa dai của
những bậc thềm?”; “Và mùa thu thủa ấy bây giờ vẫn lấp lánh nước mắt”; “Mùa thu
như người nhập cư già mặc quần áo cũ/Lạc lõng và phiền trách các đổi thay”, “Nước
lùa bóng ao lên chót vót/ngập cuống nhau rã phận hoa bìm/lối về thấp thỏm” (7)… Những hình ảnh yêu và buồn.
Tôi nghĩ, thơ Việt Nam đã thành tựu nhiều bài “nói chí” thật
hay. Và thơ hay mỗi ngày, bất kể ở đâu, đều đang được các nhà thơ nỗ lực đổi
thay qua lao động sáng tạo. Từ đó, mà ngôn ngữ và hồn dân tộc hiện ra.
III. Kết luận
“Khởi đầu là Lời” (Cựu ước).
Bài thơ được làm bằng lời. Qua “tiếng lòng” của nhà thơ ngôn
ngữ được cấu trúc lại để tạo thành ngôn từ mới, đẹp, sâu xa và triết lý.
Thời gian thấm vào mỗi dòng thơ; cũng bởi sau thời gian chúng
ta mới bắt đầu chiêm nghiệm và ký ức. Thời gian không ngừng trôi qua mỗi dòng
thơ như nước chảy qua kẽ tay.
Ngoài cửa sổ bắt đầu mưa thu. Một mùa thu Hà Nội.
(1) "Từ điển biểu tượng văn
hóa thế giới", Nxb. Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du, 1997. Mục từ Ngôn
ngữ.
(3) Ferdinand de Saussure,
"Giáo trình ngôn ngữ học đại cương", Nxb. KHXH, 2005, Cao Xuân Hạo dịch,
tr.158.
(4) Lưu Thuận Thanh, "Các trường
phái ngôn ngữ học phương Tây", Nxb. Lao động - Trường Đại học ngoại ngữ Hà
Nội, 2004, Đào Hà Ninh dịch, tr.7.
(7) Các nhà thơ sẽ bỏ qua cho người
viết vì đã không ghi tên tác giả sau các trích dẫn thơ trong bài viết này; cũng
bởi, chúng đã trở thành “Những câu thơ trong trí nhớ” - được trích theo ý tôn
vinh, trân trọng.
Đào Duy Hiệp
Nguồn: Văn nghệ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét