Người xưa nhìn nhận trong bao la có một khối sinh lực nào đó ở
tầng trên. Dòng sinh lực vũ trụ này dần được đồng nhất với mọi nguồn hạnh phúc,
chảy xuống mặt đất, làm nảy nở thành sự sống. Nhưng dòng chảy thiêng liêng ấy
chỉ xảy ra ở những mảnh đất hội được các điều kiện nhất định nào đó, mà bằng
kinh nghiệm con người đã nhận thấy được. Nơi đó, họ thường dựng các kiến trúc
tín ngưỡng, tôn giáo. Quy Nhơn là một miền đất như vậy.
Tháp Đôi
Các công trình tôn giáo, tín ngưỡng xưa nhất hiện còn trên
vùng đất Bình Định ngày nay đó là các đền tháp Champa. Đối với đền tháp phục vụ
cho mục đích tôn giáo, việc lựa chọn địa điểm, cảnh quan đảm bảo các yếu tố tâm
linh, vị trí xây dựng các đền tháp đều có nghiên cứu kỹ, phù hợp với ý nghĩa
văn hóa mà các đền tháp muốn truyền đạt. Theo quan niệm của người Champa, những
công trình xây dựng liên quan đến các loại hình kiến trúc đền tháp là thuộc về
nhà vua. Do đó, việc lựa chọn vị trí xây dựng càng nghiêm ngặt hơn và do nhà
vua quyết định.
Địa điểm người Champa chọn xây dựng tháp thường là các gò đất
cao, đồi núi, vị trí như vậy trước hết thỏa mãn là biểu tượng núi Mêru – nơi cư
ngụ các thần linh Ấn Độ giáo. Gò, núi cao còn được coi là biểu tượng hóa thân của
thần Visnu thành rùa đội núi Mêru nổi lên theo huyền thoại khuấy sữa biển trong
sử thi Ấn Độ. Vị trí này có thể còn được trông thấy tháp từ xa, án ngữ cả một
vùng rộng lớn, tạo nên vẻ uy nghi, tôn nghiêm cho công trình kiến trúc như chức
năng nó đảm nhận.
Trong 14 tháp cổ Champa hiện còn được phân bố trên 5 huyện,
thị, thành phố như sau: huyện Phù Cát 1 tháp, huyện Tây Sơn 4 tháp, huyện Tuy
Phước 5 tháp, thị xã An Nhơn 2 tháp và thành phố Quy Nhơn 2 tháp.
Ở Quy Nhơn, ngoài Tháp Đôi hiện còn, có một phế tích Champa
được phát hiện ở Đồi Điệp thuộc xã Nhơn Hội và dấu vết gạch Chăm cũng được tìm
thấy ở Hải Giang (xã Nhơn Hải) và xã Nhơn Châu. Về tượng Champa có tượng thần
Siva ở chùa “Phật Lồi” (Linh Sơn tự), thôn Hải Giang, xã Nhơn Lý; tượng
Avalokitesvara (một dạng Bồ Tát) ở chùa Phước Sa xã Nhơn Lý; phù điêu vũ nữ ở
lăng Ông, thôn Hải Minh, phường Hải Cảng.
Thành phố Quy Nhơn nhìn từ núi Vũng Chua
Nếu các đền tháp người Champa hầu hết xây dựng trên gò đồi
cao hoặc núi cao (tháp Hòn Chuông, Phù Cát) cửa quay hướng Đông, nhìn ra biển,
đón dương khí…thì các công trình tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt: miếu,
đình, đền, chùa cũng thường xây trên gò đồi và sườn núi, hướng Nam hoặc Đông
Nam, nhìn về cõi ly minh, đón dương khí.
Có lẽ quan niệm về địa cuộc, về đất thiêng của người Champa
và người Việt có sự tương đồng. Thực tế chứng minh như: tại phế tháp Tân Kiều
(Nhơn Mỹ, An Nhơn) có chùa Bửu Sơn, tại phế tích Thập Tháp (Nhơn Thành, An
Nhơn) có chùa Thập Tháp, tại phế tích Khánh Vân (Phước Quang, Tuy Phước) có miếu
làng; dưới chân tháp Dương Long (Tây Bình, Tây Sơn) có ngôi miếu Thanh Minh,
chân tháp Bánh Ít (Phước Hiệp, Tuy Phước) có chùa Nguyên Thiều; ngay cạnh tháp
Bình Lâm (Phước Hòa, Tuy Phước) có chùa Thiên Trúc và đình Bình Lâm
(bị sập trong chiến tranh). Và chân Tháp Đôi Quy Nhơn vừa có chùa Tháp Đôi vừa
có miếu Thanh minh.
Sự hình thành làng xóm của người Việt có vai trò to lớn của
các yếu tố tinh thần là tình họ hàng, nghĩa xóm giềng và nhiều phong tục tập
quán khác mang màu sắc truyền thống huyền nhiệm. Có những tập tục muốn tạo sức
mạnh buộc mọi người tin theo đã thần bí hóa thành thuyết phong thủy.
Gạt đi cái vỏ mê tín, thì phong thủy là nước và gió, tức biểu
hiện của địa hình có cao thấp để hướng dẫn dòng chảy của nước và sự chuyển động
của gió, mà làng xóm và nhà cửa phải biết lợi dụng để tạo sự hài hòa với thiên
nhiên. Thế đất đẹp phải có núi đồi, gò bãi hay đường bờ từ phía sau tỏa ra vây
bọc hai bên rồi cùng chầu vào, hoặc những điểm cao đột khởi làm án che phía trước
hay làm chuẩn để tựa phía sau, và đối lại là những vùng thấp tụ thủy làm minh
đường ở mặt trước hay làm não đường ở đằng sau, có đứt đoạn đột khởi, lại có liền
dải hai bên phải và trái tạo nên sự đăng đối nhịp nhàng.
Vị trí lập làng không chỉ có địa thế đẹp, mà còn phải thuận
tiện cho việc làm ăn để có đời sống kinh tế và văn hóa phong phú. Người xưa đã
đúc kết “Nhất cận thị, nhị cận tân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền” (một
gần chợ, hai gần bến đò, ba gần sông, bốn gần đường, năm gần ruộng). Khái quát
là miền đất bồi có các đầu mối giao thông và thuận tiện việc làm ăn, tức là thế
đất ăn lan ra mặt nước theo hình tượng quen thuộc và rất dân dã: “Thè lè lưỡi
trai: không ai, chính nó/ Khum khum gọng vó: chẳng nó thì ai!”
Vị thế làng xóm thường quy tụ nếu không dọc bờ sông nước, thì
cũng ở vùng đầm phá, gần cửa biển.
Đô thị Việt Nam nói chung và đô thị Bình Định nói riêng được
hình thành trên cái nền làng xã. Đô thị ở Bình Định đầu tiên xuất hiện ở Nước Mặn
(Phước Quang, Tuy Phước) rồi chuyển đến Gò Bồi (Phước Hòa, Tuy Phước) và cuối
cùng chuyển về Quy Nhơn. Sự hình thành, suy tàn, dịch chuyển và tồn tại đô thị ở
đây cũng dựa trên cơ sở kinh nghiệm được đúc kết từ người xưa “Nhất cận thị, nhị
cận tân, tam cận giang, tứ cận lộ,…”.
Đến hôm nay, đô thị Quy Nhơn đã gần 200 năm hình thành và
phát triển (căn cứ bia ghi công đức chùa Ông Nhiêu năm 1837, có chức danh phố
trưởng Trần Đức Hiệp), chúng ta có thể khẳng định Quy Nhơn “đất lành chim đậu”.
Quy Nhơn - một miền đất tụ linh, tụ phúc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét