Tiếng nói, giọng nói là phản ánh bản sắc của mỗi vùng miền
trong cùng một đất nước. Thông qua giọng nói người ta có thể phân biệt được người
nói ở vùng quê nào và là tín hiệu đầu tiên để những người đồng hương nhận ra
nhau. Có thể không được trau chuốt, mượt mà, nhưng với tiếng nói, giọng nói
chân quê của những người cùng một vùng miền lại cảm thấy gần gũi và gắn
bó với nhau hơn. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu được điều đó.
Giọng Miền Bắc:
Nếu lấy Huế làm trung điểm của cán
cân, ta thấy có một sự thay đổi trong giọng nói của tiếng Việt chúng ta từ Bắc
vô Nam. Sự biến chuyển này ở các vùng liền nhau là tiệm tiến một cách có thể
khó nhận ra. Tuy vậy, giọng nói của chúng ta có thể được phân chia thành ba miền
rõ rệt: giọng Miền Bắc, Miền Trung và Miền Nam mà chúng ta thường gọi là giọng
bắc, giọng trung, và giọng nam. Miền Bắc nói chung từ cực bắc đến tiếp giáp Miền
Trung có một giọng nói thanh tao. Một tài liệu cổ của một quan lại Trung quốc
báo cáo về cho triều đình Trung quốc đã mô tả rằng tiếng Việt nghe ríu rít như
chim. Ông quan này đã ký âm một số từ Việt bằng chữ Trung hoa mà khi ta đọc lại
theo âm Hán Việt thì không còn biết được âm thật của tiếng ta vào thời đó như
thế nào nữa. Ví dụ, trong văn kiện này có từ Hán Việt đọc là đà bị để chỉ người
vợ. Giọng nói nghe ríu rít như chim này nhất định là giọng Miền Bắc nước ta vì
vào thời đó, Miền Trung và Miền Nam chưa thuộc về nước Việt.
Thế nhưng, ngay trong phạm vi
Miền Bắc, giọng nói cũng thay đổi từ vùng này sang vùng khác. Khởi đầu từ cực bắc
với Sơn tây, Lạng sơn, Cao bằng vv..., giọng miền bắc có một chút “ngọng nghịu” và
phát âm [L] và [N] đều thành [N], vì dụ lẫn lộn thành nẫn nộn. Giọng Hải Phòng
và Hà Nội vẫn có một chút khác biệt, vì nghe như giọng Hải Phòng nặng hơn, tuy
có người cho rằng giọng Hà Nội nghe có phần điệu hơn. Vòng qua Bùi Chu, Phát Diệm,
Nam Định, giọng Bắc đã nghe có âm hưởng nặng thêm chút nữa.
Ưu điểm của giọng bắc là phân
biệt rõ ràng các phụ âm cuối [C] và [T], [N] và [NG] và đầu [D] và [GI]. Người
Việt chúng ta phải biết ơn những người đã chế ra chữ quốc ngữ. Thật khó mà diễn
tả điều chúng ta muốn nói nếu tiếng ta được ký âm bằng chữ Nôm hay lối chữ tượng
hình nào khác. Người Bắc không bao giờ lẫn lộn giữa cắc (bạc cắc) và cắt (cắt
thịt), khăn (cái khăn) và khăng (khăng khăng), giây (giây phút) và dây (dây
dưa). Có ý kiến cho rằng “thời chưa có quốc ngữ, phân biệt âm cuối [T] và [C]
không được nhấn mạnh, tại phần lớn nước Việt.” Phân biệt hay không phân biệt
theo tôi là tại tiếng chứ không tại chữ, như Trần Văn Mầu viết “học tiếng, chứ
không học chữ.” Tôi nghĩ là giọng Miền Bắc đã từ lâu phân biệt rõ rệt các âm
như vừa trình bày, còn các miền khác cho đến nay đã có chữ quốc ngữ vẫn không
được “nhấn mạnh.” Do đó, nếu nói các miền còn lại giọng nói không phân biệt các
âm cuối [C] và [T] theo ký âm chữ quốc ngữ hiện thời thì phát biểu này không
sai. Có hay không có cách ký âm gọi là Quốc ngữ thì giọng nói của ba miền đất
nước chúng ta vẫn như vậy. Một điều chắc chắn nữa, các từ với phụ âm cuối là
[C] hay [T] theo quốc ngữ hiện thời, dù cách đọc khác biệt của các miền đất nước
vẫn được ký âm chỉ bằng một cách viết chữ Nôm mà thôi, không phải một cho giọng
bắc và một cho giọng nam. Nghĩa là, một âm được ký bằng chữ Nôm vẫn được đọc
các cách khác nhau nếu có giữa các miền khác nhau. Nguyễn Du chỉ ký âm một cách
duy nhất câu thơ được ký âm lại bằng chữ quốc ngữ là Trời xanh quen thói má hồng
đánh ghen đề được giọng bắc đọc là Chời (Giời) xanh quen thói mà hồng đánh
ghen trong khi giọng Huế đọc là Trời xanh queng thoái má hồng đánh gheng.
Về âm sắc, giọng Bắc phân biệt
các dấu hỏi, ngã. Điều lạ là, Alexandre de Rhodes và các giáo sĩ thừa sai hồi
đó đến trước hết ở Đàng Trong tại sao lại biết được sự phân biệt hỏi, ngã của
giọng Miền Bắc. Cũng nên ghi nhận là biểu tượng dấu ngã bây giờ lúc ban đầu
không phải chỉ để biểu hiện cách phát âm từ thấp vút lên cao của dấu ngã mà còn
để thay thế âm cuối [NG]. Trong cuốn Phép giảng tám ngày tôi còn nhớ đã viết,
“Tôi càu cũ Đức Chúa Blời….” (Tôi cầu cùng Đức Chúa Trời). Phải chăng điều này
cho thấy đã có sự cộng tác của những người nói giọng bắc trong việc hình thành
chữ quốc ngữ bây giờ.
Nhược điểm của giọng bắc là
không phân biệt [CH] và [TR] nói thành [CH], [S] và [X] nói thành [X], ví dụ
Châu (châu phê) và trâu (con trâu) nói giống nhau thành châu; sanh (sanh sản)
và xanh (màu xanh) đều nói thành xanh.
Bước vào Thanh Nghệ Tĩnh, giọng
bắc gần như đột nhiên chỉ còn âm hưởng. Người vùng này nói nghe mai mái vẫn còn
âm điệu của giọng bắc, nhưng giọng nói nặng hơn nhiều và đã xuất hiện một âm điệu
khắc hẳn âm điệu Miền Bắc, và nhiều từ Miền Bắc không có. Cách riêng hai tỉnh
Nghệ an và Hà Tĩnh, giọng nặng cho đến nổi nhiều người không quen nghe, không
thể hiểu được, kể cả người thuộc vùng Bình Trị Thiên với giọng mà người khác
cho là nặng. Đến Quảng Bình, âm hưởng giọng bắc hoàn toàn biến mất. Giọng nói
nhẹ lên nhiều so với giọng Nghệ Tĩnh, nhưng vẫn còn nặng nếu chỉ so sánh giữa
ba tỉnh Bình Trị Thiên. Giọng Bình Trị Thiên nhẹ hẵn đi khi đến Thừa Thiên, cao
bỗng và dịu dàng theo một cách riêng.
Đặc điểm của giọng Thanh Nghệ Tĩnh Bình Trị là vẫn còn
phân biệt phụ âm cuối [C] và [T], [N] và [NG], nhưng thêm vào đó còn phân biệt
được [CH] và [TR], [S] và [X] mà giọng bắc lẫn lộn. Ngược lại, người vùng này
hoàn toàn không phân biệt phụ âm đầu [D], [GI] và [NH]; họ chỉ nói toàn phụ âm
[GI] mà thôi. Họ nói dà, già, và nhà đều thành một âm già. Vùng Thừa Thiên phân
biệt được [CH] và [TR], [S] và [X], nhưng phụ âm cuối [C] và [T] đều nói thành
[C], [N] và [NG] đều thành [NG], ví dụ cắc và cắt đều nói cắc, man (di) và mang
(vác) đều thành mang. Phụ âm đầu [D], [GI] và [NH] đều nói là [GI]. Người Thừa
Thiên còn phát âm [OI] thành [OAI], ví dụ nói (năng) thành noái (năng).
Bước qua Đèo Hải Vân, giọng tiếng
Việt chúng ta đột nhiên khác hẳn bắt đầu từ Quảng Nam. Nếu giọng từ Thanh Hóa đến
Thừa Thiên có vẻ bình bình thì giọng từ Quảng Nam trở vào cho đến Miền Nam lại
bắt đầu lên xuống như giọng bắc. Bắt đầu từ Quảng Nam, giọng nói giữ lại việc
phân biệt và không phân biệt các phụ âm như giọng Thừa Thiên, ngoại trừ [OI]
thành [OAI]. [D] và [GI] đều như là [GI], ví như dây và giây đều phát âm là
giây, nhưng vùng này đã phân biệt phụ âm đầu [GI] và [NH] như già và nhà.
Vùng Nam Ngãi Bình Phú lại có
các cách phát âm khác nhau. Nam Ngãi không nói là kéo (dây) mà nói rị, không
nói hộc (bàn, tủ) mà nói thọa, không nói (ghế) đẩu mà nói là (ghế) giuông. Nam
Ngãi phát âm [AM] nghe như [OAM], ví dụ, làm nghe như loàm; [Ă] nghe như [E],
ví dụ năng nghe như neng, cắc hay cắt đều nghe như kéc; [AO] nghe như [ÔU], ví
dụ gạo nghe như gộu v.v...
Bình Phú không nói người ta
(nói rằng) mà nói nẩu (nói rềng). Âm [ĂN] hay [EN] nghe như [ÊNG] với một chút
giọng mũi, ví dụ ăn nghe như êng; đèn hay đằng đều nghe như đềng với chút âm giọng
mũi.
Một đặc điểm chung của khu vực
Nam Ngãi Bình Phú này là sự xuất hiện của việc ghép một đại từ + ấy thành chính
đại từ đó với dấu hỏi bất luận nguyên thủy với dấu gì, ví dụ anh ấy thành ảnh,
cậu ấy thành cẩu, mợ ấy thành mở v.v..., ngoại trừ hai từ bác ấy, chú ấy có lẽ vì
không thuận miệng. Đặc điểm khác là cách phát âm phụ âm đầu [V] thành [GI], ví
dụ vuông thành giuông, đi vô thành đi giô, mà từ Miền Bắc vào đến Thừa thiên
không có.
Giọng Miền Trung không còn
phân biệt dấu hỏi dấu ngã nữa. Cả hai dấu này đều được phát âm nửa vời, không hỏi
không ngã, có lúc trầm xuống gần với dấu nặng.
Giọng Miền Nam:
Miền Nam kéo dài chất giọng của
giọng từ Quảng Nam đổ vào nhưng không giữ lại cách cách phát âm địa phương. Giọng
nam mềm mại hơn giọng của phần đất phía nam Miền Trung này. Người Miền Nam
không phân biệt phụ âm cuối [C] và [T] nói thành [C], [N] và [NG] nói thành
[NG]. Phụ âm đầu [V] đều nói là [D], ví dụ như vui vẻ sẽ nói thành dui dẻ. Đặc
điểm là miền này nói các phụ âm cuối dài như [ICH], [INH] thay cho phụ âm ngằn
[IT] và [IN], ví dụ, con vịch thay vì con vịt, dây nịch thay vì dây nịt, niềm
tinh thay vì niềm tin. Âm đầu [R] thường phát âm là [G] ví dụ cá rô thành cá
gô. Nhiều vùng không nói được âm đầu [H] mà biến thành gần như [GU], ví dụ Huế
thành Guế.
Có một số từ Miền Nam dùng với
nghĩa khác của hai miền kia. Ví dụ, mần ở Miền Trung có nghĩa là làm, nhưng chỉ
có nghĩa là làm việc ở Miền Nam. Ví dụ, khi chúng ta nghe nói, “Sao còn chưa đi
mần?” thì có nghĩa là “Sao vẫn còn chưa đi làm công việc của mình. “Ổng mần ăn
lớn lắm” có nghĩa là “Ông ấy làm ăn lớn lắm.” Giọng nam cũng kết hợp đại từ + ấy
thành chính đại từ ấy với dấu hỏi cùng một qui luật như vùng Nam Ngãi Bình Phú.
Giọng Miền Nam không phân biệt hỏi ngã cũng như giọng Miền Trung.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét