Sông Đồng Nai vừa trong lại mát
Đường Hiệp Hòa lắm cát dễ đi
Gái Hiệp Hòa xinh như hoa thiên lý
Trai Hiệp Hòa chí khí hiên ngang.
Một chiều ngồi đò ngang để sang Cù Lao Phố, nghe tiếng cô lái đò dọc cất tiếng hát ngọt mát như đường cát Biên Hòa, lòng người đi đò dường như cũng chùng lại, man mác cùng câu hát phía xa. Sợi tóc mây của cô gái đội nón lá nghiêng vành bên cạnh bay phất phơ ngang mũi, thấy vui vui vì mình đang được đi trên một chuyến đò thú vị quá. Tôi nghe đằng kia tiếng một thím miền Trung trọ trẹ đậm mầu nắng trắng xóa trên đồi cát Nam Cương. Đằng này mũi thuyền, một ông lão da mồi nhưng sắc diện tinh anh quắc thước, xem chừng dẻo dai lắm, trông ông thả sợi cước giựt lia lịa từng con cá lòng tong trắng nõn lên, dùng dao cau xẻ bụng, mọi ruột, bỏ gọn lỏn vào miệng nhai nhồm nhoàm, đoạn lại dốc cái chai rượu gạo đục lên chúm môi đánh ực, rồi khà một tiếng ngon lành dài thượt... Ông cất tiếng hò:
“Trời ơi! Hai thúng trầu xanh còn nặng oằn đôi vai bé nhỏ, nhưng gánh tình chung đã gãy đổ tự lâu rồi. Tiếng pháo rền vang pha lẫn tiếng vui cười. Anh sắp sửa vui vầy duyên mới, em cũng bắt đầu làm một kẻ đơn côi...”.
Chú lái đò lim dim mắt nghe, rồi phát vào đùi cái “đét”: “ Trời, ông lão già rồi mà hò còn mùi dữ heng. Kiểu này sao ở nhà bả hổng mê!”
Cả đò rền vang tiếng cười, giọng nói, làn nước lay lay soi bóng cô gái “đằng ngoài” ngồi ở mạn thuyền, cái cười rất “cô em Bắc kỳ nho nhỏ” không lẫn vào đâu được. Ôi! Nếu bạn có ghé đất Đồng Nai, vô tình hay hữu ý lên chuyến đò ngang sang cù lao như tôi hôm ấy, chắc sẽ không khỏi rưng rưng trong mình cảm xúc như vào “hội trùng dương” Huế - Sài Gòn - Hà Nội…
Tôi huyên thuyên với anh bạn đồng
hành của mình như vậy, thì ngay lập tức anh bảo luôn rằng: cớ gì phải vô tình
hay hữu ý, chuyến đò này đâu phải độc nhất vô nhị, anh đi qua đi lại đây không
biết bao lần, dần thành quen, quen luôn với người “tứ chiếng”, quen cả có lần
người ngồi bên phải nói giọng Huế, người bên trái lại ra tận… Thanh Oai, Hà
Tây (!)
Tôi mới vỡ lẽ nhớ ra rằng, đất Đồng Nai “long, lân, quy, phụng” là đất lành, không biết tự thuở hơn 300 năm trước, Thượng đẳng thần Nguyễn Hữu Cảnh khai phá mở cõi Đông Nam Bộ, theo dòng lịch sử ấy du nhập không biết bao người dân tứ xứ. Thành ra một ngày nọ, ta cảm thấy trên đất này, không có người Hưng Yên, người Thiệu Hóa, người Tiền Giang, Kiên Giang, người bên này sông Gianh hay bên kia phòng tuyến... mà chỉ toàn là người Đồng Nai cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở đây, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đất Đồng Nai và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Con sông Đồng Nai trải dài trăm ngả, rẽ sóng nước mở rộng đón nhiều người vạn nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Đường Hiệp Hòa lắm cát dễ đi
Gái Hiệp Hòa xinh như hoa thiên lý
Trai Hiệp Hòa chí khí hiên ngang.
Một chiều ngồi đò ngang để sang Cù Lao Phố, nghe tiếng cô lái đò dọc cất tiếng hát ngọt mát như đường cát Biên Hòa, lòng người đi đò dường như cũng chùng lại, man mác cùng câu hát phía xa. Sợi tóc mây của cô gái đội nón lá nghiêng vành bên cạnh bay phất phơ ngang mũi, thấy vui vui vì mình đang được đi trên một chuyến đò thú vị quá. Tôi nghe đằng kia tiếng một thím miền Trung trọ trẹ đậm mầu nắng trắng xóa trên đồi cát Nam Cương. Đằng này mũi thuyền, một ông lão da mồi nhưng sắc diện tinh anh quắc thước, xem chừng dẻo dai lắm, trông ông thả sợi cước giựt lia lịa từng con cá lòng tong trắng nõn lên, dùng dao cau xẻ bụng, mọi ruột, bỏ gọn lỏn vào miệng nhai nhồm nhoàm, đoạn lại dốc cái chai rượu gạo đục lên chúm môi đánh ực, rồi khà một tiếng ngon lành dài thượt... Ông cất tiếng hò:
“Trời ơi! Hai thúng trầu xanh còn nặng oằn đôi vai bé nhỏ, nhưng gánh tình chung đã gãy đổ tự lâu rồi. Tiếng pháo rền vang pha lẫn tiếng vui cười. Anh sắp sửa vui vầy duyên mới, em cũng bắt đầu làm một kẻ đơn côi...”.
Chú lái đò lim dim mắt nghe, rồi phát vào đùi cái “đét”: “ Trời, ông lão già rồi mà hò còn mùi dữ heng. Kiểu này sao ở nhà bả hổng mê!”
Cả đò rền vang tiếng cười, giọng nói, làn nước lay lay soi bóng cô gái “đằng ngoài” ngồi ở mạn thuyền, cái cười rất “cô em Bắc kỳ nho nhỏ” không lẫn vào đâu được. Ôi! Nếu bạn có ghé đất Đồng Nai, vô tình hay hữu ý lên chuyến đò ngang sang cù lao như tôi hôm ấy, chắc sẽ không khỏi rưng rưng trong mình cảm xúc như vào “hội trùng dương” Huế - Sài Gòn - Hà Nội…
Huế Sài Gòn Hà Nội - Hồng Nhung - YouTube

Tôi mới vỡ lẽ nhớ ra rằng, đất Đồng Nai “long, lân, quy, phụng” là đất lành, không biết tự thuở hơn 300 năm trước, Thượng đẳng thần Nguyễn Hữu Cảnh khai phá mở cõi Đông Nam Bộ, theo dòng lịch sử ấy du nhập không biết bao người dân tứ xứ. Thành ra một ngày nọ, ta cảm thấy trên đất này, không có người Hưng Yên, người Thiệu Hóa, người Tiền Giang, Kiên Giang, người bên này sông Gianh hay bên kia phòng tuyến... mà chỉ toàn là người Đồng Nai cả. Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở đây, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đất Đồng Nai và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Con sông Đồng Nai trải dài trăm ngả, rẽ sóng nước mở rộng đón nhiều người vạn nẻo đất nước kéo đến. Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác.
Cũng từ dòng người triệu nẻo đường đất nước về đây, là những người lao động thuần
túy, hay công nhân viên chức, đều mang đến góp vào cho Đồng Nai những thức mới
lạ, độc đáo. Người thì đem lòng nhiệt thành, cần cù, chăm chỉ; kẻ thì đem sự bộc
trực, hồ hởi, chân tình… Trong số ấy, ai cũng đem theo trong hành lý cỏn con của
mình nằng nặng tình quê hương, gieo vào lòng những con phố đất Biên Hòa, từ đường
lớn, đến ngõ bé. Tiện thể, gieo cả vào lòng người dân nơi đây cái mến thương
quê cũ ấy. Đó là những con đường mang hương vị miến ngan Hà Nội, thịt chó Nhật
Tân, bánh đa cua Hải Phòng, vịt cỏ miền Tây… mà nay - không dám nói “thuộc về Đồng
Nai” - nhưng thật sự đã trở thành một phần không thể thiếu để nhận diện gương mặt
mảnh đất này.
Nếu bạn là người Biên Hòa, hay là khách ghé chân, hẳn cũng sẽ biết đến hai con đường được người dân nơi đây quen gọi bằng cái tên rất… “số má”: đường 4 và đường 5. Cái tên không đẹp như “con đường tơ lụa” nhưng thuộc hàng khá nổi tiếng mà người dân 11 huyện nội tỉnh không mấy ai không biết đến. Nói không ngoa, từ người sành ăn kỹ tính, đến người ăn uống xuề xòa qua bữa, trong lòng đều đã có ít nhiều “trắc ẩn” khi nghe nhắc đến tên đường. Không động lòng sao được, khi đồng nghiệp giải lao rủ nhau đi ăn tô phở Bắc Hà để nhớ ngày còn đi học trường Tổng hợp Văn Hà Nội; chị em quyết một ngày đẹp trời “nhường” anh xã đi chợ, dung dăng dung dẻ cùng nhau “đánh chén” một bữa miến ngan ra trò cho bõ công con gái miền Bắc lặn lội làm dâu Nam; gia đình tứ đại đồng đường quây quần bên bữa ăn ngũ vị của người bạn cùng quê đang nấu bánh đa cua như một họa sĩ say sưa phác nên tuyệt tác, nhanh nhẹn, hoạt bát… Nước dùng nóng giẫy, nức mùi gà thơm, rau răm xanh mướt, sợi mì chín tới, vừa dai vừa mịn, chu miệng hút một hơi là vào… tận đáy lòng! Ngày giỗ tháng lễ, bà cụ lật đật sang nhà “phở Hà Nội” hàng xóm đặt con gà về cúng, nom tất bật mà thấm đượm nghĩa tình, thiêng liêng cao quý. Nhân dịp tân xuân, anh em họp mặt xum vầy, rủ nhau “thịt chó Hồ Tây”, làm vài cút riệu, mặt đỏ au au, ân cần nồng nhiệt. Tất thảy đều tề tựu giao thoa vào nhau, chạy dài đến hết tim đường, hai bên hàng cây tăm tắp hiền hòa.Người đi qua, ít ai không dừng lại, nấn ná, rồi quay đầu xe, đi lần lượt từng căn nhà, từng góc quán xá. Mỗi ngôi nhà tỏa ra một dư hương, với người này là lạ, với người kia là quen lắm, cầm lòng không được, bước vào và bắt gặp “Một đường cong cong, nối bao đường vòng /Họa người dưng nhớ khuôn mặt bắt hình dong…”
Họ ngồi xuống ghế, dùng khăn xô trắng, lau đôi đũa, để ngay ngắn trên miệng chén trắng men, họ được mời một bát bún chả, khói tỏa nghi ngút, thịt chín thơm và ngậy mùi, cho vào bát nước mắm pha loãng có đầy đủ gia vị ngọt, chua, cay, cùng với su hào (hay đu đủ xanh), cà rốt trộn dấm; rau sống xanh om với những xà lách, rau thơm, húng Láng, kinh giới, tía tô, rau giá…; dưa món trắng đỏ, thịt chả băm viên, nước chấm vừa vị… Bao nhiêu thú vui lâm li trong lòng của đất Kinh kì ùa vào người, thấy khoan thai giữa đất trời Hà Nội, chỉ vừa nếm miếng chả đầu tiên đã nghe thấy độ giòn tan của mỡ cùng vị ngọt của thịt nạc từ chả viên đầy mê hoặc.
Nếu bạn là người Biên Hòa, hay là khách ghé chân, hẳn cũng sẽ biết đến hai con đường được người dân nơi đây quen gọi bằng cái tên rất… “số má”: đường 4 và đường 5. Cái tên không đẹp như “con đường tơ lụa” nhưng thuộc hàng khá nổi tiếng mà người dân 11 huyện nội tỉnh không mấy ai không biết đến. Nói không ngoa, từ người sành ăn kỹ tính, đến người ăn uống xuề xòa qua bữa, trong lòng đều đã có ít nhiều “trắc ẩn” khi nghe nhắc đến tên đường. Không động lòng sao được, khi đồng nghiệp giải lao rủ nhau đi ăn tô phở Bắc Hà để nhớ ngày còn đi học trường Tổng hợp Văn Hà Nội; chị em quyết một ngày đẹp trời “nhường” anh xã đi chợ, dung dăng dung dẻ cùng nhau “đánh chén” một bữa miến ngan ra trò cho bõ công con gái miền Bắc lặn lội làm dâu Nam; gia đình tứ đại đồng đường quây quần bên bữa ăn ngũ vị của người bạn cùng quê đang nấu bánh đa cua như một họa sĩ say sưa phác nên tuyệt tác, nhanh nhẹn, hoạt bát… Nước dùng nóng giẫy, nức mùi gà thơm, rau răm xanh mướt, sợi mì chín tới, vừa dai vừa mịn, chu miệng hút một hơi là vào… tận đáy lòng! Ngày giỗ tháng lễ, bà cụ lật đật sang nhà “phở Hà Nội” hàng xóm đặt con gà về cúng, nom tất bật mà thấm đượm nghĩa tình, thiêng liêng cao quý. Nhân dịp tân xuân, anh em họp mặt xum vầy, rủ nhau “thịt chó Hồ Tây”, làm vài cút riệu, mặt đỏ au au, ân cần nồng nhiệt. Tất thảy đều tề tựu giao thoa vào nhau, chạy dài đến hết tim đường, hai bên hàng cây tăm tắp hiền hòa.Người đi qua, ít ai không dừng lại, nấn ná, rồi quay đầu xe, đi lần lượt từng căn nhà, từng góc quán xá. Mỗi ngôi nhà tỏa ra một dư hương, với người này là lạ, với người kia là quen lắm, cầm lòng không được, bước vào và bắt gặp “Một đường cong cong, nối bao đường vòng /Họa người dưng nhớ khuôn mặt bắt hình dong…”
Họ ngồi xuống ghế, dùng khăn xô trắng, lau đôi đũa, để ngay ngắn trên miệng chén trắng men, họ được mời một bát bún chả, khói tỏa nghi ngút, thịt chín thơm và ngậy mùi, cho vào bát nước mắm pha loãng có đầy đủ gia vị ngọt, chua, cay, cùng với su hào (hay đu đủ xanh), cà rốt trộn dấm; rau sống xanh om với những xà lách, rau thơm, húng Láng, kinh giới, tía tô, rau giá…; dưa món trắng đỏ, thịt chả băm viên, nước chấm vừa vị… Bao nhiêu thú vui lâm li trong lòng của đất Kinh kì ùa vào người, thấy khoan thai giữa đất trời Hà Nội, chỉ vừa nếm miếng chả đầu tiên đã nghe thấy độ giòn tan của mỡ cùng vị ngọt của thịt nạc từ chả viên đầy mê hoặc.
Chiều nay, nhân rỗi rãi, lại gặp tiết trời gió máy lành lạnh, đụng lúc cái bụng
cũng hơi đói, nhỡ chân đi qua hai con đường “dậy mùi” hành hoa này, tôi bèn
theo hương đi tìm bằng được quán bún chả mà mấy anh em trong đài rỉ tai mình từ
lâu. Kể cũng khá dễ tìm, vì các anh không cho địa chỉ cụ thể, mà dùng cột mốc
là… đối diện công an Biên Hòa, lập tức tôi xác định được tọa độ ngay (!).


Để được như thế, “cũng phải nghĩ ra món ăn nào miền ngoài, nhưng là lạ một chút, độc đáo một chút. Vì miến ngan hay phở Hà Nội thì nhiều quá rồi. Chỉ có bún chả, tuy hơi cầu kỳ, và nói đúng ra ngày xưa đây là món ăn của người thành thị ấy nhé, chứ người dân quê mấy khi ăn, nên chị chọn làm món này..” - chị tâm sự, nụ cười “thiệt tình”.
Không biết có phải vì đói, hay do bị món ăn cuốn
hút, hoặc vì quán chiều đã vãn, không bị ai nhòm ngó, tôi không thèm ngại ngùng
gì nữa, ăn một mạch hết cả bát chả, cả đĩa bún rối, hết rau, hết nước dùng, khề
khà lại nói chuyện với chị. Chị cởi mở, kể chuyện gia đình, cuộc sống, và cái
duyên đến với món ăn “cầu kỳ đất Hà thành” này. Bên cạnh chị, đứa con nhỏ bi
bô, một chú em đang nhanh tay sắt đu đủ thành lát mỏng, một cô chị đang nhặt
rau sống thoăn thoắt, chuẩn bị cho ngày hôm sau. Tôi nom thấy một khay đựng chả
xiên nướng sẵn, hỏi chị xem có phải mẻ chả ấy bán tối nay không. Chị phân vân rồi
lỏn lẻn cười, bảo: “ Không. Mai đấy. Nhưng …có một số bí quyết trong ấy… không
nói được. Nướng chả qua lần thứ hai, mới ngon” (giọng chị nói nhỏ dần, như
không muốn nhỡ miệng nói ra cái bí quyết quý giá kia).
“Dù sao, thức gì ở ngoài kia có lẽ cũng ngon
hơn em ạ. Vì mùa màng, khí hậu ngoài ấy tốt. Ngay như chăn nuôi được lợn, thịt
thà cũng đậm vị hơn. Trồng trọt thì rau xanh ngon lành hơn. Dường như mỗi thứ
góp vào, thứ gì cũng dậy mùi, làm cho món ăn ngon hơn hẳn.”
Tôi bật cười và gật đầu tán thành, vì phát hiện
ra thêm một chi tiết mới lạ hay hay ở người chủ quán trẻ tuổi này. Ở chị, có được
sự nhạy cảm tinh tế, vừa vặn cho một “bún chả miền ngoài” thành thân thuộc giữa
lòng thành phố “đàng trong”. Âu cũng là duyên số.
Tuy không sinh ra ở đất Biên Hòa này, nhưng được đến ở đây, một vùng đất không nhiều thắng cảnh “đình đám” như Nha Trang, Hạ Long; không “hay ho” như Đồng Tháp Mười; không mộng mơ như chiều tím Thuận Thành; không hùng vĩ rợn ngợp như Tây Bắc… chúng tôi vẫn không thấy “mặc cảm”. Trái lại, chúng tôi tự hào. Tấm lòng chân chất của người dân lục tỉnh đến nơi “đất lành chim đậu” này làm ăn sinh sống, mỗi người mỗi nhà là một hoa văn không quá tinh xảo nhưng dung dị, làm nên bức tranh gốm hoàn hảo cho vùng đất này. Và mỗi chúng tôi đều thấy mình ở trong đó, nhuần nhị và thân thuộc…
Tuy không sinh ra ở đất Biên Hòa này, nhưng được đến ở đây, một vùng đất không nhiều thắng cảnh “đình đám” như Nha Trang, Hạ Long; không “hay ho” như Đồng Tháp Mười; không mộng mơ như chiều tím Thuận Thành; không hùng vĩ rợn ngợp như Tây Bắc… chúng tôi vẫn không thấy “mặc cảm”. Trái lại, chúng tôi tự hào. Tấm lòng chân chất của người dân lục tỉnh đến nơi “đất lành chim đậu” này làm ăn sinh sống, mỗi người mỗi nhà là một hoa văn không quá tinh xảo nhưng dung dị, làm nên bức tranh gốm hoàn hảo cho vùng đất này. Và mỗi chúng tôi đều thấy mình ở trong đó, nhuần nhị và thân thuộc…
Đỗ Lê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét