Ngôn ngữ, cấu tứ và mạch cảm xúc, suy tưởng
Đặc điểm về xuất xứ, cấu tứ và thi hứng của bài thơ
Cuối bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi có ghi một dấu mốc
thời gian: “1948 - 1955”. Vậy là bài thơ được sáng tác trong một khoảng thời
gian khá dài: những cảm xúc, suy ngẫm về đất nước có lẽ đã theo tác giả gần như
suốt cuộc kháng chiến trường kì. Sự thật thì bài thơ được “lắp ghép” từ 3 bộ phận:
phần đầu là những câu thơ được rút gần như nguyên vẹn trong hai bài thơ của
Nguyễn Đình Thi sáng tác hồi đầu kháng chiến và tiếp đó là những ý thơ được
hình thành trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp cho đến những năm 1954 - 1955, tạo cho bài thơ có một cấu trúc (bố cục) ba đoạn khá rõ. Đoạn thứ nhất gồm
7 câu thơ đầu, rút trong bài Sáng mát trong như sáng năm xưa, sáng tác năm
1948, có sửa chữa đôi chút. Đoạn thứ hai gồm 14 câu tiếp theo, vẫn tiếp tục những
câu ở bài thơ trên nối với những câu thơ rút trong bài Đêm mít tinh, sáng tác
năm 1949 (từ chỗ: “Trời xanh đây là của chúng ta…” và đoạn ba gồm 28 câu còn lại.
Cả hai bài thơ tiền thân đều viết từ Việt Bắc và viết về Việt Bắc kháng pháp
“trong một tâm trạng nhớ Hà Nội, nỗi nhớ thấm thía, xao xác”. Tuy nhiên, khi đi
vào Đất nước, về mặt ý nghĩa, những câu thơ trên đây đã tách hẳn khỏi tác phẩm
ban đầu đã sinh ra nó để mang một ý nghĩa mới, trong sự quy tụ cảm xúc, suy tưởng
chung của nhà thơ về đất nước. Từ ý nghĩa cụ thể về khung cảnh mùa thu Hà Nội
và mùa thu Việt Bắc trong bài Sáng mát trong như sáng năm xưa đã chuyển thành ý
nghĩa biểu trưng về khung cảnh đất nước xưa và nay, trước và sau Cách mạng
tháng Tám - khi đất nước còn trung vòng nô lệ đau thương và khi đất nước đã được
giải phóng, có độc lập, tự do. Từ những cảnh thực của đêm mít tinh ở rừng Phan
Lương trên chiến khu và cảnh trong tâm tưởng nhớ về Hà Nội xuống đường trong cuộc
mít tinh lớn của dân tộc (Cách mạng tháng Tám) ở bài Đêm mít tinh đã chuyển
thành những câu thơ đầy niềm tự hào kiêu hãnh và sâu lắng về quyền được làm chủ
một đất nước rộng lớn, có truyền thống bốn ngàn năm không chịu sống quỳ. Nhờ sự
chuyển hoá, đổi mới ý nghĩa của ngôn ngữ và các hình tượng thơ nên bài thơ vẫn
có được tính chỉnh thể của một tác phẩm nghệ thuật, đảm bảo sự thống nhất cả về
cấu tứ lẫn tư tưởng và cảm xúc. Cố nhiên, người đọc vẫn có thể thấy được sự
khác biệt giữa các phần về cả thể thơ, nhịp điệu cũng như mạch cảm xúc. Nhưng
chính điều đó lại tạo ra cho thi phẩm này một sự vận động riêng về hình thức
cũng như về cảm hứng và tư tưởng, vừa nhất quán vừa biến đổi như một nét đặc sắc
về nghệ thuật. Bài thơ là sự đúc kết những cảm xúc và suy ngẫm đầy tự hào kiêu
hãnh về một đất nước tươi đẹp, đau thương nhưng anh dũng, bất khuất, có độc lập
chủ quyền của Nguyễn Đình Thi trong suốt thời gian cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược từ 1948 đến 1955.
Theo trục thời gian tuyến tính (trước, sau Cách mạng tháng
Tám và trong kháng chiến chống thực dân Pháp), hình tượng đất nước nằm ở tầm
khái quát của tư tưởng, cảm xúc và là điểm quy tụ mạch suy tưởng của nhà thơ
xuyên suốt cả 3 đoạn thơ: từ những cảm xúc tinh tế, đầy ấn tượng trong một buổi
sáng mùa thu cụ thể của đất nước gợi niềm hoài niệm về những mùa thu Hà Nội năm
xưa, từ đó dẫn đến những suy tư về mùa thu mới của đất nước sau cách mạng và cuối
cùng là những suy ngẫm về đất nước trong hiện tại cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược.
Bắt đầu là những câu thơ gợi dòng hoài niệm.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa…
Ấn tượng về một sáng mùa thu trong kháng chiến được gợi ra bởi
một không gian trong trẻo, khoáng đạt. Bầu trời rất cao và trong xanh, không một
gợn mây. Thoảng trong gió thu nhẹ thổi là mùi hương cốm mới, một hương vị rất đặc
trưng của mùa thu Bắc Bộ, trong mát và tinh khiết như kết tinh được tất cả cái
tinh tuý, sâu đậm của đất trời, cây cỏ mùa thu. Trong Hà Nội ba mươi sáu phố
phường, Thạch Lam đã từng viết rất hay về mùi hương ấy: “Phảng phất hương vị
ngàn hoa cỏ (…) là thức dâng của đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất
cả cái mộc mạc, giản dị mà thanh khiết của đồng quê nội cỏ”. Từ một không gian
trong trẻo và mùi hương đặc trưng ấy mà hoài niệm về mùa thu Hà Nội, Nguyễn
Đình Thi quả đã gợi được đúng cái thần - nét biểu trưng rất riêng của hồn quê xứ
sở, chứng tỏ sự gắn bó rất sâu nặng, thiết tha của ông với thủ đô yêu dấu.
Những câu thơ về mùa thu Hà Nội có lẽ là những câu thơ đẹp nhất
của bài thơ. Qua sự hoài niệm của nhà thơ, Hà Nội trong những ngày quân thù còn
chiếm đóng năm xưa tuy vẫn rất đẹp và gợi cảm nhưng khung cảnh thật vắng vẻ và
phảng phất buồn:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Người đọc có thể thấy được những cảm nhận hết sức tinh tế của
một tâm hồn nhạy cảm. Cái “chớm lạnh” của một buổi sáng mùa thu qua làn gió
“hơi may” nhẹ thoảng giữa lòng Hà Nội làm cho phố phường dường như có vẻ lạnh lẽo,
trống trải và vắng vẻ hơn. Những đường phố không người qua lại dường như cũng
dài thêm ra, bởi người ta có thể nghe thấy rất rõ cả tiếng “xao xác” đến nao
lòng của những chiếc lá khô lăn theo làn gió heo may se lạnh trong một không
gian lặng lẽ. Với Nguyễn Đình Thi, Hà Nội bao giờ cũng rất đẹp và gợi cảm nhưng
kí ức về những năm tháng mất nước đã khiến cho Hà Nội trong hoài niệm của nhà
thơ không tránh khỏi vẻ buồn vắng, trống trải, hiu hắt. Đó cũng là xúc cảm về
khung cảnh chung của đất nước những năm dài nô lệ trước Cách mạng tháng Tám.
Song, điều quan trọng là đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Đình Thi vẫn luôn gợi
được những nét lãng mạn, đầy hào khí. Do đó, trong kí ức về những ngày đất nước
còn trong nô lệ đau thương vẫn thấp thoáng hình ảnh những con người ra đi cứu
nước. Câu thơ tả hình ảnh “người ra đi” giữa mùa thu Hà Nội năm xưa thật là đẹp,
lãng mạn, vừa gợi được cái nét ngang tàng, khí phách: “Người ra đi đâu không
ngoảnh lại”, vừa thể hiện được tấm lòng xiết bao lưu luyến với thành phố quê
hương của những lớp người ra đi ấy. Bởi thế, không phải là ánh mắt mà bằng cả
tâm hồn, họ vẫn có thể cảm nhận được rất rõ những “thềm nắng lá rơi đầy” đằng
sau cái dáng vẻ dửng dưng” đầu không ngoảnh lại” ấy. Đoạn thơ này thực ra bắt
nguồn từ những ấn tượng cụ thể về Hà Nội trong cảm nhận của những người chiến
sĩ Trung đoàn Thủ đô vào cuối thu năm 1946, khi họ phải dời lên chiến khu, bỏ lại
thành phố sau lưng trong sự chiếm đóng của quân thù. Nguyễn Đình Thi đã kể lại
tâm trạng của mình và của những người chiến sĩ thủ đô khi đó: “Những câu thơ
tôi viết về Hà Nội với nhiều cảm xúc và kỷ niệm. Người Hà nội ra đi kháng chiến
đều có những tình cảm như thế với mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc. Hà Nội vào
thu, khung cảnh thiên nhiên rất đẹp nhưng chiến tranh đã tạo ra những khung cảnh
không bình thường. Câu thơ: “Người ra đi (…) lá rơi đầy” rất gần gũi với tâm trạng
của tôi”.
Từ niềm hoài niệm mùa thu Hà Nội năm xưa, nhà thơ chuyển cảm
xúc về mùa thu hiện tại giữa khung cảnh rộng lớn của núi rừng ở chiến khu Việt
Bắc khi đất nước đã được giải phóng, với một niềm vui phơi phới bốc men say:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Nhịp điệu đoạn thơ này biến đổi hẳn với những câu thơ ngắn,
tiết tấu biến đổi nhanh với 4 vần ôm ở 4 câu thơ liên tiếp (rồi, đồi, phới, mới)
tạo nên một không khí và âm điệu tươi vui náo nức, rộn ràng. Đoạn thơ mở ra một
không gian rộng rãi với những cảnh sắc tươi tắn, trong sáng, rộn rã: khác rồi,
vui nghe, phấp phới, thay áo mới, trong biếc nói cười thiết tha. Tất cả đều hoà
chung với tâm trạng phấn chấn, náo nức của con người trong mùa thu mới của đất
nước đã được giải phóng và đang ngẩng cao đầu chiến đấu vì độc lập, tự do. Giữa
không gian rộng lớn của núi rừng Việt Bắc, tựa lòng mình vào cuộc kháng chiến
anh dũng, bất khuất của dân tộc, nhà thơ không còn cảm thấy mùa thu đất nước buồn
vắng, hiu hắt như xưa nữa mà đã hết sức tươi sáng, trong trẻo, rộn ràng.
Mạch cảm xúc về đất nước tiếp tục vận động một cách khá tự
nhiên đến niềm tự hào được làm chủ toàn bộ cả thiên nhiên đất nước rộng lớn:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường thơm ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
Cảm hứng thơ từ đây mang đậm chất sử thi và lãng mạn. Tiếng
nói trữ tình được chuyển từ tư thế phát ngôn của cá nhân “tôi” (tôi đứng, tôi
nghe, tôi nhớ) ở đoạn thơ trên sang tiếng nói chung của cộng đồng “của chúng
ta”. Nhưng sự chuyển giọng điệu ấy cũng rất tự nhiên bởi ở đây, tác giả không
chỉ nói lên tình cảm đất nước riêng tư của mình mà chính là ông đang nhân danh
dân tộc và cộng đồng để hùng biện một cách say sưa, đầy hào hứng về tư thế và ý
thức làm chủ một đất nước có độc lập, tự do. Những câu thơ này chính là sự kế tục
dòng cảm hứng yêu nước và tự hào dân tộc mãnh liệt, dòng cảm hứng đã trở thành
truyền thống của văn học và thơ ca Việt Nam. Nhưng lòng yêu nước và niềm tự hào
dân tộc ấy trong bài thơ này còn mang đậm dấu ấn của thời đại mới được mở ra từ
sau Cách mạng tháng Tám, đó là tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc đã gắn
liền với quyền được làm chủ thật sự đối với non sông, đất nước của mình. Đoạn
thơ sử dụng nhiều câu thơ có hình thức khẳng định mạnh mẽ, được tạo bởi điệp từ
chỉ định “đây” và điệp ngữ “của chúng ta” giống như những tiếng nói kiêu hãnh
thể hiện niềm tự hào được làm chủ tất cả một đất nước rộng lớn. Ý thơ đi từ sự
khẳng định đất nước qua những cái hữu hình trong không gian như trời xanh, núi
rừng, cánh đồng, ngả đường, dòng sông… có kèm theo điệp từ chỉ số lượng lớn và
không xác định “những” đã nêu bật được ý nghĩa bao quát về sự rộng lớn và tươi
đẹp của đất nước cụ thể và hữu hình, đến sự cảm nhận những cái vô hình của đất
nước ở bề sâu trong nguồn mạch tinh thần, tình cảm dân tộc. Đó là hồn nước, là
truyền thống anh dũng bất khuất ngàn đời của cha ông:
Nước những người không bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Những câu thơ trên đã tạo được không khí trầm lắng thiêng liêng
vì nó đã khơi đúng mạch truyền thống ngàn đời của dân tộc. Qua hình tượng âm
thanh “Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất…“, Nguyễn Đình Thi đã diễn tả được một
cách sinh động những cái tưởng như vô hình, trừu tượng, làm hiện lên thật cụ thể
về hồn đất nước và tinh thần dân tộc bất khuất bằng chính những âm vang trầm lắng,
hào hùng, thiêng liêng đó.
Đoạn 3 của bài thơ (28 câu cuối) là những cảm xúc, suy tư của
nhà thơ về hình ảnh của đất nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược. Ý thơ hướng hẳn về hiện thực của một đất nước đang tiến hành cuộc kháng
chiến thần kỳ, một đất nước từ trong đau thương, căm phẫn đã anh dũng đứng dậy
chiến đấu và ngời sáng trong chiến thắng. Tiếp nối ý thơ từ cuối đoạn trên, ở
đây tác giả tập trung khẳng định về một đất nước không chỉ anh dũng, bất khuất
trong quá khứ mà cũng rất đỗi anh dũng, bất khuất trong hiện tại của cuộc kháng
chiến. Hình ảnh đau thương của đất nước bị quân thù giày xéo trong chiến tranh
cũng được Nguyễn Đình Thi miêu tả thật xúc động:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Nét độc đáo của hai câu thơ này nói riêng và trong cả đoạn
thơ thứ ba là sự chuyển hoá tự nhiên từ ý nghĩa cụ thể của các hình ảnh thơ
sang những ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh thơ gây được ấn tượng rất mạnh nhờ thủ
pháp “ngược sáng”, làm nổi bật những đường nét, màu sắc tương phản gay gắt.
Trong ánh mặt trời chiều tà, lúc hoàng hôn phản chiếu chính diện với góc nhìn,
cánh đồng hoang vắng vùng vành đai trắng quanh đồn giặc đỏ rực như thể bị nhuộm
đỏ một màu máu. Phía chân trời xa, những hàng rào dây thép gai quanh đồn giặc
tua tủa đâm ngược lên như muốn cào rách, xé nát bầu trời. Nhưng những hình tượng
thơ trên đây cũng không phải chỉ được tạo dựng bằng các thủ pháp nghệ thuật thuần
tuý mà đó còn là sản phẩm của một trí tưởng tượng phong phú và cả tấm lòng đau
đớn tha thiết của nhà thơ với đất nước, quê hương. Nhiều người nhận xét rằng,
cánh đồng và bầu trời là những hình tượng quê hương đất nước hay xuất hiện
trong thơ Nguyễn Đình Thi. Điều ấy cũng không phải ngẫu nhiên, bởi trong tâm hồn
của mỗi con người Việt Nam, cánh đồng và bầu trời quê hương vốn là những hình ảnh
yên ả, thanh bình thì nay trong chiến tranh, quê hương đang bị quân giặc chiếm
đóng và tàn phá, cánh đồng vùng vành đai trắng đã thành một mảnh đất chết,
không bóng người, thiếu vắng màu xanh sự sống…
Những câu thơ gợi cảm giác hoang vắng, chết chóc rất đau thương. Vậy là, từ một hình ảnh thực, tác giả bắt gặp trong một chiều hành quân qua vùng Bắc Giang, khi đưa vào bài thơ này đã trở thành một hình ảnh khái quát, có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc và hết sức sinh động về một đất nước đau thương bị tàn phá trong chiến tranh, dưới ách chiếm đóng của quân giặc tàn bạo.
Những câu thơ gợi cảm giác hoang vắng, chết chóc rất đau thương. Vậy là, từ một hình ảnh thực, tác giả bắt gặp trong một chiều hành quân qua vùng Bắc Giang, khi đưa vào bài thơ này đã trở thành một hình ảnh khái quát, có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc và hết sức sinh động về một đất nước đau thương bị tàn phá trong chiến tranh, dưới ách chiếm đóng của quân giặc tàn bạo.
Nếu ở hai câu thơ trên, lòng đau xót và căm hờn được chất chứa
trong hình ảnh ngoại cảnh có ý nghĩa biểu tượng thì ở hai câu thơ tiếp theo lại
bộc lộ trực tiếp tâm trạng, tình cảm của người chiến sĩ trong khung cảnh quen
thuộc của cuộc đời hành quân chiến đấu:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Vượt lên những đau thương và gian lao của cuộc chiến tranh ác
liệt, đất nước ấy vẫn có những con người với tâm hồn cao đẹp, đầy lãng mạn.
Trên cái nền lửa máu của chiến tranh khốc liệt, trong hoàn cảnh đất nước bị tàn
phá đau thương, người chiến sĩ trên mọi nẻo đường hành quân chiến đấu không chỉ
“nung nấu” trong lòng niềm căm thù cháy bỏng và ý chí diệt thù giải phóng quê
hương mà trong tâm tưởng vẫn luôn ngời sáng hình ảnh đôi mắt của người yêu, như
ngôi sao lấp lánh trong đêm đen, đầy hi vọng và bồn chồn, khao khát, cứ cháy
mãi lên ở phía chân trời xa. Trong những câu thơ trên, tình yêu và tình đất nước,
cái chung và cái riêng đã hoà vào nhau làm một, rất khó lòng có thể tách bạch. Ở
một bài thơ khác trong thời kì kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Đình Thi cũng nói
lên ý đó qua hình ảnh ngôi sao và ngọn lửa:
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ dưới ngàn mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây…
Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt
Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời
Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực
Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người.
(Nguyễn Đình Thi. Nhớ)
Những khổ thơ tiếp theo mang tính chính luận rõ nét nhưng
cũng đầy cảm xúc. Đây là hình ảnh một đất nước đau thương uất hận, được diễn tả
bằng những câu thơ sáu chữ ngắn gọn, đanh thép, rực lửa căm hờn:
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà
Từ đó dẫn đến sự khái quát cao độ về những hi sinh mất mát to
lớn của đất nước trong chiến tranh: “ngày nắng đốt theo đêm mưa giội/ Mỗi bước
đường mỗi bước hi sinh”, nhưng vẫn tràn đầy lạc quan: “Trán cháy rực nghĩ trời
đất mới/ Lòng ta bát ngát ánh bình minh”. Do đó, đất nước ấy vẫn hồi sinh:
“Khói nhà máy cuộn trong sương núi/ Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng/ Ôm đất nước
những người áo vải/ Đã đứng lên thành những anh hùng.
Bức tượng đài sừng sững về đất nước
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh khái quát về đất nước trong suốt
cuộc kháng chiến trường kỳ:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Giũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Khổ thơ chuyển phương thức biểu hiện từ cụ thể sang ý nghĩa
tượng trưng khá nhuần nhuyễn, tự nhiên. Từ một chất liệu hiện thực tác giả quan
sát trực tiếp được ở chiến trường Điện Biên Phủ (súng nổ rung trời, người lên
như nước vỡ bờ, máu lửa, giũ bùn đứng dậy), qua thủ pháp của nghệ thuật điện ảnh
và ngôn ngữ thơ ca khái quát, giàu tính hình tượng (Nước Việt Nam), Nguyễn Đình
Thi đã tạo nên một khung cảnh có ý nghĩa biểu tượng hết sức hoành tráng về đất
nước trong đấu tranh và chiến thắng. Trưa ngày 7/5/1954, trong tiếng đại bác ầm
vang rung trời chuyển đất, dưới ánh nắng hè gay gắt và ánh chớp lửa đạn rực trời,
các chiến sĩ ta vừa trải qua “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm,
cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng, chí không mòn” (Tố Hữu), mình mẩy đầy
bùn đất, đã ào ạt xông lên chiếm đồi A1, cao điểm cuối cùng của giặc, giải
phóng hoàn toàn Điện Biên, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến:
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng
Bằng thủ pháp của nghệ thuật điện ảnh vừa quay cận cảnh để đặc
tả chi tiết, vừa lùi xa để bao quát được toàn cảnh một không gian rộng lớn của
chiến trường, kết hợp với những từ ngữ giàu tính khái quát, tác giả đã phát huy
được hiệu quả nghệ thuật tổng hợp, tác động mạnh mẽ vào trí tưởng tượng của người
đọc, làm cho những hình ảnh hiện thực mà nhà thơ ghi được trên đây trở thành một
hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng, vừa cụ thể vừa khái quát về một đất nước kháng
chiếp trên cái nền của một bối cảnh rộng lớn. Đó không còn là một khung cảnh cụ
thể của thực tế chiến trường Điện Biên trong trận chiến đấu cuối cùng trên đồi
A1 lịch sử nữa mà đã thực sự là hình ảnh của “nước Việt Nam” trong suốt chín
năm kháng chiến “từ máu lửa, giũ bùn đứng dậy sáng loà”, một đất nước đã vượt
qua bao gian khổ, đau thương, từ trong hi sinh, căm phẫn đã anh dũng đứng dậy
chiến đấu và chói ngời chiến thắng.
Đây cũng là khổ thơ thứ hai trong bài dùng hình thức thơ sáu
chữ. Cách ngắt nhịp 2/ 2/ 2 đều đặn, ngắn gọn tạo ra một âm hưởng rắn chắc,
hùng tráng, diễn tả rất đạt tư thế đĩnh đạc đường hoàng, tầm vóc uy nghi sừng sững
và khí thế hào hùng của cả đất nước trong suốt cuộc kháng chiến bền bỉ dẫn đến
chiến thắng lịch sử kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến, giành lại nền độc lập,
tự do. Đoạn thơ kết thúc tác phẩm mang đậm tính chất sử thi hoành tráng đã dựng
lên được bức tượng đài sừng sững về đất nước chói ngời trên cái nền của máu lửa,
bùn lầy, trong một không gian dồn dập, ầm vang tiếng súng nổ rung trời. Đó cũng
là cao trào trong cảm xúc về đất nước của tác giả ở bài thơ này.
Nguyễn Trọng Khánh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét