Thứ Tư, 14 tháng 8, 2019

Ngựa người và người ngựa - Nguyễn Công Hoan

Ngựa người và người ngựa
Nguyễn Công Hoan
Đố ai biết anh phu xe lững thững dắt cái xe không ở đàng ngã tư đầu phố kia, đi như thế từ bao giờ đấy?
Trông anh ấy có vẻ "đói" khách lắm. Có lẽ thế thật. Vì ai lại tám giờ tối ba mươi Tết rồi, còn lang thang phố nọ sang phố kia thế? Mà hàng phố, nhà nào nhà nấy đóng cửa cả rồi, còn mấy ai ra ngoài đường làm gì, mà còn hòng một "cuốc" tất niên?
ấy thế! Trả xe cho xong quách, về nhà hú hí với vợ con có hơn không, tội gì! Vợ anh, con anh, đương chờ anh ở cửa đó nọ. Năm hết tết đến rồi. Còn mấy giờ đồng hồ nữa thôi, chứ còn lâu la gì?
Ấy, giá trong túi có nặng cái đồng tiền, thì chả phải bảo, anh ta cũng về nhà cho xong quách, việc gì còn phải vơ vẩn vẩn vơ như thế này! Khốn nhưng anh ấy vừa mới ốm dậy, ốm một trận tưởng mười mươi chết, thành ra không những mất một dịp kiếm tiền vào lúc cuối năm, mà bao nhiêu tiền dành dụm trong bấy lâu, sạch sành sanh cả.
Bởi vậy hôm nay, anh ấy cố vay được cái vốn để đi mua xe, kiếm bữa gạo để ăn tết.
Quái, không hiểu cái ngày nay là ngày gì, mà từ chiều đến bây giờ, anh ấy mới được có hai hào chỉ! Ban chiều, khách áo gấm, áo nhung, đi nhan nhản ở đường, mà mời mỏi miệng, cũng không có một ai lên xe, nữa là bây giờ! Bực nhất là thỉnh thoảng lại lẹt đẹt tràng pháo nổ, làm cho anh ấy nóng cả ruột gan. Nghĩ đến cái cảnh tết nhà giàu mà thèm rỏ dãi. Họ quăng tiền đi về dịp tết, thi nhau tiền trăm bạc nghìn để xa phí vô ích, mà mình thì lo méo mặt mấy hào bạc gạo ngày mai không xong.
Thỉnh thoảng, anh ta dỏng tai quay cổ, xem có ai gọi ở đa (`ng xa không. Thì chỉ thấy đánh đẹt, lòe một cái ở giữa đường, làm cho anh ta giật mình đánh thót. Giật mình, rồi lại thở dài, ngán cho cái đời bấp bênh, lắm lúc muốn quẳng phăng cái xe đi, làm nghề khác. Nhưng bỏ nghề này thì xoay ra nghề gì?
Anh ấy đi lững thững như thế, qua Hàng Trống, quặt ra phố Nhà Thờ, xuyên thẳng ra lối nhà thương Phu? Doãn, thì bỗng đứng dừng, quay cổ lại nhìn.
- Xe!
- Đây!
Ba chân, bốn cẳng, anh ấy chạy vội lại phía có người gọi, hạ hai càng xuống.
- Bà về đâu?
Một bà trạc độ ngót ba mươi tuổi, mình mặc xa tanh nâu, đầu quàng khăn bịt trắng, bỏ giọt xuống tận bụng, đứng ở đầu hè:
- Anh có đi giờ không?
- Bà đi mấy giờ?
- Một giờ.
- Xin bà sáu hào.
- Sao anh lấy đắt thế? Hai hào!
- Thưa bà, xe ngày tết vẫn thế, vả lại bây giờ còn ai kéo nữa, mà bà giả rẻ thế. Con kéo một chuyến, rồi cũng đi giả xe, về ăn tết đây!
Bà khách thấy anh xe nói ra ý không thiết kéo, nên quay lưng đi.
- Này, bà giả bao nhiêu?
- Hai hào là đắt rồi, ngày dưng chỉ có hào rưỡi một giờ thôi.
- Thôi, năm hào rưỡi, bà có đi, không thì thôi.
- Thôi.
Bà khách lại quay lưng đi, lần này thì đi thẳng.
Anh xe vắt chân chéo kheo, chỏng càng lên trời mà nhìn theo mãi một lúc. Anh đoán có lẽ người này cũng là khách kiết, nên mới trả rẻ quá như vậy. Thôi thì người già thì ta non. Anh chạy theo và gọi:
- Này, mời bà lên xe!... Hai... hào...! Xin bà hai hào rưỡi.
Bà khách vừa bước chân lên sàn xe, thấy anh xe vòi hai hào rưỡi, vội nhảy tọt ngay xuống đất:
- Không hai hào thì thôi.
- Thôi, đây, mời bà lên.
Bà khách vạch cổ tay áo, xem đồng hồ:
- Chín giờ năm nhé, nhưng kể là chín giờ đúng cũng được.
Anh xe kéo giờ, nên cũng chỉ chạy "dưỡng lão" thôi, đít nhổm mạnh, mà bước ngắn. Vì thì giờ là tiền bạc, chậm phút nào là tiền phút ấy.
Trước anh xe tưởng bà khách đi có việc gì, cho nên còn chạy. Sau thấy bà cứ trỏ vơ vẩn hết phố nọ sang phố kia, mà chả đỗ ở phố nào cả, thì mới đoán có lẽ là cánh "ăn sương" chi đây. Anh bèn đi bước một. Nhiều lúc muốn hỏi thực, nếu có phải giăng há thì mình giới thiệu cho một món sộp đáo để.
Nhưng lỡ không phải thì họ mắng cho và không trả tiền thì khổ.
Qua chợ Đồng Xuân, vòng về Hàng Cót, lại rẽ sang Cửa Đông, bà khách bỗng hỏi:
- Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?
- Vâng, nhưng bà có cho cháu hai hào thì cháu kéo hầu bà giờ nữa.
- Được.
- À, anh có hào lẻ không, cho tôi vay mấy hào, chốc nữa tôi giả cả đồng cho tiện.
Anh xe móc bao phục, lấy ra hai hào, đưa cho bà khách. Bà khách vào hiệu, mua gói thuốc lá, bao diêm, còn tiền mua cả hạt dưa để cắn.
Anh xe nhấp nhổm chạy rảo cẳng vài bước, rồi lại tiến bước như trước. Một lúc, anh mới đánh bạo hỏi một câu rõ khôn:
- Bà tìm ai, thưa bà?
- Tôi tìm người quen.
- Người quen bà ở phố nào?
- Anh cứ kéo đi.
Anh xe lại cứ kéo như thế, ra Ga, vòng về đường Sinh Từ, quặt về Hàng Bông, Hàng Mành, Hàng Vải Thâm, vân vân. Mãi mãi, mà người khách vẫn không tìm thấy ai quen.
- Thưa bà bây giờ mấy giờ rồi?
- Mười một giờ kém năm.
- Con kéo hết giờ này, xin bà cho tiền để con đi đón khách ở ga về.
- Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?
- Thưa bà, con đón khách ở ga hay ở nhà chớp bóng thì một cuốc cũng được hai hào chỉ.
- Anh đã chắc có khách chưa? Hay là mật ít ruồi nhiều, rồi dắt xe về không. Anh lại cố kéo tôi giờ nữa, đi thủng thỉnh thế này mà được tiền, chả hơn chạy mửa mật ra ư?
Anh xe nghe bùi tai, lại bằng lòng kéo. Hàng phố càng thấy thưa người đi. Các cửa đóng kín mít. Đi một lúc, qua Ngõ Trạm, vòng sang Hàng Điếu, rồi rẽ sang Hàng Bồ. Lúc ấy, bốn bên im lặng như tờ, chỉ thấy tiếng lách tách bà khách cắn hạt dưa thôi, thì bỗng một tràng pháo nổ, đì đẹt pháo giao thừa.
- Mấy giờ rồi, thưa bà?
- Phải gió nhà nào bây giờ đã đốt pháo giao thừa! Mới có mười hai giờ kém mười lăm.
Anh xe mới nghĩ: "Mười lăm phút nữa, mình sẽ có sáu hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín. Chín hào! Mở hàng ngay từ lúc năm mới vừa đến. Thật là may! Mới năm mới đã phát tài! Thôi, sang năm tất là làm ăn bằng mười bằng trăm năm nay".
Rồi anh nghĩ đến vợ con anh, mà phấn chấn trong lòng, như có cái sức gì nó xúi giục anh quên khổ để vui lòng làm việc vậy.
"Sáng mai, kéo chuyến khách qua ga, xong rồi, ta đánh bát phở tái, rồi mua cho con cái bánh ga tô cho nó mừng. Vợ ta nghe thấy trong túi ta có tiền, thì chắc hớn hở, thấy ta làm lụng vất vả để kiếm tiền nuôi cả nhà, tất là thương ta lắm. Nhưng ta sẽ làm ra dáng không mệt nhọc, để vợ chồng con cái ăn tết với nhau cho hể hả".
Anh vừa nghĩ thế, vừa kéo về phía nhà thương Phu? Doãn. Tới chỗ khi nẫy, anh dừng xe lại, nói:
- Bây giờ có lẽ mười hai giờ, xin bà cho cháu tiền.
Bà khách có ý luống cuống, nói:
- Chết! Anh hỏi tiền tôi bây giờ à? Anh chịu khó kéo tôi một giờ nữa đi.
- Thôi khuya rồi, cháu phải về nhà.
- Này, chả nói giấu gì anh, tôi cũng đi kiếm khách từ tối đến giờ. Có anh biết đấy. Có gặp ai hỏi han gì đâu. Tôi định nếu có khách thì hỏi vay tiền trước để giả anh. Nhưng chẳng may gặp phải cái tối xúi quẩy thế này, thì tôi biết làm thế nào?
- Thế cô đi xe tôi từ chín giờ, cô không giả tiền tôi à?
- Bây giờ thì tôi biết làm thế nào?
- Tôi kéo cô lên Cẩm.
- Lên Cẩm thì tôi cũng đành lên với anh, chứ tôi biết làm thế nào!
- Thế mà cũng vác mặt mặc cả xe giờ, lại còn vay tiền người ta mà mua thuốc lá với hạt dưa!
- Nhà tôi ở ngay đầu ngõ Hàng Bún, khi nào anh đi qua, thì tôi giả tiền anh chứ gì!
- Chứ gì! Một trăm ngõ Hàng Bún, ai biết ngõ nào mà tìm!
- Tôi không có tiền đâu, chả tin anh khám mà xem.
- Tôi không khám, cô giả tiền tôi cho tôi về!
- Đây, hay là phu la, áo, đồng hồ đây, anh muốn lấy thức gì thì lấy.
- Tôi lấy để làm ma mẹ tôi à?
- Thôi này, đừng cáu làm gì. Tôi bảo, cảnh tôi cũng như cảnh anh, cũng là đi kiếm khách cả. Nhỡ phải một tối thế này, thì chịu vậy, chứ biết làm thế nào?
- Thế sao cô không bảo thực tôi từ trước, để tôi kéo cô qua các nhà săm để hỏi, cô còn sĩ diện mãi.
- Nào ai biết cơ sự nó ra thế này. Thôi, này, tôi nói thế này thì anh nghe. Nếu bây giờ anh bỏ tôi ở đây, thì tôi không có tiền giả anh, sự ấy đã đành rồi, nhưng mà anh thiệt. Vậy anh cố kéo tôi nữa, may tôi có khách thì tôi có tiền, mà anh cũng không phải phàn nàn nữa.
- Tôi thật là nợ nần gì cô kiếp trước hay sao, mà nay tôi khổ với cô như thế này. Đầu năm mà đã rấp! Rắc rối!
- Anh đừng nói thế, ai muốn thế này làm gì!
Bất đắc dĩ, con ngựa người lại phải kéo con người ngựa vậy.
Nhưng lần này thì thật là không buồn bước lên nữa. Chán quá!
Rõ số đâu mà số ăn mày thế này!
Anh xe vừa đi, vừa thở dài. Khách cũng vừa đi, vừa thở dài. Càng đi, càng thấy phố vắng tanh, vắng ngắt. Thỉnh thoảng mới gặp một người tùm hum cái áo ba đờ xuy, mà đi có ý vội vàng.
Buồn thay! Đàn muỗi vo vo bay, đùa nhau xung quanh ngọn đèn. Lá cây sột soạt rụng, đuổi nhau ở trên đường nhựa.
Anh xe dắt xe đi diễu qua các cửa nhà săm để xin việc cho cô ả. Nhưng lúc ấy đã hai giờ sáng rồi cho nên ế! May sao, đến đầu phố Hàng Gai, thì gặp một người ăn mặc ra dáng ăn chơi, đang tất tả cúi đầu đi. Cô ả dử mồi, đánh liều gọi lại, vờ vĩnh hỏi thăm đường. Nhưng khốn nạn, anh chàng này lắc đầu, và cứ rảo cẳng bước đều:
- Tôi không biết, cô hỏi thăm anh xe này cũng được. Tôi còn vội đi mời đốc tờ cho vợ tôi ốm đây!
Hai cái thở dài thất vọng theo đuôi nhau, rồi không ai nói thêm một lời nàọ Anh xe lại từ từ tiến bước.
- Cô làm thế này thì tôi chết mất!
- Thôi anh bằng lòng vậy.
- ấy cũng may cho cô, vớ vẩn mãi ở ngoài phố thế này mà gặp mật thám hoặc đội con gái thì khốn!
- Mật thám tôi cũng chả sợ, đội con gái tôi cũng chả cần, vì tôi có "ba tăng".
Đi một lúc lâu, chẳng gặp một ai cả, cô ả bảo anh xe:
- Này, anh đỗ xuống tôi bảo. Tôi nói thực với anh nhé. Bây giờ đã về sáng rồi, chắc anh kéo tôi mãi cũng đến thế mà thôi. Tôi thì thực không có tiền giả anh đâu. Tôi gán cho anh khăn, áo, đồng hồ mà anh không lấy, thì tôi chả biết nghĩ thế nào cho phải cả. Thôi thì anh kéo tôi ra chỗ kín, vắng, anh muốn bắt tôi gì tôi xin chịu.
- Tôi bắt gì cô mà tôi bắt!
Cô ả nắm lấy tay, vỗ vào vai anh xe, nhăn nhở cười:
- Anh này thực thà quá, nghĩa là chỉ có anh với tôi thôi, thì người tôi đây, anh muốn làm gì tôi cũng bằng lòng.
- Ối thôi! Tôi lạy cô. Nhỡ cô đổ bệnh cho tôi thì tôi bỏ mẹ tôi.
- Không sợ, tôi mới khám bệnh hôm qua.
- Thôi, tôi chắp tay tôi van cô, cô có thương tôi thì mời cô xuống xe cho tôi về, và xin cô tiền xe!
- Thế thì anh cứ kéo tôi về nhà tôi, xem có đồ đạc gì đáng giá, thì anh cứ việc lấy.
Anh xe bụng bảo dạ, thôi thì cầm bằng như mất tất cả buổi đêm nay là cùng. Nhưng ta chịu khó kéo nó về, may xem có cái gì thì ta lấy, còn hơn về không. Thật là đò nát đụng nhau.
- Nhà cô ở đâu?
- Trên Hàng Bún.
Anh xe vừa kéo, vừa lẩm bẩm nói một mình:
- Không có tiền, cũng leo lên xe mà ngồi, chỉ sĩ diện hão thôi, lại còn tí tách hạt dưa, với phì phèo thuốc lá mà không biết ngượng!
Cô ả đành chịu mặt dày cho anh xe mắng một ít câu cho bõ hờn, cứ ngồi im như phỗng.
Lúc ấy, gió bấc thổi căm căm, buốt đến tận xương. Nhà hàng phố đã thấy có người dậy. Nhưng họ dậy có phải để đi tìm gái đâu!
Đến cửa một nhà săm, cô ả bảo:
- Anh hãy ghé vào đây một tý cho tôi hỏi vay tiền người này xem có được không.
Anh xe hơi có hy vọng, đỗ lại để cho cô ả vào. Rồi vì mệt lử, anh ngồi phịch xuống sân xe, tựa lưng vào thành, vừa chờ, vừa nghĩ vơ nghĩ vẩn.
Một lúc lâu, một tràng pháo nổ vang trời, làm anh giật mình. Anh sực nghĩ đến cô ả, không biết cô ta vào đấy làm gì mà lâu thế. Hay có lẽ đã có món khách nào chăng. Nhưng thế nào cũng phải trả tiền cho mình về đã chứ, lại bắt mình chờ đến sáng hay sao? Anh gõ cửa gọi.
Người bồi săm ra.
- Ông ơi, tôi hỏi thăm ông, người con gái quấn khăn quàng trắng vào đây ban nãy, nằm ở buồng nào?
- Chả có buồng nào có khách cả.
- Thế người con gái ấy đâu?
- Ra ngay từ bao giờ rồi, còn đâu mà hỏi?
- Thôi chết tôi rồi, ra cửa nào?
Người bồi lấy ngón tay cái, hất ngang về phía cổng sau. Anh xe choáng người như nghe tiếng sét đánh. Anh bàng hoàng như chợt tỉnh giấc chiêm bao.
Người bồi săm nói xẵng:
- Đi cho người ta đóng cửa. Ai bảo anh xông nhà cho tôi? Năm mới đừng bí beng!
- Ông ơi!...
Người bồi giúi vai anh xe, đẩy ra, rồi đóng ập cửa lại. Anh xe nghiến răng, cau mặt, lủi thủi ra hè, cầm cái đệm quật mạnh vào hòm đánh thình một cái! Anh móc túi lấy bao diêm đốt vía, rồi khoèo bàn chân, co cái càng lên, đưa tay ra đỡ, thủng thẳng dắt xe đi.
Tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng toạch toạch...
11-2-1931
Người thứ ba
Nhưng còn người thứ ba nữa, cũng quan tâm đến cái chết của mẹ chồng chị cu Sứt, chẳng kém gì cụ thư ký.
Vậy mà chúng ta cứ quên.
Suýt nữa thì hoài của!
Nguyên là chị cu Sứt cũng khá thông minh - mà làm gì chẳng thông minh, khi thấy người trên bẻ họe một việc rất vô lý - chị hiểu ngay công dụng của cái miệng. Cái miệng, trước khi để khóc mẹ, hãy phải dùng để trình nhà chức trách biên vào sổ tử cho, thì mới đúng là trong nhà có người chết. Nếu không, thành ra mình khóc lậu à? Mà trình nhà chức trách, đố ai làm nổi việc ấy bằng lời nói suông. Cho nên, vừa bị kéo tới thềm nhà, chị cu đã lạy van cụ thư ký bằng một món tiền. Thiên chúa ơi, bằng một món tiền... hai hào!
Tức thì, cụ thư ký nguôi giận, và không lôi xềnh xệch chị ra đình nữa. Chị được "tự do ngôn luận" trước cái thây ma.
Tin ấy cũng truyền ngay đi khắp làng. Cụ lý gật gù, khen:
- Lão ta thế mà đa mưu, giỏi!
Nhưng cụ chánh hội chê:
- Lão ta thế mà khờ. Phải tay tôi, không năm hào, tôi còn dọa.
Còn báo "phụ nữ" - thế nào các bà chả bênh vực quyền lợi cho đoàn thể - buông lời phê bình bằng những giọng văn ít chải chuốt:
- Cha con đẻ ra mẹ nó, bà thì bà kiện đến tam toà, chứ bà chịu à!
Do sự công phẫn, các bà xui chồng đến nhà chị cu, mỗi người giúp một tay.
Bởi thế, chẳng mấy chốc, mẹ chồng chị được hoàn toàn là người chết hợp pháp. Bà được người ta khênh nằm trong áo quan bày ở giữa nhà, trên thắp hương nghi ngút. Bà được một ông hơi biết địa lý, nhanh nhẩu đi mượn la kinh, ra bãi tha ma đầu làng, ngắm hướng, rồi đào sẵn huyệt. Và ông bảo giờ dần sáng mai, rước bà cụ ra đồng.
Người thứ ba, tức là ông quản lộ. Chức này, chỉ có tỉnh này mới đặt ra. Nhiệm vụ của ông quản lộ là phải coi đường làng, từ ngày xây gạch. Công việc ấy chẳng nhẹ nhàng và dễ dàng gì đâu. Hai bên bờ đất lở ư? Ông phải cho người đắp lại. Mặt đường vì mưa, bùn đất phủ lên ư? Ông phải bảo những nhà ở cạnh đường lấy xẻng giẫy đi. Vô phúc con trâu nào không đi sang hai bên cạnh, mà bén cẳng lên chỗ gạch lát ư? Ông làm biên bản. Tức thì, chủ bị phạt.
Kể trong làng có đặt chức ấy cũng tốt lắm đấy chứ? Đường làng lúc nào cũng sạch, bền, ai chẳng muốn ngắm?
Song, đó là về lý thuyết, chứ không phải về thực hành. Sự thật, người ta ít được gặp ông quản lộ ở ngoài đường. Bởi vậy, đường được rất ít hân hạnh để sạch và bền. Và những con trâu, cả trâu của ông quản lộ nữa, được nhiều hân hạnh đi lên nền gạch, thỉnh thoảng lẹt bẹt vào đó những đống gì kha khá to để làm duyên.
Sáng sớm hôm sau.
Bốn người hảo tâm đã sửa soạn đòn, khênh đến đầu ngõ nhà chị cu, bày sẵn trên đường, và vào trong nhà giục tới tấp.
Chỉ từng ấy người cũng đủ nhấc nổi chiếc quan tài, vì nó mỏng, và vật chứa ở trong cũng chẳng nặng nề gì.
Chỉ là một bộ xương nhỏ nhắn, bọc bằng lần da mỏng manh.
Trong phút chuyển cữu, chị cu Sứt đứt ruột đứt gan. Chị gò lưng, cố níu cỗ ván lại. Nhưng mặc kệ, nó cứ theo tám cẳng chân, tiến nhanh thoăn thoắt.
Người ta nâng đều tay để xuống thềm và ra ngõ. Người ta đặt trên đòn, úp mái vào, thắp nến, thắp hương, rồi buộc lại bốn chiếc mành bốn bên cho chắc chắn.
- Ối mẹ ơi là mẹ ơi, rồi đây một ngày một xa, biết bao giờ cho mẹ con ta lại gặp nhau! ới giời cao đất dày ơi! Giường cao chiếu sạch mẹ chẳng nằm, mẹ ra nằm ngoài giữa đồng, mẹ ơi là mẹ ơi!
Nhưng có ai để ý đến sự kể lể thảm thiết ấy?
- Nào? Bắt tay vào! Xong ba hồi chín tiếng thì anh em lên cho đều nhé.
Tiếng phèng rè nổi lên như run, như khóc. Chiếc nhà táng vừa nâng cao, chị cu thương tâm quá, đứng không vững, ngã khuỵu xuống đất.
Nhưng mà:
- Này! Hãy dậy đã.
Chị mở mắt ra, nhìn.
Ông quản cố cầm roi mây, phì hơi rượu vào mặt chị, nói:
- Mày dậy đã, không có phép thế.
Chị cu vừa khóc, vừa rên rỉ:
- Phép thế nào, ông ơi.
Ông quản lộ cau mặt, gõ đầu roi vào nhà táng:
- Nghĩa là nó là phép thế. Đường là đường làng. Làng cắt tôi ra trông nom. Chị có tư cách gì mà dám đưa ma bà cụ lại không nói với tôi một tiếng? Bốn người này khiêng áo quan vào trong nhà giả chị ấy!
Chị cu choáng váng, vội đứng dậy. Chị thấy ông quản lộ giẫm một chân lên đầu đòn để ghì xuống. Chị khóc:
- Thôi, tôi lạy ông, tủi vong linh mẹ tôi lắm, ông ơi!
Ông quản cố xua tay cho mạnh, cố lắc đầu cho nhanh, cố nhăn mặt cho ra vẻ tức giận, nói:
- Chẳng có thì tôi đưa chị lên quan, chứ đường là đường làng hay đường riêng nhà chị mà chị dám mục đích rắc vàng bừa bãi ra đây? Ai quét hầu chị? Mà tử khí xông lên, ngộ người làng chết lây thì tôi biết nói sao?
Người xúm quanh, mỗi người một điều:
- Thôi, bác quản, giời sinh ra thế, bác ngơ cho chị ấy, chị ấy không biết phép.
- Không được, nghĩa là không biết phép thì tôi làm cho biết phép. Tôi có tư cách coi đường làng. Nếu tôi dễ dãi, ngộ rồi trên các cụ "trách nhiệm" tôi, thì ai ra chịu tội cho tôi.
Chị cu Sứt thấy ông quản lộ dùng những chữ việc quan để tỏ ra mình khó tính và hăng hái như vậy, thì sự thông minh bỗng vụt ngay vào trong óc chị.
Chị không khóc nữa, lấy vạt áo chùi đôi mắt đỏ hoe, rồi từ từ cởi nút giải yếm.
Liếc mắt thấy phát tài đến nơi, ông quản dịu mặt:
- Tôi vẫn biết chỗ người làng người nước, làm ra sinh mất lòng mất bề nhau, nhưng nghĩa là việc quan anh cứ phép công anh làm, ai oán thì oán.
Nói đoạn, ông lại liếc mắt lượt nữa, thấy chị cu đã nắm cái gì ở trong tay. Ông biết rằng không phải nói thêm gì. Ông đứng yên, để nhường lời cho chị. Mặt ông, lúc đó, tuy trơ trẽn, nhưng tươi lắm.
Chị nhờ người vào nhà lấy cái đĩa, rồi để đánh cạch hai mươi trinh vào, dịu dàng thưa:
- Gọi là thế, có cơi giầu biếu ông, thôi thì ông cho các bác ấy khênh bà cháu ra đồng.
Ông quản để năm đầu ngón tay vào lòng đĩa, vét một cái rất anh hùng, rồi gật đầu, hất roi:
- Thôi được!
Tiểu thuyết thứ bảy số 307; 1940
Người vợ lẽ bạn tôi
Cái lần tôi đến thăm anh Quý ở Bắc Ninh, vào hồi sáu tháng trước đây, là lần tôi thấy anh ấy đối với tôi nhạt nhẽo và ngượng nghịu nhất.
Tôi không ngờ và cũng không để ý đến thái độ ấy. Vì hai chúng tôi thân với nhau từ thuở để chỏm. Có thể nói theo lối thiếu vệ sinh nhưng đầy thi vị, là "con chấy cắn đôi".
Vì chúng tôi đã lâu mới gặp nhau, nên bao nhiêu chuyện để trong bụng bấy nay, tôi lôi hết ra để nói. Và cố nhiên, khi chuyện đã hết, tôi thấy đói. Tôi ngồi yên, ngáp vặt, đợi cơm trong buồng khách tranh tối tranh sáng. Bỗng anh Quý ngập ngừng, rồi cười và bảo:
- Này, anh ạ, cái "trống cà rùng" hồi ấy, tôi mới cho về ở đây.
Nói xong, anh lại cười, bằng cái cười chữa thẹn. Mà tôi thì sực nhớ ra.
Nguyên từ ngày Quý đổi về Bắc Ninh, anh không đem vợ đi theo nữa. Anh thường phàn nàn ở bên quê lắm việc, mà cha mẹ thì già, nên vợ anh phải ở lại để trông nom cửa nhà và đồng áng.
Bởi vậy, nghề thế, được thả lỏng, anh đâm ra chơi bời. Và không hiểu tí toáy thế nào, mà cô đầu Huệ có mang với anh.
Hồi ấy, anh có cho tôi biết. Và trong thư, anh gọi Huệ là "Trống cà rùng".
Cho nên vừa nghe ba tiếng "Trống cà rùng", tôi vội nói:
- Thế à? Đã đẻ rồi kia à?
Quý thấy tôi không tỏ ý gì, cười rõ to, vui vẻ đáp:
- Ồ, đã hơn hai tháng nay.
- Con trai hay con gái?
- Con trai. Tôi mới cho mẹ con nó về đây hôm qua.
Rồi bùi ngùi, anh tiếp:
- Bởi vì dưới ấy, nhà ở thiếu vệ sinh, mình trông thấy đứa bé mà không yên tâm chút nào. Gia dĩ, con mẹ chủ nó cứ doạ đuổi.
- Phải, làm cô đầu lại có con, thì ai người ta nuôi báo cô.
- Không phải thế. Từ ngày nó có mang, tôi vẫn phải cấp tiền. Nhưng mình thì tốn kém mà nó phải chịu rúc trong cái chái nhà ẩm thấp, tối tăm, cửa giả chả có. Nhất là từ ngày nó đẻ, tôi càng không đang tâm cho thằng bé con ở đấy.
- Thế chị ấy đã biết tin này chưa?
Quý thở dài:
- Chưa. Nhưng tôi giấu sao nổi. Nhà tôi chẳng bằng lòng cũng chẳng được.
Nói đoạn, anh đứng dậy, rủ tôi:
- Anh vào mà xem mặt thằng bé. Nó giống tôi lắm.
Tôi theo Quý. Đến buồng ngủ, tôi nhìn vào trong giường, nhưng Quý cười, bảo:
- Huệ nó len lét, cả ngày chẳng dám lên nhà trên.
Qua sân xong, chúng tôi cúi đầu cho khỏi đụng mái bếp. Đứng trong nhà mà ngọn lửa lập loè của mấy thanh củi cháy lom dom
không đủ làm cho đỡ tối, tôi bị khói làm cay cả mắt, và rất khó thở.
Tôi dừng lại để nhận kỹ. Cạnh lò, người bếp đương thổi cơm, và tận góc phản ngả mâm, một người quần áo thâm đen ngòm, ngồi bế con. Quý đến gần, đánh diêm soi vào mắt thằng bé đang ngủ say. Tôi nhìn nó, nhân tiện liếc trộm vào mặt Huệ. Người đàn bà thấy có khách lạ, lại bị ánh sáng chiếu gần, thì bẽn lẽn, cúi gầm xuống, và cũng không dám nhếch mép để chào nữa. Vì chắc người ấy không rõ tôi là bạn hay họ với Quý, và biết chào là gì.
Không muốn đứng đó để Huệ thẹn lâu, tôi quay gót đi lên. Và bảo Quý:
- Trong bếp khói quá, thở rất độc. Anh nên cho thằng cháu lên nhà trên.
Quý chán nản đáp:
- Mặc kệ, bảo mãi chẳng nghe. Biết thế, tôi không cho về đây lại xong. Vì về đây, mà cứ cả ngày chúi xuống bếp, thì cũng thế.
Tôi nói nhỏ:
- Thì buổi đầu về nhà lạ, ai chả ngượng?
- Anh bảo ngượng với ai? Cả nhà chỉ có tôi với thằng Hương, với thằng bếp, còn thẹn thò quái gì nữa?
Viết đến đây, tôi cần ngoặc dấu chua nghĩa để nói rõ rằng thằng Hương là con trai anh Quý, đã lên năm, và người làm bếp là cháu họ xa của anh, theo anh gần mười năm nay để giúp việc thổi nấu. Anh rất tin cẩn hắn, vì hắn thật thà có một. Nội tiền nong, và thìa khóa hòm, tủ, anh vẫn giao cho hắn giữ. Anh coi hắn như cánh tay phải, như người nội tướng đảm đang vậy.
Tôi hỏi:
- Thằng Hương đối với Huệ ra làm sao?
- Nó bé, đã biết quái gì.
- Thế Huệ đối với nó?
Quý tự đắc đáp:
- Huệ sợ cả từ thằng bếp sợ đi!
Vừa lúc ấy, người bếp dọn cơm lên bàn, Quý cười, chỉ vào hắn và nói:
- Chẳng tin, anh cứ hỏi nó mà xem.
Người bếp vui sướng, khoe:
- Thật đấy, thưa cậu. Cô ấy vâng cả với con. Con bảo mãi mà cô ấy vẫn cứ quen mồm. Cô ấy chả dám nhờ con làm việc gì cả. Lắm lúc con rỗi, thấy cô ấy vừa bế em vừa đun nước pha sữa, con tranh làm hộ, nhưng cô ấy nhất định không nghe. Bất đắc dĩ, muốn bảo con làm việc gì, thì cô ấy đến tận nơi, khẽ nói: "Anh làm phúc chịu rầu hộ tôi việc này, việc nọ". Ăn cơm, cô ấy cũng mời con một cách lễ phép.
Tôi cười nói đùa:
- Phải, bởi vì anh là một nhân vật quan trọng trong nhà này.
Bữa ăn ấy, Huệ không dám ngồi với chúng tôi. Người đàn bà địa vị kém cỏi ấy không rời ra khỏi xó bếp. Vì chắc chị ta tự xét chỉ xứng đáng với nơi thấp hèn ấy mà thôi.
Cách đó hai tháng, một hôm tôi có việc phải qua Bắc Ninh. Nhân tiện, tôi vào thăm anh Quý.
Nhưng lúc ấy, cả Quý lẫn Huệ và người bếp cùng không có nhà. Tôi hỏi thằng Hương về em bé nó, thì nói nói:
- Vú em bế sang chơi nhà bên cạnh.
Tôi chờ trong chốc lát. Bỗng có chiếc xe đỗ phịch trước cửa. Một người đàn bà mở ví tay lấy tiền trả xong, thoăn thoắt mở cửa bước vào. Tôi biết ngay là Huệ, vì còn nhớ mặt, dù lần trước mới thoáng trông trong bóng tối.
Huệ hôm nay không phải là Huệ hai tháng về trước. Huệ hôm nay hoàn toàn là một thiếu phụ tân thời, vợ ông phán trẻ.
Chị ta thấy tôi, cúi đầu xuống chào, và nói một cách bạo dạn:
- Bác mới sang chơi? Nhà em cũng sắp về.
Đoạn Huệ vào buồng ngủ. Tôi để ý, thấy tiếng loẻng xoẻng chùm thìa khoá, và tiếng cánh cửa tủ kẹt mở và đóng đánh sình. Đoạn Huệ gọi bằng tiếng lanh lảnh:
- Vú em ơi!
Không thấy ai đáp, chị ta gọi:
- Hương! Vú em đâu?
- Thưa dì, vú ấy ở bên bà đốc ạ.
- Gọi vú ấy về đun nước bác xơi chứ? Con nhà, chẳng biết gì cả?
Rồi Huệ vui vẻ chạy ra nói với tôi:
- Thưa bác, chúng nó đoảng quá. Bác miễn trách cho. Cả thằng bếp nữa, đi tám nhăm trống canh chưa về!
Hôm ấy, thật tôi rất ngạc nhiên về sự thay đổi từ cử chỉ cho đến cách ăn nói của Huệ. Tôi không thấy tăm bóng người đàn bà sợ sệt, len lét ngồi dưới bếp nữa. Tôi chỉ thấy một người hợm hĩnh, cố khoe tài nội trợ. Người ấy mắng vú em không coi nhà, sai đầy tớ quạt than để là quần áo, và xuống bếp làm giúp đồ ăn. Rồi khi người bếp bưng cơm ra buồng khách, thấy tôi, anh ta ngó cổ vào trong nhà. Khi yên trí rằng không có ai, anh ta mới đứng cạnh tôi, thở dài, bĩu môi, thì thầm than thở:
- Động có khách lạ đến, là làm ra dáng chăm chỉ lắm. Còn lúc không, cả ngày chỉ nằm ăn vạ trên giường để nhổ vặt. Đến nỗi con cũng không nuôi nổi, phải thuê vú em. ấy thế mà còn đài các, lắm lúc mắng vú em như tát nước vào mặt. Thưa cậu, cậu con bây giờ ăn ở khác lắm, không được như trước nữa. Cậu con cả nghe cô ấy lắm, nhiều lần mắng cả anh Hương lẫn con. Ngày trước, nói đến cô ấy, cậu con vẫn gọi là nó, và dặn con nên trông nom cửa nhà cẩn thận, kẻo cậu con không tin cô ấy đâu. Thế mà bây giờ đã giao thìa khoá tủ cho rồi. Con tính nay mai cậu con đưa nốt lương tháng cho cô ấy chi tiêu nữa, là cửa nhà tan nát.
- Thế mợ phán đã biết cậu có vợ lẽ chưa?
- Cũng đã có người nói đến tai. Mà từ lúc cô ấy hỏi dò, biết mợ con hiền lành, thì lại càng giở ra nhiều cái nực cười. Cô ấy làm nũng cậu con, có ý giữ cậu con, chẳng muốn cho đi lại chơi bời với ai. Thỉnh thoảng, đối với con, cô ấy cũng không coi vào đâu. Tưởng chừng như cô ấy muốn coi con như hạng đầy tớ khác. Từ ngày cô ấy về, cậu con không tin cậy con như trước nữa. Mà con làm việc gì, có cô ấy xen vào, con thấy khó chịu lắm. Hình như cô ấy tước cả cái tự do của con vậy.
- Cô ấy thay đổi chóng lắm nhỉ.
- Vâng. Trước kia ai chẳng tưởng cô ấy chỉ cả ngày loanh quanh dưới bếp, sợ hãi từ con trở đi. Chứ có ngờ đâu. Nhưng độ một tuần, cô ấy đã mon men hay lên nhà trên. Rồi đi đứng, nói năng quen đi, không ngượng nghịu nữa. Và đã mấy lần có bạn đến, cô ấy tiếp, nhưng chỉ thì thầm với nhau trong buồng trong. Cô ấy có dám ló mặt ra đến phố đâu. Mà động thấy có ai lạ vào nhà, là thụt cho mau xuống bếp. Nhưng dần dần, độ ngoài một tháng, thì khi vắng cậu con, cô ấy đã mời khách ngồi ở xa lông, nói năng, cười đùa rầm rầm. Song cô ấy sợ con mách, nên nói lót, ngọt ngào lắm. Bây giờ thì bà ấy công nhiên mời khách ngồi ghế bành thả cửa, dù cậu con có nhà cũng vậy. Và thỉnh thoảng lại sĩ diện, quai mồm ra gọi "Bếp ơi!". Con hầu cậu con, chứ con việc gì phải làm đầy tớ đồ đĩ ấy. Con chẳng ra gì cũng là cháu cậu con. Con gọi cô ấy là cô đã là quá đáng. Vì con sợ cậu con mà nhận cô ấy là vợ lẽ, chứ bất quá cô ấy chỉ ngang hàng với con là cùng!
Bữa cơm hôm ấy, Huệ cùng ngồi ăn với chúng tôi. Nàng cử chỉ lễ phép, không dám nói chuyện, chỉ thỉnh thoảng săn sóc cơm nước, sai bảo người bếp một cách ngọt ngào mà thôi.
Nhưng hôm nay thì không thế nữa.
Hôm nay, vì anh Quý viết giấy mời tôi về Bắc Ninh để anh hỏi ý kiến về chuyện gia đình, nên tôi đến thăm anh.
Anh nhờ tôi nuôi thằng Hương để dạy dỗ nó, nói thác rằng nó mến tôi, chỉ đòi được ở với tôi. Nhưng tôi biết thừa là thằng bé khốn nạn đã nhiều lần bị vợ lẽ của cha đánh đập tàn nhẫn.
Khi tôi hỏi sao người bếp không ở với anh nữa, thì Quý còn tức giận, đáp:
- Anh tính, bạc ác đến nó là cùng. Nó đi theo tôi từng ấy năm. Trước kia tôi giao cả tiền nong cho nó, mà có một lần, nó nỡ ăn cắp của tôi.
- Anh bắt được?
- Bà cụ nhà tôi, à, bà đẻ ra Huệ ấy mà, rình bắt được. Chứ tôi tin nó quá, nên không ngờ.
Lúc ấy, Huệ ở nhà trong, chạy ra, nói xen vào:
- Vâng, nó lấy của nhà tôi hai chục, giấu trong hòm. Thì ra trước kia, giá nhà tôi có bị nó rút ruột rút gan bao nhiêu cũng không biết.
Quý nhìn vợ, cười nhạt, rồi nói với tôi:
- Cho nên tôi phải giao tiền nong cho nhà tôi giữ. Mình thì bận, còn có lúc nào để mắt đến hết mọi việc được.
Huệ nói:
- Rồi, thưa bác, muốn chừng biết từ nay không thể xơ múi gì nữa, nó mới chán cảnh, và cứ sinh sự với tôi. ấy, đi ăn đi ở mà cứ hỗn với chủ nhà, thì bác tính còn trời đất nào nữa. Tôi mới bảo nhà tôi đánh cho một trận và tống đi.
Thấy Huệ nói giọng lên bộ quá, tôi hiểu tất cả ẩn tình. Đầy tớ trung thành bị đuổi, con rứt ruột phải xa lìa, không rõ Quý có hiểu hiện gia đình anh đương bị một cuộc ngoại xâm ghê gớm hay không? Nhưng vẫn không thấy tình thế nghiêm trọng, anh còn khoe thêm rất tự đắc:
- Bây giờ tôi nuôi thằng bé này, cũng như thằng bếp trước, vì nó là người làng nhà tôi đây. Nó ngoan lắm.
Tôi cười nhạt, không trả lời.
Tôi muốn nói cho Quý rõ về thực trạng gia đình anh. Muốn chừng Huệ hiểu ý. Cho nên, khi ăn cơm xong, như mọi lần, tôi rủ Quý đi chơi phố. Song, thoáng thấy Huệ đưa mắt cho chồng, thì Quý ra ý ngần ngừ, khó chịu. Nhưng đồng thời, người thiếu phụ kêu khó ở, vào buồng nằm.
Quý theo Huệ vào một lát, rồi lúc ra, anh cố tươi cười để lấy lòng tôi, và nói:
- Nhà tôi nó mệt, anh cho đến khi khác.
Tôi biết Quý không còn khi nào để có thể đi chơi với tôi. Vì cả đến cái tự do của anh cũng bị cô vợ lẽ chiếm nốt. Hẳn từ nay, tự nhiên hoàn toàn anh bị tước quyền làm chủ nhân ông.
Thì ra ở đời, mỗi khi nước nọ xâm chiếm nước kia, cuộc chinh phục về mặt kinh tế, về mặt chính trị, cũng đi dần dần từng bước nguy hiểm như vậy.
Tôi đã thấy bao nhiêu ca thế rồi.
PTBNS số 48; 1-12-1939
Oẳn tà roằn
- Anh Phong, thế anh định bỏ chết tôi à? Không trách người ta bảo đàn ông bạc tình, có oan tí nào đâu! Tôi vì nghe anh dỗ ngon dỗ ngọt, nào những là lấy nhau, nào những là ăn đời ở kiếp cùng nhau... Từ đó đến nay, tôi dốc một lòng chờ đợi, ai đến dạm hỏi, tôi cũng kiếm cớ thoái thác. Vì tôi đã trót hứa cùng anh. ấy thế mà anh quyết tình giở mặt. Hẳn anh cũng biết tôi chỉ là quá dại dột mà nghe anh, nên mới mang vạ vào mình. Anh nghĩ sao cho vuông tròn thì nghĩ...
- Cái bụng Nguyệt vài tháng nữa thì tròn bằng cái thúng, Nguyệt còn phải cần gì đến tôi nghĩ nữa!
- Tôi không nói đùa! Nếu anh không làm hại tôi, thì làm gì tôi không lấy được người chồng tử tế.
Lúc bấy giờ, ở bờ hồ Hoàn Kiếm, mảnh trăng ngọn gió như khơi động tâm tình gió trăng. Nguyệt và Phong lững thững bước vào cầu Thê Húc.
Hai vẻ mặt cùng lo, nhưng hai cái lo khác nhau. Nàng vì quá nhẹ dạ, nên phải nặng lòng, cái khối lo nó đương nằm co ở trong bụng. Chàng lo vì vô tình định thoả bụng muốn, bây giờ phải cố tình đẩy cái không muốn ra.
- Thế có chắc Nguyệt chửa với tôi không?
- Này, năm nay tôi mới mười tám tuổi đầu, sao anh đã đổ bậy, đổ bạ cho tôi cái tiếng khỉ gió ấy! Anh hỏi tôi chửa với ai à? Rồi nó giống ai, nó máu mủ ai, thì anh biết. Tôi con nhà trâm anh, anh cũng con nhà thế phiệt, vì một lời giao ước, nên tôi mới quá chiều anh. Tuy tôi chưa là vợ anh, nhưng cũng như là vợ, nên tôi dốc một lòng chung thủy, thì chữ trinh tôi giữ nguyên cho anh. Nếu bây giờ tôi loan chung phượng chạ thì đây này, tôi sẽ chết như thế này này!
- Đừng thề độc, lỡ chết thật thì oan!
- À anh nhiếc tôi mãi. Thôi, đồ bạc tình! Anh buông tôi ra!...
- Này, cầm lấy cái này.
- Cái gì đấy?
- Lọ thuốc thôi thai, Nguyệt uống nó vào, cho cái thai ra, thế là mất tích.
- Eo ơi! Anh nói mà tôi ghê cả mình! Nếu anh cố tình giết cả hai mẹ con tôi, thì đây này, tôi liều chết ngay trước mặt anh, cho anh trông thấy. Anh buông tôi ra. Trời ơi! Ngờ đâu hồ Hoàn Kiếm này chỉ là mồ hồng nhan!
Nàng giật tay ra, chạy lại mé đầu cầu. Phong vội chạy theo, níu vạt áo lại:
- ấy chết! Chớ chớ! Tôi thử Nguyệt đấy mà!
- ...!
- Này em ơi!
Nguyệt gục đầu, ôm mặt, hu hu khóc...
- Nguyệt ơi! Em chớ lo, anh vẫn biết Nguyệt là người chung tình với anh, Nguyệt không phải phiền lòng. Cái thai trong bụng Nguyệt là con anh, là con Nguyệt, Nguyệt cứ yên tâm. Anh thề rằng sẽ chu toàn danh tiết cho Nguyệt. Đến ngày khai hoa, anh sẽ đưa Nguyệt sang nhà hộ sinh tỉnh Bắc Ninh. Sau khi mẹ tròn con vuông, anh sẽ tính cuộc trăm năm với Nguyệt.
- Này đừng nỏ mồm!
- Em đừng mắng anh mà oan! Thôi, em cứ đi về...
- Tôi không về đâu cả. Sống gửi thác về, mả tôi đây rồi!
- Anh van Nguyệt, nếu anh không giữ được lời hứa, xin nguyện trời tru đất diệt! Em cứ về, cứ yên lòng...
Nàng lau mắt, khẽ gượng đứng dậy, gọi xe về nhà.
Phong vừa đi vừa nghĩ:
"ừ, suýt nữa mình gieo cái vạ tầy đình, giết cả hai nhân mạng. Giá một mình con Nguyệt nó tự tử, thì mặc quách nó, nhưng lại đèo cả đứa con ta ở trong bụng nó!... ừ, tính tháng, tính ngày, quả nó có mang với ta... Vậy đợi lúc nó đẻ, ta lấy con về nuôi, còn việc trăm năm với nó thế nào ta không nên nghĩ trước".
- Chết chửa! Thế mợ định uống thuốc thôi thai thật đấy à?
- Cậu tính tôi mới có mười tám tuổi đầu, chồng con chưa có, mà chửa hoang, thì còn xấu gì bằng!
- Chà, việc gì mà xấu, sự xấu tốt đối với phong trào dư luận xã hội như làn khói trước ngọn gió to, chỉ đánh loáng là không ai trông thấy nữa. Thế thì dư luận có gì là đáng sợ? Vả lại tôi hiếm hoi, lấy nhà tôi ngót hai mươi năm giời, con cái chưa có, thì mợ cứ yên lòng, sau khi ở nhà hộ sinh ra, tôi sẽ thu xếp để mợ với tôi ăn đời ở kiếp.
- Tôi cám ơn cậu! Cậu hơn tôi bốn chục tuổi đầu, tôi mà lấy cậu thì người ta cho là bố lấy con. Vả vợ cả cậu như con sư tử cái, lẽ nào lại để yên cho cậu thương tôi. Cậu cứ mặc tôi, để tôi tự xử, cậu không cần nghĩ đến. Bao nhiêu việc, tôi đã định sẵn, tôi đành uống thuốc để giữ cho vuông tròn tiếng tăm. Vả tôi là con nhà thi lễ, mơn mởn đào tơ, làm gì không lấy được chồng ông nọ ông kia, can chi vội vàng mà vơ quàng vơ xiên vội.
- Mợ nói thế, tôi đau lòng quá. Mợ phải hiểu cho rằng cái thai trong bụng mợ là đứa con sau này của đôi ta.
- Nếu cậu có thương con cậu, thì mai, tôi xin gửi lại giao trả cậu.
- Chết nỗi! Tôi xin mợ.
Luồng nước cuồn cuộn dưới sông, hàng cột ù ù trước gió, dây sắt cầu như dăng mắc mối tơ tình. Trên cầu sông Cái, Nguyệt đứng thừ ra, tựa tay vào lan can, mặt nhìn làn sóng lềnh bềnh trước mặt. Bắc vểnh bộ râu ghi đông, nét mặt ra dáng van lơn lo lắng.
- Nào tôi có phải ăn ở bạc tình với mợ đâu mà mợ nỡ dứt lìa thế?
- Tôi cũng biết vì tôi đối với cậu chung tình, nên cậu đối với tôi trung hậu, nhưng tôi không thể nào đeo mo mà sống ở đời được.
- Sao mợ lại bảo là đeo mo? Vẫn biết rằng đàn bà quý giá ở chữ trinh, nhưng mợ có phải là gái thất trinh đâu? Vì mợ quá yêu tôi, quá chiều tôi, nên đến nay đeo đẳng khối tình cùng tôi. Vậy rồi sau, tôi nuôi con, lại cưới mợ về làm vợ. Làm người vợ, cần giữ chữ trinh với chồng. Mợ chung tình với tôi từ trước đến nay, thì đối với riêng tôi, mợ vẫn chu toàn được chữ trinh. Vậy cớ làm sao mà phải nghĩ? Nếu tôi bạc tình cùng mợ, toan bỏ lửng mợ, thì mợ mới đáng hờn duyên tủi phận chứ!
- Thôi tôi xin cậu, tôi nào dám tin cái mồm mép đàn ông!
- Nếu tôi ăn ở như kẻ khác, xin thề rằng ngọn đèn điện này tắt, tôi cũng chết.
- Thề! Thề cá trê chui ống! Cậu buông tôi ra, tôi xin gửi thân tôi cho Hà bá dưới sông này.
- Mợ định tự tử? Nếu mợ chết, tôi xin chết theo ngay.
- Khổ lắm, cậu kệ xác tôi! Tôi không tin ai ở đời này nữa! Những cái mặt nhẵn nhụi trơn tru, nhưng toàn là bụng ba que xỏ lá cả. Tôi vì dại dột mới nên nông nỗi này.
Một cái ô tô sình sịch qua, chiếu hẳn ánh sáng vào mặt Bắc, trông rõ cái nét nhăn nhó, cặp mắt gấp gay.
- Mợ ơi, mợ yên lòng. Mợ nên hiểu tôi, đừng phụ bụng tôi, bởi tôi biết bụng mợ lắm. Vả dĩ, bấy lâu tôi khao khát chút con để sau này nó chống gậy cho tôi, nối dõi tông đường cho nhà tôi. Nếu nay mợ quyết tình giết cả mợ lẫn con, tôi sẽ phải âu sầu ân hận suốt đời.
Nguyệt bưng mặt khóc, Bắc lấy vạt áo chùi nước mắt hộ và dỗ:
- Mợ ơi! Tôi đã theo lời mợ là đến ngày mợ đẻ, thì sang nhà hộ sinh tỉnh Bắc Ninh mà nằm cho êm tiếng. Bây giờ, chỉ cần mợ giữ cái bụng cho kín đáo. Mợ đẻ xong, tôi nuôi lấy con.
- Thế rồi cậu bỏ tôi bơ vơ?
Bắc nhăn mặt, giậm chân:
- Khốn nạn, cho tôi nói hết câu đã. Tôi lạy mợ! Tôi tính việc xin cưới mợ sau.
Nguyệt thở dài.
- Mợ đã bằng lòng như thế chưa?
Nguyệt đưa tay lên miệng, cắn móng tay út, không trả lời, ra dáng nghĩ ngợi.
- Mợ ừ đi, mợ đừng uống thuốc thôi thai nữa, phải tội đấy!
- ....
- Mợ cứ yên bụng cho tôi được yên lòng. Mợ ừ đi!
- Ừ!
Hai người lững thững đi, gặp hai cái xe, liền thuê về nhà. Lúc sắp ly biệt, Bắc còn dặn với một câu:
- Mợ yên dạ, cho tôi yên lòng nhé!
- Ừ!
- Bà đẻ con so hay con rạ?
- Thưa bà, con so.
- Bà nên nói thực, thì tôi mới liệu được. Tôi xem bụng bà, hình như đẻ con rạ thì phải hơn.
- Thưa bà, thực tôi đẻ con so.
Đó là lời bà đỡ nhà hộ sinh cùng nói chuyện với Nguyệt. Bà đỡ ngợ quá, hỏi vặn:
- Mọi khi những người đẻ con so thì da bụng cứng và có ngấn vằn đỏ. Người đẻ con rạ thì da bụng mềm, mà có ngấn vằn trắng. Nay tôi xem bụng bà, quả là bà đẻ con rạ. Phép nhà thương không nên nói dối, lỡ ra nguy đến tính mệnh, chứ chả chơi đâu.
- Thưa bà, xin bà kín cho, tôi đẻ con rạ!
- Vâng, bà nên nói thực thế mới phải. à, ông nhà ta tên là gì? ở đâu?
- Thưa, cậu cháu tên là Nguyễn Văn Tình, đã mất năm ngoái, sau khi tôi có mang được vài tháng.
- Tội nghiệp! Thế ông mất, bà có mang được mấy tháng?
Nguyệt luống cuống nói chữa:
- À, thưa bà, cậu cháu mất năm nay ạ. Mới mất tháng tư, mà tôi có mang từ tháng giêng.
- Bà cũng chỉ độ tối hôm nay thì trở dạ thôi. Bà cứ nằm nghỉ yên. Lần trước bà ở cữ, trai hay gái?
- Thưa bà, cháu gái.
- Nay cháu biết làm gì rồi?
- Thưa bà, tôi sinh cháu được vài hôm thì bỏ cháu.
- Thế bà đẻ dễ hay khó!
- Thưa bà, dễ ạ.
- Được, vậy bà cứ nghỉ yên để lấy sức.
... Ngày chủ nhật, sau khi Nguyệt đẻ, có mấy bọn người ở Hà Nội sang, vào nhà thương thăm.
Bọn trước, hai công tử ăn mặc tây, đúng mốt quần thụng đỏ, áo cộc xanh, ở trong gian Nguyệt nằm bước ra, bưng miệng, rúc rích nhìn nhau cười, thì thào:
- Hú vía! Tao tưởng con Nguyệt nó chửa với tao, tao sợ quá!
- Tao chả ngờ nó chửa với mày, nhưng tao thấy mồm thằng bé giống mồm tao, tao đã giật mình. Nó ăn vạ tao, thì tao bỏ mẹ! May được cái nước da thằng bé nó minh oan cho tao.
Hai người vừa đi khỏi thì Phong đến. Phong ẩy cửa lại gần Nguyệt, hỏi:
- Trai hay gái?
Nguyệt trả lời khẽ:
- Trai.
- Thế à? Mợ có mạnh không? Có ăn được không?
Nguyệt thừ mặt ra, không đáp.
- Mợ làm sao thế?
- ....
- Cho tôi bế con một tí.
- Không bế!
- ái chà! Mẹ cu làm bộ.
- ...
- Con ngủ à! Mặt giống cậu hay giống mợ?
- ....
- Công tử rúc mãi vào nách mợ! Ra đây cậu yêu tí.
- Yên!
Phong mở cái lót trùm đầu thằng bé ra. Nguyệt nhắm nghiền mắt lại.
Khi nàng mở mắt, đã thấy Phong len lén cút từ bao giờ rồi.
Lúc bấy giờ, Bắc ôm một bọc to tướng đến nhà thương. Nhưng khi ở ngoài cửa kính, Bắc thấy có người đến thăm Nguyệt, thì ngờ là họ hàng, không dám vào vội. Chàng vừa đi bách bộ, vừa liếc mắt vào trong. Chàng đã hút hết điếu thuốc lá rồi, nhìn hết các nhà cửa, cây cối rồi, mà người họ vẫn chưa về. Một lúc thấy kẹt cửa, bụng chàng mừng lắm. Chàng nhìn theo hút người ấy, đến khi thấy rẽ hết phố, mới dám vào.
- Chào mợ! Trai hay gái?
- Trai.
Bắc lộ ra nét mừng rỡ, vui vẻ hỏi:
- À! Ai vừa vào đó?
- ...
- Mợ mệt à?
- Không!
- Mợ có ăn được cơm không? Có mạnh khoẻ không?
Nguyệt thở dài, Bắc mở bọc, lấy ra nào rượu bổ, nào sữa bò, nào vú cao su.
- Con có cứng cáp không? Mợ có nhiều sữa không?
- Yên cho tôi nằm nghỉ.
- Cho tôi bế con một tí, nó giống tôi hay giống mợ?
- Im cho nó nằm.
- Ơ hay! Mợ giận tôi đấy à?
- Không!
- Bao giờ mợ định về?
- Không biết.
Nguyệt thở dài mãi, thằng bé con ở trong bọc, cựa cạy, tiếng nhoe nhoe.
- Dậy với cậu, con!
- Yên cho nó ngủ!
Thằng bé vẫn khóc. Cái lót trùm đầu nó xê ra ngoài. Bắc lật ra xem mặt con:
- Cậu đây, nín đi!
Nguyệt nhắm nghiền đôi mắt lại, vắt tay lên trán để che mặt. Bắc nhìn kỹ cái tóc, cái mặt, cái mũi con... Rồi giở bọc ra ngắm cả người thằng bé... Ngắm xong, bọc cẩn thận trả lại, chàng từ từ lui ra, thở dài một cái rõ dài, nét mặt thất vọng.
Té ra thằng bé con chàng mà nước da lại đen như cái cột nhà cháy! Vậy nó không phải con Rồng cháu Tiên. Nó là giống "Oẳn tà rroằn" không biết chống gậy.
PTBNS số 13; 1-12-1937.
Phành phạch
Nghe thấy chiếc đồng hồ treo thong thả điểm mười tiếng, bà uể oải sờ trên đầu giường, ấn ngón tay cái vào núm quả lê bấm chuông, rồi lại uể oải đặt phịch cánh tay xuống. Trời oi bức làm cho người ta mệt nhọc, chán nản và lười biếng.
Mấy hôm nay, nhờ trời, dân Việt Nam ta không phải phàn nàn rằng nước ta kém nực. Gớm ghiếc! Nóng đâu lại có nóng thế! Suốt ngày, ánh nắng rọi xuống, làm cho đất trắng xoá, nẻ kẽ, lá cây gục lả như sắp chết khát. Thỉnh thoảng, trận gió tây nổi lên, hắt hơi lửa vào mặt. Buổi tối thì im gió, nên khí nóng cứ lẩn quất một nơi. Quạt đến rã cánh tay, chẳng qua chỉ đổi hơi bức chỗ này lấy hơi bức chỗ khác.
Bởi vậy, ai kia, chứ bà thì thấy khổ lắm. Bà bứt rứt, khó chịu, nhiều lúc muốn vứt phăng cả chân tay đi, tưởng chừng như thế thì đỡ vướng víu. Bà rửa mặt, lau mình cả ngày, mà da vẫn nóng hầm hập. Bà bới tóc ngỏng lên tận đỉnh đầu, ngồi ngửa bụng ra, chống hai tay lại đằng sau mà thở. Nhiều lúc, ngó thấy trời xanh ngăn ngắt, bà phịu cả đôi môi dày và ướt, cau có nói:
- Lạy bố, thế này thì đến chảy mỡ ra mất!
Buổi tối, bà không thích đi đến những nơi thoáng khí để hóng mát. Phải vạ mà đánh phấn, mà bôi môi, mà đóng áo dài vào! Nực lắm và phiền lắm! Vả trời này, chắc gì kiếm được một nơi có tí gió để đứng? Chi bằng nằm trong buồng, tắt đèn đi cho nó có vẻ dịu mát, mở tung hai cánh cửa chớp, rồi vặn quạt máy vù vù. Như thế, may bà còn chợp ngủ được tị nào chăng. Mấy hôm nay, bà lủng củng suốt đêm.
Vậy thì bà nằm đó. Nhưng thoạt trông đố ai dám bảo là một người. Nếu người ta chưa nom rõ cái mặt phị, cái cổ rụt, cái thân nung núc, và bốn chân tay ngắn chùn chùn, thì phải bảo là một đống hai ba cái chăn bông cuộn lại với nhau, sắp đem cất đi. Thật thế, bà béo lắm, một cái béo rất hùng vĩ, ít ai có thể tưởng tượng được. Mùa hè, ai trông thấy bà mà không phát ngấy thì tôi không phải là người.
Bà bấm chuông để gọi con Đỏ con, vì đã mười giờ rồi.
Quả nhiên, con Đỏ con chưa dám ngủ. Nó thức để chờ bà gọi. Xong việc, nó mới được yên thân. Nó lừng lững lên, tay phe phẩy chiếc quạt giấy. Nó lên quạt hầu bà.
Bà cắt cho nó việc ấy, thật là bà đủ lòng nhân đạo đối với một con bé ở mười hai, mười ba tuổi đầu. Phải, còn gì nhẹ nhàng cho bằng việc ngồi yên một chỗ, cầm chiếc quạt khẽ đưa đi đưa lại. Bà đã vì thương người mà nuôi cơm không cho nó là tốt. Chứ ngữ ấy, cơm chẳng biết thổi, nước chẳng biết gánh, quần áo chẳng biết giặt, nếu chẳng xin ở công không để kiếm miếng ăn, tất chỉ có đi ăn mày. Con Đỏ con, cả ngày, chỉ có việc bế anh, rồi làm phụ dưới bếp. Rồi đến khi anh ngủ, có chuông bà gọi, thì lên quạt hầu bà. Bà có khiến nó làm việc gì nặng nhọc quá sức nó nữa đâu?
Con Đỏ con mới được bà nuôi ngót một tháng, nên nó vẫn còn gầy còm lắm.
Nó đến mé tường, rút cái núm truyền điện để tắt quạt đi. Nó thuộc chỗ và làm thạo lắm. Bà dạy nó và bắt nó thử đi thử lại hai ba lượt cho quen tay. Bà lại dạy nó rằng gió quạt điện chí độc, lỡ ra ngủ quên ở trước quạt máy, có khi thành bán thân bất toại, chứ chẳng chơi đâu. Vả bà cũng sợ để lâu thì hại quạt và tốn tiền điện.
Con Đỏ con cuộn dây quạt, đặt lên mặt bàn. Rồi nó khẽ nâng chiếc ghế đẩu, đặt thật nhẹ xuống gạch, ngay bên giường bà nằm. Nó ngồi lên, và mở to chiếc quạt giấy, phẩy phành phạch vào phía bà.
Bà nằm sấp, chân co, chân duỗi, úp mặt xuống, nhắm mắt sẵn, thỉnh thoảng giục:
- Mạnh vào một tí.
Con Đỏ con ngồi thẳng lại như để lấy hết gân sức, để quạt phành phạch vào bà. Lưng áo lụa của bà phồng lên như cánh buồm. Nhưng nó thì nực lắm.
Trong buồng im phăng phắc. ánh đèn phố lẳng lặng chiếu qua hai chiếc cửa sổ có chấn song sắt. Người đi ngoài đường vãn dần. Sự tĩnh mịch của đêm khuya ru người ta vào cõi mộng.
Dần dần, con Đỏ thấy mỏi tay và buồn ngủ. Nó tựa lưng vào tường và quạt yếu đi. Lúc ấy, bà cũng đã thiu thiu.
Nhưng bỗng bà giật mạnh chân và giãy luôn mấy cái. Bà kêu:
- Trời, sao mà nóng khổ nóng sở thế này!
Con bé giật mình, sực tỉnh. Nó lấy hết gân sức để quạt phành phạch.
Bà xoay nằm ngửa, dang cả hai tay lẫn hai chân cho thoáng. áo và quần bà phần phật, bay như sóng gợn.
Một lát, bà thở đều đều. Cánh tay con Đỏ con đưa đi đưa lại mỗi lúc một yếu. Nó gật giúi giụi. Mấy lần suýt ngã.
Bỗng đồng hồ nổi tiếng chuông. Trong lúc ngủ gà ngủ vịt, nó đếm một, hai ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một. Nó ngẩng đầu dậy, mở to mắt ra, nhìn bà. Nó thấy bụng bà phập phồng. Nó đổi tay để quạt cho mạnh. Nó nhìn cái tủ gương, ngọn đèn điện, chiếc quạt máy cho vui mắt, đỡ buồn ngủ.
Nhưng không buồn ngủ sao được? Ngồi luôn một chỗ và làm một việc trong lúc đêm khuya thanh vắng lại tối đèn, đố ai mà không chán, không mệt, không buồn ngủ? Bởi thế, con Đỏ con như thấy chiếc quạt và đôi mi mắt nặng trĩu. Nó phe phẩy chậm, chậm dần... chậm dần. Rồi nó ngoẹo đầu, cánh tay lả xuống, không cử động nữa. Vậy mà nó vẫn mê thấy nó quạt luôn luôn.
Thấy tiếng bà gọi, nó choàng dậy, và phành phạch rõ mạnh. Mồ hôi nhễ nhại, đầm cả áo nó. Bà cựa. Bà nghiêng mình, quay mặt vào tường, nên thỉnh thoảng nó quạt trộm vào nó một cái.
Đồng hồ điểm mười hai tiếng. Con Đỏ con cựa mình, ngồi lại cho đỡ mỏi, rồi quạt phành phạch thật mạnh.
Nó mong mãi bà không cho nó đi ngủ.
Nhưng bà nực, bà không ngủ được. Bà chỉ chợp mắt được độ dăm phút là cùng. Vừa thấy ngọn quạt phảy không đều tay, bà đã cựa, và giục:
- Mạnh lên, mày!
Con Đỏ con mỏi lắm rồi. Nó ê ẩm cả người. Nó cố mở mắt ra, mà hai mí cứ muốn cặp díu lấy nhau. Tay nọ đổi tay kia, nhưng rút cục hai tay cùng rã rời. Nó cứ phải quạt mãi.
Nhưng rồi chẳng đủ sức để chống được giấc ngủ, nó gục đầu, đánh rơi tay, đánh rơi quạt. Nó ngủ...
Lúc ấy, đang được thiu thiu, bỗng bà thấy mồ hôi chảy ra, bà biết con ranh con đã ngủ. Bà ngóc dậy, quệt dòng nước dãi chảy ròng ròng xuống má, bà nhìn vào tận mặt nó. Rồi đưa tay ra, bà giúi cho nó một cái thực mạnh. Rồi lại nằm xuống. Con bé bàng hoàng, mở mắt, luống cuống. Nó cúi nhặt quạt, vội vàng phảy phành phạch vào mặt bà. Bà cởi một khuy áo ngực ra để hưởng lấy gió mát.
Tiếng gà xa xa gáy theo nhau. Rồi một lát, đồng hồ đánh một tiếng. Nó vẫn phải quạt. Chưa xong việc, nó chưa được nghỉ tay. Nhưng nó buồn ngủ lắm rồi. Bởi vậy, mỗi khi nó thấy sắp ngủ, nó phải cố sức tự đánh thức nó, và quạt rõ mạnh: Phành phạch! Phành phạch!
Giọng mệt nhọc, bà khen:
- Ừ, con này giỏi.
Rồi bà cựa mình, quay mặt lại nó. Bà duỗi cánh tay đến gần nó, để mỗi khi thấy nó uể oải, thì đập vào nó một cái.
Hình như khí trời đã bắt đầu dịu.
Nó quạt luôn luôn trong độ mười lăm phút thật mạnh và thật đều tay.
Bà mát, dễ chịu lắm. Nó mệt, khó chịu lắm. Bà mơ mơ màng màng. Lần này có lẽ bà ngủ được yên. Nó cũng mơ mơ màng màng. Lần này nó không thể thức hơn được nữa. Quả nhiên bà ngáy hơi to. Nó không biết bà ngủ, song, tự nhiên tay nó đưa thong thả dần, rồi như chiếc đồng hồ hết dây, tay nó không phe phẩy nữa.
Bà ngủ say, quên cả nực, đánh một giấc đến sáng.
Nó cũng thiếp đi... Đầu gục, hai cánh tay đờ ra, nó ngủ ngồi trên ghế cho đến khi ánh nắng gay gắt bắt đầu rọi vào buồng.
PTBNS số 48; 1-12-1939
Răng con chó của nhà Tư sản
Lúc ấy, độ sáu giờ chiều. Một cái ô tô đằng xa chạy lạị ánh sáng hai ngọn đèn pha chiếu tóe đến chân trời. Xe qua cầu, đến trước cái nhà tây có giậu sắt thì còi bóp ran như ếch kêu và dừng lại. Khi ô tô chưa đỗ hẳn, thì đã thấy con chó nhảy vọt từ trên xuống đất, ngoe nguẩy đuôi vừa sủa, vừa chồm lên hai người đương bước xuống. Hai người đó, một người là chủ nhà này, còn một người là khách.
Đèn xe tắt. Cửa xe đóng. Chủ khách bước vào nhà. Họ đều âu phục, mặc lối đi săn, trên đôi ghệt còn bê bết những bùn, vai đeo súng, tay xách xâu chim nặng trĩụ Con chó chạy trước, vừa chạy vừa quay cổ lại, vừa vẫy đuôi, vừa ẳng.
Chủ mời khách vào xa lông. Buồng này bày biện đúng kiểu tân thời, toàn đồ bằng gỗ lát đánh bóng nhoáng. Tường nhà quét vôi xanh, gạch chỉ xanh, lại được ngọn đèn măng sông ánh sáng cũng xanh xanh. Cứ trông buồng khách, cũng đủ đoán tất ông chủ nhà này là một nhà giàu, ăn chơi lịch thiệp.
Bà chủ vừa trang điểm xong, ra ngồi đó để tiếp khách. Trên chiếc ghế thứ tư, con chó nhảy tót lên, ngồi chồm chỗm, thè lưỡi, nhìn hết người nọ đến người kiạ
Người đời ai được phú quý cũng hay khoe của. Cho nên, dù khôn ngoan khéo léo hơn người, ông chủ nhà này cũng mắc phải cái bệnh ấy. Nay cái dinh cơ này, cái ô tô này, cái bộ buồng khách, buồng ăn này, đối với ông, đã là cũ rồi, khoe lắm cũng chán miệng, cho nên ông nói đến cái mới. Cái mới đây, là con chó Lu.
- ấy, chính nó là giống Bleu d'Auvergne đấy, bác ạ. Tôi mua nó mất ba trăm bảy mươi đồng. Cái người Tây bán nó cho tôi, vì nể tôi lắm, mới để rẻ thế. Cứ kể ra thì những hơn bốn trăm kia! Cũng có con đẹp hơn thế này, những hơn năm trăm. Nhưng kể ra An Nam mà đã dám bỏ ra ngót bốn trăm bạc để mua chó, thì đã là ngông lắm rồi! Vả lại, người mình mấy ai chơi chó sành, cho nên mua con nhiều tiền quá cũng phí mất. Này, bác ngắm kỹ nó mà xem. Giống chó này tai to, mũi lúc nào cũng ướt ướt, chân cao và to, lốm đốm. ấy, không biết nhận xét thì lầm với giống khác đấy. Con này, tôi chỉ yêu về cái đầu vuông như chữ điền, này, nét ngang đây nhé nét sổ đây nhé,, thần tình không? Con nào được cái bụng thon, mõm ngắn, nhất là hai lườn phình ra như lườn dê thế này, là khoẻ và nhanh lắm đấỵ Hẳn ban nãy, bác đã thấy cái dáng nó oai vệ là ngần nào rồi đấy nhỉ. Có phải bao giờ nó cũng đi trước tôi mười thước không? Cứ lấy thước mà đo, cũng chả sai mấy tí đâu. Lúc đi như thế, cái mắt nó đưa đưa cái mũi nó ngửi ngửi, trông đẹp đáo để. Khi nào nó đánh hơi thấy chim nấp ở trong bụi, thì nó gục đầu xuống, khẽ ngỏng ngỏng cái đuôị Thế là tôi biết hiệụ Lúc tôi lắp đạn xong, tôi "chutt!" một tiếng, thì nó chồm ngay vào con chim. Anh chim bay ra, "Pan!" thôi còn chạy đằng trời! Mười lượt như thế cả mười, chẳng sai một lượt nào!
Lúc ấy, con Lu ngồi trên ghế, đối diện với chủ, chúm chúm cái mõm để nghe chuyện.
- Không những nó săn giỏi, mà giữ nhà, tìm đồ đánh mất cùng tàị Bây giờ bác thử đưa cái kính của bác cho nó ngửi hơi một lúc, rồi bác giấu vào trong vườn, tôi bảo nó tìm cho mà xem.
Được ông bạn cũng là người hâm mộ chó, cho nên thử biệt tài con Lụ Quả nhiên, chưa được năm phút, con Lu đã ngoạm cái kính, ngoe nguẩy đuôi, đưa trả khách.
ông chủ đắc chí, cười ha hả, vuốt ve, vỗ mãi má nó, rồi bế nó vào lòng, hôn lấy hôn để, vui thú như được cậu con hay chữ vậy!
- Tôi nuôi nó cẩn thận lắm. Tôi không cho nó ăn dưới đất bao giờ. Cho nên nó quen thói sạch sẽ và khôn ngoan lắm. Thế mới biết cái giống chó Tây nó cũng hơn cái giống chó An Nam mình thực. Chó An Nam thì lông đã xấu, lại hay ăn bẩn, đã ăn bẩn lại hay cắn càn. Lắm bận, nó lừ lừ ở đằng sau mình, rồi đớp trộm ngay một miếng vào quần, mới nan du chứ! Con này, hễ đã lên tiếng thì y như có kẻ gian vào nhà. Nó chồm hẳn lên mặt mà cắn, thằng trộm nào vô phúc vào nhà này thì hẳn là mất chỗ đội nón! Nhưng chỉ từ mười giờ đêm trở đi, nó mới sủa mà thôi.
Lúc ấy, cơm bưng lên, để trên bàn ăn. Chủ khách đang mời nhau lại ngồi, thì con chó đã nhảy tót lên bàn, chồm chỗm ngồi trước chủ.
- Con Lu này được cái lễ phép lắm. Tôi dạy mãi mới được đấỵ Này, đĩa đồ ăn của nó đây nhé, cơm trộn với thịt, ngon lành thế này, nhưng tôi chưa cho ăn, thì đố dám ăn. Ngay khuất mắt mình cũng vậỵ
ông chủ cầm đĩa đồ ăn của con chó, mang ra sân đằng trước. Khách và con vật đi theo sau.
Con Lu vẫy đuôi, ra dáng mừng rỡ. ông chủ để đĩa cơm ở giữa sân. Con Lu cúi cổ xuống ngửị Nó sắp ăn, thì chủ nó mắng ngay bằng tiếng tây:
- Tăng xông1
Thấy không được phụng dưỡng tử tế như mọi khi, con Lu từ từ lui rạ
- Ta không cần phải coị Lúc ta ăn xong, mà đĩa này nó vẫn không dám đụng đến đâụ Thôi, mời bác vào xơi cơm.
1. Liệu hồn.
Lúc bấy giờ, giá ông chủ có ý một tí, thì chắc đã thấy một vật gì đen đen, lù lù ở ngay ngoài cổng. Đó là một người ăn mày, ngồi bó giò ở đấỵ Người ấy đội cái nón toạc tung cả cạp, đã đóng khố, lại mặc cái áo rách cụt cả taỵ Thành ra bốn chân tay khẳng khiu, đen thui thủi, dài ngoằng ngoẵng. Cái bị bẹp há hốc miệng, nằm chờ bên cạnh cái dạ dày lép kẹp.
Người ăn mày chờ đấy từ lâụ Thấy trong nhà lạch cạch tiếng đũa bát, mùi đồ xào theo chiều gió đưa ra, hắn gào lên xin, mà cũng chẳng có ai nghe tiếng. Lúc hai người ra sân, hắn lạy van vã bọt mép. Nhưng hai ông còn đương dở bận chơi với chó, không ai để ý đến người.
Người ăn mày biết thế, nên lại cố lấy sức để gào tọ Nhưng cái tiếng hết hơi của hắn đập đến màng tai ông chủ, thì ông chủ trợn mắt, hầm hầm quát:
- Làm gì mà léo nhéo lên thế? Làm át cả câu chuyện của người ta! Bước ngay! Không ông đá cho một cái thì chết bây giờ!
Người khốn nạn im thin thít. Chủ khách bèn vào buồng ăn cơm.
Lúc ấy, hai con mắt người ăn xin chòng chọc nhìn vào đĩa cơm của con chó. Hắn thèm quá. Nước dãi chảy ròng ròng, không nuốt kịp. Muốn vào ăn trộm một miếng, nhưng chỉ sợ con chó cắn cho một miếng thì chết! Hắn thấy con chó cứ đứng gần đĩa cơm mà không ăn, thì không hiểu ra làm saọ Hắn tưởng con chó chê cơm nhạt, không thèm ăn, thì hắn muốn đánh đổi số phận hắn cho con chó nhà giàu!
Giá con chó biết tiếng người, hẳn hắn đã lân la đến gần để đánh bạn, rồi kể lể nỗi đói khát, có lẽ, chỗ anh em, con chó cũng động tâm mà lấy tình "nhân đạo" nhường cho hắn đĩa cơm ấỵ Hay là vì hắn xù xù ngồi đó, cho nên con chó phải đứng canh chăng? Hắn liền lẩn ra sau cái cột cổng để dòm vàọ Một lúc, quả hắn thấy con chó lừ lừ ra nằm chỗ khuất bóng ở cạnh tường.
Được dịp may, người ăn mày đánh liều dồ ra, tiến gần lại mấy bước. Nhưng con chó lập tức đứng dậy, cũng tiến gần lại mấy bước, vừa đi vừa gừ. Thằng người giương hai mắt nhìn con chó, con chó cũng giương hai mắt nhìn lại thằng ngườị Thành ra đĩa cơm ở giữa, người tiến thì chó cũng tiến, người lui thì chó cũng luị Hai bên hầm hè nhau, người lườm chó, chó lườm người đều cùng giữ miếng nhau, như hai kẻ thù không đội trời chung vậy.
Cứ như thế, không bên nào chịu bên nàọ Độ hơn mười phút, người ăn mày cùng thế, nghĩ ngay được một kế. Tay hắn vớ được hòn đá to tướng, thu thu đằng sau, chạy tọt lại đĩa cơm, rón một miếng rõ nhanh, đút tỏm vào mồm.
Nhưng con chó nhanh hơn. Nó cũng chồm vọt lại, nhẩy xổ lên, há mồm, nhe răng ra cắn. Người ăn mày giơ thẳng cánh tay, nhằm giữa mồm con chó, uỵch hòn đá một cái rõ mạnh. Con chó ẳng lên một tiếng, rồi nhanh như chớp, nó vật được kẻ thù xuống đất, giơ hai chân ra cào mặt và móc mồm. Nhưng nó bị ngay một cái đấm nữa vào đầụ Nó chịu buông thằng người ra, nằm sóng soài, ẳng rầm lên.
ông chủ đương ăn cơm, nghe tiếng chó kêu, vội bỏ cả bát đũa, lẫn vợ, lẫn khách, ông cầm đèn hấp tấp chạy ra:
- Thôi chết rồi! Con Lu làm sao thế này! ối giời ơi! Nó gãy hai cái răng rồi! Khổ tôi quá!
Thế rồi thét người nhà váng lên, ông bế con Lu vàọ Còn mình thì chạy ra cổng xem ai đánh chó. Bỗng ông trông thấy ở đằng xa, có cái bóng đen đen, chạy nhanh tít, ông bèn bấm đèn ôtô để chiếu theo, thì trông rõ người ăn mày ban nãy đương chạy.
- À, mày đánh gãy răng chó ông, ông chỉ kẹp cho mày chết tươi, rồi ông đền mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng!
Nói đoạn, ông tắt đèn pha, phóng xe hết sức nhanh để đuổi theọ..
Viết 12-1929
(Đăng Annam tạp chí số 23 - 1931
với nhan đề Răng con vật nhà tư bản).
Sáng, chị phu mỏ
Rửa xong bát đĩa, Sáng cầm đèn hoa kỳ vào buồng, đặt trên mặt hòm, rồi mở màn, bảo mẹ:
- Bu ở nhà, con đi đằng này một tý nhé.
Bà già như đã đoán được ý con, cựa mình nằm quay mặt ra ngoài, rên rỉ, nói:
- Thôi, con ạ, không thuốc thang gì nữa đâụ Đừng đi vay mượn, rồi lại mắc nợ. Bu đã qua cầu ấy, bu sợ lắm.
Sáng thở dài, sờ lên đầu mẹ, rồi nhăn nhó, nói:
- Thế này mà bu cứ không chịu uống thuốc. Bu sốt nặng hơn ban trưa đây mà.
- Tại bu đắp nhiều chăn đấỵ Cứ để vậy, rồi khỏị Bu không muốn để nợ cho con đâu.
- Bu đừng tiếc tiền. Hôm kìa, hôm kia, bu uống luôn hai chén, nên đã gần khỏị Giá bu cứ để con đi xoay xỏa, lấy tiền cân hai chén nữa, thì chắc hôm nay cất cơn rồi.
Mẹ Sáng cảm động, lắc đầu, nắm lấy tay con:
- Bu thấy tình cảnh nhà thế này, bu chả muốn thuốc thang tí nào cả. Uống chén nào vào mồm, đeo nợ chén ấy, thì uống làm gì.
- Nợ thì rồi giả, chứ có ăn không uống không của ai mà bu ngạị Vả lại con giật tạm của các chị ấy, chứ có vay của ông cai Nhã đâụ
- Mày nói dốị Bu lại không rõ tất cả các phu phen làm ở mỏ này hay saọ Ai thừa tiêu cho mày giật mượn được. Thầy mày ngày xưa làm ở đây hơn hai mươi năm, thật là ăn tiêu vắt cổ chày ra nước, thế mà lúc bị sập lò chết đi, còn để lại món nợ, giả mãi mới hết.
Sáng thở dài, đáp:
- Bu để yên con nói cho mà nghẹ Có phải con hỏi mượn một người đâu, mà bu chắc rằng không có. Con vay mỗi chỗ một tí, cho nên dễ, bu ạ.
- Thế rồi lấy gì mà giả?
- Rồi kỳ lương này, con trang trải thế nào cũng xong. Bu cứ yên tâm.
Bà già lắc đầu, thương hại con, hổn hển thở:
- Tao bảo mày cứ không nghẹ Vừa trưa hôm nay, tao thấy mày bàn nhau với chị Nhân là vay ông cai Nhã kia mà. Nợ ai, chứ nợ lão ấy thì khổ đấy, con ạ.
- Con biết rồị Con đã bảo con không vay ông ấy đâu mà.
- Nhưng mà cũng không được vay đâu cả. Liệu mà nghỉ ngơi, rồi đi ngủ, sáng mai còn đi làm.
Rồi bà than thở một mình:
- Hai hôm nay, gạo đã phải đi vay rồi, bây giờ lại còn cắt thuốc cho mẹ. Nhục quá, nghèo ơi là nghèo!
Bỗng hai dòng lệ ứa ra, làm ngập đuôi mắt, rồi từ từ chảy xuống mang tai, bà nằm quay vào trong, thở những hơi dài thống thiết.
Sáng buồn rầu, nói:
- Bu cứ uống thử thêm hai chén nữa. Bởi vì, nếu tiếc tiền, rồi sốt nặng hơn, thì làm thế nào!
Mẹ Sáng đập tay gắt:
- Đấy, tao kệ màỵ Mày khó bảo quá!
- Được, bu cứ kệ con.
Nói đoạn, Sáng thu dọn trong nhà, hạ các liếp cửa xuống, vặn nhỏ đèn lại, rồi lách ra đường.
Cũng giờ ấy, cai Nhã chờ cho các ký lục trên nhà giấy về hết, mới vào báo cho chủ Nhì biết tin mừng:
- Thưa ông, tối hôm nay, xơi cơm xong, ông có bận việc gì không?
- Không, anh muốn gì?
Nhã ghé gần lại, ti hí đôi mắt lươn, nói nhỏ:
- Cái con bé xưa nay ông vẫn ước ao, tối nay, tôi sẽ dắt vào cho ông.
ông chủ tươi cười, vuốt vểnh bộ râu ngược lên, rồi khoanh tay trên bàn, hất hàm hỏi:
- Con bé nào thế nhỉ?
- Con bé tên là Sáng, vẫn ngồi bên cạnh bà già ở đầu phía tay trái nhà máy ấy mà. Chả có lần ông khen nó đẹp là gì.
ông chủ chợt nghĩ ra, gật gật, đáp:
- Phải, tôi nhớ ra rồi, cái con bé có bộ ngực to bằng ngần này ấy chứ gì?
Hai thầy trò nhìn nhau, cười híp mắt. Nhã nói:
- Chính đấy, tôi vẫn bảo nó là vì ông nhân từ, thương đến ngày xưa cha nó chết về công việc của sở, nên mới ban ơn cho nó vào làm.
- Thế rồi sao.
- Tôi xem ý nó, thì nó không như những đứa khác. Nghĩa là nó không nhí nhảnh, dễ dãi đâu.
- Thế bây giờ?
- Bây giờ là tôi làm ơn cho nó.
- Anh làm ơn cho nó?
- Phải, vì mẹ nó ốm.
- Sao
- Để tôi nói hầu ông nghẹ Ban nãy nó tìm tôi, hỏi vay tôi mấy đồng bạc mua thuốc cho mẹ. Xin ông biết rằng lần này là lần đầu mà nó nhờ tôi về tiền nong.
- Thế nó phong lưu à?
- Không, ông tính làm phu đủ ăn là may lắm, chứ còn thừa thãi sao được. Giá nó không vì mẹ ốm, phải tiêu bất thường và vay loanh quanh bạn hữu không được, thì chưa khi nào nó chịu nói với tôị
- Đó là sự thực, hay nó tìm dịp đến gần anh?
- Tôi mong đó là nó nói dối, thì cách hành động của tôi mới có kết quả. Nhưng, thưa ông, mẹ nó ốm thực.
- Thế anh bảo nó thế nào.
- Tôi bảo nó là tôi không có sẵn, nhưng tôi có thể đưa nó đến mượn tiền ông. Nó sợ ông, không dám đi, nhưng tôi đã cắt nghĩa cho nó nghe rồi.
ông chủ cười, khen:
- Tốt lắm.
- Phải, dịp tốt đến cho ông trong khi bà về Hà Nộị Tối nay, tôi sẽ lên đâỵ Nhưng điều cần nhất, là ông nên xử trí cho khéo, kẻo con bé ấy tai quái và liều lĩnh lắm.
- Không ngại.
- Tôi nên dặn trước ông thế, vì con Sáng này không như những con trước tôi dắt đến cho ông đâu.
- Được rồị Tôi cảm ơn anh.
Khoảng hơn tám giờ tối, Sáng lo lắng, theo cai Nhã đi trên con đường bò quanh sườn đồi, lên nhà chủ. Chị chẳng biết việc vay tiền chủ có kết quả gì không. Chị liều mà nghe lời Nhã, theo vào chủ để vay tiền. Chị chỉ mong mẹ chị có thuốc uống. Chị biết Nhã vẫn dắt gái đến cho chủ, thì rồi đây, thế nào chị cũng bị mang tiếng. Song, chị chỉ cốt lương tâm biết mà thôi.
Đến cổng, Nhã tặc lưỡi, nói:
- Nghề thế, chị nghe chưa, mình đi làm thì phải chiều ý chủ. Tôi thấy chị cứ khủng khỉnh với người trên, như thế không nên.
- Thì cụ bảo cháu làm thế nào.
- Ồ, cái đó chị nghĩ thì ra chứ. Giá như chị năng đi lại với chủ, có phải lần này chị chả phải nhờ đến tôi mới vay được chủ hay không.
Sáng hiểu ý, không đáp. Chị nhìn xuống chân đồi, chỗ tối om, có những mái nhà tranh xám, là xóm thợ thuyền.
Tới thềm, Nhã bảo:
- Chị chờ đây, tôi vào nói trước đã.
Sáng đứng lại, thở mạnh một cái:
- Chào! Mệt! Giá cụ lên một mình nói hộ cháu cũng được, cháu đỡ phải leo dốc.
Sáng đứng một mình, ngắm cái nhà cao lồng lộng. Chị lạy trời cho chủ bằng lòng cho chị vay lương. Một lát, Nhã vui vẻ ra, vẫy Sáng:
- Được rồị Chủ bảo chị vào mà ký nhận lấy tiền.
Sáng mừng rỡ, trống ngực nổi mạnh:
- Thế cụ vào với cháu chứ?
- Không cần!
Sáng ngần ngại, rồi nói:
- Cụ chờ cháu ở đây nhé.
Cai Nhã trợn đôi mắt trắng dã, gắt:
- Có mau lên không, bắt ông ấy chờ à?
Sáng vừa vào, ông chủ đã làm ngay như mọi bận. ông đến cửa, vặn khóa, bỏ thìa vào túi, và nhăn nhở cười, ôm thốc lấy người con gáị Không nếp tẻ gì cả. Bởi vì ông yên trí là hạng này chỉ là những vật cho ông tiêu khiển khi vắng vợ. Họ với ông cách nhau một trời một vực, thì nói chuyện làm gì cho mất thì giờ. ông là chủ kia mà, cần gì phải tán tỉnh lôi thôị
Nhưng lần này khác. Bỗng ông bị cưỡng kịch liệt.
Sáng quằn quại trong cánh tay ông, kêu to:
- Ô hay, ông này mới hay chứ! Tôi vay ông tiền mua thuốc cho bu tôi, sao ông lại làm thế nàỷ
ông chủ không hiểu tiếng, nên mặc kệ. Hai bắp tay ông nổi lên, ông hết sức ghì chặt lấy Sáng, và ghé môi vào má chị. Sáng càng giãy giụạ Chị giận, mặt đỏ bừng bừng. Chị hết sức chống cự lại con quỷ dâm dục. Rồi biết mình yếu hơn, chị nắm được râu ông ta, rứt mạnh, và kêu to hơn, rồi gầm lên:
- Ối giời ôi! ông buông tôi ra!
Nhưng đầu tóc chị xổ ra rũ rượị Mà ông chủ vẫn nói những điều bằng giọng dỗ dành. Người ông ta nóng ran, mồ hôi mướt rạ Và vì thế, hai cánh tay trơn như phết mỡ.
Sáng thở hồng hộc. Máu hăng chị sôi lên sùng sục. Chị quào mặt ông chủ, và luồn tuột được đầu ra ngoàị Song, nhanh như chớp, ông chủ lại vồ ngay được chị, làm chị ngã giúi xuống, bị cả sức nặng của cây thịt vạm vỡ nằm đè lên trên.
Biết thế nguy, Sáng hết sức lăn lộn một chập nữa. Chị đạp chân, cựa tay:
- Ông buông tôi ra! ông đểu lắm! Tôi tự tử bây giờ!
Song, cuộc vật lộn càng hăng háị Gần đạt đến đích, ông chủ không thạ
Độ năm phút sau, khi hết hơi sức, và biết rằng không thể cưỡng hơn được nữa, chị mới quyết liệt. Chị đã không khỏe để trừ dâm thần, thì chị đành huỷ hoại thân chị để lánh nạn. Chị bèn giơ mười đầu ngón tay cấu mạnh vào cổ họng. Rồi nhăn nhó, chị nằm sóng soài, mệt lử.
ông chủ thấy tấn tình kịch biến thành bi kịch, vội vàng buông người con gái khó bảo ra, và đứng dậỵ
Sáng thở hổn hển rồi im lịm.
ông ta vắt hai tay ra sau, lặng ngắm Sáng. Lúc bấy giờ, ông ta có thể làm gì Sáng cũng được. Song, ông ta đứng yên.
Có lẽ ông ta động tâm, ông ta lau mồ hôi trán, giật khục tay và thở dàị
Hình như lòng nhân đạo trở về với ông tạ
Ông ta lắc đầu, vẻ mặt hối hận, lấy hai tay lật Sáng lạị Một tiếng rên rỉ làm ông ta thương hại kẻ yếu hèn.
Trong buồng yên lặng.
Nghĩ ngợi một lát, chòng chọc nhìn Sáng, bỗng ông ta móc túi, lấy ví. Rồi lẳng lặng, ông ta mở ví, thọc bàn tay vào trong ngăn. Giơ ra ánh đèn, ông tìm và bóc tờ giấy bạc năm đồng.
Nhưng vừa lúc ấy, Sáng cựa một cái, rồi ngồi nhổm dậy, thở, hai tay tựa xuống gạch.
Chị không chết, mà cũng chẳng làm sao cả.
Ông chủ vẫn nhìn chị. ông đã bớt sợ. Và do đó, bớt thương hại. Bàn tay ông ta vẫn để nguyên trong ngăn ví.
Trong khi ấy, Sáng không dám nhìn ông. Mặt tái xanh, chị quấn món tóc rối, nhặt chiếc khăn rơi, rồi vội vàng đứng dậy ra phía cửa sổ, trèo qua tường và nhảy phắt ra ngoài.
Và cũng trong khi ấy, ông chủ tươi tỉnh, rút bàn tay ra, gấp ví lại, và bỏ vào túị ông nhìn theo Sáng, nét mặt mừng rỡ.
ông mừng rỡ, chẳng phải thấy Sáng vẫn lành mạnh như thường.
ông mừng rỡ là vì đỡ mất toi món tiền suýt nữa vô cớ đền vết thương cho con bé bướng bỉnh.
Tiểu thuyết thứ bảy số 263; 1939
Sáu mạng người
Thôi, cái quan bằng lòng vậy, để bận khác tôi bảo chúng nó đến chọ Cái quan cứ ngủ lại đây, sáng mai hãy về, kẻo đêm đã khuya rồi, từ đây lên châu, đi đã xa, lại qua nhiều rừng, tôi không yên tâm đâu mà.
Nghe lý trưởng Tưởng thành thực nằn nì, nói bằng giọng kéo dài và ngô nghê như thế, ông châu Phiên lấy đồng hồ ra coi rồi nhìn ra ngoàị Rừng, núi và trời lẫn lộn màu đen ông hơi nản lòng. Nhưng thử xem còn hy vọng gì nữa không, một lần nữa, ông làm ra dáng giận dỗi, vỗ vai lý trưởng và nói theo lối người Thổ.
- Này, cái quan không bằng lòng thầy lý đâu nhé. Thầy lý không biết làm việc. Thầy lý nói dối quan. Thầy lý hứa nếu quan đến xem hội thì thầy lý gọi cho quan những cô gì cô gì kia mà. Thế mà chẳng cô nào đến cả. Để đêm khuya thế này, quan phải về không. ở vùng xuôi, những lý dịch đối với các quan tốt hơn kìa. Nếu làng mời quan ngủ lại mà không gọi được cô nào ra hầu chuyện, thì thầy lý hoặc thầy chánh phải đem người nhà thay vào kia đấy.
Nói đoạn, ông châu yên một lát, để thì giờ cho lý trưởng Tưởng hiểu thấu cái phong tục đẹp đẽ dưới trung châu, và ngẫm nghĩ cái bổn phận chu đáo của nhà chức dịch đối với quan phụ mẫu. Rồi ông tươi cười, hỏi nửa đùa nửa thật:
- Quan nghe nói thầy lý có em gái mà?
Lý trưởng lắc đầu, đáp rất tự nhiên:
- Cho nó ra tiếp cái quan cũng không làm sao, nhưng rồi sợ nó quen đi, quan ạ.
Biết rằng không còn nước non gì, ông châu Phiên bảo thắng ngựa, nhất định về.
Đường lên châu lỵ khúc khuỷu, qua những cánh rừng rậm, nhiều đoạn chênh vênh trên khe sâu thẳm. Song, ông tin ở con ngựa ô của ông rất khôn và rất thuộc lối, và ở hai tên lính cơ lực lưỡng, can đảm, lại có đem cả súng lẫn đạn đi theo hầụ Tuy lần này về Bản Sing, ông chỉ có mục đích xem hội, nhưng ông cũng định tối đến, theo tục lệ, ông sẽ nô đùa với bọn con gái dậy thì lũ lượt kéo nhau ra đường giỡn hát bên ngọn đuốc.
Lúc bấy giờ, độ mười giờ đêm, ba thầy trò đã bắt đầu phải chui qua cánh rừng rậm. Lối đi ban nãy còn hơi lờ mờ rõ, bây giờ thì thật đen như mực. Không ai có thể trông thấy gì, dù đã quen làm những việc lén lút. Người ta có một cảm giác khó chịu là bị quây vào giữa một cái màn rùng rợn, chật hẹp, mà tai, mắt, chân tay hoạt động một cách sợ sệt, song vô công hiệu.
Ba con ngựa bổ móng vào những phiến đá, kêu lộp cộp. Thỉnh thoảng, một chiếc lá khô rơi, xào xạc, đụng bốn năm bận vào cành. Và xa xa, tiếng tí tách của một dòng nước uể oải chảy từ kẽ đá rạ ông châu, một tay nắm cương, một tay víu yên, gò người về đằng trước và nhấp nhổm theo nhịp kiệu.
Những cuộc đi đêm vất vả, ông đã từng trải nhiều bận, nên đã quen. Làm chức tri châu, ông tránh sao được nơi rừng xanh núi đỏ, nước độc, ma thiêng. Song, ông chỉ cố đợi vài tháng nữa, đến kỳ thăng thưởng cuối năm, ông sẽ vận động thăng tri phủ và xoay về một huyện nào tôn tốt ở trung châụ Lúc bấy giờ, ông mới có thể nghĩ đến chuyện làm giàu và sung sướng được. Chứ ở đây, tiếng là quan cai trị, mà quanh năm, ông chẳng sơ múi gì. Dân sự họ sợ uy quyền lý trưởng hoặc chánh tổng người địa phương hơn là quan phụ mẫụ Vả ở vào một nơi giáp biên thùy, công việc canh phòng còn khó nhọc và nguy hiểm gấp bội lần.
Rong ruổi trong khoảng tịch mịch, ông châu Phiên bỗng nhớ đến cái chức vụ tịch mịch của mình. Một hơi lạnh thoảng qua, làm ông rùng mình. ông móc túi, lấy điếu thuốc lá và bật bùi nhùi để hút.
Bỗng ngựa ông đứng dừng lạị Rồi lưng ông bị đầu con ngựa sau húc phải ông giật nảy mình, tự nhiên ghê rợn, như có cái gì nó báo trước cho ông một điềm chẳng lành. Trong người ông nóng ran. ông vội vàng lắng tai và giơ tay trong khoảng tối đen, làm hiệu cho lính, và khẽ nói:
- Đứng lại.
Ba con ngựa cùng dừng bước, thở, vẫy đuôi xoàn xoạt, và giậm chân xuống đường đất rắn cấc để đuổi muỗi.
Quan quay lại, hỏi lính:
- Có người.
Tức thì hai ngọn súng đã chĩa ngang ra đằng trước.
Mọi người yên lặng để nghe ngóng và chờ đợị Tiếng xôn xao mỗi lúc một gần. ông châu ra lệnh khẽ:
- Nạp đạn sẵn.
Gót chân nện xuống đất nghe rõ dần. Một người lính nói thầm:
- Họ nói tiếng Thổ hay tiếng khách? Đông đấy.
ông châu ngăn:
- Thôi, im. Xuống ngựa cả, mau!
Rồi ông hỏi to:
- Ai, đi đâu
Những tiếng xôn xao ở xa tức khắc im bặt. Thấy khác ý, ông châu ngờ vực. Trong bóng tối, ông nhận ra năm sáu cái bóng đen kịt.
Một người lính hỏi lại:
- Ai Đi đâu Lấy cả thẻ ra để quan khám!
Lời vừa dứt thì không hiểu làm sao, bọn người đằng trước chạy tán loạn.
Đoán là việc nguy hiểm, ông châu hăng hái, thét:
- Bắn!
Đoành! Ngọn lửa sáng lòe, tiếng vang inh vào các khe núi, kêu vọng dài rạ Tức khắc, một cái bóng đen ngã vật xuống, giãy đành đạch, rên rỉ.
Hai người lính càng phấn chấn, đem hết sức lực, chạy đuổi bọn người gian.
Lại một tiếng đoành, rồi tiếng đoành nữa.
ông châu nắm chặt lưng ba con ngựa, trống ngực đã bớt rộn, ông lên tiếng hỏi:
- Thế nào.
- Bẩm trúng ạ.
Thấy người ngã đầu tiên còn phì phì thở ngay gần đó, ông châu bấm bùi nhùị Đá lửa bật ra những tia sáng lóe, rọi rõ lối đị ông tiến mấy bước, rồi dồn dập hỏi:
- Bọn mày mấy đứa.
- Đau lắm, tôi làm gì mà bắn tôi.
Chẳng để vào tai những tiếng nói thảm thiết vô ích, ông lại hỏị Tiếng trả lời:
- Sáu đứa.
ông nói to, bảo lính:
- Tất cả là sáu đứa!
Ngay lúc ấy, một tiếng súng lại nổ to, vang động cả bốn phíạ Rồi tiếng reo:
- Ngã rồi.
Mừng rỡ, ông châu hô:
- Còn hai nữạ Bắt cho kỳ được!
Rồi cúi xuống, ông toan hỏi thêm. Song, người khốn nạn đã ằng ặc giãy, rồi nằm im lịm.
Trời tối quá, nên cuộc săn người rất gian nan. Bởi vậy, trong sáu kẻ gian, bốn người chẳng may bị đạn thì chịu gục xuống, còn hai người lẩn lút được. Lính đã hết sức tìm sục mọi nơi, song, không tài nào thấy được. Thực ra, họ trốn không khó gì. Chỉ cần cho người đuổi không trông thấy hút được, là họ nép vào bụi rậm nào đó, thế là thoát. Họ nằm đó cho thật yên. Bởi vậy, hai người lính đã mất công chui rúc cho đến tận tang tảng sáng.
Như khi tầng lá xanh đen đã hơi nổi ra ngoài nền trời màu sữa, thì ông châu bắt đầu hơi ngạc nhiên. Cách người chết nằm không xa, có những đống gì to lù lù. Muốn khỏi ngợ, ông buộc ngựa vào cành cây, đến tận nơi, nhìn cho kỹ.
Bỗng ông nhủn người, run lên, mặt tái mét. Đó là những bó thuốc lá, mà sáu người này có lẽ chỉ là bọn buôn thuốc.
Lương tâm ai chẳng có? Dù làm quan cũng vậỵ Thỉnh thoảng, người ta có đôi phút vụt thấy lương tâm hiện ra, mỗi khi biết rằng mình làm bậỵ Bởi vậy, ông châu Phiên hối hận việc đã giết oan bốn mạng lương dân.
Nhưng biết làm thế nào bây giờ?
ông châu vốn là người có óc thực tế. Hạng người này ít thiên về tình cảm. Nên khi một việc lỡ xảy ra, họ không xoa xuýt, than tiếc, mà phải cương quyết tính ngay đến cách đối phó sau nàỵ Vì vậy, trong giây phút, ông lanh trí, nghĩ ngay được cách làm thế nào để tránh lỗi với quan trên.
Thì ông làm thế này.
ông đến tận nơi từng người bị đạn để tra hỏị Khi biết đích bọn đó chỉ là người Thổ đi kiếm thuốc lá để sáng sớm mai bán tại chợ Bản Sinh, ông bèn đốt thẻ của họ đi, và bắt lính trói chặt lại, cho khỏi có người nào còn sức lê đi và trốn thoát. Như vậy, ông có thể kệ họ nằm rên rỉ một mình, không phải bận về canh gác nữa.
Đoạn ông cùng hai tên lính cơ, chia nhau đi các ngả để sục nốt hai người hiện đương trốn.
ông cao đoán lắm, bảo lính:
- Chúng nó chưa ra khỏi cánh rừng nàỵ Chúng mày cứ trông kỹ vào những chỗ rậm rạp. Tao sẽ thưởng to cho thằng nào có công.
Lúc ấy đã sáng rõ. Ba thầy trò vừa lắng tai, vừa trố mắt, dò từng bước để tìm tòị Không một bụi rậm nào họ không khua ngọn súng vàọ Không một khe đá nào họ không lách lưỡi lê vàọ May thay, trời không phụ kẻ có công bao giò. Chẳng bao lâu, chính ông châu tóm được một người nằm ẹp như con nhái bén dưới một gốc cây đổ. Và một tên lính vồ được người nữa, đương cắm cổ chạy bán sống bán chết trong khóm lau cao.
Bắt sống được hai người cuối cùng, mà hai người này không có thẻ, ông châu mới thực mừng. ông sai trói gô họ vào gốc câỵ
Rồi ông làm gì?
Rồi... đoành! đoành! ông chia cho mỗi người một phát đạn, không hơn không kém, để họ đỡ tị với bạn. Rồi... còn ba người đương ngắc ngoải, ông cũng sinh phúc cho thêm mỗi người một phát, để họ được thoát khổ, mà rủ nhau cả một lượt về suối vàng.
Rồi... khi đã làm cỏ đủ sáu mạng người, ông sai cởi dây trói ra, và phi ngựa về châụ ông làm tờ khẩn bẩm với quan trên, kể công là đã đi tuần đêm, và ba thầy trò đã giết nổi một toán những sáu đứa... giặc khách.
Và như thế, ông yên trí rằng về công trạng trị an oanh liệt này, ông sẽ được đặc cách thăng tri phủ hạng nhì...
Truyện ngắn chọn lọc - Tập II 
Nxb. Hội nhà văn - 1985
Thằng ăn cắp
Phải đòn trận này thì nó cạch đến già! Nhưng đáng kiếp lắm! Ai thương? Ai bảo mới nứt mắt ra đã đi ăn cắp?
Người ta kháo nhau:
- Quân ấy tinh quái lắm! ấy, nó cứ giả vờ đói khát để ăn xin, trát bùn vào mặt, vào người, lử thử lừ thừ, làm như thằng ốm, nhưng hễ rình nhà nào vô ý, là thừa cơ thó ngay, rồi lẩn mất, nhanh như cái cắt!
Người ta gờm mặt nó! Người ta sợ nó! Hễ nó lảng vảng đến, người ta ngờ, người ta canh, người ta giữ, coi nó như một con chó đói.
Một hôm, nó vơ vẩn giữa đám hàng bán rong.
Thấy nó, bà hàng rau đứng dậy, quẩy gánh lên vai, đi chỗ khác. Bà hàng thịt sờ lại ruột tượng. Bà hàng bún riêu nắn lại túi tiền. Bà hàng lê bấm cô hàng bánh đúc. Chị bán bánh rán sốt đưa mắt cho bác bán khoai.
Họ thì thào:
- Thằng ăn cắp.
Trông nó đáng sợ thật. Hai mắt trắng dã, lấm la lấm lét, tóc thì bồng lên như tổ quạ. Da đen thui thủị Mặt rạn như men lọ cổ.
Hai tay thọc vào túi cái áo tây tàng, xơ xác như tổ đỉa, nó đứng nhích ra chỗ bóng nắng, dún dẩy cho ấm.
Nó nhìn gánh bún riêụ Nó nhìn mẹt bánh đúc. Nó nhìn rổ khoai lang. Cơ chừng nó thèm. Nó thèm vì nó đói.
Thấy nó ám, các bà chẳng dám đuổi, nhưng bụng mong nó cút ngay đi.
Nó đứng một lúc. Rỗi quá. Nó chìa bàn tay ra xin, xin bằng những câu văn sách thuộc lòng, chứ không cố lấy giọng nằn nì khốn nạn:
- Cắn cỏ lạy bà, con đói khát, bà làm phúc thí bỏ cho con đồng cơm bát cháo.
Thấy nó giở giọng, các bà giữ riết ruột tượng, túi tiền, thức hàng.
- Để bận sau, đi mà xin chỗ khác.
Nó nhăn bộ răng trắng như bầu ra, cười láu cá.
Gớm chết!
Nó cười gì? Ai biết được! Hay là nó chế các bà lần này quá khinh nó? Vì nó tham cơ hội mà xin đó thôị
Nó làm bộ, lắc túi cho các bà nghe thấy tiếng xu kêu loẻng xoẻng! Ranh con thực! Nó lại đứng yên. Nó ngắm. Hai mắt chòng chọc vào cái nồi bún riêu khói bốc lên ngùn ngụt, vào cái nồi bánh đúc ngon lành, vào cái rổ khoai tròn trĩnh như "ông ỷ". Nó chảy nước dãị Nó thèm. Vì nó đói thực.
Suốt từ sáng, nó chỉ được có sáu đồng trinh, và một bát cơm nguộị Bát cơm ấy, chưa đủ sức đền vào chỗ nhịn chiều hôm quạ Nhưng thôi, làm quái gì cái vặt! Ăn không ra bữa đã quen từ thuở bé. Nó chỉ thấy đóị Chứ không thấy cồn càọ Nó ngồi sán vào cô bán bánh đúc. Nó chìa tay ra xin một miếng. Cô hàng ôm khư khư lấy mẹt vào lòng, xua lấy xua để:
- Chưa bán mở hàng đấy! Khỉ ạ!
Nó lại lê dịch sang kề nồi bún riêu:
- Lạy bà, con ăn mày bà một bát.
- Ba mươi sáu cái nõn nường! Mỗi bát mấy đồng xu của người ta đấy! Thôi đi! Dơ!
Nó lại mó vào củ khoai lang, tủm tỉm cườị
Bà ấy vội hất tay nó ra, và mắng:
- Bà thì tát cho một cái bây giờ, đừng láo!
Bà hàng lê chắc chẳng đời thuở nào nó dám động đến hàng mình, là thứ xa xỉ phẩm, đùa nó rằng:
- Một hào một quả, bỏ tiền đây, tao bán chọ
Nó cười, lắc đầụ
Bà ấy ném vào lòng nó một mảnh vỏ quýt. Nó đỡ được, bỏ vào mồm, nhai gau gáụ
Rồi nghĩ thế nào, nó đứng dậỵ Tay nó đếm xu trong túi, nói với bà hàng bún riêu:
- Bà bán cho cháu một bát.
- Mày có tiền không?
Nó gật đầu, mạnh bạọ Rồi đắc chí, nó lắc túị Bà ấy múc cho nó một bát đầỵ Nó ăn. Phù phù! Nóng! Xuỵt xoạt! Cay! Ngon quá.
Ai cũng yên bụng. Không ai để ý đến nó nữạ Họ nghênh xe đạp. Họ nhìn ô tộ Họ pha trò. Họ cười ha hả.
Nó vẫn ăn. Ngon quá!
Năm phút...
Mười phút...
Bỗng chốc:
- ối ông đội sếp ơi! Thằng ăn cắp! Ai đuổi hộ tôi!
Bọn bán hàng nhốn nháọ Chạy tứ tung. Quang gánh vướng. Người ngã. Hàng đổ. Bát vỡ.
- Bắt lấy nó!
Thằng ấy cắm đầu cắm cổ chạy, nhanh như mũi tên.
- Giời ơi! Nó kia kìa! Ai đuổi hộ tôi!
Một người qua đường đuổi theo nó. Hai người qua đường đuổi theo nó. Rồi ba bốn người, sáu bảy ngườị..
- Bắt lấy thằng ăn cắp!
Rồi hàng chục ngườị Rồi không đếm được bao nhiêu người nữạ Họ chạy huỳnh huỵch. Họ làm như bắt giặc!
Ai cũng kéo cả ra đường để nhìn theọ
Một thằng chạỵ Mấy trăm người đuổị Bụi mù!
Bà ấy chạy sau rốt. áo lấm. Khăn xổ. Tóc rũ. Ngửa mặt lên mà kêu:
- ối ông đội sếp ơi!
Mọi người hỏi nhaụ
- Ai mất gì?
Người bảo:
- Nó cắt đứt ruột tượng của người kiạ
Người bảo:
- Nó lần túi người ta! Chà thằng oe con gớm thật!
Rồi lại thêm mấy chục người nữa đuổi theo thằng ăn cắp.
- Thằng ăn cắp! Bắt lấy nó! ối ông đội sếp ơi! Nó ăn cắp của tôi!
- Kìa, ông đội sếp đến thực. Bỏ mẹ!
ông ấy cắm cổ, gò lưng, bấm chuông liên thanh, đạp xe đuổi theọ
Nó vẫn chạy như khoàng cả hai chân lên vaị Chạy hăng quá!
Nhưng người đuổi chạy nhanh hơn.
Bà ấy thì lạch bạch như con vịt, kêu không ra tiếng, mỗi lúc một xa nó, xa nó đến sáu bảy mươi thước.
- Khổ thân tôi, giời đất ơi!
Đến ngã tự
May quá. Một ông chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, nghe tiếng kêu, đâm bổ ở trong nhà ra, tóm ngay được cổ nó. Nó cúi xuống, mồ hôi trơn, ông ấy suýt nắm trượt. Nhưng liền vớ ngay được cánh tay nó.
Nó giằng rạ ông ấy khỏe như vâm, quật ngay nó xuống đánh oách, ngã sấp xuống đường đá, sây sát cả người, máu mê bê bết. ông ấy vồ được nó.
- Nó ăn cắp gì?
- Nó giật khăn.
ức! Một cái đá vào mạng mỡ.
- Chạy nữa đi!
Hự! Một quả tống vào ngực.
Nó méo mặt, không thở được! Đành chịu nằm yên.
Người ta chạy tới dần.
- Nắm chặt lấy nó!
Nhưng chẳng nắm, nó cũng chẳng chạy được.
Huỵch! Huỵch! Bốp! Bốp!
- Này chừa này! Ăn cắp này!
Ai cũng phải giã cho cẩn thận, để bõ lúc chạy mửa mật bắt nó!
Nó lạỵ Nó van. Nhưng ai thả Dại gì mà tha thằng ăn cắp?
Họ càng ghét, túm lại, đánh như mưạ
- Cho đáng kiếp! Nó giật đôi khuyên vàng của người ta
Họ lại đánh túi bụi, không tiếc taỵ
- Mười ba mười bốn tuổi đầu, đã dám lần lưng, lấy của người ta năm đồng bạc, rồi lại đánh người ta!
Họ lại tức dữ. Lại cho thêm một trận.
Nó đau quá. Nằm sóng soài, không nói được nữạ Hai mắt lừ đừ, khốn nạn như con chó bị trói giật bốn cẳng ra đằng sau lưng.
Họ khám túi nó.
Tang vật nó tẩu đi đâu rồỉ
- Mày để đồ ăn cắp ở đâủ
- Nó có đảng!
Nó mở mắt ra nhìn. Họ lại uỵch. Họ lại thụị Họ lại tát. Họ lại đá. Không tiếc taỵ Rồi lại hô:
- Đánh chết nó đi!
Nó cũng gần chết thực.
Những mũi giầy, những ngọn gân bò, những quả đấm, những nhát gậy, làm nó đau ê ẩm cả mình. Phen này có sống cũng thành tật!
Nó cựạ Nó nhăn. Nó ôm bụng.
Đám đông càng ùn lên. Xe pháo tắc tị không đi được. ông đội sếp lôi tay nó dậy:
- A lê! Lên Cẩm!
Nó mềm như sợi bún, không dậy được.
- Nó giả vờ đấy!
Lại mấy cái móng giò. Lại mấy cái tát. Để đợi người khổ chủ còn đương ỳ ạch chạy theo ở đằng xạ
Bà ấy mệt quá. Không lê được một bước. Không kêu được một tiếng. Cơ chừng tiếc củạ Cơ chừng hết sức. Cơ chừng hết hơị Không biết mất cái khăn, đôi khuyên, hay năm đồng bạc? Không biết bị nó đánh có đau không? Chờ bà ấy đến sẽ rõ.
- ông... bà... giữ... lấy... nó... cho... tôi!
- Có thả nó cũng không chạy được, mau lên!
Bà ấy vẫn chạỵ Bà ấy vẫn kêụ Bà ấy vẫn thở. Thảm quá!
Vòng người đứng giãn rạ Bà ấy đến. Hổn hển thở chẳng được.
- Phải, nó đây rồị
Bà ấy vồ lấy nó, vả lấy vả để.
Bà ấy đánh cứ tưởng mạnh. Nó cũng không biết đaụ Nó mê lên rồị
Bà ấy kiệt sức, ôm chầm lấy nó, rồi ngã sóng soài ngay cạnh.
- Giả tao đây!... Giả... tao... đây!
Nó không thở được. Nó nhăn.
- Nó lấy gì của bà?
- Các ông đưa... nó lên... Cẩm... hô... tôi!
- Bà mất gì?
Bà ấy cố trả lời, nói rời rạc như người sắp tắt thở:
- Nó ăn của tôi... hai xu... bún riêu... rồi... nó quịt... nó chạy!
Kép Tư Bền.
Tiểu thuyết thứ bảy xuất bản, 1935
Thằng điên
Trời nắng, cái nắng mới, làm cho người ta khó chịu, dễ sinh giận dữ, gắt gỏng với cả mọi người.
Trên con đường nhựa Hải Phòng - Hà Nội, đen như con rắn nằm nhoài không cựa quậy, anh đĩ Mùi đi chợ về, quẩy một gánh nặng những khoai lang. Đi đã năm cây số, nên mồ hôi anh nhễ nhại, ướt cả áo, lấm tấm trên trán, trên mũi, và trên cằm...
Anh đang rảo cẳng bước cho chóng hết nốt hai cây số nữa, thì trông thấy ở cạnh đường, một cái ôtô hòm liệt máy, đứng đó. Nhân có bóng cây mát, anh nghỉ chân, hạ gánh khoai xuống, ngồi ở vệ đường. Anh phanh áo ngực, rồi lấy nón, vừa quạt, vừa nhìn cái xe chết.
Đằng mũi xe, một ông độ bốn mươi tuổi, mặt mũi phương phi, áo khăn chững chạc, đương loay hoay, chữa hết máy này, sang máy khác, mồ hôi chảy ra ròng ròng. Trong xe, một người đàn bà, cũng trạc tuổi ấy, ăn mặc cũng sang trọng, thỉnh thoảng lại thò đầu ra hỏi:
- Thế nào, xe có chạy được không?
- Chẳng ăn thua gì.
Một chốc, người đàn ông trèo lên xe, vẫy anh đĩ lại gần, và nói:
- Này bác, tôi nhờ bác đẩy hộ đi mấy bước.
Vốn quen tính giúp đỡ, anh đĩ chẳng quản công. Anh bèn ì ạch dun xe đi được vài bước. Nhưng người ngồi trên xe thất vọng, nói:
- Thôi, cảm ơn bác.
Rồi quay lại nói với người đàn bà:
- Thôi đành chịụ Hết cách rồị
Anh đĩ nhìn hai vợ chồng người này - vì anh chắc là hai vợ chồng - thấy có ý lo lắng, thì anh cũng ái ngại thaỵ Đã được dịp làm quen, anh mới dám tò mò bóp cái lốp xe, sờ vào mặt kính, mó các máy móc, rồi ngó vào trong xẹ Anh thấy hai cái va ly to lắm.
Người vợ nói:
- Làm thế nào về cho kịp được?
Người chồng băn khoăn, móc túi xem đồng hồ, trả lời:
- Phiền quá! Mười hai giờ rồị Đành phải đi bộ đến ga cho kịp xe lửạ Nếu may mà gặp xe hàng thì lên vậỵ
- Nhưng ai coi xe chỏ
- Bà ở lại, tôi về một mình, kẻo lỡ việc.
- Nhưng hai va ly nặng lắm, mang thế nào nổỉ
Hai vợ chồng nhìn hai cái va ly, rồi cùng quay ra phía anh đĩ Mùi, như trong óc cùng nảy ra một ý nghĩ giống nhau vậỵ
Rồi người vợ vẫy người chồng lại gần, ghé tai nói thầm như bàn nhau một việc gì. Đoạn người chồng gọi anh đĩ:
- Này bác, bác có thể gánh thuê cho tôi hai cái va ly này đến ga được không?
Anh đĩ nhìn hai cái va ly, rồi nhìn hai thúng khoai lang. Anh gãi gáy, ra ý nghĩ ngợi, rồi bảo:
- Có nặng không, thưa ông?
- Hơi nặng. Nhưng gánh thì cũng cân.
Anh đĩ nhấc thử lên xem, thấy cũng vừa sức. Anh gật đầu:
- Được, ông để nhà cháu gánh giúp.
Anh đĩ đặt hai chiếc va ly lên hai thúng, rồi ghé vai vào, gánh đị Người đàn ông theo saụ Còn người đàn bà thì ở lạị
Gánh nặng. Trời nắng. Anh đĩ mệt thở hơi taị Người đàn ông đi trước, vừa nực, vừa nhọc, vì từ thuở bé, chưa từng bị khổ như thế này bao giờ. Nhưng thấy anh nhà quê rụt cổ, nhăn mặt vì gánh nặng, nên ông ta cũng ái ngại:
- Có nặng không, bác?
- Bẩm ông, nặng ạ. ông đi đâủ
- Tôi đi lên tỉnh.
- Thưa thế ông ở đâu tả
- Tôi ở ngay tỉnh.
- Thế thì thích lắm nhỉ. Tỉnh có nhiều phố vui lắm. Ngày trước, cháu đã được lên tỉnh một lần.
Anh đĩ thấy ông ấy nói chuyện dễ dãi, nên vì cũng muốn quên gánh nặng, đường xa, trời nóng, mới hỏi thêm:
- Ngoài tỉnh chắc bây giờ vui vẻ hơn trước, ông nhỉ?
- Phải, hôm nào bác rỗi, lên tỉnh mà chơị
- Cháu chẳng quen ai, mà cũng chẳng có việc gì mà lên. Đi một mình, nhỡ lạc chết.
Thấy bác nhà quê thực thà, ông kia chẳng hẹp gì mà không tỏ hết cái tử tế với người giúp mình, bèn nói:
- Được, khi nào lên tỉnh, bác cứ lại nhà tôi chơị Nhà bác ở đâủ
- Nhà cháu ở gần ga, cách một cây số. Qua làng cháu rồi mới đến gạ
- Vậy ra bác phải đi thêm cho tôi một thôi đường nữa à?
- Vâng, nhưng chẳng ngạị Cháu làm ăn vất vả quen đi rồị
- Thôi được, tôi sẽ đãi bác hai hào cho bõ công.
- ông đừng cho, cháu không lấy đâụ Nhân thể chuyến gánh, thì cháu giúp ông, chứ công sá gì.
- Bác không lấy, tôi không bằng lòng. Bác cầm về mua quà cho cháụ
- Không. Người ta ăn ở với nhau, cốt giúp nhau lấy tình, chứ tiền mà làm gì?
Người ấy thấy anh đĩ nói với mình một cách nghĩa hiệp, thì ngợi khen mãị Từ lúc ấy, hai người nói chuyện thân mật như bạn. Khi tới ga, ông ta cứ lấy ra hai hào đưa anh đĩ. Anh đĩ cười, lắc đầu:
- ông đừng làm thế. Hai hào chứ hai đồng cháu cũng không lấy đâụ
ông ta lại nằn nì:
- Bác cứ cầm cho tôi bằng lòng. Tôi biết là công bác to hơn thế này kiạ
- Không mà, cháu đã nói là ăn ở với nhau cốt lấy tình, chứ tiền mà làm gì.
Khi xe lửa đến, ông ta nắm tay anh đĩ, và nói:
- Bác thực có bụng tốt ít có. Bác là một người đáng quí, không bao giờ tôi quên. Khi nào bác lên tỉnh, nhớ lại nhà tôi chơị Tôi sẽ đưa đi xem phố. Nhà tôi ở phố Bờ Sông, số 36. Nhớ nhé. Thôi, chào bác, cảm ơn bác.
- Vâng, không dám. Chào ông ạ.
Một câu mời dơị Một câu hứa vượn. Ai ngờ đến cuối năm ấy, anh đĩ Mùi có tiền, lên tỉnh sắm tết.
Mua các khoản xong, anh mới đi xem các phố xá. Anh nhớ người khách qua đường, nhớ gánh va ly mấy tháng trước, cũng muốn tìm xem nhà người ấy ở đâụ Nhưng nào anh có nhớ phố và số nhà để hỏi thăm đến.
Đi hết phố này sang phố khác, nhà nào anh cũng ngắm, cũng nhận kỹ lắm. Vì không mấy khi lên tỉnh, lại được rảnh rang, nên anh chẳng chịu lỡ dịp mà chẳng đi cho khắp. Anh dừng chân trước hiệu cân gạọ Anh dừng chân trước xưởng ôtộ Anh xem cái cột đong dầu ét xăng, chiếc vàng, chiếc đỏ. Rồi anh đến phố Bờ Sông. Anh thấy một nhà có hàng rào sắt. Nhân có bóng cây, anh đứng nghỉ.
Anh đưa mắt vào trong nhà để nhìn. Người đi lên đi xuống tấp nập, người nào người nấy ăn mặc rất lịch sự.
Anh ngắm nghía các câu đối, hoành phi, sơn son thếp vàng. Anh nhìn các bồn cây, lá hoa bay tơi tả.
Bỗng anh thấy ở trong nhà có tiếng gắt toang toang, mà đầy tớ thì chạy cuống quít. Rồi có một người đứng ở hè, nét mặt hầm hầm. Anh thoạt trông người ấy, lấy làm ngờ ngợ. Nhìn kỹ, thì té ra chính là cái ông hỏng ôtô độ trước.
Vậy thì anh đĩ Mùi quen ông ấy rồị Anh nghĩ lại cái việc anh đã giúp ông ấy, những câu ông ấy nói chuyện rất tử tế, dễ dãi, cùng những lời ông ấy khen anh và mời anh. Nay anh đã tìm thấy nhà ông ấy, không lẽ anh lại không vào một tý hay saọ Vì mấy khi anh đã lên đến tỉnh?
Anh đĩ đứng hẳn ở giữa cổng để nhìn vào cho cẩn thận. Anh sợ trông lầm chăng. Anh ở nhà quê quen, trông người trên tỉnh, thường thấy người nào cũng sang trọng giống người nàọ
Anh thấy ông kia cũng nhìn anh một lúc. Nhưng quái, sao không thấy ông ấy gọỉ Hay là hôm nay anh đội khăn và mặc áo dài, nên trông khác, mà ông ta chưa nhận ra chăng?
Anh bèn giơ tay ra vẫy, và gọi:
- ông ơi!
Lạ quá, anh thấy ông ấy quay trở vàọ Và tiếng gắt mắng lại to hơn ban nãỵ Rồi bỗng có người đầy tớ ở trong chạy ra, hất hàm hỏi anh:
- Đi đâủ Vào đây làm gì?
- Tôi quen ông kiạ Tôi vào chơị
- Ai chơi với màỷ Thằng điên!
- Tôi không điên đâụ Tôi quen thật đấỵ
- Đừng láo! Liệu không tao báo đội sếp đưa vào nhà thương. Cút đi!
- Anh hỏi lại ông ấy mà xem. Tôi không điên đâụ Tôi quen ông ấỵ ông ấy mời tôi đến chơi thật đấy mà.
- Mày đừng giở thói điên ra đâỵ Cút đi!
Người đầy tớ vừa nói, vừa dắt tay anh đĩ, lôi ra cổng.
- Mày là thằng điên. Chỗ này không phải là chỗ mày đến nói láọ ông ấy bảo tao đuổi mày đi, vì mày điên, nghe chưa!
- Tôi quen thật. ông ấy nhờ tôi gánh va ly lên ga đấy, cái ngày ông ấy hỏng ôtô ấy mà.
Người đầy tớ nhìn qua nét mặt anh đĩ, rồi hỏi:
- Anh nói thực?
- Tôi nói dối làm gì? ông ấy không mời, sao tự nhiên tôi dám đến. Tôi không điên đâụ ông ấy tử tế lắm.
Người đầy tớ lại nhìn anh đĩ một lượt nữa, thấy bộ mặt anh quá thực thà, thì thương hại, nên mỉm cười, vỗ vai anh, và ôn tồn giảng:
- ồ! Thế thì anh chẳng điên là gì? Lúc người ta hỏng ô tô khác, lúc người ta ở nhà tiếp khách khác. Chứ anh tưởng người ta lúc nào cũng như lúc nào à? Thôi, anh về đi là khôn...
PTBNS số 48; 1-12-1939
Thanh! Dạ!
Thanh!
- Dạ!
Trong nhà hôm nay tấp nập như mở hộị me cho phép cả sáu cô ra Đồ sơn. ngay từ bảy giờ sáng, sáu chị em đã gọi nhau choàng cả dậỵ các cô kệ cho đôi mắt đỏ gay nó bốc hỏa, các cô tranh nhau rửa mặt, rồi thi nhau trang điểm. mùi phấn, mùi nước hoa thơm phức cả nhà. mỗi cô chọn một màu áo, rồi ngắm hết cho mình, lại ngắm cho nhaụ
chung quy chỉ chết một mình con thanh. Đã bận, lại thêm tíu tít. mới gánh được một gánh nước, cô diễm đã gọi giật:
- thanh!
- dạ!
- hãy để thùng vào trong nhà, đem giấy này lại đằng cô vân mượn cho tao quyển tiểu thuyết đã.
nó nhặt bức thư ở bàn. thế là tất tả chạỵ loáng một cái, nó đã mang quyển sách bìa nát nhàu về.
vừa lúc đó, cô tuyết sấn lại nó, và quát:
- thanh! mày làm ăn thế nào mà chả có giọt nước nào rửa chân thế! muốn sống đi gánh về mau không?
con thanh chẳng nói chẳng rằng, lại đặt đòn gánh lên vaị
rồi đến cổng, nó quay lại, thấy vắng người, bèn lẩm bẩm một mình để minh oan:
- khốn nhưng còn phải mổ gà để nấu cháọ
Đến cửa, chưa ra thoát, nó đã thấy hai chiếc xe hòm vừa đỗ. một "đội" người nhảy xuống, toàn quần áo tây, đầu trần. tiếng gót giày quèn quẹt, đồng thời, tiếng cười nói vang vang.
- ồ kìa, các anh đã đến sớm thế?
một người giơ cổ tay, trỏ chiếc đồng hồ chữ nhật:
- y hẹn. Đúng tám giờ. không sai một phút.
- thế thì chúng em xin lỗi các anh nhé. chín giờ bắt đầu đi cũng được. xe nhà, sợ gì. Đừng chê chúng em là rùa nhé.
rồi tiếng cười khanh khách để nhận rằng câu pha trò ấy đậm đà.
- Thanh!
- Dạ!
Con Thanh, lạy trời phật, mới đi được đến vệ hè. nghe gọi, nó quay lại, không thấy ai, lại toan đi cho xong.
- Thanh!
- Dạ!
Nó dừng bước. cô nguyệt ra tận hè, chỉ tay vào mặt nó, cong cớn mắng:
- Con ranh đi đâu đấỷ
- Con đi gánh nước.
- Sáng sớm chẳng gánh, hễ có khách là sắp lẩn phải không?
nó đặt gánh, nói:
- Bà sai con gánh nước, nhưng đã có lúc nào đi được đâụ
cô nguyệt trừng mắt, để im cho nó cãi, rồi vênh váo hỏi:
- nhưng bà đang gọi rầm mày ở dưới bếp ấy, mày có biết không?
bà gọi rầm! Đến cả ông bà ông vải nó ở dưới âm phủ dễ lúc nào cũng phải cố lắng tai để nghe bà gọi và nhắc nó. vì ông bà ông vải nó muốn được yên giấc ngàn năm.
nó tặc lưỡi, quẩy thùng không và về.
khách khứa nhốn nháo khắp nhà. con thanh len lén đi, cúi gầm mặt, tránh hết người này lại tránh người nọ. nó không dám nhìn ai, cũng không dám nghe aị
- thanh!
- dạ!
- mày đi đâủ
- dạ, thưa cô, bà sai con đi mua hạt tiêụ
bỗng vành khăn nó xổ ra, rồi cả hai món tóc nó bị kéo giật. nó ngật đầu ngoảnh lạị một cậu đắc chí, cười hềnh hệch, nắn lại chiếc cà vạt, nói:
- gớm, các cô chiêu nhà này kiệt quá, không cho nó được cái khăn nhung cũ. chó gầy hổ mặt người nuôi!
nó biết là việc đùa, hết trống ngực, tủm tỉm cười, vừa đi vừa quấn khăn. nhưng vẫn không dám để tai đến những lời bàn tán về nó, sau lưng nó.
rồi mặt trời lên caọ ánh nắng chói lọị một mảng áo lưng nó bết vào với thịt. khi trở về, qua buồng khách nó bẽn lẽn, ngượng nghịụ những tiếng nói cười bàn tán vẫn tranh nhau làm loạn nhà.
- thanh!
- dạ!
nó vội quẳng đôi thùng với cái đòn gánh cạnh thạp nước, chạy rạ
- anh bảo nó mua gì?
cậu ấy chẳng đáp, lấy tờ báo để quạt, nghiêng đầu ngắm nó. chẳng trả lời câu hỏi, cậu ấy bĩu môi, nói:
- nhưng hai tay nó bẩn lắm.
- làm gì?
- nhà có cái bị hay cái hộp nhỏ nào không?
- có.
cậu ấy quẳng ra bàn ba xu, bảo nó:
- mua nước đá. nhưng không được mó tay vào nhé.
cô nhuận nói:
- chạy lên! hễ tan hết thì chớ chết!
nó sợ chết, nên ba chân bốn cẳng, chạy như baỵ
tội nghiệp con bé, khi nó về, trên mặt mũi, mồ hôi nhỏ giọt. nhưng hai mắt nó long lanh, vì vừa làm tròn được một việc mà không phải mắng. nó sung sướng, cái vui sướng của nhà nghệ sĩ, nhìn hết người nọ đến người kiạ
cô nghi khen:
- thưởng cho con thanh cái mề đaỵ
nó sắp tủm tỉm, thì cô tuyết đã lên giọng đanh đá, mắng nó:
- Đi mà gánh nước. chậm như sên! bà ở bếp ra mà không có gì rửa tay, thì mày ốm đòn.
bỗng nó nghĩ đến bà - bà nghĩa là những ngọn roi, những câu chửi - nó sợ.
nhưng cô ngọc, độ mười ba mười bốn tuổi, ở trên gác, đánh phấn xong rồi, mà mới xỏ được một bên tay áo, đã vội chạy xuống, hỏi:
- con thanh đã về đấy à?
- rồị
- thanh!
- dạ!
- làm gì đấy.
- ồ! Để cho nó gánh nước, không mẹ mắng chọ
cô ngọc ngần ngừ:
- nhưng mà hãy gượm. thanh! Đi quàng lên cho tao vậỵ mày ra thợ giặt, bảo nó là ngay cho tao chỗ này nhé.
một là con thanh ngoan, hai là nó nhát, nên nó lại khoàng cả hai cẳng mà đi rõ nhanh.
rồi nó về, vẻ mặt lo lắng. nó giao hẹn:
- thôi, các cô để con quẩy một gánh nước, kẻo bà đánh con nhé.
- ừ.
- mau lên!
- à, nhưng thanh! tao bảọ một công đôi ba việc.
- dạ!
- mày đi mua cho tao ba xu ô maị Đằng chua ấy nhé.
rồi cô kim nhìn mọi người, chế nhạo:
- vừa nói đến ô mai chua, cậu nào cậu nấy đã nuốt nước dãi!
tiếng cười vang cả buồng. cô kim mở ví, nhặt chọn cho hết trinh bảo Đại mới đến trinh khải Định. con thanh chờ. nó đập bàn chân nọ vào bàn chân kia, cho đỡ sốt ruột.
rồi nó cầm tiền, nhắc đòn gánh lên vaị vừa ra đến cổng, cô hà cười sằng sặc, gọi theo:
- thanh!
- dạ!
nó đứng lại, thở dài, chờ lệnh.
- mày mua về, phải đưa cho taọ
cô kim xua tay:
- không được.
một cậu bảo:
- thanh! mày cứ đưa cho taọ
rồi nhao nhao mỗi người một điềụ nó chẳng nghe ra sao cả. mà hễ một bước, thì lại bị gọi:
- thanh! phải đưa cho tao!
chờ các cậu, các cô đùa nhau để mất thì giờ của nó, nó lo lắm. nó đánh liều, quay bước ra đị
- thanh!
- dạ!
- hãy về tao bảo!
nó lại phải thủng thẳng trở lạị cô minh nói:
- chờ đấy, tao lấy tiền, mua thêm năm xu nữạ thế là ổn.
rồi cô quay lại mọi người:
- Để tôi đóng vai nhà từ thiện, bố thí ô mai cho cả mọi ngườị
tiếng vỗ tay, tiếng cười vang động cả đến nhà dãy phố bên kiạ con thanh đứng tựa vào tường, chờ cô minh đưa tiền, ngắm cái cảnh êm đềm, vui vẻ trước mắt nó. bỗng một tiếng gọi như gắt ở dưới bếp đưa lên:
- thanh!
cô tuyết trợn mắt, xua tay cho mọi người im và nhìn con thanh, hất hàm bảo:
- kìa! bà gọi gì màỵ
- thanh!
tiếng gọi như quát. con thanh vội vã:
- dạ!
trên nhà, các cô các cậu nhìn nhau, sợ hãị
cô ngọc bảo khẽ mọi người:
- bà cụ đã nổi tam bành cái gì ở dưới kia kìạ gớm!
ai nấy yên lặng. tiếng léo xéo trong sân làm mọi người ngồi trên ghế, nhu mì và trật tự.
rồi cô tuyết rón rén dòm vào sân, thì thấy mẹ, cái đuôi gà ở đầu khăn ngỏng ngược lên trời, mặt đỏ nhừ, quệt cái tay áo cánh đẫm những mồ hôi lên trán, tay cầm thanh củi, trỏ vào thạp nước, trợn tròn mắt, rồi phang vào đầu, vào mặt, vào lưng con thanh túi bụi, để đánh nhịp với những tiếng: - lười! lười! lười! lười! lười! lười! lười!...
ptbns số 26; 1-12-1938
Thật là phúc
Chú lính cơ Ván-cách(Số hiệu lính 24, nguyên từ tiếng Pháp vingt-quatre), cứ buổi chiều, ngồi trên phản trong trại, trông ra ngoài mành mành, thì cũng cho đôi mắt được một bữa tiệc no nê bằng cuộc ngắm những chị đi gánh nước ở giếng trong huyện.
Trong các chị gánh nước đó, chú chú ý nhất một chị, là "ma phăm" anh hàng bánh giò ở cổng huyện, tên là Tam.
Cứ kể ra, chị Tam trông cũng tình thực! Cái quần sồi đen nhánh, cái áo cánh hồ lơ, cái thắt lưng đỏ phấp phới bay theo gió, cái bộ xà tích lủng lẳng đập vào đùi, đã làm cho Ván-cách ta say lử cò bợ! Không những thế, chị Tam lại còn có cái bộ mặt "gioong"! Mỗi khi chị gánh hai thùng nước nặng mà đi qua trại, thì mắt cố nhìn thẳng, mũi cố cầm hơi, tay nguẩy đằng sau, đầu nghiêng bên cạnh, cố kéo cái hò áo cho kín ngực, tuy mất vẻ tự nhiên, nhưng mũm mĩm như quả đào Vân Nam mới trẩy, khiến cho Ván-cách ta chết cũng vớ vội lấy cái đàn bầu, mà tẳng tẳng vài tiếng. Nhiều khi thấy chị Tam hớn hở, chú chỉ phàn nàn có một câu rằng:
- Hoài của! Giá mình "sú-vơ-nia" cho nó ít giấy ráp để đánh đôi thùng rõ sáng, thì thực là bảnh chọẹ
Nói nôm ra, chú Ván-cách cũng muốn chim chị Tam đáo để. Có bận chú định ngồi trong mành mành, ví cho chị Tam một câu rõ haỵ Giá chú biết làm thơ, làm văn thì hẳn đã nghĩ được một bài trường thiên rõ dài để tặng! Khốn nhưng chú chỉ quen thói tộp ngực lần lưng dân, cho nên chỉ học được mốt chim gái của bạn đồng nghiệp, thẳng như nòng súng, là giữ nón, chắn đường, hoặc nắm cổ tay mà bắt nói một câụ
- Van nhà, nhà buông em ra!
Nhưng mà người anh em chỉ dám "tiểuđi", thế thôi, chứ mà thầy quản đồn này nghiêm khắc lắm, lỡ chú bị "lập-gioòng", hoặc bạt tai thì phải biết! Cho nên, lắm lúc gặp cơ hội tốt, mà chú nghĩ đến hình phạt nhà binh, chú đành phải "đê mi tua" ngay!
Còn một kế sau cùng, chú nghĩ đã chín lắm, là nhân ngày lĩnh lương, hoặc gặp buổi bóp nặn được thằng dân nào, chú quyết bỏ hẳn ba hào chỉ, ra hàng chị Tam đánh một bữa bánh giò rõ no, thế là "a-lê", tha hồ tán chuyện!
Buổi tối hôm ấy, trong túi chú Ván-cách xủng xoảng có tiền. Chú bèn búi tóc yên ngựa cho thực nền, gài cái lược xương trắng cho thật khéo, chít cái khăn lượt cho thật vố, vuốt ít nước hoa cho thật thơm, rồi soi gương đằng trước, đằng sau, ngắm nghía mãi, mới thay quần, gài khố, bóc gói thuốc lá mới, phì phèo, huýt còi đi "la mát".
Lúc bấy giờ đã vào chín giờ khuyạ Nhà hàng phố đã đóng cửa kín mít. Chú Ván-cách lượn qua nhà chị Tam mấy lượt, thổi bài kèn "la vầy" rõ lẳng để đánh tiếng, rồi dòm qua lỗ liếp. Chị ngồi một mình, đương chẻ lạt. Chú ngắm nghía thế một lúc lâu, đắn đo, không biết thằng chồng đi đâu, nhưng cứ liều gõ cửạ Chị Tam đương lúi húi, bèn ngẩng đầu lên hỏi:
- Aỉ
- Tôi đây! Cho tôi mua ít bánh giò!
Chị Tam đứng dậy vừa nâng hé cái liếp ra, Ván-cách đã lách được vào rồị
- Chào chị, "mămđen" còn bánh giò không?
- Thưa thầy, hôm nay phiên chợ, nên nhà còn ít thầy mua giùm cho cháụ
- Được! Còn bao nhiêu mang cả ra đâỵ Anh ấy nhà chị đâủ
- Thưa thầy, chạy đâu ấy ạ.
Ván-cách được dịp tốt, "a la văng" ngay đến trước mặt chị Tam, vừa cười vừa lả lơi nói:
- "Cẩm-ma-lách" với nhau cả, thầy với cháu gì! Đừng nói thế, phải tội!
Nói xong, chú sấn ngay vào, nắm lấy cổ tay người yêu một cách âu yếm:
- Nhà ơi!
Thế rồi mắt chú lim dim như lúc ngắm súng. Chị Tam nhanh thoăn thoắt, giật ngay ra, lùi lại mấy bước:
- ô hay! Thầy quyền làm cái trò gì thế nàỷ Tôi kêu to bây giờ!
- Mình ơi, tôi yêu mình lắm!
Vừa nói, chú vừa sấn vào, ôm lấy chị Tam, đẩy ngã xuống đất, rồi cũng ngã theọ..
- ối giời đất ôi! Thầy quyền làm gì tôi thế nàỷ
Tiếng kêu rầm hàng phố. Thình lình, anh Tam ở đâu chạy về đến nơị
Hẳn các ngài đã đoán trước ngay rằng máu ghen của anh Tam mà đùng đùng nổi lên, thì chú quyền Ván-cách sẽ bị trói gô vào chân giường, và phải trận đòn nát da tan thịt.
Thế nhưng anh Tam tuy hơi tức đầy lên cổ, mà cũng cố nén ngaỵ Anh sợ Ván-cách là người Nhà nước lại có sức, có quyền hơn anh, mà anh thì hèn hạ. Chi bằng thôi, thu xếp cho êm là hơn cả. Cho nên anh chỉ lấy lời ngọt ngào mà nói với Ván-cách, chứ không dám lôi thôị
Vậy mà Ván-cách nào phải người biết điềụ Thấy Tam chịu nước lép, chú lại làm già, sấn đến, tát cho Tam mấy cáị
Ngờ đâu Tam giữ được cái chầy giã giò, giơ lên đỡ. Ván-cách tưởng Tam đánh, quờ tay, giật phắt ngay được chầỵ Rồi giơ thẳng cánh: "A, đê, toa, hấp!". Sống mũi Tam máu chảy đầm đìa! Tam ngã quay ra, miệng kêu rầm làng xóm.
Nghe tiếng kêu cứu, người phố kéo lại rất đông, mới gỡ được đám đánh nhaụ Nhưng Ván-cách vẫn còn hung hăng, trỏ vào mặt Tam mà mắng:
- Mày láo! "Tăng xương"! Mày không biết ông là ai à?
Hàng phố thấy chuyện bất bình, ai cũng thương hại vợ chồng Tam bị bắt nạt một cách vô lý. Lúc ấy, Ván-cách đã về rồi, nên nhiều người xui Tam đi trình ngay quan huyện, để ngài trừng phạt kẻ hay... lấy thịt đè ngườị
- ừ, cậy là lính huyện mà vào hiếp vợ người ta, lại còn đánh người ta, thì pháp luật nào dung?
- Phải đi kiện mới được, bắt nạt thế, ai chịu nổi!
- Cứ kiện đi, đã có tôi làm chứng. Nếu cứ để nó quen thói, thì nay nó hiếp vợ anh, mai nó tha gì vợ tôỉ
Sau một lúc bàn ra bàn vào, mãi anh Tam mới dám đội khăn, mặc áo, đi vào huyện
Quan ở trong nhà tự Ngài đương đánh tài bàn. Thấy đương đêm có ầm ầm tiếng kêu, ngài cũng đoán là có chuyện gì to xảy ra đó. Nhưng vì chưa có ai báo, thì chưa chắc đã to bằng ván bài phải báo của thầy thừa ù sửu bàn thiếu lưng!
Quan cười ha hả. Các cậu lệ thấy quan vui, cũng tủm tỉm liếc nhaụ Bỗng có tiếng rì rào ngoài cửa, và người kéo lố nhố đầy sân. Cậu lệ đang hầu nước bài, phải ngấc mắt lên nhìn mãi, đến nỗi phải chửi, vì quan bàn quân ăn quân đánh mà không biết.
Lúc ấy, tiếng xôn xao càng to, nên quan biết tất là đám kêu to ngoài phố khi nãỵ
Thật may cho anh Tam vì trình quan ngay vào lúc ngài đương vuị Đáng lẽ phải chờ đến buổi hầu sáng hôm sau mới được vàọ
Quan cho cậu lệ hỏi chuyện, thì thấy cậu dắt anh Tam vàọ Giá lúc ấy quan không mải nhìn quân bài dưới chiếu, hẳn ngài đã thấy anh Tam mặt mũi bê bết máu mệ
Tam vái chào, khúm núm gãi đầu, chắp tay, bẩm hết cả nỗi vợ bị hiếp là thế, mình bị đánh là thế. Câu chuyện rất dài, nên anh phải kể làm ba bốn nấc mới hết, vì thỉnh hoảng quan cắt ngang mà hỏi vặn:
- Khoan! Cửu văn đấy có phải không? Chíu... Gượm! Gì? Sao không xướng to lên?
Khi câu chuyện bẩm xong, thì vừa hết ván bàị Quan ngẩng đầu lên nhìn anh Tam, rồi cho gọi chị Tam vàọ Quan ngắm một lúc, hai con mắt sáng quắc như hai ngọn đèn trời, khiến cho hai vợ chồng nhà hàng bánh giò phải thất đảm. Rồi ngài nghiêm nét mặt lại, như có ý muốn nghĩ để phân xử cho công minh.
Lúc đó, ngoài sân tối mù mù. Người đứng xem đằng xa cố ngậm miệng, nín hơi, để nghẹ
Một lúc, ngài sang sảng tiếng truyền xuống, như ông Long thần ban hạnh phúc cho chúng sinh mà dạy rằng:
- Đáng lẽ đương đêm chúng bay đánh nhau, thì không biết nếp tẻ ra sao, ông hãy bỏ tù hăm bốn giờ cái đã. Nhưng ông tha cho về mà làm ăn lương thiện, không được lôi thôi nữạ Vả lại vợ mày mặt mũi thế kia, chắc hẳn cũng có thế nào với nó, thì nó mới thế chứ? Thôi ông cho về. ông đang bận.
Một tiếng "dạ" dài, anh Tam thụp xuống đất lạy tạ quan hai lạỵ Đoạn anh lom khom lui ra, nét mặt vui vẻ như người biết an phận, rỉ tai nói với vợ:
- May quá! Suýt nữa thì phải ngồi tù. Thật là phúc! Lạy quan lớn ngàn năm!
Annam tạp chí, số 17, 1931
Thế là mợ nó đi tây
a bord du chantilly, le 10 décembre 1927
cậụ trời ơi, thực là tôi để lụy đến cậu! nếu biết trước rằng cảnh ly biệt nó xé tan nát gan ruột tôi như thế này, thà cứ chịu ở nhà dạy học, đỡ cậu mỗi tháng ba bốn chục bạc lương, thì được gần gụi gia đình, sớm tối vui thú với cậu, với con, việc gì đòi xuất dương du học, đến nỗi bây giờ vất vả một mình, thân gái dặm trường, khóc thầm với bóng!
từ lúc con tàu chạy xa, nhìn vào bờ, chỗ cậu đứng bế con, chỉ thấy cái mùi soa bay phấp phới mà thôi, thì tôi bồi hồi tấc dạ, giọt lệ khôn cầm, tâm sự ấy bút nào tả xiết! chỉ tiếc ngày thường không chịu nghiên cứu văn chương an nam, để lúc ấy tôi làm một bài thơ kỷ niệm sự biệt ly!
vào đến buồng, nằm lả trên giường, tôi không buồn dậy nữạ Đã toan lấy bút ghi chép mấy câu vào quyển sổ tay, nhưng thảm quá, nước mắt đã tràn trụa, không nghĩ ra câu nào mà viết! cậu ơi! cậu có làm thế nào cho tôi đỡ nhớ không?
nhưng nay biết làm thế nào bây giờ? con tầu ác nghiệt nó cứ mỗi lúc một làm cho mình xa nơi xứ sở thân thích, rồi nó lại che kín bằng bức màn sương. nghĩ lại lúc mới cạo răng, mặc bộ quần áo đầm, lúc mới bước chân xuống tàu, trong bụng hăm hở thế nào, thì bây giờ nhớ đến cái tình vợ chồng, cái tình mẹ con, tối tối được xum họp cùng nhau dưới ngọn đèn, thì ruột tôi lại cũng đau như cắt thế!
nhưng đã trót đi thì cứ dấn, tôi không nản chí đâu, cậu ạ! ở hà nội, thì chín khoa đã trượt cả, thì sang tây phen này, ba năm ắt giật được mảnh bằng tú tàị cậu sẽ chẳng xấu hổ mất tiền cho vợ du học đến nỗi tay trắng về không. tôi buồn thực. nhưng buồn bao nhiêu, tôi nhớ cậu bấy nhiêụ tôi nhớ cậu bao nhiêu, tôi lại càng không dám phụ công cậu nuôi cho ăn học.
thằng chó con, trông ảnh nó, tôi nhớ nó quá! nó có hỏi tôi luôn không? nó có biết rằng mợ nó đi tây không? mấy hôm nay, nó có hay quấy không? cậu nhớ cho nó chủng đậu đi nhé. mẹ tôi ở nhà có buồn không? nếu cậu thương nhớ tôi, thì nhờ cậu thay tôi, thỉnh thoảng đi lại khuyên giải mẹ tôi cho khuây khỏạ viết đến đây, nghĩ đến mẹ già, tôi lại tủị chẳng may nhà nghèo, đến nỗi bao nhiêu phí tổn đi tây học, tôi để phần cậu chịu cả! tôi thương cậu quá. thực là một người chịu khó nhọc một mình để kiếm lương nuôi vợ đi du học như cậu, ít có lắm.
nhưng cậu cũng nên thương tôi mà đừng chơi bời gì cả. lúc nào cậu cũng nên nghĩ đến tôi, thui thủi quê người, vì thương cậu mà đêm ngày cố công đèn sách. tôi nói thế, chứ chắc chả đời nào cậu lại phụ lòng yêu của tôi nhỉ! quái, sao hôm nay tôi thấy lao đao thế này, hay là say sóng rồi đâỷ
à quên, cái hộp phấn của tôi dùng dở để ở bàn, cậu cho mang lại đằng chị diệp hộ, vì chị ấy xin, mà tôi quên đi mất.
xin chúc cậu và con mạnh khỏe luôn.
tạ
tuyết anh
a bord du chantilly, le 1er janvier 1928
cậu,
những thư trước tôi gửi về, chắc cậu tiếp được cả rồị lá thư thứ nhất và thứ ba, có lẽ cậu xem lấy làm buồn lắm thì phảị sự đó tôi cũng biết lỗi, đáng lẽ người đi phải yên ủi kẻ ở bằng những câu vui vẻ, chứ tôi lại kể nỗi lòng thương nhớ chồng con, cho cậu phải phiền, thật bây giờ tôi lấy làm hối hận quá.
gần tới marseille rồi, cậu ạ. từ khi con tàu qua kênh suez, vào địa phận bể méditerranée tới nay, tôi thấy phấn chấn trong lòng lắm. trời tây bảng lảng bóng vàng, cái không khí êm đềm, nhẹ nhõm, làm cho tôi được thấy như khỏe mạnh hơn. nhất là từ khi tôi được quen mấy bà người pháp cùng đi một chuyến, thì những lúc nhớ nhà, nói chuyện cũng được khuây buồn. cho nên càng khuây buồn bao nhiêu, tôi càng nhớ đến cậu bấy nhiêụ chỉ thương cho cậu lúc này, có lẽ đang nằm thừ trên giường mà nghĩ đến vợ, lênh đênh giữa bể, không biết có bình yên mạnh khỏe không. nhưng cậu nên yên tâm nhé. vợ cậu buồn thì vợ cậu được thở than với bạn được viết thư nói chuyện với cậu, chứ những lúc cậu nhớ vợ cậu thì cậu than thở cùng aỉ cậu chỉ ngậm mối sầu trong bụng mà không viết được ra thư, vì thư của cậu dù có gửi ngay, tôi cũng chưa tiếp được! sự đau lòng mà không tỏ ra được mới thật là nên thương!
quái tôi lại nói chuyện buồn rồi! thế nàỏ hôm lễ noel vừa rồi, cậu có mua cho con thức gì cho nó chơi hay không? hôm nay cậu có đi chào tết hay không? chào những aỉ ở dưới tàu, sáng ngày, hành khách cũng tụ họp để chúc nhau, vui đáo để. mẹ tôi vẫn được mạnh khỏe đấy chứ? cậu đã khỏi thực đau mắt chưả hỏi thế khí lẩm cẩm, ngót một tháng rồi, còn gì mà chưa khỏi nhỉ!
thôi, hôm nào tới marseille, tôi sẽ đánh dây thép báo cậu biết.
vợ yêu cậu
tuyết anh
aix-en-provence, le 7 janvier 1928
cậu,
ban nãy tới marseille, tôi đã đánh dây thép về cho cậu biết rồị chắc cậu đã tiếp được hơn một tháng nay, mà biết đâu, trong khi cái thư này vượt biển về hải phòng, nó không gặp cái thư của cậu gửi cho tôi sang pháp. thế mà chúng nó không bắt tay nhau, tệ nhỉ!
tôi tới aix mới được hơn một giờ đồng hồ! tuy trong người vẫn còn lao đao như khi ở dưới tàu, nhưng không thể nào ngồi yên mà không thảo vài câu để nói chuyện với cậu biết được.
ông bà madron ra tận marseille đón, cậu ạ. ông bà ấy vẫn vui vẻ như xưa, duy ông ấy thì trông khác trước vì bây giờ cạo trụi cả râu đi rồị ông bà ấy nhận ra tôi chứ giá để kệ, có lẽ tôi không biết ông ấy nữạ bà ấy có hơi già hơn trước, và nói rằng từ ngày về pháp, thì sự làm ăn có vất vả hơn ở hà nội tạ thằng robert nó còn nhớ tôi! bây giờ nó lớn lắm, bằng con người ta lên mười ấy! ông bà madron được mấy chai nước mắm của tôi biếu thì mừng rơn, nói rằng từ ngày về tây, chỉ nhớ nhất là thứ đồ ăn đặc biệt ấỵ ông bà ấy quý lắm, đem cất kỹ vào trong tủ.
à quên, từ marseille đến aix, chỉ có 29 km thôi, chứ có phải 39 km đâu mà trước cậu cứ cãi mãị tôi đi xe điện chứ không đi xe lửa, chỉ độ ngót một giờ thì tớị hai bên đường phong cảnh đẹp lắm, nhưng vì tôi mệt, nên chưa quan sát kỹ, để một thư sau, tôi sẽ tả rõ.
mai tôi nhờ ông madron giới thiệu hộ với giáo sư bourguignon độ đến tháng octobre này thì có thể thi vào lớp 1ère ở lycée mignet được.
kính chúc cậu và thằng chó mạnh khỏe,
jet'embrasse
tuyếtanh
aix, le 12 janvier 1928
cậu,
từ nay, cậu viết thư cho tôi, thì cứ đề về no 2 phố eméric david là nhà tôi thuệ
tôi sở dĩ phải thuê nhà, là vì ở đằng ông bà madron chật quá, không có chỗ tĩnh để học, mà chính bà madron giữ ý, không muốn để tôi ở đằng ấỵ nhưng thế là tiện lắm. nhà thuê mất 200 f một tháng. rẻ đấy, vì chủ nhà là người bà con với ông madron. chỗ ở xinh lắm, lại được gần nhà hội quán của tụi học sinh an nam, số nhà 25. từ nhà tôi đến nhà ông bourguignon cũng gần. ông bourguignon ở đầu phố, giáp ngay cours mirabeaụ mỗi khi tới đây, thấy xe điện chạy về phía marseille, thì tôi lại nhớ nhà lắm. nhất là ở trước cửa nhà trọ, có một cái cây sao mà giống cái cây trước cửa nhà ta thế! cũng có cái cành cụt, trước cậu vẫn bảo như cái nắm tay giơ ra để ục nhau ấy mà!
à, gớm chiều hôm nay, ở café leaydet, gần phố tôi ở, có một chuyện xảy ra ghê cả ngườị có hai người học sinh ta họ cãi nhau về nghĩa lý văn bài thế nào, thành ra to tiếng. may có anh em vào can mới yên. học sinh an nam ta, cứ chiều tối là hay ngồi đó. học sinh người mình ở aix có độ ngót trăm. nhiều người học hành xuất sắc lắm, nhưng lắm bố con nhà giàu thì chỉ chơi bời mà thôi! có ít người cũng ở phố david, vì gần hội quán, lại gần lycée mignet, đi độ 5, 6 phút thì tớị
tối mai, bà madron rủ tôi đi xem cinéma, cách chỗ tôi ở một quãng, tôi đã nhận lờị
tôi xin thề rằng sẽ hết sức học hành để khỏi phụ lòng cậu trông cậy, xin cậu yên tâm. ông bourguignon giỏi khoa văn chương lắm, nghe ông giảng như nước chảy, mê cả tâm thần!
chắc vài hôm nữa, tôi sẽ tiếp thư cậụ ở nhà có việc gì lạ, xin cậu đừng giấu tôị
tạ tuyếtanh
aix, le 4 février 1928
cậu,
Đọc thư cậu, nước mắt tôi tràn trụa đầy cả ra giấỵ trời ơi! biết thế này, thì tôi chẳng đi tây cho nó đành!
thôi cậu ạ, cậu có thương tôi, thì cậu nên nghe tôi, cậu đừng đi làm thêm giờ nữạ vẫn biết mỗi tối làm thêm vài giờ chẳng là bao, cuối tháng cũng được ba bốn chục bạc phụ cấp, nhưng cậu cứ cặm cụi quá sức thế thì đến kiệt lực mà ho lao mất! cậu có khỏe gì bằng ai, tôi tưởng chả nên tham việc quá thế. thì ra chỉ tại tôi mà đến nỗi một mình cậu vất vả, cậu làm cho tôi thương cậu đến nỗi ốm mất.
cậu ơi! cậu nên tĩnh dưỡng, nên coi sức khỏe làm trọng mới được. lương cậu hiện đã được 140 đồng mỗi tháng, chỉ phải gửi cho tôi có 80 đồng, còn ăn tiêu ở nhà cũng tiệm đủ rồi, thì thôi, tôi xin cậu, đừng nên quá tham, lỡ có mang bệnh, lại để tôi ân hận suốt đời vì con vi trùng ho lao có nể người tốt bụng đâủ
nếu cậu không nghe tôi, thà rằng cậu cho tôi xuất tàu để tôi về còn hơn.
nhân tiện xin nói để cậu biết, cậu nghĩ vậy mà khuyên tôi như thế cũng là phảị nhưng tuy tôi là thân gái một mình ở nước tự do, song, xin cậu biết rằng ở đây tự do thật, nhưng là cái tự do có giáo dục, chứ không như ở bên ta đâụ vả lại bao giờ đi ra ngoại quốc cũng phải giữ sĩ diện cho nòi giống chứ. tôi nói quá như thế để cậu yên tâm, chứ nào cậu có ngờ gì tôi đâụ xin cậu biết cho rằng không phút nào là tôi không nhớ cậu, nhớ con, là hai người thân nhất của đời tôị trừ những khi mắt để vào quyển sách, thì lúc nào tôi cũng nhìn lên ảnh cậu và ảnh con để ngay trước bàn mà ngắm cho khỏi nhớ.
ở đây, tháng février này rét lắm. sáng hôm nay có mưa tuyết. chiều đến, ở cours mirabeau, trẻ con nắm tuyết ném nhau trông thật vui mắt.
mưa tuyết xong, tiếp luôn mấy trận gió mistral thổi rét thấu xương. Đường phố lội nhơm nhớp, bẩn quá. à, tôi đã nói chuyện cho cậu nghe cái lối đỗ ôtô ở phố chưa nhỉ? mới trông lạ mắt, buồn cười lắm. nó không đỗ theo dọc đường, sát hè phố như bên ta đâụ xe nào cũng đứng ngang đường, quay mũi ra ngoàị bây giờ trông quen, không thấy lạ nữa, mấy hôm đầu, đi sát vào mũi, tưởng hình như nó sắp xéo bẹp mình! cậu đã nhận được áo đan chưa, sao không thấy nói trong thử cậu viết cho tôi đi, dài vào nhé! nhớ cậu quá!
tuyết anh
aix, le 2 mai 1928
cậu,
khốn nạn thân tôi, sao cái tin đau đớn của tôi, cậu không báo cho tôi biết bằng dây thép. Đành rằng mẹ tôi chết, dù có biết sớm cũng không làm gì được, nhưng sao cậu ác nghiệt quá thế, trời ơi!
cậu ơi! tôi bất hiếu quá, mà ông trời kia sao khéo lừa dối tôi làm vậy, bắt tôi đi xa rồi đem mẹ tôi đi đâủ
ông bà madron thấy tôi có tin buồn, sang khuyên giải và tiêm cho tôi liều thuốc bổ. bây giờ tôi không mê man như lúc mới tiếp tin nữạ khốn nạn, dù tôi có than khóc hết hơi cũng không sao thấu được đến cửu tuyền, để yên ủi linh hồn mẹ. sao tôi chẳng được chết đi cho rồi!
nhưng đến trường hợp này, tôi mới rõ bụng cậụ thực là ít thấy có. mà nhà tôi cũng là đại phúc, nên trời kia xui khiến tôi được hầu hạ cậụ mẹ tôi chẳng may chết đi, có tôi là lớn lại đi vắng, nhưng được cậu ở nhà, lấy tình rể cũng như con, mà cáng đáng lo lắng cho các việc ma chay, cái ơn trời bể ấy, tôi biết lấy gì đền lạị tôi chỉ khấn cho cậu sẽ được trông thấy tôi công thành danh toại, một mai về nước, đem tiếng thơm về đền ơn trả nghĩa cậu mà thôị nếu kiếp luân hồi mà có thực, thì tôi xin cả kiếp sau cũng tìm được cậu để được trả nghĩa cho trọn cái ơn nàỵ
cậu ơi, tôi nói không sao xiết ý được. mà nhất là trong lúc tôi gặp cảnh đau đớn này, thì tôi chỉ biết than thở, khóc lóc mà thôị còn thằng em bé tôi đấy, tôi cũng xin cậu trông nom cho nó được nên người, để tôi yên tâm học tập. xin cậu vì thương tôi mà thương đến nó, chứ bây giờ tứ cố vô thân, nếu cậu không đoái hoài đến nó thì thật không còn bấu víu vào đâu được nữạ khốn nạn cho tôi, ở vào cái cảnh nghèo! tôi nghẹn lời, không sao viết được thêm nữạ
à, thư trước viết bằng tiếng tây là ý để cậu biết sức học của tôi bây giờ thế nào, chứ có dám nghĩ như thế đâu, cậu miễn trách chọ cậu đừng chơi bời gì nhé, nên thương đến tôị
vợ khốn nạn của cậu
tuyết anh trăm lạy
aix, le 29 juillet 1929
cậu,
thế nàỏ sao cậu không mời docteur cho con, uống thuốc ta, tôi tưởng chả ăn thua gì đâụ nhưng nó cũng mệt xoàng thôi đấy chứ? Đầu tháng này, có kết quả kỳ thi tú tài, tôi trông thấy người đỗ, mà lại lo, chẳng biết sang năm, số phận mình ra saọ
nhưng mà xem ra tôi học tấn tới lắm, cậu ạ. cậu cứ yên tâm mà làm ăn. cái bát họ của chị tham, cậu nhận như thế cũng phảị thà mua sớm mà trả nợ, còn hơn là để nó dây dưa, rồi đến hẹn, phải lo một món tọ cậu cứ chịu khó ăn sẻn để dành, nay mai phúc nhà còn vượng, tôi đỗ về, thì lúc bấy giờ ta làm giầu!
nghĩ đến tương lai thì phấn chấn trong lòng, mà nghĩ lại riêng mình cậu khó nhọc, thì tôi lại đau từng khúc ruột. vì tôi mà cậu mang công mắc nợ, một mình lo lắng năm canh! nào cho tôi đi học, nào lo lắng ma chay cho mẹ vợ, nào nuôi cho em vợ đã đỗ được nên ngườị
Độ này cậu phải đi làm thêm như thế có mệt lắm không? cậu nên mua thuốc bổ mà uống. nếu không thì lại đằng ông lang hai mà mua lấy mấy lạng cao ban long để ăn. cậu chớ nên coi thường sức khỏe làm vậỵ
năm nay ở bên này nắng lắm, cái nắng khô khan ở miền nam này, lắm lúc tôi cũng thấy khó chịu, nhưng vẫn được mạnh khỏẹ
tôi gửi theo đây gói đồ chơi cho con, nó mừng rỡ thế nào, cậu cho tôi biết. cái ảnh cậu mới gửi sang, sao tôi trông gầy thế? mà mũi con có vết gì đau, hay cái vết sờn trong ảnh, cậu cho tôi biết.
tôi khỏi ốm ngay tối hôm tôi viết thư về cậụ nếu biết rằng cậu lo, thì tôi chẳng nói cho xong.
mille baisers
tuyết anh
aix, le 15 aout 1930
cậu,
thật là từ ngày tôi sang bên này tới nay, tôi tiếp thư nào ở nhà cũng lấy làm buồn bực, ân hận.
ai ngờ vừa tháng trước đánh dây thép báo tin đỗ cho cậu biết, thì nay đã tiếp được tin cậu như sét đánh ngang taị
thế nào, cậu ho ra làm sao mà có máu thế? tôi nói có sai bao giờ đâụ cậu chả nghe tôi, cậu chả bổ dưỡng sức khỏe, để đến nỗi mang bệnh vào mình. nếu cậu ho lao, thì cái vô phúc, trăm phần tôi xin chịu cả. thà rằng tôi chết cho cậu được sung sướng, còn hơn tôi để cậu phải cáng đáng một mình hết nỗi nọ đến nỗi kiạ
cái ảnh phổi cậu chụp xong, cũng cho tôi xem vớị nếu thầy thuốc chiếu điện mà đã nói thế, thì tôi tưởng chỉ nên nghỉ việc đi là hơn.
nhưng làm thế nàỏ cậu trồng cây sắp tới ngày ăn quả. Đến sang năm, tôi thi nốt phần thứ hai kỳ tú tài rồi, vậy cậu nghĩ tôi thế nào, tôi cũng xin vâng theọ
ở bên này, ông madron mấy hôm nay cũng ốm, đến nay bệnh vẫn chưa thấy lui.
thì ra xung quanh mình, tôi chỉ thấy những sự buồn mà không đủ sức để can ngăn nó được. tôi khổ lắm!
bệnh tình cậu hiện nay thế nào, từ nay xin cứ mỗi kỳ tàu, cậu nhớ cho tôi biết. con thế nàỏ vẫn chơi ngoan đấy chứ? chuyện gì bí mật mà tôi hỏi trong ba bức thư luôn, cậu chưa trả lời thế? Đừng chơi bời gì nhé!
nay kính thư
tuyết anh
aix, le septembre 1931
thưa cậu,
tôi bất đắc dĩ cầm bút viết bức thư này để tạ tội cùng cậu, xin cậu tha thứ cho người vợ bạc bẽo, phản bội nàỵ
tôi chịu ơn cậu rất nhiều, cũng mong đến ngày công thành danh toại, về để hầu hạ cậu, giúp đỡ cậu trong lúc ốm đau. nhưng mà... tóc tơ ngắn ngủi có ngần ấy thôi, cậu cũng cầm lòng như tôi hư mà cậu bỏ tôi từ trước, hoặc duyên đôi ta giữa đường đứt quãng, thì từ nay xin cậu coi tôi như không có nữa mà thôi.
sự vợ chồng ông trời đã định sẵn, có lẽ duyên nợ của cậu với tôi, đã hết từ ba năm trước, lúc đưa nhau ở bến tàu sáu kho.
cậu cũng đừng nghĩ, đừng tìm tôi nữa, tôi sẽ ở nam kỳ với một người bạn học tôi mới đậu y khoa bác sĩ.
An Nam tạp chí số 43; 1932
Thịt người chết
Vì mới chết lần này là lần đầu, nên anh Xích chưa có lịch duyệt về khoản ấỵ
Thực vậy, nếu chết ở tỉnh, thì ai láu, nên chọn vào đêm thứ sáụ Như thế, vợ con có vừa vặn thì giờ để cáo phó lên báọ Và đến chủ nhật, cất đám, có đủ các cụ, các quan, các ông, các bà, thân bằng cố hữu đi đưa đông. ở nhà quê, nếu chết vì tai nạn, người khôn ngoan bao giờ cũng tránh ngày chủ nhật hoặc ngày lễ, thì sự khám xét, tống táng mới mong chóng được.
Nhưng khốn nỗi, xưa nay, không ai chết đến lần thứ hai để được bài học kinh nghiệm về cách chết. Vì vậy, vẫn có nhiều người chết một cách ngờ nghệch.
Nhất là anh Xích, một dân quê vô học, nên càng ngu dại nữạ Anh đã vô ý mà chết đuối ngay vào đêm thứ bảy vừa rồị
Nguyên cha anh, ông Cứu, thầu của làng cái đầm sen ngay giáp lũy trẹ Ðến mùa này hoa nở, ông phải làm chòi nhỏ ở giữa đầm, hai bố con cắt lượt nhau ra ngủ đó để canh.
Chiều hôm ấy, anh Xích đã đánh chén ở đình, say bí tỉ. Ðến xẩm tối, anh vừa về đến nhà, đã bị ông Cứu giục mang điếu và gối ra chòị
Anh lao đao đi, rồi không hiểu sao, sáng sớm hôm sau, không thấy về. Và đến độ tám giờ, xác anh đã nổi lên, trôi lềnh bềnh vào gần bờ.
Người ta đoán nhiều cớ về cái chết nàỵ Nhưng tựu trung, chỉ hai thuyết có thể hợp lý được:
Một là, anh Xích vì say quá, loạng choạng chở thúng bị ngã vào chỗ sâụ
Hai là, đang đêm anh ngủ mê, vô ý cựa, đến nỗi anh lăn tòm xuống nước.
Chứ những tiếng đồn anh ta tự tử vì việc gia đình, hoặc bị kẻ thù đánh chết đều không thể tin được.
Hương lý tò mò, hỏi dò hai bên hàng xóm nhà ông Cứu, xem hôm trước hai cha con có to tiếng gì với nhau không. Họ cố ý nhận xét rất kỹ lưỡng cái thây người xấu số. Nhưng không ai tìm ra được một chứng cứ gì khả nghị Và khi được tin dữ dội con ông Cứu bị nạn, cả làng ra tận bờ đầm xem. Ai cũng phàn nàn, thương tiếc người con trai tử tế, hiền lành. Và trông cái xác chết còng queo ngâm dưới nước, đố ai cầm lòng cho đậụ
Bà Cứu tru tréo lăn lộn, mấy lần toan nhảy tùm xuống ôm lấy con. Nhưng bà bị người ta giữ lạị Trong lúc như điên cuồng, bà chửi cả ông lý trưởng không cho bà vớt anh Xích lên, để đặt lên bờ. Bởi vì bà mếu máo và chắp tay lạy lấy lạy để mọi người và nói:
- Nó đau lòng lắm, các ông các bà ơi!
Nhưng người ta khuyên:
- Ðể quan về khám, làm biên bản xong, bà muốn làm ma to cỗ lớn thế nào mặc bà. Chứ bây giờ, bà đừng nên đụng đến anh ấỵ Ngộ độc anh ấy lên bờ, rồi mình mẩy xây xước chẳng hạn, thì quan nào cho chôn? Vả chết đuối, sao nằm trên bờ được?
Bà Cứu không tin, gắt:
- Không cho chôn thì quan giữ làm gì?
- Giữ để chờ đốc-tờ về khám. Như thế, lại lâu rạ
Bà nghe hiểu, xỉ mũi, lau nước mắt, và ngồi xổm cạnh cái quan tài rỗng không, dưới bóng cây, đành lòng chờ đợị
Bà mong được phép chôn con như mong mẹ về chợ. Người nhà bà lên huyện trình quan ngay từ sáng, nhưng đến bây giờ, không hiểu sao, chưa thấy về. Ðường lên huyện không xa, chẳng rõ vì sao lại có sự chậm chạp thế này được.
Nhưng một giờ. Lại hai giờ. Lại ba giờ.
Bà Cứu không còn sức và nước mắt để chờ, để khóc nữạ Bà hết đứng lại đi loanh quanh, không dám trông chỗ con nằm.
Rồi bà ngồi xổm xuống đất, gục mặt vào đầu gối để nghe ngóng. Bà đợi một hiệu còi ô-tô của quan. Những lúc có tiếng xay lúa ù ù, bà khấp khởi lắng tai, và thở dài vì mừng hụt.
Mặt trời chói lọi, rọi tia lửa xuống đất.
Thây anh Xích bắt đầu đổi khác. Chân tay co quắp hơn. Tóc lỏa tỏa như món rễ bèo Nhật Bản.
Gió hiu hiụ Làn sóng rập rờn liếm vào thân anh kêu óc ách. Anh rập rình như nằm trên giường lò xọ
Rồi tự nhiên, cái xác lật ngửa lên. Con người trước kia hiền lành là thế, nay biến thành con bò thui: bụng phềnh to, má phềnh to, mặt phềnh tọ Ðôi mắt híp lại, như bị kéo dài ra tận mang taị Tứ chi rúm ró. Ai trông thấy bộ dạng nhăn nhó, dọa nạt của người chết, mà khỏi rợn tóc gáy được?
Từ lúc ấy, người thân thích đến thăm thưa dần. Rồi sau hết, không ai dám lại gần đấy nữạ Những khách đi đường vì vô tình hoặc bất đắc dĩ phải qua, đều che nón, ngậm miệng, và đến chỗ xa, rùng mình một cái mới nhổ toèn toẹt.
ông Cứu ở nhà để chờ quan về khám, cũng chẳng kém nóng ruột. ông như chết một nửa người mà vẫn phải tiếp khách đến hỏi thêm mỗi lúc một đông. ông chỉ muốn được yên, để nằm nhoài ra mà kêu gào, vật vã cho hả nỗi phụ tử tình thâm. ông lại lo lắng, không hiểu vợ ông ngồi ngoài bờ đầm, có ai canh giữ cẩn thận, hay lại chẳng nén nổi lòng thương, mà liều mình quá, thì ông thêm một nỗi ân hận nữa suốt đờị
Họ hàng chạy đến mỗi người giúp một việc. Người bầy ở dưới nhà ngang một bàn thờ cỏn con, lấp láy có đôi nến trắng. Người lược may đồ khâm liệm và xé khăn cho lũ em.
Rồi đến khi được biết rằng là ngày chủ nhật, cả buổi hầu sáng, quan không ra công đường, vì đêm trước ngài nhảy đầm trên tỉnh, ba bốn giờ sáng mới về. Và đến chiều, cổng huyện đóng, vì là ngày nghỉ; thì ở nhà ông Cứu trợn mắt, kêu rú một tiếng, và ở cạnh lũy tre, bà Cứu ngã vật xuống đất, ngất đi đến năm phút đồng hồ.
Cả làng phải chờ.
Họ hàng sắp sửa việc ma chay xong, ai nấy về nhà để sáng hôm sau lại đến làm giúp. Người không thân thích lại bắt đầu công việc như cũ, chờ lúc kèn trống nổi lên thì đưa anh Xích ra đồng. ông Cứu cho người vực bà Cứu về. Hai vợ chồng già nằm chết gí ở hai giường, chờ cuộc khám xét của quan phụ mẫụ Tử thi chờ chôn, mỗi lúc một trương to, rập rềnh cạnh cái quan tài đang ngoác miệng chờ việc. Cảnh vật im ả như cũng chờ để nghe ngóng tin. ánh nắng cứ lẳng lặng rọi xuống. Cây cối mệt nhọc, cành gục lả.
Nhưng giữa nơi yên lặng, chìm đắm trong sự buồn thảm ấy, có một chỗ đầy vẻ hoạt động. Ngay ở quãng tử thi mà người đồng loại kinh tởm khi nhìn thấy, hoặc ghê sợ khi đến gần, thì những loài vật khác giống tỏ vẻ âu yếm, thiết tha lạ lùng. Dưới nước, lũ cá mương vui vẻ, nô giỡn với nhau, chui vào kẽ nách, lỗ tai, đớp thật nhanh, rồi chạy nhào biến mất. Rồi lại đớp. Rồi lại chạỵ Trên không, vo ve đàn ruồi nhặng, rủ nhau đậu đen kịt vào mặt mũi, chân tay, mải miết hút chất đồ ăn bổ. Thỉnh thoảng, chiếc lá tre vàng vằn vèo từ trên đâm bổ xuống, làm động cuộc kiếm ăn đang bình yên, thì vò một tiếng, lũ ruồi nhặng bay tản đị Nhưng khoảng khắc, lại bậu vào, làm thành những quầng đen trên tấm xác xám ngoẹt.
Rồi buổi chiều, một mùi nồng nặc, hăng hăng đã bay thoang thoảng đến được chỗ xa xạ Trên ngọn tre, xào xạc tiếng cánh bay, con quạ đen cố quặp hai chân vào một cành ẻo lả, vẫy đuôi để giữ thăng bằng cho vững chãi, rồi chao mắt thèm thuồng xuống mồị Rồi một con nữa cụp cánh, đậu ở cành cây khác, lên tiếng khàn khàn gọi nhaụ Chẳng mấy chốc, hai ba con nữa bay lạị
Một con vỗ cánh, bay sà xuống trước, đứng lên bụng thây người để thám hiểm. Thấy được bình yên, cả lũ theo nhau, mổ rỉa từng nơi một.
Như thế, anh Xích vô tình là ân nhân của đàn cá, ruồi, nhặng, quạ. Chân tay vẫn co quắp như dọa, mặt mũi vẫn nhăn nhó như nát, nhưng anh vẫn bị rỉa, bị hút, bị đớp như thường.
Thịt người chết, ai hay cũng là món đồ ăn quý hóạ
Cho đến tận chín giờ sáng hôm sau, còi ô-tô đằng xa bỗng thét váng.
Ðàn quạ hết vía, vừa bay vừa kêu xa xả. Lũ ruồi nhặng, hốt hoảng vội trốn cho xạ Ðàn cá mương thấy nguy, lộn nhào mỗi con chui vào một xó.
Thì lúc ấy, trên bờ đầm, quan huyện tư pháp là một, cụ lục sự là hai, cậu lính lệ là ba, cùng trịnh trọng làm việc, và cùng trịnh trọng khạc nhổ. Cậu lệ cầm gậy, lật đi lật lại tử thị Quan và nha ghé mắt xem xét từng li từng tí và biên chép. Hương lý, vợ chồng ông Cứu, cùng họ hàng, người làng, ai nấy khoanh tay im lặng, nuốt đờm, nhìn chằm chặp vào xác chết. Người thở dàị Người lau nước mắt.
Khám nghiệm xong, quan truyền lính đuổi cả người tò mò ra xạ Và trước cảnh thương tâm, ngài ôn tồn hỏi ông Cứu:
- Cái đầm này mỗi năm anh kiếm lợi cả cá lẫn hoa có được đến dăm trăm không?
Thấy quan hỏi câu phiếm, không dính dáng gì đến vụ chết đuối, ông Cứu đành phải đáp:
- Dạ
- Anh cấy hai mươi mấy mẫủ
- Lậy quan lớn, hai mươi hai mẫụ
Quan gật gù:
- Thôi được, để cho anh biết rằng tôi rõ gia tư nhà anh lắm. Còn việc khám xét hôm nay, thì tôi không thể cho chôn ngay được. Vì tôi xét trong người tên Xích, có nhiều vết khả nghị Tôi phải bẩm tỉnh xin đốc-tờ về khám cho cẩn thận.
ông Cứu như sét đánh, run cầm cập, nhăn nhó kêu:
- Lạy quan lớn...
ông huyện lắc đầu:
- Nó bị bức tử. Phải có đốc-tờ mổ xẻ nó ra mới rõ được.
Bỗng có một tiếng tru lên, bà Cứu ôm mặt, lanh lảnh khóc:
- ối con tôi!
Tiếng khóc của người mẹ trước thi hài đứa con chết đuối đã chương, làm ai cũng phải cảm động. Nhưng trái lại, nó không làm chuyển nét mặt của quan tư pháp. Ðến đây, ông là đại diện cho Pháp luật. ông đã từ người bằng thịt bằng xương biến thành pho tượng bằng sắt đá lạnh lùng.
Vậy là sắt đá, tất không thể cảm được những tiếng khóc ẻo lả của người mẹ mất con, hoặc những tiếng kêu nài mềm yếu của người cha oan uổng. Cảm được sắt đá, duy chỉ có một vật. Vật ấy cố nhiên phải rắn, tuy chẳng được rắn bằng sắt, cũng phải rắn hơn đá. Mà vật rắn ấy, nhà ông Cứu không thiếụ Nó làm bằng loài bạc.
Thấy ông huyện lặng nhìn tử thi đương xông lên một mùi khắm lằm lặm, ông Cứu não ruột nói:
- Xin rước quan về nhà nghỉ cho đỡ nắng.
ông huyện chẳng biết vô tình hay cố ý, lấy tay xua ruồi, và khạc nhổ, rồi đáp:
- ừ, kẻo ở đây tởm lắm. Nó đã trương to, mà ruồi, nhặng, cá, quạ cứ xán vàọ Lại còn phải phơi nắng, đợi thầy thuốc mổ xẻ nữa, thì biết bao giờ mới được chôn!
Rồi vừa đi, ngài vừa bảo ông lục sự:
- Ðích là một án mạng, chứ không đúng như những lời trình trong giấy đâụ
ông Cứu tiến lại gần, nhỏ nhẻ thưa:
- Lạy quan lớn, còn vong hồn con con kiạ Nếu có thế nào; con cam chịu tội trước cửa quan lớn. Xin quan lớn cho phép con mai táng, con xin hậu tạ quan lớn.
Quan quay lại, nhìn ông Cứu bằng đôi mắt dịu dàng của một người có trái tim dễ cảm. Ngài hỏi:
- Anh định tạ tôi bao nhiêủ
- Lạy quan lớn, con xin khấn một nén.
Quan cười:
- Anh phải biết cứ tiền dầu xăng khứ hồi ô-tô tôi về đây cũng đáng một nén rồị
ông lục sự đi rảo cẳng lên, nói:
- Bẩm quan lớn việc này to chứ chẳng phải vừạ
Rồi ông cau mặt, trách ông Cứu:
- Cơ nghiệp anh như thế, mà anh muốn chôn ngay con anh, anh không tạ ơn quan nổi một bách hay saỏ
Rồi luôn mồm, ông thưa với ông huyện:
- Bẩm quan lớn, nghề dân ta họ vẫn ngu dại làm vậy, muốn chạy việc, lại cứ muốn không mất tiền.
ông Cứu nhăn nhó, nói khẽ với ông lục:
- Nhờ cụ bẩm với quan hộ, một bách thì tôi không sao lo được. Tôi xin tạ một nửa.
ông lục xua tay và trợn mắt, như ngăn cản một câu nói dại dột:
- Chết! Anh nói mới dễ nghe làm sao!
Rồi ghé tai ông Cứu, ông thầm thì:
- Này, chỗ thân, đằng này cam đoan xin hộ cho bằng được. Nhưng ít ra anh cũng cứ lo lấy bát thập, còn thập nguyên, cho đằng này ăn với chứ?
ông Cứu cũng thầm thì:
- Khốn như hiện hay không có đủ.
Thì hãy cứ hứa đi, mai kia lên tạ sau cũng được kia mà. Ðằng này nhận chọ Chứ anh đang tâm để con anh thế được à?
ông Cứu yên lặng, thở dài.
Quay lại phía sau, ông thấy vợ ông đương lăn lộn. ông không thể cầm được nước mắt, vội vàng mặc cả mấy câu nữa, rồi bằng lòng khấn quan bảy mươi đồng.
Và một giờ sau, lũ ruồi, lũ nhặng, lũ cá, lũ quạ, tiếc ngẩn ngợ
Chúng nó biết đâu rằng quan huyện tư pháp đã tranh mất món mồi ngon của chúng.
1938
Hết
Tinh thần thể dục
Có lính huyện mang trát quan về làng:
Quan tri huyện huyện X.X.
Sức hương lý xã Ngũ Vọng tuân cử.
Nay thừa lệnh Tỉnh đường, ngày 19 Mars này, tức 29 tháng Giêng An Nam, tại sân vận động huyện có cuộc đá bóng thi, nhiều chiến tướng đá rất hay, mọi nhẽ.
Vậy sức các thầy phải thông báo cho dân làng biết và phải thân dẫn đủ một trăm người, đúng 12 giờ trưa đến xem, không được khiếm diện.
Những người đã cắt đi dự cuộc khánh thành sân thể dục tháng trước, thì lần này được miễn.
Ai có mặt tại sân vận động cũng phải ăn mặc tử tế, đi đứng nghiêm chỉnh, và phải vỗ tay luôn luôn, vì hôm ấy có nhiều quan khách.
Làng Ngũ Vọng lại phải có năm lá cờ, sẵn sàng từ 10 giờ sáng.
Việc này tuy là việc thể dục, nhưng các thầy không được coi thường, nếu không tuân lệnh sẽ bị cữụ
Nay sức
Lê Thăng
Anh Mịch nhăn nhó, nói:
- Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông Nghị, kẻo ông ấy đánh chết.
ông lý cau mặt, lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa:
- Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồị
- Cắn cỏ con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi thì ông Nghị ghét con, cả nhà con khổ.
- Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy, không được à?
- Đối với ông Nghị, con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ con nhờ vả quanh năm. Nếu không, vợ con con chết đói.
- Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm, đứa nào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tù.
- Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấỵ
- Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương taọ Hôm ấy mày mà không đi, tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêụ
Bác Phó gái, dịu dàng, đặt cành cau lên bàn, ngồi xổm ở xó cửa, gãi tai, nói với ông lý:
- Lạy thầy, nhà con thì chưa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên không dám đến kêụ Lạy thầy, quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà con, đừng bắt nhà con đi xem đá bóng vộị
- ồ, việc quan không phải như chuyện đàn bà của các chị!
- Thì lạy thầy, thế này, làng ta thì đông, thầy cắt ai không được. Tại nhà con ốm yếu, nên xin thầy hoãn cho đến lượt saụ
- ốm gần chết cũng phải đị Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm yếu mà không đi, thì người ta đá bóng cho chó xem à?
- Thưa thầy, giá nhà con khỏe khoắn, thì nhà con chả dám kêụ Nhưng, thưa thầy, từ đây lên huyện, những chín cây lô mếch, sợ nhà con đi nắng thì cảm, rồi phải lại thì oan gia.
- Đây không biết, mà đây cũng không nghe đâụ Vợ chồng thu xếp với nhau thế nào, đây mặc kệ!
- Thưa, hay con nghỉ buổi chợ để đi thay nhà con có được không ạ?
- Không! Phải là đàn ông kiả Chứ nữ nhân ngoại tộc, ai kể.
Người đàn bà thở dài:
- Thế thì con biết làm thế nào được!
Bà cụ phó Bính, mắt kèm nhèm, vừa nói, vừa cười rất vô duyên:
- Thì lòng thành, ông lý cứ nhận đi cho cháụ Cháu hôm ấy không bận đi ăn cưới thì cháu cũng xin vâng. Cháu đã thuê thằng Sang đi thay cho cháu cũng thế. ông ngơ đi là được.
- Thế ngộ quan biết, có chết tôi không!
- Quan đếm đủ đầu người là xong, chứ ai xem thẻ mà ông sợ.
- Tôi nhận lễ của con bà mà tôi lo lắm. Việc quan nào phải việc chơị
- Thì cũng như ông làm phúc ấy mà lị.
- Nhưng thằng Sang có khăn áo tử tế, hay lại ăn mặc như thằng ăn mày ấỵ
- ông không phải lo việc ấỵ Nó đã dạm mượn được đủ cả rồị Cháu mặc cả và đã khoán đủ với nó như thế.
ông lý nhăn mặt, nhặt ba hào, bỏ túi:
- Làm việc mà cứ gặp phải những người như con bà, thì tôi đến chết mất.
- Thì ông không cho phép cháu ở nhà, cháu phải thuê người khác đi thay cũng thế chứ gì.
- Thế đến gà gáy hôm 29, bà phải bảo thằng Sang chực sẵn ở đình, tôi dẫn đị
- ấy, ông cho nó cơm nước thong thả đã chứ. Đá bóng ít ra ba bốn giờ chiều mới bắt đầu kia mà. Tôi tưởng mười hai giờ ở nhà đi cũng vừạ Buổi sáng, tôi còn mượn nó cuốc mảnh vườn.
- Ba bốn giờ chiều mới bắt đầu, nhưng quan bắt đến huyện từ 12 giờ trưạ Để ngài điểm. Mà quan sức mười hai giờ, thì mình phải đến từ 11 giờ cho sớm sủạ Vả lại, tôi còn phải mang cờ lên lúc 10 giờ, thì chả đi từ năm sáu giờ thì đi vào lúc nàỏ Cho nên, mọi người phải chờ tôi ở đình từ gà gáỵ
- Thế thì sớm quá.
Ông Lý gắt:
- Tôi không lôi thôị Bà không bằng lòng thế, thì tôi cứ bắt đích danh con bà. Mặc kệ!
Bà phó sợ hãi:
- Không, lệnh ông thì thế nào tôi chả phải nghẹ Là tôi nói chuyện thế đấy chứ.
- Mấy lị bao nhiêu người đều phải thế, chứ riêng gì bà. Bà bảo thằng Sang nắm cơm từ chiều hôm trước, chứ sáng hôm ấy dậy mới thổi thì không kịp đâụ
- Vâng.
Ngay từ sáng tờ mờ hôm 29, ở sân đình làng Ngũ Vọng, đã có tiếng ông lý quát tháo om sòm:
- Thiếu những mười tám thằng kia à? Tuần đâu, đến tận nhà chúng nó, lôi cổ chúng nó ra đâỵ Chứ đã hẹn đi lại còn định chuồn phỏng!
Sau tiếng dạ ran, những ngọn đuốc linh tinh kéo đi các ngả. ông lý dặn theo, tiếng oang oang:
- Hễ đứa nào láo, cứ đánh sặc tiết chúng nó ra, tội vạ ông chịụ Mẹ bố chúng nó! Việc quan thế này chết cha người ta không! Chúng bay gô cổ cả, giải cho được ra đây cho ông!
Lại một tiếng dạ nữa, giữa những tiếng chó rống dậỵ Ngọn lửa đỏ như nổi lềnh bềnh trong biển sương mù.
Thì đại khái cái cảnh diễn ra như thế này:
Hai người tuần, một người cầm đuốc, một người cầm tay thước, đạp cửa vào nhà thằng Cò. Sau khi tìm sục khắp gian ngoài, buồng trong, không thấy một ai, họ xuống bếp, chọc tay thước vào cót gio và bồ trấụ Rồi họ lùng ra mé sau nhà. Cũng vô hiệụ
Nhưng bỗng có tiếng trẻ khóc thét lên, thì hai anh tuần mới khám phá ra chỗ người trốn: Thằng Cò nằm ẹp với con ở cạnh đống rơm, phủ lên mình đầy rơm.
Nó bị lôi ra ngoàị Nó van lạy:
- Lạy các bác, các bác cho tôi ở nhà làm ăn.
- Sao anh đã hẹn với ông lý, lại không đi, để ông ấy chửi địa lên kia kìạ
- Tôi đi thì tôi mất cả ngày, mà mất buổi làm thì tôi với cháu nhịn đóị
- Tôi không biết!
- Mấy lị tôi không mượn đâu được quần áọ
- Không biết! Anh ra đình mà kêu với ông lý.
Thằng bé con nhắm nghiền mắt, ôm chặt lấy bố. Nó sợ quá, không khóc được nữạ Thằng Cò chưa kịp trả lời, đã bị lôi sềnh sệch đị
Cuộc săn dù ráo riết đến đâu cũng không sao tróc đủ một trăm người phải đi xem đá bóng. Dăm sáu anh khôn ngoan, đã kéo đến ngủ nhờ nhà khác, hoặc làng khác. Họ làm như lánh nạn.
Khi thấy đã chậm giờ, ông lý trưởng nghiến răng nói:
- Chúng nó ngu như lợn. Người ta cho xem đá bóng chứ ai làm gì mà cũng phải bắt. Rồi quan thấy không đủ số, lại chửi ông không tận tâm.
Rồi ông ra lệnh:
- Chín mươi tư thằng ở đây, xếp hàng năm lại, đi cho đều bước. Tuần chúng bay phải kèm chung quanh giúp taọ Đứa nào mà trốn về thì ông bảọ
Đoạn ông lo lắng, đi cuối cùng, mắt nhanh nhẹn để coi cẩn thận như coi tù binh.
- Mẹ bố chúng nó, cho đi xem đá bóng chứ ai giết chết mà phải trốn như trốn giặc!
Tiểu thuyết thứ bảy, số 251; 1939
Hết
Tôi cũng không hiểu tại làm sao
Lên khỏi bực thềm và qua hàng hiên nhìn vào, Sinh thấy cảnh "chúa vắng nhà" hiện ra trong các buồng giấỵ
Phải, bao giờ ông Sếp không có mặt tại sở, thì suốt cả, từ ông Phán sắp về hưu cho chí bác loong toong tập sự, ai nấy tự do tán gẫu cùng nhau, mặc kệ những ai có việc phải ngấp ngó ở ngoài hè chờ đợi.
Sinh thì không ưa cái lối làm việc giả dối như thế. Nhất là đối với ông Sếp hay hục hặc nàỵ Từ ngày được bổ đi làm tới nay, bao giờ anh cũng nghĩ tới bổn phận trước hết. Anh không sợ ông Sếp bằng dư luận. Mà không sợ dư luận bằng lương tâm. Anh muốn tự trọng, không chịu để người trên nói động đến mình. Người trên đã không thể trách mắng anh về một lẽ gì, hẳn anh không phải lấy lòng và xu nịnh ai nữạ Anh muốn làm việc một cách thẳng thắn, tự do.
Bởi vậy, ông Sếp ở cạnh anh, hay đi vắng, anh coi cũng thế thôị Cho nên, thấy các bạn đồng nghiệp cặm cụi - có lẽ là vờ - khi có mặt người trên, và trây lười khi khác, anh vẫn bỉ ngầm là họ thiếu nhân cách. Anh cho là những cái quắt quéo này nó đẻ ra cái quắt quéo khác. Nó là nguyên nhân những sự luồn lọt, ton hót, bôi gio trát trấu vào thanh danh của cả một đoàn thể.
Sinh đi thẳng vào buồng mình. Đồng hồ đã chỉ bảy giờ hai mươi nhăm. Anh cởi áo, khoác vào lưng ghế, và tìm sổ sách giấy má hôm trước làm dở.
Mọi ngày, cũng lúc này, bàn máy chữ buồng cạnh đã bắt đầu lách tách, có khi rào rào như mưa. Thế mà bây giờ chỉ những tiếng chuyện, tiếng cười nôn nao, loạn cả óc, làm anh khó lòng làm việc bình tĩnh được.
Liếc mắt nhìn xung quanh, anh thấy chỗ này, Tâm và Sức ngồi cả lên bàn, khoa chân múa tay, nói chuyện với tham Trí. Chỗ kia, Ban mặc áo cộc cặp cái điếu vào hai đùi, sắp hút thuốc; Chính thì lom khom châm diêm, và Bắc thì chỉ rình thổi tắt.
Thấy các bạn đồng nghiệp đùa nhảm, Sinh mỉm cười, quay đị Bỗng thình lình anh nghe thấy đánh bốp. Rõ là tiếng bàn tay tát vào má. Anh đoán ngay là bác loong toong Thảo xưa nay vẫn hay có thói đánh người, vừa ra oai với một anh dân nào vô phúc. Anh toan để ý nhìn, thì chính Thảo đã nói rất to, giọng gắt gỏng:
- Muốn ở tù thì nheo nhéo cái mồm lên, các quan còn đang bận. Chưa đến giờ!
Ngay lúc đó, đồng hồ buông một tiếng. Bảy giờ rưỡị Nhưng hiệu báo ấy không có nghĩa gì đối với trong sở khi vắng mặt ông Sếp.
Bỗng cửa buồng mở phanh ra, rồi lại tự đóng. Nghĩa vàọ Đó là một bạn đồng nghiệp của Sinh, cùng làm một buồng giấỵ
Cũng vì luôn luôn ngồi gần nhau và tuổi sàn sàn ngang nhau, nên Sinh thân với Nghĩa hơn với các bạn khác.
Thoạt vào, Nghĩa đã vui vẻ nói ngay:
- Có lẽ đến tám chín giờ nó mới ra sở, tội gì không hưởng lấy vài phút tự dỏ Này Sinh, bảo cái đã...
Sinh nhếch mép, cười lấy lòng bạn, nhưng tay vẫn cầm bút. Anh hỏi:
- Anh bảo gì?
- Hôm qua nhật trình đăng Tàu Nhật đánh nhau thế nàỏ
Sinh cười, không đáp, hỏi lảng:
- Cái giấy tôi đánh máy dở, loong toong có để bàn bên ấy không?1
- Thôi, đốt cái chăm chỉ của anh đị Này, cuối tháng này, "mó" lương xong, vào cổ phần với đằng này để xuống xóm nhé. Con Nhật nó vẫn hỏi thăm đấỵ
Sinh vẫn cúi viết, không đáp. Nghĩa chạy lại, giằng bút ra, nói:
- Tôi không bắt anh ăn cắp được dăm phút hay sao!
Rồi chõ mồm sang buồng bên cạnh, Nghĩa kêu:
- ối làng nước ơi! Sao mà nó điên dại đến thế. Có ai bắt thằng Sinh nói chuyện được không?
Nghĩa cười sằng sặc. Một ông già cúi gầm mặt để đưa nhỡn tuyến lên trên đôi kính trắng, nói:
- ông Sinh còn trẻ, chưa lịch duyệt việc đời.
Sinh vẫn mỉm cườị Anh không muốn mất lòng ai, nhưng cũng không muốn để ai ngăn trở công việc mình. Anh nói khẽ với Nghĩa:
- Cho tôi làm xong việc này đã.
Nghĩa bĩu môi:
- Việc nhà nước, cần gì hấp tấp. Vả bao giờ hết được? Anh chỉ biết làm việc như một con bò, không dám nghỉ một phút. Thì nhân nó không có đây, hãy nghe người ta nói câu chuyện này đã nàọ
Sinh cười:
- Thì cứ nói đi, tôi vừa làm vừa nghe cũng được mà.
- Không, hãy bỏ bút xuống đã.
Rồi Nghĩa trỏ tay sang buồng cạnh:
- Kìa, anh trông, bô Hạnh ngủ gật kìa, chừng đêm qua bô đã bù khú với cô hai đến sáng. Chúa ăn cắp thì giờ là bô Hạnh đấỵ
Sinh thở dài:
- Mình không làm việc, họ kêu chết.
- Aỉ Anh bảo họ là ai.
- Là những người đứng chờ ta ngoài kia chứ ai.
- Kệ xác chúng nó! Chúng nó cần ta, chứ ta cần chúng nó à?
Sinh dở đùa dở thật, đáp:
- Nói thế này, anh đừng giận nhé, chúng nó sẽ bảo chúng ta là. ..
Sinh ngừng, nhìn bạn. Nghĩa tiếp ngay:
- Là ăn cắp là cùng chứ gì!
Sinh phá lên cườị Nghĩa bĩu môi:
- Anh tính ở đời này, thiếu gì thằng ăn cắp. Mà triệt sao được tính ăn cắp của người tạ Anh chẳng thấy bao nhiêu thằng to đầu mà vẫn công nhiên ăn cắp à? Mà suy ra cho cùng, nếu không có những việc có thể ăn cắp được, thì người ta còn vẽ ra những sự công ích công lợi để làm gì? Vẻ khả quan của xã hội hiện thời, chẳng là do những tư tưởng muốn ăn cắp mà ra hay sao.
Nói đoạn, Nghĩa về bàn giấy mình, và tiếp:
- Thôi được, anh chẳng ăn cắp thì tôi ăn cắp vậy.
Sinh nhìn theo bạn. Hai người yên lặng, không ai nói chuyện nữạ
Bỗng Nghĩa giơ hai tay lên, ngáp, bảo Sinh:
- Tao cũng muốn bắt chước mày, đạo đức một lát, nhưng Sếp đi vắng mà cứ làm việc, thật tao không yên với lương tâm. Hôm nay tao dậy trưa, vội đi làm, chửa kịp ăn sáng. Sinh, mày có ăn bánh tây chả, tao mua cho.
Sinh lắc đầu:
- Ăn rồi.
- Thế tao ăn một mình cấm nuốt nước dãi nhé!
Sinh gật đầu, rồi lại cúi xuống, loay hoay làm tính cộng.
Nghĩa sai loong toong đi mua thức ăn, rồi mở to quyển sổ, và để lọ mực ở trước mặt. Anh cầm bút, như người đang dở bận việc vậỵ
Một lát, bánh tây mua về, Nghĩa cắn một miếng, rồi cất vào ngăn kéọ Vừa thong thả nhai, anh vừa nhìn ra ngoài cửa sổ, nghĩ ngợi.
Lúc ấy, Sinh mải việc, không để ý đến những tiếng động quanh mình.
Bỗng một tiếng nói làm Sinh ngẩng đầu lên.
ông Sếp lù lù đứng trước bàn giấy Nghĩa.
Sinh trông thấy, biết ngay rằng Nghĩa bị bắt chộp trong lúc đang ăn. ông Sếp, cả hai vế đùi, hai cánh tay, lẫn mặt, đỏ ngầu ngầu, hất hàm hỏi Nghĩa:
- ông nói cho tôi biết, ông đã làm những gì từ sáng đến giờ?
Nghĩa lúng túng, tay cầm bút, trỏ vào quyển sổ ông Sếp gật đầu:
- ông nói dối tôị ông đang ăn gì?
Nghĩa mặt tái xanh, chối:
- Không, tôi có ăn gì đâủ
ông Sếp càng tức, trừng trừng nhìn Nghĩa:
- Sao ông lại nói dối tôi. Ông ăn cái gì giấu ở ngăn kéo đó?
Nghĩa lắc đầu, làm bộ ngơ ngác, rút ngăn bàn ra, đáp:
- Không, đây ông xem, có gì đâu.
ông Sếp cúi nhìn, quả không có gì thực. ông càng giận. Sinh rất khó chịụ Anh thấy ông Sếp quá sắc mắc, lại thấy bạn cứ chối hoàị Hẳn là chính mắt ông ta đã bắt được Nghĩa đang nhai, nên mới dám hỏi thế. Vả chỉ nghe giọng Nghĩa nói lúng búng, cũng có thể đoán được trong miệng chưa nuốt trôi miếng bánh.
- ông có ăn, tôi không nói sai.
Nghĩa vẫn cãi:
- Tôi không ăn gì cả.
ông Sếp trợn mắt:
- Có thực ông không ăn không?
- Phải, tôi không ăn.
ông Sếp ôn tồn nói:
- Vậy ông há mồm ra tôi xem.
Sinh rùng mình, liếc nhìn bạn. Nghĩa không há, nhưng rất lúng túng. ông Sếp lại giục:
- ông bảo ông không ăn, thì ông cứ há mồm ra... Há!... ông có há hay không?
Nghĩa không thể làm thế nào được, đành phải mở rộng hai hàm. ông Sếp nhìn thẳng vào miệng Nghĩa... ông ta nhún vai, bĩu môị Rồi không nói thêm gì, ông ta chắp tay sau lưng, lẳng lặng đi rạ ông đã quẳng sự khinh bỉ thấm thía vào mặt người có lỗi.
Sinh căm tức lạ lùng. Anh nhịn thở dài, để cắm mặt xuống mảnh giấỵ Anh giận bạn đã để cho người ta làm nhục. Rồi càng nghĩ ngấm nghía, anh càng thấy chán nản, lắm lúc hăng máu, anh run bắn người lên.
ở mấy buồng cạnh, Sinh liếc mắt, thấy ai nấy cũng làm việc rất hăng háị Tiếng máy chữ, tiếng chuông, tiếng gắt gỏng, tiếng gót giầy tây chạy, làm tôn vẻ uy nghi của ông Sếp muốn uy nghi.
Trước mặt mình, Sinh lại thấy Nghĩa không lúc nào rời tay cái quản bút. Anh thở dài. Cái cột tính cộng anh làm từ sáng đến giờ chưa xong một nửa.
Đúng mười một giờ bốn nhăm. Sinh khoác áo, đứng dậỵ Anh đến cạnh Nghĩa, để tay vào vai bạn, nói dịu dàng:
- Đến giờ rồi, đi về, anh!
Nghĩa ngẩng cái mặt buồn thỉu, sợ sệt, nói:
- Anh cứ đi trước. Tôi sợ nó còn gọi gì tôi chăng.
Sinh cương quyết:
- Đến giờ thì ta về cần gì!
- Nhưng tôi nên ở lạị
Sinh cười thương hại:
- Các buồng kia, họ về cả rồị
Nghĩa ngó cổ nhìn, rồi rụt rè với lấy cái áo. Anh khoác vào mình, gài khuy, rồi hỏi khẽ người loong toong:
- Ông ấy đâu.
- Bẩm về đã lâu rồi ạ.
Nghĩa yên tâm, cùng Sinh lững thững ra cửạ Đôi bạn xuống mấy bực thềm. Mấy người phu xe mời vồn vã, kính cẩn:
- Mời quan lên xe ạ.
Sinh xua tay, bảo Nghĩa:
- Đi bộ, tôi muốn hỏi anh cái nàỵ
Khi ra cổng, đến ngoài phố, Sinh thở dài, trách:
- Gớm, ban nãy anh quá lắm. Anh đã ăn thì anh chối làm gì. Nó giết được anh hay sao!
Nghĩa cười, không đáp. Sinh tiếp:
- Rồi đến khi nó bắt anh há mồm, sao anh không nhận là có ăn, lại cứ há rả Tôi thấy ê chệ quá! Nào cái mồm há ra nó có đẹp đẽ gì, nhất là trong đó lại có miếng bánh tây to, nhoét những nước dãị Tôi trông thương tâm quá.
Nghĩa thở dài. Sinh nhăn nhó:
- Thì giá anh không há đã làm saỏ Mà tôi không hiểu anh nghĩ thế nào anh lại há mồm ra cho nó xem thế?
Nghĩa cảm động, long lanh nhìn bạn như chợt hiểu cái phút đê tiện. Rồi hai dòng nước mắt chảy ra, anh run run, đáp:
- Ừ nhỉ, thật tôi cũng không hiểu tại làm sao tôi lại há ra như thế!
PTBNS số 48, 1-12-1939.
Vợ
Anh ba Cốc, từ ngày lấy được vợ, thì đâm lo. Lo ngày, lo đêm. Sao cho chóng trả được món nợ cướị Không thì rầy rà to chứ chẳng chơi! Đụng vào những chỗ hóc búa, lắm lúc rát cả mặt!
Vợ anh là con bác khán thủ làng trên. Anh là phu tuần. Hai người lấy nhau, cả hai làng, ai cũng khen là vợ chồng kén chọn được chỗ xứng đáng. Nhưng thực ra, vợ anh lấy anh cũng vì đôi bên là chỗ "thanh khí", nghĩa đen là bén "tiếng" quen "hơi"nhau trước mãị Rồi bất đắc dĩ, bác khán sợ anh như những hạng Sở Khanh, mới ép anh phải lấỵ Số trời có khác!
Trước kia, anh nghĩ đã sinh ra làm con trai, tất nhiên là phải cưới vợ cho hợp lẽ tạo hóạ Nhưng cưới được vợ thì tốn kém quá. Tiền nọ, tiền kia, tiền ăn uống, ít ra mất hàng chục. Nghĩ đến cái hàng chục, anh lại lắc đầu, lè lưỡi, muốn chịu thua, đành vô phép tạo hóa làm trai tơ suốt đời vậỵ Vậy mà giá nói cho anh biết ở Hà Nội bây giờ, người ta cưới vợ phải dẫn những kim cương, những vàng ngọc, dùng những áo thêu, giày vá, đi những ô tô, máy bay, tốn kém đến hàng nghìn, thì quyết anh không tin, cho là chuyện hoang đường ở nước nào, đời nào kia đấy! Lấy vợ mà phải lo đến hàng trăm, không đủ méo mặt ra rồi à? Vả vợ cũng là người, nào phải cái quái mà làm hại nhiều như thế?
Thế nhưng, trời sinh ra thế, anh ba Cốc nghĩ đến cưới thì sợ, nhưng nghĩ đến vợ thì thích. Bởi vậy, anh mới lân la trò chuyện với chị Ba bây giờ. Trước chuyện to ở đám đông, sau chuyện nhỏ ở chỗ vắng. Rồi sau nói thầm ở một nơi kín. Vì anh chị nói thầm khẽ quá, nên bác khán nghe tiếng, bắt anh phải lo cưới cho được chị về.
Bởi vậy, anh Cốc quyết bắt chẹt bố vợ, cố mặc cả. Sau, anh lấy được vợ hạ giá hơn người ta, chỉ có mười lăm đồng bạc.
Mười lăm đồng bạc một cô vợ xinh! Mười lăm đồng bạc một cô vợ yêu! Thích nhỉ! Nếu vào địa vị chúng mình thì phải biết là đáng mừng! Nhưng vào anh ba Cốc, một người cày sâu cuốc bẫm quanh năm, làm ăn vất vả, vắt mũi không đủ đút miệng, thì đến mười lăm hào cũng đủ lo méo mặt, chứ nói gì đến mười lăm đồng bạc! Nhưng mười lăm đồng bạc tiêu vào một việc bổn phận làm người, thôi, anh cũng cố vay mượn của các bà con thân thuộc, nói khó với người ta, nên được gần đủ.
Ngày hẹn cưới sắp đến. Bác khán thúc mãi anh, anh mới lo được chẵn chục bạc. Anh cứ đánh liều đưa sang bên nhà gái cho xong chuyện. Còn năm đồng, anh xin chịu lại ông nhạc, hẹn đến mùa tới thì trả nốt.
Ý anh định rồi sau này, khi đã là bố con, anh có thể lấy cảm tình mà xí xóa món nợ. Nhưng không được. Bố vợ anh láu hơn, bắt anh phải viết văn tự cẩn thận. Phải, thời buổi kinh tế khó khăn, như thế là bác khán đã nhân nhượng lắm rồị Chứ như người khác, đố anh có đón dâu nổi ngày hôm ấỵ Anh thử lên Hà Nội, thửa một thức hàng mà xem. Nếu anh đặt được ít tiền trước, rồi không có đủ để trả nốt, thì anh chớ hòng mang đồ về. Mà vợ cũng là đồ chứ saỏ Lấy vợ mà được "biên bông" như anh, là may đấy.
Nhưng rồi anh ba Cốc lo lắm. Cưới được lâu ngày bao nhiêu, thì hẹn trả chóng đến bấy nhiêụ Vụ gặt xong, mà anh ỳ xác ra, thì quyết anh chẳng yên được.
Anh đã tính chán rồị Đến ngày mùa, hai vợ chồng làm nai lưng cật lực, chưa chắc đã đủ tiền để trang trải các món nợ ông chủ, huống chi là năm đồng bạc nợ ông nhạc! Anh định nếu rồi không cười trừ được, thì anh cũng đành xin khất lạị Chẳng lẽ ông ấy lại chẻ xác anh ra à? Nếu anh bị chẻ xác, thì con gái ông ấy góa chồng, còn thiệt bằng mười!
Nhưng ở đời, tính một đường nó thường đi một nẻọ Vợ anh khuyên anh nên trả cái món năm đồng ấy trước, anh lại chẳng nghẹ Khi hẹn đến ngày, bác khán cứ gọi anh đến mà đòi nằng nặc. Trước còn ngọt ngào dỗ dành sau bác biết anh chỉ còn bộ răng nhe ra đấy thôi, bác liền đâm ra nói nặng. Không chịu nổi những điều đau đớn, anh đành lẩn mặt. Bố vợ cho gọi, anh cứ thoái thác cớ nọ cớ kia, không đến nữa.
Mấy lần bác khán gọi anh ba Cốc không được, thì tức. Bác mới gọi chị Ba đến. Bác chửi, đánh cho một trận thật đau, bắt phải về đòi chồng cho kỳ được món tiền năm đồng ấỵ
Chị Ba sợ bố, về đòi chồng nằng nặc. Nhưng vợ đòi nợ chồng thì một cái hôn là đủ xí xóa. Vợ anh bảo:
- Nếu mình không giả được, thì ông bắt tôi về.
Nghe câu nói dọa vô lý, anh chẳng sợ một tí nào. Dù bố vợ anh có bắt vợ anh về thực, thì chẳng qua như cái lối chủ nợ bắt đồ, cốt để làm oai, khiến anh phải lo cho kịp. Như thế là dạị Đồ vật thì không biết đi, không biết trốn, chứ đồ người nào phải vật vô tri vô tình. Giữ sao nổi. Chẳng lẽ bác khán xỏ chạc vào mũi con gái mà buộc suốt ngày vào chân giường, để nuôi cơm báo cô mãi. Chỉ cho ba hôm, bác xót ruột lại phải thả con ra ngay. Lúc ấy anh cứ chịu khó nghe chửi một trận nữa là trôi việc.
Nhưng anh đoán không đúng. Bố vợ anh chưa tịch ký vợ anh, đã áp đảo đến nhà anh mà chửi rủa. Ngày nào tấn kịch ấy cũng diễn ra độ nửa giờ. Mà bao giờ anh cũng đóng một vai tuồng câm.
Song, già néo đứt dây. Anh cứ thấy ông bà ông vải ngày nào cũng bị mời lên ăn vật chẳng ngon, thì anh động tâm. Cho nên, đến lúc bác khán bảo nếu anh không trả thì bác bắt con gái về, anh đâm khùng, liền đáp lại:
- Thì nó đấy, ông muốn đem nó đi đâu thì đem!
Chị ba Cốc thấy bố đẻ và chồng xử với nhau cạn tàu ráo máng, thì chỉ thút thít. Chứ bênh bên nào cũng tội.
Hôm sau, đi đâu về, chị ấy nói với anh một chuyện, nghe buồn quá:
- Anh ơi, tôi lấy anh chốc đà một năm tròn. Tôi không ngờ đâu chỉ vì có năm đồng anh thiếu mà sinh chuyện. ông nhất định bắt tôi về. Anh nghĩ thế nào.
Anh Ba cau mặt, thở dài:
- Ông dọa thế, chứ ông chả nỡ.
- Không phải chuyện dọạ Nội nhật ngày mai, nếu anh không giả được, thì ông không đắn đo nữa đâu.
- Thì nhà cứ tạm về, tôi sẽ thu xếp sau.
- Thu xếp sau thì chậm quá. Nghe như ông đã định liệu công việc cả rồi.
- Ông đi kiện tôi à? Lý vậy, nhưng còn tình nữa chứ?
Anh ba Cốc tin ở chữ tình, nên bằng chân như vại.
Phải, bác khán nghĩ đến tình bố vợ con rể, nên không nỡ kiện thưạ Nhưng bác bắt con gái về, không cho ở với anh ba Cốc nữạ
Anh ba Cốc chờ vợ năm hôm, lại mười hôm. Rồi nửa tháng, đến một tháng. Anh nóng ruột, nhớ vợ, long tong chạy ngược chạy xuôi để vay tiền chuộc. Nhưng không ai tin mà cho anh mượn nữa. Anh bèn liều đến nhà ông nhạc, lạy van, khóc lóc. Nhưng bác khán một mực lắc đầu, sai con trai đuổi anh ra khỏi cửạ Rồi từ hôm sau, cấm không cho anh vào nhà.
Anh định đâm ì. ì mãi, thì tất cũng có một ngày ông nhạc giữ vợ anh chán, rồi cũng hồi tâm mà nghĩ lại, cho vợ chồng anh ăn ở với nhau.
Nhưng trong khi đương thi hành cái chương trình ì, thì anh nghe tin rằng người bạn trăm năm của anh, vì bố ép, nên chỉ trăm năm với anh có một năm, còn chín mươi chín năm nữa, thì trăm năm với cụ lý Bá dưới cuối tổng, làm vợ lẽ thứ bảy, để gán món nợ hai chục bạc mà bác khán đã vay cụ năm trước!
PTBNS số 5; 1-4-1937
Xin chữ cụ nghè
Gần chỗ tôi ở, có một cụ nghè, đỗ khoa nào tôi không rõ. cụ nghè nổi tiếng là hay chữ. những thơ phú, câu đối, cụ làm ra, toàn là chữ nho cả, tôi ù cạc như vịt nghe sấm, nhưng thấy người vùng này thuộc nhiều và đều phục là hay lắm.
làng cụ ở cách nhà tôi độ ba cây số. những ngày rỗi việc, tôi thường đi lại để được hầu chuyện cụ. vì tính cụ vui vẻ, dễ dãi, nhất là tiếp đãi tôi, thì bao giờ cũng một cách đặc biệt. thường cụ vẫn bảo tôi rằng nếu có cần việc gì về chữ nho, thì cụ sẵn lòng giúp.
tôi vâng dạ, nhưng chửa có dịp nào được phiền đến cụ, vì chửa có dịp nào phải cần giao thiệp bằng chữ nhọ nhiều người cứ xui tôi xin cụ đôi câu đối, nhưng tôi không muốn vì vẫn biết cụ sẵn lòng cho, nhưng chính mắt tôi thường trông thấy phàm ai muốn nhờ vả cụ về chữ nghĩa, đều phải có đem hoặc cành cau, hoặc gói chè, hoặc có khi cả đồng bạc nữa, để biếu cụ chứ không ai chơi cái lối "nước dãi" bao giờ như thế thực là phảị cho nên, chẳng lẽ bây giờ mình nhờ cụ, mà cũng xử như người ta, đem gì đến, thì sợ cụ cười rằng trẻ con không biết gì nhưng nếu ngộ không tạ cụ bằng thức gì, thì cụ lại chẳng bằng lòng vì cách "tây" quá ấy chăng bất nhược chẳng phiền cụ cho xong quách.
một hôm nhận được giấy cáo phó của một người bạn thân báo tin ông cụ thân sinh mới tạ thế, tôi cùng vài người anh em định rủ nhau sửa đồ phúng chung.
Ngày thường, chúng tôi vẫn nghe lỏm nhiều người nói chuyện rằng phúng đám ma các cụ già, người ta hay dùng bốn chữ hạc giá tiên dụ chúng tôi định thửa ở hiệu bốn chữ ấỵ nhưng mặt chữ không thuộc, nên không biết viết thế nàọ mà đành phận chữ chi là cò cũng không biết, thì thà chịu dốt còn hơn. vả lại bốn chữ sẵn này, tuy hợp nghĩa, nhưng nó cũ rích, lại chẳng hay ho gì, không đủ tỏ được cái tình thân mật của chúng tôi đối với hiếu chủ chúng tôi bèn quyết không dùng mấy chữ sáo hạc giá tiên du ấy nữạ nhân có cụ nghè ở gần, chi bằng chúng tôi lại xin ngay chữ cụ, tất được hay lắm.
chúng tôi biết tính cụ nghè thích đánh chén, mà xưa nay chúng tôi lại chưa được dịp vào hầu rượu cụ, nên nhân việc này, chúng tôi mời cụ đến xơi cơm, rồi nói chuyện xin chữ cho tiện.
dặn dò người nhà làm cơm và mua rượu xong, chúng tôi cùng thân hành đến nhà cụ nghè để đón cụ. hôm ấy, được ngày cụ thong thả và mát trời, nên cụ đi ngay.
cơm xong, tôi nói:
- thưa cụ, tiện đây, chúng con có một việc muốn phiền cụ.
- hừ! các ông lại muốn nhờ làm câu đối chứ gì?
- dạ.
- thế thì việc quái gì phải bày vẽ ra như thế này cho thêm tốn?
- bẩm có gì là bày vẽ. chúng con chủ ý mời cụ quá bộ đến xơi cơm để chúng con được hân hạnh hầu rượu cụ mà thôị
- câu đối gì?
- bẩm câu đối phúng.
- phúng aị
- bẩm phúng ông thân sinh một người bạn thân.
- Được! Đem giấy, bút, mực ra đâỵ
chúng tôi đưa lọ mực tây và bút sắt. cụ không nghe, cười:
- tôi có quen dùng những thứ này đâu.
chúng tôi bèn chia nhau đi mượn cho đủ bộ. khi thấy mang về, cụ bảo:
- mài mực đị ông đổ ít nước lã vào đây, rồi mài thoi mực này mươi vòng vào chỗ này, khi nào đen thì thôi.
chúng tôi vâng lời cụ. khi mực mài xong, cụ để các đồ dùng trước mặt, lên ngọn kính, rồi hỏi:
- viếng ông cụ thân sinh ra bạn thân phải không?
- dạ.
- ông cụ ấy bao nhiêu tuổi.
- bẩm ngót bảy mươị
- à thọ nhỉ? con cháu khá cả đấy chứ?
- bẩm vâng.
- ông cụ ấy còn cha mẹ già không?
- không ạ.
- bà cụ còn chứ?
- dạ.
- Được. ấy, phải biết đủ như thế, mới có thể giãi tỏ hết cả tấm lòng mình được.
cụ nằm phục vị trước tờ giấy, chống tay vào cằm, nghiêm nét mặt lại, rồi rung đùi, cơ chừng để nghĩ. chúng tôi ngồi chắp tay, yên lặng cả, để khỏi làm rối mất mối văn chương của cụ nghè.
một lúc, cụ ngồi nhổm dậy, nói:
- mà cần gì phải câu đốỉ bây giờ những đám ma văn minh người ta có hay dùng câu đối nữa đâủ Để tôi nghĩ cho bốn chữ rõ hay, các ông có bằng lòng không?
- dạ!
- Được.
cụ lại phục vị, cầm bút chấm vào nghiên, xoe ngòi cho tròn rồi viết. chúng tôi châu đầu cả vào để nhìn tay cụ.
Đầu tiên, cụ nắn nót viết một dòng chữ về mé tay phải ở tờ giấy, chỗ đề niên hiệu:
bảo Đại nhâm thân niên trọng hạ nhật.
rồi cụ đưa phắt tay sang mé trái tờ giấy, viết luôn một dòng chữ nữa đề lạc khoản:
tử chấp: trần văn x, trịnh hữu y, nguyễn mạnh z, đồng trang vãn.
cụ hỏi:
- có phải tên các ông viết thế không? dòng bên kia là đề ngày, tháng, năm đấy.
- dạ.
- tử chấp nghĩa là hàng con, các ông cũng vào hàng con cụ ấỵ
- dạ.
chỗ giữa vẫn còn để trống. cụ lại hỏi:
- ông cụ có phải không nhỉ?
- dạ.
lúc ấy cụ lại ra dáng nghĩ ngợi hơn, gục hẳn mặt vào bàn tay và rung chân mạnh hơn trước. rồi ngẩng dậy, cụ đặt bút, chấm vào mực, lăn mãi ngòi vào nghiên. chúng tôi lại phải im phăng phắc, không dám thở mạnh để cụ loạn trí, mất chữ hay, chăm chăm con mắt nhìn theo tay cụ.
Độ năm phút sau, cụ đặt bút xuống chiếu, gãi chân, rồi kêu nực, chúng tôi quạt hầụ cụ cầm bút rồi rung đùi một chốc, cụ lại xoay bút, không rung đùi nữa, đặt hẳn ngòi trên mặt tờ giấy, đưa đi đưa lại cái quản, ngoáy ngoáy trên không để lấy gân, rồi dí hẳn xuống, nắn nót, viết bốn chữ nét rậm rì to tướng.
viết xong, cụ nhổm phắt dậy, trỏ vào từng chữ mà giảng cho chúng tôi được hiểu thấu cái haỵ cụ nghè giảng rằng:
- hạc là con hạc, giá là xe, tiên là cõi tiên, du là chơi, các ông hiểu chưa.
hiểu rồi, chúng tôi lườm nhau, chỉ sợ có anh nào cười thì chết!...
An Nam tạp chí số 45, 1932
Xuất giá tòng phu
Trả tiền xe xong, ngài ôm cái gói bọc giấy xanh, chằng dây hồng, thoăn thoắt đến buồng khách, qua buồng ăn, ngó vào nhà tắm, rồi xuống bếp: su hào, bắp cải, bong bóng, nấm mực, còn bừa bãi, ngổn ngang cả trên phản làm cơm ngài ngơ ngác hỏi:
- bếp! bà đâu.
anh bếp ngơ ngác, thưa:
- bẩm, bà ở nhà ngoài.
ngài càng ngơ ngác:
- không mà!
rồi ngài tìm lượt nữa: nhà tắm, buồng ăn, buồng khách. ngài gọi to:
- mợ đâu nhỉ?
chẳng thấy vợ đâu, ngài sực nghĩ rạ ngài chạy lên gác, bật đèn lên. thì quả nhiên bà nằm trên giường, đắp chăn kín mít.
mừng rỡ, ngài đặt cái gói lên bàn, lại gần, ngồi cạnh vợ, lật chăn ra, tỏ ý ngạc nhiên:
- kìa, tôi tưởng mợ sắm sửa xong rồị dậy đi, mau!
bà mở mắt lim dim, kéo chăn đắp lại, uể oải nói:
- tôi nhức đầu quá, mà cơm cúng ở nhà cũng chưa sắp sửa được gì cả.
- không cần. dậy mặc quần áo, kẻo không kịp.
nói đoạn, ngài lật cả tấm chăn rạ bà vợ thì cố co lại:
- thôi, tôi nhức đầu như bị búa bổ, và chóng mặt lắm.
ngài cười khanh khách, kéo vợ ngồi dậy:
- ồ, vờ mãi! mặt mũi thế này mà bảo rằng nhức đầụ mau đi, kẻo lỡ.
rồi chẳng hay cảm vì sắc đẹp hay muốn giở khoa nịnh đầm, ngài ôm lưng vợ, hít vào cổ. nhưng bà hất ra, và lại cố nằm xuống, dằn dỗi:
- tôi chịu thôi.
ngài trợn mắt, kinh ngạc:
- chết, việc cần, không nói thế được. thu xếp xong đâu vào đấy rồị mợ đừng phụ công tôi.
rồi ngọt ngào, ngài đập vào vai vợ, trỏ cái gói:
- này, tân thời, đẹp đáo để. dậy mà xem.
bà vừa kéo chăn toan trùm đầu, vừa nói:
- Điều khác thì tôi xin chiều ý cậu ngay.
ngài co phắt chăn, cuộn lại, ôm quẳng sang giường bên kia, hềnh hệch cái mồm, cười:
- mợ chỉ ngại rét chứ gì? có rét quái đâu! ở ngoài đường cũng ấm áp lắm.
Bà ôm đầu:
- Ở nhà công việc còn bề bề ra, cậu không biết à? cơm cúng đã làm được tí nào đâu.
Ngài dỗ dành:
- Không cần! chả cúng bây giờ thì tám giờ, chín giờ, mười giờ đêm, lúc nào mợ về hãy haỵ mà chẳng có thì tôi cứ trầu nước mời các cụ về cũng được, chứ đã làm saỏ mai năm mới, hãy cỗ bàn bày vẽ.
nói đoạn, ngài dựng vợ dậy, cầm hai cánh tay, kéo ra cạnh giường, rồi ngoèo chân, xếp lại hai chiếc guốc cho ngay ngắn bà oằn oại, ngả người để co lại, nhăn nhó, giằng tay ra nhưng thấy sức yếu quá, nên tự nhiên, bà bật ra tiếng khóc.
Đó là lúc chẳng nên đùa.
Cho nên ngài trợn mắt, nghiêm chỉnh hỏi:
- Ô hay, mợ không đi thực à?
Bà vẫn ôm mặt, nức nở:
- Cậu còn phải hỏi hay sao.
- Nhưng tôi đã hứa với người ta rồi kia mà!
- Mặc kệ cậu ai bảo.
- À, mợ khó bảo nhỉ! nào có nhọc nhằn gì việc ấỵ tôi quanh năm làm lụng vất vả, mỗi ngày vùi đầu vào công việc hàng bảy tám giờ đồng hồ nếu tôi quản công, thì liệu cả gia đình này có được ấm no không? mợ không biết nghĩ.
- Tôi hiểu cả cậu không cần nói nhiều nhưng cậu đừng bắt tôi thế.
Buông phứt vợ ra, ngài ngầu ngầu nhìn thật nghiêm chỉnh:
- Thế mợ muốn để cho người ta cho tôi là đồ gì?
Bà chắp hai tay, vái lấy vái để:
- Tôi lạy cậu, tôi van cậu, cậu đừng ép tôi tôi là vợ cậu...
- À, tôi là vợ cậu! là vợ mà chồng bảo không nghe luân lý để đâu giáo dục để đâu.
Bà lại ôm mặt, thổn thức ngài móc túi, coi đồng hồ.
- Thôi, dậy sắm sửa mà đi, còn có ngót một giờ nữa thôi.
- Ngót một phút tôi cũng chịu.
Nghiêm nét mặt, ngài dẽ dàng, giảng:
- Mợ phải hiểu, tôi không muốn tôi phải ép mợ tôi muốn mợ vui vẻ mà đi tôi giảng nghĩa trong từng ấy ngày, tôi tưởng mợ đã nghe hiểu thế này thì cáu thật!
Bà nằm lả xuống giường, ôm đầu ngài nhìn một lát, bỗng hất hàm, hỏi:
- Mợ có đi hay không thì mợ bảo.
- Tôi cắn rơm cắn cỏ tôi lạy cậu, cậu tha cho tôi cậu đừng làm tôi nhục.
Ngài nhăn mặt, rồi to tiếng:
- Có đi hay không?
Bà cũng nhăn mặt:
- Khổ quá, tôi lạy cậu.
Ngài gắt:
- Có đi hay không. mợ trả lời một tiếng không lạy van gì cả! có hay không?
Bà không đáp, nức nở khóc ngài nắm chặt bàn tay, đấm mạnh xuống phản:
- Nói!
Nhưng chẳng được nghe ý kiến vợ, ngài xung tiết, chạy đến mắc áo, vớ cái ba toong, khuỳnh tay đứng trước giường, rồi giơ ngọn gậy vào mặt vợ, hỏi:
- Có hay không? một tiếng!
Vừa sụt sùi, bà vừa đáp:
- Không!
Cần quyết liệt hơn, ngài giơ gậy:
- Thật mợ không đi à?
- Không!
- À, bướng! tao không dọa đâu nhé. Để rồi mồng bốn tết, nó nhổ vào mặt tao ấy à! cứng cổ này! khó bảo này!
Thế là chiếc gậy hăng hái, cứ từ trên cao giáng xuống. bà rú lên, rồi giơ tay ra đỡ, sấn lại chồng, cố níu lấy cánh tay rắn như sắt. nhưng loáng một cái, ngọn gậy giơ lên thật cao, quật mạnh xuống, chạm phải thành giường, gẫy cắc ra làm đôị một mẩu quay lông lốc như chong chóng, bắn lên gần trần, rồi rơi xuống ván gác.
Đó là một cảnh dữ dội.
-Tôi van cậu, để nội trong ba ngày tết hôm nào tôi đi cũng được.
biết là sự làm già bao giờ cũng hay hơn, ngài lắc đầu, co giật phắt vợ xuống bà ngã ngồi trên hai chiếc guốc lúc ấy ngổn ngang.
- Phải đi ngay! tao không hoãn một phút! Đồ thân lừa chỉ ưa nặng.
Bà nhăn nhó, khóc:
- Để đến mai, mồng một tết, tôi đi vậy, bây giờ tôi còn phải làm cơm cúng.
- Đã bảo không cần mà người ta đi trước tết, chứ ai để đến tết rồi mới đi! Đứng ngay dậy!
Ngài giật phắt cái cột màn thì thình lình:
- Ối hàng phố ơi!
Bà vừa kêu, vừa túm lấy chồng, thở ỳ ạch.
Nhưng khỏe như con vâm, đưa khuỷu ra, ngài gạt vợ ngã lăn, và nắm chặt lấy hai cổ tay bà oằn oại, song yếu quá bà dùng hai cẳng để cưỡng nhưng cả cái sức nặng của tấm thân vạm vỡ đè trên ngực bà, bà phải cố cựa cạy để thở vậy mà ngài tát ngài tát dồn năm sáu cái, và hỏi tội:
- Mày có đi hay không?
Bà tối tăm mặt mũi, hổn hển thách:
- Đây, cậu cứ đánh chết tôi đi.
Tức thì, những quả thụi kinh hồn vào mặt, vào ngực và vào sườn, làm bà kêu thất thanh. nhưng mặc kệ, ngài vẫn hỏi có một tội:
- Mày có đi hay không?
Bà kêu cha, kêu mẹ, kêu cả trời nữạ nhưng ai thưả ví thử cha mẹ hay cả trời nữa có đứng đấy thực, cũng đố dám vào mà gỡ.
việc gì cũng vậy, đánh đau thì phải chừa cho nên chẳng mấy chốc, bà kêu cuống quýt:
- Vâng! vâng! tôi lạy cậu! tôi xin đi.
Ngài hung hăng, lôi phắt vợ dậy, hầm hầm nhìn.
Bà ngồi lả, chống tay đằng sau, đầu tóc rũ rượi, thở.
- Nếu mày định đi thật, thì đi mà lau mặt.
Sợ quá, bà chắp hai tay vái cuống queo:
- Vâng, vâng, tôi xin đi.
- Đi ngay!
- Vâng, vâng! tôi lạy cậu.
Nói xong, bà lê đến ngồi ở ghế.
Ngài nhìn ra hiên, chạy lấy chiếc khăn mặt, đưa vợ:
- Đây, lau mặt đi! áo quần, phấn sáp có sẵn cả rồi, còn khó khăn gì nữa.
Đoạn ngài vớ cái bọc, cởi dây, mở giấy ra trước mặt bà và nói:
- Không biết tao hết hơi nói người ta mới cho mượn những thứ này à? mau, chậm rồi.
Bà khóc sướt mướt, cầm cái lược, giũ mái tóc ra và vừa suýt xoa, vừa chảị ngài vẫn còn hung hăng:
- Rẽ như lối chị tham ấy.
Giật nảy mình, bà vội chải, vội rẽ, vội uốn éo cho làn tóc lật lên, cong xuống cho thật nền, rồi vừa lau nước mắt, bà vừa lấy các thứ ở bọc để xoa phấn trắng, đánh phấn hồng, và kẻ môi son cho thắm.
trong khi ấy, ngài đứng coi, mỗi chốc lại giở đồng hồ ra xem và giục.
trang điểm xong, bà thở dài, cố gượng đau để đứng dậy, lấy cái quần xa tanh trắng và cái áo nhung màu may kiểu mới vẫn còn gấp gọn ghẽ trên bàn bà vận những thứ ấy vào, rồi bôi đẫm nước hoa.
Đến bây giờ, dưới ánh đèn điện sáng trắng, bà thành ra một bông hồng nõn nà, thơm tho, khêu gợi.
Nhưng vẫn trừng trừng nhìn vợ, ngài gắt:
- Tươi tỉnh lên thì người ta mới cảm, chứ khó đăm đăm thế kia, thì nó tống cổ về!
Rồi ngài xuống gác bà đi theọ ngài gói ít nhật trình cũ, buộc dây cẩn thận, rồi đưa bà.
- Cầm cái này mà đi cho người ta khỏi ngờ.
Và vẫn nghiêm chỉnh, ngài đe:
- Hễ nói dối tao mà trốn vào đâu thì đừng ăn cái tết này thôi!
Bà nghiến răng, thở dài, không đáp.
Ngài nhiếc:
- Cái giống đàn bà xưa nay vẫn thế kia! lúc đến thì đừng có lù lù đằng cổng trước, nghe chưa mà khi nào ông ấy cho về mới được về tao mà thấy ông ấy tỏ ý không bằng lòng thì chớ chết!
Nước mắt chạy quanh, bà bước chân ra gần đến cửa, quay lại, rít lên, nói:
- Thiếu gì cách lễ tết mà cậu phải làm tôi nhục nhã như thế này!
Ngài trợn mắt:
- Câm ngay! làm gì mà bô bô cái mồm lên thế. Đồ ngu như lợn cái gì thì mua được, chứ cái này mua được à?
Rồi ngài đứng nhìn chiếc xe kéo vợ đi khuất, mới quay lại, ra dáng yên lòng ngài yên lòng vì không phải thẹn với lương tâm mà chắc chắn rằng sẽ được ông ấy khen là biết ơn và tử tế.
ptbns số 61; 16-6-1940
Nguyễn Công Hoan
Theo http://butsen.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một chút tâm tình về nhà văn Võ Hồng, tác giả của "Hoài cố nhân"

Một chút tâm tình về nhà văn Võ Hồng, tác giả của "Hoài cố nhân" “Ngày 24/04/2022 Trường đại học Phú Yên đã tổ chức buổi hội thả...