Tập truyện Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan (6 tháng 3 năm 1903 tại Hưng Yên - 6 tháng 6
năm 1977 tại Hà Nội) là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam.
Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện
Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn
Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học
thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều
câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích
tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông
sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương
vị quan trọng là Nguyễn Công Miều tức (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn
Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng
Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ [1] [2].
Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở
nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,...) cho đến khi Cách mạng tháng
Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan
(viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền
văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo
chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc
quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ
nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam
từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn
sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho
lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận
đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề
văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy
viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó.
Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ
nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ).
Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên
ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí
Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật
năm 1996.
Tác phẩm
Ông để lại một di sản nghệ thuật với hơn 200 truyện ngắn, gần
30 truyện dài và nhiều tiểu luận văn học, các tác phẩm chính của ông là:
Kiếp hồng nhan (truyện ngắn, 1923)
Răng con chó của nhà tư sản (truyện ngắn,
1929; đăng Annam tạp chí số 23 năm 1931 với nhan đề Răng con vật nhà tư bản)
Hai thằng khốn nạn (truyện ngắn, 1930)
Thật là phúc (truyện ngắn, 1931)
Người ngựa, ngựa người (truyện ngắn, 1931)
Thế là mợ nó đi tây (truyện ngắn, 1932)
Xin chữ cụ nghè (truyện ngắn, 1932)
Tắt lửa lòng (truyện dài, 1933)
Lá ngọc cành vàng (tiểu thuyết, 1934)
Kép Tư Bền (tập truyện ngắn, 1935)
Cô làm công (tiểu thuyết, 1936)
Oẳn tà roằn (truyện ngắn, 1937)
Vợ (truyện ngắn, 1937)
Bước đường cùng (tiểu thuyết, 1938)
Tinh thần thể dục (truyện ngắn, 1939)
Phành phạch (truyện ngắn, 1939)
Cái thủ lợn (tiểu thuyết, 1939)
Nông dân và địa chủ (truyện ngắn, 1955)
Tranh tối tranh sáng (truyện dài, 1956)
Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn
1930 (1960)
Hỗn canh hỗn cư (truyện dài, 1961)
Đống rác cũ (tiểu thuyết, 1963)
Ðời viết văn của tôi (hồi ký, 1971)
Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (3 tập, Nxb.
Văn học, 1983 - 1986)
Năm 1936, truyện dài Tắt lửa lòng của ông đã được Trần Hữu
Trang chuyển thể thành vở cải lương nổi tiếng Lan và Điệp.
Thành tựu nghệ thuật
Nguyễn Công Hoan là nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực
phê phán Việt Nam. Tác phẩm Kép Tư Bền (viết năm 1927, xuất bản năm 1935) đã
gây chấn động trên văn đàn, và là đề tài cho cuộc bút chiến giữa hai quan điểm
nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh lúc bấy giờ. Nhiều tác phẩm
của ông được đưa vào giảng dạy ở chương trình giáo dục phổ thông các cấp.
... Nói đến Nguyễn Công Hoan trước hết là nói đến một bậc thầy
truyện ngắn trong văn học Việt Nam hiện đại. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan đa dạng, phong phú như một "bách khoa thư", một "tấn trò đời"
mà đặc trưng là xã hội phong kiến của thực dân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20.
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có nhiều nét gần với truyện cười dân gian, tiếp
thu được truyền thống lạc quan của nhân dân muốn dùng tiếng cười như một
"vũ khí của người mạnh" để tống tiễn cái lạc hậu, cái xấu xa vào dĩ
vãng... Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với đặc điểm của nó đã nâng cao khả năng
nhận thức và khám phá các hiện tượng xã hội phức tạp... Chúng ta có quyền tự
hào về Nguyễn Công Hoan và coi ông là bậc thầy truyện ngắn... Nguyễn Công Hoan
là nhà văn có công khai phá, mở đường cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt
Nam thời kỳ hiện đại... Nguyễn Công Hoan đã đột phá vào những thành trì, khuôn
khổ của giáo huấn và tiếp nhận, tuân theo một chủ nghĩa khách quan lịch sử khi
miêu tả hiện thực. Giới nghiên cứu văn học khi bàn đến sự hình thành chủ nghĩa
hiện thực trong văn học Việt Nam đều nhất trí đánh giá cao vai trò, vị trí của
Nguyễn Công Hoan, người có những tác phẩm được coi là "cổ điển" trong
nền văn học hiện đại."[3]
Từ điển bách khoa Việt Nam đánh giá:
Có thể nói Nguyễn Công Hoan là ngọn cờ đầu của văn học hiện
thực phê phán Việt Nam... Nguyễn Công Hoan đến với chủ nghĩa hiện thực bằng văn
học trào phúng. Từ những truyện đầu tiên, ông đã tìm đề tài trong những người
nghèo khổ, cùng khốn của xã hội. Đa số nhân vật phản diện của ông đều thuộc tầng
lớp thượng lưu giàu có và quan lại, cường hào. Toàn những cảnh xấu xa, bỉ ổi,
những chuyện bất công, ngang ngược, những con người ghê tởm, đáng khinh bỉ.
Nguyễn Công Hoan tạo ra những tình huống bất ngờ, rồi phá lên cười và làm cho
người khác cười theo, nhưng ngẫm lại thật thương tâm đau xót."[4]
Ngoài sáng tác, những bài tiểu luận, phê bình văn học của ông
cũng được đánh giá cao vì có cái nhìn, cách tiếp cận sắc sảo về các tác giả văn
học Việt Nam.
Ông từng có mặt trong Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô
từ thập niên 1960[5].
Giai thoại
Mặc dù sinh thời, Phạm Quỳnh nhận xét về
Nguyễn Công Hoan rằng: "Truyện viết hay như Tây" nhưng ông rất ít đọc
các tác phẩm văn học nước ngoài, kể cả tác phẩm của các tác giả bậc thầy. Theo ông
kể lại, ngày còn đi học, ông được một người thân cho ba đồng bạc để mua sách,
ông góp thêm tiền vào mua được bộ tiểu thuyết "Bá tước Monte Cristo"
(bấy giờ được dịch sang tiếng Việt là "Ngọc Sơn bá tước") của
Alexandre Dumas. Sách mua về, ông chỉ đọc có chương đầu tiên rồi bỏ, từ đấy cuốn
sách chỉ để cho mượn. Khi ông được người bạn cho mượn một tập truyện ngắn của
Guy de Maupassant thì ông cũng chỉ đọc có truyện đầu là truyện "Lão ăn
mày", rồi không xem thêm nữa.[6]
Một lần, cảnh sát khu vực phường Trần Hưng
Đạo đến nhà gặp Nguyễn Công Hoan để kê khai bổ sung về hộ khẩu, lý lịch. Đến mục
"Trình độ văn hóa", ông khai là "đọc thông, viết thạo". Người
cảnh sát khu vực tròn xoe mắt thắc mắc: "Thưa bác, bác là nhà văn lớn mà
khai như thế này, liệu có khiêm tốn quá không?". Ông Hoan nói: "Ghi
đúng đấy. Tôi hồi trước học theo văn bằng của Pháp chỉ tương đương hết phổ
thông bây giờ. Tôi từng chỉ là thầy giáo tiểu học. Nhưng bây giờ nhiều trường đại
học vẫn mời tôi giảng bài cho các thế hệ sinh viên. Theo anh, tôi nên khai như
thế nào?".[7]
Ông nội của Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đức
Liên, đưa ra quy ước về cách đặt tên đệm lần lượt theo các đời là "Đức, Đạo,
Công, Tài, Trường, Thiên, Thế, Tộ", do vậy ông được đặt tên đệm chữ
"Công". Các con trai của ông được đặt tên đệm chữ "Tài"
(Nguyễn Tài Khoái, Nguyễn Tài Đông, ngang hàng có "Nguyễn Tài Dư, Nguyễn
Tài Anh"...). Cháu nội ông lấy đệm chữ "Trường" (Nguyễn Trường
Thống Nhất, Nguyễn Trường Đại...). Cũng theo quy ước đó, khi đến chữ "Tộ"
thì quay lại chữ "Đức". Ý nghĩa của tám chữ được dùng để đặt tên đệm
đó đại ý là có đạo đức, có tài năng thì tiếng tăm được lưu truyền trên thế gian
này mãi mãi.[7]
Gia đình
Con trai là Nguyễn Tài, Đại tá nguyên Thứ trưởng Bộ Công an.
Cháu Nguyễn Trường Đại, hiện là Đại tá Cục phó Cục Thông tin liên lạc (H47), Tổng
cục Hậu Cần Kỹ thuật - Bộ Công an
... "Nhân ông Cửu đi vắng, ông Trưởng bèn một mình lẳng lặng
vào buồng dò xét... Ông soi kỹ mọi nơi, bỗng giật nẩy mình, ông thấy có một
viên gạch giữa gậm phản bị cậy lên. Ông nhấc gạch lên, bới đất ra, thì lạ quá,
một cọc bạc mười đồng, buộc chằng dây đỏ chữ thập nằm nghiêng ở đó. Ông cởi
dây, xem kỹ từng đồng, thì quả là đồng bạc ta vẫn tiêu, gõ kêu rất ròn tiếng.
Ông bèn buộc cẩn thận lại, để trả vào chỗ cũ, lấp đất lên, chặn lại hòn gạch,
nhưng nhất định rồi sẽ hỏi ông Cửu cho ra việc lạ này. Nếu có điều gì ám muội ở
trong, tất ông không tha, thế nào cũng trình quan về bắt..."
Một hôm ông Trưởng Sắc đương ngồi dưới giàn thiên lý để lau từng
cái lá lan một, thì có người em họ ông là Ba Tuần buôn bán ở tận ngoài Cẩm Phả
về chơi. Ông Ba Tuần đi với một người lạ mặt.
Người lạ mặt trạc độ ngót bốn mươi tuổi, khăn áo chỉnh tề, mặt
mũi đầy đặn, tay xách cái va-ly da, ra dáng nặng nề lắm.
- Ông này là bạn thân tôi, ông Ba Tuần giới thiệu, bạn thân
tôi là ông Cửu ấu, muốn nhờ bác một gian buồng dưới nhà ngang để ở trọ trong ít
bữa.
Ông Cửu ấu đỡ lời:
- Tôi nghe ông Ba nói chuyện ngài là người dễ dãi, cẩn thận,
nên tôi mới dám phiền ngài.
Thấy ông Trưởng ra ý phân vân, ông Ba nói:
- Xin bác chớ nề hà, rồi sau đâu sẽ có đó. Ông Cửu đây là người
hào hiệp, rộng rãi, xin bác chớ bận lòng. Bác cứ tin ở tôi.
- Không phải như thế, tôi rất tin chú, nhưng tôi e nhà tôi chật
hẹp quá chăng, chú ạ.
- Bác đừng ngại, công việc của ông Cửu là phải đi vắng luôn,
rồi ông ấy thế nào, bác sẽ biết, tôi không cần khoe trước.
- Nếu ngài không sợ phiền, ông Cửu dõng dạc nói, thì sau này
dù thế nào tôi cũng không dám quên ơn.
Dứt lời ấy, ông Ba bấm ông Trưởng ra đằng sau và thì thầm:
- Rồi hắn làm nên, anh em ta cũng có phận nhờ. Người này chỉ
đi làm điều hay cho người khác và hay cứu kẻ nghèo. Tôi không muốn nói rõ vội.
Chẳng nhẽ chỗ anh em thân, tôi lại không rủ hắn đến ở đằng bác, e rồi bác lại
trách tôi là đem mối lợi cho người ngoài.
Ông Cửu trố mắt lên để nghe, thấy nói tiếng lợi, tuy chưa rõ
là lợi thế nào, nhưng đã híp mắt lại, gật lấy gật để.
Ngay từ hôm đầu người khách trọ đã làm ông chủ nhà bằng lòng
quá: Ông Cửu ấu mở va-ly ra, lấy một đồng bạc, đưa ông Trưởng.
- Tính tôi thích vui, nhờ ông cho làm một bữa chén; anh em ta
trước lạ sau quen, khi tôi ở lâu, ông mới biết tôi được.
Rồi ông đếm mười đồng nữa, dí vào tay ông Cửu mà rằng:
- Gọi là có món tiền mọn, tôi đưa ông để đỡ ông sự phí tổn vì
tôi phiền ông trong tháng đầu.
Ông Trưởng cầm cọc bạc, vui sướng quá. Nhất là khi ông liếc
trộm vào cái va-ly của ông Cửu thấy đến năm sáu cọc tròn mà dài, gói giấy cẩn
thận thì bụng bảo dạ: Tay này cũng sù đây, được lắm. Ông Cửu xếp lại đồ đạc
trong va-ly, ông Trưởng thấy những gói ấy nặng trĩu, lấy làm thích lắm. Xếp
xong, ông Cửu nhìn ông Trưởng nhếch mép cười, rồi đóng va-ly, khóa lại.
Ông Cửu ở dưới nhà ngang, nhưng thường đi vắng luôn. Song hễ ở
nhà, thì ông tay hay mượn chiếc chậu thau đồng lên buồng làm gì, để hàng hai ba
tiếng đồng hồ, rồi khi dùng xong thì tự tay mang ra ao, lấy trấu và cát đánh
cho thực sáng, mới đem trả. Ông ta có một tính khác người thường, là hễ ở nhà,
thì không thích cho ai lên buồng riêng của mình, có một lần ông đã mắng thằng đầy
tớ vô ý trước khi mở cửa vào, không đánh tiếng hoặc gõ cửa, nhưng mà khi ông đi
vắng thì tha hồ, ai vào cũng được, tuy đồ đạc, quần áo, ông để bừa bãi, mà có một
lần ông Trưởng sợ quá, cái va-ly của ông Cửu, trong để rặt những bạc đồng, mà
ông ấy quên không khóa. ấy là lần đầu, mà cũng là nhân tiện, nên ông Trưởng mới
mở va-ly ra thì biết thế, chứ ông không có tính tò mò, việc ai mặc người ấy,
ông không muốn để mắt vào cách hành động của ông khách trọ làm gì.
Ông Cửu ấu là một người vui chuyện, thích đánh chén, cho nên
hễ động ở nhà thì y như ông đưa tiền mượn ông Trưởng làm rượu. Ông Trưởng lấy
làm hả về chỗ ấy lắm. Nay thịt gà, mai thịt chó, thôi thì tha hồ mà đánh ngã từng
chai bố; không mất tiền, ông uống vô tội vạ.
Một hôm, trong lúc say sưa, ông Cửu nghiêng ngả nói:
- Chẳng giấu gì ông. Tôi thì tiền bạc chẳng thiếu, duy chỉ
thèm thuồng...
Ông Cửu ghé vào tận tai ông Trưởng mà nói.
Nhưng nói xong, ông Cửu giật mình, có ý hối hận vì đã quá lỡ
mồm trong khi vui chuyện, bèn dặn thầm:
- Chết chửa! Nhưng tôi xin ông giữ kín cho việc ấy, chớ nói với
ai mà lộ chuyện của tôi.
Song việc đời nó đi như vậy: cái gì đã cố giữ kín tức là cố để
hở, cho nên muốn để hở một cách kín đáo, không gì bằng ta bịt kín nó một cách hớ
hênh. Bà già thấp thoáng sau bức rèm, còn khiến bọn thiếu niên công tử sái cổ lệch
mắt bằng mấy cô thiếu nữ đứng lộ ngay ra ngoài cửa. Cho nên từ hôm đó ông Trưởng
phải chú ý đến cách làm việc của ông Cửu, mà cũng từ hôm đó nhà ông Trưởng có
nhiều khách ra vào hơn trước mà khi qua nơi ông Cửu ở, ông khách nào cũng cố
lách vào một đuôi con mắt tò mò. Họ đến chơi, mục đích chỉ có thế.
Nhưng ông khách nào đã được làm quen với ông Cửu, thì tất
nhiên là được ông Cửu chèo kéo ở lại đánh chén: vì vậy không mấy chốc, mà tiếng
hào hiệp, nhã nhặn của ông Cửu đã đồn dậy khắp làng trên làng dưới, cho nên bọn
sâu rượu sợ vợ, nhất định không chịu bỏ phí dịp mà không đến gạ gẫm tỏ tình
thân ái với cái hũ nhà ông khách quý, mà họ cho là trời đánh rơi!
Ông Trưởng nhận thấy việc ông Cửu làm, rất có vẻ bí mật. Có
khi ông ta đi vắng từ sáng sớm, đến nửa đêm thì về; có bận ông đi vắng từ nửa
đêm, đến gà gáy hôm sau nữa thì về; cũng có lúc trời mưa gió đùng đùng, ông
cũng xách ô ra đi, rồi giữa trưa hôm sau thì về. Sự đi về rất thất thường,
không bao giờ giống nhau cả. Ngày đi ông ta không nói trước, nhưng ngày và giờ
về rất đúng hẹn. Một lần ông Cửu dặn 2 giờ sáng hôm sau thì về, thế mà ngay từ
nửa đêm, trời nổi một cơn phong ba bão táp, vậy mà khi đồng hồ vừa điểm xong
hai tiếng, thì ở cửa đã có tiếng ông ta gọi, chó tứ phía sủa vang.
Thấy ông Cửu có lắm cách hành động khác thường, nên ông Trưởng
càng tò mò dữ. Một hôm, thằng đầy tớ chạy lên nhà trên trợn mắt, trợn mũi, thì
thào với ông rằng:
- Con thấy cái chậu thau đen quá, ông ạ. Con không biết ông ấy
làm gì mà bắt con đánh mãi không sạch.
- Thế à? Ông Trưởng cũng trợn mắt to không kém mắt đầy tớ,
đâu! Ðâu? Chậu đâu?
- Con đánh sạch rồi.
- Bận sau ấy nhé, mày đem lên cho tao xem nhé.
- Nhưng mới bận này ông ấy mới bảo con đánh, mọi bận ông ấy vẫn
làm lấy.
- Vâng, nhưng con sợ ông ấy mắng. Vì ông ấy dặn con đừng nói
với ông.
- Thế à? Quái nhỉ.
Rồi tối hôm ấy, ông Trưởng luẩn quẩn cả đêm, đâm lo, không biết
người này là mật thám thực hay chính là tay hội kín. Nhưng chẳng có lẽ ông Ba
Tuần là em họ rất thân, rất đáng tin không khi lại nỡ lừa dối, để làm tai làm vạ
cho ông như thế. Hay là ông Cửu sẽ làm lợi cho ông những gì mà ông chưa biết
chăng? Ông càng cần phải dò xét ông Cửu từng bước.
Một hôm, lẳng lặng, ông thân hành đi theo ông Cửu, thì quả
nhiên ông thấy ông ta xuống dưới cuối tổng vào hàng nước nhà bà Tổng ích ngồi từ
sáng đến trưa, rồi đứng ở gốc đa đầu làng vơ vẩn đến tối mịt thì về. Ông hỏi bà
Tổng ích, thì bà ấy cũng bảo đã đến hơn tháng nay, vẫn thấy người này vào nghỉ
chân ở hàng ấy, có khi ngồi cả ngày, nhưng không nói chuyện với ai, hoặc hỏi
han dò la gì cả.
Hôm sau, lúc đương uống rượu với chả cá, ông Trưởng đánh liều,
hỏi:
- Thế nào? Việc ông làm sắp có hiệu quả chưa?
Ông Cửu ra dáng sợ hãi, vội bịt miệng bạn, xua tay nói:
- Chớ! Bất khả lộ ngôn! Tối bất khả!
Rồi ông đánh trống lảng ngay ra chuyện khác, khiến cho ông
Trưởng càng đâm nghi.
Tối hôm ấy, ông Cửu ấu bảo thằng người nhà lấy cho mượn cái
thau đồng, rồi ông đóng chặt cửa buồng lại.
Ông Trưởng nghe tin, bèn rón rén dòm qua khe vách. Ông thấy
ông Cửu cởi trần ra, mở va-ly, đếm lấy ra mười đồng bạc, bầy sát nhau trong
lòng thau trắng xóa. Ðoạn ông đứng chắp tay một cách rất cung kính, miệng lẩm bẩm
câu gì, rồi với vào gầm giường lấy lên một cái chai lớn, đổ nước đen đen vào
trong thau. Ông lắc thau đến hàng năm sáu mươi lần, rồi sau đánh cái diêm, châm
lửa vào nước, thì tự nhiên thấy khói um, không trông rõ gì nữa. Ngay lúc ấy, ngọn
đèn tắt phụt, trong buồng tối um, ông Trưởng không thể nhận rõ được ông Cửu làm
những gì cả. Một lúc lâu đến ba bốn giờ đồng hồ sau, trong buồng lại bật sáng,
thì không có gì khác thường. Ông Cửu tự mang thau đi đánh, rồi ngay lúc ấy, dễ
đến mười hai giờ đêm rồi, ông ta khăn áo ra đi, dặn đến bốn giờ chiều mai thì về.
Nhân ông Cửu đi vắng, ông Trưởng bèn một mình lẳng lặng vào
buồng dò xét. Ông soi đèn vào gầm lấy cái chai ra xem, thì thấy có một thứ nước
gì đen kịt như mực. Ông soi kỹ mọi nơi, bỗng giật nẩy mình, ông thấy có một
viên gạch giữa gậm phản bị cậy lên. Ông nhấc gạch lên, bới đất ra, thì lạ quá,
một cọc bạc mười đồng, buộc chằng dây đỏ chữ thập nằm nghiêng ở đó. Ông cởi
dây, xem kỹ từng đồng, thì quả là đồng bạc ta vẫn tiêu, gõ kêu rất ròn tiếng.
Ông bèn buộc cẩn thận lại, để trả vào chỗ cũ, lấp đất lên, chặn lại hòn gạch,
nhưng nhất định rồi sẽ hỏi ông Cửu cho ra việc lạ này. Nếu có điều gì ám muội ở
trong, tất ông không tha, thế nào cũng trình quan về bắt.
Ðã là thân, tôi không giấu giếm ông một mảy may, ông Cửu nói
với ông Trưởng thế. Ông tính tôi không làm gì mà quanh năm được phong lưu, tức
là tôi chỉ nhờ ở cái phép lạ này thôi.
- Phép gì?
- Phép làm cho bạc đẻ.
- Ồ, ông có phép làm cho bạc đẻ? Lạ nhỉ!
Thấy ông Trưởng rất ngạc nhiên, ông Cửu cười đáp:
- Phải, cho nên ai biết tôi thì biết, không biết thì thôi,
tôi không cần. Rồi tôi cũng định đền ơn ông một bận.
Ông Trưởng vội trợn mắt, nói lấy lòng:
- Chết, ông nên sẽ chứ?
Không cần. Tôi có đúc bạc giả, có đi ăn trộm ăn cướp của ai
đâu mà sợ.
Ông Trưởng cười ích kỷ:
- Nhưng người ngoài biết ông lắm tiền thì...
- Tha hồ cho họ cướp! Cướp bao nhiêu, tôi lại làm ra được bấy
nhiêu. Tôi vẫn đi giúp người nghèo khó chả vẻ thay nữa là.
- Ông làm bạc đẻ thế nào?
- Cứ một đồng thì đẻ ra một đồng; chứ không đẻ ra hơn được.
Ví dụ tôi muốn có mười đồng thì tôi làm phép cho mười đồng của tôi ở cữ. Tôi học
được phép này ở trên Mường phải cầu thần chú và có thuốc.
Ông Trưởng sực hiểu, tròn miệng lại và nói:
- Ồ, thảo nào!
- Lần vừa rồi, tôi thấy bạc không đẻ, tôi biết ngay bị lộ, tất
thế nào cũng có hơi người lạ mó đến nó. Vì bạc nó ở cữ phải đúng giờ cho nên hẳn
ông thấy mọi khi tôi về lúc nào cũng đúng hẹn lắm. Tôi cần phải đi xa khi nó thụ
thai, vì nếu tôi ở gần, thì không những nó tịt không đẻ, mà nó lại tiêu sản, hỏng
cả mẹ lẫn con, nghĩa là bạc biến thành ra đất cả!
- Nhưng sao tôi thấy khi ông đi vắng lâu, khi thì ông đi vắng
chóng?
- À, đó là tùy số bạc cần đẻ. Muốn làm độ hai ba đồng, thì đi
vắng ít, nhưng muốn làm hàng chục, hàng trăm, thì phải đi vắng nhiều hơn. Cái
đó phải tính trước chứ. Chỉ lỡ về sớm hay muộn một chút là mẻ bạc ấy hỏng toi!
Ông Trưởng tủm tỉm nói:
- Ông làm thử cho tôi vài đồng nhé.
- Ông Cửu cười, gật đầu:
- Ðược, nhưng mà...
- Nhưng mà sao? Hay là làm hộ không được?
- Không phải thế. Cái phép đẻ bạc cũng như đẻ con. Ông lấy bà
ấy thì đẻ ra con là con ông, tôi không nhận là con tôi được. ấy nó như người,
chẳng khác một tý gì cả. Bạc của tôi đẻ, đố ông tiêu được.
- Lạ nhỉ. Thế đi vay mà cho nó đẻ có được không?
- Ðược chứ sao lại không? Miễn là chính tay ông đưa tôi, thì
thế nào tôi cũng làm được. Nhưng có một điều kỵ là bạc của tôi mà cho ông vay
thì không tài nào tôi làm cho nó đẻ được. Cũng như hai người đàn bà lấy nhau có
khi nào đẻ được ra con? Hà! Hà! Hà! Ông hiểu không? Hay lại bảo tôi đón đầu!
- Không, chết! Chết! Có khi nào thế! Tôi hiểu rồi!
- Phải, bởi vì tôi thiếu gì, cho ông vay bao nhiêu mà tôi hết
được, vả có mất đi đâu mà sợ, nhưng chỉ tại không làm cho nó đẻ được thì tổ phí
thuốc mà thôi, vì như thế cũng như lộ vậy. Ta có việc gì giấu được quỷ thần
đâu? Ðến ngay như ta với nhau cũng còn không giấu được nhau nữa là! Hà! Hà! Hà!
- Nhà tôi chỉ còn từng này bạc đồng, ông làm ơn hộ tôi một
món.
- Vâng, nhưng ông bảo đánh mấy đồng này rõ mới hộ tôi. Rồi
tôi làm cho mắt ông trông thấy nhé.
Ông Trưởng mừng rỡ, cảm ơn ông Cửu, và tạ lòng trời run rủi
cho được gặp ông thần giáng phúc, từ nay khỏi nỗi vất vả về cách kiếm tiền.
Khi mấy đồng bạc đã đánh thực sáng nhoáng, ông Cửu bèn vào buồng
với ông Trưởng giải cả tiền lên mặt chậu thau, rồi miệng lẩm bẩm mấy câu thần
chú, đổ vào thuốc, và lắc đi lắc lại mãi. Ðoạn ông đánh diêm châm thuốc vào thuốc
thì khói um tỏa khắp bốn bên, rồi đèn tắt; một lúc, ông Cửu bảo thắp đèn, thì
đã thấy chậu thau khô, mà năm đồng bạc buộc với nhau bằng chiếc dây đỏ chằng chữ
thập ở giữa đáy chậu.
- Thôi, bây giờ thì ông phải để tôi làm một mình tôi đi chôn
bạc đây, cũng như ta dưỡng thai ấy mà, ông đừng xem mà lộ. Lộ thì không những
không thành, mà bạc lại tiêu sản hết mất.
Nói xong, một mình ông Cửu ra vườn, ông Trưởng không dám dòm
theo nữa. Một lúc ông Cửu trở về vội vã giật lấy cái khăn và chiếc áo, vừa đi vừa
rảo bước ra cổng, vừa quay lại nói:
- Tìm được đất chôn lâu quá, nên tôi sợ muộn, tôi xin phép
ông tôi phải đi ngay. Năm giờ rưỡi sáng mai tôi về. Thật là vì ông anh nên tôi
mới phải lật đật đấy nhé. à, ông chớ nên nói với ai việc này.
- Vâng! Cảm ơn ông anh.
Trong khi vắng ông Cửu, ông Trưởng thấp thỏm không sao ngủ
yên, trong bụng khấp khởi mong cho chóng đến sáng. Ðộng chợp mắt được một tý là
đã nằm mê thấy mình trở nên nhà cự phú, có đồn điền, có ô-tô. Rồi vừa tảng
sáng, ông đã ngồi nhổm dậy, tỉnh như con sáo, tay xách cái đồng hồ, ra cổng đứng
ngóng, nhìn theo từng phút.
Ðến năm giờ hai mươi thì, đúng hẹn quá, ông Cửu đã ở đằng đầu
làng đi lại, đến cổng nhà thì vừa năm giờ hai mươi chín. Ông Trưởng trỏ đồng hồ
vội la rầm rĩ:
- Ấy chết! Sớm một phút có được không?
- Ðược, không ngại, tôi đến nhà nhưng không lên tiếng vội,
cũng như tôi về đúng giờ.
- Thế ngộ muộn vài phút có được không?
- Ðược, nhưng muộn quá thì không hay.
- À, ra nó cũng như uống thuốc.
- Chính thế! Thôi, đúng giờ rồi, ông ra gốc cây cam xanh mà
đào lên.
Ông Trưởng mừng rỡ, tất tả ra vườn đào đất, thì quả nhiên có
hai món năm đồng buộc riêng đôi bằng cái dây đỏ, giống nhau như đúc! Những đồng
tròn, trắng, xỉnh xình xinh, mới nguyên, lóe sáng trước ánh mặt trời buổi sớm,
như hé một nụ cười vui vẻ để chào chủ. Ông Trưởng ngắm nghía, gõ thử, sướng lắm.
Ông Cửu nói đùa:
- Hay ông cho tôi nào?
Ông Trưởng dúm miệng vào mà cười, và nói đùa lại:
- Vâng, ông có tiêu được, mời ông cứ tiêu giúp.
- Xin cảm ơn ông. Giá tôi có tiêu được thì ông chả phải bảo!
Bây giờ ông có quẳng ra đường, cũng không mất.
- Thật à? Thế nhà tôi tiêu có được không?
Thấy ông Trưởng ngơ ngác, có ý sợ hãi, ông Cửu phì cười:
- Ðược, nhưng ông phải nói: ù-ù cạc-cạc, ta cho đồng bạc, phải
cảm ơn ta, đi mà tiêu pha, ù-ù cạc-cạc.
- À, lạ nhỉ ù-ù cạc-cạc, ta cho đồng bạc, phải cảm ơn ta, đi
mà tiêu pha, ù-ù cạc-cạc.
Từ hôm sau, không những ông Trưởng Sắc và ông Cửu ấu phải tiếp
khách ăn ghẹ, mà bọn nhà giàu, ngốc, cũng kéo nhau đến chơi rất đông. Ai nấy đều
muốn tỏ lòng thân thiện, và cố mời cho được ông Cửu đến chơi nhà, uống rượu.
Ông Cửu cảm động, thường nói với ông Trưởng:
- Tôi đi thiên hạ đã nhiều, nhưng không thấy đâu văn vật như
vùng ta. Tôi xem ra, ở đây, ai cũng trung hậu, biết quý người lắm.
Nhưng họ chiêu đãi ông Cửu để họ lợi dụng ông ấy, vì cái phép
bí mật làm cho bạc đẻ mà ông Cửu dặn ông Trưởng giấu kín, nó đã hở toác ra mất
rồi. Cho nên không ngày nào ông Cửu không có người nhờ làm bạc đẻ. Tuy ông cũng
biết rằng đã ăn của người ta một bữa thì phải trả ơn, nhưng họ nhiễu quá, mà từ
chối thì nể. Ông Trưởng thấy vậy, lấy làm ngượng, song biết làm thế nào? Nào có
mất gì của riêng ông đâu mà ngại, vả lại họ nể ông Cửu thì họ nể cả ông, ông Cửu
được họ chiêu đãi sao, thì ông cũng được hưởng như thế. Thôi thì được một dịp
cho người làng nước nhờ vả, mà người làm ơn vẫn vui lòng, không phàn nàn, thì
ông cũng mặc ông Cửu với họ. Cho nên, người đưa một đồng, kẻ đưa dăm đồng, ai nấy
đều nhờ ông Cửu làm thử cho một bận. Ðồng bạc con, họ thấy như hệt đồng bạc mẹ,
mà tiêu pha dễ dãi như thường, nên họ đều nghĩ như nhau, cố giấu giếm mối lợi,
để găm cho riêng mình cái mỏ mà đi vay mượn chỗ xa xa cho dễ dắt. Các ông nhà
giàu thì định thả con săn sắt để bắt con cá sộp, nên định chờ dịp tốt hơn để mời
hẳn ông Cửu đến ở nhà mình, mà nhờ ông một chuyến.
Nhưng được độ mươi hôm, ông Cửu tuyên bố một tin, làm cho dân
làng đều ngao ngán:
- Tôi không ở đây nữa. Tôi lấy làm nhớ các ngài lắm.
- Ô hay! Ông giận gì chúng tôi?
- Phép bạc đẻ như thế, hễ tôi ở đâu quá hai tháng thì không
làm được nữa. Các ngài có lòng yêu mà lưu tôi lại cũng vô ích.
- Vậy ông đi đâu, cho chúng tôi biết, hoặc ông cho chúng tôi
rõ quý quán về đâu.
- Tôi quê ở Hà Nội. Tôi có năm mươi nóc nhà ở các phố. Lại tỉnh
nào tôi cũng có một nếp nhà. Nhưng tôi không thể làm phép này ở ngay nhà của
tôi được nữa. Vì nhà nào tôi cũng ở qua hai tháng rồi. Trời ơi! Tôi còn nhớ khi
tôi ở Hà Nội, sao mà bận thế. Ai cũng đem tiền đến để nhờ đẻ, đến nỗi không lúc
nào được nghỉ cả.
- Vậy ông định đi đâu?
- Tôi cũng chưa định. Thôi, gặp nhau như thế là đủ, khi nào tôi
nhớ các ngài, tôi sẽ đến chơi, có ngại gì?
- Nhưng mà tôi muốn nhờ ông thí cho dân chúng tôi cái ân cuối
cùng.
Ông Cửu bùi ngùi cảm động:
- Lọ là các ngài còn phải nhắc. Tôi ở đây bấy lâu được nhờ vả
dân làng, cho nên trước khi đứng dậy, tôi cũng muốn gọi là trả lại chút nghĩa ấy,
để lưu lại cái tiếng về sau.
Ai nấy đều hởi dạ, nói:
- Vậy hôm nào ông từ giã chúng tôi, chúng tôi xin mời ông dự
một bữa tiệc để tỏ lòng quyến luyến.
Cả làng, từ ông già bà cả cho chí trẻ con, ai cũng tấp nập rủ
nhau đến nhà ông Trưởng để đưa bạc đi đẻ. Thôi thì có bao nhiêu bạc giấy, hào,
xu, họ đổi thành bạc đồng, và đánh cho thật bóng loáng. Ông Cửu mỏi tay biên sổ
trong hai ngày, vì từ thằng khố dây trong làng, cũng cố cầm cố bán trác đồ đạc
trong nhà để kiếm vài đồng bạc trắng. Ông Chánh bá, giầu nhất tổng, đưa đẻ hẳn
năm trăm, mà còn tiếc vì vội quá, không kịp bán nốt mấy chục mẫu ruộng, ông Lý
Thới, ông Lý Sang, ông Phó Ung, ông Cả Sích, vân vân và những nhà có máu mặt, đều
cùng nhau đưa hàng trăm, còn hạng đưa hàng chục, hàng đồng, thì tên biên vừa
đen kịt hai mươi trang giấy. Khi cộng sổ, ông Cửu phải lắc đầu lè lưỡi nói với
ông Trưởng:
- Sáu nghìn bảy trăm sáu mươi tư đồng, chà! Có lẽ tôi phải lánh
đến bẩy tám hôm chắc!
- Ông Trưởng cười gượng:
- Chúng tôi chỉ dám phiền ông có lượt này nữa thôi đấy. Ông
chịu khó vậy.
- Vâng, tôi có dám phàn nàn đâu!
Vừa xẩm tối, mọi người đã chen chân nhau vào nhà ông Trưởng để
được xem phép lạ.
Nhưng họ có được trông thấy gì đâu, vì phải đứng cả ở ngoài
sân, mà ông Cửu thì ở tận trong buồng để làm việc. Hàng năm sáu giờ đồng hồ
sau, bỗng ông Trưởng, vẻ mặt quan trọng như ông tướng chạy ra hè hô lớn:
- Bây giờ ai phải về nhà nấy để bạc dưỡng thai. Cấm không ai
được dòm, vì nếu có người lạ thì bạc tiêu sản, biến ra bùn mất cả. Ai không
tuân lệnh mà làm hỏng mẻ này, thì phải đền sáu nghìn bảy trăm sáu mươi tư đồng,
một thành hai!
Mọi người thấy câu nói đều sợ thiệt đến của riêng, bèn kéo ồ
cả ra về. Ðộ năm phút sau, sân nhà vắng vẻ, ông Cửu bèn đi dò la chung quanh
hàng rào, rồi một mình, khênh bạc ra vườn, lúi húi làm nốt công việc.
Lúc chôn xong, thì vừa hai giờ sáng, ông Cửu mệt nhoài, mồ
hôi mồ kê nhễ nhại, nhưng theo phép, ông phải lánh xa chỗ bạc dưỡng thai, nên
ông vội vã khăn áo ra đi, và dặn lại ông Trưởng:
- Bốn giờ kém năm sáng hôm thứ bảy sau, tôi sẽ trở lại. Trong
chín hôm tôi không có đây, ông phải cấm không được cho ai lai vãng ra vườn nhé.
Chẳng phải nói thì độc giả thừa hiểu rằng ông Cửu ấu đi lượt ấy
thì thôi không trở lại cái làng văn vật này nữa, mà số bạc ngót bảy nghìn,
không những không làm mẹ đồng nào mà lại thành ra con ông cả.
Thế mà đúng ngày hẹn, cả làng, lớn bé già trẻ đều phớn phở đến
sân nhà ông Trưởng để chờ ông Cửu về. Họ nóng ruột nên cố thức suốt đêm, đến tận
bốn giờ kém sáu phút, nhưng cũng không thấy bóng ông thầy Mường đâu cả. Ðào vườn
thì không ai dám đào, vả biết chỗ nào mà đặt lưỡi cuốc?
Ðồng hồ chỉ bốn giờ kém bốn phút, mọi người không kiên gan nữa,
bèn bàn nhau cứ đánh bạo mà đào. Nhưng sục sạo cả vườn, họ chỉ thấy... số bạc
đã bị tiêu sản, tiêu cả con lẫn mẹ!
Việc lừa dối vỡ lở ra, cả làng đến chửi rủa ông Trưởng Sắc, bắt
ông phải đi tìm cho được thằng bợm để làng đi trình quan, bỏ tù, nhưng nghĩ đến
ông Ba Tuần sợ môi hở răng lạnh, nên ông Trưởng phải câm như hến. Tức quá, ông
bèn nhất định đi ra Cẩm Phả, để trút cho ông Ba Tuần những của chẳng ngon mà
làng nước tặng ông xơi, và bắt ông ấy phải đi tìm đứa gian phi, kẻo ở làng họ
làm sốt ruột lắm.
Ðến nơi, mặt hầm hầm, ông đem lời trách móc, thì ông Ba Tuần
cứ cười nhạt mà xin lỗi hoài. Rồi sau, chẳng làm thế nào hơn được nữa, ông mới
dịu, thì ông Ba Tuần ghé vào tai ông, hỏi nhỏ:
- Bác mất bao nhiêu tất cả?
- Ðúng ba trăm.
- Thế bác có muốn hắn đền lại hay không?
Ông Trưởng bĩu môi, nói nhiếc:
- Hắn đền! Biết hắn ở đâu mà đền?
- Ðược, tôi biết. Nhưng bác đừng lôi thôi với hắn. Bác cứ để
cho hắn làm chỗ khác mới được.
- Nhưng hắn lấy gì mà đền tôi?
- Bác về làng, phải mật chuyện này đi. Này, hắn sẽ lấy của
người khác đền bác.
- Hắn còn lấy của ai được? Ai dại gì mà tin hắn nữa?
- Ồ, thiếu gì, lại những hạng có tiền và dại dột như tôi và
bác chứ gì!
- À, ông Trưởng sực hiểu, nói: - À, ra chú lập tâm giới thiệu
hắn với tôi đấy à?
Ba Tuần cười:
- Phải, vì trước kia tôi bị chú Hai Ðông giới thiệu, nên xuýt
mất với nó hai trăm rưởi, nhưng chú ấy xui tôi nên im đi, mà rủ một người thân
thích và có của vào cạm để nó lừa thì nó trả.
- À, nó ranh quá nhỉ. Thế bây giờ chú bảo tôi cũng làm như
chú à?
- Ừ, tội gì.
Ông Trưởng cắn ngón tay nghĩ ngợi một lúc, rồi gật gù nói:
- Ðược, ông cậu ruột tôi là ông Nghị Thăng, giàu có tới vạn,
mà cũng thực thà dễ bảo như anh em mình. Ông ấy tin cậy tôi lắm. Ðể tôi giới
thiệu cho nó!
Nói đoạn, đắc trí, ông Trưởng Sắc cười xòa, mà ông Ba Tuần
cũng ôm bụng, gò lưng, mép soạc đến mang tai mà cười như nắc nẻ...
mưa phùn. gió bấc. rét buốt đến tận xương.
nhưng mưa, gió, rét, có hề chi đến bữa tiệc giỗ ông cụ đẻ ra
ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ôtô "con cọp"? bởi vì trong buồng
khách, cửa đóng kín mít, hơi lửa lò sưởi xông lên nóng rực. mà khách đến chơi,
ông nào cũng gói mình vào đến trăm thứ áo, lại xù xù ở cổ một chiếc chăn con!
khách đến dự tiệc toàn là hạng ông nọ ông kia, danh giá, mà
ông chủ nói là chỗ thân. cho nên cố mời cho kỳ được. vì chính ông cũng là hạng
tai mắt trong phố phường. Ông là nhà tư bản vậy!
vả lại, không nhân ngày giỗ bố, mà làm bữa tiệc cho thực linh
đình, mời mọc cho thực đông khách, để tỏ rằng mình tuy nhờ trời làm ăn đã được
khá, nhưng chẳng phải hạng uống nước quên nguồn - bởi đạo làm con là phải báo
hiếu cho cha mẹ, để khỏi phụ công sinh thành dưỡng dục - thì thế gian họ cũng
cười cho. nghề thế, phú quý sinh lễ nghĩa.
mà phú quý sinh lễ nghĩa thực. chẳng tin cứ nhìn cách cử chỉ
của hai ông bà chủ nhà ra đón tiếp khách thì đủ rõ. hai ông bà cùng béo tốt, đẹp
đẽ. nhất là ông, cái bụng phưỡn ra, nấp trong bộ quần áo xếp nếp cứng thẳng như
cái hộp. tóc bóng mượt, nhẵn như cái gáo lĩnh úp trên đầu, không chịu kém vẻ đẹp
với bộ ria sửa khéo như vẽ. miệng lúc nào cũng chực toé ra một chuỗi cười. vì
ngày hôm nay, bổn phận ông là phải hay cười. mà đã cười thì cười cực to, ôm bụng
mà cười, cười cả từ câu nói buồn cười đến câu nói không buồn cười. nghĩa là ông
hết sức khoe cái cười lấy lòng, cái cười thiệp đời của nhà tư bản. phải, người
ta đã chẳng quản mưa, gió, rét mướt, mà quá bộ đến nhà để chiếu cố thì mình phải
lấy làm hân hạnh, vui vẻ mới được. cho nên ai đến, ông cũng chắp tay vái chào
cung kính, rồi mời mọc ân cần, quý quý, hóa hóa, ăn nói rõ ra một nhà nền nếp,
gia giáo.
trong buồng ăn, tiệc đã dọn trên bàn, cái bàn chữ nhật, giải
trên một tấm khăn trắng nuột. cốc to, cốc nhỏ, chai lớn, chai con, bát sứ, đĩa
tây, bày la liệt, nhưng có thứ tự, lóng lánh dưới ngọn đèn trăm nến.
chuông sáu giờ vừa dứt. khách đến đã đủ. một tiếng ông chủ mời,
thì một trăm bốn tư chiếc chân, vừa chân người vừa chân ghế, lê sền sệt trên nền
gạch tây bóng lộn. hai mươi bốn chiếc cốc đầy rượu đụng nhau, chủ khách bắt đầu
cầm đũa.
- xin ngài cho phép chúng tôi vào vô phép bà chủ.
câu nói vừa dứt, thì đã thấy bà chủ ở trong buồng đi ra, chắp
tay, tươi như cái hoa:
- các quan đã có lòng yêu chúng tôi, mà đến chiếu cố bữa cơm
thường nhà chúng tôi, chúng tôi xin đa tạ. xin rước các quan xơi rượu.
- chúng tôi chẳng dám tin là bữa cơm thường! kỵ cụ cố ông mà
ông bà làm to thế này, thì chúng tôi tự xét mình lấy làm xấu hổ vì bất hiếu.
thôi nhờ bà nói giúp cho chúng tôi xin vô phép cụ cố bà.
- thưa các quan, cảm ơn các quan, cụ bà chúng tôi ở trong nhà
quê ạ. nhiều lần chúng tôi mời ra ở đây, nhưng không chịu đi. cho nên chúng tôi
vẫn lấy làm ân hận lắm.
cái lễ phép tắc trách đã làm xong, chủ khách ăn uống rất êm đềm
vui vẻ. Êm đềm vui vẻ thực! sung sướng thay! củi lò sưởi nổ đôm đốp, át cả tiếng
giọt mưa phùn. chuyện nói to làm lấp các tiếng gió bấc thổi. hơi rượu nồng nàn,
ai nghĩ đến rét buốt thấu tận xương.
mưa phùn. gió bấc. rét buốt thấu tận xương.
ngoài đường phố, ở quãng trước cửa nhà có bữa tiệc này, có một
người đàn bà, lưng khoác áo tơi lá, đầu đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ.
bà dòm hết nhà nọ đến nhà kia, mà lại dòm một cách ngốc dại. nghĩa là không
nghĩ đến rằng lỡ người ta đuổi, hay mắng, cho là định rình ăn cắp, người ta bắt
lên cẩm thì sao? dòm chán rồi lại hỏi thăm. mà hỏi chỉ độc nói trống không. khi
chẳng ai hoài hơi mà trả lời, thì bà ta cũng không biết phàn nàn hoặc sửa lại
câu hỏi cho nhã nhặn thêm chút ít. ấy thế rồi chịu đứng ngoài đường, như yên
trí rằng ở đây cũng như ở nhà quê, không có xe pháo qua lại. bà lại nhìn quanh
quẩn từng nhà một...
hàng mười lăm phút, bà ta loanh quanh, đi lại đến năm sáu lượt.
rồi nhận thấy một cái nhà có cái mái chĩa ra, bà bèn đứng lại để trú mưa. người
đàn bà ấy trạc ngoài sáu mươi, trông rõ quê mùa, đần ngốc. mặt mũi đen đủi, dăn
deo, xấu như con khỉ. hai mắt thì toét nhoèn những dử. cái hàm trên thì chìa ra
như mái hiên. hai tay thì lóng cóng, gí cái nút buộc giải yếm vào tận mắt, lúng
túng cởi mãi mới lấy được một miếng trầu, bỏ vào mồm, nhai phóm phém. trông lại
càng xấu. cái áo vải nâu dầy cồm cộp, cái quần một ống - nói nôm ra, là cái váy
- lùng thùng như cái bồ, chỗ thì ướt, chỗ thì khô. có lẽ là bộ cánh quý nhất,
nên ra tỉnh, mới dám mặc đến, nay bị ướt thì tiếc, nên cố vắt mãi cho khỏi đẫm
nước mưa. rồi lại cởi cái khăn vuông ra, để hở cái đầu bạc trọc tếch mà gãi,
nhăn mặt lại mà gãi. rồi lấy ngay cái khăn đội đầu ấy mà lau chỗ gấu váy có
dính đất. gớm, sao mà người đâu lại có người không biết thế nào là bẩn cả!
rét đã run lên chẳng được, lại còn cứ lẩm bẩm nói một mình.
không biết nói những gì? tính công tính việc hay là than thở, hay là vui thú
cái chi chi? nhưng thế thực rõ là cái lối người từ thuở bé chưa hề được thấy
cái gì là hể hả.
Đương ngồi thì bỗng đằng sau lưng có tiếng cửa mở. người đàn
bà nhà quê quay lại, thì thấy trong nhà đèn điện sáng trưng, lố nhố bao nhiêu
người, hình như ăn uống. chỉ trông thoáng có thế thì thấy cửa lại khép lại, và
có người đi ra.
- alê! chạy! chốc nữa hãy đến. người ta vừa mới ăn!
nói xong người ấy đi.
bà lão nhìn theo, không hiểu họ bảo ai. nhưng chừng cũng đoán
rằng người ấy là bồi biệc ở cái nhà này đây. cho nên, một lát sau, trông thấy
người ấy về, bà lão đứng ngay dậy, toan hỏi. nhưng chưa nói được gì, đã bị mắng
ngay câu nữa:
- alê! không đi đi thì ông ấy ra bây giờ!
- Đây có phải nhà ông chủ không?
- Ông chủ nào? không biết! alê! Đi!
thế rồi cửa lại hé ra, rồi áp lại. người ấy vào trong mất.
bà lão cố liều, rón rén bước lên bậc thềm cao, dòm qua cửa
kính. vì đèn sáng, nên trông rõ lắm. rồi không biết nghĩ sao, bà lấy tay sờ mãi
vào cửa để mở. nhưng không biết cách nào, bèn lay thình thình, như không sợ hãi
gì cả.
một người đứng hầu chạy ra mở cửa. có lẽ là người ban nãy,
cho nên thấy bà lão thì đẩy ra, và nói:
- Đi! chốc nữa...! dạ!
cánh cửa lại đóng đánh thình. bà lão nhìn theo, thì thấy người
hầu ấy khoanh tay đứng nói gì với một người đương ngồi ăn. mà chính vì đã trông
thấy người ngồi ăn ấy, nên bà lão mới dám bạo dạn như thế. người ngồi ăn ấy tức
là ông chủ nhà, chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "con cọp".
Ông chủ đứng phắt dậy, phưỡn bụng đi ra mở cửa. bà lão mừng rỡ,
híp mắt, nhăn nhó cái mặt để cười và nói to tướng:
- thành ra tôi ngồi ngay ở cửa nhà mà không biết!
Ông chủ nhà cau mặt, ra ý không bằng lòng, tặc lưỡi một cái.
rồi cánh cửa lại đóng ập lại.
bà lão không hiểu ra sao. hay là mình trông lầm chăng. ấy thế
mà còn ngốc quá, bà cố cạy và đẩy mãi cửa. nhưng may, không sao đẩy được. nhìn
theo vào, bà thấy cái nhà ông ấy đi tuột vào trong, mà khi ra ngồi vào bàn tiệc,
thì lại cười nói như trước.
Độ mười lăm phút sau, có người đập tay vào lưng. bà lão quay
lại, thì người ấy nói:
- tôi đưa bà cụ đi vào cổng đằng này, ông tôi bảo thế.
- không đi được lối này à?
- Ông tôi đương có khách.
bà lão bước xuống thềm, đi theo. vòng hai phố thì đến một cái
cổng hơi rộng. cổng mở, bà bước vào, đi qua một cái sân, thì đến cái nhà con,
trong có chiếc ôtô bóng nhoáng. người ấy bảo:
- bà cụ ngồi tạm đây.
bà lão nhìn bốn bên. Đèn tuy sáng, nhưng cũng không hiểu mình
ngồi tạm nhà ai. mà nói rằng ngồi, chứ có cái gì để ngồi đâu. vả muỗi và hôi thối
quá. nên chỉ mong chóng có người đưa về, để lễ và để nằm nghỉ. vì đi xe ngót một
giờ đồng hồ cũng mệt. bà lão nóng ruột quá.
nhưng may sao, một lát sau thấy có người đi đến. bà lão nhờ
nhắn ông chủ xuống cho mình hỏi.
Độ mươi phút, quả nhiên có tiếng gót giày lộp cộp nện trên
sân gạch. bà lão cố nhìn xem ai. mừng quá.
thật đích là ông chủ.
Ông chủ đứng trước mặt bà lão, nét mặt hầm hầm, trợn mắt,
khoanh tay vào ngực mà gắt:
- một suýt nữa thì làm tôi ê cả mặt! ai bảo bà ra làm gì?
- tôi đã cấm bà không được ra đến đây kia mà. Đã một lần trước
rồi, mà không chừa! bà không biết để sĩ diện cho tôi! Đây này, bà cầm lấy! bà về
đi! mặc kệ bà! bà phải về ngay bây giờ! mới có hơn bảy giờ, còn sớm!
nói xong, ông ấn vào tay bà lão một cái tròn tròn, rồi quay
gót trở lên, và gọi rầm rĩ:
- thằng bếp đâu rồi! mày đưa bà ấy ra! mà mày phải bảo chúng
nó rằng tao cấm, không đứa nào được kéo bà ấy cả! cho mà đi bộ để bận sau mà chừa.
bà ấy là ai? bà ấy là một người đàn bà góa. Đã ngoại ba mươi
năm nay, có một đêm, bà ấy trót dại chiều chồng, mà tình cờ đẻ ra được một đứa
con trai. sinh được ít lâu, trời bắt tội bà ấy goá bụa. nhà nghèo, làm ăn vất vả,
kiếm chẳng ăn đủ, nhưng bà ấy chẳng nhẫn tâm bỏ đứa bé thơ ngây trả nhà chồng để
bước đi bước nữa mà vui thú với cái tuổi xuân đương hơ hớ. qua mấy năm khó nhọc,
khi sài, khi đẹn, suýt chết mấy lần, thì đứa bé đến tuổi đi học. rồi vì nghèo
khổ quá, nó phải ra tỉnh kiếm ăn theo anh em. nhờ được cái nó nhanh nhẩu, láu lỉnh,
liều lĩnh, mà chẳng biết nó làm ăn ra sao, nó có được ít vốn, rồi lấy được ở
đâu một con vợ giầu. từ đó, thằng ấy một ngày một khá, buôn bán phát tài. nay
giàu đến hàng mươi vạn. thằng con ấy tức là ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ
hãng ô tô "con cọp" vậy.
bà lão lẩy bẩy, theo người bếp lôi ra cửa ban nãy. Đến đường,
còn đương ngơ ngơ ngác ngác, chưa rõ nên đi lối nào, thì không biết tâm trí để
đâu, bà ta lập cập, vấp một cái, ngã xoài ngay ra rãnh cống. quần áo mặt mũi lấm
bê bết. cái tròn tròn vẫn nắm trong tay bắn quăng đi. bà lão cố sờ soạng. khi
tìm thấy, bèn gí vào mắt để xem, thì cái tròn tròn ấy là đồng hào ván...
mưa để khóc, gió để rên. rét để cắt đứt ruột mẹ người con mà
họ đương khen là hiếu tử.
kép tư bền
tiểu thuyết thứ bảy xuất bản, 1935
Đây có phải nhà ông chủ ôtô "con cọp" hay không?
- phải, ông hỏi gì?
- thưa cụ, ông chủ có nhà không ạ?
- Ông ấy đi vắng chưa về.
- thưa cụ, tôi hỏi thế này khí không phải, cụ có phải là cụ
sinh ra ông chủ tôi không ạ?
- không phải, con vú già đây!
người khách đương luống cuống, sượng sùng, vì sự mình lầm con
vú già với mẹ ông chủ, thì trông thấy một người đàn bà béo tốt và trẻ ở nhà
trong đi ra đến sân. muốn cho khỏi lầm lần thứ hai, người khách vội hỏi ngay
người vú:
- kia có phải là bà chủ không?
- không phải, đấy là mẹ đấy!
câu trả lời dấm dẳn, đáng lẽ làm cho người khách phải luống
cuống sượng sùng lần thứ hai, thì trái lại, người khách nhận thấy vẻ mặt uất ức
những sự giận dữ của bà cụ tự xưng là vú già và người được giới thiệu là mẹ,
nên nhanh trí, hiểu ngay rằng không những mình không lầm lần thứ hai, mà lần thứ
nhất mình cũng hỏi đúng. tất là trong gia đình này, đương có sự xung đột mẹ chồng
nàng dâu chi đây.
- tôi lấy cậu, là vì ái tình của tôi đối với cậu, thì tôi chỉ
biết có cậu, ngoài ra, tôi chẳng biết thằng nào con nào ở nhà này cả! cậu ngu lắm,
cậu không biết bảo bà ấy!
- thôi, người già vẫn hay trái tính, mợ nên biết nhịn. mợ ở với
tôi cả đời, chứ bất quá bà ấy sống được mấy nữa!
- bà ấy ở đây ngày nào, tôi ê chệ ngày ấy. Đấy cậu xem, hôm
qua đấy, một suýt nữa mà bà ấy vào cửa trước, thì có họa mặt mình là mặt mo! cậu
chỉ nói dối tôi. cậu đuổi bà ấy, sao bà ấy còn đấy?
- tôi không đuổi thì tôi chết! mợ cứ chửi đứa nào nói dối mợ!
chẳng tin mợ hỏi lại thằng bếp mà xem. nhưng chắc bà ấy phải đi bộ mà về nên lạc
đường, mới trở lại. tôi đã bắt bà ấy mai phải về rồi.
- Đồ mặt dày! thế mà không biết nhục! sao nó không chết đi
cho người ta nhẹ nợ!
- thôi, mợ nói vừa chứ.
- tôi không nói vừa, cậu bênh mẹ cậu à! ối giời ơi! Đây, cậu
giết tôi trước đi! ối hàng phố ơi! con gái già nó hại tôi!
- tôi xin mợ! tôi van mợ! tôi lạy mợ!
- cậu buông tôi ra. tôi không để con mẹ ấy yên đêm nay được!
sáng hôm sau, ở cửa nhà ông chủ xe cao su kiêm chủ hãng ô tô
"con cọp", người ta trông thấy căng cái màn đen diềm trắng. mà đi trên
hè, ai cũng ngửi thấy mùi khói hương, khói trầm, thơm phức.
trong nhà có đám tang?
phải, bà cụ sinh ra ông chủ mới tạ thế hồi đêm. trong nhà
trong, thằng bếp thì thào hỏi con vú:
- cụ tức bà, rồi cụ uất lên mà chết, phải không chị?
con vú nháy mắt, trỏ tay vào cổ, nói:
- thắt!
thằng quít nghe thấy, bĩu môi, trỏ vào mồm mình:
- chỗ này đen những máu, trông ghê quá, đích là thuốc độc.
uất lên mà chết? thắt cổ? uống phải thuốc độc?
chẳng đúng! chúng nó nói láo toét hết! quân bạc thế đấy! Đem
cắt lưỡi chúng nó đi!
ai muốn rõ nguyên nhân vì sao bà cụ tạ thế, thì hãy đọc tờ
cáo phó sau này, sẽ biết:
chúng tôi lấy làm đau đớn, cáo phó để các cụ, các quan, các
Ông, các bà biết cho rằng thân mẫu chúng tôi là:
cụ trần thị y hưởng thọ 67 tuổi,
chẳng may thụ bệnh, đã tạ thế ngày 15 tháng giêng, năm quí dậu,
tức là ngày 9 février 1933, tại nhà riêng chúng tôi, phố p, số 15.
chúng tôi định đến ngày chủ nhật 12 février 1933 hồi 8 giờ
sáng, sẽ làm lễ an táng tại nghĩa địa hàng tỉnh.
cô ai tử: nguyễn văn d.
hôn tử: nguyễn thị n.
Đồng gia đẳng khấp bái.
lời cáo phó ấy đăng lên mười tờ báo hàng ngày, lại in riêng
thêm một nghìn tờ nữa. thành ra ngót bốn vạn tờ ở nhà bưu điện bay ra như bươm
bướm khắp các nơi, khiến các cụ, các quan, các ông, các bà, ai thấy cái tin đau
đớn bà cụ thụ bệnh mà tạ thế, cũng phải giật mình mà vội vã đến thăm viếng, và
chia buồn cùng người gặp lúc vận hạn.
Đầu tiên, năm lá cờ ngũ hành phấp phới theo chiều gió. rồi đến
ông thiên lôi, bà la sát, cao lênh khênh đi hai bên. một đoàn trống cà rùng,
rinh tùng rinh, đi xung quanh chiếc trống cái, mà những phu đều áo nỉ đỏ, nón dấu
sơn. kế đến một cái kiệu long đình sơn son thếp vàng, thong thả tiến từng bước,
trông rất uy vệ chững chạc. theo sau long đình, là bốn chiếc xe nhà bóng
nhoáng, trên có bốn vị sư, mỗi vị đi hai lọng. rồi ước trăm bà vãi đội cầu dài
dằng dặc, mỗi bà tay cầm phướn, miệng tụng kinh ầm ầm. một cái minh tinh cao ngất
ngểu đi trước một bức trướng vóc như căng ngang đường, có bốn chữ quen quen là
dĩ sơn vân ám to tướng. Đoạn đến hàng hai trăm câu đối, cái vàng, cái trắng,
cái đen, cái tím, cái xanh, cái bằng xa tanh, cái bằng vóc, cái bằng lượt, cái
bằng dạ, xếp hàng đôi, mà trẻ con cầm đứa nào cũng mặc áo dài trắng. những câu
đối ấy toàn chữ nho khó đọc cả. duy chỗ lạc khoản thì dễ nhận hơn. có chữ giống
như thẻ bài ngà của cụ thượng. có chữ trên thì rậm rì khó đọc, nhưng dưới thì
là chữ lâm muốn chừng là hàn lâm. có câu thì người ta bảo là của cụ lớn bố chánh.
có câu thì trông rõ ba chữ bắc kỳ nhân, rồi có ba chữ cuối mới đến tên. nói tóm
lại, nhiều quá, không ai nhớ hết. vì còn những câu của ông phủ, ông huyện, ông
tham, ông phán chi chít những chữ nho là chữ nho.
sau đoàn câu đối thì là bốn năm cái bàn độc, rước đồ tam sinh
với các phẩm vật. cứ đồ mặn lại xen đồ chay, mà cuối cùng, là con bò thui to kếch.
bàn nào bàn nấy chằng chịt những dây vải trắng tinh.
Đương mỏi mắt về nhìn các nghi vệ, thì khách qua đường lại
đinh tai về nghe đội kèn tây thuê tự hà nội về. họ ăn mặc như lính tây thổi những
bài rất hùng hồn, như muốn giục người hăng hái ra trận. cái linh xa tám người
khênh, thong thả đi nối ngay sau phường kèn. trong linh xa, khói hương trầm bay
nghi ngút, giữa có bức truyền thần vẽ sơn, mới xong tối hôm trước, để kịp rước.
bà cụ thì mặc áo gấm và đi giày vân hài. nào hoa tai, nào hột vàng, nào tráp đồi
mồi, nào ống nhổ sứ, ai trông cũng đoán được nhà giàu. Đi sau linh xa, phường
bát âm đưa những bài lâm khốc, như than, như khóc, như oán, như hờn, nỉ non,
rên rỉ, nghe buồn chảy nước mắt được! một người khăn trắng, thắt lưng xanh ra
ngoài, giơ cái phèng lên mà đánh, để ra hiệu cho bọn khênh cữu. thỉnh thoảng, để
trả lời tiếng phèng rè, một hồi phách nổi lên, lách cách như tiếng nhái kêu.
cái nhà táng thửa mấy hôm trời, thợ cả phố làm suốt ngày thâu đêm mới kịp và mới
vừa lòng ông chủ. vì nghe đâu đắt đến trăm hai! bốn mươi hai người khênh đòn cữu,
khi tiến khi quành, đều đều tăm tắp. trong nhà táng là quan tài, sơn son thiếp
vàng, rất đẹp. người ta bảo sắm mất hơn sáu chục. trong cái phương du đi sau
nhà táng, thì họ hàng thân thích, chen lách mà bước từng bước một. tiếng khóc
than kêu gào thảm thiết, ai nghe thấy cũng phải não lòng. người ta bảo là bọn
khóc mướn, nhưng lấy gì làm chứng? rồi đến hàng nghìn người, các cụ, các quan,
các ông, các bà, rặt những chỗ thân thuộc, đi theo sau. cuối cùng thì ba bốn
chiếc ô tô, sình sịch tiến dần. và hai ba chục chiếc xe nhà, như nêm khúc đường
chật hẹp.
Được xem cái đám ma linh đình uy vệ là thế, thì ta nên khen
người hiếu chủ đã khéo trả nghĩa mẹ. mà nhất là nếu trông thấy người ấy, ta lại
càng tâm phục cái bụng hiếu thảo, không bến không bờ.
người ấy mặc đồ sô gai. chứ còn bụng dạ nào mà nghĩ đến áo quần
cho chải chuốt! Đi trước cữu thì giật lùi từng bước. lúc nào cũng bưng miệng mà
khóc, còng lưng xuống mà khóc, đến nỗi phải chống gậy! vậy mà có đủ vững được
đâu? mấy hôm nay, vì thương mẹ quá thành ra ốm yếu, họ hàng sợ người ấy ngã lăn
ra, cho nên phải cử người đi kèm, vừa che ô, vừa ôm chặt lấy ngang lưng cho đỡ
khuỵu. người ta lại sợ hiếu chủ thương mẹ quá đập đầu vào quan tài, lỡ chết thì
hoài, vì lúc trong bụng bối rối vẫn hay sinh liều, nên phải bện cái nùn rơm để
chít quanh đầu. thì dù có đập mạnh đến đâu, cũng không đến nỗi vỡ sọ.
người con dâu mới lại đáng ái ngại nữa chứ! khốn nạn, mấy hôm
nay, người này kêu khản cả tiếng, khóc hết cả hơi. mà ông trời độc địa, cứ
khăng khăng bắt bà cụ, hơn một ngày không ở, kém một ngày không đi, để bây giờ
dâu con không có mẹ mà hầu hạ. lắm lúc lại như thù giận lũ phi nhân đạo, họ cứ
nhẫn tâm khênh cữu đi, thì nàng dâu lại nằm lăn ra đường mà chắn lối, rồi lại
kêu gào rầm rầm. lúc hạ huyệt mới càng thương tâm. áo quan chưa ngắm đúng hướng,
người ấy đã nhảy đánh tụp xuống mà nằm thẳng cẳng ra, ôm chặt lấy mà hờ, mà
khóc. rồi quá lắm, đến nỗi ngất đi. nếu bốn năm người không lôi dậy và không tốt
khuyên, thì có lẽ người ấy còn muốn sống làm gì! thà đi theo mẹ còn hơn chịu bơ
vơ như chim mất tổ!
não lòng thay! bà cụ ở dưới suối vàng, có thiêng chăng tá?
giá bà cụ biết rằng mình được con nó báo hiếu, làm đám ma long trọng dường này,
thì hẳn cũng ngậm cười. mà nhất là giá bà cụ lại trông thấy trước rằng con trai
và con dâu mình nó thương mình quá thế thì chắc lúc "thụ bệnh", cũng
chẳng đành tâm mà nhắm mắt!
kép tư bền
tiểu thuyết thứ bảy xuất bản - 1935
Chiếc quan tài ấy đặt trên tấm phản, giữa một túp nhà xiêu. Một
người đàn bà, quần áo nâu bạc, ngồi phệt ở bên, úp mặt vào cánh tay khoanh cạnh
ván thiên, thỉnh thoảng hé vuông vải nhỏ mới, ghé ra ngoài xỉ mũi xuống nước. Gần
đó, một thằng bé con, chỉ mặc một manh áo rách, thò cái gậy tre vừa đẵn, nghịch
với những tăm bọt sủi trên mặt lượt bùn.
Bỗng bốn người đóng khố, lực lưỡng, đẩy chiếc mảng chuối áp đến
hè, rồi cùng nhau vào, khỏa chân để rửa, nói mấy câu, và đứng lên phản, bắt tay
vào cỗ ván.
Họ còng lưng, ưỡn ngực, để khênh cho thăng bằng. Song, họ
không thấy nhọc nhằn, vì chiếc áo quan ấy nhẹ quá. Nó bằng gỗ tạp, lỗ chỗ những
vết mọt đen, mỏng vừa một đốt ngón tay. Họ chép miệng, phàn nàn với nhau,
thương hại anh Cu xấu số, khổ cho đến lúc chết, chết ngay vào độ trời làm vỡ đường.
Mảng chuối chở chiếc quan tài lềnh bềnh theo tay bốn người đẩy
ra cổng. Chị Cu trùm khăn lên mặt, khóc thảm thiết. Cứ cả quần áo thế, chị lội
bì bõm, đi sau chồng.
Giá không có mảnh vải trắng che mặt, đố người lạ nào bảo chị
là người nhà người chết. Và giá không có tiếng khóc, đố ai đoán là ngoài đường
có đám ma. Thằng Cu thì chẳng biết gì. Nó thấy người ta ghé lưng, bảo nó ôm cổ
để cõng. Nó ngơ ngác làm theo, hình như thích chí vì được đi lội.
Bốn người đẩy mảng, dò từng bước. Đi dưới nước đã chậm, thế
mà đường lại trơn. Những bọt nước tóe bắn lên, làm tắt cả hương. Mấy cây nến cắm
trên khúc chuối, bị gió, không sao cháy được. Người ta đã nhiều lần thắp lại cả
hương lẫn nến, nhưng vẫn tắt như thường.
Xung quanh, làn nước đỏ mênh mông, từ sáng đến bây giờ, mỗi
lúc lên một cao. Chị Cu gào mãi nên rát cổ. Chị phải thôi khóc. Và cố bấm đầu
ngón chân xuống đất, cho khỏi ngã.
Mực nước chỗ thấp thì đến bẹn, chỗ cao thì đến thắt lưng hoặc
đến ngực. Cả làng chỉ còn có mỗi một nơi cao nhất, là khu giữa vườn nhà ông Lý,
may quá, chưa bị ngập. Cho nên ngay từ khi anh Cu ngáp cái sau cùng, chị Cu phải
kiếm cơi trầu lên xin với chủ đất, để nhờ chỗ chôn chồng. Ông Lý thương hại,
vui lòng nhận lời, lại khuyên chị nên đưa ngay anh Cu "ra đồng" kẻo
chỉ một giờ nữa, vườn ông cũng tràn nốt. Thật thế, cả làng, hiện nay chỉ có khu
vườn ấy là hở. Còn thì từ ngoài đồng cho đến khắp các xóm, chỗ nào cũng những
nước là nước. Nói đúng ra, giữa đồng cũng còn vài ba cái gò là còn nổi lên.
Nhưng những đường ra đấy, từ khi mới có tin vỡ đê, tuần đã chặt tre rấp ngang lối,
vít kín cả lại rồi. Chỉ còn một lỗ con con chui khe luỹ, người ta vẫn đánh trâu
qua để thả cho nó bơi đến các gò, đứng nắng và ăn bèo Nhật Bản, thì lối ấy nhỏ
quá. Vả trừ trâu ra, ai dám bơi qua những nơi ruộng sâu đến một con sào.
Chiếc mảng lênh bênh độ một lát, thì quàng vào ngõ xóm Trung.
Tuy đường hẹp, nhưng lối đi cao dần. Nước đến thắt lưng, sau đến bẹn, rồi sau đến
đầu gối. Rồi sau cùng, mảng chuối chịt lại, mắc cạn, không đi được nữa.
Người ta ghé tay bê áo quan. Chị Cu vác vồ cuốc lên vai, đi
theo. Nước rẽ qua những cẳng chân đen thủi, kêu rào rào, tóe bọt trắng sang hai
bên.
Chị Cu giục mọi người mau tay lên, vì chị lo ngại quá.
Quả nhiên, mới từ nãy đến giờ, nước đã láng gần khắp vườn nhà
ông Lý. Chỗ đất vừa đào cách đây độ một giờ đã có những dòng nước ngòng ngoèo
bò theo nơi thấp, và rỉ vào, ngập đến lưng huyệt.
Bốn người rảo cẳng, rồi đặt quan tài xuống. Họ nhảy vào hố,
hai tay bốc nước, thoăn thoắt tát ra. Nhưng vô ích. Nước ra bao nhiêu, lại vào
bấy nhiêu. Mà nước vào lại mạnh hơn nước ra. Tát cũng không kịp.
Bốn người thất vọng, bảo nhau khênh bốn góc cỗ ván. Hai người
tiến, hai người lui, rồi cùng đứng ngay ngắn ở hai đầu huyệt. Họ cúi lưng, đưa
thấp dần dần tay xuống. Chiếc quan tài hạ từ từ. Cảnh đau đớn làm chị Cu đứt từng
khúc ruột. Chị muốn khóc cho hết nước mắt, gào cho hết hơi, để được chôn theo
chồng. Nhưng bỗng chiếc quan tài đứng sững lại, không xuống được nữa. Nước ở dưới
đội nổi lên. Tiếng khóc im bặt.
Bọn người nhìn nhau lo sợ. Lúng túng. Làm thế nào? Bàn tán hồi
lâu, hai người nhảy xuống, đứng ở hai đầu áo quan để lấy sức nặng, thì nó mới
chìm được. Nhưng nước vào huyệt đã nhiều, nên khi người ta vừa nhảy xuống, nước
ở dưới dềnh lên, tràn qua ván thiên. Quan tài như chiếc thuyền đáy phẳng, nó bập
bềnh. Hai người mất thăng bằng, ngã khuỵu, thụt cẳng xuống huyệt.
Cách ấy không được. ỳ ộp, mỗi người nói ra một kế. Chỉ làm
sao thắng nổi có mỗi một tí nước, mới chôn được dễ dàng. Chị Cu tưởng tượng đến
chồng bị ngâm sũng, chị thút thít, kể lể, thương con người đến chết còn vất vả.
Chẳng mấy chốc, chiếc quan tài vì nhẹ, lại tự nhô lên đến gần
mặt đất. Cả huyệt đầy những nước mất rồi. Bây giờ mới là lúc khó khăn. Họ vẫn
luẩn quẩn bàn bạc.
Sau hết, ba người phải lấy lưỡi cuốc, hếch kẽ ván cho nước ồ
vào thực nhiều và cùng nhau đứng về một đầu cho sức nặng đủ dận được xuống đất.
Một người lấy vồ chêm vào thành huyệt, ghì chặt lấy. Một người cuốc đất, và chị
Cu khuân vội vàng, vứt xuống hố. Thấy thây chồng đầu cao đầu thấp, chị đau đớn
lắm. Nhưng biết làm thế nào?
Họ lèn đất vào thành huyết và áo quan, rồi quẳng những tảng
to lên trên. Cho đất đủ sức dìm một đầu quan tài, họ lại đứng sang đầu bên kia.
Và cũng làm như trước. Họ thở ì ạch, khó nhọc như một cuộc vật lộn. Khi cỗ ván
đã bị chèn chặt hai đầu, họ bèn rủ nhau lên, để hết sức đào đất cho nhanh chóng
mà quẳng xuống. Nhưng họ vừa bước chân khỏi, cỗ áo quan đã bềnh lên theo. Song,
được cái nó không nổi cao quá. Biết rằng sức phấn đấu có công hiệu, họ huỳnh huỵch
làm một lúc nữa thật mau. Chiếc quan tài lần này chịu nằm gí xuống tận đáy huyệt.
Bây giờ họ đã đỡ vất vả. Chỉ còn việc đắp đất lên cho thành nấm
mà thôi. ấy thế mà khi ngôi mả đắp vừa xong, nước đã láng vào khắp vườn, không
còn hở một chỗ nào nữa.
Những con giun đất màu đen to bằng ngón tay út nổi lềnh bềnh,
dập dềnh theo đà sóng, trôi với đám bọt rác.
Một giờ, lại một giờ. Mực nước lên cao dần, cao trông thấy.
Xung quanh mả anh Cu, có những lá tre khô bám vào. Rồi có bèo
Nhật Bản. Rồi có cả bọt rác nữa. Thứ này bám vào chốc lát, rồi bị sóng lôi đi.
Thứ kia ôm lấy nhau, nhảy nhót, chạm óc ách vào nấm đất mới đắp. Nước dập dờn
liếm mãi vào khe những mảng đất, làm cho nó mủn ra. Rồi nó lở thành những cục
con con, lả tả rơi từng tý một.
Độ nửa ngày, nước tràn qua mặt mả.
Gió hiu hiu. Bụi tre cót két như nghiến răng. Những lá vàng
rào rào bay xuống, chạy trên mặt nước như thuyền buồm thuận chiều. Lúc nào sóng
cũng dập dờn làm ải đất mả đắp dối. Hòn to không mấy chốc thành hòn nhỏ. Hòn nhỏ
không mấy chốc bị cuốn đi. Nấm mồ bị vẹt dần. Rồi nó không cao hơn mặt vườn nữa.
Rồi chẳng bao lâu, tự nhiên, ở dưới, nhô lên một tầng đất mới.
Tầng đất này cũng mỗi lúc một tý, bị sóng đánh, bị ải, và bị
cuốn đi. Rồi hết lượt này đến lượt khác, đất ở dưới cứ nhô lên và cứ bị cuốn đi
từng hòn nhỏ cho đến hết. Rồi sau hết, ục một tiếng, cả chiếc quan tài tự nhiên
nổi bềnh lên. Nó nghiêng đi, hất tảng đất cuối cùng trên mặt ván trơn bùn như mỡ.
Tảng đất rơi tõm xuống nước. Cỗ áo quan tròng trành, rồi đứng yên trên huyệt
như chiếc thuyền bị cạn.
Chiếc quan tài nổi theo mực nước lên cao dần. Sóng bập bềnh cứ
vỗ mãi vào thành nó như cố đẩy nó đi. Rồi sau, nó không bị vướng gì nữa. Nó
quay đầu, lừ lừ theo chiều gió và chiều nước, lênh đênh, lúc trôi ngang, lúc
trôi dọc.
Độ nửa ngày, chiếc quan tài đã tự đến góc vườn, cạnh bờ lạch.
Đến đây, nước phía ngoài chảy xiết, hút nó bạt ngang vào rặng tre. Nó mắc ở đó.
Rồi một bè ngổ bám cạnh nó. Rồi một cụm bèo bám cạnh nó. Rồi cả một mảng vừa ngổ,
vừa dừa, vừa bèo. Cả tảng bị nước đẩy ra lạch, nhưng không nổi.
Chiều gió đổi làm nhích dần mọi vật, mỗi lúc một tý. Nhưng cỗ
ván gặp cành giong tự nhiên, rúc đầu vào bụi. Rồi lái ngang, hẩy mảng bèo ra
cho nó chui qua khe rặng tre và theo dòng lạch trôi nhanh như mũi tên. Rồi một
mình chiếc quan tài cựa quậy, như cũng muốn tìm lối ra chỗ rộng. Nhưng nó nặng
nề, nên hết xoay dọc lại xoay ngang. Nó tiến rất chậm chạp, vì thỉnh thoảng có
gióng tre cản lại.
Nắng gay gắt làm cho khô đất bết trên mặt cỗ ván và cong vênh
một phần nắp lên. Cả người nằm trong, trương phềnh ra, cũng hình như không chịu
được chỗ quá chật hẹp.
Chiếc quan tài như con thuyền không chủ, bập bềnh, lách theo
lũy tre. Lúc nó dừng lại. Lúc nó nhích đi. Lúc nó giúi nghiêng, lại bạt vào bụi.
Rồi sau hết, nó tới một chỗ có khe rộng. Tự nhiên, nó lao một cái, thích hai cạnh
vào tre hai bên, rồi đâm thẳng ra giữa lạch chảy xiết. Đến đây, nó quay mấy
vòng, rồi lừ lừ, nó trôi dọc theo dòng nước...
Tiểu thuyết thứ bảy số 180; 1937.
Hơn hai mươi năm về trước, đã có thời kỳ tôi ở huyện Yên Mỹ.
Hồi ấy, tôi mới độ chín mười tuổi.
Vì ngoài phố ít ao, vả giếng gánh nước ở xa, nên nhân dân, ai
tắm giặt, phải vào nhờ ao trong huyện cho tiện. Lối từ cổng đến ao, đi sau tư
thất của quan phụ mẫu, nên mỗi khi tôi vắt bộ quần áo sạch lên vai, và cầm chiếc
gáo sắt tây ở tay để đi tắm, là tôi lại đứng trước chuồng ngựa, ngắm nghía ngựa
rất lâu.
Ông huyện nuôi ba con ngựa, một con hồng, một con bạch, và một
con ô.
Trong ba con ấy, hai con kể trên không có gì đáng chú ý.
Nhưng còn con ngựa ô, bao giờ tôi cũng phải nhìn nó bằng đôi mắt kính phục. Nó
cao lớn, trông bề ngoài cũng biết là sắc mắc, bất kham. Nhất là tôi được nghe rất
nhiều chuyện về nó.
Con ngựa ô ấy, ông huyện, hồi ở Yên Dũng, đã mua lại của ông
phó công sứ Bắc Giang, sắp về Tây. Vì lẽ đó, nó cũng có tên là ngựa tây. Và
cũng vì là ngựa tây nên nó không hiền lành như ngựa ta. Nó dữ, khỏe mạnh và
hung hăng lắm.
Đã có lần nó cắn anh bồi ngựa một miếng vào tay, máu chảy
lênh láng, khi anh ta đang tắm cho nó. Anh bồi đã là tay giỏi ngựa, vậy mà một
đôi khi phải chịu nó. Nó có một tính lạ, hễ thấy người đem đồ lại gần để đóng
xe, là nó hí lên rầm rĩ, và đá vung vít. Có bận, ba bốn người lính lực lưỡng mới
đóng nổi nó vào xe; một người giữ chặt dây hàm thiếc, cho nó khỏi quay lại cắn,
hai người bẻ khuỵu hai chân trước, để hễ nó đá bằng hai chân sau, thì nó ngã.
Lúc ấy, nó mới chịu. Nhưng động thấy đôi càng xe làm trĩu dây da quàng lưng, là
nó phi liền. Vì vậy, người ta phải đóng đồ rõ nhanh, và ai ngồi xe, phải lên ngồi
sẵn sàng cả trên đệm. Vì nó mà đã chạy, thì có trời ghìm nổi!
Lần đầu tiên, anh bồi chưa biết tính nó như thế, nên để nó
đánh đổ xe, gẫy tan mất một bánh. Lại lần nữa, nó đã cứ xe không, thẳng đường,
tế một mạch cho đến tận bến đò, xéo vung vít cả vào người ở chợ, rồi kéo thẳng
xe xuống sông. Lại một lần nữa, anh bồi lúng túng, chưa kịp nắm chặt cương, nó
đã cuốc. Bà huyện ngồi trên, kêu la rầm rĩ. Nhưng may, khi đến cổng, vì nó
quành non quá, đầu càng xe vập vào bờ tường, bà huyện ngã lộn nhào ra đằng trước,
sây sát cả mặt mũi. Song, nếu không thế, nó chạy chưa biết đến đâu, và chắc gây
nên tai nạn còn lớn hơn nhiều.
Khi con ngựa ô chạy đã xâm xấp mồ hôi, thì nó càng hăng. Nó tế
nhanh và dai sức lắm. Có lần nó đã phi ngang xe lửa từ ga Đình Dù đến Phú Thuỵ.
Rồi vì tàu phải đỗ ở Phú Thuỵ, nên nó chạy vượt lên. Người bồi nói rằng hôm ấy,
hành khách xe lửa, ai cũng phải thò đầu ra cửa để xem cuộc chạy thi của sức máy
móc và sức giống vật.
Không những con ngựa ấy khỏe mà thôi, nó lại khôn nữa. Ai lại
gần nó thì nó hục hặc, cắn đá, nhưng đến ông huyện đứng cạnh, thì nó hiền lành
như con bò. Tha hồ ông vuốt ve, thò tay vành răng nó ra, hai tai nó vẫn cứ cúp
ra đằng trước một cách ngoan ngoãn.
Lính huyện còn ca tụng mãi cái việc nó cứu chủ. Một đêm, ông
huyện cưỡi nó đi tuần. Xảy gặp một toán đông người, có khí giới. Không biết
chúng là bọn cướp, hay chúng thù ông huyện, biết ông đến chỗ ấy, nên đón đường
định hại. Chúng ồ ra, chặn lối đi. Bị tai nạn bất thần, ông huyện cuống quít.
Nhưng con ngựa ô đá vung vít, giải vây được, và cắm đầu tế một mạch về nhà.
Lại một lần nữa, trong mùa nước to, lý trưởng làng Lực Điền
phi báo ông huyện khúc đê sạt bốn mươi trượng, ông huyện cưỡi con ngựa ô đến chỗ
xung yếu thì được độ năm phút, ôtô ông sứ đến. Ông sứ cho là ông huyện chăm chỉ,
lấy làm bằng lòng lắm. Giá dùng con ngựa hồng hay bạch, tất ông đến sau ông sứ,
và sẽ bị quở trách là lười biếng việc quan.
Bởi thế, duy chỉ có ông huyện là quý con ngựa ô, còn cả nhà
coi nó như kẻ thù, vì ghét nó quá. Bà huyện bảo đem bán quách nó đi, để tránh
những sự nguy hiểm. Người bồi động đến gần nó, là quất trước ít ra là năm chiếc
roi gân bò vào mặt nó, để thị uy. Ai có việc phải đến gần nó, cũng trống ngực
thình thình, cố mau chóng để tránh cho xa cái hàm răng và cẳng chân ghê gớm của
nó.
Những điều tôi kể trên kia, là tôi nghe người bồi ngựa nói lại.
Nhưng chính mắt tôi đã trông thấy con ngựa ô ấy chạy nhiều lần. Mỗi khi ở ngoài
đường, có hồi nhạc rung đều, là tôi phải bỏ cả sách vở hoặc bát đũa, tức tốc ra
đứng ở hè nhà, để dúm miệng lại mà vừa nhìn, vừa sợ. Con ngựa chạy như băm, như
bổ. Cát đường bụi mù. Tôi hồi hộp, nhảy lên chồm chồm mà reo:
- Ngựa ô của quan!
Mà chẳng những một mình tôi mới lố bịch như thế. Hàng trăm trẻ
con khác còn lố bịch hơn tôi. Chúng chạy theo. Và khi con ngựa đã vào đến sân,
chúng thập thò ở ngoài cổng huyện, ngó vào, nhìn con vật thở ì ạch mà bàn tán về
nó đến trăm chuyện!
Nhưng mấy năm nay, con ngựa ấy già, sức lực nó yếu đi. Nó kém
hung hăng và bớt cắn, đá. Song, mỗi khi đi tắm, tôi không thể nào không đứng
trước chuồng nó mà ngắm nghía nó bằng đôi mắt kính phục.
Thế rồi một hôm, tôi thấy đồn con ngựa ô ốm.
Tôi đi qua chuồng thấy nó lử thử, nằm duỗi bốn cẳng một cách
uể oải. Thúng thóc và bó lá tre để ở phía trong, vẫn còn nguyên. Vài hôm sau, một
ông thú y người An Nam ở tỉnh về huyện. Người bồi ngựa nói rằng:
- Quan cho mời quan Đốc về chữa, nhưng quan Đốc bảo nó già và
phải bệnh đau ruột, không thể chữa được.
- Thế nó chết à?
Người bồi gật đầu:
- Tại mấy năm trước nó khỏe và làm nhiều quá, nên về già, động
ốm là nặng. Quan Đốc bảo đến đốc tờ tây cũng không thể cứu được. Mà có khỏi, nó
không thể kéo xe và cưỡi được nữa!
- Con ngựa ấy chết thì hoài nhỉ!
- Chết thì chôn!
Người bồi thản nhiên nói thế. Còn tôi, khi nghe thấy tiếng
"chôn", tôi lại chỉ mong cho con ngựa ô ấy chết thực, để được xem đám
ma ngựa nó ra làm sao. Thực vậy, tôi tưởng tượng đến một cái hòm kếch xù là
quan tài, trong có xác con ngựa. Rồi vì nặng, nên tất phải đến ba bốn mươi người
khênh trên vai mới nổi. Theo sau áo quan, chắc người bồi dắt con ngựa hồng và
con ngựa bạch đi theo để đưa ma.
Nhưng sự thực không phải thế.
Sáng hôm sau, khi ông thú y về, bỗng tôi thấy ở cổng huyện một
lũ người lôi một cái gì nặng nề, có lũ trẻ phố đứng xem xúm xít. Tôi liền chạy
ra, thì ra lính trong huyện với con ngựa ô.
Người ta lôi nó đi chôn.
Thế là đám ma ngựa.
Con ngựa ô bị trói bốn cẳng làm một, đầu thừng có mười người
kéo. Cổ nó cũng buộc vào một dây, năm người lôi. Nó nặng lắm. Mười lăm người co
hết sức, dô ta rõ đều, mà nhúc nhích được rất chậm. Tôi len vào chỗ trẻ con, đứng
lại gần để nhìn, thì bỗng tôi nhủn cả người. Con ngựa ô vẫn chưa chết. Hai mắt
nó còn mở, và có lẽ bị đau đớn, nên nó mở to ra, lộn cả lòng trắng ở xung
quanh. Nó thở phì phò, và thỉnh thoảng còn cố cựa quậy để chống lại việc bị
chôn sống.
Nhưng hễ nó ngóc cổ, hay co chân, là lập tức bị những ngọn gậy
thẳng cánh giáng xuống.
Người ta hết sức lôi xềnh xệch con ngựa dần dần đến được bãi
cỏ cách huyện độ năm mươi thước tây. ở đấy, đã có một cái hố mới đào. Người ta
kéo nó xuống hố.
Nhưng cái mả ấy đào ngắn và hẹp. Khi con ngựa nằm, thì cẳng
nó duỗi thẳng, và cổ nó vươn dài. Người ta thử cố ấn cả xuống huyệt; nhưng
không được. Đầu nó vẫn ghếch trên mặt bãi, bốn chân nó vẫn lêu đêu chỏng lên trời.
- Đào rộng thêm ra.
Một người lính bảo thế. Nhưng người khác tặc lưỡi, đáp:
- Làm gì có mai có cuốc ở đây. ấn mẹ đầu nó xuống.
- Phải đấy.
Tức thì, người ta lấy chão buộc chặt đầu con vật và lôi gò trở
lại. Cổ nó như bị gập đôi, và người ta cố nhét cả cho vừa vào huyệt. Con ngựa
đau, thở hừ hừ, lưỡi thè ra ngoài miệng.
Nhưng bỗng người ta lại nói:
- Đấy, đã bảo mà, đi mượn mai đào rộng ra. Lười thế nào được.
Còn chân nó vẫn ở trên kia kìa.
Anh bồi nhìn xung quanh, thấy một người có con dao rựa, vội
reo lên:
- Được rồi!
Dứt lời, anh giật lấy dao và giơ thẳng cánh, chặt đôm đốp vào
đầu gối con vật. Nó đau quá, giãy lên. Nhưng độ mười phút, bốn cẳng nó lủng lẳng,
rồi cụt dần. Xương trắng và thịt đỏ chồi ra.
Song, bọn lính được một trò cười nôn ruột. Chắc lúc ấy, con
ngựa tưởng có thể chạy trốn sự đau đớn, nên nó dùng hết sức tàn để băm bằng bốn
cẳng cụt. Nó băm nhanh biến, như lúc nó phi nước đại. Tiếng cười và vỗ tay giòn
tan. Bọn lính pha trò:
- ái chà, đến tỉnh rồi đấy!
Họ lại cười ầm ĩ. Con ngựa chạy không như thế, trước rất khỏe
và nhanh, sau yếu và chậm dần, và sau hết, muốn chừng kiệt lực, nó không cử động
nữa. Tôi chăm chắm nhìn trò ngộ nghĩnh. Khi không được cười nữa, người ta lại bổ
lưỡi dao vào mặt nó để nhắc nó chạy đi. Quả nhiên, nó lại lắp bắp bốn cẳng trên
không, và tiếng cười lại nổi lên rầm rĩ.
Tôi cười, nhảy lên mà cười, vỗ tay mà cười. Vui quá! Rồi mỗi
khi con ngựa mệt, nằm im, lại có người cho một nhát dao mạnh vào thân nó, để
cho nó lại khua bằng bốn chân cụt.
Mãi đến một giờ sau, khi trò ấy nhắc đi nhắc lại đến năm sáu
lượt, không được người ta hoan nghênh nhiệt liệt nữa, bọn lính mới quẳng bốn đẫn
chân xuống hố, và bắt đầu lấp đất lên. Lúc ấy, mắt con ngựa vẫn còn mở trừng trừng,
và bụng nó vẫn còn phập phồng thở...
1938
PTBNS số 61; 16-6-1940
mẹ chồng chị cu sứt chết vừa nãy. tin ấy chẳng mấy chốc bay
đi khắp làng.
ở nhà quê, có việc gì cỏn con xảy ra mà người ta không biết
ngay tức khắc? huống hồ mẹ chị cu sứt ốm liệt giường liệt chiếu đến dăm hôm nay
và cấm khẩu từ lúc gà gáy.
cho nên, cần gì phải đăng cáo phó trên báo, các cụ, các quan,
các ông, các bà cùng thân bằng cố hữu mới biết?
thật vậy, trên từ "các cụ" lý trưởng, thư ký, giữa
đến "các quan viên" hàng xã, rồi đến "các ông các bà" hàng
xóm, dưới đến "thân bằng cố hữu" cùng đinh của anh cu ngày xưa, chỉ
trong một loáng, miệng nọ truyền sang miệng kia, ai nghe tin đau đớn cũng điềm
nhiên và cho là có thêm một chuyện mới để gặp người quen thì nói.
rồi họ tỏ cảm tình với người quá cố.
"thân bằng cố hữu" thì bảo nhau để sửa soạn:
- này, có liệu trốn đi không, kẻo chị ấy đến nói khó nhờ
khênh đòn lại nể, mất công mà chẳng được gì.
"các ông" thì phê bình:
- già mà nghèo, không có tiền uống thuốc, thì chỉ ốm một trận
xoàng cũng đủ ngoẻo.
"các bà" thì dài lời hơn. Đại khái:
- ối giời ôi thế à? thế thì bà ngồi đây nhé, để tôi chạy ù lại
đằng ấy, giao hẹn với chị cu sứt là mẹ chị ấy còn vay của tôi năm đấu gạo độ
trong năm đấy.
hoặc:
- ngày xưa, ông ấy (tức là chồng người chết) có phúng ông tôi
ba hào thật, nhưng lúc ông ấy chết, bà tôi đã phúng lại những ba hào với một
cành cau, cau dạo ấy đắt. thế mà khi bà tôi mất đi, bà ấy làm ăn còn khá, tôi
chả thấy bà ấy phúng lại cái gì, thì việc gì bây giờ tôi phải phúng giả nợ.
"các quan" thì nhìn nhau, lắc đầu một cách nhạt nhẽo:
- nhà nào chứ nhà ấy thì suông, còn có cóc khô gì mà mời
chúng ta nữa.
"các cụ" thì tức lắm. cụ lý bảo cụ ký:
- mẹ kiếp, không khéo cụ lại mất giấy mực khai báo toi. làm
thư ký mà từ đầu năm, trong làng chỉ rặt những đám chết thế này thì lấy gì mà
hút. thật là quá quắt, cụ nhỉ?
nước ta là nước văn hiến. ai cũng bảo thế. bởi vậy, những việc
quan, hôn, tang, tế, đều phải làm theo lễ nghi. trong nhà, lỡ ra có người chết,
đố ai không mở sách ra tra, hoặc hỏi han người quen việc, xem phải làm những
gì.
- chẳng may bà cháu nằm xuống, nhờ bác bảo hộ tôi nên thế
nào.
chị cu, nước mắt chạy quanh, rẽ hàng rào râm bụt, hỏi bác đĩ
tư câu ấy. bác đĩ nghĩ một lát, rồi đáp:
- thôi thì tùy gia phong kiệm, mà tử đắc táng vi vinh. nhà
bác chẳng có gì, thì kiếm bộ áo cho tốt, rồi ngày mai, rước cụ ra đồng.
- vâng, nhưng mà tôi ăn mặc ra làm sao.
- thì cứ phải xổ gấu chứ, bởi vì ông cụ về trước bà cụ kia
mà.
- thế còn các cháu?
- thằng cu phải xô gai để chống gậy thay bác giai, và cũng phải
trở ba năm đấy.
chạnh nhớ chồng và nghĩ đến cảnh goá bụa, chị cu sụt sịt. bác
đĩ ngăn:
- ấy, chớ, phải may xong áo, lập xong bàn thờ mới được khóc.
bây giờ trong nhà cứ phải im phăng phắc như lúc bà cụ hãy còn mới được.
người quan tâm đến cái chết của mẹ chồng chị cu sứt, thì
ngoài bác đĩ tư ra, cố nhiên là còn có cụ thư ký.
nghe tin bà ta chết, cụ thở vắn thở dài, gắt gỏng vợ con ỏm tỏi.
song, cụ chưa thất vọng hẳn.
cụ chiêu một hớp nước vối nóng, thở phì một cái, khói thuốc
phiện loãng phi thẳng ra miệng. cụ tháo diện tẩu, và, trong khi chờ cho nguội để
nạo, cụ vén quần lên, gãi đùi sồn sột.
- Ơ hay, nó đi đã về chưa, mày?
cụ hỏi vậy. nhưng không ai trả lời.
nóng ruột, cụ lấy cái giẻ để đệm tay, rồi vừa ngước mắt lên
xà nhà để nghĩ ngợi, vừa cầm móc để nạo. tiếng xái sào sạo long, rồi đến tiếng
sắt quèn quẹt ở phía trong tẩu đã nhẵn thín. cụ dốc miệng tẩu vào chén, gõ vào
diện cồm cộp, rồi lại đánh. cụ nạo, nạo mãi, nạo quèn quẹt, dễ thường đến chảy
máu tẩu.
cụ lập bàn tĩnh lúc này khí thất thường. mọi ngày, cụ vẫn xơi
thuốc vào lúc cơm xong.
nhưng hôm nay, cụ cần hút ngay buổi sáng. một là để khuây khoả
sự buồn bực về chức vụ: Độ này, sinh chả có, giá thú chả có, chỉ độc một số tử
"chó chết". hai là còn mấy điếu xái của khách thuốc thết cụ chánh tổng
tối qua, có lẽ vẫn còn dùng được, cụ hút đi cho đỡ phí của. ba là cụ để cho chị
cu sứt đến trình khai tử cho mẹ chồng, cụ lấy sự ăn tiêu xa xỉ ra làm chứng, để
bảo ngọt chị phải biện cái lễ xứng đáng.
bỗng anh người nhà về, nói:
- thưa cụ, đích là chết rồi.
- mày thấy tiếng khóc chưa?
- chưa.
- sao mày biết là chết?
- con hỏi thăm.
- thăm ai?
- ngay chị cu sứt ạ.
- tốt. thế mày không xui chị ta biện cái gì để đi trình à?
- không ạ.
cụ cau mặt:
- Đồ khỉ!
trong tang gia đã nổi lên những tiếng khóc thảm thiết.
người đàn bà góa xõa tóc, gục đầu bên cạnh cái thây ma mà tru
lăn tréo lộn.
cái thây ma ấy bây giờ đã cứng đờ trong lần vải liệm trắng,
bên cạnh đặt bát cơm, quả trứng luộc, có cắm chiếc đũa bông và dăm nén hương.
- ối mẹ ơi, cực nhục lòng con, mẹ đi đâu mẹ bỏ con bơ vơ như
chim mất tổ...
rồi nhớ đến chồng, chị gào:
- ối anh ơi, anh đi đâu để vợ con anh mất trông cậy, để thân
tôi cực nhục trăm chiều, anh ơi là anh ơi!
nhưng bỗng một tiếng quát:
- im miệng.
chị cu ngẩng dậy, hếch cái mũ mấn ra để nom. chị xỉ mũi, lau
vào gót chân rồi quệt đôi mắt đẫm lệ:
- lạy cụ ạ.
cụ thư ký - không biết đã sẵn sàng ở đó từ lúc nào - mặt hầm
hầm, trỏ ba toong vào mặt chị, hất hàm hỏi:
- ai cho phép mày khóc?
- lạy cụ, mẹ con chết thì con khóc.
rồi không nhịn được nỗi thương tâm, chị ti tỉ:
- mẹ ơi!
hai mắt long lên, cụ ký giơ năm đầu ngón tay:
- Ông thì vả vỡ tan họng mày ra bây giờ! mẹ mày chết, mày đã
trình báo gì tao chưa, mà đã dám khóc?
- ối mẹ ơi, tôi có miệng thì tôi khóc, chứ ông cấm thế nào được
tôi.
cụ ký cáu tiết, hung hăng đập gậy vào chiếc quan tài, còn rỗng
không, nhìn tên người nhà, quát:
- thằng xiệng, mày vả vỡ miệng nó ra cho ông. lôi nó ra đình
kia. khóc à!
tiểu thuyết thứ bảy số 306; 1940
Phải hiểu rằng cụ chánh bá có thương nhà này thế nào, cụ mới
quá bộ đến xơi rượu, chứ như nhà khác, dễ mà mời nổi cụ đấy hẳn? cụ lại không mắng
cho vô số, chứ lại thèm đi à? ấy thế mà mới chập tối, họ đã để ngay đứa nào nó
xà lọn mất đôi giày mới của cụ, có chết không! ừ thì đông người thì đông chứ,
nhà có việc, nhà nào chả có nhiều kẻ ra vào! nhưng cụ ngồi chơi tận trên nhà
trên thăm thẳm, thì còn kẻ gian nào dám lẻn vào đó? vả riêng mình cụ ngồi ở sập
giữa, thì còn ai ngờ đi lẫn được giày? chẳng qua là lỗi tại chủ nhà không biết
trông nom cẩn thận người nhà người cửa, trong khi chúng hầu hạ mà thôi! mà đứa
nào lấy đôi giày ấy cũng to gan thực! hỗn với ai thì hỗn, chứ sao được hỗn ngay
của cụ chánh bá! thực là vuốt râu hùm!
may thay cho nhà chủ, là tự nhiên lại biết ngay rằng cụ mất
giày. chứ đợi đến lúc cụ ra về, hay vô phúc cụ đi giải, mà tìm giầy không thấy,
thì không biết làm thế nào? lại cũng may nữa, là cụ chưa biết rằng đôi giày mới
của cụ không cánh mà bay đấy. chứ mà cụ biết, thì chết với cụ! xưa nay cụ chúa
ghét những thói gian giảo. ngay như đầy tớ cụ, đứa nào mà lảng vảng ra chợ, tắt
mắt đồ đạc của người ta, người ta có bắt được và trình cụ, thì cụ cũng không
tha. cụ nhất định giữ lấy đồ ăn cắp, rồi sai đánh cho một trận thật.
thế cho nên cụ chánh bá mất giày, nhà chủ sợ xanh mắt:
- Đôi giày của cụ như thế nào, hở cậu?
- mới nguyên, kiểu gia Định, đế cờ lếp, mua những ngót ba đồng.
Độ một tháng nay, cụ chánh bá bực mình vì đôi giày của cụ nó
móm quá. anh người nhà nói rằng nó mới, kiểu gia Định, đế cờ lếp, là anh đã làm
một lối văn "cổ điển" đẹp lời, chứ nếu theo giọng "tả chân"
thì phải nói rằng nó xấu và cũng không có chữ để tả nữa!
Đôi giày ấy, chẳng biết cụ mua từ khải Định mấy niên, đến bây
giờ, đóng lại đế là lần thứ bốn, mà nó vẫn hoàn không đế. mũi thì nứt rạn và vá
nhiều nơi. cái cá đã đóng thêm lượt nữa, nhưng nó vẫn thủng. lượt da thì ải và
bật dây gần hết. bọn thợ khâu giày phải trốn như chạch, vì lỡ ra không nhẹ tay
mà chọc mạnh cái dùi vào, là nó toạc ra - vì tất nó toạc ra - thì oan gia.
cho nên chiều hôm ấy, trước khi đi ăn cỗ, cụ đội khăn, mặc áo
chỉnh tề, mà cụ ngắm đến đôi giày, thì cụ phát khùng lên. cụ cầm cái giẻ, nhổ
tí nước dãi, lau lại cái mũi cho đỡ mờ, nhưng cụ ngắm, cụ vẫn phải nhăn mặt.
cụ đi đi lại lại vài lượt, ra ý nghĩ ngợi, rồi gọi anh đầy tớ
thân và sai rằng:
- Đội khăn, đi hầu tao.
anh đầy tới gẩy cái bã điếu, lau qua cái tráp, rồi đứng
khoanh tay chờ lệnh. cụ bá nhìn vào đôi giày, nghiêm sắc mặt lại, gắt:
- mày làm tao xấu hổ về đôi giày!
thấy khí giận ngầu ngầu trên mặt chủ, anh này gãi tai không
dám trả lời.
- tao bực lắm! làm thế nào bây giờ?
anh đầy tớ không biết nói tiếng gì hơn là tiếng "dạ"
đỡ đòn. nhưng cụ bá lại gắt:
- tao không thể đi đôi giày được nữa. kệ chúng bay! muốn làm
thế nào thì làm!
câu gắt khí lạ, các ngài nhỉ! giá chúng mình làm nũng vợ, hay
bắt nạt em gái, thì dùng câu ấy được đấy. nhưng bắt đền người nhà thì kém "logic"
lắm!
nhưng mà cụ chánh bá tôi nói thực đấy! Đôi giày của cụ cũ và
xấu, là lỗi tại đầy tớ ngu. nay cụ bắt phải có đôi khác thay vào, thì không đứa
nào được trái ý.
anh đầy tớ lo lắm. nếu anh bẩm cụ mua giày mới, thì khổ anh.
vì cụ cứ ừ, nhưng không đưa tiền. nếu không có giày cho cụ, thì cụ đánh đòn về
tội kiệt.
cụ để cho anh luống cuống một lúc, rồi cụ mới dịu nét mặt,
khoan thai vẫy lại gần, rỉ tai nói nhỏ. Đến câu chửi kết luận, anh ta mới tủm tỉm
cười, phục ngầm thầy là mưu cao, và thấy nhẹ nhàng, đỡ lo đôi chút.
ấy thế rồi hai thầy trò đi.
Đến nơi, nhà chủ đón chào rất trân trọng. họ mời cụ lên nhà
trên, hầu hạ kính cẩn, sợ hãi. lại còn sợ không quen tính cụ xưa nay ra sao,
nên cứ phải thì thào hỏi dò cậu người nhà từng tí. và nhờ cậu luôn luôn đứng cạnh
cụ, xem thiếu thức gì, thì cứ việc sai bảo tự nhiên.
cụ ngồi một mình trên sập giữa, và xơi riêng một mâm rượu đầy
tú ụ. nhà chủ không dám ghép ai ngồi hầu, mà cũng chẳng ai dám ngồi hầu. vì lỡ
ra có sơ suất hay thất thố, thì thà cụ cứ mắng chửi ngay cho lại là phúc. Đằng
này, cụ cứ im, rồi để bụng. thế là mất làm ăn.
lúc chập tối, trong khi có hai thầy trò cụ chánh bá ở nhà
trên, thì cụ khẽ gật tên đầy tớ, và liếc mắt một cái. anh này hiểu ý, ra hiên đứng
nhìn, rồi đến cạnh cụ, cúi xuống nhặt... rồi thu thu vào trong bọc. rồi len lén
ra ngoài ao. rồi giơ thẳng cánh tay, ném xuống nước. tõm!...
vì thế cho nên cụ chánh bá nhà tôi mất đôi giày mới nguyên.
cụ chánh bá mất giày! may mà cụ không biết đấy! chứ giá cụ mà
biết, thì chết nhà chủ! vì cụ xưa nay chúa ghét những thói gian giảo! to gan
thay, đứa nào dám vuốt râu hùm!
lúc cụ xơi cơm xong, nhà chủ mới lên mời cụ đánh tổ tôm. cụ
vui vẻ cho phép ngồi, và hỏi dăm ba câu chuyện. nhà chủ ngồi xổm ở cạnh sập. và
trong khi hầu chuyện, anh ta vớ lấy cái điếu để hút. Đấy, chính lúc ngọn đóm lập
loè dưới gậm, anh ta mới nom rõ bốn xung quanh giường, không thấy đôi giày nào
cả. anh ta tái mét mặt, đến nỗi chưa hút được xong hơi thuốc, thì mối lo đã đùn
đùn đưa lên đến ngực, đến nỗi anh ta sặc và ho sù sụ! sợ quá! nhưng không dám
nói ra, anh ta mới lẳng lặng soi khắp nhà. quái! không tìm thấy đâu cả.
nhà chủ xin phép cụ cho bốn người lên hầu bài, rồi đi xuống.
lúc gặp cậu người nhà, anh ta mới hỏi khẽ:
- Đôi giày của cụ, cậu có cất không?
- không! sao bác hỏi lố bịch thế?
- vậy thì mất à? Đôi giày của cụ như thế nào, hở cậu?
- mới nguyên, kiểu gia Định, đế cờ lếp, mua những ngót ba đồng!
hỏi xong, nhà chủ sai người đổ đi soi đèn, tìm khắp mọi nơi,
sau nhà, bờ giậu, xó bếp, ngoài vườn, chuồng trâu, cũi chó. nghĩa là những chỗ
có thể ngờ là kẻ gian giấu được, hoặc các nơi mà đàn chó con mọi khi vẫn chơi
đùa.
càng không thấy, nhà chủ càng lo. cậu người nhà thỉnh thoảng
lại nói một câu dậm dọa:
- hay là tôi lên trình cụ xem nhé!
trình cụ! coi không cụ biết thì cụ chửi cho ủng mồ! nhà chủ cứ
bắt gia nhân đi tìm mãi, nhưng vẫn chẳng hy vọng gì, bèn đánh liều bỏ phí một đồng
bạc để treo giải thưởng cho người tìm thấy.
nhưng có mà trời tìm! giá có cao đoán rằng cụ đã mật sai người
nhà cụ vứt bõm xuống ao rồi, mà mò, thì cũng vô ích. vì từ nãy đến giờ, thì giờ
cũng đủ cho đôi giày rữa ra và tiêu hết rồi, chứ còn gì!
nhưng mà mất giày cụ chánh bá! việc to! chết!
ấy, ở trên nhà, cụ vẫn đương vui vẻ gọi phỗng, và tính nước
bài. chứ nếu ai mà hót với cụ rằng đôi giày mới của cụ, có đứa nào thó mất, thì
hẳn cụ quăng bài đó, rồi cụ tra tấn cho ra. vì xưa nay cụ dữ như con hùm, khét
tiếng trong hàng tổng là quyền hành, hách dịch, thét ra lửa!
cụ thét ra lửa thật hay dối? ấy là tán rộng thế cho nó hay đấy.
chứ nếu biết rằng mất giày mà cụ thét ra lửa thực, thì cháy tiệt cả nhà, còn gì
nữa? mà nhà nước thấy cụ có phép lạ, thì đã gửi toách cụ sang tây từ đời nào, để
viện hàm lâm khoa học, các ông bouvier, caulery, gravier, joubin, marchal,
mesnil khảo cứu. và như thế thì chắc chắn cụ được đôi giày tây để đi, chứ cụ có
còn ở nhà nữa đâu mà mất đôi giày gia Định, đế cờ lếp! nhưng nói cho cụ đỡ oan,
là từ ngày cụ có chân sơ học yếu lược tới nay, được đổi ngạch bá hộ sang văn
giai, thì cụ cũng hiền lành hơn trước một chút. cho nên, giá cụ có biết rằng cụ
mất giày, thì cũng mặc kệ cho nhà chủ tự xử trí.
tìm mãi không thấy, hai vợ chồng nhà chủ trợn mắt trợn mũi,
luống cuống, chỉ trỏ bàn nhau. không biết làm thế nào cho êm chuyện. rồi thở ngắn
than dài, hối mãi vì sự trông nom không cẩn mật để xảy ra sự mất mát đáng tiếc ấy.
rồi đến hai giờ sáng, xong ba hội tổ tôm, mọi người mời cụ
chánh bá nghỉ, kẻo mệt. nhà chủ sai đốt đuốc để tiễn cụ lại nhà. khi chỉ còn một
mình cụ ở lại, cụ mới quàng cái khăn vào cánh tay, rồi lấy đóm soi đôi giày dưới
đất. Đôi giày của cụ thật mới, bóng nhoáng, kiểu gia Định, và đế cờ lếp, được để
cận thận bên gậm sập. cụ hiểu ý, liếc mắt nhìn nhà chủ. nhưng cụ lại thấy nhà
chủ cũng nhìn trộm cụ, thì cụ lại phải soi đóm xuống lần nữa, và làm như ngạc
nhiên, không hiểu, nên nói:
- ớ! không phải...
nhà chủ, trống ngực thình thình, vội vàng đáp để đánh trống lấp
- dạ! bẩm phải đấy ạ.
thế rồi cụ làm như vô tâm, và hay tin người, cụ vươn vai,
ngáp, rồi cót két đôi giày mới, đi về, lấy làm vừa lòng lắm...
ptbns số 5; 1-4-1937
Mới độ bảy giờ tối, ba ngọn đèn điện ở cửa rạp tuồng An Lạc
đã bật lên. Cái trống dựng nghiêng ở chân tường đã bắt đầu rung những hồi inh ỏi.
Hiệu trống ấy, cứ một nhịp, kéo dài cho đến tận tám giờ, có
khi tám giờ mười lăm, là lúc khai diễn.
Thỉnh thoảng, thằng bé con vừa nện tùng tùng, vừa uể oải giục:
- Các ông các bà, lấy vé vào mà xem, gần đến giờ rồi.
Đó là nó mời mấy ông nhỏ, mấy bà vú em, được dịp vắng chủ, ra
đấy để "xã giao" với nhau.
Các ông, ông nào ông nấy tóc chải thật mượt, hoặc gài cái lược
bằng dây thép uốn, bá vai nhau, vắt chân chéo khoeo, đứng ở trước cái bảng quảng
cáo giấy vàng dán trên mặt liếp, để tập đánh vần quốc ngữ.
Các bà thì áo cánh cộc lụa mặc ra ngoài áo cánh cộc vải, kệ
cho lũ trẻ đứa chạy tung tăng, đứa bò lổm ngổm, ngồi ở gần hàng nước, phàn nàn
bà chủ nghiệt hoặc nói chuyện chồng bạc tình.
Rất ít người lấy vé vào coi hát.
Tiếng trống vẫn làm đinh tai.
Trong cái buồng hẹp ngay cạnh cửa, có lỗ tò vò bé cỏn con,
trước cái bàn để sẵn ba bốn tập vé, bà chủ ngồi thừ mặt, vú vạch ra cho con bú.
Không còn gì buồn bằng cảnh ế hàng.
Trong rạp, từ bảy giờ rưỡi trở đi, ba chiếc quạt tây, buộc
díu vào một dây kéo, đã bắt đầu hoạt động. Ghế các hạng, lác đác đã có một vài
người ngồi. Ngọn gió nhân tạo không phẩy được tới những dãy ghế cuối cùng, cao
lêu đêu, dãy ghế hạng năm xu mà người ngồi, đếm được gần bốn chục. Trong khi chờ,
khán giả cười to, nói lớn, nhổ bậy, hoặc cãi nhau.
Nhưng bỗng một hồi chuông rung mạnh. Đèn phía trong sân khấu
bật lên, làm rõ những mảnh sơn bong trên lớp vải màn mỏng bao nhiêu, thì làm mờ
cái phong cảnh vẽ đi bấy nhiêu.
Trống, kèn, nhị, thanh la, tung ra những tiếng gắt gỏng.
Bỗng một cái đầu bóng thò ra ngoài màn sân khấu, ngơ ngác
nhìn. Một nhịp cười dồn ở hàng ghế bét. Một hồi chuông rung ngắn nữa. Chiếc màn
từ từ cút kít cuốn lên từng nấc: Cảnh triều đình.
Người ta suỵt. Người ta hét im. Nhưng ở cuối rạp, vẫn cười
to, nói lớn, vẫn nhổ bậy, cãi nhau.
Vai vua gầy gò, ngồi trên cao, trước cái phông sơn thuỷ, vuốt
bộ đuôi ngựa làm bức rèm mồm, nhìn hai dãy bá quan, hát những câu không ai nghe
rõ. Bá quan nghiêm chỉnh, thỉnh thoảng sờ nạm râu anh em ruột với râu của vua,
mắt liếc ngang liếc dọc, ra vẻ trịnh trọng.
Rồi một anh nhọ mõm, quần áo thâm, quỳ giữa sân khấu, bưng
trên đầu cái đĩa bày bốn chiếc chén không. Vua giơ tay mời. Bá quan sáu người,
thì bốn người đứng dậy, mỗi người cầm một chén, vạch râu, kề tay vào mồm, hắt cặn,
rồi lại ngồi xuống.
Vua cười kha khả, phán:
- Giui! Giui quá đi mấc mà thôi!
Rồi cả bọn kép hát đứng dậy, đi bài tẩu mã. Tiếng kèn đưa
cao, giọng hát hùng hồn vang nhịp, ăn theo với điệu bộ múa may. ở hàng ghế dưới,
tiếng ồn ào đã hơi dịu.
Bỗng anh nhọ mõm ban nãy, ở trong buồng trò chạy ra, hớt hơ hớt
hải. Anh vấp vào một vai quan, ngã lộn tùng phèo. Tiếng vỗ tay ran như tràng
pháo, để thưởng cho anh kép hát pha trò đậm.
Ngã xong, anh kép đứng phắt dậy, đứng thật ngay, xoè năm ngón
tay lên trán để chào kiểu nhà binh. Người ta lại cười.
Vua nói giọng Sài Gòn, phán hỏi:
- Chi mà bay giội giàng làm giậy, thằng kia?
- Dạ, thậm cấp, thậm cấp, chí nguy, chí nguy! Quân nước Phiên
đã kéo đến Lâm Truy, cách kinh kỳ có ba ki lô mét!
- ải! ải!
Vua quát vậy, rồi với chiếc nậm gỗ, đập chan chát:
- ải ải! Nếu giậy, khổ dã châng khổ dã, nguy tai thị nguy
tai! Cuộc chiếng tranh nếu cứ kéo dài, ta e nữa môộc mai dâng khổ. ớ này, bá
quang!
- Dạ.
Rồi vua gò lưng, lắc đầu, lắc cổ, hét:
- Quâng Phiêng đã Lâm Truy kéo tới, làm giua tôi lại gặp buổi
giang nang, trẫm truyền cho giăng giõ bá quang, xem ai có tài có gang ra giúp
nước, hà!
Vừa dứt lời, hai anh kép mồm nhẵn thín, ngồi ngoài cùng, ban
nãy trơ khấc không được đánh chén, vội đứng cả dậy, xắn áo thêu, xốc lại mũ, rồi
múa may, uốn éo, làm bộ giương súng, cưỡi ngựa, vặn ôtô, nhảy xe đạp. Người xem
hát cười rầm rầm. Hai anh lại nhảy xe đạp, vặn ôtô, cưỡi ngựa, giương súng một
lượt nữa, đụng cả vào nhau, ngã nghiêng ngửa, cho đến tận lúc tiếng cười ngớt.
Rồi trong rạp im phăng phắc. Một luồng gió, qua chỗ đi tiểu, đượm mùi cống, lọt
vào cửa tò vò, làm cho cả rạp thấy thoang thoảng luồng không khí hăng hăng.
Nhưng không ai để ý đến, người ta chăm chú nhìn và nghe hai anh kép đương phệnh
phạo giở lối anh hùng rơm. Anh bên phải vươn cổ nói:
- Đã có tôi phò tá!
Anh bên trái, ngoác mồm tiếp:
- Lại có mỗ tá phò!
Rồi cả hai anh đồng thanh vừa hát vừa giơ tay:
- Xin Thánh thượng đừng lo.
Đoạn lại cùng vênh váo trỏ vào ngực mình:
- Đã có tôi... phò tá!
Dứt lời, hồi vỗ tay sao mà vang và lâu thế!
Thằng bé bán nước và lạc rang lách qua các chỗ ngồi để rao
hàng. Trên sân khấu, vẫn diễn ra những điệu bộ và những câu pha trò nhảm nhí.
Hai ba ông quần áo tây ngồi trên hạng nhất, thở dài, rồi đứng dậy ra về. Nhưng
hàng cuối cùng mỗi lúc một thêm người, mà cũng chỉ đông ở hạng ấy.
Nhìn khu ghế nhất, ghế nhì, khách vắng tanh tanh, ông chủ
gánh hát lo lắng.
ở ngoài đường, bọn tìm cuộc vui buổi tối vẫn đi lại rầm rập.
Nhưng mấy ai qua rạp An Lạc, nghe tiếng kèn, tiếng nhị, đã chịu liếc mắt vào
trong, xem đào kép áo mũ râu ria, diễn những trò gì.
Mấy năm nay, ít người thích nghe hát tuồng cổ.
Gánh An Lạc dọn đi đâu mấy tháng, nay lại mới về, thuê ở chỗ
cũ.
Ngay từ buổi sáng, ở cửa rạp, người qua đường vô ý đến đâu
cũng phải trông thấy một cái cổng kết bằng lá dừa, gài thêm những cành nhãn cài
hoa râm bụt. Trên cổng, hàng chục chiếc cờ Pháp, Nam bay tíu tít. Trên tường, một
miếng vải trắng căng thẳng, có dán một dòng chữ trang kim:
Đào kép mới! Bản rạp chấn chỉnh! Đào kép mới!
Rồi đến năm giờ chiều, lúc mặt trời đã xế, trước nhà hát, bảy
chiếc xe cao su đã chực sẵn cả ở vệ đường.
Một lát, bảy chiếc xe thong thả bước một tiến đi. Xe đầu, một
cái biển dán giấy đỏ, có chữ viết lớn:
Đại diễn tích hát mới! Lưu Lễ bình Phiên - Bản rạp mới chấn
chỉnh! Đào kép mới!
Ngồi trong xe, một thằng bé con giơ thẳng hai cánh, nện vào mặt
chiếc trống cái, và một thằng nữa, đánh thanh la, thỉnh thoảng phồng má, thổi
bài kèn tây ra trận.
Xe thứ nhì, bốn tài tử, người kéo nhị ngồi phệt dưới sàn xe,
hai người thổi kèn và sáo, lèn nhau trên đệm, và người đánh đàn ngồi chỗ mui,
giang hai cẳng để lấy thăng bằng.
Xe thứ ba, một cô tiểu thư mắt toét, mặt trắng, má đỏ, với một
con bé tóc xõa. Hai người cùng áo gấm, giày Tàu.
Xe thứ tư, ba ông ngồi kẹp đùi vào lưng nhau, một ông thượng
ban, một ông trung ban, một ông hạ ban, cùng mũ cánh, áo thêu, ông thì mặt đỏ,
ông thì râu dài, ông thì mũi hin, tai bẹp.
Xe thứ năm, thứ sáu cũng vậy. Cũng những ông trông ra phết
Thái sư.
Xe thứ bảy, thì một cô xấu, nhưng tân thời, mặt phấn má hồng,
môi đỏ, rẽ lệch, chiếc áo căng lườn, trông tức anh ách, như một bài thơ thất luật.
Đoàn xe quảng cáo mười lăm vị đào kép mới, đi diễu hết phố
này sang phố khác. Mặt trời chưa lặn. Ngọn cây đứng yên. Bóng râm mới lấn được
nửa đường bên trái. Bọn đào kép phải phơi dưới ánh nắng nóng như thiêu. Trên mặt
phấn một vài người, mồ hôi lấm tấm, rồi ròng ròng nhỏ giọt. Họ lấy quạt che nắng
và phẩy. Song, trời này mà họ cứ mũ áo ấy, đai mãng ấy, để đi rong phố, thì dù
họ có cố khéo giữ lấy bộ mặt tươi tỉnh, nhưng ai chẳng đoán được cái cảnh đáng
thương của kiếp đào kép hát tuồng!
Tối hôm ấy, cũng mới độ bảy giờ, sáu ngọn đèn điện làm sáng
trưng cả cửa rạp An Lạc. Thằng bé con lại khua trống rầm rầm.
Các ông bếp, các bà vú em vẫn xã giao, đi lại nhộn nhịp.
Nhưng trước cái bảng giấy đỏ, đã có nhiều ông sang trọng đứng đọc, và qua cái lỗ
hổng bán vé, thỉnh thoảng một vài cái tay trắng nuột thò vào xỉa tiền.
Độ tám giờ, trong rạp đã nhiều khách. Trên dãy ghế hạng nhất,
có chừng hai chục người. Hạng nhì đông hơn. Hạng ba đông hơn nữa. Hạng năm xu
càng đông hơn.
Người ta thử xem rạp An Lạc chấn chỉnh. Người ta thử xem tài
đào kép mới. Người ta thử xem tích hát mới.
Nhưng rồi người ta lắc đầu với nhau. Vẫn cái màn lở sơn cũ
che sân khấu không được kín. Vẫn cái đầu bóng trước ngó ra. Và sau một hồi
chuông rung, thì cái màn ấy cũng vẫn cút kít cuốn dần lên từng nấc: Cảnh triều
đình.
Sau một vài tiếng im, tiếng suỵt, ở hàng ghế dài cuối cùng,
cao lêu đêu, họ vẫn cười to, nói lớn, nhổ bậy, cãi nhau.
Trước cái phông sơn thủy vá, vai vua, mặt mũi phương phi,
không đeo râu, ngồi trên ngai cao, mắt liếc bên phải bên trái, có vẻ oai vệ, để
nhìn hai dãy bá quan, và hát những câu không ai nghe rõ.
Rồi một anh mõm trắng, quần áo đỏ, quỳ giữa sân khấu, bưng
trên đầu cái đĩa bày sáu chiếc chén không. Vua giơ tay mời. Bá quan sáu người,
thì cả sáu người đều nhấc chén, vạch râu, ngửa cổ ra để uống rượu bằng không
khí. Anh mõm trắng cầm chiếc nậm gỗ, rưới vào chén một lượt rượu nữa. Bá quan lại
uống một tuần nữa và kêu say. Lúc ấy, anh mõm trắng đứng dậy nhìn một vai quan
đang lảo đảo. Anh lướt tay vào nạm râu của hắn, rồi quệt vào mồm mình. Thế là
anh say đổ điên đổ cuồng, mắt trợn ngược lên, chệnh choạng, sờ soạng, ngả bên
kia, giúi bên nọ, mãi mới vào được buồng trò.
Trời ơi! Người ta cười, người ta vỗ tay, tưởng đến vỡ rạp.
Vua cười kha khả, phán:
- Giui! Giui quá đi mấc mà thôi!
Rồi bài tẩu mã theo giọng kèn, hùng hồn vang nhịp.
Bỗng anh mõm trắng ban nãy, hớt hơ hớt hải chạy ra. Anh vấp
vào một vai quan, ngã lộn tùng phèo. Tiếng cười lại vang động. Ngã xong, anh đứng
phắt dậy, ngay như tượng gỗ, xoè năm ngón tay lên trán để chào kiểu nhà binh.
Người ta lại cười.
Vua nói giọng Sài Gòn, phán hỏi:
- Chi mà bay giội giàng làm giậy, thằng kia?
- Dạ, thậm cấp, thậm cấp, chí nguy, chí nguy! Quân nước Phiên
đã kéo đến Lâm Truy, cách kinh kỳ có ba ki lô mét!
- ải! ải!
Vua quát vậy, rồi với chiếc nậm gỗ, đập chan chát:
- ải ải! Nếu giậy, khổ dã châng khổ dã, nguy tai thị nguy
tai! Cuộc chiếng tranh nếu cứ kéo dài, ta e nữa môộc mai dâng khổ. ớ này, bá
quang!
- Dạ.
Vua hét:
- Quâng Phiêng đã Lâm Truy kéo tới, làm giua tôi lại gặp buổi
giang nang, trẫm truyền cho giăng giõ bá quang, xem ai có tài có gang ra giúp
nước, hà!
Hai anh kép ngồi ngoài, một anh mặt đen, râu đỏ, phun phè phè
từ thái dương đến môi, một anh mặt trắng, râu vẽ bằng mực, lanh lẹ xắn áo, xốc
mũ, múa may, uốn éo, làm bộ giương súng, cưỡi ngựa, vặn ôtô, nhảy xe đạp. Tiếng
cười lại vang lừng.
Anh bên phải lắc đầu lắc cổ, nói:
Anh bên trái vươn cổ, phụng phạo tiếp:
- Lại có mỗ tá phò!
Rồi cả hai anh cùng giơ tay và cùng hát:
- Xin Thánh thượng đừng lo.
Đoạn lại cùng vênh váo trỏ vào ngực mình:
- Đã có tôi... phò tá!
Trên hàng ghế đầu, người ta nhăn mặt, bàn tán:
- Nhảm quá. Ta phải lừa rồi.
- Phải, họ nói láo, chứ chấn chỉnh cái cóc khô gì. Vẫn đồ bài
trí ấy, có đào kép mới mà vẫn hát tích cũ, thì có khác trước tý nào?
Một người tinh mắt, mỉm cười, trỏ lên sân khấu nói:
- Các ngài thử nhìn kỹ xem bọn kép này là mới hay cũ. Cái anh
lần trước ngồi kia, thì bây giờ bỏ bộ râu ra và ngồi đây. Cái anh ngồi bên này
bây giờ vận mũ khác áo khác và vẽ mặt khác. Vả được độ một vài thằng kép khổ hoặc
con đào ươn, mà đã nhặng lên là mới, là chấn chỉnh, thì chúng mình chỉ mắc một
lần là cùng!
Rồi cùng thất vọng, rủ nhau ra.
Từ hôm sau trở đi, chiều nào cũng vậy, cỡ độ năm giờ, bọn đào
kép ban An Lạc lại mũ mãng, phấn sáp, râu ria, ngồi trơ tráo trên xe cao su, đi
diễu qua các phố để phơi nắng cái đời hát tuồng còn ngắc ngoải.
Nhưng những người đã xem diễn qua một tối, họ đều chán ngán.
Nghe tiếng trống kèn cổ động ầm ĩ, họ cũng biết rằng gánh hát còn sống đó,
song, chẳng ai muốn để ý xem tối nay, trong rạp, bọn vua quan trò hề ấy họ ậm oẹ
với nhau những trò gì!
PTBNS số 13; 1-12-1937
Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch
sẽ, nếu ta muốn được khỏe mạnh, béo tốt. thuyết ấy sai. trăm lần sai! nghìn lần
sai! vì tôi thấy sự thực, ở đời này, bao nhiêu những anh béo, khỏe, đều là những
anh thích ăn bẩn cả. thì đấy, các ngài cứ hãy nhìn ông huyện hinh, hẳn các ngài
phải chịu ngay rằng tôi không nói đùa.
chà! chà! béo ơi là béo! béo đến nỗi giá có thằng dân nào vô
ý, buột mồm ra nói một câu sáo rằng: "nhờ bóng quan lớn", là ông tưởng
ngay nó nói xỏ ông. tức thì, mặt bàn là một, mặt nó là hai, bị vả đôm đốp. mà rồi
thằng khốn nạn ấy, ông truy cho đến kỳ cùng, không còn có thể làm ăn mở mày mở
mặt ra được. bởi vì ông có sẵn trong tay hàng mớ pháp luật, thì ông ngại gì
không khép thằng bảo quan béo vào tội "làm rối cuộc trị an". thế là
việc công việc tư, ông đều được trọn vẹn. vì không những ông được hả giận, lại
còn được tiếng mẫn cán là khác nữa.
nhưng cớ sao từ ngày xuất chính tới nay, hai mươi năm trời rồi,
ông vẫn còn lẹt đẹt tri huyện mãi. cái đó không quan hệ. các bạn học cùng ông,
họ đều thăng đường quan cả, vẫn thường phàn nàn hoạn lộ quá chậm chạp của ông.
trước mặt họ, nghe câu nói thành thực ấy, ông chắp tay, cúi đầu, làm ra vẻ buồn
rầu. nhưng lúc quay lưng đi, ông bĩu môi, chửi thầm một câu, bụng bảo dạ:
- làm bố chánh có vặn xỉ ra mà ăn!
lý lịch của ông huyện hinh cũng xấu thật. bởi vì ngồi huyện
nào, ông cũng bị dân kiện. mà quan trên xét ra ông lại trễ nải việc quan. Đời
làm quan của ông chỉ có hai việc chính: đánh bạc và chơi gái.
năm nay, ông đã ngoại tứ tuần. Ông vẫn lấy cái tuổi của ông để
lên mặt tiền bối, khinh những ông huyện trẻ khác, nếu tụi này dám chỉ coi ông
là bậc ngang hàng. Ông liền khoe thằng cả nhà ông đã hai mươi nhăm, rồi ông cặp
ngón tay trỏ và ngón tay cái với nhau, vê vê trên mép. trên mép ông, ông đã bao
công trình mới cấy được từng ấy râu. Ông để râu, cho khác hẳn với tụi huyện trẻ
nhãi. nguyên cái da mặt ông nhỏ, mà có lẽ vì ông béo quá, nên lỗ chân lông căng
ra, căng thẳng quá, đến nỗi râu không có chỗ nào lách ra ngoài được. Đến nỗi
năm bốn mươi tuổi, mà mặt ông nó cứ nhẵn thín như thường. Ông bực mình, bèn ra
lệnh cấm thợ cạo lia lưỡi dao lên môi ông một dao, để ông nuôi râu. thì sau hết,
những lông tơ nó cũng dài ra, và trông rõ hơn. và đến bây giờ, đứng ở hai bên
miệng ông, nó thành hai cái dấu chua nghĩa (...).
buổi hầu sáng hôm ấy.
con mẹ nuôi, tay cầm lá đơn, đứng ở sân công đường. nó hớt hơ
hớt hải qua cổng chòi, rồi sợ sệt bỡ ngỡ, không biết quan ngồi buồng nào. bỗng
một người mặc áo cánh nái nhuộm vỏ già chạy xồng xộc đến trước mặt nó, và hỏi:
- Đi đâu?
con mẹ biết ngay rằng đó là cậu lính lệ. và như hiểu rõ phép
vào quan, nó giúi đưa cậu lệ hai hào đã cầm sẵn ở trong tay, rồi nói nhỏ:
- nhờ cậu bẩm quan cho tôi vào hầu.
cậu lệ tuy đã cầm tiền, nhưng làm như ta không để ý đến việc
nhỏ nhen ấy, bèn vừa thò tay, vừa nói to:
- Đưa xem đơn, việc gì?
rồi trong khi nhà nuôi kể lể, thì cậu lệ đánh vần để đọc lá
đơn. Đoạn cậu lắc đầu, nhăn mặt bảo:
- vào kia, nhờ bác nho quý bác ấy làm hộ cho. Đơn này không
được.
con mẹ tái mặt, hỏi:
- không được thế nào, thưa cậu?
cậu lệ giơ hai tay ra giảng:
- nghĩa là nếu nhà chị muốn việc chóng xong, nghe chưa?
- thưa cậu, cậu cứ vào trình quan hộ. chả nói giấu gì cậu,
nhà tôi bị mất trộm hết sạch cả đồ đạc lẫn tiền nong. sáng nay, vay mãi mới được
đống hai bạc, để đi trình quan, cậu làm ơn thương hộ cho.
cậu lệ nhìn nét mặt nằn nì của nhà nuôi, song vẫn thản nhiên:
- tôi bảo nhà chị không nghe thì tôi mặc kệ. tôi thấy nhà chị
ăn mặc thế này, lại bị lúc vận hạn đen đủi, tôi lại chẳng động lòng hay sao?
nhưng ở đây, cái lệ nó thế. tôi tử tế, nên bảo trước. nếu nhà chị không theo,
thì quan quở, chớ có trách tôi đấy.
muốn chứng thực lời nói của mình, mẹ nuôi cởi nút dải yếm ra,
rồi xỉa năm đồng hào đôi còn lại lên gan bàn tay, và nói:
- Đây này, chẳng tin, cậu đếm mà xem, chỉ còn vừa vặn tiền
trình thôi.
cậu lệ lắc đầu. con mẹ vừa buộc lại tiền, vừa nhăn nhó, van
lơn:
- lạy cậu, thương cháu, cho cháu được nhờ. cậu cứ vào bẩm
quan hộ. hễ quan bắt làm lại đơn, thì cháu xin ra nhờ bác nho quý ngay.
bỗng một tiếng chuông gọi. cậu lệ dạ giật một tiếng, rồi ù té
chạy. con mẹ nuôi nhìn theo, biết rằng buồng quan ngồi ở chỗ ấy. nó đánh liều
tiến đến, vừa tiến, vừa lo. nó bước chân lên thềm, trống ngực bắt đầu nổi mạnh.
nó đã trông thấy quan. nó lại sợ nữa. vì lo sợ quá, nên quên đứt rằng chính nó
đi trình việc mất trộm. nó lại tưởng như nó là đứa trộm vậy. nó rón rén, đứng
nép vào cạnh cửa, thập thò, ghé vào trong, và lắng tai nghe. nó thấy quan đang
dặn cậu lệ xuống bảo nhà bếp ninh cho thật dừ cái chân giò.
và đến khi cậu lệ dạ tiếng cuối cùng và đi vào sân sau, mé cửa
trong, thì nó hiểu ngay rằng đã mất toi hai hào cho thằng xỏ lá nó chẳng bẩm
cho mình một tiếng nào.
bỗng hai con gà tây béo sù quàng quạc kêu ở sân trước. nó thốt
giật nảy mình. quan đang ngồi, choàng một cái, ngài đứng dậy, chạy vội ra hiên,
đứng ngay cạnh nhà nuôi, và gọi váng:
- có đứa nào đấy, lừa hai con gà vào cho tao!
tức thì, người ta chạy tán loạn để xua gà, và nhà nuôi thì chắp
hai tay, quỳ ngay xuống gạch, và nâng ngang đầu cái lá đơn.
khi đôi gà đã chạy về, quan bèn nhìn con mẹ và bảo:
nó mừng quá, lóp ngóp đứng dậy, vội vã theo vào trong buồng
giấy.
nó đứng ở cạnh bàn, run lên bần bật. nó liếc nhìn quan. ngài
oai vệ quá. nó lại sợ hơn nữa. nhưng dù run hay sợ, nó cũng không quên được việc
vi thiềng quan.
nhưng tiền trình diện quan, nó lại buộc vào trong dải yếm. nó
cởi ra mới lấy được.
nó mới lúi húi rút cái nút buộc ra. nó sợ quan chờ lâu, nên
phải vội vàng. mà vì vội vàng, lại lo quan gắt, nên nó lóng cóng. cái nút vừa xổ
ra, thì loẻng xoẻng, cả món tiền rơi tiệt cả xuống gạch.
năm đồng hào đôi nảy lên mấy cái, và từng ấy tiếng kêu làm nó
giật mình. tự nhiên, nó choáng cả người và hoa cả mắt. nó cúi nhìn chỗ nhiều
hào rơi nhất, ngay bên cạnh nó. Đồng thì chui nằm ẹp gần chân nó, đồng thì xoay
tít mấy vòng, đồng thì bắn ra góc buồng. mấy đồng nữa thì thi nhau lăn ra tận
chỗ xa.
nó không thấy quan nói gì, nên cũng hơi tĩnh tâm. nó bèn cúi
xuống để nhặt tiền. một đồng, hai đồng. Đồng thứ ba nghiêng ở mé tường. nó tìm
đồng thứ tư. mãi nó mới thấy ở tận gần chân bàn giấy của quan. nó tìm đồng thứ
năm. quái, nó tìm mãi, mà không thấy đâu cả.
nó phải có năm hào đôi. năm hào đôi mới thành đồng bạc được.
vừa ban nãy, nó giở ra cho cậu lệ xem, và lại buộc cẩn thận vào dải yếm. không
lẽ đồng hào ấy có ma, đã biến đi đâu mất chóng thế được. vậy chỉ quanh quẩn ở
trong buồng này mà thôi. nhưng nó đã tìm kỹ lắm rồi. mà trình đơn tám hào, tất
nó bị quan chửi. không biết làm thế nào được, nó tần ngần chắp hai tay, vái:
- lạy quan lớn ạ.
rồi nó lùi lùi bước ra cửa. rồi nó đi về...
Ông huyện hinh cứ ngồi yên sau bàn giấy để nhìn theo con mẹ
khốn nạn. rồi khi thấy nó đã đi khuất, ông mới đưa mắt xuống chân, dịch chiếc
giầy ra một tý. và vẫn tự nhiên như không, ông cúi xuống thò tay, nhặt đồng hào
đôi sáng loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở đế giầy bám vào, rồi bỏ tọt vào túi.
hôm nay thì nó lả đi rồi. tai nó ù. mắt nó loá. nó nằm vật ở
lề đường. miệng nó há hốc ra mà thở.
bởi vì, cũng như hôm qua, và cũng như hôm kia, hôm kìa, nó đã
đi lang thang hết chỗ này đến chỗ nọ, mà chẳng kiếm được tí cháo lưng hồ.
nó?
nó là sự đói khát, kinh tởm, kết thành hình.
nó có cái sọ đếm được tóc. không biết một thứ bệnh gì hương hỏa
của cha mẹ đã làm cho cả da chỗ ấy nhẵn thín, bóng lộn, đỏ đòng đọc như cái mụn
đương loét, khiến tóc nó chỉ có thể mọc lơ thơ, như vầng cỏ trên tảng đá cằn.
nó có một cái mặt - mẹ ơi! không biết có gọi được là mặt
không đấy! - mặt gì mà mắt lại thế kia, và miệng lại vô dụng thế được. phải, mắt
đâu có thứ mắt xung quanh là một hình bầu dục, vẽ bằng vành thịt trơ đỏ lầy nhầy,
lúc nào cũng ứa ra một dòng nước vàng và giữa thì lờ đờ một hột nhãn, thứ hột
nhãn non choèn, vàng ễnh. còn cái miệng nó thì dô ra như miệng khỉ, hai hàm
răng to tướng, lúc nào cũng cầm cập hục hặc với nhau. nhưng thế không phải để
nhai, mà để run. vì trời rét.
những quần áo nó mang vào người chỉ có một mục đích là che
cho thân nó không kín. chắc là những thứ giẻ khươm mươi niên, người ta vứt đi,
vì bợt quá. nhưng nay nó buộc miếng nọ với miếng kia, díu mảnh này vào mảnh
khác, và vì dùng lâu ngày, nên cũng dày thêm bằng tầng mồ hôi, quện với ghét, và
bụi. Đố ai đếm nổi tất cả có bao nhiêu chỗ rách và những chỗ rách ấy hình gì. Đố
họa sĩ nào pha đúng được màu quần áo ấy - và nếu có cởi những thứ ấy ra, đem
treo lên cho công chúng đoán - đố ai dám nói đó là đồ mặc của người.
vậy thì, với bộ quần áo xơ mướp ấy, nó biến thành một cái bù
nhìn. bù nhìn là cái khung có hai tay và hai chân làm bằng ống tre, thì nó cũng
là cái khung có hai tay và hai chân chẳng to hơn mấy. bù nhìn có bộ mặt chẳng
thành hình, thì nó có bộ mặt cũng dúm dó, xấu xí như con ma dại.
nhưng bù nhìn chỉ làm cho chim chóc phải sợ hãi, nhưng nó thì
có thể làm cho người ta không dám đến gần. vì đến gần nó, trông thấy nước da
đen sạm, dăn deo của nó, người ta tưởng như đó là cái thây ma chưa tiêu hết hiện
về. và cũng có mùi hôi thối xông lên. và cũng có ruồi nhặng bám vào để hút chất
bẩn.
thật thế, một đống rác, chưa đáng sợ, đáng tởm bằng nó. vậy
mà nó phải đi hết chỗ này đến chỗ nọ, để kiếm cái nhét vào dạ dày.
Để nó sống.
vì nó chưa chết.
nó đã đi ăn mày. nhưng ai cũng đuổi nó quầy quầy. người ta
quen cho những người sạch sẽ, có nét mặt đáng thương, có quần áo còn dính đôi
chút mỹ thuật. người ta chỉ bố thí cho kẻ ăn xin "hạng nhất". còn nó,
nó đi đến đâu, người ta đóng cửa, người ta chửi, hoặc người ta mặc kệ cho chờ
chán thì phải cút.
cho nên nó phải làm lấy mà ăn. nó đến các chợ, vét những tí
bánh còn dính trên lá, và gậm những mẩu khoai vứt còng queo trên đất sạn. nó lạy
van đứa ăn xin khác bớt cho nó chút canh cặn cơm thừa.
nhưng mấy hôm, chỉ có ngần ấy thứ tọng vào bụng, nó sống làm
sao được? nó phải ăn đến thịt nó. bởi thế, nó gầy hơn, nó còm hơn, nó đét lại,
không đủ sức lê nổi tấm thân đã mòn. bởi thế, chân tay nó lúc nào cũng run rẩy
như cầy sấy, mắt nó giương to tướng, nhưng vẫn lờ đờ. nó không bệnh tật gì,
song nó ngây ngô như người ốm.
hôm nay thì nó lả đi rồi. tai nó ù. mắt nó loá. nó nằm vật ở
lề đường. miệng nó há hốc ra vì đói.
nó chỉ thèm được ăn.
bà ấy thì đến một tháng nay, cứ phải uống thuốc mãi.
Đầu tiên, ông đốc tờ tây đi ôtô đến nhà, đem đủ các thứ đồ
dùng để nghe ngực, thử máu. rồi ông bóp trán, kê cái đơn, mua mất ngót một chục
đồng bạc thuốc.
nhưng uống thuốc, mà bà ấy vẫn thấy thế, bà bỏ dở không dùng.
có người mách một bác sĩ người nam chữa bệnh giỏi lắm. bà ấy
cho mời liền. và cũng như bận trước, thuốc không công hiệu.
bà cho là thuốc tây không hợp với tạng bà. thuốc tây chỉ tài
về khoa cấp cứu. chứ bà phải dùng thuốc bắc. thuốc bắc, tuy hiệu nghiệm chậm,
nhưng khi đã ngấm vào trong tạng phủ người ta, thì nó chắc chắn lắm. nó hợp với
bà hơn.
bà bèn mời một ông lang ta. quả nhiên, ông lang cũng đồng ý với
bà, bảo rằng thuốc tây chữa người nam không được. vì nó chỉ làm để cho người
tây dùng. vả lại, đốc tờ chỉ hay dọa dẫm, động một tí là lao, là đau dạ dày, là
thương hàn, là đến một nghìn thứ bệnh nguy hiểm khác.
Ông lang rón hai ngón trên cổ tay bà, trầm ngâm. Ông lim dim
đôi mắt. rồi lúc tóm trúng bệnh, ông lấy bút giấy kê đơn lập tức. Ông hẹn uống
một chén, bà sẽ thấy khác ngay. uống đến ba chén, bà không còn một tí gì khó chịu
trong người nữa. lúc đó, chỉ cần dăm thang thuốc bổ, là bà lại khỏe mạnh như
thường.
bà cho người lên hiệu bào chế cân thuốc. bà yên trí thuốc có
nhiều vị đắt tất là hay. bà chẳng tiếc tiền, bỏ ra hơn năm đồng, đổi lấy một
bát nước sánh như mật.
nhưng nghe ngóng một hôm tròn, bà chẳng thấy bệnh chuyển. vẫn
thế.
kiên tâm, bà lại cân chén nữa. và chén nữa. nhưng bà lắc đầu,
chịu không thể tin được mấy ông lang ta chỉ khuyếch khoác cái mồm.
rồi bà mời đến ông thầy khách. thầy khoe nhà thầy đã ba đời
làm thuốc ở bên an nam. thầy nói tiếng an nam sõi như người an nam, tuy thầy đã
già và tứ đại đồng đường. nhìn bộ râu bạc dài dưới cằm thầy, con bệnh tín nhiệm
ngay. vậy mà thầy cần làm khách hàng tín nhiệm hơn, nên hết gièm pha thuốc tây,
đến chê bai các ông lang an nam. thầy rằng không ai biết gì hết. duy thầy mới
khiến nổi bệnh này.
thầy cũng xem mạch, và xem cẩn thận lắm. thầy hỏi vặn từng
tí, và sau hết, bảo bà cho người nhà theo về hiệu lấy thuốc. thầy cam đoan bà uống
thuốc này không phí tiền.
nhưng chán chưa! thuốc ấy cũng chẳng ăn thua gì cả.
lạ quá. bệnh gì lại có bệnh thuốc không trị nổi bao giờ!
bà ấy có bệnh gì?
không biết.
vì mấy ông thầy thuốc không ông nào nói rõ.
nguyên là bà ấy béo quá - gớm! béo đâu có béo lạ béo lùng thế!
- béo đến nỗi hai má chảy ra, cổ rụt lại. béo đến nỗi bụng sệ xuống. béo đến nỗi
trông phát ngấy lên!
mà bà ấy lại giàu nữa mới rầy rà chứ! nhà, bà ấy có hàng dãy ở
khắp các phố. ruộng, bà ấy có hàng trăm mẫu ở nhà quê. tiền, cạnh tường buồng
ngủ, cái két khổng lồ, lúc nào cũng chứa hàng tập giấy trăm lớn.
bà ấy có đủ điều kiện để sung sướng.
nhưng chỉ có một tí xíu mà trời chẳng chiều cho ai được hoàn
toàn. là bà ấy yếu dạ lắm.
bà ấy chỉ phiền về mỗi chỗ ấy.
thế mà hôm cuối tháng trước, một bà bạn mời bà ấy đến ăn cỗ
cưới con gái. bà ấy đã tính chối từ, song lại sợ bị trách.
cho nên bà ấy phải dằn lòng đến ngồi vào mâm cơm.
bà bạn gắp tiếp, ép ăn những bóng, những mực, những long tu,
những vây cá, và đến trăm thứ khác nữa.
nể bạn, bà ấy ngắc lên đến cổ. và lo quá, vì biết rằng xong bữa
cỗ này, rồi thế nào cũng có chuyện lôi thôi to đây.
quả nhiên, từ hôm ấy đến nay, bà ấy cứ thấy bình bịch cái bụng,
lúc nào cũng đầy đầy, không tiêu, khó chịu quá.
khổ thật! thuốc thang chịu, uống đến thế mà bà ấy không đói
cho!
bà ấy chỉ thèm ăn được.
tiểu thuyết thứ bảy số 245, 1939.
Năm 1926, nước to, đê vỡ tứ tung, nhân dân bêu rếch, khổ sở.
Nhất là khi nước đã rút rồi, trông cảnh tượng mới lại càng đáng ngậm ngùi nữa.
Cỏ tàn khắp cánh đồng xa,
Bên làng hoang huỷ mấy nhà lơ thơ,
Đầu đường mẹ bế con thơ,
Người tìm sang Bắc, kẻ đưa về Đoài.
Bởi thế, bác Lan luôn mấy tháng, nào nhà đổ, nào trâu chết,
nào đất bán, nào ruộng cầm. Gia tài tuy chẳng được là bao, nhưng đến cái cảnh
tai bay vạ gió mà sạch sành sanh, thì dẫu ông vua đời xưa mất nước, hay thằng
bé bây giờ mất tiền, cái tâm lý cũng đau đớn ngang nhau vậy.
Không những thế, vợ bác lại mới chết về bệnh dịch, để cho bác
một dứa con trai mới biết ngồi. Cái cảnh gà sống không còn mồi mà nuôi con mới
đáng đau lòng. Bác Lan thực là một thằng khốn nạn vậy.
Đêm hôm trước, bác ngồi nghĩ mà rớt nước mắt. Của chìm của nổi
đã không còn gì, nhịn cơm từ sáng nhường con đã lả cả dạ dày. Nếu mai cũng thế
này nữa, thì bố chết đói, con chết đói. Âu là trong nhà còn một thứ của nổi nữa,
đem bán nốt đi chăng?
Bác Lan nghĩ thế thì làm thế. Bác xin được cái thúng sứt cạp
bện đôi quang và chẻ cái đòn gánh. Sáng sớm, gánh thằng bé con đi. Một bên
quang là một tảng gạch để thăng bằng thúng hàng bên kia. Một bên quang là một
cái thúng đựng hàng. Trên cái thúng, tùm hum manh chiếu rách che hàng cho đỡ nắng.
Bác đi lang thang làng này, làng khác, qua chợ nọ, chợ kia.
Nhưng chỉ thấy có người xem, mà không thấy có người mua.
Bác Lan đói quá, mắt đã mờ. Thằng bé con trần truồng trong
thúng, nằm ngả ra, mồm miệng bê bết những dãi, mũi và vỏ khoai lang. Đi đường,
bác gặp toàn bọn khóc dở mếu dở như bác cả. An ủi nhau cũng chỉ có một câu:
- Này, bác đến nhà ông nghị Trinh, may ông ấy hiếm hoi, thì
ông ấy mua cho.
Đi lần mãi mấy làng, bác mới đến nhà ông nghị Trinh. Trời đã
sắp xẩm tối. Đứng ở cổng, trông vào trong nhà, bác thấy gạch tây đánh bóng lộn,
sập gụ, tủ chè, gương đứng, giường tây, thật có vẻ đỉnh chung sung sướng.
Bác Lan đánh liều gọi cổng. Anh bếp ở trong chạy ra:
- Nhờ cậu vào bẩm với ông bà rằng có người bán con đương ở cổng.
Cậu bếp hỏi han một vài điều ra dáng tử tế, săn sóc, nhanh nhẹn
lắm, rồi mới đi vào.
Bác Lan, vì cái đói khát cấp bách quá, nên tưởng tượng ngay độ
dăm phút nữa thì bụng sẽ được no đầy. Nhưng tưởng tượng thế là lầm. Độ một giờ
sau, bác thấy một người mặt mũi phương phi, cổ rụt, bụng phệ môi trề mà không
râu, mặc quần áo lụa, phe phấy cái quạt, ra vườn chơi.
Bác đoán là ông Nghị, bèn đánh tiếng. Thì quả là ông Nghị thực.
Vì nghe giọng nói hách dịch lắm:
- Sao không giật chuông gọi người nhà nó vào bẩm?
Bác Lan kể nỗi cơ cực, và ngỏ ý dạm bán đứa con. Ông Nghị
nhìn qua bác, nhìn qua đứa bé, rồi nói:
- ừ, để rồi tao nói chuyện với bà sẽ hay. Chờ đây, tao ra
ngay.
Nghe câu ấy, bác Lan tuy trong bụng lép kẹp, nhưng thấy như
được no một nửa vậy.
Hơn nửa giờ nữa, ông bà Nghị mới ra.
Bác Lan chào, rồi cũng những câu khi nãy, bác nói với bà Nghị.
Bà Nghị ra ý cảm động. Bà bế đứa con vào lòng, ngắm nghía mãi.
Ông Nghị thấy bà có vẻ vừa ý, bèn hỏi giá:
- Mày định bán bao nhiêu, nói cho thực.
- Bẩm tùy ông bà cho.
Người bán không nói giá, người mua không biết giá, thì làm thế
nào? Độc giả các ngài đánh giá hộ đi? Một người như chúng ta đấy, khéo nuôi,
khéo dạy, thì chưa biết chừng, vĩ nhân cũng nên đấy. Một trăm nhé! Hai trăm
nhé! Năm trăm nhé!
Ông Nghị thấy bác Lan lưỡng lự, không muốn nói giá, thì đương
ngồi xổm ở trước cái thúng, bỗng ông đứng phắt dậy:
- Đáng lẽ anh cho không tôi, tôi cũng không lấy, vì tôi phải
nuôi nó cho anh. Nhưng thôi, việc phúc đức, tôi cho anh ba hào, cầm lấy!
Vừa nói, ông vừa móc túi lấy tiền đưa. Bác Lan gãi tai thở
dài. Có lẽ không ngờ đâu cái giá trị một thằng bé con có thế mà thôi.
- Thưa ông...
- Tôi không nói lôi thôi. Ông với ênh gì! Tôi không quen mặc
cả. Ba hào không bán thì thôi!
Nói xong ông quay lưng vào, gọi bà đi, và đóng cổng lại.
Bác Lan vơ vẩn nghĩ ngợi mãi. Chờ mãi cũng không thấy có người
ra trả thêm xu nào.
Nửa giờ sau, bác không thể nào nhịn nổi được cái dạ dạy rỗng
tuếch từ hôm trước. Thôi thì ba hào thì ba. Con mình được chỗ ấm no nương tựa,
còn hơn là bố con bêu rếch, xó chợ đầu đường. Nghĩ vậy, bác giật chuông. Một
lát, ông Nghị ra.
- Thế nào? Anh có định bán như thế không mà gọi?
- Thôi, lạy ông, ông thương phận nào, con nhờ phận ấy.
- Thương là thế nào! Nói cho dứt khoát. Bằng lòng bán ba hào không?
Bác Lan mỉm miệng, gượng cười một cách rất chua chát:
- Vâng!
Ông Nghị đưa bác vào trong nhà. Làm giấy má xong, ông còn xem
xét đứa bé rất kỹ càng. Khi thấy sau lưng nó có nhiều nốt ruồi quá, thì ông có
ý không bằng lòng, chê bai mãi rằng xấu. Xấu thì phải bớt tiền. Cho nên khi trả,
ông không cho bác cả ba hào, mà phạt hai xu nốt ruồi!
Bác Lan lạy van mãi. Nhưng bác nghĩ, nếu cố nằn nì hai xu,
thì chưa chắc đã được, mà không khéo thì bị trả tiền lại. Nghĩ nực cười, mình
đã khốn nạn, lại gặp phải một thằng khốn nạn hơn, thì thôi, chịu cầm hai hào
tám vậy.
Bác bế đứa con lần cuối cùng, hôn hít, dặn dò mãi, mới dứt.
Khi ra ngoài cổng, bác đi không nỡ, tình cha con vướng vít, bác nghĩ muốn trả lại
hai hào tám mà lấy con về.
Bác đứng lại, quay nhìn trong nhà ông Nghị, thì thấy kẻ bưng
chậu nước, người lấy xà phòng, người tìm khăn mặt. Bà Nghị thì tự tay tắm cho đứa
bé, ra dáng âu yếm, nâng niu. Bác nhìn mà cũng hả tấm lòng, nỗi đau đớn cũng
như tiêu tan vậy.
Còn ông Nghị, hai mắt vẫn nhìn cái lưng nốt ruồi, nét mặt còn
như tiếc món tiền tiêu vô ích khi nãy. Một chốc, ông ra ý hối hận, nói với vợ:
- Bà ạ, hoài của, giá bớt hẳn năm xu, nó cũng phải chịu.
- Sao ông nghiệt thế! Tiền hàng vạn lo nghị viên không tiếc,
mà mấy xu này lại tiếc hay sao?
Ông Nghị đang tức hơi, phát gắt mà rằng:
- Tiêu những món đáng tiêu thì còn tiếc cái gì! Thằng bếp
đâu! Mày chạy đi tìm thằng bán con ban nãy, bảo nó giả tiền tao mà lấy lại con
lập tức!
Bác Lan giật nẩy mình, co cẳng, ù té chạy bán sống bán chết,
vừa chạy vừa đếm:
- Một, hai. Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám...
Viết 7-6-1930
Annam tạp chí số 12; 1930
Các ngài thích xem hát bội, hẳn chẳng ai là không biết tên
Kép Tư Bền. Ấy anh ta chỉ nổi tiếng về cái tài bông lơn, lắm lúc ra sân khấu,
chẳng cần nói một câu khôi hài nào, nhưng chỉ nhìn một cái điệu bộ cỏn con của
anh ta, các khán quan cũng đủ phải ôm bụng mà cười, vỗ tay đôm đốp.
Anh ta ở Sài Gòn ra hát ở Hà Nội đã ba năm nay. Vì anh ta có
tài riêng mà tính lại thích tự do, nên anh chẳng chịu làm chuyên cho một rạp
nào. Nhưng hễ rạp nào khéo dùng anh một độ, là cũng đông khách. Cho nên, tối
nào bà con Hà thành đọc chương trình hay xem báo, thấy kép Tư Bền đóng vai giễu
là cũng nô nức đi xem. Lắm người đến chậm, phải mang tiền về không, phàn nàn rằng
rạp chật quá!
Cho nên những tối hát có anh giúp, thì các hý viện đều trưng
lên là buổi hát đặc biệt.
Nhưng đã hơn một tháng nay, anh không diễn ở đâu cả. Vì đã
hơn một tháng nay, cha anh ta ốm. Đã hơn một tháng nay, lúc nào trong cái gác tối
om ở gian nhà ngay đầu ngõ Sầm Công, cái tiếng rền rĩ của ông cụ cũng hòa lẫn với
tiếng rầu rĩ của siêu thuốc mà làm anh Tư Bền phải rầu gan nát ruột, chẳng thiết
đến sự làm ăn. Bệnh cha anh càng ngày càng nặng, thuốc thang chữa chạy, nào anh
có quản ngại gì. Nhưng cái số tiền để dành của một vai kép dần dần cũng đi bài
tẩu mã, đến nỗi anh phải đi vay trước của các ông chủ rạp hát ít nhiều.
Một hôm, ông chủ rạp Kịch trường đến nhà anh ta chơi. Sau một
vài câu hỏi thăm chiếu lệ, ông ta nghiêm sắc mặt, nhắc đến món nợ:
- Sao? Cái số tiền đó, cậu đã có để trả tôi chưa?
- Thưa ngài, xin ngài hãy thư cho ít bữa, khi nào thư thả,
tôi sẽ đi làm và nộp sau.
Ông chủ bĩu môi, nói:
- Thôi, biết bao lần rồi! Cậu không trả, tôi sẽ đem ra tòa
đó.
Anh Tư Bền cười lạt cho xong chuyện, nhưng lại thấy ông chủ
ngọt ngào dỗ:
Bấy lâu cậu nghỉ hát ở các rạp, khách nhắc nhở luôn đấy. Vậy
cậu liệu liệu mà đi làm ăn chứ?
- Vâng, tôi định thế...
- Tôi mới nhờ một nhà văn sĩ đại danh soạn cho một vở hài kịch
theo lối tuồng cổ. Vậy cậu ra giúp tôi vai chính. Vì phi cậu, không còn ai xứng
đáng.
- Diễn vở mới thì phải học, thưa ngài?
- Phải, phải học và tập diễn trong độ nửa tháng.
- Trong nửa tháng! Chà!
Anh Tư Bền nhắc lại ba tiếng đó, nhưng trong anh lẩn vẩn nghĩ
ngợi biết bao nhiêu điều: Trong nửa tháng, trong mười lăm hôm trời, mỗi ngày
anh phải xa cách cha mấy tiếng đồng hồ để đi học diễn. Cha anh ốm. Trong khi
anh vắng nhà, ai trông nom săn sóc thay anh? Nghĩ vậy anh đáp phắt:
- Thôi, xin lỗi ông, tôi bận quá mà!
Rồi anh trỏ vào màn và nói tiếp:
- Cha tôi yếu, tôi phải ở nhà.
Lúc ấy, ở trên giường bệnh, ông cụ ho sù sụ, rồi thò tay ra
cái ghế đẩu kê cạnh, để với lấy cái ống nhổ. Nhưng lật bật cầm không vững, cụ
đánh rơi ngay xuống sàn gác, đờm rãi nổi lềnh bềnh.
Anh Tư Bền giật mình, chạy lại đỡ cha:
- Sao ông không gọi con?
Rồi anh đỡ lấy chổi quét chỗ nước lênh láng đi, đoạn nét mặt
rầu rầu, anh nói.
- Đó, ông coi, vắng tôi sao đặng.
- Không, cậu cứ nhận lời giúp tôi, tôi sẽ sai người đến trông
nom hộ cậu.
- Đa tạ ông, nhưng tôi không yên tâm.
Lúc ấy, trong màn có tiếng keng keng của chiếc đũa đập vào
bát sứ. Đó là hiệu gọi. Anh Tư Bền lật đật chạy lại gần cha. Giọng khàn khàn của
ông cụ sai anh rót chén nước.
Nhân muốn gây cảm tình, ông chủ rạp Kịch trường lại gần giường,
mở màn, rồi hỏi:
- Chào cụ, cụ có biết tôi là ai không.
Ông già giương hai mắt lên. Rồi như đã nhận biết, bèn nhăn bộ
răng ra cười, cái cười khó đăm đăm, và gật gật mấy cái, rồi run lẩy bẩy, giơ
tay ra bắt.
Các ngài đừng tưởng rằng ông cụ quen gọi lối tây, nên mới bắt
tay đâu. Đến phải nhăn bộ răng ra cười còn là sự bất đắc dĩ nữa là. Nay sở dĩ
ông cụ phải bắt tay, vì là tiếp khách theo lối lịch sự của những người mà con
mình có nhờ vả.
- Cụ cũng không yếu lắm nhỉ. Sao cậu Tư Bền không nhận lời
cho tôi?
Ông cụ hất hàm, có ý hỏi.
- Tôi sắp cho tập vở mới, định nhờ cậu ấy sắm vai chính.
Ông cụ lại nhăn răng ra cười và gật, nhưng anh Tư Bền nói
ngay với cha.
- Ông mệt lắm, con phải ở nhà.
Ông cụ cau mặt. Chỉ có anh Tư Bền hiểu. Bởi vì ông cụ chẳng
muốn vì mình mà con làm trái lòng người chủ nợ. Ông chủ dỗ dành, nói:
- Cậu cứ giúp tôi đi. Cậu mà nhận lời, thì món tiền ấy, cậu để
đến bao giờ cũng được. Còn tiền hỏa hồng khi diễn tấn "Ông huyện ba phải"
này, cậu cứ lấy cả để thuốc thang cho ông cụ.
Cái sức làm cho anh kép Tư Bền có thể nghĩ đến sự bỏ cha ốm một
mình là ở câu nói ấy. Mà cha anh cũng vì câu nói ấy mà nở nang cả lồng xương ngực.
Ông cụ cố thở mạnh mấy cái cho khoan khoái trong lòng.
- Cậu nghĩ sao?
- Nhưng nửa tháng trời! Ai trông nom cho cha tôi?
- à, thôi, thế này thì cậu bằng lòng nhé. Cậu cứ ở nhà mà học
vở. Đến hôm diễn thử lần cuối, cậu hãy đến rạp cũng được. Vì tôi biết cậu thông
minh và có tài hơn người khác. Tội chi, có dịp trổ tài, vả lại để cho thiên hạ
nhớ mong lâu cũng không tiện!
Nghe câu nói sau cùng như được ăn miếng bánh thánh, anh Tư Bền
có vẻ nghĩ ngợi. Anh nhìn cha. Ông cụ thấy con còn ngần ngừ, thì lộ ra vẻ không
bằng lòng. Cụ nhăn mặt, cố cất lên cái tiếng khàn khàn để gắt:
- Nhận lời đi!
Nói xong, lại ho sù sụ.
Anh Tư Bền cảm động, nhìn ông chủ rạp Kịch trường và trả lời.
- Vâng!
Ông chủ vì chờ cái tiếng vâng này mất nhiều công quá, nên sợ
nó không được chắc chắn. Đến hôm diễn, mà cha anh Tư Bền có làm sao, anh cứ vắng
mặt ở rạp hát, thì lỡ bét. Ông bắt anh làm giấy giao kèo.
Bà con sính xem hát, hôm đó thấy ôtô quảng cáo chạy rong khắp
phố để thả chương trình, và vải căng ở các ngã tư, đều nô nức rủ nhau đi xem buổi
biểu diễn đặc biệt, có Tư Bền sắm vai chính.
Tối đến, cửa rạp Kịch trường đèn thắp sáng trưng như ban
ngày, chiếu rõ cái cảnh người đứng lô nhô như luống hoa trăm hồng ngàn tía, bướm
ong chờn vờn. Trên thềm, dưới bậc, giữa đường, non nghìn thiếu niên nam nữ túm
tụm lại, tìm chỗ để đứng ngắm nhau cho đỡ nóng ruột lúc chờ đợi. Tiếng nhạc hòa
trong rạp, du dương trầm bổng, chứa chan biết bao tình tứ ái ân, như câu, như
kéo, làm cho người ta quên hẳn, mà bất giác moi túi lấy tiền mua vé.
Rồi cái làn sóng người dần dà tràn vào trong. Trên các hàng
ghế, chỗ nọ nhắc lại câu bông lơn của kép Tư Bền, chỗ kia bắt chước điệu bộ của
kép Tư Bền. Ai nấy đều nóng ruột sốt lòng, mong cho chóng đến giờ mở màn sân khấu,
để được cười, được vỗ tay, được học thêm vào lối pha trò mới, để mai làm nhếch
mép người yêu.
Vinh dự thay, anh kép Tư Bền! Nhưng mà khốn nạn thân anh! Người
ta biết đâu rằng hiện giờ này, ở nhà, cha anh đương dở chứng khò khè, chỉ chờ từng
phút để thở một hai hơi nữa là hết nợ, và ở trong buồng trò, anh cũng đương nẫu
ruột nhầu gan. Thật vậy, ai ngó vào trong buồng trò mới thấy được cái khổ tâm của
anh Tư Bền. Anh ngồi ủ rũ trước cái gương, bụng thì rối beng, mặt thì nhăn nhó,
nhưng tay vẫn phải sờ vào hộp phấn hồng để đánh mặt, quệt vào đĩa mực để bôi nhọ
cái mồm. Rồi anh phải mặc trái cái áo lụng thụng thêu, lận đôi hia xanh và đội
cái cánh mũ chuồn ngược. Anh đóng vai này, trông ra phết giàu sang sung sướng.
Chốc nữa, anh còn phải làm cho chủ anh bằng lòng, các bạn anh trông anh mà gắng
sức, các khán quan được một phen cười vỡ bụng vỗ rát tay kia mà! Nhưng mà cha
anh Tư Bền sắp chết! Ban nãy lúc anh ở nhà ra đi, đã thấy nguy lắm rồi. Thôi!
nhưng mà mặc kệ. Anh phải quên đi, mà bông, mà đùa, mà pha trò trên sân khấu,
cho chúng tôi cười, hét lên mà cười, cười đến nỗi lăn ra cả đất chứ?
Một hồi chuông vừa dứt, màn kéo lên. Một tràng vỗ tay đôm đốp
như pháo nổ để hoan nghênh ông chúa khôi hài. Anh Tư Bền lững thững bước ra,
cúi đầu chào, rồi đứng thần người ra như phỗng một lúc. Tiếng reo, tiếng hò, tiếng
vỗ tay lại làm dữ hơn trước! Mà khách quan thấy anh ăn mặc ngộ nghĩnh, cái mồm
bôi nhọ nhem, thì ai nhịn cười được! Càng thấy anh đứng yên, họ càng được ngắm,
và cho là anh muốn pha trò như thế, nên càng cười già! ác thật! Vai anh Tư Bền
hôm ấy cứ phải đứng trên sâu khấu. Nhất là anh phải làm nhiều điệu bộ hơn mọi
khi. Lắm lúc còn phải rặn ra mà cười ha hả!
Hết cảnh đầu. Sao mà lâu thế! Anh được nghỉ một chốc, mới nhờ
người về xem tình hình cha anh ra làm sao. Rồi anh lại phải ra trò. Anh lại phải
hò, phải hét phải dằn từng tiếng, phải ngân từng câu, phải làm những điệu bộ,
phải cười ha hả như cảnh thứ nhất. Người xem hát thì cứ trông thấy anh là cũng
đủ cười rồi. Nào họ có để ý và nhìn rõ đâu được cái vẻ lo âu của anh, nó hiện
ra ở trước mắt. Bỗng khi anh đương phệnh phạo trên sân khấu, khi người ta đương
vỗ tay đôm đốp, thì anh nghe thấy có người ở trong phòng nói ra:
- Nguy hơn ban nãy. Đã cấm khẩu rồi!
Cha anh cấm khẩu rồi! Đành vậy, nhưng chính là bây giờ mới
nhiều cái vui trò. Khán giả dưới kia, hàng mấy nghìn con mắt, đương chăm chắm
vào anh và im phăng phắc. Họ chỉ chờ anh há miệng là họ được lăn ra mà cười và
vỗ tay mà thôi.
Cảnh thứ hai cũng lâu như cảnh đầu, mãi mới hết. Lúc anh đang
ngồi thừ trong buồng trò, thì anh lại nhận được tin báo nữa, là hiện nay cha
anh đã mê đặc, chân tay lạnh cả rồi.
Còn gì đau đớn hơn cái tin ấy nữa! Anh Tư Bền bỗng ứa hai
hàng nước mắt, rồi khóc nức nở:
- Cha ơi!
Ông chủ thấy vậy, sợ quá. Anh mà bỏ dở vở kịch đương vui thì
nguy. Ông cố khuyên giải, và cấm không ai được báo tin gì cho anh biết hết.
Sân khấu bài trí đã gần xong. Ông chủ bắt anh đánh lại tý phấn
cho thêm xuân sắc, và sửa lại bộ áo mũ cho có vẻ ngộ nghĩnh hơn. Ông thấy anh vừa
dắt lại dải áo, vừa sụt sịt mếu máo, thì bắt anh im đi, chùi nước mắt. Rồi ông
đẩy anh ra sân khấu. Anh lại phải hò, hét, ngâm, cười, múa, nhảy, để mua gượng
lấy những tràng vỗ tay. Cái cảnh thương tâm của anh Tư Bền, đi đôi với cái bông
lơn, cứ diễn ra mãi, mỗi chốc lại càng thương tâm hơn lên. Mà càng thấy vắng bặt
tin nhà, ruột anh càng nhàu như dưa, xót như muối.
Cái cảnh cuối cùng mà anh cho là lâu tới, thì khán giả cho
anh là chóng quá. Cho nên khi sắp hạ màn, anh cúi chào, thì cả rạp vỗ tay đôm đốp
thật dài, dài mãi. Anh tưởng phen này quyết hết nợ, quyết được về cạnh giường bệnh
của cha để nhìn mặt cha một lượt sau cùng trước khi tắt nghỉ, thì ở hàng ghế hạng
nhất, người ta kêu ầm:
- Bis! Bis! (1)
Ông chủ rạp lại cho kéo màn lên. Anh Tư Bền lại phải giấu bộ
mặt rầu rầu mà anh thích - vì nó hợp với tâm lý anh hơn, - để vui vẻ mà diễn lại
đoạn cuối lượt nữa.
Rồi khi bài kèn chào nổi lên, hồi vỗ tay sau cùng như làm vỡ
rạp. Cái màn từ từ buông xuống. Anh cúi đầu thong thả chào. Nhưng bao nhiêu người,
chẳng để chậm thì giờ, đã tranh nhau chạy lên gần anh. Người thì tặng hoa, người
thì bắt tay, người thì véo mũi, người thì khen. Làm cho anh ruột càng như thiêu
đốt.
Khi không còn phải thở dài để hoan nghênh những cái hoan
nghênh của công chúng, anh Tư Bền mới lật đật chạy vào buồng trò, cởi vội mũ áo
và rửa quàng mặt mũi.
Lúc ấy, trong khi anh đang rối beng nghĩ đến cha anh, không
biết bây giờ đã lạnh tới đâu, thì một người bạn hát chạy đến, vội vã ấn vào tay
anh tập giấy bạc của ông chủ để sẵn cho anh, và nói:
- Mau mà về. Anh Tư! Hỏng từ ban nãy mất rồi! Khốn nạn thân
anh quá!
1933
Chú thích
(1) Diễn lần nữa .
làng tôi bây giờ sở dĩ được yên ổn, là nhờ lòng can đảm,
nghĩa hiệp của anh cu bản, đã liều mình khám phá ra cái tổ trộm cướp ở cánh rừng
thông.
sáu tháng về trước, luôn một dạo, những lúc đêm khuya, tĩnh mịch,
không có trăng, ít người dám đưa mắt ra ngoài sân tối mịt. nghe ngọn gió rít
qua khe liếp cũng đủ trợn! hễ có tiếng chó rồ lên sủa khan ở xóm bờ sông, là
ngay từ đứa bé lên hai cũng biết giật mình. nó khóc thét lên, ôm chầm lấy mẹ...
mẹ nó vỗ, xoa, ru khe khẽ để lắng tai nghe. rồi nếu một hồi tù và dậy lên, thì
ông già vặn to ngọn đèn hoa kỳ, ngồi nhổm dậy, húng hắng ho, hoặc hút thuốc
lào, cho đỡ vẻ lặng lẽ.
nhưng bỗng vẳng nghe ở đâu kêu cướp, rồi trống đánh liên
thanh, tiếng khóc như ri, tù và rúc, chó sủa lạc tiếng, liền liền nhau từ làng
này đến làng khác, dài hàng mấy cây số, thì người cứng bóng vía đến đâu cũng phải
lạnh run lên, đánh thức cả nhau dậy, ngồi đến suốt sáng.
mười tối thì đến bốn năm tối kinh khủng như thế. mà bọn cướp
rất tài, ban ngày chúng khéo lẩn lút trong cánh rừng thông. các nhà chuyên
trách mấy lần cho lính vào sục cũng không bắt được.
lúc ấy, vào khoảng bốn giờ chiều. chị cu bản đương ngồi nhặt
rau trong bếp, thì chồng về. nét mặt hăm hở, anh nói:
- này u nó, quan đã cắt tôi rồi.
chị ngơ ngác:
- cắt gì?
- cắt đi bắt tổ cướp rừng thông?
xám ngắt mặt, chị gắt:
- quan bắt thầy nó vào chỗ chết mà cũng nghe à?
anh cu vênh mặt, kiêu căng, đáp:
- chỉ nói dại! việc gì mà chết. chính tôi tình nguyện với
quan để xin đi!
chị cu oà lên khóc:
- thầy nó nỡ bỏ mẹ con tôi chết đói hay sao? khổ quá! tôi biết
trông cậy vào ai được? thầy nó đừng đi!
ba đứa bé, ngơ ngác nhìn cha mẹ, cũng oà lên khóc.
anh cu cảm động, an ủi vợ:
- u nó cứ yên lòng. thế nào sáng mai tôi cũng về. nếu tôi
không ra tay, rồi quân cướp cứ nhũng nhiễu mãi, vùng này còn ai làm ăn gì được!
- Đành vậy, nhưng lỡ ra...
- thì cũng đành chứ sao? tôi làm việc ích cho mọi người mà u
nó cũng cứ ngăn cản.
- làm ích cho nhà giàu, chứ những hạng như mình thì lo gì bị
cướp? tôi chỉ sợ lỡ ra, thì một nách ba con mọn, tôi biết làm thế nào?
- u mày đừng dở hơi! việc gì mà lo xa như thế? tôi sẽ được
thưởng. quan hứa rồi. nếu thành công, ta không phải vất vả như thế này nữa.
- thôi, tôi van thầy nó đừng dại dột. tôi không để cho thầy
nó đi đâu.
anh cu quắc mắt, nói:
- việc quan nào phải việc trẻ con! u nó không được nói thế.
chị cu lại oà lên khóc, túm chặt lấy áo chồng. anh cu giằng
ra, mắng:
- u nó không được giữ. quan và lính chờ tôi ngoài đình kia. Để
tôi đi, kẻo chậm.
- không! không đi! thầy nó hãy ăn cơm đã, vội gì.
- không cần. Đã có cơm của quan. tôi phải đi ngay bây giờ mới
kịp.
nói đoạn anh cu nhất định dứt áo ra đi. anh ôm ba con vào
lòng, xoa đầu, dặn dò mấy câu, rồi ra cổng. chị cu bế con, khóc lóc theo chồng.
nhưng vẫn thản nhiên, anh cu coi nhẹ nghĩa vợ chồng, tình cha con. Đến đầu
làng, anh rỉ tai nói với khán thủ kéo chị cu trở lại.
sự thành công của anh cu bản đã làm cho vợ anh goá chồng! Đêm
hôm đó, nhờ anh can đảm, quân cướp lũ lượt bị giải lên huyện. nhưng anh cu bản
bị bỏ mạng. thương thay!
từ bấy giờ, trên đầu chị một tấm khăn tang, kẽ nách chị ba mụn
con mọn. Đoạn trường lắm lúc nghĩ mà buồn tênh...
cả làng ai cũng ái ngại cho chị cu bản và ngậm ngùi thương hại
con người trọng nghĩa mà khinh thân.
bọn nhà giàu được ăn no ngủ yên. họ mổ gà mổ chó ăn mừng. họ
khen quan huyện tốt với dân, biết hy sinh một người để cứu nhiều người. họ xui
chị cu bản bế cả ba đứa con lên kêu quan phụ mẫu thương đến tình cảnh nheo nhóc
của chị mà cho một món tiền bồi thường.
quan huyện rất tử tế. ngài nói:
- nhà chị không phải kêu, bổn phận ta là phải bẩm lên quan
trên xét đến người có công. cứ về mà chờ đợi ít lâu. rồi chị sẽ không phải phàn
nàn về sự ân thưởng đích đáng của chồng chị.
Ôm tấm mong mỏi, chị cu bản vui vẻ về nhà, kể chuyện cho mọi
người nghe. ai cũng có bụng mừng thay cho chị.
thường khi làm ăn vất vả, được bữa nay, lo bữa mai, chị lại
nhớ thương chồng. nhưng chị lấy ngay cái hy vọng ra để tự an ủi. nếu được thưởng,
chị dùng món tiền để sinh lợi, thì chắc được đủ ăn suốt đời.
năm hôm, mười hôm. cái trò mong vẫn hay thấy lâu. chứ chị biết
đâu lá đơn của chị còn phải qua tòa này sở nọ, có khi nó đi chậm và hay nghỉ
như ông cụ già.
rồi nửa tháng, lại một tháng. chị cu bản càng ngày càng quẫn
bách. cơm chẳng đủ nuôi con. nhà dột, không ai giọi hộ. sân rêu, cỏ mọc, chị chẳng
có lúc nào sửa sang. mấy đứa bé bêu rếch. nhưng biết làm thế nào? nếu chị ở nhà
trông nom chúng, thì ai đi làm lụng kiếm miếng cho mà ăn? giá chúng lớn, độ lên
bảy lên tám cả, thì chị đã cho một đứa đi ở, để đỡ phải nuôi. khốn nhưng thằng
lớn mới lên năm tuổi.
rồi nữa, một tháng, hai tháng. người ta thấy chị cu bản rách
rưới. không ai không phàn nàn cho chị. mặt mũi chị hốc hác, đen đủi, xấu xa.
người ta hỏi thăm, chị đều trả lời:
- nay mai, tôi sẽ có món tiền thưởng.
thưởng. cái đó không thể không có. chắc lắm rồi. quan đã hứa
thế. nhưng hôm nay chị chưa có gì cả. chị nóng ruột. khổ. nhưng, nhất định chị
chờ cái tương lai.
ở ngoài, họ đồn chán lên đấy. có người mong chị được thưởng một
nghìn bạc. có người đoán chị được lương ăn suốt đời. có người ở xa, lại nói dựng
đứng ngay rằng đã gặp chị lên tỉnh lĩnh hai nghìn ở kho bạc.
nhưng sự thực chửa có thế. sự thực thì chị cu bản vẫn tự an ủi
bằng cái hy vọng những khi đầu tắt mặt tối, và khóc thầm những lúc nhà vắng đêm
khuya. chị nhớ lại hôm chồng hăm hở đưa quan lính vào chỗ tổ cướp. chị nhớ lại
lúc trông thấy xác chồng nằm co ro trên vũng máu để tự nhiên chị thành góa bụa,
với ba mụn cơn thơ. chị đau đớn. nhưng chợt chị nghĩ đến lời quan huyện hứa, quả
quyết sẽ được bồi thường về công của chồng chị. trời ơi, bao giờ nhỉ? bao giờ
cái đói, cái rách, cái khốn quẫn nó tha cho chị mà đừng dọa nạt chị nhỉ? bỗng
chị nhìn lên vách. thấy bóng chiếc khăn ngang, chị cảm động, thút thít khóc.
Một hôm, chị cu bản hăm hở chạy sang nhà tôi. tôi không thấy
tay chị cầm chiếc rá. mặt chị cũng không nhăn nhó như mọi khi. chị giơ tờ giấy
có dấu son đỏ loè, nhờ tôi xem hộ, và hỏi:
- Ông lý đưa tôi tờ sức, nói rằng quan bảo tôi đi lĩnh thưởng
phải không?
Tôi mừng thầm cho chị. chị lại hỏi:
- Có phải không? bao nhiêu, hở cậu?
xem xong, tôi nhìn chị, rồi khẽ đáp:
- Phải, thưởng, anh ấy được truy tặng cửu phẩm bá hộ, chị ạ.
- Chứ không phải tiền à?
- Không!
Bỗng chị cu bản xám mặt lại. chị run bắn lên, rồi mếu máo
khóc. chị giật lấy tờ giấy, chạy ù ra cổng, quên đứt rằng đáng lẽ chị phải vui
vẻ cho chồng chị ở chín suối được ngậm cười.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét