Thứ Tư, 14 tháng 8, 2019

Truyện hai người - Vũ Bằng

Truyện hai người - Vũ Bằng
Lời tác giả
Nếu người ta muốn tìm ở truyện này một truyện gì, tôi xin nói ngay truyện này không có truyện gì cả.
Bạn đọc xem hết, sẽ thấy nó thường lắm, bởi vì nó xảy ra luôn và còn cứ xảy ra mãi mãi.
Nhưng cái đó không quan hệ.
Cái quan hệ là nhân vật. Trong rừng cây, không có hai cái lá giống nhau, thì trong rừng người, làm sao mà lại có hai người giống nhau cho được?
Vậy, cái khó của một nhà văn, phải đâu là chụp lại nhân vật để các bạn khác cùng xem. Tôi nghĩ nếu công việc của nhà văn có khó thì chính ở chỗ «sáng tạo» ra nhân vật vậy.
Hai người. Hai người trong truyện này là hai kẻ bị đọa đày. Linh hồn họ đau đớn, họ là những người đáng thương. Sự đau khổ nâng cao họ gần trời.
Những người thực cao thượng đều phải thấy một cái buồn mênh mông trên trái đất.
Vũ Bằng
Chương I
Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Kéo cái chăn chiên lên cổ, y lắng nghe cái đêm khuya rơi não nùng ở một góc vườn. Hoa rụng, gió gào. Trời sầu thảm tựa một linh hồn đau khổ. Những hạt mưa hình như mang lại những lời trối trăn cuối cùng của cây cỏ và phố xá. Không có một tiếng rao.
Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Y vò võ nằm thu hình ở trong một cái buồng con. Bóng tối đầy thăm thẳm. Ngủ được thì thực tốt. Nhưng y không ngủ được, và y nghe thấy những tiếng động chung quanh cuộc đời của y. Y nằm cái giường của y và y nghe những tiếng động ấy, y ở cái gác của y và y nghĩ miên man đến đời của y.
Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Ấy chính lúc âấ, y thấy hai mươi tuổi của y tiến lại trước mặt y. tại sao? Y không phải là một người ốm quay lại nhìn dĩ vãng. Nhưng mà những hạt mưa kêu lên như một linh hồn bị xiềng xích và những tiếng kêu ấy đã làm những tiếng kêu của y thức dậy. Người ta có thể bảo rằng đời người sắp xảy ra một cái nạn gì đây. Y thấy cái tuổi hai mươi của y đến ở giữa tấm lòng giá lạnh và y buồn, bởi vì hai mươi năm mà y đã trải qua không phải là hai mươi năm y ước định. Không, cái đời của y, y định nó khác lắm, chứ có đâu như thế này...
Lúc mười tám tuổi, y nghĩ: Đến hai mươi tuổi ta sẽ lập thân ta. Ta không biết rồi ta làm gì, nhưng ta biết chắc là ta làm nên to lắm bởi vì ta theo học đến tú tài mà bất cứ về môn nào ta cũng đứng hạng nhì, ba cả.
Đến mười chín tuổi, y có những ý muốn rõ ràng hơn: Hai mươi tuổi, ta sẽ đổ tú tài, ta vào học thuốc, và sau dăm bảy năm theo học, người ta sẽ thấy ta đi lại ở trong tỉnh như một bức tranh nhân đạo. Nhưng chỉ ít lâu sau, y lại đổi ý kiến ngay bởi những ông bác sĩ có cái trách nhiệm nặng nề quá và chỉ vô ý một chút cũng có thể làm chết người được như chơi. Lại nữa, y có một người bạn học ở ban văn chương tìm đủ lý lẽ để cho y hiểu rằng học luật và học thuốc đều không làm gì được cả. Y bèn sang học ban văn chương và ra công khảo về Boileau, về Rouseau, vêềGoethe. Văn chương có thể đưa người ta đến tất cả các nghề: nghề dạy học, nghề thư ký, nghề tham biện, và không ngăn cấm ta làm báo, làm họa sĩ, làm giáo sư âm nhạc. Những học trò tú tài ban văn chương đi riễu trong một cánh đồng đầy mộng và chứa chan hy vọng.
Y chứa chan hy vọng quá thành thử những cái thích của y không bờ bến. Nhưng mà đêm nay …
Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được …
Tâm hồn y rung động những tiếng vang lạnh lẽo. Từ những sự rầu lòng đến hy vọng, đó là những năm tháng bị giam hãm ở bốn bức tường trường học nó kêu rên, nó đi lại, nó kể lễ những hình phạt của những ông giám thị, nó nhắc nhở một quãng đời bó buộc và buồn rầu, nó đem diễn lại những buổi chiều ngồi ngủ gật trong «ê – tuýt». ( Tiếng Pháp Étude = nơi học tập )
Ngọn đèn hoa kỳ để ở trên bàn ngủ của người trẻ tuổi chiếu một thứ ánh sáng não nùng. Người ta thấy những quyển sách viết trong bốn năm học Bưởi của y. Gió đập cửa thình thình, mưa rào rào xuống như một người khóc không bao giờ nín. Y tưởng như nghe thấy từng bài thơ của Villon, vủa Chénier, của Lamennais.
Y nhớ lại cả những giờ toán pháp.
Nằm nghe gió thỉnh thoảng rít lên, y lại tưởng như nghe thấy những chữ X,Y,Z vậy. Những chữ x,y,z ấy ở trong những bài kỷ hà học của y:
thấy chúng là những kẻ khốn nạn làm ăn vất vả quá, đến tận lúc chết có lẽ cũng không được nghỉ.
Việc ấy như thế này: Hồi đó, y vừa mới lên năm thứ ba. Ông cụ sanh ra y làm chánh tổng ở một làng ở Hải Dương. Một hôm, nhân dịp được nghỉ lễ, y về quê thăm nhà, và ông bố cưỡi con ngựa đèo con đi sang làng bên cạnh để khoe con mình học ở trường Cao Đẳng trên Hà Nội về chơi. Bất ngờ đến một con dốc kia, con ngựa ngã. Hai bố con văng mỗi người một nơi. Ông cụ nói:
- Hải ơi, con đã thấy chưa? Thầy độ này suy lắm. Gân cốt kém, mắt mũi cũng kém, thế mà con chẳng biết thương thầy, Hải ạ! Thầy cặm cụi một sương hai nắng để gửi con lên học ở Hà Thành, thầy cho con cái vốn đấy, thế mà con không chịu khó học hành gì cả. Kỳ thi nào con cũng gần bét. Con là con cả của thầy, con còn các em, con phải nhớ lời thầy bảo: Con không treo gương tốt cho các em con đâu, con ạ!
Hai bố con nói thế xong rồi về, mang một khối nặng ở trong đầu.
Thế rồi, cách ba tháng sau, vào giữa lúc buổi học chiều bắt đầu, người cha khốn nạn ấy không sống nữa. Một bức điện tín đến báo tin, chính ông giám thị đã mở ra đọc trước.
Nước mắt không đến được, nhưng mà hình như suốt đời, ông già đã chết ấy vẫn còn nói câu này: «Con phải nhớ lời thầy bảo: Con không treo gương tốt cho các em con đâu, con ạ!».
Chịu tang đâu đấy cả rồi, Hải lại quay lại sân trường cũ. Y không kể chuyện của y cho ai nghe hết, nhưng chuyện này, đầu y không theo chân y nhưng chính là đầu y theo chân y. Y xếp hai chân ngang hàng với nhau. Còn hai tay, y để vào hai thái dương. Mười ngón tay của y kẹp chặt lấy cái trán để cho những cái gì đã đọc được ở sách, bằng hai con mắt, đều phải ở lại cả trong óc, không thoát ra được ngoài. Sự thực thì cũng hơi khó khăn một chút: những bàn tay thì ở lại, nhưng hai con mắt thì vẫn để đi đâu… Tuy vậy, cuối năm y cũng được hai giải thưởng: giải thưởng cách trí và giải thưởng sử ký và địa dư. Lúc ông hiệu trưởng gọi tên y để lên trên bục nhận thưởng, y nhìn chòng chọc vào gói sách, rồi đánh đùng một cái, y hệt một cái máy nước chảy, y khóc, khóc, khóc bao nhiêu là nước mắt, đến nỗi ông hiệu trưởng phải kêu hai người học trò lớn đến dìu y ra ngoài.
Người bố đã chết rồi, y mới được thưởng thực là chậm quá.
Bây giờ, Hải như một người nhà quê đã cày xong thửa ruộng của mình. Một trận gió thổi ở trên những bông lúa sắp cấy, và người nhà quê ấy tìm ở trên mặt đất xem còn có gì sót lại hay không.
Nhưng mà những việc chua chát ở đời bao giờ cũng có ngày mai.
Một đêm mưa gió, có một người nằm không ngủ được.
Y thấy cuộc đời của y bỗng có một buổi chiều chua chát. Nhà y hết tiền. Mẹ y thì già yếu. Y lại có nhiều em. Cái chí nguyện của y lại bật rễ như một cây cổ thụ, mảnh bằng tú tái mày mong mỏi bấy giờ chỉ còn lại một cái đích để không bao giờ tới nữa. Y bỏ học. Y đem mẹ và em lên buôn bán lặt văt ở Hà Thành. Thôi thế là thôi, bao nhiêu mộng tan tành, bây giờ y chỉ là một kẻ dở dang, những đêm mưa lạnh, nằm nghĩ đến hồi đi học trông đợi ngày thi ra.
Buổi sáng, y thức dậy và hỏi bốn phương trời. Y không muốn có một ý nghĩ bi quan nào cả. Đây này: khí trời buổi sáng đem bao nhiêu là sự mát mẻ ở những phương trời xa lại. Y, một người đã đỗ bằng thành chung và đã học ba năm ban tú tái! Có chức thư ký nhà nước, thăng từng trật một, mà trật nào cũng chứa một mẩu tương lai. Có chức thư ký nhà buôn, mới nghe thì tưởng chẳng nên trò gì cả, nhưng chính ra thì lương bổng hậu lắm, lấy được vợ đẹp và làm được nhà cho thuê là khác. Có chức giáo học tư gia nhàn rỗi, cơm ăn nước uống tử tế, mà mỗi tháng, nếu chịu khó thì lại con để được ra vài chục.
Này này, đời nhiều hứa hẹn lắm! Chỉ sợ mình không có sức mà thôi, chứ có sức thì trăm hai mươi chỗ làm vừa Nhà nước, vừa tư gia kia kìa. Người ta không thiệt gì cả. Một ông cử nhân luật chẳng đã bảo y rằng những bực tài giỏi xưa nay đều là những hạng rẽ ngang ư? Mà chính vì có rẽ ngang như thế mà một nguời bạn của ông ta mới xoay làm nghề báo, mỗi năm kiếm đến vài ba nghìn đồng.
Hải sống với cái tâm trạng ấy trong hai năm. Mẹ y cũng vậy, nhưng hơi lo một chút...
- Đời mỗi lúc một khó khăn, con ạ.
Hải cười. Y đứng lện Mẹ ơi, cuộc đời nó có những lý luận ấy và thấy nó đi qua cửa sổ. Mẹ nghi ngờ sự thực.
Hải lấy làm phiền không làm cho mẹ hiểu rõ hơn. Y có năm vạn ước vọng, mà ước vọng nào cũng bị mẹ hơi ngờ cả. Tại sao? Y cũng có những lý luận riệng Mỗi lý luận, Y lại tìm ví dụ cho thâm cứng. Những bạn cũ của y bây giờ đều có việc làm cả. Y cũng như họ, y sẽ theo những đường mà họ đã đị Tiện lắm. Mà y lại lợi hơn là khác: bởi vì y đi sau, y chỉ bắt chước những người đi trước, chứ không phải nghĩ ngợi mưu cơ gì cả.
Bà cụ già, nghe nói mà sợ hãi thay.Gần trải hết một cuộc đời rồi, bà còn lạ gì cái nghề nghiệp nó cũng như của cải ở đời. Những người nghèo không có nghề.
Chương II
Thời giờ cứ trôi. Mới đầu thì là mùa thu, mùa thu bàng bạc màu chì, chán nản thì có chán nản thực nhưng mà êm đềm và rầu rĩ làm sao? Xong, kế tiếp người bố , hăng hái thì có hăng hái hơn thực nhưng mà lòng tốt thì vẫn thế, khôn g thay đổi. Hải thấy lòng mình bồng bột với cái tuổi hai mươi nhăm một cách lạ. Hai mươi nhăm tuổi, ấy là cái tuổi của ái tình, cái tuổi của những thú vui nhân đạo, cái tuổi bước vào đời, chiến đấu với nó để mà tìm hạnh phúc. Hai mươi nhăm tuổi... bao nhiêu thi sĩ đã làm thơ tuổi này! Người ta thấy những thiếu nữ đa tình có những má đỏ bưéng bừng, đôi khi là những cô mơ mộng nhẹ nhàng như thú vui, hay có lúc lại là những nữ sinh đỏng đảnh, nhưng mà rất thông minh, hế ai trông thấy thì cũng phải tung hoa lên tóc. Hai mươi nhăm tuổi! Những bước đi đầu tiên của một thiếu niên tin đời và yêu người, lúc nào cũng thấy những hy vọng không bờ bến. Hai mươi nhăm tuổi, cái tuổi ấy không thấy một cái gì cản trở, nở rồi rơi vào những bộ ngực mỹ miều của các cô gái thanh xuân .
Hải không thế. Y không còn đầu óc đâu mà để đến ái tình. Ái tình chỉ đẹp với những người nào có cánh sinh sống mà thôi. Những kẻ khác thì phải nghỉ đến cái ăn trước đã. Ôi! Cái tuổi hăm nhăm của những người nghèo, cái tuổi hăm nhăm của những kẻ thất vọng vì không có công việc, cái tuổi hăm những người đau khổ về linh hồn, cái tuổi hăm nhăm của những ông giám thị các trường làm vật thây vật xác mà không hiểu công việc của mình có dắt đến tương lai không, cái tuổi hăm nhăm của gái đĩ bị trùng giang mai đục thủng ăn sâu gân cốt.
Hải đã nhìn thấy sự thực . Nhìn vào phương trời nào cũng vây. Hải cũng thấy những người nhiều tiền lấn mất y. Y như một con thú bị nhốt vào trong một cái chuông đóng kín, lúc nào cũng nóng tiết tìm một cái lỗ hổng, mộT cái khe để được thấy trời - trời mêng mông, bát ngát .
Mỗi một ngày lại, lại làm cho cái lò xo ở trong người y giãn dần ra; mỗi một ngày lại, lại làm cho mộng đẹp của y cất cánh bay đi mất như huyễn mộng, Hải thấy ai nói đến một chỗ làm nào là vội vã nộp đơn ngay. Y sống với tương lai. Tương lai lại không đem đến cho chàng một cái gì lạ cả. Ngày mai cũng như ngày hôm qua, mà ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay; Hải, lâu dần, đâm ra nghi sự thực và chỉ trông ở sự tình cờ mà thôi. Những người trẻ tuổi đương mong làm nên những chuyện lớn lao mà bị lâm vào cảnh ấy, thực là buồn lắm lắm. Y đi đi lại lại ở trong nhà. Y nằm. Y hút thuốc. Y đợi một người làm của sở dây thép khện nệ mộT cái hòm đưa đến một lá thư - một lá thư của ông chủ sở kia, xét cặn kẽ cái tình cảnh của y kể lể ở trong đơn, phê một chữ cho y một việc làm trong sở. Người phát thư đi qua. Người đưa thư đã đi qua rồi, Hải không có một bức thư nào cả . Y lại đợi ngày mai.Ngày mai, ta sẽ gặp một sự may mắn không tưởng tượng được... Ngày mai , ta sẽ đến sở kia tìm ông chủ ấy có một khối óc riêng sẽ vui vẻ cho ta một số lương rất hậu... Ngày mai, ta sẽ bước vào một cuộc đời khác, không túng thiếu như thế này đâu, ta sẽ nuôi mẹ, ta sẽ nuôi em, và bao nhiêu người quen biết nhà ta,mỗi khi thấy ta đi xe nhà đến sở, đều thì thầm:" Quý hóa quá ! Ông làm tháng trăm hai bạc mà chưa vợ". Thì ta sẽ lấy vợ, chứ sao! Ta lấy một người vợ có học Tây, biết yêu chồng và mỗi buổi chiều lại đợi ta ở cửa như một cây cao có bóng mát và hai vợ chồng cùng vào nhà với nhau, vừa đi vừa nói những câu mong nhớ "Mình ơi, sao mình về chậm thế? Mình ơi, mình nhọc lắm hay sao?" ... Không, không, Hải ơi, Hải chỉ là một người thanh niên bất đắc chí, đương nằm ở xó nhà để cho tâm trí chạy theo cái ngày mai, như con thiêu thân chạy theo cái ánh đèn. Mà cái ngày mai ấy vẫn không bao giờ lại cả.
Y để mặc cho ngày tháng trôi đi, những ý định vẫn nung nấu cõi lòng cho mềm lại. Hải nghĩ như trong sách:" Nếu không có tất cả, thà là không có gì!" . Than ôi, ở đời, bao nhiêu tội ác đã sinh ra vì cái ý nghĩ càn rỡ đó. Hải đã sa ngã vậy. Có nhiều lúc, y đã nghĩ cách hủy bỏ đời y. Y sẽ đi thật xa, y sẽ trả thù xã hội vì y đã có lần nghe thấy nói rằng bao nhiêu tội lỗi đều do ở xã hội hết, y có thể giết người lấy của được mà không có tội gì khi đứng trước mặt đức Diêm vương.
May thay, những ý nghĩ ấy chỉ là những ý nghĩ mà thôi. Hải không dám làm gì cả bởi vì Hải conồmng một cái ơn huệ của Trời, Hải còn tin ở Trời. Giết người, lấy của, tự tử hay là làm một tội ác gì, có thể được lắm. Người ta có thể tránh được pháp luật, nhưng mà không tránh được hối hận, bởi vì đã là tội ác, thì không phải là tội ở xã hội hay tội ai hết thảy, chỉ là tội mình mà thôi. Mà đã là tội thì phải có hình phạt, mà hình phạt là hối hận.
Hải thở dài "Thà là đợi chờ, còn hơn là làm những việc mà đến chết ta hãy còn hối hận".
Nằm im trong nhà, đôi mắt hau háu nhìn qua cửa sổ sang một cái nhà to lớn, y đợi một sự tình cờ : y đợi những người giàu có thương đến những người nghèo khổ. Nếu tay Hải không có gì, những người giàu có sẽ hiểu rằng Hải đau khổ về chuyện ấy lắm mà y phải làm việc chứ không thể ngồi ăn cơm mãi của người mẹ già tóc đã trắng xóa còm cọm cả ngày để kiếm ra.
Mấy mẹ con ngồi quây quần cả ở một cái cửa hàng bán rượu, tương, than, muối, cà, diêm, thuốc. Có một người đàn ông đi đến. Mấy mẹ con lại giật mình, đưa mắt như để hỏi lẫn nhau đó có phải là một người mang việc đến giúp không. Người đàn ông ấy chính là tương lai đó. Bao nhiêu trái tim não nuột kia lăn cả đến người ấy một loạt nhưng bao giờ cũng thất vọng bởi người ấy chỉ là một người khách đến chơi suông. Những khách đến chơi suông như thế an ủi lòng ta rất nhiều, nhưng sướng thay, là những kẻ không cần ai an ủi!
Tuy vậy, những cái đã qua đã làm cho y sung sướng lắm. Bây giờ, sờ thấy sự thực rồi, y mới thấy khổ hơn. Một đêm mưa gió, y chán nản hết sự đời, tỉnh mộng. Ôi ! bao nhiêu là mong ước từ ngày còn nhỏ ! Ôi ! bao nhiêu là ý nghĩ đã làm y tự phụ ! Hải bây giờ bỏ hết, bỏ hết, bỏ hết. Y sầu như một người đi đưa đám : y đưa đám những mộng cao siêu, những mộng đi ở ngoài phố như bức tranh nhân đạo, những mộng kiếm ra một việc làm lười biếng mà có nhiều tiền tiêu.
Hải lại đi, nhưng Hải không đi ra ngoài nữa. Hải đi về. Hải đi về với những kẻ thân yêu cũ, với những tâm tình và hoài vọng khôn ngoan hơn trước. Y không thấy buồn khi phải bỏ đi đàng sau tính tự phụ điên rồ, những chỗ làm tốt bổng, những áo đẹp, những đàn bà lộng lẫy. Y mở cửa cái nhà lụp sụp của mẹ già. Đây này, đủ cả. Em gái chàng đương múc tương bán. Một thằng em trai chàng đương giã muối vừng. Một thằng khác thì đương chọn những hạt lạc xấu bỏ đi, lấy những hạt tốt đem vào trong nhà rang để bán. Mà mẹ chàng thì cũng đương làm việc, một việc có ích bởi là việc thổi cơm và nấu canh. Hải ngồi xuống ôm đầu. Bên cạnh nhà chàng ở, vang lại những tiếng làm lụng. Hải là láng giềng của một thợ làm guốc, của một người thợ đóng giày và của một người đi kéo xe. Những người ấy làm và ăn cái hột gạo kiếm bằng mồ hôi của họ. Hải cũng như thế, nhưng Hải khổ bởi vì Hải không làm việc. Tay chân y đau đớn; tim y có những mối tự phụ của nó, và tất cả ý nghỉ của y kêu lên rằng kẻ nào không làm việc thì nhục nhã vô cùng.
Trời ơi là Trời! Hải bây giờ còn có mong muốn gì to tát nữa đâu. Y nhũn lắm: y chỉ cần một chỗ mà thôi - bất cứ ở trong xó xỉnh nào của cuộc đời cũng được - nhưng phải là cái chỗ của y để y làm việc cho nên người có ích, để y nuôi cái thân tàn của y.
Ôi! Y không nói dối đâu.Có một hôm phẩn chí, y đã nghĩ thế này: Ta lấy một cái bị rơm vác trên vai, bỏ một đồng bạc xu vào túi rồi đi mãi. Ta đi mãi để đi ăn mày. Về quê, vào các công sở, đến những các đồn điền, chui xuống hầm than, vào những tư gia, ta sẽ dừng chân lại. Người ta sẽ bảo rằng : « Người cao lớn bằng con sào thế kia mà không đi làm mà ăn ư ? ». Thì ta sẽ trả lời rằng : « Vâng, tôi muốn đi làm lắm, nhưng ông cho tôi việc làm, ông nhé ». Nếu có cần, ta ngửa tay xin thực. Ta xin được tiền nhưng ta đi. Ta để dành để mua giày, mua áo và ta cứ đi mãi, đi mãi cho bao giờ tìm được việc làm thì thôi. Mà thế nào chẳng phải tìm ra việc? Bởi vì trời đã sinh ta ra đời, thì tất đời phải có chỗ cho ta. Có người không cho ta chỗ, chứ ta không từ chối chỗ nào của ai.
Hải nghĩ như thế nhưng vẫn không làm như thế. Ở trong gian nhà lụp xụp, y lại nằm đợi ngày mai, đợi mãi rồi sau quên không đợi nữa, mà quên lúc nào y cũng không hay. Thì chính vào giữa lúc ấy, cái lúc không ngờ nhất ấy, một tin tốt đẹp đến tìm y. Trong số bạn bè cũ của y có một người gặp y ở ngoài đường. Người này học dốt có tiếng mà bây giờ kiếm ra mỗi tháng hai trăm bạc. Người ấy dắt y vào hiệu cao lầu ăn bánh, nói chuyện về các bạn cũ hồi lâu rồi mách cho y một việc. Hải theo đúng lời dặn dò của người bạn, sáng hôm sau đến sở thì ông chủ nhận lời ngay và cho Hải mỗi ngày lương chín hào.
Người ta không làm chủ nhật.
Chương III
Tức thì Hải mặc quần áo tây. Mặc quần áo tây nhanh nhẹn. Mặc quần áo tây nó có «vẻ người»hơn. Và chỉ vì lẻ ấy người ta không gọi Hải là ông ký. Nhưng là ông phán: ông Phán Hải!
Phán Hải chỉ nửa tháng là quen công quen việc. Sáng, chàng dậy bảy giờ. Chàng mặc quần áo. Chàng ăn quà. Chàng đi ra đi vào một lúc. Đúng bảy giờ mười lăm phút, chàng đi làm. Chàng đi một con đường. Con đường đi quen lắm, bịt mắt chàng cũng đi được như thường vậy. Chàng nhớ từng cái gốc cây. Nhưng nhìn cái gốc cây mãi cũng chán, chàng cắm cổ xuống đất không nhìn gì cả. Chàng có vẻ như không biết những cái cây ấy lại có lá. Mà trên từng lá ấy lại có trời - trời xanh thẳm.
Mới đầu, chàng thấy cái đời như thế cũng buồn. Bao giờ cũng một cảnh tượng, một tâm tình, một cuộc đời. Hải như đã thấy ở trước mặt một cái tương lai mù mịt, đến lúc chết cũng không thay đổi nữa. Nhưng biết làm sao được? Cái khổ nó đến sớm quá đã làm hại người ta. Mà người ta lại yếu - nên người ta chóng già. Chí khí chóng tiêu ma, Hải không cần lâu, chỉ một năm trời đã thấy chính mình thay đổi.
Đây là phòng giấy. Này, trông: Hải ngồi xuống cái ghế mây. Chàng không muốn ngồi thế, chàng kéo ghế lại cạnh bàn, gác chân lên một miếng gỗ, để cái ngực sát vào tập giấy, gò lưng lại một tí, khuỳnh hait ay ra một chút để cho dễ thở. Hải cũng phải thở chứ: cái phòng giấy sở chàng tuy chật thật nhưng vẫn có một cái cửa sổ để cho không khí bên ngoài vào!
Không khí vào lạ lắm. Nó không vào bình dị và trong sáng như nó vào nhà anh ta đâu. Ở chỗ ngồi làm, nó vào nhưng nó lại bị cái cửa sổ con chặn lại, thành ra nó chỉ vào được nửa chừng; vì thế nó sầu tủi, nó ình ịch, nó không có vẻ tự nhiên tí nào. Người ta có thể bảo là nó đè lên lương tâm những người ngồi ở trong.
Mặt trời không chiếu vào đến đấy một cách mạnh bạo. Vả lại có chiếu mạnh bạo vào đó cũng không làm gì cả bởi vì cái phòng giấy Hải ngồi với các bạn đã có đến ba cái đèn máy sáng trưng. Người ta ngồi trong bốn bức tường cao mà như là ở một cái buồng ấm cúng: thật là một cái buồng xa hẳn chốn phồn hoa vậy. Người ta yên lắm: sáng người ta đi làm, trưa , người ta về; chiều, người ta lại đi làm; tối, người ta lại về. Cái ngày là cái ngày chín tiếng đồng hồ, cái ngày mà đêm nào cũng được trời tắm rửa cho sạnh sẽ. Người ta thì không thế: đêm nào người ta cũng ngủ đến sáng và, y nguyên như thế, người ta lại đi làm như hôm qua, người ta đúng giờ lắm và người ta làm một việc.
Thoạt tiên, người ta vào. Chưa có gì cả. Người ta muốn nói một câu gì, người ta kiếm mãi câu ấy, người ta nhớ phảng phất đến cuộc đời ở bên ngoài. Người ta xoa tay, «à!» Một tiếng, dở một tờ báo hàng ngày vừa chung tiền để mua. Mãi ở tận bên Pháp, bên Nhật, bên Ý cũng có tin đến tận nơi đây; vậy ra ngoài cái sở người ta làm, cuộc đời lại gom lại cả trái đất tròn tròn nữa. Những ý kiến nọ tiếp với những ý kiến kia, đầu người ta chắc lắm, đầy đủ lắm. Lúc ấy đương là buổi sáng. Một ngày mới bắt đầu, một ngày mới mà cuộc đời có thể tươi đẹp lắm..
Nhưng chỉ một lát thôi, người ta lại trở về với sự thực…
1- Kiểm duyệt xóa 14 dòng.
Ông chủ nhì đưa cho người làm những tập giấy bằng bàn tay. Xong, anh đi về chỗ của anh. Mỗi sáng, Hải lại bị gọi một lần như thế. Chàng làm như thế rất quen. Chàng ngồi xuống ghế, hai khủy khuỳnh ra, hai cánh tay tự do ở hai bên vai của chàng bởi vì viết là công việc của tay, mà tay có tự do thì mới viết được. Bên tay phải, có ba cái quản bút: cái thứ nhất viết mực đen, cái thứ nhì viết mực đỏ, cái thứ ba viết mực xanh. Ba cái bút để song song nhau: chàng chỉ phải giơ tay lấy chứ không cần trông gì hết. Cùng phía ấy có một cái tẩy, cái thước và một cái bàn thẩm để không, ngăn nắp lắm, nhưng bên tay trái thì chỉ chuyên để đanh ghim, cặp giấy và thước kẻ. Tối đến, tan giờ làm. Hải cất tất cả những thức ấy vào trong ngăn rút.
- Bác Hải, bác đưa cái chìa khóa của bác cho tôi mượn.
- Không, ngăn rút này của tôi. Tôi không đưa chìa khóa ngăn rút của tôi cho bác mượn.
Nhưng mà một người dù ngăn nắp thế nào cũng có khi lơ đễnh. Một buổi chiều, Hải bỏ quên chìa khóa trên bàn.
- Anh em ạ! Đỗ trời rồi! Thằng Hải nó bỏ quên chìa khóa.
Từng thứ một, tùy từ nặng nhẹ mà để, người ta thấy ở trong ngăn rút ấy: thước kẻ, bút chì, hay bút mực, tẩy, kim, cặp, thứ nào đi thứ ấy, không thể nào lẫn được. Ba năm trời vất vả ở sở này đã đem đến cho chàng cái tính cẩn thận ấy: cái tính cẩn thận ấy in như hết của ông bà ông vải chúng ta. Cái gì cũng mới, cái gì cũng sạch. Những cái gì dùng đến luôn thì để ở ngoài cùng, cạnh cái khoá để sờ tay vào là thấy ngay. Phía trong cùng ngăn rút, người ta thấy hai hộp: một hộp bút còn nguyên và một hộp bút đã dùng rồi. Muốn cho khỏi lầm lẫn, vì bề ngoài hai hộp bút ấy giống nhau. hải dán ở trên hộp dùng rồi một mảnh giấy và viết mấy chử này - bằng bút "rông".
HỘP BÚT
(đã viết đến rồi)
Người ta ăn cắp nhiều thứ của chàng lắm, người ta làm bừa cả lên. Sáng hôm sau, Hải lại tìm thấy chìa khóa. Chàng mở ngăn rút ra xem, và quên bẵng mất rằng tội nào cũng phải có lỗi, chàng làm rầm cả lên một trận.
Cả sở phá lên cười, Hải tức lắm. chàng đã định cầm mấy miếng gỗ chận giấy để ném vào lũ anh em cùng sở nhưng may quá, chàng lại nghĩ ngay ra rằng những miếng gỗ ấy là những miếng gỗ của sở, sở dùng để chận giấy cho giấy khỏi bay mà bây giờ mình lại lấy để ném, ngộ nó văng ra đường thì chết! Thế là Hải lại thôi, chẳng làm gì được bọn anh em cả.
Thời gian cứ trôi, người đời ai cũng có con đường riêng của người ấy. Ở sở này, thực ra, thì cũng chẳng có gì đáng nói cả, nhưng khốn một cái lại có những người phải nói như phải sống.
- Thôi, làm mãi làm gì cho khổ. Chủ đi rồi. Tao hỏi chúng anh em nhé: anh em có đố tôi bóp mũi thằng Hải không? Hải! Tôi bóp mũi anh cho anh xem đây này ...
Tức thì, Hải thành ra một tia chớp:
- À! Anh lại bóp mũi tôi! Đây, anh cứ bóp mũi tôi đi. Tôi bảo cho anh biết: anh chưa bóp được mũi tôi thì cái mặt của anh đã tan ra rồi...
Người vừa hỏi thực không ngờ mà người đáp nhanh như thế. Y chỉ còn biết nói:
- Anh Hải, thôi tôi không bóp mũi nữa đâu, đừng sợ!
Không ai hiểu Hải ra sao cả. Không ai hiểu rằng người ta quên mất Hải, hay bởi người ta thấy Hải ở trong lòng người ta.
- Thôi, chỗ anh em cả. Xin bác! Xin bác!
Và như thế, Hải nguôi giận liền.
- Anh Hải, buổi tối anh về làm gì ở nhà? Anh có đi chim gái không? Anh có đi cô đầu không? hay là anh đọc sách.
- Thú thực với các anh, lúc mới vào làm ở đây, độ hai, ba tháng tôi cũng đọc hết một cuốn truyện Tây, nhưng vì sau buổi tối về, tôi mệt quá - mà vì lười cũng có - tôi chỉ xem những tin tức ở một tờ báo hàng ngày mà thôi. Sự thực, tôi cũng không lấy làm thích lắm bằng những truyện kiếm hiệp: những truyện ấy xem ham lắm mà lại không phải nghĩ.
- Thế chỉ có thế thôi à?
- Sáng chủ nhật, được nghỉ, tôi đi chơi. Tôi lên Hồ Tây ngồi ở trên bãi cỏ để hít thở không khí buổi sáng. Trưa, tôi ăn. Cũng có khi tôi đi xem bóng đá giải buồn, nhưng nếu có chợ phiên thì tôi bỏ đá bóng vào xem chợ phiên cho lạ
- A! A! Anh em ơi, Bác Hải lại đi cả chợ phiên nữa đấy, ghê không?
Và câu chuyện ấy thế là tự nhiên được anh em trong sở đem ra bàn luận.
Bàn luận đến chợ phiên tức là phải bàn luận đến đàn bà mà đàn ông đã bàn luận đến đàn bà thì tức là phải bàn luận đến sự chơi bời giấu vợ.
Một người đúng lên nói:
- Hôm qua, nahé tôi phải về Nam Dịnh để thăm con cháu ốm. Tôi được tự do nên đập trống suốt đêm. Gớm! Cái nhà ấy có con bé sao mà hẩu thế! Mình dắt nó đi ăn. Nó kết với mình quá và đến sáng hãy còn khóc rưng rức vì cảm động.
Một người khác tiếp theo:
- Tôi, tôi thích nhảy đầm hơn. Nhảy đầm có vẻ Tây mà lại không tốn tiền như đi hát. Đây nhé: các anh thử tính xem. Tôi làm một tháng được ba mươi nhăm đồng. Một tháng bốn lần phải gom tám đồng bạc để đi Vạn Thái hay Chùa Mới chẳng hạn thì có phải là hết ngoém mất cả lương. Âu là "đằng" này cứ công ty với một thằng nào, mỗi tuần lễ đồng bạc, đi uống chai bia, chai nước chanh xì xằng gì đó rồi nhảy đến một hai giờ đêm thì về. Vừa ngủ được lại vừa không hại tiền.
Một người khác nữa nói:
- Thế cũng hay. Nhưng tôi thì tôi ngổ hơn các bạn. Đập làm gì? Nhảy làm gì? tôi buồn thì tôi ngủ. nếu tôi không ngủ thì tôi đi phòng cho thuê: như thế, vừa rẻ mà lại vừa không bận rộn. Đóng cửa buồng lại thì chẳng còn ma nào biết đấy vào đâu, dù người ấy là "ma phăm" (Tiếng Pháp ma femme tức vợ của tôi) đi nữa.
Câu pha trò nhạt nhẽo đã được người ta nhắc đi nhắc lại thành nhàm rồi, bao giờ nói ở đây, thế mà cũng được tán thưởng rầm rộ lắm. Bởi vì cuộc đời ở đây bằng phẳng quá, một cái gì hơi khác thường một chút cũng được người ta cho là lạ và hoan nghênh vô cùng.
Người nào, tuần lễ một lần, mà chung tiền nhau lại để đi hát, đi nhảy, đi chơi như thế đến hôm sau lại khoe được như thế với anh em là những người bán trời không văn tự! Người ta cười là phí phạm tiền nong thực đấy, nhưng trong thâm tâm, người ta có một sự kính phục khó tả. Hải cũng vậy. Tuy cắm cổ xuống bàn mà ký lia ký lịa, chàng không bỏ một lời nào của những người bạn thạo đời kia. Chàng nuốt nước bọt như thèm một của chua nhưng chàng nhắm mắt lại mà nói với mình rằng:
"Tôi kiếm mỗi ngày được chín hào. Tôi là một người thư ký khổ và tôi làm để kiếm lấy bát cơm ăn".
Ông chủ đã đến. Bao nhiêu chuyện vui như Tết của bọn phán, ký kia đều im cả một loạt. Họ như bị điện giật, họ không phải là những người bán giời không văn tự nữa, họ chỉ lại là những ông cạo giấy mắt lấm la lấm lét.
Hải vừa cúi đầu viết sổ vừa nhìn họ mà buồn cười. Chàng nghĩ:
- "Ối! Các ông ấy chỉ chạy theo những cái loé mắt người ta, những cô ả đẹp đẽ, những cô ả tiêu nhiều tiền. Những cô ả tiêu nhiều tiền làm cho các ông ấy, không biết quý cái của kiếm bằng mồ hôi nước mắt và những cô ả đẹp, lừa dối các ông ấy, sẽ mở mắt các ông ấy mà bảo cho biết ái tình chỉ là một thú vui giản tiện. Để rồi mà xem: các "bố" ấy sẽ hối ngay.
Những ý nghĩ ấy của Hải không đủ khuây khoảa chàng và chàng thấy như bao nhiêu những cái đầu ở chung quanh chàng đều kêu lên: "Thôi, đừng có bịa, có một người đàn bà ở bên cạnh vẫn thú hơn, Hải ạ". Hải lại nghĩ: "Ta có mẹ già thương xót ta và quý ta, ta có những em trai và em gái mếm yêu ta hơn cả vợ các anh yêu các anh ở nhà. Những cái đầu kia như lại trả lời: "Cóc cần! Cóc cần! Hiện bây giờ tôi chỉ biết anh cô độc và anh buồn. Chúng tôi có vợ mà lại có nhân tình nên chúng tôi cười và chúng tôi vui".
Hải lơ đảng đưa mắt nhìn qua cửa sổ.
Ấy là một buổi chiều tháng hai. Không khí ở bên ngoài hình như rung động. Những chiếc ô tô đã có ánh sáng, những xe điện, ở đằng đầu và đằng cuối, đỏ ửng lên như hai con mắt đầy ham muốn. Những thiếu niên đi vào ánh sáng và trong túi có tiền. Họ nhìn người đàn bà khi khi có một cặp nào đi qua. Nhiều ông tham khệ nệ đi làm về ở trên những cái xe nhà và nghĩ: "Ta là một viên chức cao cấp của Nhà nước tháng kiếm hơn một trăm đồng bạc". Trai gái đi qua. Ấy là một thiếu phụ đẹp nồng nàn, quàng tay một thiếu niên cũng nồng nàn: nàng, thì nàng sung sướng vì có vẻ lắm xu; chàng, chàng thì sung sướng vì được nhiều người ham muốn. Cũng có những cặp vợ chồng, mỗi người nhìn mỗi ngả: tâm hồn họ và người họ đã quen nhau lắm rồi.
Họ đi qua. Bọn này đi qua thì lại có bọn khác đi đến. Một người trẻ tuổi ghì chặt lấy lưng một người đàn bà áo mặc thướt tha. Người ta thấy ngay rằng: chàng ấy có thể theo nàng ấy đến tận cùng trái đất.
Sự vui vẻ, sự cao kỳ, sự xa hoa bước những bước dài trong ánh sáng của kinh thành. Những tiếng cười, tiếng nói vọng đến bên tai Hải, bóng bẩy như những cái nhìn của đàn bà mà Hải đã gặp trên đường. Ôi! Lúc ấy, đến tận lúc ấy Hải mới đành chịu nhận rằng những lời nói của bạn hữu chàng là đúng: sự vui thú ở đời có nhiềiu ý nghĩa hơn cuộc đời cô độc của chàng lắm lắm. Chàng cố sức bám lấy một cái gì để cho khỏi bị chìm. Chàng muốn đắp một con đê để ngăn cuộc sống trẻ đẹp kia và kêu lên rằng: "Tôi cũng sống đây. Tôi đứng dậy bằng gạch với xi măng và tôi ngăn các ngài lại trong khi các ngài đang kêu".
Hải thấy một mối buồn não nùng khóc lên ở trong lòng. Chàng ngót ba mươi tuổi rồi mà vẫn cô quạnh, vẫn không biết một người đàn bà nào cả ở giữa cái Hà Nội quyến dỗ người như mẹ mìn!
Chao ơi, tiền bạc, học vấn và sự yên ổn làm sao cho bằng được cái thú sống ở đời. Vài ba cái hình ảnh đàn bà đã trông thấy vụt hiện ra trong tâm trí chàng, và chàng đã để cho tâm trí đuổi theo những hình ảnh ấy để "du dương" một lát. Rồi bao nhiêu những ngọn lửa của tuổi thiếu niên bừng bừng lên, ngũ quan chàng đều thấy rung động ở trước những cái có thể chứa được ở trong một người đàn bà đi qua.

Chương IV
Trong sở Hải làm, có một ông Ký cổ.
Ông Ký cổ ấy chít khăn, mặc áo đen trong có áo trắng dài, đi giầy ta, mặc quần không nhầu nếp và có dáng lúc nào cũng nghĩ ngợi ở trên xe về nhà. Ông ta đã thi tam trường rồi và mỗi khi đi đâu về thì lại chắp tay lại mà nói với mẹ: "Thưa mẹ, con đã về rồi ạ". Lớn, bé, già, trẻ trong sở, đều gọi là "bác" cả cho thân. Ônh không giận, ông không say rượu. Cái quản bút tay ông cầm hình như là một đồ vật lạ lùng cần phải giữ cẩn thận lắm, ông ngồi ở đấy và ông giữ gìn những tư tưởng của ông. Khi nào ông đi vắng, anh em rất nhớ ông và nếu có một buổi sáng ông đến chậm độ hai phút thì ai ai cũng hỏi: "Hay là ông ấy ốm?".
Ông ấy lúc nào cũng có vẻ ốm thực. mặt ông xanh lắm, chân tay ông lại gầy, người ta bảo: "Có lẽ ông xơi thuốc". Chẳng biết ông ta có xơi thuốc thực không, chứ hai mắt ông thì nghiêm lắm mà buồn lắm. Râu ông dày mà dài, nó che mất hết cả hai lô mũi. Ông ta ngồi ở cạnh anh, anh nhìn ông ta, anh nghĩ đến anh liền: ông có tất cả những tính tốt mà anh không có. Thế tưởng đã đủ quá rồi. Không ngờ ông ta lại muốn hơn thế nữa. Vì muốn khác hẳn những người ở chung quanh ông, vì muốn có vẻ một người hiền, đương yên lành chẳng làm sao cả, ông bỗng thuê thợ cạo cạo chọc đầu lông lốc.
Biết ông, cũng là một việc hay. Ở gần ông, thế nào cũng thấy một cái gì lạ lắm, và khi nào ông đã nói với anh, anh phải yên trí thể nào cũng có những chuyện mà anh không tài nào tưởng tượng được.
Ông tức là một cái cân rất đúng.
Hải yêu ông và trọng ông. Buổi chiều nào ở sở về, Hải cũng đi thong thả nói chuyện với ông hai ba phố. Đến ngã ba, mỗi người chia mỗi ngả, Hải ngả mũ “ Lạy cụ ạ!” Thì ông Ký của Hải mới giơ tay bắt thực mạnh một cái rồi trèo lên xe về nhà.
Một hôm, sau khi ngần ngừ mãi, Hải đem nói tất cả những nỗi cô độc của mình cho ông bạn già để xem ông này nghĩ ra sao.
- Bác Hải! Hôm nay là thứ bảy. Tôi cho thằng xe tôi về trước. Tôi có cái ý kiến mời bác lên Hàng Buồm ăn phở tái với tôi.
Hải trả lời:
- Vâng, đi thì đi, cần gì!
Ở trong hiệu cao lâu, Hải và ông bạn già vừa ngắt từng lá rau thơm vừa uống một cút rượu “con hươu”. Uống một chén, hà một hơi, để đôi đũa ghếch lên cái đĩa đựng xì dầu bằng nhau, thực cẩn thận, rồi ông Ký cổ mới trịnh trọng nói rằng:
- Bác Hải ạ, câu chuyện bác vừa nói với tôi lúc nãy thế mà quan hệ lắm đấy, chúng ta phải họp ý kiến của nhau lại mà đem bàn cho kỹ.
Riêng tôi thì tôi nghĩ thế này: bác biết chứ gì? Bác với tôi, hai chúng ta đương ngồi ở cái bàn này ăn phở. Tay chúng ta để ở trên bàn. Những người nào có làm thì phải có ăn. Ăn xong thì nghỉ. Chúng ta đủ hết cả. Chẳng dám giấu gì bác, tôi đi làm lấy lương chi dụng ở nhà, bà nó nhà tôi buôn bán thêm vào một chút. Tôi không phải lo đến ngày mai. Vậy tôi khyên bác, bác nên lấy vợ. Trước là có người phụng dưỡng mẹ già mình, đỡ đần mình, sau là có con cái cho vui cửa vui nhà và giỗ chạp thờ cúng một khi mình trăm tuổi.
Hải nói:
- Đã đành thế rồi. Nhưng cụ tính, tôi đi làm được độ hai mươi năm đồng một tháng, ăn uống tằn tiện còn chẳng đủ, còn lấy tiền đâu mà lấy vợ? Lấy vợ bây giờ xoàng cũng mất dăm bảy trăm, một nghìn.
- Thưa bác, thế thì khó đấy. Hay là ta chơi họ?
- Tôi nghèo nên chẳng có ai rủ tôi chơi cả.
- Thế thì lại khó hơn. Bác có biết hiện giờ, tôi nghĩ gì không? Tôi nghĩ rằng: “Cuộc đời này như một phim chớp bóng. Tôi đã có hồi thiếu niên rồi. Tôi đã biết tất cả những sôi nổi, những sự rung động của tuổi ấy.”
Tôi chẳng dám giấu gì bác, tôi lấy nhà tôi từ năm mười sáu. Tôi còn dại lắm. Tôi không biết quý vợ ở nhà, tôi cứ đi theo cái lửa dục của tôi, năm hăm sáu tuổi, tôi bị anh em bạn bè rủ rê, mắc phải một con nhà trò. Chơi láo chơi lếu thế hại người lắm bác ạ. Mẹ tôi mắng tôi thậm tệ. Tôi bị ốm là khác, bác ơi, tôi xin nói với bác là tôi hối cho đến già.
- Cụ dạy, tôi xin vâng. Nhưng... nhưng... nhưng... cái tuổi trẻ, thưa cụ, tôi thấy... là một sự cần dùng khẩn cấp.
- Ấy đấy, chính thế. Tôi đã đọc mấy quyển sách về ái tinh dịch của Tàu và của Tây. Tôi biết lắm. Tình cần lắm. Tôi đã có hồi trẻ. Tôi nhớ lại hồi ấy, và tôi nghĩ rằng: “Những người nào thiếu tình khổ quá. Thực là những người đáng thương vậy.” Tôi tưởng tượng thấy lòng họ trống trải lắm, tôi tưởng tượng thấy họ không thiết sống làm gì hết.
Thưa bác, ấy là tôi nghĩ riêng tôi thế. Chứ bác đừng tưởng rằng thiếu tình thì nên chết đi đâu. Có một câu danh ngôn này: “Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân.” Tôi tin tưởng câu ấy lắm.
Bác chưa có tiền lấy vợ. Bác không thể đi chơi tầm bậy. Mà cái tuổi của bác hiện giờ nó lại làm bác sôi nổi, bừng bừng. Thế thì! Bác có muốn tôi khuyên bác không, bác Hải? Trời không có đãi riêng ai, hay phụ riêng ai đâu, bác ạ. Nắng lắm thì lại mưa. Hết đêm thì lại sáng. Tôi nhớ có đọc thấy ở trong một bài văn có cái luật thừa trừ. Không bao giờ ở đời lại có những kẻ suốt đời không thay đổi. Trời không để cho người ta ngủ gật đâu. Trời tài lắm, mầu nghiệm lắm, để cho người ta yên nghỉ một hồi mà dường tưởng lả không có mục đích đâu. Tôi thì tôi sợ lắm. Tôi yên thân như thế này đã lâu rồi. Bác cô độc mãi rồi. Chúng ta đều là hạng bất thường cả.
Bác Hải ạ, để bác xem, đời chúng ta tất sẽ xảy ra chuyện gì.
Ông Ký cổ và Hải nói xong câu chuyện thì vừa hết hai bát phở. Họ đứng dậy và đi về nhà. Đến sáng hôm sau, ông Ký cổ hãy còn hả về những câu triết lý hùng hồn nói với Hải.
Ngươi già nói có khác. Thực là những câu sấm. Chỉ một tuần lễ sau. Hải thấy nghiệm ngay. Đời Hải bỗng xảy ra một việc.
Hải có một bà cô không có con cái ở Hàng Rươi. Bà ấy buôn bán và cũng đủ ăn. Tự nhiên, bà ta ốm, Hải, là cháu đích tôn, chiều nào ăn cơm xong cũng phải lên hỏi thăm cô. Những em chàng còn bé, không biết gì về thuốc tây. Chính chàng, chàng phải xem đơn thuốc và phải thân hành đi mua thuốc cho người bà cô ấy.
Cũng như mọi ngày, chiều nay, Hải ăn cơm nước xong rồi, đội mũ, lần theo con đường Bờ Hồ, ra Hàng Gai, lên Hàng Cót, rồi rẽ về Hàng Bưởi. Đến Cống Đục, chàng thấy ở cạnh hiệu sách cũ, một đám người xúm lại chung quanh một bọn xẩm. Lúc ấy chưa đến chín giờ. Bọn xẩm này chắc vừa mới bắt đầu họp; và, từ tối, bài hát của họ đương hát là bài hát đầu tiên vậy. Người bố, mắt lòa mà đỏ chói như là vẫn còn đương chảy máu, bập bùng một cái đàn bầu đã gẫy cả cần. Hắn chặn đầu gối lên thành đàn và gảy đến chỗ nào như ý thì cúi mặt xuống chiếu và rung cái đầu lia lịa. Đứa con gái, cái bụng chảy xuống như cái bụng lợn sề, có ở giữa một cái mặt vàng ửng và hom hem, hai con mắt thực to và sâu hoắm như hai cánh hoa bẩn thỉu. Con này hát, và giọng hát của nó rít lên. Còn hai đứa bé con trai- dáng chừng là em con bé hát xẩm- thì ngồi dựa vào nhau như là hai con vật dữ tợn; chúng có vẻ mệt nhọc quá, chỉ rinh rinh ngoạm những người đứng xung quanh.
Một bọn hát xẩm bồn ngừơi. Một gia đình đi kiếm ăn ở cùng đường. Hà nội đã vơ lấy chúng vào tay và bóp bẹp. Cổ con bé hát xẩm ngư gần tắc. Nó hát thế này:
... Muốn tắm mát thì lên ngọn sóng đào,
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh.
Đôi tay em ngứt đôi cành,
Quả chín thì hái, quả xanh thì đừng...
Những con sen, thằng nhỏ ở máy nước gần đấy lắng tai nghe. Nhiều người đi đường dừng chân lại, nhìn một tí rồi đi. Có mấy cô con gái mặc áo xanh đỏ cười và vứt chinh vào cái chậu của mấy bố con người xẩm.
Hải dừng chân lại. Người ta nhìn bởi vì người ta phải nhìn một cái gì. Những gái giang hồ ở những nhà chơi gần đấy cũng vậy. Họ biết rằng khi nào có đám đông tụ họp thì họ có nhiều dịp may. Và tiếng đàn bầu tưng tưng lấn hết cả những tiếng khác. Tiếng đàn bầu khắc khổ, không đều và thỉnh thoảng lại phựt phựt lên điếc cả tai:
Ba bốn năm em ăn ở trên rừng,
Chim kêu vượn hót nửa mừng nửa lo.
Đã trót sa chân mà bước xuống đò,
Gieo mình xuống sạp nhưng lo cùng phiền.
Chợ tính Đông một tháng sáu phiên,
Gặp cô hàng xén kết nhân duyên vừa rồi...
Hải nghe thú lắm. Chàng thấy tất cả cái tinh thần của người mình ở trong câu hát, chàng thấy một cái buồn nhẹ nhàng như một lời hứa hẹn, một lời trăng gió. Chàng không cho bọn xẩm một đồng trinh nào cả, nhưng trong lúc chàng đương ngây ra để ngắm cái miệng của con bé hát xẩm và khen “Hay! Hay!” thì có một ai chạm vào vai chàng khe khẽ. Chàng quay lại thì thấy một người đàn bà xinh xẻo nói bâng quơ rằng: “Cũng chẳng lấy gì làm hay lắm. Mà nó còn bỏ dở đấy, chứ đã hết bài hát đâu!”
Hải liếc thật nhanh và thấy người con gái vừa nói búi tóc đẹp quá và có vẻ hiền lành, dí dỏm như con mèo.
Hải cảm động quá, ngập ngừng mãi mới nói được:
- Thế bài hát ấy còn nữa, thì đoạn dưới ra thế nào?
Nàng trả lời:
- Đoạn dưới như thế này:
Trong bồ cô có những quế cùng hồi,
Có mẹt bồ kếp, có nồi phèn chua,
Bó hương thơm cô để cạnh bồ...
“Và thế cũng chưa hết đâu. Để một tí nữa em nhớ hết.”
Nhớ hết hay không, thôi, bây giờ Hải có quan tâm đến làm gì. Hải chỉ biết rằng một thiếu nữ xinh xắn mà lại có duyên đem lại cho ta nhiều sự lạ hơn những bài hát cổ. Tức thì, Hải không nghe hát xẩm nữa. Hải nói với người con gái: “Thưa cô, chắc cô nhớ nhiều bài hát hay lắm và giọng cô cũng trong lắm nhỉ.”
Nàng trả lời rằng:
- Em hát cũng chẳng có gì làm hay lắm nhưng mà nghe tàm tạm được. Thế nhưng mà ai lại hát cho anh nghe ở đây bao giờ?
Mười giờ tối sắp đánh rồi mà tiếng đàn bầu khốn nạn cứ kêu lên thống thiết cho đến khi nào đội xếp cấm mới thôi. Hải và ngừơi con gái nhanh mồm nhanh miệng kia rẽ đám đông ra ngoài. Họ đi về phía gầm cầu. Đến đầu Hàng Đậu, thấy người bạn gái của mình không tỏ vẻ gì là dữ tợn hay khó chịu, Hải mời vào xơi nước ở một quán bán nước chanh gần đấy. Chàng chỉ sợ người con gái kia không nhận lời..
Ấy thế, Hải đã gặp Trâm một buổi chiều. Chàng cười sung sướng vì Trâm đẹp và có cái miệng xinh mà có duyên.
Chương V
Hải, sau đêm gặp được Trâm, thấy lòng dịu dịu đi một chút. Chàng thấy một sự dễ chịu gần như là một sự tự phụ và hôm nay chàng đợi Trâm ở Bách Thú. Chàng khoác tay nàng đi chơi vùng Hồ Tây và ước ao có một người bạn của chàng trông thấy thế.
- Trâm ơi, anh yêu em có thể chết đi được.
Trâm nở một nụ cười đĩ thõa, cái nụ cười, cười với tất cả những người trả tiền nàng. Nàng đáp:
- Thực chứ?
Buổi chiều xuống chầm chậm và nhẹ nhàng như một người bạn thân. Không khí chuyển động. Gió reo vào lá, lá reo lên trời, và trời rơi xuống nước trong xanh. Người ta thấy yêu tất cả những gì ở chung quanh người. Hồ Tây, hồ Trúc Bạch, trời cao và xe cộ chiếu sáng một cách êm đềm. Con đường Cổ Ngư, với những cây cối rườm rà, với những bãi cỏ xanh mát, hình như là một con đường thần tiên để người ta đi chơi ở đấy mà cũng để người ta trốn tránh cuộc đời ở đấy.
Hải khoác tay Trâm đi và Hải nghĩ rằng họ có vẻ là một đôi bạn tình. Người đàn bà trẻ và đẹp kia thực y như những người đàn bà khác mà ta đã gặp đi ở phố phường với những người đàn ông lấy tay quàng vào lưng họ. Khi nào trời tối lại mà có những người đàn bà như thế ở chung quanh ta, cuộc đời có một cái thú vị mông mênh. Trời ơi! Đức tối cao ơi! Xin ngài ra tâm ban cho chúng tôi hôn hít, để cho cái tuổi hai mươi của họ thêm vào những cái hôn của chúng tôi. Hải lúc ấy không còn nghĩ rằng mình là một người đi làm công nhật, mỗi ngày được chín hào bạc lương. Tâm hồn chàng yên ổn như cuộc đời mà cuộc đời thì trong sáng và yên ổn như khí trời và nước. Nước chảy đều đều, lướt qua những ánh sáng và theo con đường của nó mà đi.
- Hồ trông đẹp quá, Trâm ơi!
Hải lại nói:
- Em hãy nhìn trời mà xem kia kìa. Về phía chùa Trấn Quốc, có đến hai ba trăm đám mây đỏ. Ở trong lòng này, (Hải chỉ vào ngực) cũng có hai ba trăm cảm giác đương sôi nổi vì em, em ạ.
Trâm sát vào người Hải và trả lời:
- Anh nói nghe sao mà hay thế. Em, em yêu anh lắm.
Hải thấy sướng tê tái cả người. Chàng đi bên cạnh nàng với một tâm hồn đầy đủ. Chàng nói:
- Em ạ, hay là ta đi ra phía Hàng Đậu, tìm một cái cao lâu nào, vào ăn đi.
Trâm và Hải vào một cái cao lầu rẻ tiền. Người ta ăn uống một cách rộn rịp. Trâm và Hải cùng uống rượu. Thời khắc êm đềm và thú quá. Họ ngồi ở một góc phòng; hai tay họ để trên mặt bàn; họ xa hẳn những người làm ầm ĩ và họ có thể nói được nhiều chuyện lắm. Chuyện đủ các thứ. Hải nói:
- Anh ngồi đây mà nhớ đến cái tỉnh Hải Dương nhỏ bé khi xưa...
Hải không nói thực, nhưng chàng ngồi ở cạnh một người đàn bà và muốn cho người đàn bà ấy, biết hết cả tâm sự mình để cho người ấy nghĩ: A! Anh chàng trẻ tuổi này có một trái tim tốt lắm và nguyên là sinh đẻ ở một tỉnh chứa chan tình ái và bóng mát. Chàng muốn đem tâm sự mình để chiếm tấm lòng của Trâm:
- Anh ngồi đây mà lại nhớ đến cái tỉnh Hải Dương nhỏ bé khi xưa. Nhà anh ở Thanh Miện và chung quanh nhà anh có vườn. Ở Hà nội, em không thể tưởng tượng được những cái vườn như thế. Có cây cỏ, có suối reo. Cây cỏ thì xanh, suối thì mát. Em ơi! Trâm ơi! Ước gì chúng ta được về ở với nhau ở đấy nhỉ. Chúng ta sẽ ngồi ở bờ suối, dưới bóng cây và chúng ta cùng cười.
Trâm nói:
- Em không biết nhà quê. Thầy mẹ em mang em ra Hà Nội từ năm em lên bốn. Em chỉ ở Hà Nội từ đó và em không có dịp nào về quê nữa.
Hải nói:
- Anh xem em hôm nay có vẻ không được vui. Nhưng anh thì anh vui lắm. Rồi em xem: Em với anh biết nhau lâu hơn một chút nữa thì em mới biết rằng đối với đàn bà, anh có thể làm tất cả những việc tốt mà người ta có thể làm được... Mẹ anh cũng nhân đức lắm, thấy anh làm như thế thì chính mẹ anh cũng bằng lòng.
Đến tận lúc ấy, Hải mới biết cái đời của Trâm.
Trâm nói như thế này:
- Anh ơi, anh thì anh có mẹ, mà em, thì mẹ em chết từ khi em lọt lòng. Em không biết mặt mẹ em một ngày nào. Vậy em không khóc mẹ em. Em ở với thầy em. Thầy em nghiện rượu và cho em đi hát. Em đã hát ở Gia Quất và Ngã Tư một độ. Nhưng bởi vì chủ nhà xử với em khắc nghiệt quá, em bỏ chốn đi và em về ở với chị em, mở một ngôi hàng xén để sống cho qua ngày đoạn tháng. Và em đã lấy chồng.
Em không biết rằng chồng em có yêu em không: nó ác lắm, nó nghiện và đánh bạc. Khi nào không có thuốc cho nó hút hay không có tiền để nó đi đánh bạc, nó đánh em thừa sống thiếu chết và nó dọa bỏ em.
Nó hơi điên thì phải. Một hôm nó quăng cả đống bát vào đầu em, và hình như chưa thấy thế làm thỏa, nó lại lấy dao thái thịt dọa đâm em nữa. Mọi người can nó. Nó không đâm em được, nhưng nó đánh, đánh, đánh đến nỗi chị em bạn phải đưa em vào nhà thương. Em hãy còn tật ở tay đây. Nhưng nó thì nó phải vào nhà pha rồi, ba năm nữa mới được ra, bởi vì nó can vào một vụ đi lừa ô tô của một người Tây làm báo.
Hải nghe chuyện mà rầu rĩ cả tấm lòng. Chàng thấy tất cả những chuyện ấy vào tuổi ba mươi và gục đầu xuống bàn như Đức Phật khi thấy cõi đời là bể khổ. Đức tối cao tối đại ơi! Ở đời này nhiều tội lỗi thái quá, ở đời này nhiều sự làm nẫu lòng người quá. Ở dưới mắt ngài, có những người đàn bà là tôi con của ngài. Ngài sinh ra họ và ngài đặt ở bên cạnh chúng tôi như một món ăn ngon. Họ trông đẹp quá, mong manh quá đến nỗi chúng tôi không dám mó tay vào. Đức đại từ đại bi ơi! Ở dưới mắt ngài là có những người đàn bà khác suốt đời không được một tình thương, một tình yêu nào cả, Đức đại từ đại bi ơi, ví dụ như Trâm chẳng hạn: một người đàn ông cưỡi lên cổ nàng, đè lên vai nàng. Người đàn ông có nanh vuốt và đâm những nanh vuốt ấy vào người nàng để cho nàng không thoát đi đâu được. Nó bắt nàng đi. Nó ép nàng khóc. Nó đọa đầy nàng. Với tất cả sức lực của một đứa phàm phu, nó dìm đầu nàng xuống đất để cho kiệt sức như một con vật, để cho người đàn bà không ngửng lên được, không nhìn thấy giờ nữa, không nghe thấy tiếng nói của ngài nữa. Đức đại từ đại bi ơi! Đức đại từ đại bi ơi!
Hải nhìn Trâm bằng đôi mắt chứa chan thương xót. Chàng không nói gì cả. Chàng cầm lấy tay nàng và nắm chặt lấy những ngón tay nàng như để truyền một tấm lòng thương bao la sang cho nàng, để mang ít an ủi cho nàng, để mang ít an ủi cho tâm hồn nàng.
Đoạn hai người đau khổ ấy đứng dậy trả tiền, rồi cùng đi. Ở ngoài phố, Hải giữa lấy tay Trâm, không cho ai đụng đến. Chàng cúi mặt xuống với Trâm và nói hai câu tha thiết để tỏ cho nàng biết rằng, chàng yêu nàng một cách xót xa.
- Em Trâm của anh ơi! Em Trâm của anh ơi!
Trâm đi bên cạnh Hải và không nói gì.
Hải lại nói:
- Anh yêu em đời đời. Em ơi, em sẽ sung sướng với anh. Em cứ để cho anh xử dần dần: thể nào đôi đứa mình cũng phải sum họp với nhau, em ạ. Anh sẽ có tiền, anh sẽ thuê nhà ở với nhau, chúng ta sẽ có con và anh sẽ về nói với mẹ cái cảnh tình của chúng ta và mọi người sẽ nhận em làm con dâu. Em ơi, em có biết rằng hiện bây giờ có lắm lúc anh thấy trái tim cô quạnh như muốn vỡ, tuy đã có hình ảnh của em. Chúng mình vẫn chưa được sum họp hẳn với nhau thì chúng mình còn khổ. Em phải biết một người đàn ông và một người đàn bà mà lại cùng chịu đau khổ với nhau thì sẽ sướng như thế nào!
Hải nói thế và nhớ lại lúc ngồi ở trong sở, những cái đầu quen thuộc hình như nói ở trên tai chàng: “Có một người đàn bà ở bên cạnh vẫn thú hơn, Hải ạ.”
Hải nghĩ như thế và chia tay với Trâm ở đầu phố, đi một mình về nhà.
Chàng đi như hy vọng đi. Mấy người đàn bà trẻ tuổi nhìn chàng cười. Để ý làm gì! Hải bây giờ đã có Trâm rồi, chàng sẽ xây hạnh phúc với Trâm.
Chàng đi như hy vọng đi. Trâm sẽ có con, chàng sẽ được tăng lương. Chàng sẽ có một cuộc sống đầy đủ.
Chàng đi như hy vọng đi, đi mãi cho đến lúc không còn hy vọng nữa. Ôi! Chàng đã hứa thuê nhà cho Trâm ở, chàng đã nói với Trâm rồi sẽ có tiền cưu mang nàng. Chàng biết bói đâu ra tiền ấy - chàng, một người thư ký kiếm chín hào một ngày?
Hải sầu rũ người ra. Chàng muốn ăn cắp, chàng muốn ở tù, chàng muốn chết, chứ không muốn nói dối một người đàn bà, đau đớn như một vị thần đó. Chàng kêu lên:
- Tôi biết phải làm thế nào đây, hở Trời!
Hải ơi, ông bạn già của Hải chẳng đã bảo với Hải câu này hôm ăn phở tái rồi sao?
“Trời mưa rồi trời lại nắng. Trời chẳng phụ riêng ai hay hậu đãi riêng ai bao giờ.”
Quả thế thật.
Đêm hôm ấy, Hải về nhà thì đã thấy rộn rịp về việc bà cô chàng chết để chúc thư lại cho riêng phần chàng nghìn rưởi bạc.

Chương VI
Người biết trước nhất cái tin tốt đẹp ấy là Trâm.
Gặp nhau, Trâm ôm chầm lấy Hải mà kêu rằng:
- Em xin mừng anh Hải của em.
Và cặp trẻ tuổi ấy thấy một mối hạnh phúc chân thật; hạnh phúc ở bên trái, hạnh phúc ở bên phải, hạnh phúc ở trước mặt.
Họ nói chuyện rất ít về bà cô xấu số.
Họ nói chuyện đến tiền nhiều hơn.
Hải rú lên:
- Em xem. Đây là một cái ngực, và nó lép vì thiếu không khí thở. Đây là hai tay. Em mó vào mà xem: hai cái tay cứng vì viết nhiều. Anh không nói đến cái đầu. Nhưng này, đây là cái bụng. Này, này em, anh bảo cho mà biết: chỉ vì có thế mà hiện đáng giá hàng ngàn đồng bạc đấy. Này em nhìn, này em nghe: có một ngàn rưởi đồng bạc đây. Một ngàn rưởi đồng bạc toàn bằng giấy mới, đẹp không! Mùi giấy rất thơm. Em sờ những cái giấy mà xem: có trong giấy hình như có tiếng kêu em ạ.
Hải nói như cuồng. Một ngàn rưởi bạc, chàng giàu quá! Chàng giàu quá, tiêu làm sao cho hết?
Biết làm gì?
Cõi đời y như thể là anh em bạn của ta. Những phố dài tăm tắp ở trước mặt khách đi đường và thỉnh thoảng, đến một chỗ rẽ nào lại trốn đi để chơi ú tim òa, để kéo cái hạnh phúc dài ra cho bền. Cây cối đẹp quá, Hải như mới nhìn thấy lần đầu: mỗi cây có một ngàn rưởi lá và mỗi lá có một sự vui thú không tả được.
- Phải ăn cho sướng miệng! Phải uống cho sướng miệng, phải không Trâm?
Hải và Trâm vào một khách sạn. Hải gọi hai chai bia mời Trâm, còn mình thì bảo bồi lấy Amer- Picon ra uống. Rượu Amer- Picon ngấm vào dạ dày và chia đôi: thứ Amer nung nấu ruột gan lên và làm sôi nổi một sự chua chát gần như là sự đau đớn. Lúc ấy, thứ Picon mới đến tiếp vào, với một sự dịu dàng, với một mùi thơm, với một câu nói của ông Ký cổ “Trời không đãi riêng ai hay phụ riêng ai bao giờ!”
Câu nói xác đáng thay! Thực có như lời của Chúa: “Những người được đau đớn là những người rất may, bởi vì họ sẽ được an ủi.” Và sự an ủi ấy nó đưa lên miệng Hải và không rời chàng nữa.
Hải gọi:
- Bồi! Lấy cái ăn đây!
Hàng cơm Hải và Trâm vào là một hàng cơm sạch sẽ và sang. Đèn sáng, cây to, khăn trải bàn trắng muốt, những đứa hầu bàn lịch sự. Một tiếng gọi của anh làm rung chuyển cả nhà. Ai vào ăn ở đấy đều có quyền thế lắm.
Hải và Trâm cười ran lên. Họ đương ngồi ở đấy. Ấy là một giờ mà người ta thấy cái thú sống ở đời. Mười giờ rồi, họ hãy còn uống cà phê. Họ uống cả sâm phanh nữa. Rượu bốc lên đầu, rượu bốc ra đằng mặt, rượu bốc cả vào chân tay, rượu bốc cả ở trong bụng nữa. Bao nhiêu sức khỏe thiếu niên của Hải gọi thịt sóng ầm ầm lên.
Chàng thuê xe đi phòng ngủ. Chàng thuê buồng. Chàng ôm ngang lưng Trâm. Chàng đâm đầu vào và bạ cái gì cũng đưa miệng vào. Ấy chính lúc ấy người đàn bà thấy mình mạnh lắm. Trâm không nói gì cả nhưng biết là mình đã thắng.
Trâm mới nói rằng:
- Anh làm gì mà khiếp thế. Để nói với nhau đôi lời đã nào. Từ hôm chúng mình gặp nhau và yêu nhau, em định nói mấy lần rồi nhưng chưa có dịp. Đêm nay, nhân chúng mình được ngủ lại với nhau, em mới nói để anh nghe hết. Anh đừng có bảo là nói chuyện tiền nhé. Em có muốn thế đâu. Bởi vì em biết anh là một người lịch sự, không để em phải hỏi. Nhưng anh, anh phải nói cho em biết qua về những ý định của anh. Chao ôi, em biết chứ, em biết anh không phải là một người cai ngục. Vả lại, nếu anh là một người cai ngục, thì để em có cách xử như là đối với một người cai ngục. Không, anh đã biết: người năm bảy đứng, của vạn loài anh ạ. Tâm tính anh có khó khăn như thế nào thì vẫn có hạng đàn bà chiều được bởi vì đàn bà có giá mà giá nào cũng có. Vậy em muốn biết ý định của anh đối với em thế nào? Em có thể là vợ một ông lý, ông phán, ăn ở sạch sẽ và hơi nhũn nhặn. Như thế, không lấy gì làm đắt. Anh có muốn biết ý em thì em bảo anh rẳng: anh còn trẻ, anh có địa vị trong xã hội, anh có một người vợ như thế không trông được. Anh phải có một người vợ khá hơn. Ấy còn tùy lượng anh, cái lượng hy sinh của anh. Anh ạ, đàn bà cũng như những cái cửa hàng. Anh hỏi thứ gì người ta bán cho anh thức nấy. Có hạng ăn nói và cử chỉ đài các, quan cách. Có hạng sang trọng, lòe loẹt. Có loại ăn mặc thật đắt tiền mà trong bề ngoài lại có vẻ nhũn. Có hạng lại có cái mình thật tươi mịn, thấy nhẹ hẳn người đi. Đấy, anh xem. Em cần nhất sự thực thà. Anh nói cho em biết: anh thích hạng nào? Hạng nhũn nhặn? Hạng thơm tho? Hay hạng choáng lộn?
Anh nghĩ cho thực kỹ. Em không biết. Anh nghĩa cho thực kỹ bởi vì là tùy anh.
Khi Trâm nói xong rồi, những lời nói của nàng bay đi, nhưng cái miệng thì còn lại. Người ta trông thấy hai vành môi bây giờ không quyến rũ anh bằng lời nói nữa, nhưng quyến rũ anh bằng cái đẹp, bằng sự tắn và bằng cái màu đỏ chói. Sau hai vành môi ấy, có hai hàm răng trắng và đều. Tất cả cái miệng ấy mà cắn vào tay ta hay là rên lên một tiếng thì có người có thể lăn ra chết được.
Hải vội trả lời:
- Anh muốn một người vợ thật sang!
Trâm nói:
- Anh Hải ơi, anh nghĩ cho chín đã, chớ nên hấp tấp. Em muốn về sau này, anh không trách em được điều gì. Cho nên em cho anh một cái ví dụ. Anh nhìn bàn tay em đây này. Cả một buổi trưa nay, em đánh, em cạo, em bôi thuốc.
- Thế chân em?
- Chân em cũng thế. Em sửa sang cũng mất hơn một giờ. Làm như thế, không phải là vô ích. Anh cũng như đàn ông khác, đàn ông ai chả thế. Ai cũng muốn người đàn bà nằm trên giường họ phải đẹp hoàn toàn. Ấy thế mà họ có chịu bỏ ra để cho người đàn bà của họ được hoàn toàn đâu.
Hải kêu lên:
- Em không biết bụng anh chút nào. Đây này, tất cả ý muốn của anh: một cái người mịn, tròn, ấm và thơm. Quần áo thực ưa nhìn. Ai cũng phải cho chúng mình là chứa chan hạnh phúc. Ngoài ra anh cần gì? Tiền! Tiền! Không sợ! Em cầm năm chục này mà đi sắm sửa đi em.
- Ấy chết, em nói thế để anh biết chứ lấy tiền của anh làm gì...
- Anh lạy em, em cứ cầm cho anh. Anh giúp em, về sau này em lại giúp anh, cần gì.
Muốn cho Hải khỏi phiền lòng, Trâm cất năm chục bạc vào túi áo rồi nói tiếp:
- Anh nghĩ như thế, rồi anh sẽ không phải hối. Em sẽ là một người vợ mà anh không thể thấy luôn luôn ở chung quanh mình đâu anh ạ.
Trâm không phải là một người đàn bà mà ta thấy luôn luôn ở quanh mình ta thực. Trâm khôn khéo lắm, Trâm ăn nói dễ nghe lắm. Người nàng, ngay như khi không có quần áo và nữ trang đã có giá trị lắm rồi. Cái thú vui nàng đem cho Hải hưởng, Hải không bao giờ quên được. Nó như một người bạn thấm vào da chàng. Chàng vớ được Trâm như vớ được miếng mồi ngon, ăn phồng cả mồm lên. Những đêm của họ chứng cho lời nói ấy. Hải lấy mắt, lấy mũi, lấy mồm, lấy tay để nhìn nàng, để ngửi nàng, để hôn nàng, để ôm nàng. Chàng lúc nào cũng như mới được gặp nàng lần đầu tiên. Giác quan chàng được thỏa mãn một cách lạ. Chàng thấy thú vị từ đầu đến chân. Chàng thấy một sự thay đổi lạ lùng ở trong người. Nhưng cùng lúc ấy, chàng cũng thấy sự thay đổi ở trong túi nữa. Chàng lấy làm tự phụ. Chàng chưa quen với sự có tiền nhiều, túi áo chàng hình như là một cơ thể mới, một cơ thể phụ ở người chàng. Hải là một người khỏe mạnh, vô bệnh tật. Cái cơ thể mới đó làm việc rất điều hòa: theo một lẽ tự nhiên, mỗi ngày nó tòi ra vài chục bạc.
Chương VII
Tự nhiên là Hải phải nói dối mẹ ở nhà. Một ngàn rưởi bạc hưởng được của bà cô, chàng nói dối mẹ là mang đi gửi nhà băng lấy lãi.
Mẹ chàng tin chàng lắm. Chàng rất khốn khổ vì chỗ đó nhưng chỉ ít lâu thôi. Sự vui thú, sự khoái lạc dần dần đem sự quên đến cho chàng, chàng chỉ biết có Trâm, chàng chỉ sống vì Trâm, chàng chỉ sống cho Trâm. Thảm hại! Người mẹ nào nuôi con cũng vậy. Tận tụy cả một đời để con khôn lớn lên người, đến khi nó hiểu sự đời một chút thì nó thương gái, yêu gái và đi với gái,... Hải bắt đầu đi suốt đêm đã nhiều. Bà cụ già hơi nghi ngờ, có hỏi thì Hải lại tìm cách che đậy. Bây giờ, công việc bận quá phải làm đêm ạ! Bây giờ trong sở, người ta hay mời ăn cơm khách nên phải ngủ đêm ở nhà bạn ạ!
Chung quanh chàng, trong sở, người ta than thở bây giờ....cuộc sống thực là eo hẹp quá; ở nhà mẹ già chàng còm cọm và em chàng thì đầu tắt mặt tối để kiếm thêm nuôi mẹ. Hải không nghe thấy gì cả, không trông thấy gì cả. Trưa nào, chiểu nào chàng cũng phải gặp Trâm. Không có thì nhớ lắm. Chàng nhớ bất cứ cái gì của Trâm bởi vì chàng yêu Trâm lắm lắm và Trâm yêu chàng lắm lắm. Bộ tóc mây khéo quấn lẳng lơ, da mặt thơm phưng phức, một chuỗi ngọc xanh quấn cổ, cái áo mùi, cái quần sa tanh gấu có viền đăng ten... một cô tân thời đặc! Một cô tân thời đặc! À, Trâm nói đúng. Trâm không phải là một người đàn bà ta gặp luôn luôn ở quanh mình. “Anh Hải ơi, anh ôm lấy em đi.” Nàng rỉ vào tai Hải. Hải ôm lấy nàng “Anh Hải ơi, anh ôm em thật mạnh vào.” Hải ôm Trâm thật mạnh. Trâm yêu Hải lắm lắm bởi vì Hải chiều Trâm, bởi vì Hải có tiền, bởi vì Hải không từ chối cái gì với Trâm bao giờ.
Xem ngay cái gác Trâm đương ở bây giờ thì biết.
Thoạt tiên, không phải Trâm và Hải tìm thấy cái gác này ngay đâu. Họ đi xem nhà đã chán rồi. Một ngày...hai ngày...ba ngày...Hải muốn cho công việc chóng xong, kiếm một cái gác độ mười năm đồng cũng được. Trâm thì Trâm nhất định không nghe, cái thì chê là chật quá, cái thì kêu là tối quá, nàng lấy làm buồn lắm. Hải thấy thế không đành lòng bèn thuê ngay cái gác hai mươi hai đồng, có đủ cả nước và điện. Trâm cười ngay, và hôn Hải bởi vì Trâm bảo: “Thà về nhà quê mà ở, chứ đã ở Hả nội thì phải cho ra hồn không có chúng bạn cười cho thì nhục.”
Tủ, giường, bát, đĩa, chăn, màn, chậu, vân vân lục tục sắm một ngày...Rồi xếp, rồi dọn, rồi lau, rồi chùi, rồi rửa, thế là cái gác Trâm ở đã thành ra một cái gác xinh xẻo, cái gác của ái tình. Mặt trời chiếu vào những cửa kính có màn xanh. Không khí ở trong phòng, vì vậy là không khí dịu dàng, sạch sẽ. Thế rồi thì, ở sau những cái cửa sổ sơn xanh lại bày hoa, rất nhiều hoa có những màu sắc đẹp hơn cả sơn ở tường. Người ta mới vào chưa biết là hoa gì đâu. Có mở hẳn cái màn cửa lên mới biết và như thế thì thú lắm. Người ta phải tìm từng cái tên hoa. Chỉ một lúc, người ta biết ngay rằng những cái hoa ấy là “lai giơn”, là “mõm chó” hay là “thược dược”.
Này, mở to cái cửa sổ ở bên tay phải ra đi. Ôi! ánh sáng, ánh sáng sao mà nhiều thế. Ánh sáng vào như một cái cổ tay trắng muột, ánh sáng chảy khắp phòng... Ấy thế mà, ngoài ánh sáng ra, lại có cả một cái giường to, trải đệm trắng nữa: thực có thể quên đời được. Cái giường ấy thấp, làm bằng một thứ gỗ bóng lộn lên và có những cái diềm bằng một thứ đăng ten lạ. Thực là phải quá: người ta phải coi trọng giấc ngủ cũng như là miếng ăn vào miệng. Trông thấy cái giường, người ta thích đời ngay: cái giường ấy không những giơ tay đón ta nằm một cách êm đềm, nhưng lại làm cho ta quên hết cả, chỉ nhớ lại có mỗi một cái bụng người đàn bà giăng gió trai lơ.
Hải nằm ở cái giường ấy vài tiếng đồng hồ xong, đứng dậy, hơi mệt nhọc một tí thôi, ra dựa vào cửa sổ nhìn sang cái vườn hoa dãy phố trước mặt thì lại càng thú nữa. Phong cảnh ở trước mắt lúc nào cũng đẹp. Buổi chiều cũng như buổi sáng, những con chim chuyền cành nọ sang cành kia như để hớp vội lấy một tia sáng nó luồn qua kẽ lá rồi bay đi một chỗ khác luôn luôn kêu “chích chích”. Chích chích! Chích chích! Chim ơi, có phải mùa xuân đã lại ở phía ngoài không? Mùa xuân đầm ấm, mùa xuân tươi tốt! Những cât lan tiêu đã chớm lộc non từ mấy hôm nay; những tàu lá xanh dầy quá; những mùi thơm ngào ngạt bay lững lờ trong không khí. Thực là mùa của ái tình. Hải lơ đãng nhớ lại đã bao nhiêu ngày như thế này, đã bao nhiêu mùa xuân vui thú như thế này, chàng đã hao phí bỏ qua, hiện giờ không để lại một chút kỉ niệm êm đêm nào cả. Hải muốn sống quá! Hải muốn “ sống” như thế nào để gỡ lại những mùa xuân đã mất, những mùa xuân không có ai săn sóc cả, những mùa xuân không có ai yêu cả.
- Mùa xuân này thì...
Trời đã chiều. Phố xá đã bật đèn. Một ngọn gió mát đưa vào phòng; ở xa xa có một tiếng đàn thánh thót. Một đêm của sự yêu đương. Chàng kéo màn xuống, chàng muốn đóng cửa vào. Ở vườn hoa phía trước mặt chàng, những cặp tình nhân trẻ tuổi đi đi lại lại. Hải nhìn thấy bóng họ ở trong những bụi cây um tùm, ở trên những ghế đá, chân tay quấn lấy nhau, như chỉ có một người. Những cảnh ấy, một người cô độc trông thấy tất phải thèm.
Không, Hải đã có Trâm bên cạnh, với tất cả những cái liếc ưa nhìn, những cái uốn éo não nùng, những cái hôn nồng cháy như ăn thịt.... chàng muốn suốt đời ở cạnh Trâm mà tiếc thay không được. Bởi vì mẹ chàng thấy chàng độ này thẫn thờ và về khuya đã đâm nghi lắm lắm rồi, bà khuyên giải chàng xa xôi, nhưng những lời của bà cụ đã nhìn thấy hết cuộc đời rồi, bây giờ sắp chết, cũng không thể giữ được con như trước. Tuy vậy, Hải cũng thưa những cuộc gặp gỡ ít đi nhiều. Những đêm phải ở nhà với mẹ, với em như thế chàng bực dọc lắm. Hải không muốn nói gì và làm gì. Sáng hôm sau đi làm, chàng quành lối này, quành lối khác để nhìn lên cái gác mà chàng thuê cho Trâm ở và cái cửa sổ của căn buồng mà nàng đã ngủ đêm qua một mình. Đôi khi Trâm đã dậy thật sớm mà đứng đợi chàng ở đó rồi. Nàng cười và lấy cái bàn tay xinh xẻo ra vẫy chàng và hôn gửi một cái hôn đỏ thắm. Có khi nàng bảo: “Trưa đi làm về, mình về với tôi nhé. Tôi có chuyện này lạ lắm.” Có khi nàng lại làm ra dáng nũng nịu, vừa thấy chàng thì quây qủa đi vào, hai tay trắng mịn thò ở cái áo cánh lụa, vắt vẻo như đuổi mà lại như mời vậy.
Tức thì, trái tim của Hải phồng lên, rực lên; chàng có cái ý muốn bỏ hết cả công việc làm ăn, bỏ cả sở, để trèo như bay lên gác. Hải đã có phen làm như thế. Hôm sau chàng đến xin phép chủ và nói dối là mẹ ở nhà ốm nặng.
Bao nhiêu anh em làm trong sở, thấy một sự thay đổi lớn lao như thế ở người Hải, hỏi dò nhau và bàn tán. Họ cố cắt như đi “ do thám” và chỉ một tuần lễ sau, họ đã tìm ra sự thực.
Một người nói:
- Này, có đông đủ anh em ở đây, tôi nói để anh em cùng biết. Anh nào có vợ thì không nói làm gì chứ anh nào chưa vợ, mà có nhân ngãi, nếu cứ lặng im không nói rõ tên, rõ tuổi, rõ cưa, rõ nhà thì tôi “chim” mất, đừng có oán!
Hải lặng cả người. Chàng trằn trọc đến một giờ đêm mới ngủ. Sáng hôm sau, chàng nhớ rằng từ khi được hưởng gia tài của bả cô, chàng chưa mời anh em chén lần nào. Chàng bèn viết mấy chữ truyền cho tất cả anh em trong sở.
Thưa các bác,
Tôi có việc vui mừng riêng, có chén rượu nhạt, xin các bác hạ cố xơi rượu với tôi thì tôi lấy làm may mắn lắm.
Ký tên
T.B.- Chúng ta họp mặt ở khách sạn X phố Hàng Buồm.
Ăn uống xong đâu vào đấy, Hải hút một điếu xì gà và nói:
- Tôi không dám giấu gì các bác. Xin nói để các bác biết: Trâm là vợ sắp cưới của tôi, các bác có gặp thì coi như anh em trong nhà vậy.
Vợ sắp cưới! Vợ sắp cưới!
Anh em nghe Hải nói đều phá nên cười một loạt. Họ đã biết về cô Trâm rồi. Trâm chỉ là một gái chơi đã lũa. Còn ai lại bị nó đánh lừa được nữa.
- Bác Hải, bác nói đùa đấy chứ! À, Trâm nào nhỉ... Trâm... Gậm Cấu, thì còn ai lạ gì.
Những lời nói của bạn bè Hải không khác gì nhát búa. Hải nghe mà chết điếng cả người, chàng muốn nốn hết cả những thứ vừa ăn ra, chàng muốn bị một bệnh thật nặng để chết ngay lúc ấy.
Khinh bỉ vợ chàng đến thế là cùng! Làm nhục chàng đến thế là cùng! Hải không biết nói gì cả, đi về nhà và lại càng thấy thương Trâm.
Nửa tháng sau, trong khi anh em đương làm việc ở trong sở, Hải trịnh trọng lại mời anh em đi ăn và nói rằng:
- Hôm qua, tôi có một người bạn ở Nam Định lên chơi. Anh ta nói chuyện với tôi nhiều lắm và nói cả về đạo nữa. Tôi không biết có phải anh ta rủ tôi đi đạo không. Nhưng lúc ra về, anh ta có cho tôi muợn cái cuốn Kinh Thánh dịch ra quốc ngữ. Tôi buồn lắm, có giở ra xem một đoạn. Đoạn ấy đại khái thế này:
“Một hôm, người Pha-ri-si mời đức Chúa Giê-su đến ăn cơm ở nhà. Đức Giê-su nhận lời đến ăn. Đương ăn nửa chừng thì có một người đàn bà tính hạnh rất xấu - cả vừng ấy ai cũng biết người đàn bà ấy là một đàng điếm trai lơ- dội một bình dầu thơm để quỳ khóc dưới chân Ngài. Nước mắt của người đàn bà ấy rỏ xuống ướt cả chân Chúa. Người đàn bà ấy lại lấy dầu thơm trong bình để rửa chân cho Ngài.
Người Pha-ri-si mới thầm nghĩ: Nếu Chúa Giê-su là ngừơi của Trời thì tất phải biết người đàn bà ấy xấu tính như thế nào.
Chúa Giê-su bèn nói: Hỡi Si-mông! Hãy nghe ta nói. Có hai người cùng nợ một nhà giàu kia. Một người nợ năm trăm đơ-ni-ê. Một người nợ có năm mươi đơ-ni-ê. Hai người đó cũng không có tiền để trả. Chủ nợ cho cả, không đòi ai nữa. Hỡi Si-mông! Trong hai người không phả trả nợ đó, ngươi có biết ai yêu mến chủ nợ hơn không?
Trả lời:
- Người nợ nhiều hơn tất phải yêu mến chủ nợ hơn.
Chúa Giê-su bèn rằng:
- Phải đó, người đàn bà xấu nết này tin tưởng và yêu mến ta hơn ngươi. Cái lòng tin ấy sẽ tha thứ cho nó. Cái lòng yêu mến của nó sẽ làm cho nó trong sạch ra. Ngươi không quỳ ở chân ta và rửa chân cho ta. Nó thì nó nằm ở dưới chân ta và rửa chân cho ta bằng dầu thơm. Bao nhiêu tội nỗi của nó đều được tha thứ hết.”
Hải nói xong, nhìn hết cả mọi người một cách tự phụ.
Sự thực, cái học và cái biết chưa cho chàng hiểu hết cái uyên thâm ở trong Thánh Kinh. Nhưng chàng đọc và nhớ lại để đem ra để kể cho bạn chỉ cốt để bênh vực Trâm và trả thù mấy anh bạn hôm nọ đã chế nhạo chàng.
Và chàng lấy làm thỏa mãn lắm. Chàng muốn tìm ở trong cái tình của chàng yêu Trâm một ý nghĩ cao thượng.
Chương VIII
Trong khi ấy, Trâm đặt chàng lên một cỗ xe Dâm Thân có bốn ngựa kéo đi.
Má Hải hóp, lưng Hải còng, con mắt chàng lờ đờ, chàng ba mươi hai tuổi mà người ta ngỡ là bốn mươi nhăm. Chàng ốm đau luôn. Chàng thường thường lại đến xin ông chủ nghỉ. Người ta gặp chàng lúc nào cũng cặp kè lấy Trâm.
Một hôm có một người bạn trong sở đi chơi ở Hàng Khay và nhìn chung quanh mình. Bỗng anh ta thấy một cặp khoác tay nhau đi ở giữa đám tây đầm, mà người đàn bà thì tuyệt: một phần người ở trong lụa, một phần người ở trong nhung và còn lại thì ở trong ngọc, vàng. Chính thế! Người đàn ông đó là Hải vậy.
Hôm khác một người bạn đi làm một việc mà người đàn ông, suốt một đời, thế nào cũng phải làm một bận: vào một tiệm nhảy, uống một ly rượu mạnh, gái nhảy dập dìu. Các bà sang trọng dắt tay chồng đi lượn theo điệu kèn.
- Tôi nhìn cẩn thận lắm. Tôi không lầm: người đàn ông đó chính là Hải vậy.
Lại có một người trẻ tuổi nọ, một buổi trưa mùa rực ra Đồ Sơn để tắm. Trong khi anh ta đương di chân xuống cát để giết chết những con dã tràng, một người bạn níu anh ta lại:
- Anh! Anh có thấy con Trâm với thằng Hải không?
- Có! Khỉ ạ! Tôi bảo nó: “Thế nào, anh không đi làm à?” Nó trả lời tôi: “ Chán chết!”
Cũng có hồi mà không ai gặp Hải và Trâm đâu cả.
Những người nào đã thấy họ, lúc ấy mới lên tiếng rằng:
- À! Các bác ạ, tôi cứ quên mãi, bây giờ có nói thì mới lại sực nhớ ra. Con Trâm, con Trâm nó vẫn cứ quấn lấy thằng Hải của chúng mình như thể con móc rách. Tôi thấy thế bèn hỏi Hải xem đến hôm nào nó mới lại đi làm, thì con đĩ ngựa ấy nó cướp lời mà trả lời thế này: “ Gớm! Sao bác ác thế? Bác định để cho em trơ trọi một mình hay sao?”
- Không, không, Trâm ơi, Hải đời nào lại để cho Trâm trơ trọi một mình cho Trâm buồn.
- Ừ, nếu mình không muốn thấy tôi buồn thì từ giờ chiều chiều mình phải dắt tôi đi chơi mát lấy không khí. Như thế, chúng ta sẽ ăn được và ngủ ngon.
Trâm là một người đàn bà nói là làm luôn. Nàng nhanh nhẹn lắm, nói thì ít nhưng mà nói đâu ra đấy.
Cuộc đi chơi của họ giản dị lắm. Một người đứng đắn đến đâu mà thấy họ đi như thế cũng không thể bảo là chướng mắt.
Họ đi và họ nhìn chung quanh họ. Rất nhẹ nhành. Trâm thỉnh thoảng mới chêm vào một câu:
- Mình ạ, lắm lúc nghĩ cho thực kỹ thì Hà Nội cũng có nhiều cái lạ lắm.
Nàng ghì lấy tay Hải, đi sóng đôi với chàng.
Một lát sau:
- Nói đến những cái lạ, em mới sực nhớ ra. Ở kia anh ạ, có một đôi dép đỏ, gót cao trông thực lạ lắm. Mình cứ tưởng tượng nếu đi vào thì mát lạnh cả chân.
- Ơ, em thích à? Bao nhiêu?
- Ui giời, đắt lắm! Thôi, mua làm gì cho tốn tiền. Thế nhưng mà nhân tiện ta đi qua đây, chúng ta cũng cứ thử vào xem sao. Anh chưa đói chứ? Em chắc anh mà trông thấy đôi dép đi thì “mê tít cù lỳ” đi ngay...
Chàng là một người lịch thiệp:
- Anh đã thích thì ắt em phải thích. Không thích thì em cũng phải chiều anh mua đôi dép này.
- Gớm! Mình... sao mình tình tứ thế? Ừ thì mình mua đi, cần gì!
Những buổi đi chơi sau, Hải nói trước:
- À này! Có hàng bán coóc-sê đẹp chưa này. Em có muốn mua một chiếc không? Mua đi, rồi chúng mình đi ăn.
- Thôi, tôi lạy mình. Mình phí phạm quá. Đi ra đàng này, đi.
Bởi vì Trâm đã cho là phí phạm, Hải mua ngay cái coóc-sê đắt tiền nhất cho mà xem.
- Không sợ, không sợ. Cái tình ở với nhau là quý, chứ đồng tiền anh không cần!
Trâm đánh đu vào tay Hải:
- Mình ơi, mình yêu quý ơi... Mình yêu em lắm nhỉ, em sẽ đền cho mình nhé...
Những câu chuyện của Trâm và Hải nói trong những buổi đi chơi mát đại khái đều như thế cả. Nói xong rồi, tiền trả rồi, họ lại đi như không có gì xảy ra.
Vào hồi đấy, Hà Nội có những ngày rất đẹp, không nắng, không mưa, không gió - những ngày êm dịu, đi ngoài đường mà tưởng như là ở trong nhà. Người ta không thấy mặt trời. Chỉ ở trên ngọn cây cao lắm mới có gió gieo vào những lá cây xanh rờn: người ta bảo đó là mùa thu sắp tới. Đi quanh quẩn và đi bước một ở giữa sự vật mà người ta trông thấy là một sự việc rất nên thơ.
- Cửa hàng ở bên trái, cửa hàng ở bên phải, cửa hàng ở trước mặt, cửa hàng ở sau lưng. Chúng ta lại xem đi.
Hải đã nói đúng. Hà Nội có lắm cửa hàng thực. Những cửa hàng ấy phần lớn là để cho đàn bà dùng. Hình như bởi tại đàn bà thấy nhiều sự cần dùng hơn đàn ông. Có thứ dù bằng lụa vạch tím trông rất đẹp; có những quần đùi nhỏ bằng bàn tay nó làm cho bà có cảm giác rằng trước khi bà mặc nó, bà không biết một vài đức tính của bà; có thứ nhẫn đeo vào ngón tay một tí thì thấy mình có giá trị nhiều hơn lên. Ngoài những thứ ấy ra, về riêng phần Hải, Hải lại thấy những cửa hiệu ấy có những ca vát tốt khác hẳn những “ ca vát rayonne” chỉ có đồng hai một cái. Có những thứ lược bằng sừng mà trong suốt như thuỷ tinh; có những thứ “cau de cologne” để xức tóc bởi vì lúc nằm giường hay lúc đi lại tóc cũng phải cho thơm và mượt.
Chứ không ư? Người đàn ông, ở ngoài phố cũng cần phải ăn bận cho xứng đôi với vợ hay nhân tình...
Thật là một thời kì đẹp đẽ nhất trong đời người. Chân thì đặt ở giữa đất Hà Nội mà mắt thì mở to nhìn ánh sáng, Hải thấy mình ít ra cũng là một kẻ có nghĩa lý trên trái đất, có đâu như những bè bạn của chàng, mới đi hát được dăm bảy chầu chay rồi về ăn cơm với rau cải mà đã tưởng là sống một cách “ông hoàng” lắm.
Hải đã biết: trong bọn bạn làm cùng sở với chàng, cũng có lắm người đủ ăn, không đến nỗi nheo nhóc lắm. Có người bây giờ thỉnh thoảng đi xem hát; có người mỗi khi mùa xuân đến lại xin nghỉ phép một buổi để đi hội Lim chòng ghẹo đàn bà, con gái ở Chợ Dầu, Đình Bảng. Có người mỗi khi lĩnh lương, lại chơi ngông, cổ động bạn hữu chung tiền lại để đi nhảy đầm đến một giờ sáng mới về; có người lấy vợ lẽ, cô dâu giấu mỗi chỗ mà lại có con, mỗi khi có xu thì lại ra những hiệu tạp hóa mua một cái vú bò cho con ngậm; có người vì một sự tình cờ, một bữa ở sở ra gặp một người đàn bà trẻ tuổi rồi cùng với người ấy, cả đêm hôm ấy đi đâu không biết...
Bao nhiêu người... bao nhiêu chuyện!
Nhưng bao nhiêu người ấy, sao cho bằng Hải được? Hải đã bỏ xa họ quá. Chỉ dăm bảy năm của Hải bằng anh em sống cả một đời người: Hải đã đi xa hơn nhà hát, Hải đã đi xa hơn cả Chợ Dầu, Đinh Bằng, Hải đã đi xa hơn tiệm nhảy đầm, Hải đã đi xa hơn tiệm tạp hóa, Hải đã đi xa hơn sự tình cờ, Hải đã đi xa hơn cả bất cứ đâu nữa.
Hải đi xa vậy và hình như sẽ không ngừng lại bao giờ. Anh em trong sở, thấy thế đem ra bàn luận:
- Nói láo. Rồi nó cũng phải có ngày ngừng lại chứ!
- Chưa chắc.
- Ừ, anh bảo nó ngừng lại thì nó ngừng lại ở chỗ nào?
- Chỗ chết!.
Chương IX
Những người đã nói như thế không phải là những người nghĩ rộng.
Giam kín mình trong bốn bức tường, mà hàng chục người khỏe mạnh chỉ có chung nhau độc một cái cửa sổ để hít thở không khí của Trời cho,họ làm sao mà có đủ một cái trí khôn tốt lành để xét đoán những việc tày trời có quan hệ đến sự sống, chết của người ta được.
Không, không, Hải có chết đâu. Hải sống, với tất cả nghĩa của sự sống. Cứ nhắm mắt mà nói thì người ta cũng có thể biết là Hải chưa chết được.
Trái lại, và một chứng cớ:
Sáng nay, đến sở, Hải đã cho một người bạn ngồi gần mượn một cái tẩy chì. Chàng không cầm từng quản bút một đặt lên bàn, nhưng cầm một lúc cả ba quản bút. Cái nhựa chảy trong người chàng mạnh mẽ thay, chàng quay bên phải, chàng quay bên trái, chàng không làm gì cả, chàng nghĩ, chàng cười, chàng chống tay vào hai má.
Thì ra Hải có một mối băn khoăn trong lòng.
Nguyên do thế này:
Cái nhà mà Trâm ở, có ba gian. Gian dưới thì người đứng trương nhà ở với một bà vợ béo ghen như sư tử và có một đàn con trứng gà trứng vịt. Hải không lấy gì làm sợ cả.
Cái gác Trâm ở trông ra một cái vườn hoa, cái đó đã đành rồi.
Nhưng gian thứ ba… gian thứ ba. Một bọn học trò chung tiền thuê ở đó với nhau. Họ có cả thảy bốn người. Bốn người còn trẻ cả, trông xinh trai cả. Bốn người ấy là bốn người của Đời Mới và có những con mắt lẳng và chẳng có lấy một mống ái nam ái nữ. Bốn người ấy nhảy đầm, hát tiếng Tây và môi khi thấy gái đều lấm lét như thể mèo thấy mỡ.
Tuy vậy, những cái đó vẫn chưa quan hệ.
Cái quan hệ là bốn người ấy lại có mỗi người một cái miệng để cười.
Mặc chúng! Cái đó chưa quan hệ lắm.
Ai còn biết lúc vắng mình thì chúng nó còn làm với nhau những trò gì? Hải thấy thế không thể nào chịu được. Trâm đã dạy chàng lắm điều hay; cái da bụng của nàng rộng rãi lắm, một bàn tay che không đủ. Hải không ngủ gật, Hải cũng biết ghen. Chàng bèn khinh bỉ tất cả bọn bốn anh học trò mất dạy. Nhưng thế cũng chưa đủ. Buổi sáng hôm ấy, chống hai tay vào má để ngồi tính toán chuyện đời, chàng bèn nghĩ ra một kế và chàng sung sướng lắm. Ngay buổi chiều hôm ấy, chàng thắt cái ca vát cẩn thận, đến tìm vợ chồng ông chủ nhà dưới mà nói rằng:
- Thưa ông bà…
Hai vợ chồng người chủ nhà mời Hải ngồi chờ ở ghế.
Không đợi cho họ mời chàng xơi nước, Hải nói tiếp luôn:
- Thưa ông bà, “nhà tôi” hãy còn trẻ người non dạ. Cái tính nó hay la cà, nhờ ông bà coi sóc giúp hộ tôi và khi nào nó có xuống dưới nhàchơi thì ông cũng làm ơn lấy lời phải trái mà khuyên hộ.
Hải lấy làm thú lắm. Như thế, chàng không phải băn khoăng nữa. Bởi vì hai vợ chồng ông chủ nhà sẽ bảo riêng cho chàng biết về cái tình của Trâm đối với chàng, và “nói dại đổ đi” ngộ Trâm có đi chơi khuya, hay bậy bạ gì thì Hải biết, không tài nào giấu được.
Chàng nghỉ thầm: “Ở đời, phải khôn thế mới sống được. Hàng ngày mình đọc báo chẳng thấy chán vạn anh ngờ nghệch, không biết cách giữ vợ nên mất vợ như chơi chứ gì!”
Hải nghĩ như thế là nghĩ xa. Thực ra, chàng không thể nghi ngờ Trâm điều gì cả. Phải, phải, nếu Trâm có hay cười và trò chuyện với bốn người học trò ở cùng nhà, đó cũng chẳng qua là nàng vui tính mà thôi. Hải là bạn lòng của Trâm, một kẻ tóc chân răng của nàng, chàng cũng biết: Trâm không phải là một người bậy bạ. Cái tính đằm thắm của nàng, những sự chiều chuộng chàng ở trên giường, những cái thở dài, những con mắt… những con mắt, không thể làm cho ta nghi ngờ một tí gì. Chàng nghĩ như thế và chàng chắc lắm bởi vì chàng có chứng cớ. Chứng cớ ấy là: Hải chưa bắt được quả tang Trâm phụ tình ở trên giường của nàng hay trong một căn phòng cho thuê bao giờ.
Hai tháng đi qua. Những cây phượng vĩ ở trước cửa Trâm đã bắt đầu đâm nhiều lá xanh non và những cánh hoa đỏ như là máu ở tim đã nở và đã rụng ở trên những thảm cỏ xanh. Ve kêu óng ả: mùa hè đã đến từ lâu rồi. Hải cũng không thể bỏ mẹ ở nhà với các em mà đi, đi biền biệt như trước nữa.
Hải phải ở cạnh mẹ và có hôm cách một ngày mới lại đến Trâm một lần.
Một hôm, vừa đến cửa nhà Trâm ở, chàng vội vàng sắp trèo thang lên gác - vì đã bốn mươi giờ đồng hồ rồi, chàng chưa được gặp Trâm - thì bà chủ nhà gọi giật Hải lại và nói:
- Bà nhà vừa đi khỏi, có dặn tôi nói hộ với ông độ năm giờ mới về được, bởi vì bà nhà phải đi đốc-tờ xem mạch.
- Nhà tôi làm sao thế, thưa bà?
- Thế bà nhà không nói chuyện với ông sao? Nghe đâu bà mệt lắm nên đã hai tháng nay cứ độ vào khoảng từ hai giờ đến bốn năm giờ gì đó thì lại đi đốc-tờ…
Bà chủ nhà đã đứng tuổi và khôn ngoan lắm nên rất giữ gìn lời nói. Bà đã ngần ngừ biết bao lâu. Bà thừa rõ Hải là một gã mê gái lắm. Nhưng… nhưng… bà thương Hải bởi vì Hải hiền lành, Hải thật thà, Hải ít lời, bà muốn, - là lần đầu mà cũng là lần cuối - bảo một cách xa xôi cho Hải biết để mà chàng mở mắt ra.
Nghe nói thế, Hải nhắm mắt lại mà cười:
- Thưa bà, ấy, nhà tôi nó tốt thế đấy. Nó ốm lơ ốm lửng mà không chịu nói cho tôi biết chỉ là tại nó sợ tôi lo phiền.
Trước khi Hải đứng dậy xin phép để ra về, bà chủ lại nói thêm:
- Thưa ông, thế cụ nhà ta, mấy hôm nay đã được mạnh chưa?
- Cảm ơn bà, cụ cháu đã khá, nhưng vẫn còn phải uống thuốc.
- Các cụ mỗi tuổi mỗi già. Nếu ông cho bà nhà ta được hầu hạ cụ, để cho ông đỡ vất vả một chút thì có phải là hơn không?
Hải nói:
- Thưa bà, tôi cũng đương nghỉ thế. Nhưng để còn phải liệu.
Sự thật, việc ấy, Hải đã liệu từ lâu. Chàng đã biết bao lâu dò ý mẹ chàng, mẹ chàng lần nào cũng nói như lần nào: “Con là con trai đã lớn tuổi rồi. Con cũng nên nghĩ đến chuyện gia thất để cho mẹ còn được một chút cháu để bồng. Còn các em con đấy, mẹ nẫu cả ruột gan, con ạ. Con cái đã lớn rồi mà chưa đứa nào nên thân người…” Những câu nói ấy, những khi nào Hải một mình, chàng thường nhắc đi nhắc lại một cách buồn rầu. Biết bao nhiêu lần chàng đã định quả quyết về nói hế cả tình đầu với mẹ để xem mẹ thương phận nào thì được nhờ phận ấy. Không ngờ… thực không ngờ, ngồi mà nghĩ một mình thì dễ, mà vè nhà gặp mẹ thì khó hở môi ra, thành thử Hải cứ trù trừ mãi, chưa nói được. Sau cùng chàng cũng chẳng để ý đến việc nói với mẹ cho Trâm vè hầu hạ nữa. Bởi vì, chính Trâm, nàng cũng có vẻ không muốn về làm dâu bà cụ.
Trâm nói:
- Anh ơi! Chúng ta như thế này chẳng sung sướng rồi sao? Có gì anh lại cứ phải nói với mẹ cưới em mới được?
Trâm nói rất phải: cưới nhau nghĩa là gì? Cưới nhau là lấy nhau về để ở cạnh nhau. Mà Hải với Trâm, thì Hải đêm nào và ngày nào chẳng ở cạnh Trâm?
Vả lại, tự mình sinh ra những việc khó khăn để làm gì? Ai mà chẳng còn biết ở nước mình, vấn đề mẹ chồng nàng dâu là một vấn đề rất khó giải quyết? Hai dạng người đó ở thời nào cũng như nước với lửa, mặt trăng với mặt trời. Họ coi nhau như quân thù. Ở giữa hai người ấy, chỉ anh đàn ông là khổ: được lòng vợ thì mất lòng mẹ, mà được lòng mẹ, thì mất lòng vợ.
- Ôi thế thì khổ quá! Thế thì khổ quá!
Hải đã nghĩ như thế và Hải đã cho thế là chí lý.
Nhưng bây giờ, chàng thấy như thế mãi không được nữa. Không được nữa, bởi vì chàng ghen Trâm, sợ những lúc vắng mình, Trâm bậy bạ, cái đó đã đành rồi. Nhưng sự quyết định hôm nay có một cớ khác mà cớ ấy mới là cớ chính: ngàn rưỡi bạc của Hải đã gần hết, chỉ còn vài trăm thôi!
Chàng đã giật mình khi thấy túi tiền. Túi tiền một khi đã hết, chàng biết bói đâu ra để thuê nhà cho Trâm ở nữa, để cung phụng Trâm nữa và để sống với nhau như trước nữa?
Đã đành là Hải còn có lương mỗi tháng. Mỗi tháng, bây giờ, chàng đã được ba mươi bảy đồng lương thật, nhưng chàng còn em chứ! Chàng còn mẹ chứ! Chàng còn phải đưa cho nhà để đóng họ đã mua sồi những lúc chưa có việc làm ăn chứ!
Hết vài trăm bạc còn lại, Hải không còn biết trông vào đâu nữa. Cái việc nói với mẹ cho Trâm về hầu hạ ở nhà và đỡ đần công việc làm ăn buôn bán là một việc cần.
Chàng đi một mình ở chung quanh bờ hồ. Chàng nghĩ những câu nói đáng thương để làm lay chuyển lòng mẹ.
Chương X
Tối hôm ấy, ăn cơm xong, trong lúc các em chàng bật đèn lên để ra ngồi trông hàng. Hải rót một chén nước và đưa một cái tăm cho mẹ.
Đoạn, chàng chắp tay, lại gần mẹ, ngập ngừng nói một câu như thế này:
- Thưa mẹ, con có một chuyện muốn thưa với mẹ.
Rồi quả quyết, can đảm, Hải không đợi mẹ hỏi, nói luôn về câu chuyện của chàng. Giọng chàng run lên, môi chàng mấp máy, tiếng nói của chàng nhỏ rồi sau to dần dần. Chàng có lúc tưởng rằng mẹ chàng sắp ngăn trở duyên chàng, chàng cần phải bênh vực hạnh phúc, chàng đã ba mươi mốt tuổi, chàng có quyền, chàng có tự do của chàng.
Bà cụ già nghe nói, im lặng. Mắt bà như ứa lệ, vì sung sướng cho con hay là lo sợ cho con gặp một người vợ không ra gì?
- Thưa mẹ, con là con của mẹ, con không dại gì đâu mà mẹ sợ. Sở dĩ con chậm lấy vợ, đó chỉ tại vì con muốn kén chọn cho thực kỹ mà thôi. Đời bây giờ, con đã biết, phân biệt vàng thau khó lắm. Những người đáng làm dâu của mẹ thì ít có, chứ những đồ ăn hại thì nhiều. Bộ cánh tân thời thì chẳng còn ai bằng, nhưng đến công việc thường thức ở trong nhà như thổi nồi cơm cho chín, quét cái cửa nhà cho sạch thì thực cũng chẳng lấy gì làm nhiều cho lắm.Ấy, con ngần ngừ mãi về chỗ đó. Bây giờ, con mới dám nói với mẹ là bởi con đã xem xét nó kỹ lắm rồi, con không thể nhầm lẫn được…
- Thế bố mẹ người ta làm gì, hở con?
Hải hơi ngần ngừ một lát:
- Bố mẹ nó chết cả rồi, nó ở với dì ghẻ nó ở nhà quê. Bà dì ghẻ ấy ác nghiệt, nó không chịu được nên bỏ nhà ra tỉnh đã lâu nay rồi. Nó ở thuê một cái gác nhỏ và ngày ngày vẫn khâu áo trẻ con và ca vát để bán cho những hàng tạp hóa.
Hải lại nói dối mẹ. Chàng đành lòng về câu nói dối ấy lắm, nhưng mà người mẹ già kia, tuy thế, cũng thấy phân vân trong bụng.:
- Mẹ sợ cho con lắm… Ngươi hay thìít mà kẻ dở thì nhiều…
Hải tìm đủ lý lẻ để làm xiêu lòng mẹ. Chàng nói, cảm động và thiết tha đến nổi, chính bây giờ, chàng tưởng như Trâm ở bên cạnh, nghe những lời chàng nói và gật đầu khuyến khích. Đợi một chút nữa, Trâm ơi, mẹ trả lời một tiếng, chúng ta sẽ đường hoàng là một đôi vợ chồng. Trâm sẽ không phải chờ mong chồng ở căn gác hiu quạnh kia nữa, Trâm sẽ về cái nhà của chúng ta để ăn ở với nhau, và rồi Trâm sẽ là một người đàn bà được người ta kính nể như là mẹ bây giờ vậy.
Hải nói:
- Thưa mẹ, vậy mẹ định đoạt cho con thế nào?
Những lời nói cảm động của đứa con mà bà cụ già sắp chết đó chắt chiu từ thuở bé không làm cho bà cụ dùng dằng được nữa. Bà cụ thương con và hy sinh suốt cả một đời rồi, bây giờ chẳng lẽ lại làm trở ngại một việc, mà lại là việc trăm năm của nó? Khó lắm, trời ạ!
Không để thư thả mà xem xét, ngộ nó lấy phải vợ dỡ thì khổ cả một đời nó, mà nếu mình kén chọn cho nó một đám theo ý mình thì đời bây giờ lại bảo là ép duyên.
- Hải ơi, con nói thế thì mẹ biết thế. Mẹ nuôi con cho khôn lớn nên người, mẹ thương con như trời bể, con cũng nên để cho mẹ được ngậm cười nơi chín suối, không vì chuyện con mà nhắm mắt không yên. Vậy thì việc trăm năm của con, con nên nghĩ rất kỹ càng. Đời mẹ thì chẳng còn bao lâu nữa, nhưng mà đời con thì còn dài, còn hy vọng. Đã lâu, con ạ, mẹ đã thấy con đối với mẹ có nhiều khác xưa. Con bỏ cả cửa nhà, con đi đêm đi hôm, con chẳng hỏi gì đến các em con cả. Trong thâm tâm mẹ, mẹ cũng muốn cho con không phải sống lang chạ như thế mãi… nhưng… nhưng…
Thôi, cái việc vợ chồng cũng là việc trời cả. Cứ để xem sao đã. Chẳng biết vợ con ra thế nào? Tân thời hay cũ kỹ? Răng trắng hay răng đen? Nó rồi ra có làm cho sung sướng hay không, chẳng biết? Hôm nào con dắt nó về cho mẹ xem…
Hải thấy như được cởi mở tấm lòng, sau khi nghe những lời nói đắn đo và nhân đức của mẹ già. Sáng hôm sau, chàng đến sở, nhẹ nhàng như con sáo. Đi qua cái gác nhà Trâm ở, chàng thấy cửa sổ còn đóng nên chưa lên báo tin mừng. Chàng nghĩ: " Giờ đây, tất Trâm còn đương ngủ, mình chẳng nên làm phiền vội. Để đến trưa về, còn nhiều thì giờ, mình mới nói được hết cả đầu đuôi. Ba bốn giờ đồng hồ, mình hãm lại, đến lúc thuật lại thì lại càng thêm hứng thú”.
Cả buổi sáng hôm ấy, Hải ngồi không làm gì cả. Chỉ khi nào chủ đến, chàng mới giả cách cúi đầu tẩy, xóa, kẻ… còn thì chàng cứ ngồi thờ thẩn nhìn ra cửa sổ, và lần thứ nhất trong đời chàng, chàng thấy cái cửa sổ ấy bé quá mà không khí trong buồng giấy là thứ không khí nặng nề khó thở. Chàng chán cái sở chàng làm quá. Nhưng anh em nhìn lâu quá nhàm. Chàng chỉ có một bạn thân: Trâm. Chàng chỉ có một ý nghĩ: Hải ơi, chỉ dăm bữa nửa tháng, Trâm sẽ là vợ anh - một người vợ được tất cả mọi người công nhận, kể cả tào Đốc lý!
Chàng vừa nghĩ vừa đưa quản bút lên trên những trang giấy trắng. Chàng vẽ hình người đi lại, có hai chữ T.H. chằng vào nhau. Chàng ngoáy chữ ký cho đều để ngộ nay mai còn phải ký trên tờ giá thú. Chàng tính những người phải mời ăn và, không lấy gì làm nóng nảy quá, chàng đã tập thảo cái thiếp mời như sau này:
Thưa bác,
Thừa lệnh thân mẫu, định đến ngày… thì làm lễ thành hôn cho tôi với Mlle Phạm Thị Trâm, vậy đến ngày… xin mời bác lại tệ xá ở… xơi chén rượu nhạt mừng cho chúng tôi thì chúng tôi lấy làm cảm tạ vô cùng.
Nay kính
TRẦN VĂN HẢI
Chàng viết phác tấm thiếp và không quên chữ “xin miễn tái thính” như thường lệ.
Mười một giờ rưỡi tan sở, chàng gặp ai cũng cười và bắt tay. Chàng nói với một hai câu rồi nhảy xe đi thẳng về chỗ Trâm trọ, vừa đi vừa nghĩ:
“Phải biết. Cả bọn chúng nó rồi sẽ phải ngạc nhiên. Cho mà chế! Cho mà riễu! Rồi xem anh nào anh nấy có phải nhận cái nhân duyên Trâm - Hải là một việc rất tự nhiên không - và cho mà thèm rõ dãi, những quân đểu ạ!”
Đến nhà Trâm ở, kém mười lăm đầy mười hai giờ. Ông chủ nhà cũng vừa mới đi làm về. Hai vợ chồng người này sắp ngồi lên ăn cơm với cái lũ “trứng gà trứng vịt” thì Hải đẩy cửa vào, giơ cao mũ lên mà chào thật to:
- Lạy ông bà ạ. Tôi có một tin nói để ông bà mừng cho: cụ tôi đã nhận lời cho nhà tôi được về hầu hạ! Tôi xin phép ông bà tôi lên gác.
Không đợi nghe những lời “mừng” của vợ chồng ông chủ nhà, Hải trèo ba bực thang một để lên gác. Chàng nôn nóng muốn gặp nàng biết bao! Chàng nóng muốn gặp nàng biết bao!
Năm phút… Bảy phút… Bỗng người ta nghe thấy đánh “sầm” một tiếng. Vợ chồng ông chủ ở dưới nhà đưa mắt nhìn nhau. Sau người vợ lên tiếng hỏi:
- Ông Cả ơi! Ông đánh đổ tủ ở trên gác đấy à?
Không một tiếng thưa.
Ông chồng đoán già đoán hơn, hỏi tiếp theo:
- Ông Cả ơi! Trần nhà sụt đấy à?
Vẫn không một tiếng thưa.
- Ông Hải! Ông Hải!...
Thế là vợ chồng ông chủ bỏ cả cơm nước, chạy như bay lên gác.
Cái cảnh họ trông thấy dưới mắt là một cảnh bi hài kịch.
Hải, hãy còn nguyên cả mũ trên đầu, nằm thẳng cẳng như một cái xác chết trên sàn gác, cạnh giường của Trâm. Mắt chàng trợn lên như là để dọa nạt trời. Mồm chàng sùi bọt, tay chân thẳng dườn ra. Hải vừa bị ngã. Đầu chàng đập phải cái cạnh bàn, lọ hoa có những màu sắc đẹp hơn cả sơn ở chân tường đổ vỡ và bắn vung cả nước vào mũi và má Hải. Mấy cành hoa sen trắng cuối mùa tơi tả chung quanh đấy.
Nước đái quỷ! Gừng! Rượu! Nước giải! Cái khăn mặt bông rấp nước!
- Mau lên, mau lên, không có thì khốn cả bây giờ.
Hai vợ chồng ông chủ tha hồ mà sợ…
Đến khi khênh được Hải lên giường, một mảnh giấy nhỏ rơi ra và người ta thấy “xoẳn củ tỏi” câu này:
Monseur Hải,
Tôi ở với anh chán bỏ mẹ ra rồi: tôi lấy quần áo của tôi, tôi đi Sè- goong với anh Phúc ở gác ngoài đây.
TRÂM
Chương XI
Mãi đến tận bốn giờ chiều, Hải mới tỉnh. Chàng mở mắt ra, thấy vợ chồng ông chủ ngồi gần đấy với một con sen. Chàng cỗ nhớ mãi tại làm sao có việc như thế được. Tại sao lại không phải là Trâm? Tại sao chàng lại thây mình mẩy nặng nề như thế này?
Hải nghĩ mãi, và sau mãi chàng cũng nhớ ra dần dần. Nước mắt chàng ràng rụa như chẳng bao giờ cạn được. Chàng nhắm mắt lại, chàng muốn nôn ra, chàng muốn nôn hết cả những sự sung sướng mà chàng đã hưởng với Trâm: cái con chó! Ai có ngờ nó lại đổi trắng thay đen đến thế!
Chàng kêu nước ầm lên. Cổ họng chàng như bỏng. Nằm như thế này thì nghĩ đến phát điên lên mất. Chàng phải dậy. Không cái gì có thể làm cho chàng quên được sự thống khổ này: chàng phải đi. Và chàng đi được thật. Không có ai ngăn được. Mặc kệ cho chàng chết.
Lúc ấy bắt đầu tháng tám. Một thứ không khí trong trẻo hơn, một thứ không khí âu sầu hơn chan chứa hơn ở cõi đời. Ở trên đường, lá cây đã bắt đầu vàng. Gió như là một đứa trẻ đùa với những lá cây ấy và thỉnh thoảng lại làm rơi vài lá. Những cái lá ấy đã vàng hầu hết. Mùa lá chết! Mùa lá chết! Con chim nhỏ kêu chim chíp như lo sợ ngày đông sắp tới. Nó có vẻ chia buồn với anh. Anh nói với nó như thể nó là người vậy.
Hải thờ dài, nảo ruột: Một năm nay, ta trông thấy mày ba bận. Bận thứ nhất, vào một ngày xuân, ta đứng ở cửa sổ nhìn sang cái vườn hoa trước mặt. Bận thứ nhì là mùa hè, ta thấy mày trên cây phượng vĩ, hôm ta nằm bàn với Trâm về chuyện có nên xin phép mẹ để đem Trâm về nhà hay không. Chim ơi, chim đã nói dối ta, và bây giờ là mùa thu, ta lại gặp người bạn cũ mùa xuân.
Hải đút tay vào túi áo, tiến lên.
Chàng tiến lên như thất vọng và chàng có rất nhiều ý kiến trong đầu. Trời tối dần dần, giờ đã bắt đầu lạnh nhưng chàng cứ tiến, tiến lên như thất vọng.
Chàng tiến lên như thất vọng và, mỗi bước cũng như mỗi ý kiến, chàng thấy vang lên “bây giờ là mùa thu, ta lại gặp người bạn cũ của mùa xuân”.
Trâm ơi, Trâm là một hạng đàn bà cũng như chim trên cành vậy. Nàng có trẻ được mãi đâu. Trời sẽ hại nàng. Theo lời bạn hữu ta đã nói, nàng đã lừa nhiều đàn ông lắm, thế nào cũng có một bữa, một người đàn ông nào đó lại lừa nàng cho ta.
Hải thấy tất cả người chàng khóc. Chàng đi quanh mấy phố rồi lại trở về nhà Trâm ở: “Ngộ nó có quay lại tìm ta chăng!” Căn gác vẫn không một người nào cả. Hải tìm bà chủ, hỏi:
- Thưa bà, tôi nói thế này khi không phải. Tôi nhờ bà có mỗi một việc, thế làm sao bà lại chẳng báo trước cho tôi. Nếu tôi biết sớm một chút, có phải là tôi đã giết được nó rồi…
- Tôi nào có biết đấy vào đâu. Vả lại, ví dụ tôi có biết mà bảo ông chăng nữa thì ông cũng chẳng tin tôi nào.
Hải gật và nghĩ thầm: “Có lẽ! Có lẽ thật! Giả thử bà ây mà có bảo trước thì ta không tin thực!”
Chàng thấy tim chàng muốn vỡ ra, chàng lại thẩn thờ ra phố và đi sang đứng ở cái vườn hoa trước cửa, đưa mắt nhìn cái cửa sổ căn gác của Trâm.
Gớm! Sao hoa lan tiêu hắc thế? Chàng không muốn đứng một phút nào ở chỗ đó nửa - cái chỗ mà mùa xuân vừa đây, chàng và nàng cùng đứng trên gác ngắm sang. Trâm bảo chàng ghì thật mạnh lấy nàng, và chàng, và nàng đều thấy từng đôi trai gái đi trong bóng tối hay ngồi trên ghế đá, tay chân họ quấn quýt lấy nhau như một người.
“Những cảnh ấy, một người cô độc trông thấy, tất phải thèm rỏ dãi”.
Thôi! Đứng mãi làm gì. Những kỷ niệm của chàng đều bị đầu độc bởi câu chàng đã nói - câu nói bây giờ như đầy sự mĩa mai. Chỉ trong một phút đồng hồ, những cái hôn nồng cháy, những sự uốn éo ru lòng cùng những thú vui trong đêm tối đều bay mất hết, không còn lại một chút gì.
Ôi! Cái gì cũng là ký vãng mất rồi, ở hiện tại, bây giờ, chỉ còn một cái thực là sự đau khổ. Hải thấy mình tàn úa, đời chàng đi chóng quá chừng. Chàng có một hồi thích sống. Và chỉ một loáng, bây giờ không còn có cái gì làm cho chàng tha thiết cuộc đời!
Trời mùa thu, càng về khuya càng lạnh. Chàng kéo cổ áo lên, chàng gò hai vai xuống và thọc thật mạnh hai tay vào túi áo. Bờ hồ quạnh hiu. Những cành cây như cái móc, móc cổ người lên. Nước đen lắm và sâu thẩm.
Hải dừng bước, nghĩ thầm: “Đời đã bạc bẽo như thế thì ta còn sống làm gì? Bước chân lên bãi cỏ, đưa cái đầu ra đằng trước một chút, can đảm lên, Hải ơi, thế là hết, không phải phiền não đau khổ nữa”. Chàng nghĩ như thế nhưng mà không làm gì cả.
Một ngọn gió lạnh thổi hắt vào mặt chàng. Chàng cúi đầu xuống, lên hè, đi về nhà. Chàng đi qua chỗ Trâm ở một lần nữa. Lòng chàng trống rỗng như một bãi tha ma. Nước mắt chàng ứa ra, chàng nhìn mờ mờ thấy, như trong một giấc mộng, những cái lá thu nhẹ nhàng bay lượn trước khi rơi xuống đất.
Than ôi! Những cái lá này khi hãy còn là mùa xuân, khi hãy còn đang xanh… Những cái lá ấy rậm rạp và kết thành một cái riềm mất mẻ, che gần kín cả cửa sổ gác Trâm, trước đây, mỗi khi Hải đi làm, thì lại thấp thoáng thấy Trâm ở phía sau, vẫy tay và cười…
ĐOẠN KẾT
Một buổi chiều mùa nực, giữa cái nóng kêu tanh tách ở ngoài vườn, một ông già hom hem như sắp chết.
Có người, một hôm phải nói rằng:
- Giời này, thì đến voi cũng không sống được.
Hải ốm nằm li bì đến hai tháng ở trên giường. Mẹ chàng lo sợ chỉ còn có nửa người. Bè bạn chàng đến thăm và đã định chung tiền mua đồ phúng và vòng hoa. Cái đời nó như là người nhà rồi, dù thế nào mình cũng phải chịu. Ấy thế mà cũng chưa chắc. Đời còn nhiều rắc rối. Một buổi chiều mùa nực, giữa cái nóng kêu tanh tách ở ngoài vườn, có một ông già hom hem như sắp chết. Cửa trong sở mở ra. Bao nhiêu bạn bè đều kêu lên:
- Bác Hải!
Đó là Hải thực.
Bạn bè nói rằng:
- Gớm! Làm cho cả bọn anh em giật mình…
Chính Hải, Hải là người giật mình thứ nhất, khi lại bước chân vào sở, mà trước kia, Hải làm. Cái sở ấy, bây giờ, vẫn nguyên như thế, không thay đổi một tí gì. Chỗ này là cái lò sười. Chỗ kia là cái tường. Ở giữa cái tường và cái lò sưởi, người ta đặt một người vào đấy. Người ấy ngồi cạnh một người khác. Người khác ngồi ở gần một người thứ… ba, bốn, năm, sáu… chín, mười, mười một… mười bảy, mười tám… Mười tám người. Đủ cả. Ông Kỹ cổ, gầy gò ốm yếu, ít lâu nay không thấy mặt, Hải đã có lần tưởng ông đã chết rồi. Không ngờ vẫn thế. Ông cụ ấy không già đi tí nào. Cả những người ở chung quanh cũng thế. Một cái gương treo ở tường chiếu cái hình của chàng lên. Thì ra, trong tất cả những người ấy, chỉ có chàng là thay đổi. Ở người chàng, người ta thấy mùi không khí, mùi đất và mùi không gian. Còn các người khác thì hình như đời bỏ quên ở một cái xó Hà Thành đó, nên thời gian cũng chẳng làm việc khốc hại của nó làm gì. Người ta vẫn đi, người ta vẫn làm việc, người ta vẫn sống. Mà người ta sống thực. Sống một cách êm đềm, nhùn nhặn, không có ai để ý tới làm gì. Sống một cách bình dị, làm việc cả năm chí tối, không có một người nào thương hại, để cứ cuối mỗi tháng lại lây được dăm chục bạc lương về nuôi mẹ già, vợ dại và từng đàn con nheo nhóc…
Hải thấy quý trọng những người lạ ấy. Chàng chạy lại bắt tay từng người một, rung động, thiết tha, hai con mắt rưng rưng như muốn trào lệ.
- Các bác vẫn như thường chứ?
- Như thường… như thường…
Câu trả lời như điệp khúc của một bài ca chán nản. Hải thấy vang lên ở bên tai, ngân ra và kéo dài mãi mãi. Cái thời kỳ yên phận của Hải bây giờ đã xa quá rồi.
Chàng nhớ lại cái hồi, lòng hãy còn lâng lâng, ngày đi làm chín tiếng đồng hồ, trưa về nghĩ một chút, tối về ăn cơm và đọc kiếm hiệp tiểu thuyết, yêu mẹ, yêu bạn và yêu em.
- Ôi! Nếu hồi ấy ta cứ cặm cụi làm một cái vốn để dành, cưới vợ, thì có lẽ ta cũng đã như những anh này rồi. Những cuộc đời tăm tối nhưng đáng cảm động biết bao, đáng kính trọng biết bao, đáng thương xót biết bao!
Hải thấy như đánh mất một cái gì. Chàng ngồi xuống ghế. Nảy là những quản bút, này là cái tẩy, này là những hồ sơ, giấy má.
Chàng nói:
- Các bác! Bây giờ công việc ở trong sở có bận lắm không?
- Có điều bận hơn trước một chút. Nhưng đại khái cũng phải xong.
- Chứ lại gì? Không xong cũng không được.
- Bác nói thế là nói thế nào?
- Tôi nói thế là nói rằng đi làm lày tiền thì ta phải làm hết công việc của người ta giao phó. Ta làm sáng, ta làm chiều, ta hít không khí của gian phòng chật hẹp, ta không biết rằng ở quanh ta người ta sống, mà không những sống ban ngày, lại sống cả ban đêm. Ôi! ở ngoài… ở ngoài… các bác ạ, người ta sống đầy đủ lắm.
Người bạn ngày trước, ngày trước đây, trong một buổi nói chuyện đe dọa lôi mũi Hải, ngồi từ lúc nảy không nói gì, bấy giờ mới cười gằn một tiếng mà rằng:
- Bác Hải, Bác nói phải. Bác biết thế hơn cả chúng tôi. Bởi vì bác đầy đủ. Nhưng thưa bác, chúng tôi không phải bất cứ một người nào cũng có một bà cô, không phải bất cứ một người nào cũng được chia gia tài.
Bác chớ chế chúng tôi. Trước khi có ngàn rưỡi bạc, tôi tưởng bác cũng làm ăn kham khổ như chúng tôi bây giờ. Ai chẳng muốn hưởng cuộc đời, nhưng có tiền thì người ta mới có thể hưởng cuộc đời theo ý muốn của người ta được.
- Chưa chắc.
Lòng Hải như thắt lại. Người chàng thù nhất khi xưa, không hiểu sao bây giờ lại hóa ra người chàng mến nhất. Chàng muốn ôm lấy cố anh ta mà khóc những chuyện não nùng ở cõi đời, chàng thấy một tấm lòng thương bạn tha thiết, chàng muốn quên hết cả những chuyện trước và tha thứ cho anh ta để anh ta thương lại mà tha thứ và xót xa cho chàng.
Đêm hôm ấy, nằm trên giường, để hai tay gối dưới đầu mà dán mắt trên trần nhà suy nghĩ, chán rồi, Hải ngồi dậy, vặn to cai đèn dầu, hì hục viết bức thư này cho người anh em “lôi mũi”.
“Thưa bác,
Buổi chiều hôm nay, lúc tôi lại thăm các bác ở sở,bác đã nói một câu có ý nghĩa làm cho tôi rất bằng lòn. Chắc các bác không để ý. Bác bảo tôi rằng: “Người ta có tiền thì mới hưởng được cuộc đời theo ý muốn của người ta”. Lúc ấy, bác có biết không? Tôi đã trả lời rằng: “Chưa chắc”.
Tôi về càng nghĩ thì thấy câu nói kia càng đúng.
Tiền không thể gây hạnh phúc cho người đời. Tôi đã có tiền chẳng phải nhiều nhặn gì cho cam, nhưng mà tôi đã có tiền. Tôi đã ăn, tôi đã chơi, tôi đã cười. Tôi biết tiền nhiều đến đâu rồi cũng phải hết, nhưng mà có một tâm hồn yên ổn thì hạnh phúc, mà người ta gặt được, không có bao giờ cùng. Những sự sung sướng vật chất đi qua rồi, người ta chỉ còn lại một quả tim đầy hồi hận và đầy tiếc nhớ. Một buổi trưa kia, tôi nằm tiếc nhớ lại hồi chúng ta còn bình thản ngày ngày làm việc với nhau. Tôi nghĩ: “Thú nhỉ! Hay là ta đến chơi với anh em một buổi”.
Và tôi đã đến chơi với anh em một buổi thực. Tôi vui vẻ, tôi nói, tôi không biết tôi nói gì. Bác bảo rằng: “Anh đừng chế chúng tôi”. Không, không, bác ơi. Tôi không dám chế nhạo ai cả. Tôi, bây giờ tôi chỉ cần có người chế nhạo tôi. Nói thực bác nghe, cái đời tôi đương sống, chán không sao tả được. Cái đời trước ở trong sở của tôi – mà là của các bác bây giờ - nói cho đúng, tôi lúc nào cũng vẫn quý, nhưng nếu so không có bốn bức tường thì tôi càng quý hơn lắm lắm. Tâm hồn ta, dạo ấy, thực là yên tĩnh. Nếu cuộc đời cứ như thế kéo dài ra cho đến chết thì tôi tưởng suốt đời ta không có một tội lỗi, không có một việc gì cắn rứt lương tâm.
Những việc tội lỗi ở đời, tôi tưởng, một phần lớn, đều là do những bữa ăn ngon quá, hay trong túi chúng ta thừa tiền quá. Trâm của tôi đi mất rồi. Cái tội lỗi của nàng lại do ở thiếu tiền mà ra. Tiền thừa quá cũng chết, mà tiền thiếu quá cũng khổ. Cuộc đời chỉ là một trò thử thách mà thôi, những sự cám dỗ nhiều lắm chẳng có ai tránh nổi. Trời sẽ xá tội cho những người biết rõ những tội lỗi của mình làm ra.
Tiền của tôi hết rồi. Hôm qua, về, tôi đã toan đi tự tử ngay. Nhưng túi tôi còn đồng bạc cuối cùng. Tôi đã ăn hết đồng bạc ấy, tôi no quá, tôi nằm và nghĩ đến cuộc đời thử thách tôi. Thưa bác, tôi xin nói để bác rõ, tôi thua rồi, tôi mệt rồi, tôi không còn sức nữa; tôi phải chết.
Khúc sông nào tôi chết, tôi đã định rồi. Sáng mai, ăn quà sáng xong, tôi sẽ vào lạy mẹ rồi cam chịu tội bất hiếu với mẹ mà đi ra cái chỗ tôi đã định. Tôi biết anh em sẽ thương tôi và sẽ đi đưa đám ma tôi. Tôi nhờ bác gửi những lời, trước khi tôi chết, tôi cám ơn và chúc tất cả anh em trong sở.
TRẦN VĂN HẢI bái
Lúc Hải viết thư xong thì đồng hồ đánh ba giờ. Đêm đầy thăm thẳm, ngọn gió đầu tiên của mùa đông rít lên ở khe cửa. Trời buồn như một đám tang.
Hải thấy lạnh tâm hồn. Chàng kéo cái chăn chiên lên cổ, định cổ ngủ một giấc để lấy can đảm, sáng mai làm việc.
Tiếng chó sủa ở xa xa, những cây tre kẽo kẹt trong vườn như những người chết nói thầm với nhau những chuyện tâm sự nghìn thu.
Hải không tài nào ngủ được.
Hải không tài nào ngủ được, bởi vì Hải thương mẹ, thương mình và thương em. Than ôi, cõi đời bao nhiêu là hạnh phúc, mai chàng đã phải bỏ nó rồi, chàng thấy lòng thắt lại và tiếc nhiều điều quá.
Hải không tài nào ngủ được. Chàng nói:
- Thế thì ít ra mình cũng phải làm một cái gì chứ ai lại cứ nàm đợi chết như thế này? Chàng nhớ lại những cái nhà… Chàng nhớ lại cả những tiếng kêu, tiếng cười, tiếng khóc… Và chàng lại nhớ mẹ, nhớ lại em, nhớ lại bạn, nhớ lại Trâm.
Vụt một cái, ý tưởng được nhìn cái Hà Thành có bao nhiêu những người, những vật thân yêu so một bận cuối cùng, ý tưởng đó đến với chàng; nhưng sau, chàng nghĩ rằng bấy giờ đã ba rưỡi sáng, mọi người đang ngủ, nên lại nằm xuống mở mắt ra nhìn trừng trừng vào ngọn đèn dầu để ở bạn, bên cạnh đấy có bức thư báo chết.
- Chết! Chết!
Chàng quả quyết tâm lắm. Chàng nghĩ đến tất cả các thứ chết và nhớ lại các người xưa trước khi đi tìm cái chết thì hay làm gì. Có người đi đánh bạc, có người vào một hang đồ cổ, có người đi uống rượu, có người xem sách.
Lúc ấy, Hải mới thấy rằng chàng cũng còn một đống sách trên đầu giường. Những sách này, chàng đã bỏ lâu lắm không đọc, từ khi kiếm được việc làm. Bây giờ, cầm một quyển lên tay, chàng thấy như lâu ngày mới được gặp bạn cũ, một đêm mưa gió hai người nằm trong một gian nhà kín kể lễ với nhau tâm sự.
Tâm sự nào cũng thiết tha cả: bạn lâu ngày mới gặp, còn chuyện gì là chuyển chẳng hay… Nhưng Hải chú ý vào một chuyện ngắn này của một nữ sĩ Thụy Điển viết, bà Selma Lagerloff. Đã đành là Hải không biết chữ Thụy Điển. Chàng đọc bài dịch và chuyện ấy đại khái như sau này:
“Ngày xưa, ở sở Dobbirchson có một người làm công nhật. Y vất vả cả ngày. Tối đến mới được nghỉ. Mà được nghỉ về thì là để thấy ở nhà một mụ vợ nhọc mệt và một lũ con nheo nhóc.
“Một hôm, anh ta đến nghe một ông giáo sĩ giảng đạo trong một túp lều tranh. Ông ấy nói về tội lỗi và địa ngục. Người làm công sở Dobbrichsen không cảm động một tí nào. Anh ta không hối hận mà cũng chẳng muốn được lên thiên đường.
- Cả đơi đã phải làm ở sở Dobbrichsen mà lúc chết lại còn phải xuống địa ngục, thực chẳng còn cái gì thú vị được sinh ra trên đời…
Tất cả mọi người, cả đàn bà con gái, đều nhắc lại câu nói chán đời của anh ta. Bởi vì đó là sự thực, không thể thực hơn được nửa. Lâu dần, câu nói ấy thành châm ngôn.
Bà Selma Lagerloff mới nghĩ rằng: cái anh làm công nhật nọ không thể có một số phận thảm hại như thế được. Chẳng lẽ nào mà anh ta lại không có một hy vọng gì?... Nếu quả thật anh ta không thể hối lỗi được, thì chẳng lẽ anh ta lại không có cách nào để rửa tội cho linh hồn đi sao? Với một người chết đuối… cứu một người trong một đám cháy nhà, giúp đỡ một người nghèo đói… há lại chẳng được ru?
Ác hại! Những việc đó chỉ là những việc tốt mà thôi. Muốn sạch tội, những việc ấy không đủ. Cái hình ảnh người làm công nọ, vì va yaj, ám mãi bà Selma Lagerloff. Bà nghĩ chẳng biết anh chàng này có được tha thứ các tội lỗi hay là phải sa địa ngục?
“Địa ngục tưởng là chỉ cho những kẻ giết người mà thôi”.
Bỗng một đêm…
Đếm ấy là đêm ba mươi tết. Bà Selma Lagerloff nằm mê thấy anh chàng làm công sở Dobbrichsen. Bà theo anh ta đi lên Trời.
Trời xem tên tuổi anh chàng và ôn tồn gọi anh ta lại gần.
Bà Selma Lagerloff kêu lên:
- Thế thì có lẽ nhầm…
Trời hỏi:
- Sao vậy?
- Lạy Trời! Con thực không biết có phải quả là anh chàng nay được tha thứ hết cả lỗi lầm ở trần gian mà được lên Thiên đường thực không?
- Thực thế, con ạ. Anh ta được tha thứ. Anh ta không còn tội lỗi gì cả. Bởi vì anh ta đã làm việc, đã đau đớn, đã khổ cực, không được lúc nào nghĩ ngơi, từ thưở nhỏ cho đến già.
Cửa Thiên đường mở rộng ra. Anh công nhật ở Dobbrichsen bước vào.
Bà Selma Lagerloff tỉnh dậy và nhắc lại câu này: “Cửa Thiên đường mở rộng cho những kẻ nào đau đớn và khổ cực…”
Hại đọc truyện đó hai lần.
Một thứ ánh sáng nặng nề và mờ ám của mùa đông chiếu vào chỗ chàng nằm.
Gà gáy sáng.
Hải tắt đèn và nhắm mắt.
Buổi chiều hôm ấy, chàng cấm cái thư viết cho bạn, lấy một que diêm đốt.
Ngọn lửa bùng lên, tờ giấy đầy chữ kia chỉ còn là một cái tàn than mỏng và khô, các góc quăn lại rồi vở ra từng miếng bay là là trước khi rơi xuống đất.
Cái Đèn Lồng
MỘT ÐÊM ÐÔNG Ở KHÂM THIÊN
Mười bảy ngày trước Tết Nguyên Ðán năm 1950, một phái đoàn nghị sĩ Việt Nam ở Sài Gòn ra Bắc để cứu xét mấy vấn đề chính trị và kinh tế. Bây giờ tôi không nhớ rõ phái đoàn có bao nhiêu người, chỉ biết trong đó có bốn người mà tôi quen biết. Bốn người quen biết đó gồm một kỹ sư, hai chủ báo và một người trước đây làm việc cho một công ty bảo hiểm.
Vì đi dự mấy phiên họp đầu, tôi gặp bốn người bạn đó rủ đi ăn. Ðể đáp lễ, hôm phái đoàn sắp ra về, tôi mời họ đi hát Khâm Thiên. Cả bọn đều nhiều lần nói với tôi rằng ăn mãi cũng chán, muốn thưởng thức một cái gì rất lạ và rất Bắc Kỳ; mà nếu có vể thơ mộng nữa thì càng hay.
Tôi nghĩ không có gì hơn là mời họ đi nghe hát cô đầu. Tối hôm đó khi lên xe tôi thấy một người thứ năm. Một trong hai ông nhà báo giới thiệu:
- Ông bạn già đây không phải là nghị sĩ. Ông ấy là người Nhật giúp việc cho một tờ báo Nhật và được cử sang Việt Nam cùng với phái đoàn Nhật để quan sát và gửi tin tức về cho tòa soạn.
- Hân hạnh. Cuộc tao phùng hôm nay chắc chắn sẽ nhờ đó mà vui vẻ đậm đà hơn.
Tôi cúi đầu chào ông nhà báo Nhật. Ông đưa cho tôi một tấm cạc đề tên ông: Foumiko Tayabashi.
Thưa ông, ông là quý khách. Tôi rất hân hạnh được mời ông đi thưởng thức một nghệ thuật có nhiều dân tộc tính của nước tôi.
Ông Foumiko Tayabashi là một người đã có tuổi, nhưng không khỏe mạnh như những người Nhật khác mà tôi thường gặp. Ông bao nhiêu tuổi? Tôi đoán có lẽ đến năm mươi, nhưng trông da mặt và cặp môi nhăn nhúm cùng với vẻ buồn rầu ở đuôi hai con mắt của ông có người cho ông khoảng sáu mươi hay sáu mươi mốt.
Khi trống và bàn đèn chiếu rượu dọn ra rồi, tôi hỏi thăm mới biết ông là ký giả kiêm văn sĩ. Trước khi Nhật, Ðức, Ý kết liên thành Trục đánh Ðồng minh, ông đã xuất bản hai quyển sách ngụ ngôn nói bóng nói gió nhiều đến cái nạn quân phiệt Nhật, một cuốn thơ và mấy cuốn tiểu thuyết xã hội nói về “số kiếp con người”.
Ông Tayabashi có ý mến tôi hết sức. Không hiểu ông mến tôi như thế là vì câu chuyện của tôi nói với ông hay chỉ là tại ông thấy tôi là bạn văn chương thanh khí đồng ý với ông rằng nền văn minh, văn hóa Ðông Phương chưa chắc đã dở như một số người ở các nước khác vẫn tưởng. Bây giờ ngồi thuật lại chi tiết câu chuyện, có lẽ không phải dễ... Tôi chỉ nhớ là khoảng mười một, mười hai giờ gì đó; chúng tôi gặp nhau không bao lâu mà đã trở thành đôi bạn tuy nhất kiến vi kiến nhưng thương yêu nhau thật tình y như thể đã quen biết nhau từ lâu lắm. Tôi nói:
- Trước đây, tôi có một lần đi qua Nhật ở một ngày. Quý quốc đẹp lắm, nhưng bây giờ, sau Thế Chiến Thứ Nhì, chắc chắn là thay đổi nhiều lắm. Qua những bài phóng sự đăng trên các báo ở Âu Mỹ mà tôi được đọc, con người ở quý quốc cũng có ít nhiều đổi thay, nhưng chẳng biết về phong tục thì có thay đổi gì không? Riêng ở nước chúng tôi đây, chiến tranh cũng làm đảo lộn hết cả trật tự từ ngày xưa để lại. Trái gái đĩ bợm nhiều hơn. Ðó là chuyện trong thời chiến...
Khoảng một giờ đêm thì ba người về. Còn lại một ông chủ báo ở lại trò chuyện với ông Tayabashi.
Ðêm đông ở Bắc buồn như một đám tang đi trong rừng. Chúng tôi nói hết với nhau về thảm cảnh chiến tranh và mỗi người có ít nhất vài ba chuyện để kể cho nhau nghe những oan khổ lưu ly do chiến tranh đã tạo ra cho xứ sở.
Ông bạn chủ báo của tôi đang nằm vội ngồi nhỏm dậy hỏi:
Tôi hỏi thật hai ông: những người gây ra chết chóc, những người tàn sát không gớm tay, có bị một đấng vô hình nào trừng phạt không?
Ông Tayabashi và tôi, trước câu hỏi đột ngột đó, lặng yên không đáp. Ông chủ báo nói tiếp:
- Phần tôi, mặc kệ ai chê là hư bại và chậm tiến, tôi lúc nào cũng tin có quả báo và hối hận. Ðây là một chuyện tôi cam đoan chính tôi nghe thấy và trông thấy: một viên trung úy người Thượng, nhảy dù trong trận đánh Thái Nguyên, có tiếng là đa sát và hãm hiếp đàn bà con gái xong thì giết chết nhưng đánh trận nào cũng thoát chết. Ðến trận cuối cùng, không hiểu vì hơi bom hay đạn bắn xuyên qua hàm lên óc nên ông ta bị mù hai con mắt. Ông ta được giải ngũ và đưa sang Phi Luật Tân để chữa bệnh. Nhưng chữa không khỏi. Ông ta điên điên khùng khùng... muốn chết không chết được... điên vì theo đúng lời ông ta thuật lại cho bạn hữu nghe khi tỉnh cơn điên rằng cứ mỗi đêm khuya ông thấy từ trong hai con mắt mù lòa của ông có những người bé tí nhảy ra, đi đi lại lại và bàn bạc với nhau những chuyện gì nghe không rõ sau đó rồi trèo lên mũi lên trán ông gõ chân theo nhịp và hát cho đến sáng lại chui vào hai lỗ mắt...
Nhưng thế là sự hối hận? Là ảo ảnh? Hay là ma quỷ hiện ra để chọc ghẹo ông?...
Mưa phùn mùa đông ở miền Bắc có cái đặc biệt là hình như biết bay và thấm qua tường và cửa sổ để làm ẩm ướt, giá lạnh cả những căn phòng đóng kín. Khêu to cái bấc lụi của ngọn đèn dầu lạc, chúng tôi thấy tê buốt đến chỗ sâu thẳm nhất của lòng. Ở trên trời khuya, gần sáng có tiếng sếu kêu buồn đứt ruột.
Ông Tayabashi nhìn tôi hỏi:
- Ý ông ra thế nào?
- Thú thật với ông, tôi theo Tây học từ thuở nhỏ, người ta dạy tôi không có ma không có quỷ, chết đi là hết, nhưng tôi không cho thế là đúng. Trái lại, những chuyện như chuyện ông bạn vừa kể đây, tôi tin rất có thể là thực, nhưng tại sao lại thế thì tôi không giải thích được vì tôi chưa học về thần linh học, ma quỷ học. Nhưng tôi không vì lẽ chưa học, chưa tìm tòi, chưa thí nghiệm mà đã khẳng định là không có ma, không có tiền kiếp, không có luân hồi, không có báo ân báo oán.
Ông Tayabashi hút điếu thuốc thứ ba xong, rồi nói:
- Tôi cũng như ông vậy. Tôi cho rằng ở đời không có cái gì “hết”, hóa rồi lại sinh, sinh rồi lại hóa. Người Tây không tin có luân hồi vì tại họ chưa học, chưa thấu, chưa hiểu. Mà họ không tin có ma có quỷ, không tin có quả báo, trừng phạt, không tin có tiền oan nghiệp chướng, không tin có âm phù dương trợ, đó là quyền của họ. Nhưng tôi không thể viện cớ nói họ không tin mà tôi vẫn nhắm mắt cúi đầu tin theo họ.
Các ông đã đọc truyện “Liêu Trai” nhiều rồi phải không? Tôi cũng đã đọc, không phải đọc bản dịch ra tiếng Nhật mà đọc nguyên văn chữ Hán.
Ðọc rồi, có nhiều người cho rằng “Liêu Trai” là chuyện bịa đặt tưởng tượng ra để răn đời. Ðó cũng lại là cái quyền của những người đọc sách. Nhưng riêng tôi thì tôi tin một cách thành thật là tác giả truyện “Liêu Trai” đã kể lại nhiều chuyện có thực vào thời đó.
Tại sao tôi lại tin như thế? Là vì chính tôi đã thấy ma, thấy trước Thế Chiến Thứ Hai, thấy sau khi nước tôi thua trận và chính vào thời kỳ đó những chuyện có thực mà có vẻ liêu trai đã diễn ra khá nhiều mà chính mắt tôi đã được chứng kiến.
Tôi rất tiếc không đem theo một cuốn tiểu thuyết mà tôi viết trước đây đã in thành sách và dịch ra tiếng Anh và tiếng Pháp, để biếu hai ông.
- Ông bạn viết gì trong đó?
- Tôi viết một truyện có thực, nhưng vốn biết rằng nếu truyện thực ấy mà nói là có thực thì nhiều người không tin nên tôi phải ghi là tiểu thuyết. Tiểu thuyết ấy có nhan đề “Cái Ðèn Lồng”. Nếu các ông không ngại mất ngủ, tôi xin thuật lại câu chuyện ấy để các ông nghe.
- Vậy thì còn gì hơn nữa. Những đêm như thế này, có muốn ngủ cũng không tài nào ngủ nổi. Ðược một nhà văn kiêm nhà báo danh tiếng như ông kể chuyện cho nghe, chúng tôi rất lấy làm hân hạnh.
Câu chuyện “Cái Ðèn Lồng” của ông Foumiko Tayabashi như thế này:
NGƯỜI ÐẸP VÀ Ả NỮ TỲ XÁCH ÐÈN LỒNG
Sau mười năm đèn sách cần cù, Ðại Thông Thái Lang đã chiếm được bảng vàng để có thể làm cho chàng sau này có một địa vị khá cao trong nước.
Chàng vội vàng từ giã cái tỉnh lị nhỏ bé mà chàng ở bấy lâu để đến Yên Ðô, cái kinh thành có trăm nghìn phù hoa sa vọng mà người ta có thể hy vọng lập được sự nghiệp lẫy lừng. Những ước mơ của Ðại Thông Thái Lang thực không bờ bến: trẻ tuổi, đẹp trai, mà lại tài hoa, còn có gì ở đời này có thể cản trở được chàng?
Những người đàn bà nhan sắc nõn nà say mê cái vẻ mặt khôi ngô tuấn tú của chàng lúc nào như cũng vơ vẩn một mối buồn não ruột: cái miệng chàng mới dễ thương làm sao, nó đã làm cho biết bao nhiêu trái tim rung động và mắt chàng lúc nào cũng chói lọi sự hiên ngang, khí phách.
Chàng đến Yên Ðô để tìm bước tiến thân, nhưng ở đó, chàng đã gặp một mối tình: Ngọc Hân Nương, một cô gái ngây thơ, trong trắng như một đóa hoa đào chớm nở. Ðại Thông Thái Lang không nghĩ đến chuyện làm ăn sinh sống nữa.
Ngọc Hân là con một của một vị phú thương, được cha mẹ yêu thương cưng chiều, mà vị phú thương ấy lại coi người tình của con gái như là con trai ruột.
Sau ngày cưới, cặp uyên ương đưa nhau đi giấu hạnh phúc ở một làng hẻo lánh rất nên thơ đó là làng Hối Tử, ở ven hồ Bình Hoa thơ mộng. Trong một năm tròn, cặp vợ chồng trẻ yêu nhau quên cả tháng ngày. Nhưng, sang đến mùa xuân năm sau thì Ngọc Hân bị cảm mạo và võ vàng đi, nhan sắc nàng tàn tạ. Rồi một đêm kia, nàng bỏ chàng ở lại, để sang bên kia thế giới.
Mọi người đều tưởng Ðại Thông Thái Lang phen này bị thất tình có lẽ đến điên. Suốt ngày chàng kêu khóc và gục đầu xuống một cái áo dài hãy còn thoang thoảng hương yêu của người đàn bà bạc mệnh. Sự khổ não của chàng làm cho người ta tưởng rằng chàng yêu vợ lúc chết gấp trăm lần lúc sống. Chàng gợi những chuyện sầu thảm, não nùng đến với lòng như thể xem sự sầu thảm và não nùng nó bao la đến bực nào. Ngày ngày chàng ra ấp mộ vợ để kêu thương khóc lóc. Ngọn cỏ ở trên mồ vẫn còn chưa xanh.
Bước một, cúi đầu, cõi lòng tan nát, chàng đi ra cái hồ đựng nước phép và lấy một cái gầu múc nước, kính cẩn tưới lên trên mộ để cho người nằm bên dưới được mát mẻ linh hồn. Ðoạn, chàng khóc nức nở, cổ họng chàng như bị nghẹn; nước mắt chàng trào ra và như đốt cháy con ngươi vậy... vì những tháng ngày hạnh phúc bên Ngọc Hân lại hiện về trong tâm trí...
Một ngày đẹp trời, chàng cùng Ngọc Hân dắt tay nhau đến đền Mỹ Ðế cạnh hồ Bình hoa để viếng thăm mộ của các bậc trung thần và cả những ngôi mộ của gian thần.
Ðại Thông Thái Lang nhớ lắm.
Ngọc Hân Nương, cũng như trăm ngàn người mộ đạo đã đến cái quán ở gần đó mua nước phép để rảy lên mộ. Nhìn cái dáng yêu kiều của nàng yêu kiều diễm lệ làm sao. Tóc nàng xức dầu thơm bóng lẫy như lông quạ, nàng cài những cái trâm nạm ngọc và cái lược đồi mồi vén tóc nàng lên để lộ một cái gáy thanh tân, trắng muốt. Như thấy tôi nhìn âu yếm, nàng quay lại mỉm cười. Tôi nói với nàng rằng:
- Em ơi, rảy nhiều nước lên mộ bực tôi trung nghĩa kia đi, còn anh thì anh sẽ làm vấy bẩn những nấm mộ của kẻ gian thần bạc ác. Và điều đó đã trở thành tục lệ: nước tốt thì dùng để cho linh hồn của những bực anh tài khí dũng, mà cái gì xấu thì lại cho những con người đê tiện.”
Nàng quỳ xuống một cách rất nhẹ nhàng. Hai mắt đen lay láy của nàng như chan chứa một niềm kính cẩn và thương xót. Nàng khẽ trách tôi:
- Không anh ạ. Những người ác cũng như những người hiền, một khi đã nhắm mắt, không còn khác nhau gì hết. Linh hồn của những người tội lỗi, em nghĩ rằng chúng ta phải an ủi nhiều hơn linh hồn của những bực sĩ hiền. Nếu đứng vào địa vị của anh, em sẽ rảy một ít nước lên mộ này, anh ạ. Ta chớ nên đùa ở trước linh hồn của những kẻ đã khuất.
Ngọc Hân ơi, em đã sống, em đã được cha mẹ chiều chuộng, em không hề bao giờ biết sự đau khổ và lòng thù hằn như thế nào. Em chính là một viên ngọc quý giá vô cùng, em mềm mại thơ ngây như một con chim vô tội, em đem một tấm lòng trong trắng để yêu thương cả một đời mà chúng ta đã sinh sống với nhau. Ở trong khung tóc đen lay láy của em, hai lúm đồng tiền lúc nào cũng làm tăng vẻ đẹp của đôi má hây hây đỏ như hoa anh đào, nhan sắc của em tươi thắm như buổi sáng mùa xuân. Chao ơi, người con gái của mùa xuân ơi, em tựa như hoa mới nở chưa gì đã tàn mất rồi. Em chết. Không, không, hình dáng em, kỷ niệm của em sẽ mãi mãi như một cánh hoa, một nụ thắm ở trong tay anh, em ạ...
Cõi lòng tràn tiếc nhớ thảm thương, Ðại Thông đứng dậy, không nghĩ nữa. Chàng đi lang thang ở quanh hồ Bình Hoa và nói lảm nhảm một mình:
- Hồ hỡi hồ, bao nhiêu thi sĩ đã ca tụng vẻ thần tiên của hồ, nào là những buổi chiều xuân, tiếng chuông đền Mỹ Ðế làm rung động làn không khí đầy hương ngát hoa và tiếng chim họa mi ca hát ở trong những rặng anh đào nở tưng bừng như một buổi bình minh; nào là những đêm hè nóng bức mà cây thông cô độc ở trên đồi Kha La Sĩ lại còn ưa nhìn hơn những đóa hoa trăm sắc, và người khách bộ hành đi dưới chân dãy Hoang San đưa tay ra vứt quạt đi để tận hưởng sự vuốt ve của gió mát lùa qua những cành cây bên hồ.
Hồ ơi, sau những bài thơ như bướm đẹp của thi sĩ Bảo Sơn Ðiền, còn ai lại dám nghĩ đến sự đề vịnh những buổi chiều thu ở bên hồ Diễm Tứ, những đàn ngỗng trời bay ở trên đỉnh núi Cao Kha bay ở trên đỉnh Huyền kéo dài những tháng ngày mùa đông giá lạnh ngắn ngủi trong khi thuyền bè trôi mất hút trên mặt nước mịt mù của Hải Vi Giang.
Ðại Thông yêu mến những cảnh hữu tình đó, những cảnh từng chứng kiến biết bao nhiêu kỷ niệm của chàng. Ngày nào cũng vậy, vào lúc mặt trời bóng xế, chàng cũng chắp tay sau lưng đi từng bước bên hồ, mặt mày sầu đau, làm cho người nào trông thấy cũng mủi lòng ngoảnh mặt, không dám nhìn lâu.
Thế rồi chàng bỏ căn nhà mà chàng đã hưởng một năm trời hạnh phúc với Ngọc Hân trong căn nhà nhỏ mà mỗi đồ vật đều nhắc nhở chàng nhớ đến người vợ đã chết yêu quý của chàng. Nào là cái bàn trang sức mà mọi khi nàng đã trau giồi nhan sắc để làm vừa lòng người yêu; nào là những cái gương nào đã soi; nào là những cây trâm kẹp tóc nho nhỏ xinh xinh, nào là... nào là... tất cả những vật dụng mà tay nàng đã cầm hay làm mắt nàng đã trông; cả khí trời nữa cũng là khí trời nàng đã thở.
Cho dù Ðại Thông ở ẩn dật trong một gian nhà sơ sài, ngay trên đười cái đi từ Hối Tử đến Bình Hoa. Tuy vậy ký ức của chàng vẫn không để cho tim óc chàng quên lãng được những chuyện đã qua.
Một mùa xuân nữa lại qua đi. Con chim cá mà trong văn thơ Nhật, các thi nhân vẫn bảo là tiếng kêu thương của mặt trăng; Ðại Thông kêu khóc người vợ bạc mệnh của chàng và dần dần thất thanh đi. Cái cười cái vui vẻ của chàng không còn đến với chàng nữa. Cho tới rạng đông ngày hội lễ Quần Tính...
Ngày mai đây, nếu trời đẹp thì Chức Nữ sẽ đi qua dãy Ngân Hà để gặp Ngưu Lang. Ðại Thông ngồi cạnh bên mộ vợ than khóc:
- Ngọc Hân em ơi, ngày mai đây là ngày hội của Ngưu Lang, Chức Nữ. Năm ngoái, em nhớ không? Em lo sợ vì trời giăng mây âm u quá làm em cầu Phật Trời đừng mưa để cho đôi lứa ấy gặp nhau. Em đã viết bao nhiêu bài thơ thần trên giấy ngũ sắc và cắt những hình người hình thú để treo lên ngọn tre trước nhà để chúc cho hạnh phúc đôi ta bền lâu và cầu mong trời kéo mây đi để nắng lên cho Ngưu Lang Chức Nữ được gặp nhau.
Thế mà... Thế mà năm nay em không còn, số phận anh không bằng Ngưu Lang bởi vì Ngưu Lang, Chức Nữ một năm còn gặp mặt một lần, chứ như anh đây thì mãi mãi, mãi mãi...
Sầu biết bao nhiêu, khổ biết ngần nào! Ðại Thông đi thơ thẩn không thiết gì đến thời gian. Sau cùng, chàng định quay về thì bóng tối lúc ấy đã rải rác ở dưới những tàng cây trên đồng ruộng. Con đường đất nằm dài trước mặt chàng như một dải lưng quấn lấy người chàng. Chàng thấy những cây sồi ngã những bóng đen nặng nề ở vòm trời, như một bức tranh thủy mạc. Buổi hoàng hôn làm cho cảnh vật nhuốm một vẻ mơ hồ, huyền ảo. Ánh sáng còn rớt lại của ban ngày biến đổi thôn quê thành một thế giới hãi hùng, rùng rợn. Những con dơi bay là là mặt đất và chạm cánh vào vai khách bộ hành đi chơi về hơi khuya...
Hôm nay, chàng về trễ hơn ngày thường. Mọi khi ở đây, chàng thường gặp con sen ngồi rửa chén đĩa ở bờ suối, bên gốc thùy dương, cạnh một căn nhà trắng bệch một cách phi thường. Hôm nay, nó cũng đã về từ lúc nào, và chàng lấy thế làm sợ nên ôm đầu chạy, chạy thật nhanh.
Không bao giờ đường về đối với chàng lại xa thẳm như thế này. Chàng chạy mãi, sau tới một cái miễu u uất mà chàng chưa thấy bao giờ cả. Hay là chàng lầm mất đường rồi? Tuy vật, chàng cứ tiến, và sau cùng, đi tới một cái cổng tiêu điều, cột kèo xiêu vẹo, trông có vẻ thê lương làm sao. Những cái tường bằng đá xám, có rong rêu bám từng chỗ nứt ra một cách mệt nhọc; những cánh cửa đã tróc sơn từng mảnh. Chàng lờ mờ nhìn thấy ba chữ đại tự này ở phía trên “Tào Sơn Ðiền”, ba chữ sơn son thiếp vàng, nhưng vì đã lâu ngày nên chỉ còn trơ những vết son then, mọt đục.
Ðại Thông nhìn vào trong, qua những cái liếp ngang thì thấy cỏ dại mọc khắp nơi, bìm sậy leo lên cả mái nhà, trong đền thì vắng ngắt không một tiếng động, không có một bóng người lui tới.
Vừa sợ, vừa lo, chàng cảm thấy một cái gì ghê gớm ở trong cái điêu tàn, cô quạnh này. Chàng bèn chạy, chạy ở trong bóng tối yêu ma, nó đuổi theo chàng... Chàng nghe thấy những tiếng động khẽ ở đằng sau; chàng quay vụt lại để nhìn xem cái gì đang đuổi mình trong cảnh hoang vắng đang say sưa trong giấc ngủ.
Một người đàn bà đẹp tuyệt trần ở trong bóng tối từ từ bước tới gần chàng.
Người đàn ấy đẹp vô cùng mặc một cái áo dài rất chẽn thêu toàn những hoa lá mùa thu, vừa hồng nhạt vừa xanh xám. Dáng điệu của nàng rất nhẹ nhàng yểu điệu mà sắc đẹp của nàng thì không có một tí gì có vẻ là người dương thế; nàng đẹp như tiên nữ: mặt hoa, da phấn, lông mày vòng nguyệt xinh xinh quyến rũ lòng người kỳ lạ. Ðôi mắt nàng như chan hòa ngấn lệ và mái tóc xõa dài bay theo gió và xòa cả xuống vừng trán trắng mịn của nàng.
Ðại Thông như ngây dại, đứng nhìn nữ lang không chớp mắt. Chàng cảm thấy lo sợ; lo sợ vì người đàn bà kiều diễm có nhan sắc này vừa làm cho chàng kinh hãi, vừa làm cho chàng say mê. Sau cùng, chàng nghĩ thầm nếu cứ trân trân nhìn người ta như thế thì bất nhã nên chàng quyết định phải hỏi một câu:
- Thưa tiểu thư, kẻ này có lời xin lỗi tiểu thư. Chắc tiểu thư cũng ra tỉnh như tôi. Tôi đi chơi thơ thẩn ở bên hồ Bình Hoa và lúc về tôi quá bước nên lạc lối.
- Thưa ngài vâng, thiếp ra tỉnh với con hầu vì ngày mai đây là ngày hội Quần Tinh, mẹ già thiếp sai thiếp đi mua vài thứ cần để ngày mai nhà cúng.
Nói đoạn, nữ lang quay lại bảo con hầu:
- Ðêm khuya mà đường vắng, cô cháu mình lại được tiên sinh đây cùng đi, thực là may mắn.
Rồi nàng lại hỏi Ðại Thông:
- Xin hỏi tiên sinh, như thế có tiện không? Tiên sinh bằng lòng để cho chúng tôi cùng đi một thể cho vui chứ?
Ðại Thông thấy lòng mình như mở hội. Không khách sáo gì hết, chàng cùng nói với nữ lang đi song song ở trên con đường vắng vẻ, theo sau là đứa nữ tỳ mặc thanh y, trông y hệt một con đúm (đúm là một thứ búp bê của Việt Nam ngày xưa kết bằng vải mụn), có một cái mặt không hồn, còn mắt, mũi và miệng thì trông như dệt ở trên tơ lụa.
- Thưa tiểu thư ở gần đây?
- Dạ, vâng, ở gần đây, sau cái miễu cổ này.
- Cái miễu cổ đìu hiu vắng vẻ này, chắc là không có ai ở cả?
- Thiếp không rõ, nhưng hình như có một vị tăng già và một chú tiểu tu ở đó.
- Thưa tiểu thư, cảnh thôn dã này buồn day dứt cả ruột gan. Ðối với một người đẹp như tiểu thư, một cảnh trí như thế có vẻ âm thầm quá, thê lương quá.
- Chao ôi, thưa tiên sinh, ngài cứ dạy quá lời, chứ nhan sắc của thiếp liệu đã được bằng ai. Thiếp biết: phu nhân ta ở nhà còn đẹp gấp trăm, gấp ngàn lần thiếp.
Ðại Thông giật mình:
- Vậy ra tiểu thư cũng biết đến tiện nội sao?
- Sao lại không? Ở Hốt Tử này, còn người nào lại không biết Ngọc Hân Nương và gia quyến của nàng. Thực là một trang tuyệt thế giai nhân chỉ có thể đem ví với một cánh hoa mà thôi.
Ðại Thông cúi đầu xuống và lẩm bẩm một mình:
- Chao ôi, nàng đã chết, giữa một mùa xuân tươi đẹp.
- Thiếp đã biết rồi. Và thiếp biết cả rằng ngày nào tiên sinh cũng ra mộ để cầu nguyện và than khóc. Tiên sinh thực là một người chồng thủy chung khả kính: Ngọc Hân Nương đã mất rồi, nhưng ở dưới suối vàng nàng cũng được ngậm cười sung sướng.
Tiếng nói của nữ lang rung động một sự ham muốn và một cái gì từa tựa như muốn làm vừa ý người bạn đồng hành.
Vốn không quen nghe những lời nói ngọt ngào, tâng bốc. Ðại Thông thấy máu chảy mạnh ở hai bên gò má. Chàng ngượng nghịu trả lời:
- Thưa tiểu thư, người đàn ông yêu kính tiểu thư chắc sẽ còn làm vui lòng tiểu thư hơn là tôi đối với Ngọc Hân Nương nhiều lắm. Tôi chắc vậy.
Nữ lang dừng bước lại, nghiêng đầu: nàng có vẻ âu sầu hơn trước và cắn hai làn môi hồng lại hai làn môi xinh tươi lạ lùng mà phong tình thay, nó lại điểm một màu son phấn ưa nhìn, nhưng đã hơi khô một chút.
Ðại Thông Thái Lang, đoán chừng nàng kia đang có một mối sầu u uẩn trong lòng, chàng băn khoăn hết sức và đổi câu chuyện mà chàng đương nói:
- Thưa tiểu thư, xin đoán ngày mai hội Quần Tinh có vui không? Và thời tiết sẽ như thế nào? Ðêm nay, mây trời hơi vẩn đục. Chẳng biết đến mai, tiểu thư có lại còn đi ra tỉnh nữa không?
- Cái đó, thiếp không lấy gì làm chắc lắm. Bởi vì mẹ già thiếp ở nhà nghiêm khắc lạ lùng; sở dĩ hôm nay, thiếp được phép đi như thế này cũng là vì bà mệt, thiếp phải đi thay để mua bán những thứ cần dùng, kẻo không thì không có đồ cúng ngày mai.
- Hôm nay tiểu thư phải đi mua bán thế này thì tôi tưởng đêm mai tiểu thư rất có thể xin phép cụ thưởng công cho phép đi ra tỉnh, bởi vì đêm mai là đêm hội của bàn dân trong nước.
- Vâng, thưa tiên sinh, nếu ngộ thiếp được đi xem hội thì sao?...
- Thì tôi sẽ lại đưa tiểu thư đi, như hôm nay chứ gì! Tiểu thư bằng lòng không? Tiểu thư biết nhà tôi rồi thì phải. Nhà tôi ở trên đường, trước cửa là một rừng thùy dương. Vậy là đêm mai, tôi có thể cứ chờ tiểu thư ở dưới bóng thùy dương, phải không tiểu thư?
- Chẳng dám giấu tiên sinh, thiếp không ưa đi xem hội bởi vì đông người quá.
- Nếu thế càng hay. Mời tiểu thư quá bộ lại nhà tôi nói chuyện và dùng trà với nhau.
- Ồ, thiếp! Thiếp mà lại nhà tiên sinh làm gì?
Nhưng nữ lang lại tiếp ngay:
- Nói thế mà thôi, còn đến thì cứ đến, chớ có gì đâu mà ngại?
Ðôi má nàng không đỏ vì máu bốc lên đó nhiều, nhưng đôi mắt huyền bí của nàng liếc nhìn Ðại Thông thì chứa chan tình tứ, dịu dàng và não ruột.
Sáng sớm hôm sau, Ðại Thông dậy thực sớm và thấy lòng thênh thênh thản thản như là nở hoa. Ðã lâu lắm, chàng chưa thấy vui như thế.
Suốt một ngày, chàng quét dọn nhà cửa và xếp đặt những đồ vật ở trong nhà cho có vẻ thật ưa nhìn. Chàng đặt cái này, chàng xếp cái nọ đến hàng trăm bận mà vẫn như không bằng lòng. Ðến chiều, chàng tấm rửa thật cẩn thận và chải đầu, xức tóc cho thật láng mướt; đoạn chàng đi ra mắc lấy một cái áo lộng lẫy nhất bận vào cái áo mà từ khi vợ mất đến nay chàng chưa bao giờ nghĩ lấy đem ra mặc. Rồi chàng ra tựa gốc cây thùy dương đợi người nữ lang tuyệt sắc mà sự tình cờ đã cho chàng gặp gỡ đêm qua.
Giải Ngân Hà in rõ trên nền trong xanh như một dải dây lưng dát bạc. Phong cảnh hữu tình trong cái lặng lẽ dịu dàng của đêm khuya. Những tiếng vọng của hội hè đưa lại tưng bừng, rộn rịp: tiếng cười, tiếng nói, tiếng não bạt, tiếng thanh la, tiếng chuông, tiếng sáo hòa với tiếng đàn “sa-mi-sen” não nuột...
Ở dưới mái nhà, trong một góc tường kia - như báo một điềm bí mật, như báo một tai nạn vậy - một con nhện lớn đương giăng tơ chăm chỉ bỗng sa xuống ở trước đèn ba dây.
Ngay lúc ấy, người láng giềng của Ðại Thông là Kim Tứ ở trong nhà đi ra. Thấy Ðại Thông tiên sinh! Hôm nay, tiên sinh ăn bận đỏm đang lắm, chắc tiên sinh xem hội cho tiêu sầu thì phải. Tôi hoan nghênh ý kiến tiên sinh lắm lắm.
Kim tứ là một ông thầy tiền định lừng danh. Ông đoán vận hạn, xem tướng bói giỏi nhất vùng này và có thể xem tay, lấy số, đoán vận mạng cát hung như thần.
Ông mình hạc, xương mai và râu ria đã bạc trắng cả ra rồi, nhưng cặp mắt vẫn tinh anh và quắc thước. Một nụ cười luôn luôn nở trên môi, làm cho hai gò má hơi nhăn một chút.
Kim Tứ chăm chú nhìn người bạn láng giềng. Ðại Thông nói:
- Xin kính chào Kim tiên sinh! Kẻ hậu sinh này, hôm nay, không đi xem hội. Kẻ hậu sinh này, hôm nay, có một người đàn bà đến thăm. Thế cũng là hội chứ gì?
- Kỳ thú! Kỳ thú! Tiên sinh nghĩ chí lý. Phải, ta phải đổi cuộc đời đi, chứ cứ sầu bi, than khóc mãi thì cái buồn khổ nó cứ ám ảnh hoài, chẳng làm được vì gì, tiên sinh ạ. Nói thực với tiên sinh, tôi rất lo sợ cho tiên sinh. Có một hôm, tôi xem tướng cho tiên sinh, thấy tiên sinh gặp một cái tai nạn đấy. Phải coi chừng một chút, nhưng rồi cũng qua được.
Nói đoạn, Kim Tứ vuốt râu, thi lễ rồi đi xem hội, trong khi Ðại Thông cứ đứng ở gốc cây thùy dương để trông chờ người đẹp.
Trên đường, thiên hạ kéo nhau đi tấp nập: từng đoàn trai thanh gái lịch xách đèn đi và cười nói huyên thiên.
Mãi tận khuya, mới vắng người. Cảnh thôn dã lại chìm vào trong bóng tối lặng lờ, dầy đặc. Chỉ còn có cái cửa sổ chiếu một thứ ánh sáng vàng vọt xuống bóng tối của đêm khuya.
Ðại Thông không ngừng mắt nhìn con đường mà nữ lang sẽ đến với chàng. Chàng thắc mắc và nóng ruột. Ðột nhiên không nghe thấy một tiếng guốc hay một tiếng hài đi trên mặt đất, Ðại Thông thấy hiện ở giữa khoảng thinh không một cái đèn lồng đỏ vẽ toàn hoa mẫu đơn. Rồi một tiếng người rung động nhỏ nhẹ ở bên tay chàng: “Xin kính chào tiên sinh!”
Dụi mắt, chàng nhìn thấy hai người thiếu nữ tiến lại phía chàng: người nữ tì cầm cái đèn lồng mắc vào một ngọn cây tre và, sau lưng, thì là nữ lang, vẫn kiều diễm như đêm qua, mà ăn mặc vẫn lộng lẫy như đêm qua vậy.
Thoạt tiên, Ðại Thông cũng hơi lấy làm ngạc nhiên sao nàng không chọn một màu áo gì lạ để mặc vào ngày hội, nhưng sau vì sung sướng quá, thành cũng không nghĩ đến điều đó nữa. Chàng mời nàng vào trong nhà và pha trà mời uống, trong khi ả nữ tì vẫn không nói một câu, xin phép chủ đi ra tỉnh. Những ngọn nến cháy rực rỡ, gió lay động những ngọn lửa chập chờn. Bánh trái, hoa quả xếp đầy những cái đĩa lớn đặt trong những cái khay sơn đỏ.
Sau khi đã rủ bức châu liêm xuống rồi, chàng và nàng ngồi cạnh nhau ở trên chiếu và nàng kể đời nàng cho chàng nghe:
- Em vốn sinh đẻ ở Na La, tên em là Giáng Tuyết. Thân phụ em vốn là nhà kinh doanh giàu có, nên chung quanh vùng em ở có nhiều đứa tiểu nhân nó thù hằn. Một hôm, một bọn người cáo xưng thân phụ em giết người nên thầy em bị hình ngục và đã bỏ mình một cách khổ não ở trong chốn sầu thành đó.
Em và thân mẫu em cực nhục quá không dám ở Na La nữa, đành phải dắt nhau về ở đây, từ mùa Xuân. Mẹ em và em có ý định chọn nơi này vì ở đây vắng vẻ, mẹ em chắc chắn có thể sống một cuộc đời kín đáo, không bận rộn mà cũng chẳng phiền ai hết.
Ðến ở đây được ít lâu thì em gặp anh đi với vợ vào đền Mỹ Ðế. Anh bận một cái áo như cái áo hôm nay, anh trông dễ thương quá và vợ anh thì đẹp và tỏ vẻ vô cùng sung sướng. Chẳng dám giấu gì anh, em đã có lúc ghen cái hạnh phúc của vợ anh...
Giáng Tuyết nói thế xong, nhìn chàng một cách thơ ngây. Chàng nói:
- Em bảo gì? Ðẹp như em , sao lại phải nói đến một câu như vậy?
Bằng lòng lắm, nàng cười:
- Em xin anh. Anh đừng nên nói những điều anh không nghĩ.
Ðẹp một cách mê li, quyến rũ, Giáng Tuyết ngồi ở một chỗ tờ mờ tối sáng, cách xa hẳn ánh đèn mà hình như nàng có vẻ sợ sệt, có vẻ muốn xa lánh vậy.
Cũng như đêm hôm qua, vài sợi tóc sòa xuống trán nàng. Ðầu nàng hơi nghiêng về một bên; nàng có vẻ lanh lẹ và tinh nghịch, nhưng đuôi mắt của nàng êm dịu và chăm chú nhìn chàng trẻ tuổi, như nói hết cả những điều mà nàng muốn giấu kín trong tim óc.
Nàng nói:
- Em đến thăm anh hôm nay, thực cũng vất vả, gian truân quá.
Chàng hỏi tại sao.
- Em xin anh, em van anh. Em khổ tâm quá lắm rồi, anh đừng hỏi làm gì nữa cho em thêm đau đớn.
Nói đoạn, nàng đắm mình vào trong một cơn mơ mộng não nùng miệng lẩm bẩm những lời nghe không rõ, in như một đứa trẻ ngây thơ tập nói và lấy hai bàn tay trắng như ngà ra vò nát cái áo nhẹ nhàng như mây khói.
Hôm nay, Ðại Thông uống nhiều rượu “sa-kê” hơn ngày thường nên hơi nóng bốc lên mặt bừng bừng và quả tim chàng đập mạnh. Chàng chống tay vào cằm, chăm chú nhìn Giáng Tuyết có đôi bàn tay đẹp lúc ấy bắt đầu run lẩy bẩy. Nàng ngước mắt nhìn chàng và cười, trong khi chàng ngồi lại gần nàng mà khẽ nói rất dịu dàng.
- Em ơi, anh yêu em ngay từ buổi gặp gỡ đêm qua, ở bên ngôi miễu cỗ. Chiều nay, anh trông đợi em không biết ngần nào và anh có cảm giác rằng nếu em lỗi hẹn thì... thì... Nhưng mà thôi, em đã đến với anh rồi, còn nói đến chuyện ấy làm gì nữa? Anh chắc rằng trời đã run rủi cho anh được gặp em, hoặc chính Ngọc Hân Nương đã xui khiến ra như thế để gây lấy một mối hạnh phúc cho anh vậy. Áng chừng Ngọc Hân thấy anh thương tiếc nàng quá nên đã muốn đem em đến để thay nàng... Nếu anh quả thực không có ý tưởng đó trong đầu thì anh không thể không bao giờ lại tiếp một người đàn bà lạ ở trong căn nhà này. Anh xin lỗi vì đã không thể thu xếp để tiếp em thực chu đáo, nhưng anh xin nói để em biết anh còn quý em hơn là anh đã quý Ngọc Hân Nương nhiều lắm. Này, em xem trái tim anh đập vì em...
Ðại Thông cúi xuống và hôn vào cái cổ ngà ngọc của Giáng Tuyết cái cổ lạnh như băng giá.
Giáng Tuyết thở nhè nhẹ và ôm lấy chàng.
Ðêm lúc ấy đã khuya. Xa, chỉ còn tiếng ễnh ương và tiếng dế kêu sầu ở xa trong những cánh đồng tối đen, vắng ngắt. Những tiếng vang dội của đám hội từ phương tây đưa lại nhỏ dần, nhỏ dần. Thỉnh thoảng lắm, người mới lại nghe thấy tiếng đàn sa-mi-sen não ruột như tiếng khóc.
Giờ này, chẳng hiểu sao con nữ tì còn ở ngoài tỉnh chưa về?
Cửa phòng khách mở rộng. Ở buồng bên, hé lộ một bức màn riềm đỏ như chờ đợi, như sẵn sàng chờ đợi... Những cái gối xếp rắn chắc cũng bọc lụa màu: đó là những kỹ niệm cuối cùng của Ngọc Hân để lại. Ngọn nến để trên án thư sắp tắt, reo sè sè trong đêm khuya. Ðại Thông ôm chặt lấy nữ lang kiều diễm. Nến tắt hẳn. Ở ngoài kia, cái đèn lồng mẫu đơn mà con nữ tì để lại chiếu vào căn buồng một thứ ánh sáng đỏ tờ mờ...
Sáng hôm sau, Ðại Thông không ra nghĩa địa thăm vợ nữa và từ đó trở đi, cứ mỗi buổi chiều, vào khoảng giờ Tuất, giờ Hợi thì Giáng Tuyết lại đến với chàng, bí mật và kỳ dị, theo sau lúc nào cũng có con hầu quái lạ trông giống hệt một con “đúm” bằng mụn vải và không bao giờ rời bỏ cái đèn lồng mẫu đơn.
Ðại Thông bắt đầu sống một cuộc đời kỳ lạ, suốt ngày chỉ ngủ, ngủ những giấc ngủ nặng nề có toàn những ác mộng đến thăm. Chàng yếu sút trông thấy. Ông già bên hàng xóm, Kim Tứ, nhận thấy điều này, hết sức để ý đến Ðại Thông và một buổi trưa mùa thu nọ, đập cửa nhà Ðại Thông mà gọi Ðại Thông thức giấc.
Mặt trời đã lặn dần về phía trời tây, Ðại Thông nằm nghỉ trong buồng kín. Nghe tiếng ông bạn già gọi, chàng giựt mình choàng dậy.
Mắt hãy còn nặng trĩu giấc ngủ dở dang, chàng bước qua mảnh vườn con, mở cửa và hai người ngồi cạnh nhau trò chuyện.
Giấu hết nỗi bâng khuân của mình, Kim Tứ thản nhiên nói:
- Chào Ðại Thông tiên sinh, cả ngày tôi không thấy tiên sinh đâu. Ngài có đau yếu gì không?
- Tôi hơi bị mệt và không hiểu ít lâu nay sao lười tệ.
Nhận thấy da mặt Ðại Thông vàng như nghệ và khí sắc kém hẳn đi, Kim Tứ nói tiếp:
- Ðó là điều bất thường khi người ta đã trẻ lại có nhân tình. Nhưng tại sao tiên sinh lại có vẻ mệt mỏi khác thường và gầy róc đi như vậy? Xin tha lỗ cho tôi đã đường đột nói đến chuyện riêng của tiên sinh, nhưng vì tôi mến phục tiên sinh nên phải chạy tới hỏi thăm và mong tiên sinh hãy bảo toàn quý thể.
Kim Tứ hút một hơi thuốc. Tin chắc rằng có điều gì bất thường xảy ra đây. Ðại Thông bèn nói:
- Tôi gầy lắm thực ư? Tiên sinh làm cho tôi sợ hãi.
Vừa nói chàng vừa giơ bàn tay xanh mướt như bàn tay kẻ chết rồi, sờ lên má.
Kim Tứ bỗng hắng giọng, nói to:
- Thật lạ! Tiên sinh để tôi bói thử một quẻ xem sao.
Nói đoạn, ông lấy ở túi áo ra những cái thể nhỏ bao giờ cũng mang theo trong mình, rồi ông cúi đầu xuống khấn, nhắm mắt lại, vứt bỏ thẻ xuống đất. Rồi ông mở mắt ra, ngả người xuống, chăm chú nhìn như để tìm cho ra bí mật, với một điệu bộ thất vọng, ông giơ tay lên rên rỉ:
- Trời ơi, một tai nạn lớn. Tiên sinh sẽ chết trong vài ngày, hay cùng lắm là một tháng nữa thôi.
- Ôi!
Ðại Thông vừa kêu được một tiếng thì mặt đã tái lại và gần như muốn xỉu.
Hai người bạn lặng yên không nói trong sự hãi hùng, nhưng chỉ trong khoảng khắc mà thôi.
Sau Kim Tứ nói trước:
- Nếu tiên sinh có quý sinh mệnh của tiên sinh thì xin trả lời rất thành thực những câu hỏi của tôi. Tôi biết rằng cứ đêm đêm thì lại có một người lén đến tìm tiên sinh. Có lẽ đó là nhân tình của tiên sinh. Tiên sinh biết người đó đã bao nhiêu lâu nay rồi?
- Trước ngày hội Quần Tinh ạ.
- Có phải nàng đến với tiên sinh lần thứ nhất nhằm đứng hôm hội phải không. Tôi hãy còn nhớ nàng đến với tiên sinh đêm ấy với một chiếc đèn lồng?
- Vâng, nàng đi với một ả nữ tỳ đem theo một chiếc đèn lồng ạ.
Ðông mắt Ðại Thông mơ màng như nhớ lại cuộc gặp gỡ ban đầu.
- Tiên sinh gặp nàng ở đâu.
- Gần đền Mỹ Ðế mà tôi đi lầm đường trở về lối hồ Bình Hoa.
- Mỹ Ðế! Ðền Mỹ Ðế! Có phải đền ấy ở về một miền quê hẻo lánh, chung quanh không có nhà cửa gì phải không?
- Thưa, đúng thế.
- Còn nàng tên gì?
- Tên là Giáng Tuyết. Hình như tôi đã nói cả với tiên sinh rồi thì phải. Ðúng rồi. Nàng nói với tôi rằng nàng vốn là con nhà danh gia vọng tộc, nhưng mẹ nàng và nàng bắt buộc phải ở cách xa thành phố.
- Thật ư? Tiên sinh hãy nghe tôi kể chuyện nàng: Cha nàng là nhà nho. Nàng được nuôi dạy theo một nền giáo dục khuôn mẫu. Mẹ nàng rất nghiêm ngặt, không cho nàng ra ngoài, dù đi với một ả nữ tì. Vì thế nàng phải trốn đi ban đêm. Khi mẹ nàng ngủ, nàng trèo qua cửa sổ để đến với tôi. Ðó là điều nàng đã thuật với tôi trong những buổi gặp gỡ sau này.
- Trời ơi, một người đẹp mà phải trèo qua cửa sổ! Tiên sinh mê nàng quá. Với tôi câu chuyện thật là quái dị; gặp gỡ một thiếu nữ ở gần một cái miễu hoang tàn, rồi thiếu nữ ấy đến nhà người yêu một cách dễ dãi ngay tối đầu! Tôi chẳng thấy dấu gì là dấu đôi bàn chân nhỏ víu ấy trèo qua cửa sổ. Thưa tiên sinh, những sự việc ấy quả bất thường. Phiền tiên sinh tả cho tôi biết mặt mũi nàng ra sao? Nàng ăn mặc thế nào?
- Nàng đẹp một cách lạ thường, dù nét mặt có đượm một vẻ buồn triền miên. Nàng chỉ bận một thứ áo và không bao giờ thay đổi... Quả thật tiên sinh đã làm cho tôi phải suy nghĩ nhiều... Cho đến con nữ tỳ cũng đến vào một giờ nhất định, mang theo một cái đèn lồng cũng không thay đổi, mà đặc biệt là con nữ tỳ không hề mở miệng một câu. Tôi tưởng nó câm, tiên sinh ạ.
- Câu chuyện mỗi lúc lại thêm lạ lùng.
Kim Tứ nghĩ đến sự bí mật ấy và tự hỏi không biết hai thiếu nữ ấy là ai. Mà Ðại Thông thì không tin được nàng Giáng Tuyết - một nữ lang đẹp như tiên - lại có thể cầm được sinh mệnh của chàng trong tay.
- Ðại Thông tiên sinh, bây giờ đã đến lúc ta phải quyết định rồi. Ta phải tìm cho biết gốc tích nữ lang ấy. Nếu không thì tính mệnh tiên sinh chẳng khác ngọn đèn trước gió. Vậy tiên sinh đã có ý kiến gì chưa?
Chàng thanh niên lắc đầu. Trán ông già nhăn lại vì suy nghĩ:
- Nhà tiên sinh chỉ cách nhà tôi có một bức tường thôi, phải không?
Chàng thanh niên gật đầu.
- Như thế tôi sẽ quay về nhà đục một lỗ tường để có thể trông sang xem người con gái đáng sợ ấy ra sao. Tôi van tiên sinh hãy lánh xa ả ấy đi. Thôi, xin phép tiên sinh tôi về, vì đã muộn.
Nói đoạn, Kim Tứ nhặt những cái thẻ ở dưới đất, cầm điếu thuốc ra về.
Ngoài vười, mấy cụm hồng rung động dưới làn gió nhẹ. Ðại Thông đứng dậy bước nặng nề vào nhà trong.
Ngày hôm sau, vừa mới bình minh, Kim Tứ đã sang gõ cửa ông bạn hàng xóm. Trông thấy Ðại Thông, ông thốt lên một câu kinh ngạc:
- Ô, hãy còn sống! Mở toang các cửa ra cho ánh sáng lùa vào.
Lần này, Ðại Thông tỉnh táo lắm.
- Thế nào, ông có trông thấy nàng Giáng Tuyết của tôi không? Nàng là ai? Hôm qua nàng đưa cho tôi một nhành hoa lê. Ông trông đấy, nàng có thật và tôi có bị ám hại gì đâu! Không sợ!
Nói câu ấy xong, Ðại Thông cười có vẻ khoái trá và lấy tay trỏ nhành hoa lê để trên cái án thư bằng gụ đen bóng như mun.
Kim Tứ trông thấy mà ngạc nhiên vô cùng:
- Tiên sinh ơi, hãy tỉnh ngộ lại và thử ngẫm mà xem. Tiên sinh há chẳng biết mùa thu thì làm gì có hoa lê, có chăng chỉ có hoa hoắc lê là cùng.
- Quả thế, khi nàng Giáng Tuyết biếu tôi nhành hoa, nàng cũng đã nói rồi: Em đưa đến cho anh một đóa hoa buồn, em vẫn biết anh thích hoa đào đơn. Sau này, anh gặp gỡ một bạn tình vui tính và chắc rằng anh sẽ quên em ngay. Rồi nàng ngả đầu vào vai tôi mà khóc. Tôi an ủi nàng đừng có ngờ vực một điều nhỏ mọn, tôi yêu tất cả các thứ hoa mà bông hoa tôi yêu hơn cả thì là nàng vậy.
Nhưng có điều Ðại Thông không nói ra và không nghĩ đến là trong tháng này, chẳng vườn nào lại có hoa lê nở. Một nỗi lo sợ không tên xâm chiếm lòng chàng, hai tay chàng nắm chặt lấy ông thầy tiền định:
- Vậy tiên sinh có thấy gì khác thường không? Tiên sinh làm cho tôi sợ hãi quá...
- Tôi phải nói để tiên sinh biết sự thật hãi hùng. Can đảm mà nghe mới được, vì tôi muốn cứu tiên sinh.
... Thiếu nữ đến với tiên sinh chết đã lâu lắm rồi. Tay tiên sinh sờ vào thây ma, môi tiên sinh hôn hít thây ma... Khi tôi trông thấy người yêu của tiên sinh đưa biếu nhành hoa lê, tôi đã định kêu lên. Nhưng trấn tĩnh được, tôi muốn tìm cho ra bí mật; với cái tinh thần của tôi, tôi có thể cho tiên sinh biết: nàng Giáng Tuyết chỉ là ma hiện ở dưới mả lên. Tiên sinh si tình thấy nàng đẹp đẽ uyển chuyển; tôi thì tôi thấy ghê sợ và kinh tởm?
Ðại Thông hoảng sợ, níu lấy áo ông bạn già lạy van xin cứu cho sinh mệnh, nếu còn kịp thời giờ.
Kim Tứ nói:
- Ðêm nay, tôi không ngủ, mặc dầu suy nghĩ nhiều. Chắc chắn thế nào tôi cũng tìm ra bí mật ở ngoài đền Mỹ Ðế. Nhưng vì nghề nghiệp của tôi, các nhà sư sẽ tìm cách làm khó dễ. Tiên sinh làm ơn đi thay tôi. Ngay hôm nay, tiên sinh đến đó dò hỏi nhà sư trụ trì một cách khôn khéo để họ khỏi nghi ngờ gì mình. Tôi chắc có một các bí mật gì ghê gớm ở trong ngôi đền ấy. Tiên sinh nên đi ngay, làm thế nào đến được trước khi mặt trời lặn. Tôi nóng lòng chờ tiên sinh quay về. Biết được tiên sinh thấy những gì ở đó, tôi sẽ tùy cơ cứu tiên sinh.
Ðại Thông có cái cảm tưởng như mình không còn sống nữa. Dù sao chàng cũng cố sức sửa soạn ra đi thật nhanh.
Một bụi rậm gai góc chắn ngang lối vào đền. Ðại Thông không dám vượt qua, đành phải gõ cửa.
Một nhà sư già lắm, gầy đét như con mắm, bận một cái áo xanh đã bạc mầu ló mình ra ngoài cửa sổ và hỏi:
- Ông hỏi gì?
- Bạch cụ, vụ tha lỗi cho câu hỏi tò mò, ở đền ta đây có bao nhiêu vị tăng ni?
Trông thấy bộ quần áo sang trọng của Ðại Thông, nhà sự dịu dàng nói:
- Thưa ở đây chúng tôi chỉ có hai người thôi, tôi và một chú tiểu. Ngài trông đấy, ngôi đền điêu tàn lắm, khách thập phương không hề để chân đến lễ bái bao giờ.
- Thế có nhiều người làm ma chay gì không? Ðại Thông hỏi.
- Bây giờ thì không có nữa. Tuy vậy, cách đây không bao lâu cũng có một đám. Vâng, đúng hai tháng, đám ma một thiếu nữ. Tôi biết mẹ của nàng, còn nàng thì tôi chưa bao giờ gặp mặt.
- Thế nàng không phải là người ở đây sao?
- Mẹ nàng ở tận Nam Hải. Bần tăng nghe nói nàng là thiếu nữ chưa chồng, chẳng biết vì chuyện gì, một đêm ra một cây đa quéo thắt cổ trên cành tự vận.
Ðại Thông nghe mà muốn tắt thở, cổ họng chàng khô lại. Chàng lại hỏi:
- Thế bạch cụ, cụ có nhớ tên thiếu nữ là gì không?
- Hình như tên nàng là Giáng Tuyết.
- Giáng Tuyết?
- Vâng, thuộc về dòng họ Ngân Ðiền. Nếu ngài muốn biết rõ nữa, tôi sẽ chỉ để ngài biết quan tài nàng vì hãy còn để ở trong đền này. Mẹ nàng giao cho tôi coi cái quan tài ấy mà đã hai tháng trời nay rồi, họ hàng cũng không có ai đến nhận. Không được phép, tôi không dám chôn. Ngài sẽ thấy ngay trên quan tài có treo một cái đèn lồng rất đẹp.
Ðại Thông run lên như cái lá trước gió thu, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập. Chàng muốn té xỉu xuống ngay lúc đó. Tuy vậy, chàng cũng cố hỏi thêm một câu:
- Bạch cụ, cụ có thấy sự gì thay đổi lạ lùng ở trong đền này không?
Vị sư già không hiểu ý nghĩa câu hỏi, mở to mắt tỏ vẻ ngạc nhiên và nghĩ có lẽ người này điên chăng, bèn trả lời một câu có vẻ đùa cợt:
- Không, không, chẳng có gì cả. Tuy vậy tối nào tôi cũng bị mất một cây nến. Tôi chắc chú tiểu ăn cắp để bán lấy tiền mua bánh, nếu không phải là chú chuột tha đi.
Ðại Thông lạnh toát người, bỏ chạy, quên cả chào vị tăng già đứng sững ra đấy, vừa buồn cười mà lại vừa bâng khuâng không hiểu chuyện gì cả.
Câu chuyện của ông Foumiko Tayabashi kể cho chúng tôi nghe đến đây thì trời vừa hửng sáng.
Không thể nằm lâu hơn được, chúng tôi đành phải đứng dậy ra về. Riêng tôi thắc mắc không chịu được vì không biết câu chuyện đến đây đã hết chưa, mà tiếc một nỗi là ông Tayabashi lại không nói cho chúng tôi được biết.
Tôi định ngay tối hôm đó sẽ mời cả bọn đi hát nữa để hỏi ông Tayabashi câu chuyện hết chưa và nếu chưa hết thì rồi ra sao, nhưng chẳng may, đến buổi trưa hôm đó, phái đoàn nghị sĩ nhận được một bức điện kêu về gấp vì một biến cố chính trị mới xảy ra tại Sài Gòn.
Tàu bay cất cánh hồi ba giờ chiều. Tôi không kịp ra tiễn mấy ông bạn và do đó không biết gì hơn về chuyện “Cái Ðèn Lồng” của ông Foumiko Tayabashi, nhất là không biết sau này có ai đến nhận chôn thi hài Giáng Tuyết không?
NGỌC HÂN, GIÁNG TUYẾT VÀ Ả NỮ TỲ XÁCH ÐÈN LỒNG
Tháng Giêng năm 1967, tôi có dịp đi chơi thăm mấy nước Á Ðông. Sau hơn một tháng ở Thái Lan, Phi Luật Tân, Ðại Hàn, đáng lẽ phái đoàn báo chí của chúng tôi về nước, nhưng không hiểu vì lý do gì chính trị hay ngoại giao, ông Ðại Sứ ở Nhật lại đánh điện sang Ðại Hàn mời ghé qua Nhật. Theo chương trình ấn định, phái đoàn chỉ lưu lại Nhật ba ngày ba đêm, nhưng đến giờ chót thì máy bay không có, chúng tôi phải chia nhau thành ba nhóm, để về cách biệt nhau.
Vì ngán Sài Gòn một phần mà phần khác cũng vì yêu mến nước Nhật thơ mộng, tôi xin ở lại để về chót. Tưởng là chậm vài ngày, không ngờ chuyến nấy tôi lưu lại Nhật đến gần nửa tháng. Bao nhiêu xí nghiệp, thông tấn xã, báo quán, đài ti vi, bao nhiêu bộ phủ, cơ quan quân sự tôi đều đã đi thăm hết cả trong những buổi đầu rồi, tôi chỉ còn biết la cà đi vào các “đề-các-tô” để xem hàng hóa rồi nay quán này, mai tửu lầu nọ để xem xô (show) và thưởng thức miếng ngon Nhật Bản. Chính lúc ấy, tôi nhớ đến nhà văn kiêm ký giả Foumiko Tayabashi và tôi đã nhờ một người Nhật, thông thạo tiếng Pháp và tiếng Việt từng mở tiệm kem máy ở đường Hàng Trống trước Thế Chiến Thứ Nhì vẽ đường cho tôi tìm đến nhà ông.
Ông ở mãi trên một ngọn núi ở cách xa thành phố Ðông Kinh chừng hai mươi cây số. Tôi đến thăm ông vào một buổi sáng rét dưới năm độ không. Ðứng ở trên căn nhà gỗ nhìn xuống con đường quằn quèo trong vách đá, rộng thênh thang đủ cho hai xe hơi đi lại dễ dàng, tôi thấy những cây thông phủ tuyết trắng xóa, còn sông nước ở đằng xa thì đóng thành băng, người lớn và trẻ nhỏ chơi trượt tuyết đông như hội. Nhưng ở căn nhà gỗ của ông Tayabashi trên đỉnh núi thì im lặng hoàn toàn như một cái am. Cửa đóng kín như bưng, tôi kêu mãi mới có một cô bé chừng mười một, mười hai tuổi ra mở cửa. Ðưa lá thiếp vào trước để tự giới thiệu mình, tôi được một bà trạc lục tuần ra tiếp. Bà này nói tiếng Nhật. Không nghe kịp, tôi xin lỗi. Lúc ấy bà mới nói tiếng Anh. Tôi nghe lờ mờ không hiểu rõ, nhưng câu được câu mất, tôi biết đại khái bà là vợ của văn sĩ Foumiko Tayabashi. Bà lòa cả hai con mắt. Chồng bà chết hai năm nay rồi vì bom nguyên tử, bởi vì hồi đó ông ở Xung Thằng để theo dõi tình hình chiến sự. Bây giờ bà ở với một đứa cháu nuôi làm con nuôi, bởi vì hai con gái và một con trai bà cũng đã chết trận sau chồng bà chừng độ dăm sáu tháng.
Tôi buồn não ruột khi nghe bà nói đến gia cảnh của bà. Tôi nói:
-Thưa bà, bao nhiêu lời chia buồn đều vô ích. Tôi đau khổ bằng cái đau khổ của bà. Ông nhà với tôi là bạn, không ngờ buổi chia tay bữa ấy ở thủ đô Bắc Việt lại là ngày vĩnh biệt.
Bà Foumiko nhất định giữ tôi lại vài ngày. Tôi cố từ chối nhưng không được, đành phải ở lại một ngày. Ăn xong hai bữa, tôi lại được đứa cháu nhỏ đưa đi các vùng lân cận để thăm các đền chùa miếu mạo. Buổi tối, chong một ngọn đèn mờ lên uống nước trà do chính tôi học pha lấy theo lối Nhật, bà Foumiko Tayabashi kể lại cho tôi những thảm cảnh chiến tranh, nhưng bà không khóc, kể cả những khi nhắc đến chồng con đã qua đời. Tôi nói với bà:
- Thực ra tôi không được tiếp chuyện ông nhà nhiều, nhưng chỉ trò chuyện một đêm, một đêm thôi, tôi đã biết ông nhà có một tâm hồn khoáng đạt, giàu tha thứ và dù trải rất nhiều biến thiên, ông vẫn giữ nguyên vẹn dân tộc tính và tỏ ra một lòng ái quốc sâu xa.
Câu nọ giắt câu kia, tôi nhắc lại chuyện “Cái Ðèn Lồng” mà ông Tayabashi đã kể cho tôi nghe vào một đêm đông ở xóm Khâm Thiên, Hà Nội và tôi cũng cứ thực tình nói với bà rằng tôi rất tiếc là không được biết câu chuyện ấy đã kết thúc chưa.
Nghe tôi nói, bà Tayabashi ngạc nhiên không hiểu. Nhưng sau khi đã dùng hết tuần trà, bà có vẻ như nhớ dần dần ra một chuyện đã mờ trong trí óc và bảo tôi:
-À, bây giờ tôi nhớ ra rồi. “Cái Ðèn Lồng”... Phải, chồng tôi lúc sống có viết một cuốn truyện như thế bằng tiếng Nhật và dường như đã đăng từng kỳ trên hai tờ báo Anh Ngữ và Pháp Ngữ.
Nói đoạn, bà gọi cô cháu nhỏ ra nói một hồi lâu bằng tiếng Nhật. Cô cháu đi vào.
Sáng hôm sau, cũng vào lúc dùng trà, bà Tayabashi đưa cho tôi một tập giấy và nói:
- Hôm qua, cháu đã tìm được tập bản thảo này đây. Ông nói đúng: chuyện “Cái Ðèn Lồng” do chồng tôi kể cho ông nghe chưa hết. Tập này viết sau khi nhà tôi ở Việt Nam về, định đưa đăng tiếp, nhưng chẳng may thất lạc nên đành xếp đấy, mà tôi cũng chẳng nghĩ đến việc gửi cho nhà báo làm gì. Bởi vì ông thiết tha đến câu chuyện ấy, tôi xin kính biếu ông để ông coi. Còn tôi, vô phúc cho tôi là bị hư mất cả hai con mắt vì chất phóng xạ nguyên tử, tôi không thể đọc được nên cũng không biết gì. Ông đọc sẽ thấy câu chuyện rồi sau kết thúc ra sao. Tôi xin vì vong hồn của chồng tôi cảm ơn ông vì ông đã yêu mến chồng tôi và đến thăm chúng tôi ngày hôm nay...
Xe xuống đến chân núi, tôi ngửng đầu nhìn lên hãy còn thấy bà Tayabashi đứng dựa vào cánh cửa tiễn tôi và vẫy tay chào.
Muốn giơ tay ra chào lại, mà biết rằng có vẫy tay thì bà ta cũng chẳng thấy gì, tôi cảm thấy chưa buồn như thế bao giờ.
Về đến khách sạn, tôi nằm úp mặt vào cái áo kimônô mới do cô hầu phòng để sẵn cho khách thay mỗi sáng và bảo bồi đừng mang cơm lên sáng đó. Người bồi hỏi tôi:
-Ông bịnh? Có cần phải nói với bác sĩ không, bởi vì khách sạn lúc nào cũng có bác sĩ trông nom.
- Khỏi cần. Nhưng nếu có rượu mà không phải rượu “sa-kê” đem cho tôi một chai nhỏ uống chơi cho đỡ lạnh.Cả buổi trưa hôm đó, tôi cứ ngồi nhắm rượu một mình, vừa nhắm vừa giở tập bản thảo của ông Tayabashi ra đọc tiếp truyện “Cái Ðèn Lồng: để xem có ai đến nhận chôn người con gái tự tử quàn ở trong Tào Sơn Ðiện gần hồ Bình Hoa không.
Chẳng có ai đến nhận xác Giáng Tuyết, kể cả người tự nhận là mẹ nàng đến xin với vị sư trụ trì làm chay cho nàng.
Thế là nghĩa lý gì? Tại sao người ta lại bỏ Giáng Tuyết như thế? Mà Giáng Tuyết tại sao lại tự tử để rồi nằm chết thân một mình trong ngôi đền hoang vắng thê lương?
Thì ra muốn biết đầu đuôi câu chuyện này, người ta phải quay về sống lại một khoảng thời gian đã mờ rồi, cách đó bảy năm trời.
Bảy năm về trước, Tào Sơn Ðiện đã là một cái đền bỏ hoang không có bóng người qua lại vì không có ai dám đến tu ở đó. Lau sậy mọc tràn lan cả lên trên tường vách, mái nhà. Ngói lợp mái ở nhiều chỗ đã sút cả ra; có nhiều bức tường nứt rạn và đêm đêm cầy cáo vẫn đến họp nhau ở đó. Cũng có người bảo rằng bọn trọm cướp lấy nơi đó để hội họp nhau chia công cắt việc làm lễ Ðức Ông rồi từ đó xuất phát để “làm ăn”, nhưng hầu hết mọi người thì tin rằng đó là một vùng đất dữ, có ma, đêm đêm vẫn hiện về tác yêu tác quái, làm cho người dân ở chung quanh hoảng sợ, cứ từ chạng vạng tối cho đến sáng không dám bén mảng từ ngôi đền ấy cho đến hết địa phận hồn Bình Hoa, nhất là ở chỗ cây đa Quéo và cồn “Cơm Toi”.
Một hôm, có một người ở xa xôi đến sinh sống ở đó, nghe thấy câu chuyện đồn đại ấy, không tin, bèn thủ một chai rượu lớn vào ngôi chính giữa Tào Sơn Ðiện uống rượu một mình để xem ma ra thế nào. Hai đêm liền, anh ta đếu uống rượu như thế và không thấy gì. Anh ta cười ha hả và bảo những người chung quanh:
- Các ông xem, toàn là chuyện láo toét cả. Tôi ngồi hai đêm mà có thấy gì đâu!
Người đàn ông bạo dạn này, ngờ là trong những lời đồn đại phao truyền ấy có một âm mưu đen tối của một lũ gian nào đó, bèn cố tìm hiểu tại sao lại có chuyện ma mãnh trong ngôi đền. Một bô lão cho biết:
- Theo chỗ tôi biết, Tào Sơn Ðiện trước đây vẫn là một nơi họp của tuần tráng phụ trách canh gác vùng này. Một đêm kia, vào mùa rét, có ba người con gái đi qua đó nhỡ độ đường, vào xin tuần tráng cho tá túc một đêm để sáng hôm sau đi chợ Na La sớm. Thấy ba cô gái xinh tươi, nói năng ngoan ngoãn dễ thương, bọn tuần tráng ưng liền và xếp một cái ổ rơm cho ba cô nọ nghỉ ngơi. Trong khi đó, bọn tuần tráng quây quần bên một ngọn đèn dầu uống rượu suông.
Một cô gái thấy thế bèn nói:
- Các ông uống rượu thế này, không có cái nhắm, buồn chết. Nhân chị em chúng tôi đi chợ sớm, có mang sẵn thức ăn sáng sớm mai, các ông cho phép chúng em được mời các ông.
Vừa nói, cô vừa lấy ở trong tay nải ra hai cái giò heo. Trời thì rét, cảnh thì buồn, uống rượu suông ngán thực, bọn tuần tráng thấy hai cái giò heo tự nhiên sáng cả mắt lên. Thế la họ chia nhau ra, kẻ thì nhúm lửa, người thì chạy đi lại những ngôi nhà gần đấy mượn nồi, luộc hai cái giò heo lên rồi thái ra mấy đĩa đầy, cùng xoay ra chén trong khi ba cô gái ngồi bên lò lửa nói chuyện làm ăn và tính toán việc buôn bán sớm mai.
Đến gần sáng, cả bọn lăn ra ngủ, nhưng một ông sợ có xảy ra chuyện gì không hay, cố gương mắt để ngồi canh. Thấy một cô trong bọn trằn trọc không ngủ được, anh ta lại gần tán chuyện gẫu. Thế rồi việc phải đến đã đến, hai anh chị đưa nhau ra bụi rậm ở gần đấy bầy chuyện nguyệt hoa. Rồi một anh nữa lôi cô thứ nhì ra. Anh thứ ba thấy anh thứ nhất và thứ nhì hành động như vậy, cũng nổi nóng tán tỉnh cô thứ ba. Đến sáng thì cả ba ông đều hả hê, còn ba cô thì vội vã cám ơn và từ tạ để lên đường đi chợ Na La cho kịp.
- Câu chuyện như thế có dính líu gì đến ma?
- Không. Ông cứ để cho tôi kể tiếp. Vậy là ba cô gái đi chợ Na La. Còn ba ông tuần tráng kia thì hết phiên canh rồi, vội vã về nhà đi ngủ. Một tuần qua đi. Cả ba ông đều bị bịnh chết bất đắc mà không có ai biết nguyên nhân. Họ chết thì thiệt thân họ, cũng chẳng ai buồn để ý, chỉ thương hại cho vợ một anh trong bọn, vì chồng chết hết kế sinh nhai, phải đi tha phương cầu thực rồi đến lúc cùng đường, ẵm hai đứa con nhỏ ở hai tay nhảy xuống hồ Bình Hoa tự trầm.
- Thế sau người đàn bà và hai đứa con ấy hoá ra ma?
- Chính tôi cũng không được rõ. Nhưng theo lời những người đã được thấy ma hiện thì không phải chỉ có một người hay hai người nhưng là nhiều người khác nhau, khi thì là một người đàn bà đẹp đi guốc kêu lóc cóc, khi thì là một bà có thị nữ theo hầu như mệnh phụ phu nhân, nhưng cũng có khi là đàn ông không đầu đi cà kheo, hay một lũ lạc loài rách rưới lê những cái thân hình tàn phế, đầy thương tích nối đuôi nhau than khóc.
- Ông nói không thể nào tin được. Nếu có, sao hai đêm tôi ở đó không thấy một con ma nào hiện ra?
- Cái đó, tôi lại cũng không biết nữa. Tôi biết thế nào, nói thế ấy, còn tin hay không tin là tùy nơi ông.
- Ông nói tức quá. Ðêm nay tôi lại đi nữa và nếu không thấy, mai tôi lại đi nữa xem sao.
Người đàn ông ở phương xa mới tới lập nghiệp ở Hốt Tử nói thế và làm thế thật. Nói cho thật đúng, anh ta muốn tìm biết ma thì ít, nhưng lấy cớ đó để thi hành một âm mưu thì nhiều. Là vì anh ta vốn không phải là người lương thiện, ngay từ lúc còn tấm bé đã sinh sống về nghề đạo chích. Anh ta lấy cớ đó để dễ làm ăn; vì cứ đêm đêm mà ở nhà ra đi, không vì lý do gì hết thì hai bên hàng xóm nghi ngờ và do đó dễ để lộ thủ đoạn và nghề nghiệp bất chính của mình ra. Bắt lấy câu chuyện tìm ma ở Tào Sơn Ðiện, anh ta ngồi đấn đến chừng nửa đêm thì đi “làm việc”, thực không còn gì kín đáo hơn.
Một đêm, anh ta cũng mang một chai rượu đến ngồi như thường lệ, tạ sự là để rình ma nhưng chính lúc đang xếp đặt kế hoạch để vào ăn trộm một nhà giàu có ở trên con đường đi từ Hốt Tử đến hồ Bình Hoa thì tự nhiên thấy ở dưới bàn thờ Ðức Ông chui ra một người gầy ốm, nhưng hết sức lanh lẹn, giắt ở sau lưng một con dao quai, đầu chít khăn tai lợn màu xanh, rảo bước đi ra phía vườn, mà tay thì cầm một cái dây thòng lọng. Tự nhiên, người ăn trộm ở Hốt Tử cảm thấy ngay là người vừa chui ở gần bàn thờ Ðức Ông ra không phải là ma, nhưng chính là một gã ăn sương đồng nghiệp với anh chờ giờ tốt đi làm ăn gần đấy.
Anh lẩm bẩm: Thằng cha này cũng định bắt heo đây. Ờ, ta thử xem tài nghệ nó ra thế nào. Nhưng chẳng biết nó định bắt heo nhà nào vậy?
Ðêm ấy có trăng. Trăng thượng tuần tỏa ra một ánh sáng xanh xao lạnh lẽo, làm cho người đi đêm, mặc dầu ăn sương đã lâu đời, cũng cảm thấy nao nao ở trong lòng. Thêm nữa, tiếng con chim cái ở đàng xa vọng tới lại càng làm cho đêm khuya thêm vẻ não nùng, rùng rợn.
Ðiền Bá tên người ăn trộm ở Hốt Tử theo dõi người đàn ông gầy ốm chui ở dưới bàn thờ Ðức Ông ra được một quãng rất xa, bỗng dừng bước, lấy tay đập vào trán mấy cái mà nói một mình:
“Ủa, sao “nó” lại đi đàng này? Hay là nó cũng định làm ăn ở nhà Ðông Bích tiên sinh?”
Ðông Bích tiên sinh là nhà phú hộ ở xóm Cổ Gà, ngay ở ngã tư Na La, nổi tiếng là giàu có nhất vùng. Trước đây, tiên sinh đi khắp đó đây để buôn bán kinh doanh, tạo ra được một gia tài ức vạn, nhưng vì buồn nỗi đẻ đứa con nào chết đứa con nấy nên vợ chồng ông rút về ở vùng này lấy cây cỏ làm thú tiêu dao ngày tháng, rồi sau đó ít lâu thì có tin chết trong ngục tù. Chắc chắn tiền mặt ông còn nhiều, nhưng hình như lúc ông mất, bà Ðông Bích để ở một nơi kín đáo ở tỉnh thành, một tháng đôi lần lại ra lấy một ít về tiêu; nhưng gà, chim, heo, vịt ở nhà ông thì có cả trăm con, thỉnh thoảng vào làm một hai con heo đem sang vùng khác bán cũng đủ ăn cả tháng.
Chính Ðiền Bá, đêm hôm ấy, định vào “làm” mấy con heo ở nhà Ðông Bích tiên sinh thì chính lúc sắp ra đi để động thủ thì lù lù hiện ra anh chàng ăn sương, gầy ốm thủ một con dao quắm ở lưng, tay cầm dây thòng lọng, xăm xăm tiến về phía nhà ông Ðông Bích. Ðiền Bá lặng lẽ theo dõi anh chàng để xem y hành động ra sao, và nhân tiện cũng muốn học thêm nghề nghiệp nếu anh ta tỏ ra có một tài đặc biệt.
Dưới ánh trăng khuya lạnh, tên ăn trộm ốm o đi như gió, làm cho lắm lúc Ðiền Bá phải chạy theo mới kịp. Thỉnh thoảng, y lại quay lại nhìn lại đàng sau. Mắt y sáng như mắt con cầy trong đêm tối, nhưng mỗi khi y quay lại thế thì Ðiền Bá, nhanh như con beo đã kịp thời lẩn vào bụi rậm, lùm cây để trốn cho y không nhìn thấy anh ta. Quả là tên ăn trộm đi nhanh như gió đến nhà Ðông Bích thật. Ðột nhiên Ðiền Bá cảm thấy như tắc thở. Mắt anh ta vừa nhìn thấy gì? Tên ăn trộm ốm o, mà anh theo dõi từ nãy tới giờ, không chui vào trại Ðông Bích do nơi cửa cái mà cũng chẳng lách hàng rào như tất cả những gã ăn sương khác. Nhẹ như một mũi tên, y nhìn ra sau một cái, nhìn ra trước một cái, rồi giơ hai bàn tay lên trời, phi hành lên trên mái nhà chính của ông Ðông Bích. Ðiền Bá dụi mắt, tưởng mình mê ngủ. Sau một phút định thần, anh ngồi sụp xuống một bụi ô rô gần đó và ghé mắt qua một chỗ lá thưa, nhìn thật kỹ từng hành động của tên đạo chính cừ khôi.
Lúc ấy đã khuya lắm, tứ bề im lặng như tờ. Nhưng ở gian giữa nhà Ðông Bích, người ta vẫn thấy le lói một ngọn đèn dầu. Ðiền Bá bò xuống bò lên tìm một chỗ ẩn núp thật kín đáo mà lại vừa có thể nhìn kỹ vào trong nhà để xem tên ăn trộm, một khi từ trên mái xuống được dưới nhà, thì làm ăn ra thế nào. Nhưng nói thế mà thôi, chớ “làm ăn” sao được? Là vì Ðiền Bá trông thấy rất rõ ràng, ở bên cạnh ngọn đèn, có một cô gái đẹp lạ đẹp lùng đang xõa tóc ngồi thêu. Hình như tất cả nhà đều ngủ, chỉ còn có cô con gái kia thức mà thôi.
Có người thức như thế, hẳn là anh trộm kia phải đợi. Ðiền Bá đoán chừng như thế, nhưng anh ta lầm. Là vì mắt anh trông thấy rõ rệt từng ly từng tí - không thể nào lầm được - anh trộm ở trên mái nhà không đợi mà cũng không chờ, nhưng ngồi xuống mái nhà, dỡ ngói ra một khoảng to bằng cái nong.
Ồ, lạ thật, vậy ra y không sợ cô gái đương ngồi htêu kia biết hay sao? Thôi thôi, phải rồi, mình lầm to. Ðây không phải là một tên chích cược như mình đã đoán, nhưng hẳn đây là một gã hoa tường liễu ngõ, vào nhỏ ra to với người con gái đẹp đang ngồi đó. Mà người con gái này chắc chắn là có tình ý với y tự bao giờ rồi, cho nên giờ này vẫn chưa chịu ngủ, cố tình đợi người yêu đến để bày trò hoa nguyệt, không sai, Ðiền Bá tự nhủ:
“Cứ xem cách thức anh chàng này tới đây một cách quen thuộc rồi dỡ ngói mái nhà một cách hết sức tự nhiên, đủ biết là anh chị mèo chuột theo lối đó đã lâu rồi.”
Gió thổi rào rào vào bụi cây. Con chim cá - tiếng kêu thương của mặt trăng - hót lên một tiếng khắc khoải, vừa não nùng vừa ghê rợn. Bao nhiêu thời khắc đã trôi qua? Ðiền Bá cảm thấy cảnh tượng đương diễn ra trước mắt anh mỗi lúc mỗi ly kỳ bí hiểm hơn. Tên ăn trộm ốm o dỡ xong ngói ở mái nhà Ðông Bích rồi, không trèo xuống mà cũng không ra một dấu hiệu gì để kêu cho cô gái ngửng đầu lên. Rõ ràng, hai năm rõ mười, Ðiền Bá thấy tên ăn trộm kỳ lạ thò đầu xuống qua lỗ hỏng của mái ngói mới dỡ ra, nhìn xuống dưới nhà. Ở xa, nghe không rõ, nhưng Ðiền Bá cảm thấy y không nói gì cả, chỉ thở một hồi rồi đứng thẳng lên trên mái nhà.
Nhưng đúng rồi, nhất định là anh chị này mèo chuột với nhau, vì sau đó một lát thì cô gái đẹp nọ đứng lên, nhìn trước nhìn sau một hồi lâu rồi rón rén đi ra ngoài sân, sau khi đã vặn ngọn đèn nhỏ xuống. Dưới ánh trăng về gần sáng, Ðiền Bá thấy da cô gái trắng nõn nà, nhưng có một vẻ gì như lạnh lùng, như thơ thẩn. Ðiền Bá lại nghĩ:
“Ý hẳn cô này giận dỗi gì đây cho nên gặp tình lang mà không tươi cười. Chắc hẳn là tại anh chàng đến chậm, làm cho cô ta phải chờ đợi trong đêm giá lạnh.”
Vì chú ý đến cô gái nhiều và suy nghĩ vẫ vơ một mình như thế, Ðiền Bá quên hẳn anh chàng ăn trộm (bởi vì theo Ðiền Bá thì ăn trộm tiền, ăn trộm heo hay ăn trộm tình, chung quy cũng chỉ là ăn trộm mà thôi). Khi quay lại, Ðiền Bá đã trông thấy y phi hành từ trên mái nhà xuống đất từ lúc nào rồi và đứng đợi ở ngã ba cây quéo. Cô gái đẹp đi thẳng đến đó một cách rất tự nhiên. Anh chàng ăn trộm đi trước, cô gái nọ đi sau. Ðiền Bá, từ trong bụi ô rô bò ra, cũng nín thở đi theo để cho biết câu chuyện “trên bộc trong dâu” ra thế nào.
Thì y như rằng: cô gái và anh ăn trộm đưa nhau lên một mô đất cao gần đó, cây cối um tùm như thể một khu rừng. Chung quanh mô đất là một cái khe, về đêm, im lặng quá, người ta nghe thấy nước vỗ vào bờ ì à ì ộp. Ðiền Bá đợi cho họ lên được đỉnh mô đất rồi, cùng bò lên trốn vào một chỗ khuất có lá xum xuê che kín, trợn con mắt lên để nhìn rõ xem chàng trai và cô gái làm những trò gì. Ðiền Bá nghĩ thầm:
“Hai người này thực là kỳ lạ. Thường thường, trai gái nào gặp nhau thì cũng phải chuyện trò, mà giả thử cô này có giận ít ra cũng phải trách anh chàng vài câu chớ sao cả hai lại cứ lặng im không nói không rằng như thế?”
Anh cho là lạ kỳ lắm và óc tò mò của anh càng bị kích thích nhiều hơn. Một lát sau, anh thấy tên ăn trộm thở mạnh mấy cái rồi cô gái quỳ xuống rồi đứng dậy liền. Cùng lúc ấy, tên ăn trộm giở cuộn dây thòng lọng ra quăng lên một cành cây. Trời ơi, Ðiền Bá lúc mới đầu trông thấy tên ăn trộm từ Tào Sơn Ðiện bước ra, cầm ở tay cuộn dây thòng lọng, tưởng đâu rằng cuộn dây ấy là dùng để bắt heo, anh ta có biết đâu rằng tên ăn trộm lại quăng cái dây lên cành cây như thể làm phép lạ. Mà phép gì thế? Quăng sợi dây lên cành để làm gì? Ðiền Bá cảm thấy như ngực mình muốn vỡ, mà trái tim sắp sửa nhảy ra ngoài: cô gái đẹp đưa cái đầu vào trong thòng lọng, đạp chân một cái xuống đất và thân cô trong nháy mắt treo tòn ten lưng chừng trời. Ðiền Bá nhắm mắt lại, hét lên một tiếng hình như lớn lắm, đoạn nhảy ba bưới lại chỗ cô gái vừa thắc cổ. Thì nhanh đến thế là cùng. Tên ăn trộm đã lủi đâu mất hút, không còn để lại một vết tích gì. Không kịp suy nghĩ lâu la, Ðiền Bá sẵn con dao quai giấu ở trong túi áo vội vàng chạy lại cắt sợ dây thòng lọng xuống và đỡ cô gái vào lòng. Thân thể cô lạnh buốt, nhưng chưa chết, vì đặt tay vào miệng hãy còn thấy hơi thở nhẹ.
Dưới bóng trăng tà, Ðiền Bá cõng cô gái trên vai, chạy về con đường Na La để trở lại nhà Ðông Bích. Lúc ấy trời gần sáng, một vài con gà rừng đã gáy te te, nhưng chưa có người nào đi lại. Ðến cổng, anh đặt cô gái xuống, giở tài nghệ ra mở cổng trong chớp mắt và xốc cô gái đi qua khoảng vườn, đẩy cánh cửa bức bàn khép hờ vào chỗ cô gái ngồi thêu hoa lúc canh khuya. Ngọn đèn dầu vẫn le lói một làn ánh sáng lờ mờ. Anh khêu to ngọn đèn lên, nhìn một lúc thấy ở gần đấy có một cái giường có gối thêu đệm gấm. Anh bế cô gái đặt lên trên giường rồi mới kêu người nhà thức dậy. Thấy có người lạ mặt đột nhập vào nhà mà Giáng Tuyết tên cô con gái nằm thiêm thiếp chưa tỉnh hẳn, cả nhà hoảng sợ và kêu lên. Mấy người hàng xóm ở gầy đấy nghe thấy tiếng kêu đổ tới và hỏi Ðiền Bá đầu đuôi câu chuyện. Ðiền Bá thuật lại hết câu chuyện, không bỏ một chi tiết nào. Nghe thấy thế bà Ðông Bích run lên cầm cập, muốn té xỉu, phải gọi mãi mới tỉnh. Tất cả nhà và những người hàng xóm bấy giờ mới chia nhau tíu tít đi tìm rượu và gừng làm thuốc hỏa thang để thoa vào khắp mình mẩy chân tay cho Giáng Tuyết. Ðến sáng thì nàng tỉnh. Mọi người xúm lại hỏi sao cô lại mở cửa ra đi như thế và người nào đã dụ cô lên cồn nọ để cho đầu vào trong thòng lọng thì Giáng Tuyết quả quyết là nàng không biết gì hết và tưởng là mình đang cùng với hai người bạn gái đương ngồi trò chuyện vui đùa với bọn tuần tráng ở Tào Sơn Ðiện và thái hai cái chân giò heo cho bọn tuần tráng nhậu nhẹt cho quên buồn trong khi canh gác.
Tại sao lại có chuyện lạ lùng như thế? Thì ra, truy cứu mãi, người ta mới biết rằng Giáng Tuyết nguyên là một trong ba cô con gái đi chợ Na La một đêm rét mướt kia đã cùng với hai người bạn gái khác đến xin nghỉ đêm ở Tào Sơn Ðiện. Không hiểu vì sự tình cờ nào đó, một hôm ông Ðộng Bích đi thuyền qua chợ, ghé lên mua đồ, gặp cô và thấy cô xinh đẹp, có duyên mà lại tỏ ra nết na đứng đắn, ông nhận cô làm nghĩa nữ và đem về nhà nuôi. Vì ông Ðông Bích không con, Giáng Tuyết được thương yêu cưng chiều như con đẻ, cho học hành, dạy thêu thùa. Giáng Tuyết nghiễm nhiên thành ra một tiểu thư nhan sắc, tinh thông thi, họa, cầm, kì nhưng không hiểu tiền oan nghiệp chướng ra sao, cô không mấy lúc được vui và thỉnh thoảng lại tỏ ra như lãng trí.
Cô không biết người đàn ông đến rủ cô đi lên cồn đất. Cô quên hẳn cái đêm ngủ ở Tào Sơn Ðiện rồi bắt tình với một anh tuần tráng, làm cho nhà cử anh này tan hoang để rồi đi đến kết cuộc thảm khốc là vợ anh bế hai tay hai đứa con nhảy xuống hồ Bình Hoa trằm mình. Cô không muốn gì hết, chỉ mong có một điều đùng ai nói tới mình và đừng ai nói đến quá khứ của cô.
Từ đó, cả nhà bà Ðông Bích giữ gìn cô cực kỳ cẩn thận không rời cô nửa bước. Cuộc đời trở lại bình thường, nhưng đùng một cái chừng sáu bảy tháng sau đó Giáng Tuyết một hôm đi chơi về với một con nữ tỳ, lần vào cái mô đất trước đây, thắt cổ trên cây tự tử và lần này thì chết thật.
Con nữ tỳ thấy chủ chết hoảng sợ chạy như điên trong đêm tối và vấp phải một rễ cây, lăn xuống khe cùng chết ngay trong đêm ấy! Về sau này, những người biết chuyện kể lại với nhau rằng con nữ tỳ ấy là một người bạn cũ của Giáng Tuyết, trước dây cùng Giáng Tuyết đi buôn bán ở chợ Na La và chính là một trong ba cô gái đã xin nghỉ trọ một đêm ở Tào Sơn Ðiện và bày trò nguyệt hoa với một anh tuần tráng. Anh tuần tráng ấy bị bịnh hiểm nghèo, không chữa nổi, cầm dao rạch bụng ra tự tử để lại một bầy con và một người vợ, vì túng đói phải đi tha phương cầu thực rồi chết cả trong một trận dịch đậu mùa.
Còn người con gái thứ ba xin nghỉ đỡ ở Tào Sơn Ðiện? Người đó không ai khác hơn là Ngọc Hân Nương người vợ bạc mệnh mà Ðại Thông Thái Lang lấy ở Yên Ðô, cái kinh thành có trăm nghìn phù hoa xa vọng mà Ðại Thông đã đến ở đó với hy vọng lập được những sự nghiệp lẫy lừng. Riêng về cô gái này, người ta không biết rõ tại sao cô có thể từ Na La trôi nổi về đến Yên Ðô và tại sao cô ta từ một cô gái buôn bán tầm thường lại thành ra con gái một đại phú thương để rồi gặp Ðại Thong kết duyên thành vợ chồng chung sống một cuộc đời hoa gấm ở Làng Hốt Tử. Theo lời một số người buôn bán ở chợ Na La sau này kể lại với nhau thì Giáng Tuyết, Ngọc Hân, và Anh Võ (tên con nữ tỳ của Giáng Tuyết) là ba bạn chí thân nhưng về sau vì một chuyện lãi lời gì đó cãi nhau rồi xa nhau.
Ngọc Hân về quê ở Linh Yên nhưng vì không chịu được cuộc đời khổ cực, trốn nhà lên Yên Ðô và tại đó nàng lấy một phú thương, nhưng vì bà vợ phú thương này quá ghen nên đem nàng bán cho một nhà chơi làm con hát đàn. Lúc Ðại Thông lấy Ngọc Hân, nàng đang làm nghề đó, nhưng bởi vì vợ chồng chủ nhà chơi khéo bịp bợm và dàn cảnh nên Ðại Thông tưởng nàng là con nhà quý phái, có cha là phú thương và được tâng tiu chiều chuộng như hòn ngọc.
Ðem tất cả câu chuyện nghe được mà chấp nối lại với nhau, về sau người ta mới biết tại sao lúc Ðại Thông gặp Giáng Tuyết đêm Quần Tinh hội, Giáng Tuyết nói ngay với Ðại Thông rằng nàng biết Ngọc Hân và có ý ghen với số kiếp của Ngọc Hân.
Bây giờ thì cả ba người đẹp ấy cùng chết cả rồi, mỗi người chết một cách nhưng cùng chết khổ sở như nhau. Người ta bảo là tại vì mấy anh tuần tráng bị ba cô làm tan cửa nát nhà, vợ con bị điên đảo mà chết oan chết uổng nên theo dõi mà trả oán.
Sau khi biết hết đầu đuôi câu chuyện. Kim Tứ mỗi chiều lại làm bùa yểm, tự đi dán la liệt ở các cửa ngõ nhà Ðại Thông.
Như thế, ma sẽ không đến trêu chàng được nữa. Ðại Thông một hôm hỏi:
- Thưa tiên sinh, tôi vẫn nghe thấy nói ở đời lấy ân mà trả oán, chớ lấy oán mà trả oán, oán ấy không bao giờ tiêu tan. Sao những người tuần tráng kia không lấy ân trả oán?
- Tiên sinh nói rất đúng. Nhưng lấy ân trả oán, họa chăng chỉ có Ðức Phật làm được mà thôi, chớ thế nhân tầm thường thì thường vẫn lấy oán trả oán, cho nên Nho giáo đã có câu: “Quân tử oán tam niên, tiểu nhân oán nhãn tiền”. Người ta đang sống yên vui, bình dị, tự nhiên có người ở đâu đến làm xáo trộn gia cang của họ làm cho gia đình tan nát, vợ con chia lìa và chết tức chết tưởi, cái oán ấy không phải không hữu lý.
- Thế về phần tôi, tôi có tội tình gì mà ma quỷ đến ám ảnh tôi như vậy?
- Cái đó cũng không lạ nữa. Ông bị ám ảnh, trêu ghẹo vì ông là người đẹp trai mà lại có tài. Thiên hạ xưa nay vẫn ghét những người như thết. Nói rộng ra thì nước này đối với nước kia cũng vậy, người ta chỉ muốn chiếm những nước giàu có, bờ xôi ruộng mật, chớ ai lại đi xâm lăng những nước nghèo khó bao giờ.
Kim Tứ cấm Ðại Thông bất cứ vì một lẽ gì cũng không được ra khỏi cửa trong hai mươi mốt ngày, và cứ vào khoảng giờ sửu mỗi đêm lại phải thức dậy đọc một bản kinh cứu khổ.
Linh hồn nàng Giáng Tuyết hẳn cũng có đến lảng vảng ở nhà chàng, nhưng chỉ lảng vảng ở ngoài, không vào được trong nhà vì có những đạo bùa yểm rất linh thiêng. Hai mươi mốt ngày trôi qua, Ðại Thông đã quên dần Giáng Tuyết và sức khỏe đã hồi phục. Mùa đông qua đi, xuân tới với một bầu trời xanh ngắt và xanh lá non. Ngoài vườn, sự nức mùi hoa thủy tiên. Trên các cây anh đào, hoa nở đỏ như các cô tiên mặc áo hồng đang múa.
Trông hoa nở, Ðại Thông trạnh lòng nhớ đến hai người con gái là Ngọc Hân và Giáng Tuyết, muốn đến thăm mộ Ngọc Hân và tìm đến Tào Sơn Ðiện xem quan tài Giáng Tuyết có ai đến nhận không, nhưng nhớ lời dặn bảo của Kim Tứ, chàng lại thôi, không dám. Nghe những người ở chung quanh đấy nói nhỏ với nhau: vì ba bốn tháng sau gia đình ông Ðông Bích cũng không thấy lại nên sư cụ trụ trì ở đó phải tự ý đem chôn nàng ở miếng đất sau chùa.
Ðó là vì gia đình Ðông Bích sau khi làm chay ở chùa về được mấy ngày thì gặp tai biến. Nguyên trước đây ông Ðông Bích lúc còn buôn bán ở tỉnh thành có giao du với một bọn quân nhân. Bọn này, đi đánh trận xa ở Á Ðông, có gửi ông một số vàng khá lớn. Yên trí họ đi là chết, Ðông Bích cướp sống cả chỗ vàng rồi dọn về Hốt Tử, nhưng chẳng may trong bọn quân nhân đi chiến trận ở xa xôi lại có một vài người trở về. Thăm dò tin tức, biết được chỗ ở của ông Ðông Bích, họ bèn tìm đến để hỏi thì bà Ðông Bích không chịu trả mặc dầu có chữ của ông Ðông Bích biên nhận rành rành. Những người quân nhân mất của, vô cùng uất hận, một đêm đột nhập nhà Ðông Bích giết bà và mấy đứa cháu, không chừa một người nào.
Thi hài của Giáng Tuyết vì thế đành bỏ thối ra đến nửa năm trong một gian phòng nhỏ, ẩm thấp, đêm đêm le lói một ngọn nến. Ðứng ở đầu hòm, có một cái hình người trông như hình con đúm, tay xách một cái lồng đèn mẫu đơn.
Một hôm, một người bạn thân của Ðại Thông tên là Bán Phúc đến thăm chàng và rủ chàng đi du ngoạn.
- Ở nhà mãi làm gì? Cảnh trời sáng lạng biết ngần nào. Cứ giam mình trong học mãi thế này thì ốm mất. Chuyện “ma” ấy đã cũ lắm rồi.
Ðại Thông khoác cái áo mỏng và bình tĩnh ra đi với bạn...
Ðại Thông thấy rất khoan khoái đã được dự một buổi du ngoạn thú vị bên hồ Bình Hoa.
Nước hồ lăn tăn gợn sóng, phản ánh màu da trời xanh ngắt. Ðỉnh núi Hữu La, thay vì tuyết băng trắng xóa bắt đầu có lá xanh tươi, dưới chân núi hoa đào đua nở, hương thơm ngát cả bầu trời.
Hai người bạn thân vô tình cùng hát lên một câu:
“Nếu không có rượu Hoàng Hoa...”
Rồi họ rủ nhau vào một quán rượu bên bờ hồ, ngồi xuống chiếu trải sẵn và uống hết chén này đến chén khác. Ðến chén thứ chín, thứ mười Bán Thúc tiên sinh đã ngà ngà say, nói huyên thuyên. Tiên sinh đến ngồi bên bác lái buôn ở thành Hoành Tân để nói chuyện về mối tình duyên kỳ ảo giữa ma và người. Ðại Thông lấy làm khó chịu nên bỏ ra đi chỗ khác.
Chàng đi chếnh choáng theo ven hồ vừa hát vừa cười một mình thì thấy ở ngay đấy có một chiếc thuyền bỏ không, chàng bèn bước xuống nằm nghỉ một lát cho đỡ mệt. Chàng nằm xuống sàn thuyền, lấy tay làm gối, và ngủ một giấc thật say. Bỗng chàng hé mắt vì vừa ngửi thấy một mùi thơm thoang thoảng... Xa xa, tiếng chuông chùa vẫn ngân vang rền rĩ... Ðại Thông giơ hai tay lên ôm lấy đầu. Chàng tưởng như trông thấy trong bóng tối một làn ánh sáng đỏ hé ra... ánh sáng của chiếc đèn lồng. Ðại Thông một tay cầm mão tần ngần còn một tay cầm nhánh hoa có ai đó để trên thuyền tự lúc nào để lên mũi ngửi. Mùi thơm của hoa làm chàng ngất ngây...
Hoàng hôn đổ xuống ở bên kia sông. Du khách đã lả tả ra về. Bỗng nhiên một tiếng chuông chùa ngân nga đâu đó làm Bán Phúc tiên sinh như chợt tỉnh vội hỏi:
- Ông bạn của tôi đâu rồi?
Nói đoạn. Bác Phúc vội trở dậy đi tìm quanh hồ và gọi ầm lên. Không một tiếng trả lời, có chăng chỉ là tiếng vang đáp lại như giễu cợt. Ông lại quay về chỗ cũ, trong lòng bối rối. Chính lúc đó ông trông thấy trong khoang thuyền mập mờ cái mão đỏ của Ðại Thông và bên cạnh còn có một cành hoa lê còn đẫm sương...
Sài Gòn, trọng xuân Kỷ Hợi.
Vũ Bằng
Chàng Kim người Bắc, cô Kiều người Kinh
I
Chàng Kim đẻ ở Hà Nội.
Cô Kiều là gái Huế.
Chàng Kim mười sáu tuổi.
Cô Kiều vừa mười lăm.
Chàng Kim tên là Hải.
Cô Kiều tên là Trâm.
Trâm và Hải biết nhau và khổ vì nhau như sau này: Ông Cả Lâm và bà Cả Lâm, sinh ra Hải, vỡ nợ ở Bắc. Ông bà vào Huế thuê nhà ở Đông Ba Bến Tượng mở một ngôi hàng vừa bán giấy, vừa bán tạp hóa. Hàng tạp hóa không chạy. Giấy chạy hơn. Đêm đêm họ ngồi trên gác nghe những câu "hò" ở ngoài sông vọng vào và đếm giấy từng "lam" năm trăm tờ để cho người nhà nhuộm ra màu xanh, tím, đỏ, vàng.
... Hò ơ!
Anh là người đáo xứ đường xa,
Nghe em có nghĩa bôn ba đến hò...
... Hò ơ!
Tàng bằng âm chất lưỡng tương phò,
Tới đây kiểng đẹp ai rủ hò hò chơi!
Hai vợ chồng bác Kiểm nả Hồ Sĩ Hòe, sinh ra Trâm, thì làm đậu hủ bên An Cựu. Họ không rán đậu như ở Bắc. Người Kinh ăn đậu sống. Ông Cả Lâm và bà Cả Lâm, ngày nào cũng cho Hải sang mua. Đồng chịu, đồng trả, hai nhà thành quen biết.
Bỗng có việc này xảy ra:
Ông Cả Lâm, một hôm có khách ở Bắc vào, cho Hải sang mua mười bìa đậu và dặn lấy những bìa đậu tốt. Những bìa đậu của bác Kiểm nả đưa cho Hải cầm về ngửi chua loét và đếm ra chỉ có tám bìa. Bác Kiểm nả xưa nay vẫn có tiếng là luộm thuộm, nhưng, lần này, thì không thể bỏ qua được, bởi vì ông Cả "có khách ở tận ngoài Bắc vào chơi". Ông Cả sai Hải cầm sang đổi lấy những bìa đậu tốt và "bảo cho bác Kiểm biết rằng lúc nãy bác đếm thiếu mất hai bìa". Bác Kiểm bảo "chỉ có đậu hủ thế thôi, muốn ăn thì ăn" và lại có ý nghi ngờ Hải ăn vụng mất hai bìa, về nhà, sợ, nói dối ra như thế!
Ông Cả Lâm không nói gì cả. Đến chiều, ông cho người nhà sang bên An Cựu đòi hai hào bác Kiểm nả còn chịu lại. Hôm sau, ông bảo bà Cả và Hải:
"Sơn bất cao, thủy bất thâm, nam đa trá, nữ đa dâm", thiên hạ nói chẳng sai bao giờ.
Bà Cả bảo: "ừ!" và không cho Hải sang bên An Cựu nữa.
Bác Kiểm nả và vợ, lâu lâu không thấy bà Cả và Hải sang chơi, bắt đầu còn hỏi han sau dần dần cũng quên đi. Họ nói:
- Muốn qua thì qua, không qua thì thôi, không cần.
Trâm nghe thấy bố mẹ nói với nhau như thế lảng ra chỗ khác. Nàng thấy xốn xang tấc lòng. Trâm sợ rồi ra không được gặp Hải nữa. Vì Trâm yêu Hải lắm. Trâm kém Hải một tuổi: gái hơn hai, trai hơn một, như thế thì tốt. Về phần Hải, Hải lấy việc biết Trâm là một điều rất may. Hải thích hai cái má Trâm và đôi guốc Trâm đi. Hải thích Trâm vì Trâm là gái Huế đội nón ngựa và mặc quần chật ống, khi nào đi trên bờ sông Hương thì bóng lung linh dưới nước xanh. Vả lại, những buổi chiều hè, khi ngồi cạnh nhau bên cái chõng kê dưới bóng sầu đông ngoài vườn, Trâm và Hải nắm lấy tay nhau lúc vắng người. Lần nào cũng vậy, cứ mua đậu hủ xong ra về thì Hải cũng đứng lại ở hàng rào, ghé mắt vào chỗ Trâm ngồi làm đậu mà gọi: "O Trâm! O Trâm".
Trâm giả như không nghe thấy Hải gọi, hò khe khẽ:
Hiêu hiêu gió thổi bờ đê,
Cửa nhà bỏ phế mảng mê lời mình.
Lam thao chùi sáng, để dưới ván thấy hình.
Chè đậu xanh, đường cát trắng, em thương mình quên ăn...
Hải thích lắm, ngắt mấy cái hoa dại, lấy lạt buộc lại, vứt qua hàng rào vào cho Trâm và ra về. Có khi Trâm nhận được mấy cái bánh tét gói vào một cái khăn con; có khi chỉ là một cây mía đỏ nhét qua đám ô dô vàng.
Vợ bác Kiểm nả thấy hai trẻ như thế thuật chuyện lại với bà Cả Lâm. Bác nói với Hải: Cháu Hải có bộ thương con Trâm lắm, hỉ!
Bà Cả Lâm mỉm cười:
- Ôi chao! Không cần! Bây giờ, hai nhà giận nhau rồi.
Hải là một đứa trẻ ngoan nết. Hải ít lời. Hải đã đỗ bằng Sơ học yếu lược và trông hàng cho bố mẹ, cả ngày, không vào cửa hàng Thượng Tứ với những trẻ con bên cạnh để bắn chim bao giờ. Trâm là một cô gái hơi vô nghĩa lý. Bạ cái gì cũng cười duyên, chỉ được hai cái má đẹp, đôi mắt hữu tình và điều này: Trâm hò dễ thương lắm. Nghĩ mà phiền cho Hải.
Hải biết rằng đã xảy ra chuyện gì hôm gặp Trâm đi đong gạo ở chợ Đông Ba. Hải đi gần Trâm ngoảnh mặt nhìn ra phía khác, không chào hỏi gì cả trong lúc chào hồi nãy còn vừa kịp. Trâm cũng làm như vậy, chứ biết "mần sao?". Con gái không bao giờ chào con trai trước. Người ta trông thấy sẽ cười là mê trai. Ngay lúc ấy Hải thấy hối hận. Chàng muốn lại được đi như lúc nãy để chào Trâm một câu, cho Trâm khỏi phiền.
"Chữ cận là gần, chữ viễn là xa; tui với mình cách trở tại mẹ cha ở nhà".
- Tội nghiệp cho Trâm! Mình gặp mà mình cũng chẳng hỏi han gì cả.
Hải về nhà trong dạ xôn xao và mong đợi ngày mai lắm lắm. Hải giúp sức cả cho sự tình cờ nữa. Hải đã biết Trâm thường đi chợ Đông Ba đong gạo vào lúc nào. Và sửa soạn để gặp Trâm. Lần này Hải biết xử thế nào. Chàng chào: "Chào o Trâm!". Trâm trả lời: "Dạ, chào anh Hải!". ở bến ô tô thường vắng người qua lại, Trâm và Hải lại quay cả lại mà cười với nhau nữa. Ngày nào, họ cũng rình chào nhau như thế. Họ chào nhau, cả những khi đông người.
Một hôm, có một chuyện lạ xảy ra.
Chủ nhật Hải đi chơi một mình ở xóm Vị Dạ. Nước sông Hương xanh chảy lặng lờ; ghe đò qua lại êm đềm như trong mộng; sau đám hàng rào ô dô, ẩn hiện những ngôi nhà trắng. Hải đi thơ thẩn đến một con đường rất vắng có những cây cổ thụ mọc nghiêng ra mặt nước thì gặp một cô gái đội nón ngựa, đi đôi guốc vàng. Tự nhiên Hải thích ngay: chàng thấy ở dưới cái áo vải phin của cô gái ấy hằn lên một cái "coóc sê" xanh. Cái coóc sê cùng một mầu với coóc sê Trâm mặc. Ngay lúc ấy Hải nhận ra rằng không phải là Trâm, nhưng Hải hơi ngạc nhiên một chút: Hải đi quá lên mấy bước, nhìn cô gái kia và thấy như muốn chào: "Chào o Trâm!" và tưởng như sắp nghe thấy: "Dạ, chào anh Hải!".
Hải rất có thể yêu người con gái ấy, chỉ vì một lẽ người con gái ấy đi guốc vàng và mặc một cái "coóc sê" giống của Trâm.
Song, chẳng biết giọng hò ra thế nào...
II
Chuyện ấy không phải là chuyện cuối cùng.
Một buổi chiều mùa nực, Hải lại gặp một chuyện đẹp hơn. Ngày nào, ăn cơm chiều xong, Hải cũng sang Gia Hội, trèo lên cầu nhìn xuống sông Hương xem nước chảy và ghe đò lặng lờ trôi như tiếng guốc lách cách ở đằng sau. Vô tình Hải quay lại - mà cũng vì tò mò nữa. May chửa! Người đi guốc lách cách ở sau chàng là Trâm. Trâm đi ở đấy bình dị như trời sinh ra. Trâm nhận ngay ra Hải và khẽ mở cái miệng xinh ra nói. Trâm nói rằng:
- Em mà, anh Hải! Mẹ em sai em qua Gia Hội để bảo thầy Hương Tam, sớm mai đừng qua nhà lấy đậu hủ vì nhà em không "mần".
Tức thì, Hải cất lời ngay. Hải nói:
- Hôm qua, anh trông thấy em ở chợ Vị Dạ. Em đang mua đường cát. Anh đã định đợi em mua xong cùng về, sau lại không dám.
Trâm đáp:
- Em, hôm bữa tê, em cũng thấy anh đứng ở dưới gốc giản ở Bến Tượng. Em thấy bóng anh ở dưới nước sông. Em định lại chào anh, nhưng sau thét em cũng không dám nữa.
Trâm không có vẻ vội vã lắm. Vừa đi vừa nói chuyện, nàng đi quá nhà thầy Hương. Chốc về nếu mạ Trâm rầy nàng về nỗi đi chậm, Trâm sẽ nói với mạ rằng thầy Hương vắng nhà, nàng phải đợi. Đã lâu lắm, Hải và Trâm không cầm tay nhau. Bây giờ, họ gỡ lại thì giờ đã qua. Hải thấy những ngón tay Trâm thuôn thuôn ở đầu và da dẻ thì mịn màng như sa tanh. Hải bảo:
- Đã lâu lắm, anh không được nghe em hò. Em hò một câu khẽ cho anh nghe nào: Trâm và Hải ngồi ở dưới một gốc thông um tùm, hai chân thả xuống nước trong. Trâm để tay vào tay Hải và hò khẽ ở bên tai:
Mưa sa nhỏ giọt đọt cà,
Làm sao cho đặng ba mạ già nuôi chung.
Chặt hào cá lội sen rung,
Choàn ngan cổ bạn, anh ơi, hun em cho đỡ lòng.
Nón nan hai túi lòng thòng,
Trực nhìn ngó thấy, trong lòng xót xa.
Gửi lời về thăm mạ với ba...
Buổi hoàng hôn xuống chầm chậm. Hải và Trâm đi thong thả trên những con đường xanh xanh và nghe tiếng hát nhẹ nhàng của con sông đưa lại. Trâm và Hải đi được một lát lâu thì Trâm nhớ tới việc mẹ sai và bảo Hải quay lại. Trong khi Trâm đến nhà thầy Hương, Hải đứng chờ ở cách đấy độ năm, sáu thước. Trâm trở lại và nói rằng:
- Thầy Hương đã ngủ rồi. Em đứng ở ngoài rào, em nói to những lời mẹ em bảo em.
Trâm và Hải đi trở lại phía cầu Gia Hội về nhà. Bóng họ sát vào nhau ở dưới nước chảy gầm cầu. Đến đầu cầu, nếu không sợ có nhiều người trông thấy mà phải từ biệt nhau bất thình lình quá, Trâm đã rẽ sang tay phải về nhà rồi. Hải nói:
- Thì hai đứa mình hãy đứng rán thêm vài phút nữa để nói với nhau đôi lời.
Trâm bảo:
- Anh ơi, hai đứa mình nói với nhau thì bao giờ cho hết lời.
Trước mặt họ, có một con đường trắng hai bên trồng toàn cây xanh. Thỉnh thoảng có một hai dinh cơ có vườn cảnh và non bộ. Những dinh cơ ấy phần nhiều đóng cửa cả ngày. Dây bìm bìm leo đại trên giàn; những bông hoa đỏ, tím, vàng, xanh chen nhau; mấy cái lá dừa tây cao vút lên trên trời. Một tiếng đàn tam thập lục bay ra và rung động trong không khí. Thỉnh thoảng lại một câu ca: "Biết ai tâm sự như mình, cho mình hỏi thiệt...".
Đó là con "đường tình". Những cặp trai gái hay dắt tay trò chuyện trên đường này. Hải và Trâm đi vào. Họ đi qua một cái cầu khác vào thành và đi mãi, đi mãi. Thật đẹp. Cây cối um tùm, đền tạ cổ kính có cái vẻ buồn mơ màng. Trâm và Hải trèo lên một mô đất cao, nhìn ra xa. Gió thổi tóc bay, phất phới. ở đằng kia, người ta nhìn thấy tất cả xứ Huế: hoàng thành, núi Ngự Bình, sông Hương uốn khúc chảy lặng lờ. Phú Văn Lâu, trời đất, và mặt trăng bắt đầu mọc ở một góc. Hải ngắm cảnh để nhận chân rằng chàng yêu Trâm hơn cả trời đất và mặt trăng, núi Ngự Bình, hoàng thành và sông Hương uốn khúc chảy lặng lờ.
Sau Trâm nói:
- Anh ơi, em phải về. Mạ em ở nhà, chắc trông em lắm lắm.
Hải bảo:
- Ừ.
Và Trâm và Hải sẽ dắt nhau về thực, nếu ở gần đấy không có một người con trai và một người con gái hát đối đáp. Hải và Trâm đi đến một cái nhà tranh thì tiếng hát đầu tiên bay ra. Chưa nghe thấy tiếng hát, tiếng hát vừa bay ra, tiếng hát vừa vọng lên, Trâm và Hải đã biết ngay người con trai và người con gái yêu nhau lắm. Trâm và Hải dừng chân lại. Hải bỏ tay Trâm ra và ra hiệu bảo Trâm đứng im.
Người con trai hát:
- Chơn mang xuyền, cổ lại mang gông,
Chết tui tui chịu chết, tui không bỏ nàng.
Người con gái hát:
- Sống làm chi mình một ngả, tui một đàng,
Nắm tay nhào xuống suối vàng chết tươi.
Khi hai người ấy đã hát xong rồi, Hải mới bảo Trâm:
- Hai anh chị chắc khổ lắm.
Trâm đứng im không nói gì. Trong giây lâu, nàng như hỏi lòng mình, bởi vì nàng đáp:
- Ắt khổ lắm thực.
Trâm và Hải cùng nghĩ ngợi đến những lời vừa nói. Mãi sau, Trâm mới nhớ ra.
- Cha ôi! Khuya lắm mà. Chừ, tôi không dám trở lại nhà nữa đâu.
Bác Kiểm nả không phải là người ác. Nhưng muốn giữ tiếng cho con. Cho nên giả dụ, có hội chợ, bác Kiểm gái không muốn cho con đi xem. Trâm bỏ hết cả những tư tưởng của nàng đi để tự nhủ rằng: "Thế nào mạ cũng đập em, trời ôi!". Bây giờ là mấy giờ rồi? Chuông đồng hồ ở chợ Đông Ba điểm mười hai tiếng mơ hồ: có ai ngờ Trâm và Hải đi chơi và nghe đôi trai gái hát đối đáp lại mất nhiều thì giờ như thế! Trâm và Hải cố rảo bước nhưng không kịp; cửa Thượng Tứ đóng mất rồi.
Trời ơi là trời!
III
Suốt một đêm, Hải và Trâm không biết làm gì cả.
Nhưng Hải và Trâm thấy được gần gụi nhau thì dễ chịu trong lòng lắm lắm.
Hải và Trâm dần dần không ngượng nghịu nữa. Họ ôm lấy nhau. Trâm nghĩ đến câu đồng dao: "Đứng gần đây một chút bớ chàng, em hun một cái đặng em thỏa chút lòng vàng, anh ơi, kẻo mà luống những mơ màng đêm đông". Trâm áp má vào má Hải. Và Hải và Trâm "hun" nhau, bạ chỗ nào cũng "hun": vào tóc, vào trán, vào mắt, vào tay, vào cổ. Họ không dám hôn nhau vào môi, bởi vì hôn nhau vào môi không tốt. Họ cùng khóc cả với nhau một chút.
Cảnh vật não nùng lắm. Xa xa tiếng cú cầm canh; những ánh đèn lù mù ở trong những rặng cây bí mật; tất cả xứ Huế nhỏ nhẻ khóc nốt mối buồn thiên vạn cổ.
Chuông hoàng thành điểm một tiếng. Trâm nói:
- Anh Hải, anh có muốn như thế ni hoài không? Anh có muốn hai đứa mình không bao giờ cách xa nhau không?
Trâm và Hải không cách xa nhau thực.
Khoảng hai giờ, họ ngồi trên bãi cỏ, dưới chân một cây thông để suy nghĩ cho thỏa tình. Ba giờ điểm rồi, họ vẫn ngồi như thế. Trâm nghĩ lại câu hát vừa nghe được khi nãy và thong thả nhắc lại từng chữ ở trong óc:
"Sống làm chi mình một ngả, tui một đàng;
Nắm tay nhào xuống suối vàng chết tươi".
Mãi khi chuông điểm bốn tiếng, Trâm mới nói:
- Hai đứa mình núp lén mà giao dươn thế ni, thực lỗi niềm ba, mạ.
Mãi về sau, trời dần dần đỡ tối và dần dần vẩn lên, thành mầu sữa. Mặt khời khẽ ló ra và những con chim đầu tiên đánh thức buổi sáng dậy. Phía ngoài, người ta đã nghe thấy xe chạy trên mặt đường. Trâm và Hải rón rén ra khỏi thành. Chính lúc họ không ngờ nhất, họ trông thấy ở phía xa có một người đàn bà đi lại. Cùng một lúc, Trâm và Hải cùng chung một ý tưởng. Có lẽ đó là bác Kiểm gái, nóng lòng không hiểu Trâm đi đâu, đang đi tìm. Bác Kiểm gái ắt giận dữ lắm. Trâm nói:
- Úy cha ôi, mình!
Trâm trốn vào một cái hốc cây sum sê, và nói tiếp:
- Em chờ mình nơi đây. Mình đi lè lẹ, coi ai đương tới tề...
Hải trốn ở đằng sau một cái hàng rào ô dô, và nhận rõ ra là mạ Trâm.
- Biết làm thế nào, chừ?
Hải rình mạ Trâm đi khỏi một quãng xa mới nói:
- Chúng mình còn nhỏ tuổi quá. Nếu không, anh quyết ra nói rằng anh muốn lấy em làm vợ.
Trâm khóc thút thít.
Hải cũng khóc thút thít vì tuy Hải nghĩ vậy, nhưng trong bụng, cũng như Trâm, rất sợ chốc nữa, về nhà bị đánh đòn. Nhưng sau Hải cũng nói nỗi lo sợ của mình cho Trâm nghe. Trâm khóc ròng.
- Mình ơi, mần sao chứ mình? Chứ ba, mạ mà đập mình, đau em lắm lắm.
Đi khỏi một quãng nữa, họ thấy ở trước mặt một người kéo xe đi lại: ấy là anh Trợ, ở bên An Cựu, vốn quen biết hai nhà đã lâu. Trâm và Hải vội trốn thật mau, Trâm và Hải đợi đã lâu lắm rồi. Trâm và Hải kéo tay nhau chạy miết. Trước mặt, là sông Hương trong như thủy tinh. Không bao giờ nữa, Trâm và Hải còn dám trở về nhà. Mà Trâm và Hải lại mệt quá không hiểu mình làm những gì, vì họ thức sáng đêm. Họ tới phía ga Thanh Long vào khoảng năm giờ. Còi rít lên, xe hỏa phun khói mù mịt rồi đem người ta đi đến những chốn thực xa.
Hải nói lại câu nói của Trâm:
- Em Trâm, em có muốn như thế này mãi không? Em có muốn hai đứa mình không bao giờ xa nhau không?
Cũng như Trâm, Hải nhớ lại câu hát đối đáp của anh trai và cô gái hồi hôm.
"Sống làm chi mình một ngả, tui một đàng, nắm tay nhào xuống suối vàng chết tươi".
Trâm và Hải bước tới phía cầu Bạch Hổ. Trước khi lên cầu, họ vào ngồi trên một nấm đất rất vắng vẻ ở dưới chân cây bồ đề. Lá cây bồ đề xòe ra như một cái tán, che khuất bóng mặt trời mới mọc. Trâm và Hải tưởng như chỉ có "hai đứa mình" ở trên đời và như lúc ấy hãy còn là bốn giờ đêm. Trâm dựa đầu vào vai Hải, hò cho Hải nghe lần cuối cùng:
Chim bay về núi Sơn Trà,
Chồng Nam, vợ Bắc ai mà muốn xa.
Sự này cũng tại mẹ cha.
Cho nên đũa ngọc mới xa mâm vàng.
Phải chi lên đặng Ngọc Hoàng,
Đặng coi bộ sổ, duyên em với chàng về đâu?
Về đâu mà chẳng đặng kết bâu,
Kết bâu chẳng đặng, chịu sầu ngàn năm.
Tay cầm nhành quế lại kế nhành trâm,
Thương nhau để dạ, chết còn mang khối tình.
Trở về thì mang tiếng bạc tình.
Trở về thì phụ mẫu đánh mình, đau tui.
Cá sầu ai cá chẳng quạt đuôi,
Như lang sầu huệ, như tui sầu mình.
Tử sanh, sanh tử tận tình,
Dầu ai ngăn đón, tui cứ mình tui thương.
Bây chừ bác mẹ không thương,
Chìu theo ngọn gió tui theo chàng bước nương,
Tui với chàng dứt điệu tình thương,
Giá như Kim Trọng dứt tình thương Thúy Kiều,
Thương mình sớm dắc tối diều,
Mỗi buổi sớm mai mỗi đợi, mỗi buổi chiều mỗi trông.
Chỉ tơ quấn ống tre bông,
Gá dươn thẳng dặng, ôi! xuống sông trầm mình.
Hò xong, Trâm và Hải dắt nhau chậm rãi bước lên cầu Bạch Hổ. Nước sông chỗ ấy trong suốt và sâu thăm thẳm. Hải và Trâm vịn vào một thanh sắt ở thành cầu nhìn xuống, thấy hai cái bóng chụm vào nhau rồi tan ra, chụm vào nhau rồi tan ra... Trâm thấy chóng mặt. Hải hoa cả mắt. Hải đưa tay cho Trâm vịn. Hai người dắt nhau quay lại. Ra khỏi cầu, Hải khẽ quàng tay vào mình Trâm để giữ cho nàng... khỏi ngã.
Cháo Cóc
Mùa này, vào những buổi chiều sẫm tối có cơn dông, tôi vẫn thường nhớ đến một căn nhà thấp ở phố Hàng Gai, Hà Nội, quanh năm ẩm thấp, hễ có mưa rào thì nước dâng lên mấp mé chân giường. Nhà ấy là nhà của cụ tôi, sau để lại cho thầy mẹ tôị Có lẽ vì sợ làm mếch lòng các cụ, thầy tôi không dám sửa lại, thành thử mỗi khi mưa thì nhà dột đất ẩm, nửa đêm chợt tỉnh giấc nồng, cứ nghe ồm ộp bên tai tiếng cóc nhái kêu gào như thể mình đương nằm giữa cánh đồng: ghét quá! Tôi còn nhớ có đêm, mất ngủ, tôi lén thức dậy thắp một cây nến nhỏ đi soi ở dưới gậm giường, bắt cóc, đem hành phạt. Mẹ tôi mắng: Bắt nó phải thì tội chết. Và mẹ tôi lại bảo: Mình nó có nhựa, chạm phải, hóa hủi, không thể nào chữa được. Con cóc là cậu ông trời, Hễ ai đánh cóc thì trời đánh cho. Từ đó, tôi không dám đánh cóc, giết cóc nữạ Và cũng từ đó, tôi yên trí rằng nhựa cóc sẽ sinh bệnh hủi cho mãi tới bây giờ... để thú thực rằng tôi đã ngạc nhiên và kinh sợ hết sức khi thấy có người ở đây ăn cháo cóc Cóc ai mà lại còn không biết nó? Xấu đến thế là cùng! Nó nặng nề, ì ạch, lúc nào cũng ngồi chồm hỗm, mắt cứ giương ra trừng trừng, mà da thì đen mai mái, lại sù sì, tởm quá. Nhìn bát cháo cóc mà tưởng tượng lại cái thân hình như thế, thực tôi không hiểu sao người ta có thể ăn uống lẩm cẩm như thế được... Nhưng đến khi liều chết, húp thử vài miếng xem sao thì mình cũng thấy nó có một hương vị lạ, ngon ngọt, thơm thơm, man mát như thể thịt có ướp hoa bưởi vậỵ Thử cho mà biết như thế cũng hay. Có một thuở nào xa xưa lắm rồi, tôi đã ở trong rừng với người Chàm, lấy lá đu đủ nấu canh, ăn ốc ma leo ở hàng rào ẩm cả tháng mà không làm sao hết, trái lại vẫn cứ ngon... Có người sống hàng năm trong rừng ăn kiến, ăn gián còn ghê hơn tôi, mà có làm sao đâu. Còn ở tỉnh thành, ai mà không ăn ốc nhồi, ốc vặn, ai mà lại không ăn rươi, ăn ếch? Thế thì tại sao không thể bắt con chằng hiu nhắm rượu chơi, nướng con dế cơm lên lửa ăn với củ lạc rang và rửa con cóc cho sạch nhớt, lột da, chặt đầu nấu cháỏ ếch và cóc cùng thuộc loài lưỡng thể động vật.
Người Tây phương ăn ếch chiên, ếch xào lăn với hành và nuôi ếch to thế này này đóng hộp để xuất cảng thì nghĩ cho kỹ, cóc cũng chỉ thế mà thôị Người ta sợ ăn cóc chỉ vì có thành kiến về da nó, nhưng có ai đã được xem làm một mẻ cóc rồi mới biết tắt đèn nhà ngói cũng như nhà tranh, thịt ếch cũng chẳng hơn gì thịt cóc. Cho tới bây giờ chưa có một ai bảo cho tôi biết da cóc có truyền bệnh hủi đích thực hay không, những trông một mẻ cóc chặt đầu, lột da rồi, để trên thớt chờ làm thịt, ta thấy thịt cóc hấp dẫn như thịt ba dọi vậỵ Thịt ấy màu trắng ngà, thớ nhỏ, đanh mà ráo rẻ đáo để. Thử tượng tượng để cho khô nước, chiên hành tỏi cho dậy mùi rồi bỏ thịt cóc vào mà xào, cái thơm tho tiết ra trong không khí quyễn rũ khứu giác của người ta biết chừng nào! Ông nào nhậu, chờ cho thịt chín vàng, xúc ra đĩa, gia thêm sả, hạt tiêu, ớt vào mà nhắm nhót có thể thấy thích thú hơn ăn thịt gà mái tợ Thịt dê dai lắm, mà thịt thỏ thì xác quá, không thể đem ra so sánh được với thịt cóc, mềm, mà nhai sừn sựt, ngọt nhưng ý vị, đậm đà, chớ không trơ trẽn như thịt ngan, thịt ngỗng. Bẩm các cụ, chúng tôi xin lỗi, chớ ăn cóc như thế này, ngon nhất món gì? Tôi đã hỏi ý kiến nhiều người sành ăn ở đây thì cóc ăm sướng nhất là món cháo.
Thịt cóc luộc với cháo, ăn thanh cảnh mà không ngấỵ Nhưng phần đông thích ăn cháo với thịt cóc xào. Ăn kiểu này, cũng như cập tầy hay kê ạp chúc, nghĩa là để cháo với thịt riêng ra, duy khác một chút là cá thì để tái, gà thì luộc lòng đào, còn cóc thì xào lên trước. Lúc ăn, trút thịt cóc vào cháo, quậy lên. Ai ăn được mà đầu, rẩy một chút lên cho thêm thơm, thêm béo; nhưng nếu không có thì cũng chẳng sao, bởi vì riêng thịt cóc, cũng đã thơm và ngọt lắm rồi. Vừa húp, vừa ngẫm nghĩ, ta có cảm giác cái thơm, ngọt đó tựa như cái thơm ngọt của tôm he và bào ngư hòa hợp với nhau để tạo thành một lực lượng thơm thứ ba vừa lành vừa mát. Thực thế, nhiều người bảo tôi rằng cháo cóc mát lắm, trẻ con, người lớn ăn vào giải nhiệt; hơn thế có ông lại bảo nó trừ được cả một vài chứng kinh, sũng và chứng khóc dạ đề của trẻ mới sinh - chẳng biết có đúng hay không? Nói thì nghe sướng lắm, nhưng bởi mình mới tập sự ăn cháo cóc nên vẫn cứ thấy rờn rợn, sợ một cái gì... Thì ra là mình sợ chết. Chớ saỏ Đọc báo hàng ngày, người ta há chẳng thấy đôi khi có đăng tin ăn thịt cóc chết người là gì đấy.! Một ông bạn bảo tôi:
- Có thế thực, ăn cóc có khi chết người, nhưng chết là tại người ta làm lòng không kỹ.
Lúc làm cóc cần nhất là phải sạch, đừng để cho dập mật, đừng để cho sót trứng vì nếu trứng cóc làm không kỹ, nó dính vào mỡ, ăn vào dễ chết như chơị Mật lấy không hết cũng vậỵ Người ta bảo rằng một nồi cháo cóc mà để xót mươi cái rứng ăn vào chỉ nửa tiếng đồng hồ thấy xây xẩm mày mặt lại, quỵ luôn. Các ông già, bà cả lại còn nói rằng thịt cóc tối kỵ củi cà và khoai mì. Nấu thịt cóc với rõ cây cà ti'm phơi khô hay ăn thịt cóc lẫn với khoai mỳ cũng độc lắm, dễ chết ngườị Nghe thấy mà bắt ớn! Song le những người ưa thưởng thức món ăn ngon khôn g vì thế mà chịu thôi thịt cóc. ờ phải, cứ vào vụ mưa này đây, có ai về chơi thăm những vùng quê Cái-bè, Cần-giuộc, ở lại nghỉ đêm ở Tân-phước hay Chợ Gạo mới thấy người ta ham bắt cóc ăn đến chừng nàọ Mấy thằng nhỏ cởi trần trùng trục, đóng khố, lội mưa, xách một cái đèn đi lùi lũi vào vườn nhà người ta rón rén tìm đến chỗ cóc kêu lấy xiên xiên từng con hoặc nằm xoài ra để chộp cho vào trong một cái giỏ đeo ở bên sườn. Nhưng đấy chỉ là những tốp người lẻ tẻ đi bắt cóc vô tổ chức. Muốn hiểu thế nào là bắt cóc chân chính, ta phải đi ra ngoài, đi quan sát dưới trời mưa, ở ruộng, hay dọc một con đệ Hoàng hôn vừa lả xuống trên nội cỏ, đồng cây từ Laođung qua Trà-bến, từ Long-thành đến Lái-an từ Cồn-lát đổ về, từ bờ sông cái vọng sang, tiếng cóc ì à ì ộp liên thanh bất chỉ như một bản nhạc thô kệch nhưng xúc tích hương cau, mùi lúa. Từng nhóm người bận áo đen quần cụt, lầm lầm lũi lũi đi ở trên bờ ruộng, vểnh tai lên nghe xem tiếng nhạc cóc từ nơi nào vọng ra. Chỉ một giây, họ biết ngay nơi cóc hội. Thường thường, đó là một cái gò cỏ rậm hoặc một lu đất bên cạnh những vũng nước dơ. Chiếu một ánh đèn vào đó mà coi: chúng bắt cặp với nhau kỹ lắm; ánh đèn vừa chiếu vào, léo mắt, cặp nào cặp nấy nhảy đì đà đì đạch, nhưng cấm có cặp nào chịu rời nhau. Một cuộc bố ráp diễn ra, làm cho kẻ bàng quanh tưởng tượng như mình đương chứng kiến một cuộc bố ráp ở Chuồng Chó hay Ngã ba chú ía. Mười cặp thì cả mười bị tóm! Người chuyên viên thong thả giơ từng cặp bắt được, đưa lên ánh đèn dầu để coi nở một nụ cười khoái trá khi bắt được cặp cóc đen và mập. Cái giống cóc bụng đỏ là cóc bệnh, ăn chẳng ra cái chết gì, chỉ để dành trong nhà ăn với nhau, chớ không bán được tiền. Cóc được ưa chuộng phải là cóc bự, có nhiều mụt đen ở trên lưng, chân no mà sáng. Người ta cho tất cả vào trong một cái vó tre hay thùng thiếc đem về, lột da rồi đưa ra chợ. Các chợ Sài-gòn, Phú-nhuận, Ngã ba ông Tạ... thường vẫn bán cóc cho người thủ đô mua xàị Hỡi cô Hai, cô Ba, Cô Sáu, cô Bảy... cô Chín, cô Mười ơi! Gà nhúng hèm, ăn mãi bứ; cháo tôm, gỏi sứa, bì cuốn, dùng luôn cũng ngán! Hôm nào thử ra chợ mua một mẻ cóc về làm vài món ăn chơi, các cô sẽ thấy chồng bớt khó tính đi, và các ông sẽ vừa thưởng thức miếng ngon vừa kể những câu chuyện hay hay đáo để:
- Em có biết tại sao về cữ mưa này, người ta bắt được nhiều cóc không?
Nguyên giống cóc, cũng như giống ếch nhái, là một loại động vật vùa nước mà vừa cạn. Cái trứng nở ra như mộ thứ ấu trùng, có mang để thở, ở dưới nước như loài cá. ít lâu sau, mang nó rụng đi, chân mọc ra, đồng thời cái đuôi mất nốt. Cứ vào cữ mưa thì cóc dưới nước lên trên bờ ở, nhưng cũng chính vào lúc đó, những cóc dậy thì, cũng như các cóc nạ giòng, lớn tuổi nằm trong những đồng ruộng đầy sao rụng, mơ chuyện â tình, thi nhau làm công việc truyền tử nhươc tôn. Những tiếng kêu oai oái, có lúc như đau đớn, có lúc như thở dài, có lúc như rên rú, có lúc như nhõng nhẽo, chính là tiếng nói của tình yêu đấy, em thương ạ! Vậy mà, tội nghiệp, đang lúc cóc mến thương trao nhịp thở chung tình với nahu trong đêm xanh mát rượi thì loài người từ khắp nơi đổ đến, vơ cả lũ rồi ném cả vào thùng. Hú vía! Có con sây sát cả mình; có con gãy đùi, sứt trán; lại có cặp bị dứt ngang ra, nhưng đa tình thay là giống cóc! Bị sa cơ đến như thế, cặp nào cặp nấy vẫn không chịu rời nhau, nhất thiết khắng khít cho đến chết. Yêu là chết ở trong lòng một ít có phải nhà thi sĩ đã viết như thế phải không, em? Với loài cóc, yêu là chết thực sự, chết đứ đừ, chết toàn diện, chết giẫy lên đành đạch; nhưng không hề gì, ở trong thùng, trong vó chùng vẫn song ca bản nhạc mê ly. Vì thế, đừng tưởng ăn thế này là chỉ ăn thịt cóc mà thôi, nhưng chính là ta ăn hương thơm đồng ruộng, ăn... những bản nhạc dân ca, ăn... bao nhiêu cuộc ân tình ra rít? vào lòng... Người chồng nói tới đó, đưa mắt nhìn vợ, thì thấy long lanh cặp mắt lá khoai, hồng lên đôi má mịn màng... Đêm ấy, bên chùm dạ lý hương, hai mái đầu xanh sát lại... Đâu đây, có mùi hoa bưởi thơm thơm...
Gặp nhau lại xa nhau
Ngày xưa, có hai người gặp nhau...
(Maltamuti)
Sự tình cờ xui họ gặp nhau ở Quần Ngựa. Chàng giả tảng không trông thấy nàng. Chàng lên nhà sàn và tưởng nàng sẽ lên theo. Nàng không lên, mà lại lảng ra đứng cạnh hàng rào.
Chàng đành đứng dậy, đi lại phía nàng. Chàng làm ra vẻ ngạc nhiên:
- Kìa em!
Nàng vẫn vui như trước. Thấy chàng, nàng nói ngay:
- Ôi chết chửa! Sao em nghe thấy người ta bảo anh mắc bệnh thời khí đã chết từ tháng trước?
"Đàn bà gì mà ngổ quá!", chàng hơi mích lòng. Vậy ra, nếu chàng chết, nàng vẫn có thể sống như thường...
Nàng có vẻ "kẻng" lắm. Thoạt trông, chàng thấy lạ hẳn. Mắt nàng bây giờ đánh thâm quầng, mi dài, môi đỏ, cái ngực hình như rắn hơn. Chàng không biết chuỗi hạt nàng đeo cổ bằng ngọc, bằng kim cương hay bằng ngà. Chàng cũng không biết cả thứ hàng nàng mặc ở người. Chàng thấy một cái gì như sự hối hận: chàng tiếc rằng sao mình lại còn dẫn đến trước mặt nàng. Bên cạnh nàng, chàng thấy mình lu mờ hẳn đi. Nhưng chẳng lẽ, gặp nhau lại không nói gì. Chàng bèn nói dớ da dớ dẩn:
- Dạo này, trông em có vẻ mập mạp hơn trước nhiều.
Nàng trả lời:
- Cũng may mà chúng mình xa nhau. Cứ như dạo trước, yêu nhau nhớ nhau, nghĩ ngợi về nhau mãi, chẳng mấy lâu mà chết.
Chàng đứng cạnh nàng như thế một hồi lâu. Nàng thì nhìn ngựa chạy và thỉnh thoảng lại reo lên "Bạch Hải! Bạch Hải! Thôi con Ivan được rồi!". Chàng thì có vẻ "đi tòng": nàng không lấy thế làm hợm lắm. Những người đánh cá ngựa, thoạt trông, đều nghĩ rằng chàng đương "quấn" một người đàn bà mới gặp lần đầu. Và trong khi chàng hỏi:
- Em độ này ra sao?
Nàng vẫn nhìn ngựa chạy mà kêu: "Thôi chết! Con Peccador hỏng rồi...".
Cuộc đua thứ tư, xong, nàng mới quay lại hỏi:
- Anh bảo gì?
Chàng nhắc:
- Em độ này ra sao?
- Cứ trông khắc biết: em mặc quần áo đẹp, em cầm dù, em đánh cá ngựa.
Câu chuyện cứ như thế đến cuộc đua thứ năm.
Có sáu ngựa chạy: Xích Long, Pompéi, Frankeinstein, Lady Lou, Xich Nghèo và Trombadour.
Nàng hỏi:
- Anh đánh con nào?
Chàng không đánh con nào cả. Chàng chờ cuộc đua sau, để đánh mạnh cái triple évent. Chàng định nói một câu gì nữa. Nhưng nàng đã giơ dù, chỉ về chỗ bán vé mà nói:
- Em phải ra chỗ kia.
Trước khi từ giã, nàng muốn tỏ ra vẻ lịch sự bảo cho chàng biết. Nàng vốn là một người có học. Trước đây tám năm, nàng lấy chồng làm ở phủ Toàn quyền. Chồng nàng chết, nàng "biết" chàng. Già nhân ngãi non vợ chồng. Hai người đã định lấy nhau. Không ngờ chàng chán nản từ bao giờ. Đánh đùng một cái, chàng sinh sự rồi bỏ nàng, lấy vợ. Và hai người bạn ấy xa nhau mãi. Bây giờ lại gặp nhau. Nàng tỏ một cách miễn cưỡng cho chàng biết nàng là một người có giáo dục. Chàng không biết từ giã nàng ra thế nào. Biết đâu nàng chẳng đi phao với bạn hữu rằng chàng "bám" nàng và nàng đã "tẩy nhẹ" chàng. Có một cái bàn uống nước chanh, rượu bia ở cạnh đấy, muốn cho nàng đừng đi khoe khoang như thế, nên chàng mời:
- Em mua vé đi, rồi lại đây, ngồi uống nước với anh.
Nàng vô cớ, cười rũ lên, như có bàn tay nào cù vào nách. Đoạn, nàng nghĩ ngợi một chút rồi bảo rằng:
- Cũng hay. Được, để em ra mua vé rồi em quay lại.
Hai người ngồi xuống ghế. Họ ngồi đối diện nhau. Chàng uống bia, nàng dùng whisky soda. Người bán hàng mang hai thứ đó ra. Hai người vừa uống vừa nhìn ngựa chạy.
Tiếng vỗ tay, tiếng cười, tiếng đập chân.
Một người kêu: "Lady Lou! Lady Lou!".
Chàng hỏi nàng:
- Công việc ra thế nào?
"Công việc ra thế nào?", câu này chỉ ngụ ý hỏi nàng được cá hay thua cá mà thôi. Nhưng nàng không thể nhịn cười được.
Đầu đuôi như thế này:
Trước đây, lúc hãy còn yêu nhau, chàng thường có tính, mỗi khi gặp nhau, thì hỏi vội một câu: "Công việc ra thế nào?". Câu đó nghĩa là: "Thế nào, công việc ra thế nào, bao giờ chúng mình công nhiên lấy được nhau?". Đã sáu năm trời, họ không gặp nhau nữa. Bây giờ, vì một sự tình cờ, câu ấy lại đến ở dưới lưỡi chàng. Chàng lại nói câu chàng thường nói với nàng ngày trước.
Nàng gật đầu khẽ, lúc nghe thấy câu nói quen quen.
Về phần nàng, cũng có một chuyện tương tự thế.
Trước đây, nàng có thói quen hay lấy dầu thơm chải đầu cho chàng. Nàng săn sóc quần áo của nàng bao nhiêu thì rẽ đầu chàng cẩn thận bấy nhiêu. Nàng thường phải giục Hải đi húi đầu, vì chàng có tính hay quên. Nếu nàng không nhìn đến, có khi một tháng chàng mới đến nhà thợ cạo.
Vô tình, mắt nàng để đến đầu chàng và nàng nói:
- Thế thì thôi! Không có em, anh cứ để đầu bù lên không húi. Tối nay, đi húi đầu đi nhé.
Chàng cười. Đúng thế thực. Chàng lười quá, ngót tháng nay không húi đầu. Chàng úp bàn tay, vuốt tóc ở gáy. Nàng giở ví, rút cái gương ra đưa cho chàng. Chàng soi gương, lấy lược rẽ lại tóc. Và nàng mỉm cười, hai mắt tít đi.
- Ừ, nghĩ buồn cười. Chúng mình đã xa nhau mà sao em thấy đầu anh không húi cẩn thận, em vẫn không bằng lòng.
Bây giờ, họ không ngượng nghịu như lúc mới gặp nhau nữa.
Chàng nói hết với nàng những công chuyện xẩy ra trong sáu năm xa cách - y như chàng nói với nàng, trước đây, mỗi lần gặp nhau ở nơi hẹn hò.
Chàng cách biệt nàng được hai tháng thì lấy vợ. Chàng có hai đứa con: một đứa trai và một đứa gái. Đứa gái lên ba, đứa trai lên bốn. Chàng vẫn đi làm báo. Chàng ở trên Ngọc Hà. Hôm nay chàng lên Quần Ngựa vì có người rủ đi. Đã nói những chuyện ấy, tức là đã nói hết cả cuộc đời mình. Chàng ngồi im.
Nghĩ cũng lạ thực. Càng ngắm nàng, chàng càng thấy chưa bao giờ chàng nhìn kỹ nàng cả. Khi còn yêu nhau, chàng cứ tưởng rằng mắt nàng hai mí và xanh. Từ khi xa cách, đêm đêm chàng thường nhớ lại đôi mắt đẹp: và những khi rầu rĩ chuyện vợ con, không hiểu tại sao chàng cứ tưởng rằng mắt nàng đen và chỉ có một mí.
Đôi mắt lá răm, đôi mày lá liễu, anh thương mình...
Chàng nhớ đến câu đồng dao. Và chàng nói cho nàng rõ những ý nghĩ của chàng. Nàng cười và nói:
- Đấy, anh cứ bảo anh hiểu em mãi...
Nàng để ý đến tất cả mọi sự xảy ra trong đời chàng, sáu năm nay. Muốn biết thật rõ ràng, nàng hỏi:
- Thế chị ấy, chị ấy ra thế nào?
Chàng ngần ngừ một lát rồi đáp khẽ:
- Em ơi, em hỏi đến làm gì, hở em? Người ta chỉ yêu có một lần. Nếu sau này duyên nợ chẳng thành, người đàn ông phải lấy vợ, thì cũng chỉ là chuyện cửa nhà, bếp nước... cho có con...
Mặt chàng buồn rười rượi. Chàng nói mấy câu ấy như dao cắt lòng. Ôi! Nếu số phận chiều người, chàng và nàng lấy được nhau thì bây giờ đã êm ái biết bao! Chàng lại nói hết cả ý nghĩ của chàng cho nàng nghe. Chàng bảo:
- Em làm khổ anh. Hồi ấy, ví thử em yêu hơn một chút, ví thử em không mê thơ của thi sĩ Hoàng Hoa thì đâu ra nông nỗi này.
Giọng nàng êm ái và thật:
- Em biết làm thế nào, hở anh? Lúc ấy, em mới có hai mươi tuổi. Người ta còn trẻ thì người ta còn mơ mộng.
Nàng ngây thơ và ngoan ngoãn như khi mới yêu chàng. Lông mi nàng khẽ chớp, mắt nàng nhìn xuống, nàng lấy tay di những giọt nước đá đọng ở thành cốc.
Chàng hỏi:
- Vậy trong sáu năm trời xa cách, cuộc đời em ra thế nào?
Nàng trả lời:
- Anh ơi, anh hỏi em làm gì cho đau lòng nhau ra. Anh đã biết em góa chồng từ lúc còn trẻ tuổi vào giữa lúc tâm hồn đương ấp ủ những mộng tình xinh tươi...
Chàng bèn nói:
- Chúng mình đành lấy chữ duyên kiếp để khuây dần nhớ thương, chứ biết làm sao? Riêng anh, anh được thấy em như thế này, anh lấy làm mừng lắm.
Họ ngồi nói chuyện, mỗi người ở một bên bàn, như hai người bạn tốt, âu sầu, rầu rĩ. Nàng xin lỗi chàng:
- Anh đừng giận em nhé. Lúc mới gặp nhau, em không muốn nói với anh, vì em sợ chúng ta cùng khóc mất. Em phải làm ra dáng vô tình. Có lẽ như thế lại hơn, phải không anh? Nói gì với nhau làm gì nữa cho thêm thương, thêm nhớ. Làm khổ nhau làm gì!
Họ không còn thì giờ nói chuyện với nhau lâu nữa.
Cuộc thi thứ sáu đã xong rồi. Chàng thua cá. Nàng cũng thua. Nhưng hai người đều không nghĩ ngợi điều gì, ngoài câu chuyện họ nói cả. Họ đứng dậy đi sát vào nhau về đường hồ Tây.
Trời thấp dần, mấy cái lá vàng xào xạc rơi xuống hồ và trôi ra xa xa.
Nàng nói:
- Hải ơi, thôi Hải về nhà sớm một chút không ở nhà mong đợi.
Chàng trả lời:
- Trâm ơi! Biết bao giờ chúng mình lại gặp nhau để than thở một đôi điều như hôm nay...
Họ nắm chặt lấy tay nhau, khốn khổ như hai người bạn không may trên đường đời.
Mơ về một cuộc chọi trâu
Nào ai có ngờ đâu chỉ tậu có một con trâu mà vất vả khó khăn đến thế!
Bố con Khóa Mạc chiều chuộng Lái Quẫy thôi thì chẳng còn thiếu một thức gì: cơm, rượu, phiện pḥ, đủ cả. ấy thế mà cứ đụng vào con trâu nào thì Lái Quẫy cũng chê bai bải. Con này sổ toẹt được răng nhưng hỏng xoáy. Con này được xoáy nhưng kém sừng. Con này được sừng nhưng hỏng cẳng.
Nghe mà cứ tức anh ách! Có một lúc ông Khóa Mạc đã ngờ rằng Lái Quẫy làm khó dễ bố con ông, nhưng sau để ý mãi thì mới biết là không phải thế!
Chọn cái thứ trâu để chọi, khó lắm chớ có dễ đâu như chọn trâu cày. Thành thử ra bố con Khóa Mạc đành là cứ phải vâng vâng dạ dạ, nhất tề theo đúng lời chỉ dạy của Lái Quẫy, không dám trái ý một ly. Bởi vì thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ, bố con ông Khóa có biết trâu chọi là gì, chọn trâu chọi ra sao. Mà Lái Quẫy thì lại là... "một cây trâu chọi"!
Ngày nào cũng vậy, cứ cơm no rượu say rồi, Lái Quẫy lại dẫn cha con Khóa Mạc đi các chợ lớn chọn trâu: chợ tỉnh, chợ Môi, chợ Tảo, chợ Kép... Một tháng tám phiên chợ mỏi cả chân, khản cả cổ mà rút cuộc chẳng có con nào ưng ý thì có tức không, hở trời! Giả sử là trâu cày, thì mua bừa lấy một con cho rảnh chuyện nhưng đằng này đâu có được, vì đây là trâu chọi, mà tậu một con trâu chọi đâu có phải là chuyện chơi? Danh dự, tương lai và may rủi của cả nhà mình trông cả vào con trâu đó, phải chọn cẩn thận lắm lắm, không có thì hối hận cả một đời người.
Vì thế mỗi khi thấy ông Khóa có vẻ nản chí, bà Khóa lại khuyến khích ông đừng ngại công ngại của, phải cố chọn lấy một con trâu "ra phết". Và cô Vang, chị gái của cậu Sóc, cũng xui em nên cố sức nhờ Lái Quẫy tậu giúp một con trâu "ra dáng" để lấy tiếng với dân làng, bởi vì ai có một con trâu chọi thắng cuộc thì được quý nể và trọng vọng gần như một nho sĩ thi đậu vi quy bái tổ.
Xã Dương Sơn, thuộc tổng Dương Thủy, huyện Mỹ Hoa có tục chọi trâu hàng trăm năm nay rồi.
Theo lệ làng, tất cả những con trai đến tuổi tráng đinh đều bắt buộc phải nuôi trâu chọi trong một năm để năm sau dự cuộc chọi trâu vào ngày mười bốn tháng giêng tức là ngày đại đình đám của hàng xã.
Tục truyền ông Thành Hoàng xã Dương Sơn, sinh thời là một gã mục đồng mười bảy tuổi thường tổ chức những cuộc chọi trâu ở ngoài đồng cỏ để làm thú tiêu khiển cho các bạn chăn trâu. Gã đã bị trâu húc chết trong một cuộc vui nguy hiểm đó và chết vào giờ thiêng nên được làng lập miếu thờ rồi sau được phong Thành Hoàng.
Có người không tin ở tục truyền cho rằng tục chọi trâu do các bậc tiền bố trí giả trong làng bày ra để khuyến khích dân làng chú trọng đến việc nuôi dưỡng, săn sóc giống trâu là giống gia súc cần thiết cho nông nghiệp.
Dầu sao những cuộc chọi trâu cũng là những cuộc vui ồn ào, sôi nổi nhất ở Dương Sơn, nhất là vào những năm được mùa thì tṛ đó thu hút hàng ngàn quan khách ở xa cũng như gần đến xem.
Năm Đinh Tỵ, tại thôn Dương Trung, con trai ông Khóa Mạc tên là Sóc đến tuổi nuôi trâu chọi. Theo lệ làng, nhà nào có tài lực phải tự xuất tiền ra để tậu trâu chọi, còn nhà nghèo thì có thể vay tiền ở hàng xã để mua. Số tiền vay đó sẽ trả lại cho quỹ của xã, bằng tiền mặt hoặc bằng cách cày ruộng công cho làng.
Ông Khóa Mạc là người khá giả trong thôn, cho nên phải tự xuất tiền mua trâu chọi cho cậu Sóc. Bỏ tiền ra mua trâu, không phải là việc quan trọng đối với những nhà trời cho đủ bát ăn, nhưng quan trọng là vấn đề lựa chọn được con trâu chọi. Bởi vì sau một năm công trình nuôi trâu tốn kém, nếu trâu của cậu nào không được "đắc cử" để dự cuộc chọi trâu thì đó là cả một sự nhục nhã đối với dân làng. Chính vì thế trong hơn một tháng trời nay, Khóa Mạc khổ vì trâu chọi như ta đã biết. Ông Khóa sốt ruột quá rồi. Ông chỉ sợ lỡ không mua được trâu thì khổ. Vì thế, trong phiên chợ tỉnh hôm hai mươi bảy, ông nằng nặc đi mua con trâu bốn răng, hai xoáy, sừng tṛn, cẳng chúm, trông rất tơ, rất đẹp, rất khôn, nhưng Lái Quẫy cứ chê quài quài:
- Không được! Trâu này quý thật nhưng chỉ tốt cày, chứ không chọi được. Trâu chọi cần ở cặp mắt, yếm cổ và bốn vế. Mắt đỏ, cổ lùn, yếm nạc, vó nai: đó là những đặc điểm của "trâu hùng". Loại trâu đó vừa khỏe, vừa dai sức, lại hiếu chiến. Tuy nhiên, đó là thứ trâu dữ, khó nuôi, khó điều khiển...
Lái Quẫy giải thích một cách sành sỏi, khiến cho Khóa Mạc và nhất là cậu Sóc hết sức thán phục và vui lòng để cho Lái Quẫy toàn quyền chọn trâu.
Được sự tín nhiệm của cha con ông Khóa Mạc, bác lái quyết đi lùng khắp các địa phương để mua kỳ được một con trâu chiến có nhiều hy vọng lọt được hai vòng tuyển lựa của ban thẩm sát và đoạt giải trong cuộc chọi trâu năm tới.
Riêng về việc tuyển lựa cũng đã hết sức khó khăn. Việc tuyển lựa này gồm hai đợt: đợt thứ nhất gọi là vòng sơ tuyển, do sự thẩm sát của một ban gồm các bậc cao niên hoặc có chức phận lớn nhất trong làng. Đợt thứ hai, gọi là vòng linh ứng, do sự quyết định của một cuộc gieo âm dương trước bàn thờ Thành Hoàng.
Việc tuyển lựa của ban thẩm sát căn cứ vào những điểm sau đây: trâu chọi phải "trai tráng và trong sạch", như những cậu trai tân, chưa vợ, đến tuổi chọi trâu. Vì những điểm quan hệ này, các cậu nuôi trâu chọi phải hết sức giữ mình cho thanh khiết, không được bắt tình với gái và ăn uống chay tịnh trong suốt thời kỳ nuôi trâu.
Việc "gieo âm dương" trước bàn thờ Thành Hoàng có tính cách "chung thẩm", nhằm mục đích chứng tỏ rằng "đương sự" quả thật là một trai tân, hoàn toàn trong trắng, vì những hành động bất chính, ám muội của đương sự dù có che đậy được trước những con mắt phàm tục của ban tuyển lựa, cũng không thể qua "mắt thần" của Đức Thành Hoàng.
Sau khi làm lễ tạ thần để nhận trách nhiệm nuôi trâu, chuẩn bị tham dự cuộc chọi trâu trong vụ đại đình đám năm sau, hai cha con ông Khóa Mạc bắt đầu lo việc tậu trâu.
Đây là một vấn đề chuyên môn, cần phải có sự giúp đỡ của một người rất sành về trâu, nên ông Khóa Mạc đã soạn một mâm rượu thết bác Lái Quẫy, để nhờ bác này dẫn đi mua trâu chọi. Nhưng một tháng trôi qua, vẫn chưa chọn được trâu thì làm thế nào bây giờ?
Lái Quẫy đành hẹn với cha con Khóa Mạc trong mười ngày sẽ đi kiếm được con trâu vừa ý.
Nhận sáu mươi quan tiền đồng để một mình đi tậu trâu, Lái Quẫy phải thân hành đi cầu cứu một bạn đồng nghiệp ở hạt Đại Bái, phủ Thiệu Hạ.
Đại Bái là đất đồng sâu, thường có nhiều trâu tốt, cho nên sau năm ngày được bạn đồng nghiệp hướng dẫn đi quan sát những trâu thả ăn cỏ ở các cánh đồng Đại Bái, Lái Quẫy đã tìm thấy một "trâu chiến" đang tơ, có nhiều "điểm hùng". Nhờ sự mối lái của bạn đồng nghiệp, Lái Quẫy mua được con trâu này rất lấy làm sung sướng, mặc dù phải trả tới giá năm mươi bảy quan tiền đồng, đắt gần gấp đôi một "trâu cày loại lực điền".
Khi Lái Quẫy dắt trâu về đến thôn Dương Trung, mọi người trong thôn đổ ra xem như hội. Những tay sành trâu đều công nhận là một "chiến ngưu" hiếm có. Thực vậy, trên bãi Giang Đình ở đầu thôn, trong mười hai con trâu chọi vừa tậu về của mười hai nhà được vinh dự sắm trâu chọi, như nhà ông Khóa Mạc, trâu của cậu Sóc nổi lên vượt mức.
Cha con Khóa Mạc hết sức cảm ơn Lái Quẫy. Và bắt đầu từ hôm ấy lại càng chiều chuộng Lái Quẫy hơn, vì cậu Sóc còn phải nhờ Lái Quẫy chỉ vẽ cho cách thức nuôi trâu chọi.
Bác lái không từ chối mọi sự nhờ cậy của Khóa Mạc, nhưng có một điều làm cho bác vô cùng thắc mắc: cậu Sóc không đủ tài điều khiển con trâu bất kham này.
Ngay từ hôm bắt đầu làm chủ con trâu, Sóc đã bị nó giựt thừng, bất phục, xông ra chạy khắp các cánh đồng trong xã. Sóc không thể nào đuổi kịp để bắt về, phải nhờ năm bảy người khác phụ lực với Quẫy dùng mẹo mới tóm được dây thừng cột mũi trâu.
Hôm sau, trâu lại dở chứng nữa và lần này nó xông đến "đọ sừng" với bất cứ trâu nào khác mà nó gặp trong cánh đồng. Hơn nữa, nó quần phá nhiều đám ruộng mạ của dân làng làm cho ông Khóa bị phiền hết sức.
Cha con Khóa Mạc đâm lo vì con trâu quái ác. Chính Lái Quẫy cũng hết sức thắc mắc. Họ lo nhất là rồi đây mỗi tháng, bắt đầu từ tháng tám cho đến tháng chạp, sẽ có cuộc "chọi thử" giữa sáu cặp trâu chọi trong thôn, Sóc làm thế nào để điều khiển trâu cho thuần thục? Không chỉ huy nó thì tập dượt làm sao được?
Lái Quẫy bàn tính với Khóa Mạc:
- Nếu ông không quản tốn kém, chúng ta mời luôn chủ cũ của con trâu đến ở đây trong ít tháng giúp cho cậu Sóc điều khiển và tập dượt cho trâu vào khuôn vào phép. Ông nghĩ thế nào?
- Đối với việc thần thánh, tôi không hề quản tốn kém. Nhưng chúng ta làm thế nào mời được người ta đến ở đây hàng mấy tháng?
- Nếu ông vui lòng, tôi sẽ cất công đi thỉnh về đây và tôi chắc chắn là thỉnh được.
- Vậy thì còn gì quý hóa bằng. Tôi sẵn sàng nhờ cậy bác tất cả công việc này.
Nhưng dù sao đi nữa đối với một việc có liên quan đến vấn đề nội trợ, ông Khóa cũng phải bàn qua với bà Khóa. Bà chất phác hỏi ông:
- Nuôi thầy dạy trâu có phải hầu hạ như thầy dạy học không?
Lái Quẫy cười ngặt nghẽo:
- Nào có phải thầy bà gì đâu! Đây là anh Khoát, con trai ông cựu Hương ở Đại Bái. Anh Khoát chính là người đã tậu con trâu này ở Nông Cống về từ năm ngoái. Chính anh ta đã nuôi nó và điều khiển nó trong việc cày bừa cũng như trong các cuộc chọi ở vùng Phủ Thiệu. Anh ấy cũng là trai tân như cậu Sóc, có lẽ hơn Sóc đến sáu, bảy tuổi. Nhà ta mời anh ấy đến để làm bạn với cậu Sóc trong vài tháng, giúp cậu Sóc tập dượt trâu cho quen nết, chứ đâu phải là chuyện nuôi thầy, nuôi bà gì, mà bà Khóa lo ngại?
Bà Khóa tỏ vẻ ngại ngùng :
- Tôi thường nghe người ta nói "Trai Đại Bái, gái Kẻ Bôn"...
- Ý bà Khóa sợ trai Đại Bái hung tợn chứ gì? Không đâu, bà đừng sợ, câu "Trai Đại Bái, gái Kẻ Bôn" chỉ tỏ rằng trai Đại Bái khỏe mạnh, can đảm và tài giỏi cũng như gái Kẻ Bôn bạo dạn, đảm đang. Ai thì tôi không biết, chứ anh Khoát tôi cam đoan là rất nết na đứng đắn...
Ông Khóa Mạc, sốt ruột ngắt lời Lái Quẫy:
- Nào phải chuyện mối lái vợ chồng, mà bảo phải nhiều lời với bà nhà tôi. Thôi trong công việc hệ trọng này, chẳng qua tôi cũng bàn sơ với bà cho phải phép vậy thôi. Bà để mặc chúng tôi lo tính. Tôi nhất định nhờ bác Lái Quẫy đi mời anh Khoát về đây chỉ dẫn cho thằng Sóc.
Bà Khóa cười gượng, quay ra sân để phơi nốt mấy thúng thóc với cô Vang.
Cô Vang là chị Sóc, hơn Sóc hai tuổi. Cô đẹp vào loại nhất nhì trong xã, mà muộn chồng nhất trong đám con gái nhà khá giả trong thôn.
Người ta bảo là cô cao số. Từ năm cô mười ba đến năm ấy là mười chín, ông bà Khóa đã có tới ba chàng rể hụt: Một là cậu Đông con ông Chánh Quỳnh ở thôn Thượng, hai là cậu Bái con bà Cửu Lan ở thôn Hạ, và ba là cậu Đạm con ông Đồ Loát ở cùng thôn.
Cậu Đông bị bịnh thương hàn chết hai tháng trước khi cậu định làm lễ cưới với cô Vang. Cậu Bái thì bị bắt đi lính khố đỏ sang Pháp đánh giặc "Đức" rồi biệt tích. Còn
cậu Đạm thì bị ông bà Khóa từ hôn, trả lễ vì một vụ kiện tụng giữa hai họ thông gia. Sau đó ít lâu cậu Đạm lấy vợ, còn cô Vang vẫn là gái chưa chồng. Và cũng chưa có một người thứ tư nào dạm hỏi.
Dương Sơn là một làng giàu có, chuyên nghiệp nông trang, gồm có ba thôn, thôn nào cũng nhiều ruộng tốt: Dương thượng, Dương trung, Dương hạ.
Trai Dương Sơn nổi tiếng là lực điền và giỏi nghề cày bừa. Gái Dương Sơn nổi tiếng là hát hay, cày giỏi và xinh, nhất là các cô gái Dương Trung. Mà cô Vang lại là cô đẹp nhất thôn Trung nữa! Trai gái Dương Sơn thường kết duyên với nhau, trai thôn Thượng lấy vợ thôn Trung, gái thôn Hạ lấy chồng thôn Thượng. Các họ trong xã thường thông gia với nhau. Họa hoằn lắm mới có cậu trai Dương Sơn lấy vợ ngoại xã, hoặc một cô gái Dương Sơn lấy chồng ngoại xã.
Đó là một thủ tục đặc biệt của xã Dương Sơn. Tuy thủ tục đó không bắt buộc nhưng nhà nào không theo thủ tục đó thì dân làng mỉa mai chê cười.
Chính ra cậu Khoát cũng không muốn sang thôn Trung chơi làm gì, nhưng vì nể Lái Quẫy, cậu phải nhận lời với một điều kiện là chỉ ở chơi nhà ông Khóa Mạc năm bảy ngày để chỉ vẽ cho cậu Sóc chăn nuôi và điều khiển con trâu, chớ không chịu ở lâu.
Hàng ngày, Khoát đưa cậu Sóc và trâu ra bãi Giang Đình để chỉ bảo cho Sóc biết những cách thức, mẹo mực khuất phục một con trâu bất kham; cách nắm mũi trâu như thế nào để trâu đứng yên; cách luồn yếm trâu để bắt dây thừng cột mũi, khi nào trâu sổng thừng, cách hô tiếng "họ" vừa ngọt ngào vừa oai nghiêm cho trâu vừa mến vừa sợ và phục ṭng; cách đuổi theo và chặn đầu trâu như thế nào cho trâu khỏi lồng chạy...
Đó mới chỉ là phương pháp sơ đẳng để điều khiển một con trâu "khó dạy". Phương pháp này chỉ trong một tuần, Khoát đã dạy cho Sóc thực hành với kết quả hiển nhiên.
Đến nghệ thuật tập dượt một con trâu chọi thì quả là cả một công trình đ̣i hỏi nhiều thì giờ hơn. Nhưng theo lời đã hứa, Khoát không thể ở lâu tại nhà Khóa Mạc. Vợ chồng ông Khóa yêu cầu chàng ở lại dạy thêm, cậu nằng nặc không; mãi sau cô Vang lại khẩn khoản mãi, chàng mới hứa sẽ trở lại giúp Sóc trong một tháng sau khi thanh toán xong việc nhà.
Từ hôm đó, dân làng, nhất là giới tráng đinh, thường kháo nhau về chuyện Khoát. Cậu trai làng "Đại Bái" được người ta nhắc đến luôn trong những lúc trà dư tửu hậu. Phần đông khen ngợi Khoát lanh lẹn, khỏe mạnh và dễ thương. Có lẽ những người khen ngợi Khoát hơn cả chính lại là cha con Khóa Mạc. Được thể, Lái Quẫy lại càng đề cao đức tính và tài năng của Khoát, nào là anh ta rất thạo nghề làm ruộng, cày cấy khỏe gấp hai những lực điền khác, tính nết khảng khái và "hùng" vào bậc nhất trong đám con trai Đại Bái.
Khoát lại còn giỏi vơ, giỏi vật và còn ăn cuộc nhiều vụ đấu võ, đánh vật tại suốt vùng Phủ Thiệu. Lái Quẫy tỏ ý muốn nhờ Khoát dạy võ cho các tráng đinh Dương Trung, ý kiến đó được cha con Khóa Mạc nhiệt liệt tán thành. Ông Khóa Mạc tuyên bố sẵn lòng để cho Khoát mở lớp dạy võ tại nhà ông. Ý định của ông Khóa và bác Lái Quẫy được Sóc khoe với các bạn tráng đinh trong thôn, mọi người đều tỏ vẻ hoan hỷ, đợi chờ Khoát trở lại để dạy võ cho họ. Bởi thế, khi Khoát trở lại Dương Trung lần thứ hai để giữ lời hứa với ông bà Khóa Mạc và cô Vang, anh ta đã có thêm cảm tình trong dân làng, nhất là trong giới tráng đinh. Và lần này, Khoát chỉ vẽ cách tập dượt trâu chọi không những cho Sóc mà còn cho tất cả những cậu trai có trâu dự cuộc chọi năm tới. Tuy nhiên, Khoát vẫn dành những mánh lới đặc biệt về môn chọi trâu để chỉ vẽ riêng cho Sóc.
Chỉ trong một tháng sự huấn luyện của Khoát cho giới tráng đinh thôn Dương Trung và nhất là cho Sóc đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Tiếp đó, các "môn đệ" của Khoát yêu cầu chàng dạy vơ. Đáp lại tấm thịnh tình của Lái Quẫy cùng toàn gia Khóa Mạc, và cũng nhân dịp muốn lấy tiếng cho trai "Đại Bái", Khoát nhận lời ngay.
Mỗi đêm, bắt đầu từ giờ Dậu, một số đông tráng đinh trong thôn đến nhà ông Khóa Mạc để học nghề vơ của Khoát. Cả ông Khóa lẫn bà Khóa đều lấy làm hãnh diện. Còn cô Vang thì tươi hơn hớn, lúc nào mái tóc cũng như đầy sao rụng và môi lúc nào cũng nở hoa.
Tuy không có bổn phận phải phục dịch lớp dạy vơ, cô cũng vui vẻ chu tất trầu nước cho mọi người đến học vơ hay đến xem thầy tṛ anh Khoát luyện vơ.
Riêng đối với Khoát, cô vừa quý mến vừa khâm phục. Quý mến vì Khoát có nhiều đức tính của một nam nhi, khâm phục vì Khoát giỏi vơ và giỏi quá.
Từ ngày Khoát đến ở nhà cô, cô cảm thấy trong nhà tươi sáng hơn, sống động hơn và trong lòng cô rào rạt một niềm vui lạ vui lùng như tâm hồn hoan lạc, tưng bừng của đứa trẻ trong ngày đình đám.
Cả nhà yêu quý Khoát, vì ngoài công việc tập luyện cho Sóc, Khoát còn giúp đỡ ông bà Khoá Mạc trong những công việc nặng nhọc như chuyển thóc ra phơi ngoài sân, hoặc chuyển thóc từ sân vào bục mỗi khi thóc phơi bị mưa bất thần. Đứng trông Khoát chuyển thóc, cô Vang cảm thấy lòng rào rạt thương yêu. Và cô thẹn với lòng. Sực nhớ lại mấy cậu Đông, Bái, Đạm là những cậu trai trước kia đã dạm hỏi cô, nhưng không thành, cô so sánh họ với Khoát rồi cô thấy bâng khuâng mơ ước một đám cưới sang sông... mà chú rể là một chàng trai Đại Bái.
Thế rồi có một hôm...
Hôm ấy là phiên chợ tỉnh, hăm hai tháng Chạp, ông bà Khoá đi chợ sắm Tết và mua các thức ăn để làm cỗ tiễn ông Công và nhân dịp để thết đãi Khoát, Lái Quẫy và giới tráng đinh đồng tuế với Sóc, sắp dự cuộc chọi trâu vào đầu năm.
Sau khi tập dượt lần cuối cùng cho Sóc điều khiển trâu chọi ở bãi Giang Đình, Khoát trở về nhà ông Khoá giữa lúc cô Vang đang đuổi theo một con lợn sổng chuồng. Hai má cô đỏ thắm, áo đẫm mồ hôi, mà cô vẫn không đuổi được lợn vào chuồng.
Khoát vội vàng tiếp tay với Vang, chỉ đuổi vài vòng chung quanh mấy luống cải, Khoát đã tóm được một cẳng sau con lợn, xách bổng nó lên, đem thả vào chuồng. Trong khi quá vội vàng, anh bị một cái cọc chuồng heo đâm vào cổ tay, chảy máu. Quên cả e lệ, Vang cầm tay Khoát hỏi:
- Đau không anh? Để tôi đi lấy thuốc lào rịt cho anh.
Rồi nàng chạy vội vào trong nhà tìm ống thuốc lào của ông Khóa, rịt thuốc và buộc vải vào chỗ đau. Ngửng mặt lên, cô vừa gặp lúc Khoát đang nhìn cô đắm đuối. Hai má cô ửng đỏ, đôi hàng mi rung động như những con bươm bướm bé con.
Khoát nói một câu để phá tan bầu không khí ngượng ngùng:
- Tôi không đau đâu, cô Vang ạ! Tập võ còn nhiều khi bị đau hơn nữa...
Vang ngửng nhìn Khoát rồi vội nhìn ra cổng. Vang hỏi:
- Cậu Sóc đi đâu?
- Cậu ấy đi tắm trâu ở ngoài sông.
Hai người lại ngượng ngùng, im lặng. Vang đi lại bể múc nước rửa chân. Khoát nhìn theo, băn khoăn giây lát rồi bạo dạn bước lại gần bể nước, bắt chuyện:
- Hôm nay, cô không theo ông bà đi chợ Tết?
Vang thẹn thùng trả lời:
- Tôi phải ở nhà, sửa soạn để ngày mai tiễn ông Táo và...
- Và tiễn chân tôi về Đại Bái...
Khoát bạo dạn hơn:
- Không hiểu sao, lần này trở về Đại Bái, tôi thấy buồn buồn...
Mắt Vang sáng hẳn lên. Tim nàng đập rộn ràng. Vang muốn nói với Khoát, nhưng không thể nói nên lời.
Một phút qua đi, Khoát hỏi Vang về công việc trong thôn, việc đình đám năm sau và chuyện chọi trâu. Rồi sau cùng, anh thành thật hỏi Vang về vấn đề tình duyên. Vang không giấu một tý gì.
Khoát thú thật với Vang là anh yêu Vang từ lúc nào "cũng không biết nữa", nhưng quả là yêu thật. Anh hy vọng được làm chồng Vang. Cô đỏ mặt, không trả lời, nhưng Khoát cảm thấy tim cô cũng đập một nhịp chung tình.
Ngày hôm sau, Khoát từ biệt ông bà Khóa, bác Lái Quẫy, cô Vang, cậu Sóc và các "học trò" của mình trở về Đại Bái.
Lòng chàng bâng khuâng như đánh mất một vật gì ở Dương Trung. Rồi sau đó năm hôm, nhân dịp cậu Sóc lên Đại Bái "tết thày", Khoát theo về Dương Trung để đáp lễ ông bà Khóa và viếng thăm Lái Quẫy cùng bà con quen biết ở Dương Trung, nhân tiện chào mừng tất niên.
Hôm ấy, cô Vang thừa dịp đi chợ Tào sắm Tết đã gặp Khoát tại bến đò Đức Giáo. Khoát cho Vang biết rằng cậu đã nói cha mẹ, sẽ nhờ Lái Quẫy ngỏ lời với ông bà Khóa dạm hỏi cô.
Cậu cũng vừa đem chuyện này bàn tính với Lái Quẫy. Khoát khuyên Vang nên chiều chuộng Sóc để cậu ấy tán thành cuộc hôn nhân.
Vang lặng thinh nghe, tay mân mê một bông hoa dâm bụt. Nước sông lững lờ chảy giữa đôi bờ xanh xanh.
Thấm thoát đã đến ngày đại hội chọi trâu. Thôn Dương Trung rộn rịp từ tinh mơ. Hầu hết mọi nhà trong thôn đều chật ních những khách khứa từ các xã lân cận đến xem hội. Khách nhà ông bà Khóa đông hơn hết.
Khoát đã có mặt tại đó từ hôm trước. Cuộc chọi trâu này có tính cách vô cùng quan trọng, vì kết quả có thể định đoạt cuộc tình duyên của cậu và Vang. Bác Lái Quẫy có hứa với Khoát rằng sau cuộc chọi trâu, nếu Sóc thắng giải, bác sẽ thừa dịp vui mừng của ông bà Khóa Mạc mà ngỏ lời dạm hỏi Vang. Nếu Sóc thất bại, việc dạm hỏi phải chờ một dịp khác, dịp đó chưa biết đến ngày nào mới có. Bởi thế, Khoát còn sốt ruột hơn cả những cậu trai Dương Sơn được vinh dự tranh giải chọi trâu.
Ngày mười bốn tháng Giêng, bãi Giang Đình ở đầu thôn Dương Trung được tổ chức thành một đấu trường chính thức, rộng ước năm sào, thiết lập ở giữa bãi, chung quanh có đóng cọc và cắm tre để pḥng ngừa những con trâu hăng tiết lồng chạy ra bên ngoài.
Trước cuộc đấu, các trâu chọi được trình diện trước sân đình trong khi các tráng đinh dự cuộc phải làm lễ tế thần ở trong đình.
Sau đó cuộc gieo âm dương để cầu xin Thành Hoàng chứng giám cho sự trong sạch, chính đính của các tráng đinh và trâu chọi. Rồi đến cuộc rút thăm do ông Tiên Chỉ đích thân điều khiển và kiểm soát, để chỉ định từng cặp trâu chọi, tất cả có mười sáu con, chia ra làm tám cặp chọi sơ kết.
Những trâu nào thắng sơ kết sẽ được bắt thăm lần thứ hai để đấu bán kết, rồi chung kết.
Thường thường, ít có sự bốc thăm chung kết vì tất cả trâu chọi đã chết hoặc què trong ṿng sơ đấu hoặc bán đấu. Chỉ những trâu nào không bị què sau các cuộc đấu mới được giật giải thưởng danh dự, còn những trâu dù thắng đối thủ nhưng bị què chỉ nhận được giải thưởng úy lạo.
Từ xưa đến nay, trong các cuộc đấu trâu ở xã Dương Sơn, chưa hề có con trâu nào giật được giải danh dự, vì chưa có một con trâu nào sau cuộc đấu mà không trở thành phế ngưu. Các phế ngưu đó sẽ bị mổ thịt tế Thần và khao thết quan khách cùng dân làng. Những cuộc chọi trâu ở Dương Sơn sở dĩ hấp dẫn rất đông khán giả, có lẽ một phần cũng vì chung cục đã biến thành một cuộc đánh chén thịt trâu? Không khí vô cùng náo nhiệt.
Một hồi trống và một hồi cồng nổi lên vang động cả cánh đồng. Khán giả hồi hộp chăm chú nhìn từng cặp trâu quần nhau, húc nhau, chém nhau bằng sừng một cách ghê rợn, hoặc đuổi nhau chung quanh bãi chiến. Tiếng cẳng trâu kêu huỳnh huỵnh. Bụi cát bay mù mù. Tráng đinh trong làng đứng bao quanh bãi chiến, cầm roi hèo hoặc đòn xóc giữ cho trâu không chạy được ra ngoài bãi chiến.
Có cuộc chọi không đầy năm phút đã kết liễu vì một "địch thủ", bị một "đòn đau", vội vã bỏ cuộc chạy trốn, nhất định không quay đầu lại.
Có cặp trâu ngang sức chọi nhau hãng nửa tiếng đồng hồ mà không hề thấm mệt. Gặp các cuộc đấu hào hứng như thế, những tiếng trống tiếng cồng lại càng nổi lên om sòm để kích thích hai đối thủ. Mặc dù biết trước rằng trong trường hợp kịch chiến ngang sức như vậy, hai con trâu thế nào cũng bị thương nặng - có thể cùng lăn ra chết, hai chủ trâu đều khoái chí và rất lấy làm kiêu hãnh. Trong khi ấy, các khán giả hò hét, reo mừng cổ vũ cho cặp trâu tử chiến, rồi họ lại thét lên những tiếng thương tiếc khi cả hai con trâu lăn ra chết, hoặc khi một trong hai con bị chém đến đui mắt, gẫy sừng, què cẳng.
Năm ấy, con trâu của Sóc đã toàn thắng và chiếm giải thưởng danh dự.
Nó đã đấu hai trận hết sức oanh liệt. Trong cuộc đấu thứ nhất, nó đã thắng đối phương rất mau chóng, còn trong cuộc đấu chung kết, nó đã mất non nửa tiếng đồng hồ mới hạ được địch thủ bằng một "ngón sừng" ác liệt đâm sâu vào mắt bên phải của đối phương, khiến cho đối phương vỡ trán, lòi con ngươi và lăn ra chết.
Tiếng reo hò, ca ngợi vang dậy bãi chiến, trong khi Sóc và Khoát vui mừng chạy ra dắt con trâu chiến thắng đến trước Hội đồng Giám cuộc, để nhận giải thưởng danh dự: một trăm quan tiền và mười thước nhiễu điều.
Hôm sau ông Khóa Mạc lập tức mở cuộc ăn mừng sự thắng cuộc chọi trâu của Sóc, cùng một lúc với cuộc mổ thịt các trâu tử chiến ở sân đình để Hội đồng Giám cuộc làm lễ tế Thành hoàng.
Vui sướng nhất hôm đó là Khoát và Vang, rồi mới đến cậu Sóc và ông bà Khóa Mạc. Vang và Khoát đều chứa chan hy vọng. Nhờ vinh quang này của gia đình, cuộc tình duyên của hai người chắc chắn sẽ thành...
Ngày hôm sau, đợi cho khách khứa về hết, Khoát mới thúc giục Lái Quẫy ngỏ lời với ông bà Khóa Mạc về việc dạm hỏi Vang. Tự nhiên, Khóa Mạc buồn rầu buồn rĩ: Ông rất tiếc không thể gả Vang cho Khoát.
Lái Quẫy nói hết lời, nhưng ông Khóa tiếc không thể làm khác được, vì đối với ông, thủ tục "trai làng lấy vợ làng" là một điều tối thiêng liêng. Ông không thể vi phạm, để làm tổn thương đến danh dự của gia đình họ Mạc.
Ông rất yêu quý Khoát và luôn luôn nhớ rằng Khoát đã dự một phần công lao rất lớn trong việc đem lại cho gia đình ông sự vinh quang sau cuộc chọi trâu. Để trả ơn Khoát, ông có thể chiều cậu về bất cứ sự việc gì trừ việc gả Vang cho cậu.
Trước sự từ chối quyết liệt nhưng chân thật của ông Khóa, Vang và Khoát đành ôm thất vọng.
Ngay chiều hôm ấy, Khoát từ biệt gia đình ông Khóa để trở về Đại Bái.
Ra đến bến đò Ðức Giáo, chàng ngồi trên bờ đê, quay nhìn lại phía thôn Dương Trung. Gió buồn lê thê. Mây sầu chia ly. Chàng không muốn bước xuống đò sang sông, vì cảm thấy sang sông lần này chẳng bao giờ lại có cơ hội gặp Vang lần nữa. Những lời gắn bó với Vang trong năm, cũng trên bờ đê này, đồng vọng trong tiếng thổn thức của con tim se sắt.
Giữa khi đó, Vang hớt hải chạy đến. Cô không nói nên lời, phần vì chạy vội, phần vì quá cảm động vì Khoát chưa sang sông.
Nhưng giây phút sung sướng chỉ thoảng qua, vì sau đó cả hai người lại càng thấm thía nỗi niềm tuyệt vọng. Mà cuộc gặp gỡ lần này chỉ là một cuộc vĩnh biệt mà thôi.
Khoát nghẹn ngào nói cho Vang biết rằng chẳng còn bao giờ chàng trở lại Dương Trung nữa.
Vang khóc hết nước mắt.
Tiếng sóng vỗ dưới chân đê, nghe như tiếng hát ru buồn của một người mẹ thương con.
Bèo ơi, nước ơi, nước chảy bèo cứ trôi và mãi mãi người ta ở trên thế giới này vẫn khổ.
Chuyến đò cuối cùng giục giã chia ly. Khoát sang sông, lòng đau như cắt. Vang chảy nước mắt, trở về Dương thôn, hồn nặng thê lương.
.... Ba tháng sau, Lái Quẫy cho gia đình ông Khóa Mạc biết tin Khoát đã tình nguyện sang Pháp để đánh giặc Đức. Vang được tin, lâm bịnh gần hai tháng. Đến khi khỏi sinh ngớ ngẩn. Rồi một hôm kia nàng biệt tích.
Ông bà Khóa và Sóc chia nhau đi tìm Vang khắp mọi nơi, nhưng vẫn chẳng thấy Vang đâu.
Tháng giêng năm sau, có người đem tin Vang tu tại chùa Trương Các ở huyện Hà Trung. Ông bà Khóa đi bộ hai ngày, qua bảy con đê mới đến được chùa và ôm con gái khóc như mưa như gió. Ai cũng tiếc cho nhan sắc của Vang và thương cô cao số.
...
Riêng Khoát hình như từ khi đi lính cho Pháp, không hay tin tức gì của Vang.
Hàng năm, cứ đến ngày mười bốn tháng Giêng Khoát lại trông ra hoa tuyết trên trời, tưởng nhớ một ngày hội chọi trâu ở quê hương và tự nhủ:
"Chắc bây giờ chọi trâu ở Dương Sơn không còn tưng bừng, náo nhiệt như trước nữa!".
Một người rơi xuống hồ
Rượu mãi về sau mới ngấm. Y ngà ngà. Đến lúc ăn đồ nước, y loáng choáng. Nhà cửa quay đi nhè nhẹ. Đến bắt tay mấy "chị em" để ra về, y say thực thà.
Khuya lắm. Ngoài phố không có cái xe nào cả.
Y húc đầu vào quãng không, đi về.
Chuông nhà thờ thủng thẳng điểm ba tiếng.
Y loạng choạng đi giữa đường. Bụng no nhưng người nhẹ, y tưởng mình sắp có cánh bay. Thú quá. Y chạy nhanh rồi đứng lại, hát khẽ một câu. Nhưng lúc này cần phải hoạt động mới thực sướng. Y lại đi. Nhưng sự nhẹ nhàng rồi làm cho y khó chịu. Người y mất thăng bằng. Y đi bên nọ, dọ bên kia như người rồ.
Thế là y vấp phải một hòn đá. Trán y đập vào cái biển xanh kẻ chữ "Rue barrée", tay y định víu lấy cái hàng rào không được, y rơi xuống một cái hố người ta vừa đào lúc trưa.
Lúc y mở mắt, thấy mình nằm thẳng cẳng ở dưới hố, y hơi ngạc nhiên một chút. Người ê ẩm, y chẳng buồn đứng dậy, cứ nằm im mơ màng.
Đêm khuya ngấm vào người y, chậm chạp và dễ chịu. Y thấy mình tỉnh lắm và có những cảm giác rất hay về cuộc đời.
Thoạt tiên, y thấy ngay ở trên đầu, hàng vạn ngôi sao. Thuở bé, y đã trông thấy những ngôi sao, ở nhà quê. Nhưng từ khi lớn lên, ra tỉnh, đi làm, lấy vợ, có con, y không trông thấy nữa; bây giờ, lại có dịp được thấy, y có ngay cái cảm giác là mình bé nhỏ quá, cô độc quá ở trong vũ trụ xanh xanh này.
Sau, y thấy ở xung quanh có tiếng xì xào. Y hếch một tai lên để nghe cho kỹ: đó là tiếng cây reo như sóng bể; gió thổi sà sà mặt đất như một tiếng thở dài; một cái ô tô chạy ở đằng xa làm rung động mặt đất. Tiếng sột soạt, tiếng dế kêu, tiếng nước sông khẽ đập vào bờ. Y tưởng tượng đến một cuộc đời vô hình. Bỗng có tiếng người nói ở phía xa, ở phía sau.
Người trai trẻ nghe thực kỹ. Y lấy làm lạ sao ở chung quanh mình "lại có lắm người thế, mà vừa lúc nãy đây, sao quái quỉ! lại không có người nào cả" để cho y phải còm cọm đi một mình - đi một mình với cái say!
Y bực lắm. Những việc đã qua lại tỉnh giấc trong người y, rung động ở tim, đi qua ngực, đứng ở cuống họng và khẽ kêu bằng tiếng thở mạnh. Giờ nọ nối giờ kia tiến lại. Y thấy bao nhiêu việc não nùng khi trước bao bọc lấy y ở trong hố. Y thấy nhà y, quét vôi trắng, lù lù ở giữa tỉnh thành. Y thấy người vợ xinh xẻo của y đứng tựa cửa như một cái cây có bóng mát. Y thấy hai đứa con gái của y nhíu những đôi mắt đẹp, để trông xa vời.
Ý nghĩ lan man quá. Nhưng đêm khuya đi nhẹ nhàng như mây khói. Róc... rách, róc rách... tiếng hát của con sông Hồng Hà, y đương nghe thì sình sịch có tiếng người đi lại.
Người trẻ tuổi kêu lên: "Tôi rơi xuống hố rồi!".
Người khách đi đường thứ nhất là một con chó cắm đầu đi theo một ông to lớn và một cái bót xì gà đồ sộ. Người to lớn nói: "Ê! Nếu anh không say rượu thì việc gì đến nỗi này...". Một ngọn khói xanh bay ra cuồn cuộn và theo gió tan đi dần.
Người khách đi đường thứ nhì là một nhà báo đứng về mặt quốc gia. Nghe thấy người ngã xuống hố nói chuyện với kẻ đi trước mình như thế, người ấy quát: "Anh trông mong hắn cứu thế nào được? Nam quốc Nam nhân mới thương nhau thôi. Hắn khác máu tanh lòng, thấy mình ngã xuống hố, có khi lại thích, nghĩ mà đau đớn. Bao giờ ta mới thoát khỏi vòng nô lệ để mở mày, mở mặt với đời? Nước ta, than ôi, nào có phải hèn kém gì đâu! Bốn nghìn năm văn hiến! Mà dân ta, một thủa, có lẽ đã tiến hóa bằng mười nước Nhật và nước Xiêm bây giờ.
Cũng tai mắt, cũng thịt da,
Cũng dòng máu đỏ, con nhà Lạc Long...
(à, ông nhà báo lại là một nhà thi sĩ!). Nhưng người tuổi trẻ kêu lên:
- Tôi xin ông hãy cứu tôi ra khỏi hố!
- Ra khỏi hố làm gì? Anh phải biết: chúng mình nô lệ thì ở đâu cũng thế. Trừ khi nào có một cuộc đổi thay...
Và khách rảo cẳng đi. Có lẽ để tìm sự đổi thay đó ở trong... điếu thuốc phiện hay căn phòng cho thuê.
- Tại làm sao anh lại thở than như vậy?
Người khách thứ ba hỏi thế.
Đó là một vị tu hành. Đầu nhẵn như chùi, môi đỏ, con mắt đa tình như ngôi sao. "Người ta ở đời có số cả. Không có gì thoát tay.Trời. Cái nhân có tốt thì cái quả mới tốt. Cái nhân đã xấu thì cái quả phải xấu. Không có cái quả tốt nào ở cái nhân xấu mà ra. Không có cái nhân tốt nào ở cái quả xấu mà ra. Kiếp luân hồi, mình không nên oán tức điều gì cả. Ta phải diệt dục. Ta phải chịu đựng đau khổ và cho đó là quả báo hay một cuộc thí nghiệm của Hóa công. Nếu là sự quả báo, Người nên biết rằng sau này Người sẽ thanh cao hơn và được tha thứ. Nếu là cuộc thí nghiệm, Người sẽ mạnh gấp bội lên. ở đời, không có một thánh nhân nào, không có tác phẩm vĩ đại nào không có bàn tay của Qủy Sứ mó vào. Hiểu chưa?
Người khách thứ ba nói thế, người khách thứ tư nghe thấy, tiếp rằng:
- Chính vậy. Đem khoa học mà cố sức giảng giải cuộc đời là vô lý. Ta phải sống cái cuộc đời mà hóa công đã định sẵn. Không có gì là quan hệ cả. Chỉ có tâm hồn là quan hệ mà thôi. Điều cần nhất là ta phải sống thực mạnh mẽ. Anh lấy làm khổ vì bị rơi xuống hố. Tại sao? Thế anh không thấy thế là sống à? Anh đau khổ: chính đau khổ là sống một cách mạnh mẽ đó. Chỉ có hai điều mà người đời nên tránh thôi: lười biếng và buồn bã.
Người ấy (à! ra là một nhà thông thái!) ngừng lại một lát để đọc câu văn của André Gide:
Nước tù hãm có chất độc và khoanh tay vào mạng mỡ, nói tiếp: "Anh tưởng rằng anh lên bờ thì sung sướng hơn ở trong hố à? Chỉ cần biết một điều: anh biết rằng anh đau khổ. Và thế là đẹp đẽ lắm rồi. Anh làm động đến thần cảm của chúng tôi một cách mãnh liệt. Anh hơn chúng tôi chỗ đó.
Anh ơi, nên biết rằng có nhiều người hiện đương lo nghĩ băn khoăn vì anh. Đẹp thay mà nên thơ thay! Anh thử nghĩ đến con anh đương khóc. Anh thử nghĩ đến vợ anh ở nhà đương mong - và có lẽ tưởng anh chết rồi, đã định "bước đi bước nữa". Ôi! Anh có thấy tim anh đập mạnh không? Và nghĩ rằng không bao giờ ra được khỏi hố, anh có thấy những cái động lòng mãnh liệt không?
- Thưa ông, tôi chỉ muốn ra khỏi hố.
"Tôi chỉ muốn ra khỏi hố", mấy tiếng này lọt đến tai người khách đi đường thứ năm.
Cứ trông cái đầu, đôi mắt kèm nhèm, bộ quần áo xanh và cái dáng đi chắc chắn của ông khách này, cứ trông cái vẻ quả quyết, cái nhìn xót xa và hai bàn tay xương xẩu giơ ra như chực ôm lấy mình, cứ trông thế cũng đủ biết khách là một kẻ lao khổ biết thương người như anh em một nhà.
Khách nghe thấy tiếng người tuổi trẻ kêu, hộc tốc chạy ngay lại, giơ nắm tay lên chào.
Khách hỏi: "Anh làm sao thế, anh bạn?".
- Tôi rơi xuống hố từ ban đêm.
- Rõ khổ! Từ ban đêm? Mà, đến bây giờ, vẫn nằm im như thế trong khi bọn phú hào ở trên phố ăn uống nô đùa với nhau? Cái xã hội này mục nát quá lắm: một bên thì vui vẻ với cuộc đời trưởng giả, một bên thì là một kẻ vô sản rơi xuống hố từ ban đêm. Chao ôi! Giai cấp... phải có chiến tranh giai cấp! Thôi, anh đừng sợ nữa. Có tôi đây. Sự đau khổ của anh là của tôi. Anh có thấy thế không? Anh có thể thấy thế không?
Sự đau khổ của anh em bị bóc lột, anh em bị bóc lột, anh xem, tôi hít vào cùng với khí trời và nó chảy ở các mạch máu của tôi. Nó thấm nhuần vào da thịt tôi. Thành thử cái giọng tôi thành thực nhất, chua chát nhất, và mọi người đều phải cảm động khi tôi lên tiếng.
Bây giờ tôi định thế này: lập tức, tôi đi tìm bọn phú hào mà kêu rõ to vào lỗ tai họ. Tôi kêu: "Các anh sung sướng, các anh bóc lột quần chúng để có nhà lầu, ô tô, thế mà... thế mà ở đường Bờ Sông có người rơi xuống hố...". Anh bạn phải biết tôi sẽ nói hùng hồn như thế nào. Giọng tôi sẽ át cả giọng họ. Tôi sẽ hết sức tranh đấu nữa và những tư tưởng của tôi sẽ lọt đến những nhà lầu êm đềm. Ôi anh bạn ơi! Để rồi anh xem họ sẽ run sợ như thế nào! Để rồi anh bạn xem cái hình ảnh thảm đạm của anh bạn sẽ khuấy rối cuộc đời yên tĩnh của họ như thế nào!
Khách giơ nắm tay lên lượt nữa:
- Chào anh bạn ở lại nhé. Tôi, tôi phải đi ngay để tranh đấu cho tới cùng.
Và khách đi tranh đấu cho tới cùng. Bóng khách mờ dần ở trong cảnh tranh tối tranh sáng. Khách để lại đằng sau một tấm lòng nhân đạo hùng hồn và có mồ hôi.
Người trẻ tuổi thấy một sự thất vọng mông mênh cất tiếng khóc ở trong tim óc. Y định thần lại: gió thổi hiu hiu, nước sông lạnh vẫn đập vào bờ róc rách. Chung quanh, chỉ còn trơ lại con đường trắng và mấy khóm cây rung rinh vài hạt sương.
Y bèn ngửng đầu dậy, chống một tay, quả quyết đứng lên. Cái hố không lấy gì làm sâu cho lắm. Y ghếch một chân lên bờ, hai tay để hai bên, đánh đu một cái mạnh, cho nốt chân kia lên mặt đất, đứng thẳng dậy, phủi quần áo... rồi đi về nhà.
Ngày mai tôi sẽ chết
I
Tôi viết bức thư này không biết anh có kịp xem không, nhưng tôi cứ viết và ao ước anh sẽ đọc được trước khi ra lấy vé tàu đi Hà Nội. Anh ơi, anh đừng đi Hà Nội nữa. Người bạn cũ của anh bây giờ đã già quá đi mất rồi. Sau mười sáu năm trời không gặp mặt nhau, chính anh, tôi e rằng anh cũng không nhận ra tôi nữa. Tôi chỉ còn là một đống giẻ rách không tên, ở một chỗ ngoại ô hẻo lánh chung quanh toàn những tiếng búa đập trên đe và những câu chửi rủa thô tục của những gái chơi trốn thuế. Buổi sáng lúc trời còn mù mịt chưa trông rõ mặt người, những đoàn xe đen kịt từ ở trên phố kéo về đem một hơi hướng khó chịu của Hà Nội đến cái giường tre tôi nằm buổi trưa, ruồi đậu và muỗi kêu như thúc giục người ta dậy cầm một cái gậy giang hồ để đi, bất cứ đâu; và buổi tối, những lời dọa dẫm chém giết nhau không lúc nào ngớt làm cho một người bình tĩnh nhất cũng đâm ra phẫn chí.
- Phải đi! Ta nhất định phải đi!...
Biết bao nhiêu lần tôi đã nói thế với tôi rồi? Chao ôi, không có một lần nào, không một lần nào tên bạn khốn nạn này của anh lại dám đem thực hành ý kiến. Đó là bởi vì mười năm nay y mắc phải một bệnh nan y, một bệnh giữ người ta lại ở chân giường không cho biết những phương trời mới lạ: đó là bệnh nghiện.
Bây giờ mỗi khi trong xóm có ai xa lạ đến hỏi thăm tôi hay là tò mò muốn biết chủ nhân của cái nhà lá ở chỗ "Ba con chó đá" đi vào:
- Cái ông bung bủng ăn thuốc ấy làm nghề gì ấy nhỉ?... thì trẻ con và đàn bà chung quanh đó, không động một cái gân mặt, đều trả lời thản nhiên rằng:
- Ấy, nghe đâu như ông ấy viết sách viết báo bán cho nhật trình thì phải.
Anh ơi, người ta còn có thể trả lời khác thế làm sao được? Bạn anh mới có bốn mươi hai tuổi - tuổi người ta vui vẻ bước vào đời, lòng đầy chim hót - vậy mà đã già lắm, yếu lắm, chán nản lắm rồi anh ạ. Bây giờ, những buổi sáng trời, ngồi chống tấm phên lên nhìn ra cái ao tù đằng trước mặt, tôi tiếc cái thời kỳ trẻ tuổi như một người không may hồi cố đến một bạn tình có thủy không chung. Những lúc ấy trái tim tôi se lại. Một vị gì cay cay mà mặn mặn đến với lưỡi tôi: tôi tưởng như mình ốm nặng lắm rồi, chỉ ngày mai sẽ chết không còn thuốc gì chữa nổi. Thì tôi lại càng thương mẹ tôi và các em tôi - hiện bây giờ đã nằm yên trong một cái nghĩa địa một tỉnh gần bờ bể, có lẽ lúc này đây rét lắm ở trong những cái mộ không bao giờ cất lại. Ôi, mẹ tôi và hai em gái của tôi đã cầu Trời khấn Phật cho tôi biết bao nhiêu. Họ làm việc gì, họ trông mong gì là đều làm việc và trông mong cho đứa con này, cho thằng anh này sẽ gặp sự may mắn trên đường đời.
Tạng tôi vốn ốm nên mẹ tôi thương tôi lắm. Nhất là em gái thứ hai tôi thì lại càng xót xa tôi. Tôi còn nhớ trước hôm nó chết hai ngày, vào lúc hoàng hôn nó có dắt tôi đến bên cạnh một gốc nhãn mà bảo tôi:
- Đêm qua, em sốt lắm và ho suốt cả đêm. Em xem chừng không sống được. Vậy từ hôm nay anh cầu cho em đi, anh cầu cho em "đi" một cách nhẹ nhàng. Còn em, nếu em chết, em sẽ không bao giờ quên anh. Em phù hộ anh và sẽ cầu cho anh may mắn hơn thày, không khổ về tinh thần và vật chất. Nhưng ngay bây giờ em còn sống và nghe được lời anh, anh hãy nguyện với em sẽ không bao giờ làm cái nghề bán văn buôn chữ nữa!
Tôi vốn không phải người Hà Nội. Dòng họ nhà tôi từ bao nhiêu đời nay vẫn sinh cơ lập nghiệp ở làng Kiến Chính thuộc Nam thành. Mẹ tôi đan lưới. Gió bể ngày đêm thổi hút vào nhà tôi và những cái lưới ấy bay phần phật. Hai em tôi giúp đỡ mẹ tôi trong những việc đan lờ tết chỉ và giúp hai bữa cơm trong nhà. Bởi vì nhà tôi thanh bạch lắm, không nuôi đày tớ. Cả ba người làm ngày đêm mới tạm được nuôi nhà: tôi đi học tốn kém nhiều, còn thày tôi dăm bảy tháng mới có một cái bổng một vài chục bạc.
Tôi gọi là cái bổng bởi vì thày tôi không sống hẳn vì nghề. Thày tôi sinh vào giữa lúc chữ nho tàn cục, phải kéo lê cái sống tồi tàn trên mảnh đất này, lúc buồn thì dạy mấy đứa trẻ học vài cái chữ nho để họa là có truyền được cho con cháu cái đạo của thánh hiền Khổng Mạnh.
Những đứa trẻ ấy đều là con nhà nghèo cả, họa hoằn mới có một hai trẻ sang để tạ ơn. Thày tôi, vì vậy phải kiếm thêm bằng cách viết bài cho một tờ nguyệt báo xuất bản ở Hà thành - hồi ấy ở Hà thành có báo viết vừa bằng chữ nho, vừa bằng chữ quốc ngữ - để kiếm thêm. Nhưng gọi là kiếm thêm đó mà thôi chứ thực thì có khi đến một năm thày tôi mới được nhà báo đưa biếu một vài chục bạc (hồi ấy người ta không gọi là tiền nhuận bút nhưng là tiền trầu nước).
Cuộc đời ở cái làng hẻo lánh này cứ đi như thế, đều đều tựa ngọn triều ở trước nhà tôi ngày xuống đêm lên không có một sự gì thay đổi. Mẹ tôi cứ đan lưới bán, thày tôi cứ viết bài đăng ở Tân Văn, còn hai em tôi thì vừa mạng lưới vừa nhìn ra xa xa ngoài bể khơi xem những con thuyền đánh cá đi đi lại lại như những con mộng đẹp.
Cho đến năm tôi hai mươi tuổi. Một hôm, thày tôi đi mất tích. Mẹ tôi mở cửa trông ra bể đợi, nhưng xuân đi, hạ đến rồi thu, rồi đông, thày tôi vẫn tuyệt vô âm tín, hàng xóm không ai biết cả. Từ đó, đêm cũng như ngày, tiếng hát của biển khơi vọng vào nhà tôi buồn ray rứt cả ruột gan. Nhà tôi sa sút. Em gái lớn tôi đi lấy chồng, nhưng mới được mấy tháng thì chết vì sinh nở.
Chính đêm đi đưa đám nó về, ba mẹ con tôi ngồi đốt đèn lên để than thở với nhau thì có người gõ cửa rất gấp và đem vào một bức thư. Tôi còn nhớ đêm ấy mưa to lắm. Gió bể thổi heo hút, người đàn ông kia lạnh bợt hẳn mặt đi và ướt lướt mướt cả từ đầu đến gót, nhưng mẹ con tôi cũng không thể giữ người ở lại, dù chớp bể mưa nguồn, sấm sét nổi lên tứ phía như thể trời lúc ấy tức giận đến cùng cực vậy.
Từ đấy tôi hiểu rằng thày tôi không còn bao giờ trở về đến đất này.
Mẹ con tôi sống heo hút với nhau, không mong đợi điều gì nữa, nhưng vẫn liếc nhìn ra những con thuyền rẽ sóng đi... và chúng tôi lại tưởng là thuyền ai đi ngày trước.
Trong khi ấy, thì mẹ tôi già héo đi lúc nào không biết. Cái tay đan lưới ở dưới ánh đèn dầu mỗi ngày mỗi chậm. Giọng nói của người cũng yếu đi, tuy đã lâu mẹ tôi ít hẳn nói cười. Ôi, người đàn bà ấy cắn răng mà chịu đựng số mệnh, không than không tiếc nhưng chỉ mong có một điều rằng: tôi là đứa con cuối cùng của họ; tôi phải giữ lấy dòng họ đừng cho tuyệt diệt. Phải lấy vợ, phải nghĩ chuyện nối dõi mai sau, còn đến việc bán văn buôn chữ thì mẹ tôi và em tôi khẩn khoản tôi chớ có nên theo đuổi làm gì. Bởi vì, mẹ tôi đã nhất định tin như thế rồi, không ai có thể làm lay chuyển lòng người được: mẹ tôi cho rằng thày tôi không những lao tâm lao lực vì văn chương, mà văn chương lại còn là nguyên nhân chính trong việc thày tôi đi mãi, không bao giờ về nữa. Tôi không nhớ rằng lúc ấy tôi có tin những lời nói của mẹ tôi không, nhưng tôi biết rằng tôi có hứa sẽ vâng theo lời mẹ.
Và tôi đã hứa cả với em tôi trước khi nó chết, nói với tôi bên gốc nhãn. Từ đó, ngày nọ đuổi ngày kia, năm tháng cứ dần trôi như nước bể trút sang những sông con, không bao giờ trở lại cùng bể nữa.
Tôi vuốt mắt cho mẹ và cho em, và cũng như nước bể, những lời hứa không còn ở trong trí óc của người trẻ tuổi lúc ấy có bao nhiêu nhựa sống căng trong mạch máu.
Không còn bận gì đến gia đình nữa tôi bán cả cơ nghiệp đi ra sống ở Hà thành. Tôi cho rằng phàm người thanh niên nào biết tự trọng, muốn sống cho ra sống, muốn làm nên sự nghiệp to tát thì không thể không ở Hà thành được: còn có chỗ nào đẹp đẽ bằng, còn có chỗ nào sống đầy đủ bằng?
Tôi thuê một cái gác nhỏ, và cũng như bao nhiêu "muỗi cỏ" ở các nơi bay về theo đuổi ánh sáng đèn, tôi quyết phải làm nên sự nghiệp gì không để xấu hổ cho dòng họ mình là một dòng họ nho phong. Thoạt đầu, cuộc đời tôi càng thấy khó bao nhiêu tôi càng say mê sống. Không hiểu vì sự say mê ấy hay vì cái nghiệp mà Thượng Đế bắt tôi phải chịu hoặc vì cái bản tính thanh niên xưa nay vẫn ham thích làm những điều mà người khác ngăn cấm mình, tôi quyết định sẽ trở nên một văn sĩ chỉ viết một tác phẩm mà ai ai cũng sợ.
ở Hà thành, có bao nhiêu người đã nuôi những cái mộng như thế? Có lẽ đến hàng ngàn. Hàng ngàn người lúc nào cũng tin rằng bị Thượng Đế đọa đầy. Họ có khi đói khổ đến vô chừng, nhưng lúc nào cũng vui vẻ mà gậm tương lai vì họ tin rằng chính họ, họ sẽ ôm quả đất vào trong tay, họ muốn là họ được.
Không có ai bây giờ chạy đến mời ta ư? Không cần. Ta hãy ca tụng lẫn nhau đã bởi vì người bạn có thể thiếu cơm, ta không thể để cho hắn thiếu tài. Những người làm nên sự nghiệp khi xưa đều thế cả.
Tôi nghĩ vậy cho nên tôi nhìn ánh sáng kinh thành rất say mê. Tôi mơ tưởng đến những tác phẩm sắp viết và tôi ngửng lên nhìn trời. Bầu trời hôm nào cũng nhiều sao. Tôi thấy ngôi sao bản mệnh của tôi sáng lắm. Tôi lại càng tin tưởng ở sức huyền bí của Thượng Đế, tôi lại càng tin ở tài tôi trong khi bao nhiêu thanh niên khác, đầy tài đầy lực - hầu hết cũng bay ở phương khác về như tôi - bị ngã xuống hố không kịp chào cha mẹ anh em lần cuối.
Bây giờ ngồi mà nghĩ lại tôi thương những chiến sĩ vô danh đó không biết bao nhiêu, tôi thương cả những bực cha mẹ ở tỉnh nhỏ nuôi con khôn lớn cho ra kinh thành để tạo nên sự nghiệp mà kết cục thì họ chết trơ trọi ở trên những cái giường lạnh lẽo trong những gian phòng tối tăm. Những lúc ấy xin thú thực tôi không nghĩ gì tới họ. Sự đắc thắng làm cho tôi say mê như một thứ rượu nặng men: tôi nghĩ đến tôi nhiều quá, nghĩ đến ngôi sao bản mệnh của tôi nhiều quá. Bao nhiêu máu, bao nhiêu óc của cha mẹ tôi để cho và nuôi cho đến ngày nay, tôi đều đem trút ra trên những dòng chữ hay như những cành hoa tươi trên mặt giấy. Tôi đã quên lời hứa với mẹ và em, đã không lấy vợ - hay nói cho đúng, tôi đã lấy vợ nhưng không lấy vợ như mẹ và em tôi đã tưởng: vợ tôi là sự nghiệp văn chương vậy.
Cái gác tôi trọ nào đâu có những thi vị như gian nhà lá ở trên bờ biển Kiên Chính khi xưa? Đây chỉ là một gian nhà gác xép bốn bề bưng kín như thể một cái mộ cất ở lưng chừng giời. Một cái kính vỡ ở đây, những đêm đông lạnh lẽo gió lùa vào rét quá, tôi lấy giấy nhật trình bịt lại. Cái bàn khập khiễng kia suốt đêm có tiếng mọt nghiến gỗ đến kinh người, thực chẳng khác những lời oán hận bất diệt của một hồn oan vậy. Bao nhiêu sự thiếu thốn, cơ cực ấy, tôi đều coi thường cả bởi vì tôi đã thấy ánh sáng đến với tôi rồi. Tôi đã tìm thấy cái bí quyết của sự đắc thắng nên dù là buổi chiều buồn, đứng ở cửa gác nhìn xuống đường chỉ có mưa rơi trên những cái mái nhà ám khói, tôi cũng thấy là nên thơ, là đẹp.
Thế rồi, tác phẩm đầu tiên của tôi, ra đời. Không anh ạ, anh đừng tưởng rằng hy vọng của tôi đến thế là tột bực đâu; tôi được hoan nghênh đến nhiệt liệt nhưng tôi vẫn chưa lấy gì làm thỏa. Chỉ trong có mấy ngày tôi đã từ một gã vô danh nhẩy lên chiếm một chỗ ngồi trong văn giới đáng cho những bậc lão thành thèm muốn. Các báo viết bài khen tác phẩm của tôi; các nhà xuất bản tranh nhau mời tôi viết; có nhiều nhà văn nhà báo có tên tuổi lại hỏi dò được địa chỉ của tôi viết những bức thư thật dài đến khuyến khích và mong cho tôi sẽ tiến mãi trên con đường sự nghiệp.
Tôi sướng quá, muốn khóc lên. Khóc vì mình đã thắng, chứ không phải khóc vì bây giờ mình đã được chút tên tuổi rồi mà cha mẹ không còn sống để chia vui. Luôn mấy hôm, người tôi như sốt, máu tôi chảy mạnh và dồn cả về thái dương; tôi say mê danh vọng quá và từ hôm ấy văn chương cám dỗ tôi như một mụ phù thủy cám dỗ một cô gái ngây thơ vậy.
Tôi viết quên cả ngày đêm, tôi viết trong những cơn sốt rét. Trong ba năm, bảy tác phẩm ra đời, óc và máu tôi chan hòa trên mấy trăm nghìn trang giấy bay khắp chỗ, từ thôn quê ra thành thị. Tôi là một người hữu hạnh nhất trong văn đàn. Không ai tranh cướp được địa vị của tôi. Giàu có và danh tiếng như thế chẳng là đã tạm đủ rồi hay sao?
Tôi vẫn ở trên căn gác xép bé nhỏ đã trông thấy tôi nổi tiếng. Tôi tiếp những ông chủ báo, tôi có khi phải trốn những nhà xuất bản. Nhưng dù sao tôi lúc nào cũng vẫn bất mãn về những tác phẩm của tôi đã xuất bản rồi, tôi muốn có nhiều tiền nữa để trả thù những khi túng bấn và tôi ao ước sẽ viết được một cuốn sách có thể gọi là một tác phẩm đánh dấu đời tôi lại.
Bởi thế, tôi cũng không từ chối nhiều nhà xuất bản đâu. Tôi nhận gần hết những lời yêu cầu của họ. Và bởi vì tôi là một người thực yêu nghề, tôi không viết cẩu thả được mà tôi cũng không sai hẹn được. Thế là một tháng hai mươi đêm tôi thức để viết cho đến khi xe điện leng keng những tiếng chuông đầu tiên của một ngày. Những tiếng rao bánh tây nóng của những đứa trẻ khi xưa cắp thúng đi bán từ lúc tinh sương chính là những bài hát ru tôi ngủ vậy.
Ban ngày tôi lại viết. Tôi uống từng bát cà phê đặc để lấy sức, tôi hút thuốc phiện để thức đêm và tôi ốm vì đau ruột.
Nhưng không cần. Tiền và danh vọng! Miễn có nhiều là được. Tôi đi đi lại lại ở trên cái gác xép của tôi vừa ngẫm nghĩ đến cái cốt truyện ngày mai vừa đưa con mắt lơ đãng xem mảnh trời đẹp ở bên ngoài ra sao.
Trời đẹp thì đẹp lắm.
II
Bệnh đau ruột của tôi mỗi ngày một nặng thêm. Tôi vào nhà thương khám thì bác sĩ bảo tôi rằng cần phải mổ. Ba tháng trời! Ba tháng trời nằm ở trên giường bệnh, dập dìu những người bạn chuộng văn có một cảm tình chân thật và những ông chủ xuất bản và chủ báo vì xã giao đến thăm nom, tôi không viết được một tác phẩm gì thêm nữa. Vả lại bác sĩ chữa cho tôi lại dặn đi dặn lại viên khán hộ không cho phép tôi làm việc gì mệt nhọc, nên suốt ngày tôi chỉ đành nằm dán mắt lên trần nhà xem con mối này đi đến đầu tường thì có rẽ không, hay con ruồi nọ bay đến đấy có đỗ hay lại còn bay nữa.
Con ruồi, mà tôi đánh đố tôi, bay đến đấy thì đỗ thực. Có ai ngờ đâu rằng, cũng như con ruồi, sự nghiệp văn chương của tôi đến đấy lại ngừng... Bao nhiêu tiền tôi ăn dụm để dành được, chỉ một trận ốm ấy rủ nhau đi hết. Tôi chưa viết được, lại túng bấn quá nên đành phải viết thư hỏi vay tiền trước của mấy ông chủ báo. Tôi lại ra công viết, nhưng mỗi ngày sức tôi một kém đi. Bệnh đau ruột đã làm cho tôi mất sức mạnh đi rồi, những sự lo buồn vô căn cớ lại làm cho trí óc tôi cằn cọc đi. Bây giờ cái cửa sổ ở căn gác xép của tôi đã để lộ một mảnh trời bạc mờ mờ không đẹp như trước nữa. Tôi hay ngủ. Và mỗi khi ngủ ngày dậy thì tôi lại thấy ê ẩm cả người: đầu rức mắt hoa, tôi có cảm giác bị một bệnh phổi không bao giờ khỏi được. Những lúc ấy gian phòng tôi ở có một vẻ lạnh lẽo, một mùi tanh tưởi. Người ta đã ít nói tới tôi. Tôi hay nghĩ ngợi viển vông - và tôi đã đoán trước cái ngày mai ra thế nào. Ôi là hắc ám, cả ngày mai ấy. Tôi thấy cái trần nhà hình như đổ dần xuống người tôi. Mồ hôi tôi toát ra, tôi giương mắt lên nhìn kỹ thì thấy có hàng trăm trái núi không cây cỏ từ trên mây rơi xuống đầu tôi và đè lấy tôi. Tiếng muỗi vo ve trong gác lúc ấy có vẻ là những tiếng kèn đám ma đi tiễn một danh vọng về chiều. Tôi lấy tay lau vội mồ hôi ở trán và nghĩ: "Ta sẽ chết ngày mai, ở trong một xó xỉnh, chết như một con gián, không có một người nào biết".
Anh ơi, anh đã đọc Le Horla của Guy de Maupassant rồi đấy nhỉ. Có là tôi, có là một người bệnh như tôi, kẻ đọc sách mới có thể biết cái tâm trạng của tác giả đã tả trong cuốn sách xác thực như thế nào. Tôi muốn đốt hết cả. Đốt sách, đốt vở, đốt nhà. May mà trời lại còn cho tôi lại một ít trí khôn nên cái việc càn rỡ mà tôi nghĩ đó, tôi không bao giờ làm cả. Tôi chỉ vội vàng mặc áo, đi không đóng cửa, đi đến chỗ nào cũng được, miễn là có sự hoạt động để mình lại biết với mình rằng: "Ta còn sống đây, chưa chết!".
Phải, tôi chưa chết anh ạ, nhưng kể từ khi ấy tôi biết là tôi đã thua rồi. Nàng phù dung hay hiện thành mỹ nữ khỏa thân để quyến rũ ta trong những giấc mơ đen đã thắng và sẽ không bao giờ tha tôi nữa. Tôi gục xuống ở dưới chân nàng và tôi thấy bao nhiêu lò xo ở trong thân thể tôi đã gãy. Nhưng dù sao, người ta cũng phải sống... Bởi vì tôi vẫn còn tin - chao ôi, cái tin ấy là cái tin của người mắc bệnh phổi đến thời kỳ thứ ba vẫn còn tin rằng mình khỏi, cái tin của một người đàn bà đã hết thời xuân sắc vẫn còn tin rằng mình bóp được những trái tim của những chàng trai trẻ tuổi.
Đến đây, tôi phải xin thú nhận với anh một tội, một tội làm cho tôi đau đớn, lúc nào cũng như đè lên linh hồn. Có lẽ đó là một sự xấu hổ lớn nhất trong đời nghệ sĩ của tôi. Những đêm khuya nằm cuộn tròn trong chăn, tay cái dọc tẩu, tay cái tiêm lăn điếu thuốc để cho vào nhĩ tẩu, tôi thấy buồn một cái buồn thấm thía não nùng. Tôi thương cha mẹ tôi và các em tôi, tôi thương tôi và tưởng tượng mình là một người thiệt thòi nhất, không được Thượng Đế đền bù gì cho cả. Những lúc ấy, tôi không dám thù hằn ai hết; tôi không thù những ông chủ báo hay những ông chủ xuất bản như những bạn đồng nghiệp tôi đã thù; tôi không thù Trời là đấng tối cao tối đại lúc nào cũng thương xót chúng nhân. Sự xấu hổ nhất đời của tôi là đây: tôi thù cái nghiệp văn chương báo chí và tôi thấy lợm giọng vì nghề đó có những lúc đến với tôi ghê tởm quá. Tôi nói thế mà thôi, chứ thực ra tôi không hiểu tại sao tôi lại có thể ghét nghề văn như thế - nghề văn, ôi! Cái nghề cao quý đã đưa tôi đến nghề báo để cho nghề báo hại tôi đến thế này, nhưng dù sao cũng là một nghề mà tôi đã hy sinh cả thân thể và có khi cả tiền bạc, một nghề mà từ năm hai mươi tuổi tôi coi như một vị nữ thần, một mối an ủi, một sự che chở vậy.
Từ đó, tôi kéo lê cuộc đời của tôi hết tiệm này sang tiệm khác. Tôi ngủ đêm ở những nơi ca viện đến khi mọi người đi làm sáng về rồi tôi mới dậy. Tôi nằm nhắm mắt như một cái xác chết ở trong những cái buồng bẩn thỉu, cứ mỗi khi bồi tiêm, tiêm xong một điếu lại xoay dọc khi đập vào người tôi đánh thức tôi dậy cho tôi hút. Thuốc phiện không còn là một cái thích nữa đối với tôi; tôi càng hút say lại càng buồn; những khi say đến cùng độ, tôi thường gắt gỏng với mọi người trong tiệm.
Chao ôi, những chuyện xa gần của hiện tại và dĩ vãng đã vò xé lòng tôi; tôi khóc cha mẹ tôi và em tôi, tôi không muốn nghe một người nào nói chuyện ở bên tai tôi cả. Nhất là chuyện văn chương, chuyện báo chí thì tôi lại thấy kinh tởm đến vô cùng.
Tôi không đọc một quyển sách, tôi không xem một tờ báo. Mực đối với tôi có một mùi nồng như một mùi thuốc tím ở nhà thương. Tôi ít nhất phải nghe thấy ai nói "Cái tờ ấy mới viết mà đã làm cho mọi người chú ý" hay "Nghệ thuật của ông nọ tinh vi lắm, làng văn hiện đại có thể kể làm một hy vọng được".
Anh ơi, anh thử nhắm mắt lại mà tưởng tượng xem tôi thế nào. Anh không thể tưởng tượng được, vì anh có là tôi đâu mà biết được sự đau khổ của một kẻ chỉ sống vì văn chương cùng cán bút mà đột nhiên lại sợ cán bút không dám cầm, thù ghét văn chương đến nỗi không dám nói.
Cũng may, cái bệnh ấy tôi chỉ mắc phải có ít lâu thì khỏi. Đến bây giờ tôi cũng chưa hiểu nó đã khỏi bằng cách gì; chỉ biết rằng đến mùa xuân năm ấy tôi tự nhiên thấy có can đảm cầm lấy bút viết một bài xã luận cho một tờ báo văn chương, chính trị.
Bài ấy đối với dư luận ra thế nào, tôi không rõ. Riêng tôi, tôi thấy rằng lúc cầm bút viết, tôi có vẻ một người đàn bà môi đã thôi đỏ, răng đã thôi bóng mà má thì răn, mà mắt thì mờ, một buổi sáng hiền lành ngồi giở gương ra điểm phấn thoa son lại. Những nét răn trên má và ở đuôi mắt, son phấn không thể che đậy được. Nhưng dù sao cái nhan sắc thuở xưa vẫn còn ở đầu mắt cuối mày: mùa đông dù u tối đen buồn đến đâu cũng không thể che lấp hết những cái đẹp não nùng đậu ở trên ngọn nước hay cành cây của một mùa thu êm ái.
Cái danh vọng của tôi có thể cứ như thế kéo dài ra thêm chút nữa nếu không có việc này xảy ra:
Một ngọn gió mới từ phương xa thổi lại, bứt hết cả những cái lá đau ngực của cây văn chương buổi cũ. Người ta cải cách hết: cải cách từ tư tưởng cho đến cả giọng văn; người ta cải cách lối viết đến cách trình bày ý nghĩ. Thiên hạ trọng những người trẻ có bầu máu nóng, độc giả ưa những chuyện hợp với tình trạng mới của xã hội nước nhà. Tôi không theo kịp được nữa rồi bởi vì tôi đã đứng im lâu quá, hay là tôi không biết chiều theo thị hiếu của quốc dân bạn đọc? Đã đành là muốn được nổi tiếng bây giờ, người ta phải có cơ quan dư luận trong tay, người ta phải quảng cáo, người ta cần làm ầm ĩ... Anh ơi, anh quý của tôi ơi, bạn anh đã đến, nhưng đã đến một cách im lặng quá. Y không có cơ quan dư luận nào trong tay cả, bởi vì bao nhiêu chủ báo đã bỏ y rồi; y bắt chước những bực tiền bối chỉ trông vào ở sức mình, ở tài mình mà thôi. Một nhà xuất bản mới ra in một cuốn sách của y vừa soạn. Không có một nhà phê bình nào nói đến. Y tặng họ một cuốn. Y bị người ta viết một bài chê bai. Cuốn sách ấy ế, độc giả viết thư về trách. "Thế rồi thì là hết. Như lời nhạc sĩ Ludovic Breitner đã nói, cái vòng thắt chặt lại, không thương xót".
Đến hôm nay thì tôi biết hết, không còn lầm lẫn nữa. Quốc dân không còn nhớ đến tên tôi. Những nhà xuất bản mở cửa mời những ông văn sĩ mới. Còn tôi, tôi, một nhà báo kiêm nhà văn đã già rồi, đã gãy nát rồi, còn ai nhớ tưởng làm gì nữa? Tôi không có ích cho một tờ báo xoàng xoàng; văn tôi không có nhựa nữa; đầu đề những bài báo của tôi không bịp bợm nữa. Tôi là một anh nhà văn đau ốm và mất hết can đảm: danh vọng tôi đã về chiều rồi còn đâu! Tuy thế, lúc nào tôi cũng vẫn tin tưởng rằng văn tôi nếu không hoàn toàn có ích hẳn thì cũng không có hại cho người đọc. Tôi biết cái ý nghĩa cao cả của văn chương và tôi còn như thấy hàng vạn độc giả cả nam lẫn nữ say sưa đọc tôi, mê tôi và còn như đang uống linh hồn tôi trên những trang sách, bài báo của tôi đã viết. Có ai lại dám nghĩ rằng bao nhiêu những người đọc sách báo bây giờ lại cho lễ nghĩa và lẽ phải là những thức không cần dùng đến nữa.
Tôi đã biết những tiếng hoan hô chúc tụng và bây giờ tôi cô độc. Tôi đã sống một thời rực rỡ mỗi ngày có hàng chục người muốn xem mặt và tiếp chuyện; tôi đã làm cho một tờ tuần báo đứng vững cho đến bây giờ và có một thế lực vô song chỉ vì tôi đã ưng thuận ký tên vào một thiên mạo hiểm phiêu lưu tiểu thuyết... Vậy mà bây giờ tôi đói cơm đói thuốc, đành chôn sống thân mình ở ngoại ô, trong một túp lều tối tăm rầu rĩ không được mặt trời soi đến... Tất cả lờ lãi của cuộc đời hỉ xả của tôi đến bây giờ rút lại chỉ còn lại một cái bàn đèn thuốc phiện và mấy chồng báo nát. Còn đến tiền thì tuyệt nhiên không có đồng nào; ăn bữa sớm lo bữa mai, một đứa ở cũng không có để sai đi mua thuốc.
Tôi nằm chôn ở đây đợi một cái gì không đến. Tôi đợi một sự may mắn xui cho tôi có ít tiền để tôi cai thuốc phiện đi, tôi sẽ cố sức, một lần chót, viết một tác phẩm cuối cùng, một tác phẩm mà tôi chắc sẽ hơn hết cả một trăm cuốn sách tôi đã viết, có lẽ hơn hết cả những tác phẩm được hoan nghênh nhất bây giờ.
Nhưng có lẽ đó chỉ là một huyễn mộng của một người không may trên đời.
Ngày mai, chỉ ngày mai thôi, tôi sẽ chết. Tôi chắc lúc chết mặt tôi sẽ dữ tợn lắm, cho nên tôi không muốn anh nhìn tôi làm gì... Tôi sẽ "đi" một mình, không có ai vuốt mắt cho cả, nhưng tôi sẽ sung sướng vì tôi tin rằng đời này là tạm bợ, những người muốn thực tâm làm được sự nghiệp to tát cần phải chịu sự thử thách kiếp này để đắc thắng kiếp sau.
Ơn và oán
Đến tận bây giờ, người ta vẫn chưa biết câu chuyện dưới đây đã xảy ra ở nước nào. Chỉ biết rằng đó là một câu chuyện xảy ra cách đâu lâu lắm. Hồi đó là một hồi thái bình thịnh trị. Người nhà quê nhường cơm sẻ áo cho nhau. Của rơi trước ngõ không ai thèm nhặt. Súc vật thân với giống người như anh em một nhà.
Có một vị quan kia, chán mùi hoạn lộ, xin cáo về nhà để di dưỡng tinh thần. Ông làm bạn với tách trà, giò cúc. Sáng, ông lên trên những đỉnh đồi cao để cho được gần trời; trông ngắm hạc bay, công múa. Chiều thì hoa cỏ thấy ông chống một cái gậy trúc ra đứng trước cổng nhà để nhìn nước nổi tăm, hay ngắm đám thế nhân đi lại ở trước đám bụi.
Những hồi ức thời làm quan của ông trở lại trí não lúc này rất rõ ràng. Ông nhớ lại những lúc ở dinh thự có xe đưa pháo đón. Chao ôi, bây giờ nhìn lại thì còn có cái gì? Chỉ còn một tấm lòng. Ông ngậm ngùi về nỗi hư không của thế sự và đến tận lúc bấy giờ ông mới thật thâm hiểu rằng chỉ có tấm lòng là người bạn chung thủy ở với ta cho tới chết. Tấm lòng mà thư thái, không vẩn điều hối hận là của báu có tiền không mua được.
Ông hưu quan nhìn trước mặt là núi, nhìn sau lưng là núi. ở giữa một dòng suối chảy thanh thanh. Ông nói với ông rằng:
"Sự ưa thích một khi đã đạt rồi thành chán. Trước đây ta giàu, hễ muốn là có tiền. Bây giờ ngồi ngẫm lại hồi đó, thật chẳng khác gì cái suối nó kêu lên một tiếng thì ở trong rừng này hai trái núi nọ đem tiếng vang ngay lại.
Thế sự bao giờ cũng chỉ quẩn quanh có thế thôi. Duy sự khổ não thì bờ bến nào cũng có mà không hề giống nhau bao giờ. Người ta chém giết nhau, người ta lại giả dối với nhau; người ta khinh nhau, người ta lại ghét ghen nhau; người ta biệt ly rồi gặp nhau, người ta lại chia rẽ những đôi lứa không cho nhau sum họp".
Ông hưu quan nghĩ thế và rất buồn cho tâm lý người đời. Ông bèn lên ở trên một am vắng để dốc tìm đạo lý. Dưới chân am có một cái hố rất sâu. Trên cái hố có một cây thông cỗi.
Một hôm, đương mơ màng ở dưới gốc thông, nhà đạo sĩ của chúng ta bỗng thấy một vật gì sa vào cái hố cách chỗ ông ngồi ba bước. Ông bèn đứng dậy xem. Thì ra đó là một nhà đi săn đuổi thú qua đó trượt chân mà ngã. Người đi săn ấy làm ngã luôn cả một con quạ và con rắn đứng bên. Người và hai con vật lăn lộn, nhảy nhót để cố thoát thân, nhưng không được.
Vị đạo sĩ bèn rằng:
- Thôi, các người, đợi đấy. Ta sẽ có cách dắt lên cho.
Nói đoạn, ông bèn tìm một sợi dây thông thả xuống. Ông cho người nắm một đầu dây. Con rắn quấn lấy chân người. Con quạ hé mỏ đớp vào đuôi con rắn. Cả ba đều lên được. Thế là thoát chết.
Cả ba đều quỳ lạy vị đạo sĩ mà nói trong nước mắt:
- Bạch Đại đức, ngài đã cứu chúng tôi khỏi chết. Ơn ấy xin ghi đời! Chúng tôi xin lạy ngài và nguyện sẽ giúp ngài trong khi hữu sự, dẫu chết cũng không dám phàn nàn gì cả.
Vị đạo sĩ nâng cả ba lên. Người chưa kịp nói câu gì thì ông khách săn lại tiếp:
- Đại đức là một người cứu người mà không muốn người đền ân. Chúng tôi đã biết. Nhưng chúng tôi cúi xin ngài khi nào có việc đi qua tệ ốc thì ngài ghé lại để chúng tôi được thết đãi một chút, theo cái phận thấp hèn của chúng tôi.
Con quạ nói:
- Tôi tên là Quạc. Khi nào Đại đức gặp chuyện chẳng may gì thì xin gọi tôi một tiếng để tôi đến hầu.
- Còn tôi, - con rắn nói, - tôi tên là Gầm. Cũng vậy, khi nào Đại đức gặp việc gì khó khăn, xin cứ tên Gầm của tôi mà gọi. Tôi không chắc đã giúp Đại đức những điều gì quá sức tôi. Nhưng tôi quyết đem thân ra làm việc để đáp ơn Đại đức.
Cuộc chia ly rất não nùng. Vị đạo sĩ niệm Phật để đưa người và vật xuống núi về trần, nhưng vật và người đều rớt nước mắt, đi xa tới hai dặm vẫn còn quay trở lại.
Trong vòm cây xanh, một nóc nhà rơm vẽ ra rất lờ mờ. Sương dày rơi xuống biệt hai thế giới. Xa xa, tiếng chầy kinh nện lên.
Năm ấy, trời làm đói kém. Hổ về ăn khoai. Lúa không còn gặt mà cây cối trên núi bị dơi và chuột cắn nát không còn một trái. Nhà đạo sĩ phải bỏ núi tìm xuống đồng bằng khuyến giáo. Bởi vì dưới đồng bằng thì hoa mầu năm trước người ta còn tích lại được nhiều. Miếng ăn thì thực chẳng có thừa đâu. Nhưng khoai, đậu vẫn đủ cho lợn dùng mà lúa tốt thì những nhà thường thường vẫn có từng trăm hộc để cho người ta ăn đầy đủ.
Vị đạo sĩ của ta đi khuyến giáo hết các làng đều được tiếp đãi tử tế và nhà nào cũng mời đạo sĩ dùng cơm. Một buổi chiều kia, đạo sĩ đến trước cửa một nhà nọ thì trời vừa nổi một cơn mưa bão.
Đạo sĩ dừng chân đứng trú mưa ở đấy. Thì này, chủ nhà nào phải ai xa lạ: chính là ông khách đi săn ngày trước bị ngã lăn xuống hố cùng với con rắn và con quạ vậy!
Người đi săn bèn vội vã mời đạo sĩ vào nhà mình nghỉ chân. Lúc ấy quá Thìn. Mưa đã ngớt. Gió bớt mạnh và sấm không làm dữ nữa.
Anh thợ săn chắp tay trước ngực mà nói với vị chân tu rằng:
- Bẩm Đại đức, xin ngài ban cho chúng tôi một cái ơn: Đại đức nghỉ chơi lại chút nữa để chúng tôi được hầu một bữa cơm dưa muối, chúng tôi lấy làm hân hạnh lắm.
Vị đạo sĩ không chối từ. Anh thợ săn khó nghĩ. Bởi chính bụng anh ta thì anh ta nghĩ thế này: "Xưa kia, mình trót đã hứa với y nếu khi nào y đi qua thì mình sẽ tiếp đãi chu đáo để đền ơn cứu sống. Thì bây giờ đó, y đi qua. Nếu ta không tiếp, y sẽ cho ta là đồ bạc bẽo. Nhưng mà bây giờ mà ngồi tiếp cơm y!...".
Anh thợ săn đã có cách xử rồi. Anh gọi vợ xuống bếp và nói nhỏ:
- Tôi nói vừa rồi là nói vậy mà thôi. Chứ bây giờ mà thết cơm y thì tốn mà mất thời giờ quá. Âu là mình cứ chậm chậm mà làm. Tôi biết: hễ quá giờ Ngọ thì y không ăn nữa.
Lời nói quả đúng. Giờ Tỵ qua, giờ Ngọ đến, vị đạo sĩ không ăn nữa thật. Ngài cáo từ đi ra. Anh thợ săn và vợ tuy vồn vã nhưng lấy làm sung sướng trong bụng lắm. Vị đạo sĩ thật thà ba bốn lần rập đầu cảm tạ người thợ săn tốt bụng. Ông đi một quãng đường dài mà vẫn không thôi niệm Phật cho vợ chồng anh ta.
Chẳng mấy lúc, ông đã về tới núi. Vừa bước chân lên bực, con quạ ở đâu liệng xuống và đậu dưới chân ngài mà lạy:
- Bạch Đại đức, ngài vừa mới ở đâu về?
- Ta đến khuyến giáo và mới ở nhà anh thợ săn ra.
- Vậy chẳng hay anh ta có mời Đại đức thụ trai không?
- Có! Có! Anh ta tốt lắm. Nhưng tiếc vì vợ anh ta làm cơm chậm quá nên ta không đợi được.
Con quạ ấy không rõ tại sao phút chốc bỗng hiểu ngay mọi việc. Nó bèn rằng:
- Đại đức chớ tin. Nó là loài yêu quái đó. Nó không biết lẽ phải. Nó điêu ngoa. Nó không biết trả ơn người cứu sống. Bẩm Đại đức, chúng tôi không có cơm canh hoa quả thết ngài nhưng ngài ngồi đợi. Chỉ một lúc, tôi xin quay trở lại.
Vị đạo sĩ chưa kịp nói một lời thì con quạ đã vỗ cánh cao bay. Nó bay sang một nước láng giềng. Và vào trong cung hoàng hậu. Hoàng hậu đang ngủ một giấc thần tiên trên giường vàng. Bà đeo ở cổ một hạt kim cương sáng ngời. Quạ vỗ cánh đậu bên cạnh và mổ lấy hạt kim cương đó đem về cho đạo sĩ.
Đạo sĩ lấy kim cương làm gì? Có lẽ đó là một vật báu vô giá. Nhưng vô giá với đàn bà. Dùng, đạo sĩ không biết dùng nó làm gì cả. Ngài cho vào bọc và để trong túi chờ một ngày kia...
Trong khi ấy thì khắp trong nước người ta xôn xao bàn tán về việc Hoàng hậu mất kim cương. Bà không biết mất bằng cách nào. Cả nước không ai đoán nổi kẻ gian phi táo tợn đã dùng cách gì lấy được viên kim cương đó. Từ dân đến quan, ai cũng được lệnh đi tìm hạt kim cương. Cả nước mất ăn mất ngủ. Đi đâu người ta cũng thấy yết thị rằng: "Hỡi ai là người tìm được viên kim cương của Hoàng hậu khá đem vào triều mà lĩnh thưởng một ngàn con ngựa, một ngàn con bò, một ngàn cân bạc, một ngàn cân vàng. Ai lưu trữ sẽ bị tru di cả họ".
Một ngày kia, vị đạo sĩ lại xuống đồng bằng khuyến giáo. Cảm cái ân người đi săn đã ở tốt với mình, đạo sĩ lại tìm đến nhà y. Và tặng vợ y viên kim cương mà con quạ đã đem biếu ngài.
Tức thì người đi săn giở mặt. Mắt y đỏ sọc lên như những hòn than, miệng y nóng rẫy chẳng khác gì lửa cháy:
- Tên này gớm thật. Mi không biết rằng vật này là vật mất cắp trong cung? Mi là đạo tặc. Ta phải trói để đem nộp quan bây giờ. Nói thế, y làm liền. Y trói vị đạo sĩ như trói lợn. Y chạy bay đến tâu vua và đứng chờ lĩnh thưởng.
Vua bèn phán hỏi đạo sĩ rằng:
- Gã kia, phải khai cho thực. Viên kim cương này ngươi lấy bằng cách nào và lấy ở đâu?
Nói làm sao? Biết nói làm sao bây giờ? Nếu ta nói thực, chỉ trong giây lát cả loài quạ trong nước đều bị chết. Ta bảo "tôi không lấy" thì vô lý vì viên kim cương rõ ràng tự tay ta đưa cho người đi săn. Còn nếu ta bảo: "Chính tôi lấy đó" lại càng không được. Bởi vì như thế là trái với luân lý kẻ tu hành, trời hỡi!
ở trường hợp khó khăn này, đạo sĩ chỉ ngậm miệng không nói gì là hơn cả. Vua bắt lính đem đạo sĩ ra xử trường. Đạo sĩ không giận ai hết, cứ chắp tay niệm Phật. Vua càng giận tên đạo sĩ gian ngoan. Ngài truyền:
- Quân bay, khá đem lão đạo sĩ yêu ma này ra chôn sống, chỉ để cho cái đầu ló lên thôi. Đến giờ Ngọ ngày mai thì giết.
Đạo sĩ, chỉ còn có cái đầu nhô ra khỏi mặt đất, nhìn trời cao xanh một lần cuối và rớt nước mắt ra. Lá cây rung nhè nhẹ. Hơi nước lòa cảnh vật.
- Dưới gầm trời này, không ai là không khổ! - đạo sĩ kêu lên thế. - Ta đem thân xa lánh chốn phiền ba, tưởng là yên mùi đạo. Nào ngờ lại phải chết một cách thảm khốc như thế này!
Đạo sĩ đã nói đến chữ gầm. Con rắn ở đâu hiện đến. Nó cúi đầu lạy đạo sĩ ba lạy mà rằng:
- Bẩm Đại đức, sao Đại đức lại ra thế này?
Chỉ một phút nó biết hết cả đầu đuôi câu chuyện. Nó khóc mà than:
- Lòng bác ái của Đại đức rộng như trời, sâu như bể. Thế mà còn gặp những tai ương. Vậy không biết thế nhân, lòng thì đục mà đức thì kém không biết còn đau khổ về tinh thần đến như thế nào! Tôi biết ngài có một lòng thương yêu nhân loại mông mênh. Ngài không giận ai hết. Nhưng tôi, tôi chưa đến chỗ cao siêu ấy, tôi phải trả thù mới được. Bây giờ tôi giắt vào khăn ngài gói thuốc này. Mai kia đây, nếu có ai bị rắn cắn ngài lấy thuốc này mà rịt cho người ta, người ta sẽ sống lại và sẽ đền ơn cứu sống.
Nói đoạn, con rắn bò đi. Đến tối nó vào cung vua và rình lúc vô ý cắn vào chân hoàng thái tử. Thái tử đau nhức và chỉ một lát toàn thân tím lại. Bao nhiêu ngự y đều chịu không thể nào chữa nổi. Nhà vua lại cho rao lên rằng: "Hỡi ai là người biết môn thuốc chữa rắn cắn nào cực hay khá đến chữa cho hoàng thái tử. Thái tử mà khỏi thì nhà vua sẽ chia cho nửa giang sơn và được hưởng sự vinh hoa phú qúy".
Quân đem lời ấy đi rao cùng làng xã. Đạo sĩ bị chôn sống thò đầu ra khỏi mặt đất nghe thấy rao thế bèn rằng:
- Khoan đã! Khoan đã! Bay khá về triều tâu rằng ta có thể chữa được cho hoàng thái tử.
Lập tức vua cho đào đất cho đạo sĩ lên. Đạo sĩ cúi lạy vua và xin phép vào ngay hoàng cung xem bệnh hoàng thái tử. Y lời dặn của con rắn, đạo sĩ lấy gói thuốc của nó đưa mà đem rịt vào chỗ đau. Hoàng tử như tỉnh một giấc mơ, mở mắt dậy mà hỏi:
- Chao ôi, tôi ở đâu thế này?
- Hoàng tử! Hoàng tử đương sống ở trên dương thế đấy! Đạo sĩ đã chữa lành cho thái tử rồi. Thái tử cúi xuống lạy tạ kẻ tái sinh cho mình. Cả nước vui mừng bầy tiệc. Vua cảm động phán với đạo sĩ rằng:
- Ngay chiều nay, ta mời đạo sĩ vào trong cung dự yến. Và ta chia nửa giang sơn cho đạo sĩ. Vàng, bạc, châu, báu, đạo sĩ muốn lấy gì ta cũng đưa.
Đạo sĩ không lấy gì hết. Vàng, bạc, châu, báu mà có lắm chỉ đưa người ta đến sự buồn phiền mà thôi. Ngài chỉ xin với vua cho mình sự yên ổn về tinh thần để đi tìm đạo lý trên đỉnh núi. Vua ngạc nhiên rồi cảm động mà kết luận rằng:
- Bạch đại đức, đại đức không nhận nửa giang sơn và từ chối cả bạc vàng châu báu. Thế nghĩa là ngài không ham giàu. Vậy thì chắc chắn ngài không lấy hạt kim cương nọ. Có đứa đổ oan cho ngài. Ngài trong sạch, đứa nào đã làm cho ngài mang họa xin nói cho trẫm biết.
Đạo sĩ không thể giấu được nữa rồi. Ngài phải đem hết câu chuyện ra thuật lại. Vua thương lắm, ôm lấy đạo sĩ mà nước mắt chan hòa như mưa...
Ngay lúc ấy, anh thợ săn xin vào bệ kiến để chờ lĩnh thưởng. Lĩnh thưởng việc bắt được người đã ăn cắp kim cương. Anh ta hớn hở chờ lịnh thánh.
Vua bèn bảo anh ta rằng:
- Người đã làm một việc tốt, rất vừa lòng trẫm. Ta sẽ hậu thưởng. Nhưng xét ra thưởng một mình người chưa đủ. Người khá về đem cả họ lại đây.
Anh thợ săn chạy bay về và dắt cả họ ba đời lại. Anh ta dắt thêm cả một cụ tứ đại đến đề chờ ơn mưa móc. Giữa lúc ấy, vua phán:
- Sự hung ác và lòng bạc bẽo là hai cái tội to lớn hơn hết ở trên đời. Người đã sa vào hai tội ấy. Quân! Đem tru di cả họ y!
Đến khi đạo sĩ biết cả họ anh thợ săn bị chết chém thì đã chậm không làm thế nào được nữa. Ngài xin phép ngay bấy giờ được thả để đi lên núi, không bao giờ còn trở lại đồng bằng nữa.
Những sự chém giết, hung ác, và bạc bẽo của người đời nhiều quá đã làm se lòng những kẻ thực yêu đời.
Đạo sĩ, trong một lúc, ngờ rằng người ta không còn phương cách gì để trừ được trong muôn một sự buồn khổ cho nhân loại.
Vũ Bằng
Theo http://butsen.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Du Tử Lê, Từ Công Phụng - Con dế buồn tự tử giữa đêm sương

Du Tử Lê, Từ Công Phụng Con dế buồn tự tử giữa đêm sương! Du Tử Lê viết bài thơ 67, Khúc Thêm Cho Huyền Châu vào năm một ngàn chín trăm sá...