Thương
nhớ mười hai - Vũ Bằng
Bắt đầu viết cuốn sách
này thì là nhớ. Viết đến câu chót bài “Tháng chín” thì là thương. Thương không
biết bao nhiêu, nhớ không biết ngần nào người bạn chiếu chăn Nguyễn Thị Quỳ.
Thành mến tặng Quỳ cuốn
sách này để thay mấy lời ai điếu.
Thoạt đầu ai cũng tưởng
chẳng làm sao. Cùng là đất nước, đi đâu mà chả thế? Từ Bắc vào Trung, đâu đâu lại
không có những con mắt nhìn vào những con mắt mà như gói ghém cả một trời
thương; từ Trung vào Nam, chỗ nào mà lại chẳng có những miệng cười, không nói
ra lời mà hàm súc biết bao duyên thắm?
Vậy mà không; lòng người xa nhà y như thể là khúc gỗ bị mối
ăn, mục nát từ lúc nào không biết. Trông bề ngoài thì không có gì khác lạ,
nhưng cầm một cánh hoa khẽ đạp vào thử mà xem: tiếng gỗ kêu nghe mệt mỏi, u buồn,
mà nếu gõ mạnh thêm chút nữa, ta sẽ thấy gỗ vỡ tan, để lộ ra tảng mục lỗ chỗ
như tổ ong, tiết ra một thứ bụi vàng hanh hao, nhạt nhẽo.
Con tim của người khách tương tư cố lý cũng đau ốm y như là gỗ
mục.
Sài Gòn, Phú Lâm, Bình Lợi, Chợ Lớn, Lồ Ồ... vui quá, cứ uống
rượu mạnh thế này, nghe con hát đàn vừa múa vũ vừa ca, lại cặp kè với con gái
hơ hớ như trăng mới mọc thế này, thì sao lại có thể rầu rĩ được? Ấy vậy mà một
buổi chiều trở gió kia, ngồi cúi xuống lòng để hỏi chuyện tim mình, ta cảm như
có hàng vạn con mọt nhỏ li ti vừa rung cánh o o vừa đục khoét con tim bệnh tật.
Và tự nhiên ta có cảm giác rằng thân thể ta, không biết từ lúc nào, đã bị mối
"xông" và đang đi đến một chỗ một ruỗng, rã rời tan nát.
Một nỗi buồn se sắt xâmchiếm đầu óc ta. Buồn thì ngâm thơ :
Biệt li ai kể xiết lời,
Vì hoa cách mặt cho người thương tâm.
Người đưa rượu hỏi thăm Bành Trạch,
Kẻ say trăng tìm khách Đào, Chu;
Nào ai trang điểm mầu thu,
Hoa vàng chén bạc tạc thù với ai?
Miền Hữu Lĩnh tin mai gắn bó,
Đỉnh Cô Sơn mối gió đợi chờ.
Muốn mang chén rượu, câu thơ,
Lạnh lung trong tuyết, hững hờ dưới trăng...
Ngâm thơ lại càng buồn, mình chán nản không để đâu cho hết. Sự
chán nản không tên tuổi, không lý do, ví có muốn nói ra với người ở cạnh cũng
không thể được.
Tại sao lại buồn? Tại sao lại chán?
Không biết tại làm sao cả.
Người bạn mây nước, gặp gỡ ở phương trời hiểu sao được những
u uẩn đó nên người xa nhà cũng chẳng buồn nói ra làm gì. Gió về đêm lạnh tê tê,
nước đập vào bờ dào dạt và bến nước nào người ta cũng khổ. Thương nhau, muốn an
ủi lẫn nhau, mà không dám nói, hay không biết nói ra thế nào. Người đẹp chỉ còn
biết cúi đầu xuống thở dài, còn người đàn ông thì im lặng, đưa cặp mắt như mất
thần nhìn vào bóng đêm mịt mù có tiếng dế kêu giun khóc. Cái buồn, cái chán cứ
như thế mà kéo lê thê ra mãi.
Cho tới một ngày kia ... đang ngồi trong một tiệm ăn hẻo lánh
ở trên sông Tân Thuận, trận mưa đầu mùa trút nước xuống phố phường. Những người
Bắc Việt ngồi ở những bàn ăn gần đó nhìn mưa mà thấy thẫn thờ, mà thấy bơ vơ,
tưởng chừng như không thể chịu đựng nổi bầu không khí nặng nề lúc đó, bèn kiếm
một câu gì để nói.
Một người bảo:
"Ở Bắc, có lẽ bây giờ cũng mưa đầu hè đấy nhỉ."
Một người khác:
"Thế nhưng mưa ở Bắc, nó khác kia, bà ạ"
Một người khác nữa:
"Cái gì cũng khác hết. Thôi đừng nói nữa, tôi muốn khóc
đây."
Người bạn phương trời liếc nhìn ông bạn trai đứng cạnh: hai
người im lặng chẳng nói, vì nói chẳng ra lời, nhưng càng cảm thấy như có một thứ
điện kì lạ truyền cảm đi khắp người.
Thì ra không cần nhiều: chỉ một câu nói tầm thường vào một buổi
chiều mưa gió dìu hiu cũng gợi lên được những ấn tượng rầu rĩ trong một tấm
lòng đã có mối xông.
Người ta nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ những nét mặt thương yêu, nhớ
những con đường đã đi về năm trước, nhớ người bạn chiếu chăn dắt tay nhau đi
trên những con đường vắng vẻ ngào ngạt mùi hoa xoan còn thơm ngát hơn cả hoa
cau, hoa bưởi. Người ta nhớ heo may giếng vàng; người ta nhớ cá mè, rau rút; người
ta nhớ trăng bạc, chén vàng.
Nhớ quá, bất cứ cái gì của Hà Nội cũng nhớ, bất cứ cái gì của
Bắc Việt cũng nhớ, nhớ từ cánh đồng lúa con gái mơn mởn nhớ đi, nhớ từ tiếng
hát của người mẹ ru con buổi trưa hè mà nhớ lại; nhớ hoa sấu rụng đầu đường
Hàng Trống, nhớ quả bàng ở Hải Hậu rụng xuống bờ sông Đào, nhớ sen Linh Đường
thơm ngào ngạt của bầu trời nhớ lên, nhớ nhãn Hưng Yên, vải Vụ Bản, cá anh vũ
Việt Trì, na Láng, bưởi Vạn Phúc, cam Bố Hạ, đào Sa Pa mà nhớ xuống.
Nhớ không biết bao nhiêu, nhớ bát canh rau sắng chùa Hương,
nhớ khóm tiễn-xuân-la trồng ở bên giậu trúc; nhớ mưa bụi, vợ chồng nửa đêm thức
giấc đi uống một lý rượu ấm ở cao lâu, nhớ những buổi trưa hè có ve sầu kêu rền
rền, nhớ luôn cả những cô gái Thổ cưỡi ngựa thổ đi trong rừng có những cánh hoa
đào rơi lả tả nơi vai áo...
Càng nhớ như vậy thì càng yêu Hà Nội biết bao nhiêu, lại càng
say đắm Bắc Việt biết bao nhiêu!
Hà Nội! Bắc Việt của một ngày xa xưa ơi! Bây giờ liễu ở Hồ
Gươm có còn xanh mươn mướt như hồi ta bước ra đi? Những trồi sơn trúc, thạch
nương ở Nghi Tàm có còn chưa phong quanh như cũ? Núi Nùng ra sao? Hồ Tây thế
nào? Con đường Bách Thảo thơm nức mùi lan tây, hàng đêm, ta vẫn cùng đi với người
vợ bé nhỏ, bồng con ở trên tay đi đến thăm người bạn sống cô chích ở trong vườn
"Bình Bịp" bây giờ ra thế nào? Trên con đường Phú Thọ, Yên Bái, Lào
Cai các đồn điền cam quýt ở hai bên bờ sông Thao vẫn còn tốt tươi như cũ và các
cô gái ngăm ngăm da dâu có còn nắm lấy tay các du khách mà ví von ca hát không
cho về? Ở trước cửa chợ Đồng Xuân, có còn chăng những hàng nước chè tươi; ở chợ
Hôm, những hàng phở gánh bán cho khách ăn đêm; và ở trên khắp nẻo đường, những
người đội thúng, cầm một chiếc đèn dầu ở tay, lặng lẽ đi trong đêm rao
"giò, dầy"?
Nhớ không biết chừng nào là nhớ, nhớ sao nhớ quá thế này! Thì
ra cái người nhớ Hà Nội, nhớ Bắc Việt cũng như thể chàng trai nhớ gái; bất cứ
thấy ai cũng tưởng ngay đến người thương của mình và đem ra so sánh thì bao
nhiêu người đẹp ở trước mắt đều kém người thương mình hết.
Ai bảo kẻ vắng mặt chịu thiệt thòi? Tôi thấy càng vắng mặt
bao nhiêu thì lại càng thương gấp bội; chỉ có kỉ niệm là đẹp thôi, chớ hiện tại
bao giờ cũng kém phần tươi tốt.
Nhưng thương nhớ cách mấy đi nữa thì có níu quá khứ lại được
đâu? Tại sao không chịu yên vui với hiện tại, tiếc nuối làm gì vô ích? Lịch sử
không đứng yên một chỗ bao giờ.
Cái đã đi là cái đã mất. Đành vậy. Lấy hiện tại so sánh với
quá khứ, e bị chủ quan mà có sự bất công.
Tôi cũng biết có sự bất công, khó tránh. Tôi yêu Hà Nội quá,
tôi nhớ Bắc Việt nhiều nên bao nhiêu cái đẹp, cái hay ở trước mắt, tôi thấy mất
cả ý nghĩa đi. Có lẽ đó là một sự bất công to lớn, nhưng yêu, bao giờ mà lại chẳng
bất công như thế?
Tôi yêu mến luôn cả sự bất công như thees? Mười hai tháng của
mười hai cuộc đổi thay tiết trời, mười hai sự rung động uyển chuyển của năng
tháng, của chim muông, của sắc đẹp, của hoa lá, của thương yêu, tính tứ, tôi cảm
ơn sự bất công đã cho tôi nhìn rõ lòng tôi yêu thương Hà Nội đến chừng nào, Hà
Nội ạ!
Ngày xưa, con gái thừa tướng, ngồi ở trên lầu cao nghe tiếng
hát anh lái đò mà mê mẩn nhưng vì không duyên kiếp nên hai người không lấy được
nhau. Anh lái đò dong con đò ra khơi, đánh đắm đò mà chết rồi nhập hồn vào một
cây bạch đàn. Quan thừa tướng thấy cây đẹp, sai đẵn về tiện thành một bộ trà
tuyệt đẹp. Mỗi lần cô gái cầm chén trà lên uống thì lại thấy bóng hình anh lái
đò hiện lên trong chén trà:
Không cầm lấy chén thì thôi
Bây giờ, người xa cách Bắc Việt lâu ngày cũng vậy: ăn một tô
hủ tíu thì nhớ đến phở Bắc "chính cống" ăn vào một buổi sáng rét căm
căm; trông thấy cua bể thì nhớ đến bát canh cua đồng nấu với rau rút và khoai sọ;
gặp một ngày bão rớt thì lòng lại buồn rười rượi, nhớ đến thu sơ với gió may,
hoa vàng. Trời tháng ba, nhớ hội hè đình đám, con gái hát ví nghe thật là hay,
đàn ông đánh vật xem mà sướng mắt; tháng bảy, nhớ mưa Ngâu rả rích buồn như
lòng người khuê phụ nhớ chồng; tháng tám, cũng thưởng bánh Trung thu, cũng cộ
đèn, nhưng lại nhớ trăng Cổ NGư và thèm cái cảnh tưng bừng nhộn nhịp ở Hàng
Gai, Hàng Đào, Hàng Mã...; tháng một nhớ đến gió ở Đọi Điệp lúc tản cư, mặc áo
trấn thủ ngoài khoác va-rơ đi như muốn bay lên trời mà miệng vẫn không ngớt
ngâm bài "Tây tiến"; tháng chạp nhớ những con đường ẩm ướt, nhớ mưa
phùn rét căm căm, hai vợ chồng lên Đông Hưng Yên ăn một bát "tam xà đại hội"
khói bốc lên nghi ngút.
Mỗi tháng lại có những cái đẹp não nùng riêng, nõi nhớ nhung
riêng. Mỗi cảnh bầy ra trước mắt mình lại nói lên những niềm thương yêu cũ, làm
thế nào mà giữ mãi ở trong lòng cho được?
Tôi ghi lại "Thương nhớ Mười Hai" không nhằm mục địch
gì cao rộng, chẳng qua chỉ là đánh giấu những ấn tượng hiện ra trong trí óc những
buổi mây chiều gió sớm, "sầu biệt ly vơi sáng đầy chiều" thây nhận được
trong khi lạc bước trên những nẻo đường chật ních những người bận rộn bên cạnh
những ngoại kiều ăn mặc như phường chèo, nói "líu lô buồn nỗi khó
nghe"!
Ới những người thiên lý tương tư! Nếu bất ngờ những dòng sau
đây có lạc vào tay bạn, mà thấy nói được lên một mối cảm hoài của bạn vẫn chất
chứa ở bên lòng, thế là kẻ viết bài này lấy làm mãn nguyện lắm rồi.
Đời mà có một người vui cái vui của mình, buồn cái buồn của
mình chẳng là đủ rồi sao? Có tâm sự trong lòng, lặng nhìn nhau không nói mà
cũng cảm biết, thế chẳng đủ rồi sao?
Thôi bây giờ, mặc cho ngòi bút đưa đi, đến đâu hay đó ...
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là
tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được
non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được
trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con, ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng
thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Ới ời người em gái xoã tóc bên cửa sổ! Em yêu mùa xuân có phải
vì nghe thấy rạo rực nhựa sống trong cành mai, gốc đào, chồi mận ở ngoài vườn?
Chàng trai kia yêu mùa xuân, phải chăng là tại lúc đôi mùa giao tiễn nhau,
chàng tưởng như nghe thấy đồi núi chuyển mình, sông hồ rung động trong cuộc đổi
thay thường xuyên của cuộc đời? Mà thiếu phụ ở chân trời góc biển yêu mùa xuân
có phải vì đấy là mùa xanh lên hy vọng được trở về nơi bến đợi sông chờ để ngâm
lại khúc bạc đầu với người ra đi chưa biết ngày nào trở lại?
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới
in ngần và tôi cũng xây mộng, ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì
thế.
Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội -
là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh,
có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xam có câu hát huê tình của
cô gái đẹp như thơ mộng ...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang như vậy,
khoác một cái áo lông, ngậm một cái áo lông, ngậm một ống điếu, mở cửa đi ra
ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rượu
mạnh cũng nghe như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
Anh có thể đạp cỏ trên Hồ Gươm, đợi đến sâm sẩm tối ra ngồi ở
Thuỷ Tạ nhìn các cô gái đẹp như tiên mặc áo nhung, áo len trăm mầu ngàn sắc, in
bóng hình xuống đáy nước lung linh; anh có thể vào một nhà hát thưởng vài khẩu
trống, "mở quả mứt" phong bao cho các chị em, rồi uống với mỗi em một
ly rượu "lấy may"; anh có thể đi vào một ngôi chùa khói nhang nghi
ngút, đưa mắt nhìn xem có cô nào thực xinh thì quỳ nganh xuống bênh cạnh cầu Trời
khấn Phật cho cô càng ngày càng đẹp và trong năm lấy được một người chồng xứng
ý như ... anh vậy.
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta
muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người
căng lên như máu cũng căng lên trong lộc của loài nai, như mầm nôn của cây cối,
nằm im mãi không chịu được, phải trỗi ra thành những cái là nhỏ tí ti giơ tay vẫy
những cặp uyên ương đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ
hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không
còn lầy lội nữa, mà cái rét ngọt ngào chứ không còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu mình một nơi trốn rét thấy nắng ấm
trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và
thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến
nhà lại cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ
êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ
Tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng
thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên
hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc
Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng
giêng. Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không
mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại lại nức một mùi hương man
mát.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu
thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ.
Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời,
mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lý, vài con ong
siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời
trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve sầu mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa
cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh
trứng cua vắt chanh ăn mắt như quạt vào lòng. Cánh màn điều treo ở trước bàn thờ
ông vải đã hạ xuống từ hôm "hoá vàng" và các trò vui ngày tết cũng tạm
thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
Các con lại đi học cả rồi. Dưới nhà, người làm ngồi nhắc lại
chuyện tết với nhau "tiền mở hàng được tất cả mười hai đồng" và
"đánh tam cúc thua mất ba đồng". Một cảnh thanh bình thú vị diễn ra
thấp thoáng ở ngoài vường, sân gác.
Bảo là nóng ư? Không. Bảo là rét ư? Không. Thời tiết lúc đó kì
lạ lắm: rét vẫn còn vương trên ngọn xoan đào, nhưng dất ở ngoài vườn khô ráo, sạch
bong, mịn màng như thể đất rừng Đà Lạt sau một đêm sương, và, qua những kẽ lá
chòm cây, có những bông hoa nắng rung rinh trong bể nước.
Đêm xanh biêng biếc, tuy chưa có mưa dây, những nhìn lên thấy
rõ từng cánh sếu bay. Về khuya, trời vẫn rét một cách tình tứ nên thơ: mặc dầu
vẫn phải đắp chăn bông, nhưng ban ngày không cần phải mặc áo ấm như hồi cuối chạp.
Người vợ bắt đầu thu hết những nệm thêu trải ở sập chân quỳ
và gối gấm trên ghế trắc "mua tự bên Tàu về" để đem ra phơi dưới nắng
xuân, trên một cái chiếu mầu khô nỏ. Mi môn, quần màn, với quần áo tết của vợ
chồng và các con sẽ được phơi như thế chừng ba nắng để rồi đem cất vào trong tủ
có trải sẵn rễ "hương bài" để cho quần áo thơm ngát và khỏi "nhậy".
Ấy đấy, thương người đàn bà Bắc như thế đấy. Sạch cứ như lau
như ly, cẩn thận từng ly từng tí. Và càng thương hơn nữa là khi ta thấy người
đàn bà chậm rãi vuốt ve từng cái tà áo, lồng nhỏ nhẹ từng cái khuyết vào cái
khuy rồi xếp vuông vức áo nọ lên quần kia, như thể sợ động mạnh thì quần áo sẽ
không còn vẹn tuyết trinh, vì nhầu nếp lụa.
Giản dị thay cái đẹp của ngày xuân lúc đó! Ở trong nhà, cái đẹp
không còn phải tạo bằng đèn nến sáng trưng, bằng mi môn quần màn, rực rỡ bằng
hoa lá tưng bừng trong khói hương trầm nghi ngút, mà ở ngoài đường người ta
cũng không còn bị choá mắt hay say lòng vì những áo nhung trơn mướt, những giầy
inh xoè cánh phượng bay bay hay những dải khăn "san" khéo biết lưạ
màu bay đùa trước gió như thể tơ trời vậy.
Không. Cái đẹp lúc này là cái đẹp thành thực, hồn nhiên, mộc
mạc, cũng như người đàn bà, con gái đẹp không phải vì quần áo, vì son phấn, mà
chính vì cái chất đẹp ở trong người tiết ra.
Từ mùa đông qua tết cho đến hôm nay, quần áo giấu mất hết cả
thân hình đều đặn, núng nính, nõn nường của người vợ bé nhỏ có đôi má đỏ hây
hây mùi cốm giót. Hôm nay, chợt thấy đôi mắt trong hơn, làn da thắm hơn và đôi
vai màu ngà hằn qua tấm áo lụa văn, người chồng cảm thấy như mới lại được gặp một
cái gì đã cách biệt lâu lắm và tuy ngồi cách xa nhau mà tưởng như vợ mình thơm
ngát mùi hoa cau.
Đẹp như thế mới là đẹp, yêu đến thế mới là yêu!
Cái đẹp của ngày tết phủ áo nhung tím, quàng khăn lụa màu, dận
lên giầy nhung đen, đâu có thể so sánh được?
Ai cũng có thể bị huyễn hoặc vì vàng son, ai cũng có thể mê
say nhất thời những cái lông nheo giả uốn cong lên như đào chiếu bóng, những
cái vú nhân tạo bằng cao su bơm, những cái điệu bộ nhân tạo đi vắt va vắt vẻo,
những mái tóc "mượn" của các mỹ viện, những mùi thơm vương giả ...
Nhưng rồi có một lúc người xế bóng sẽ thấy rằng cái đẹp của quê hương ta là cái
đẹp của cỏ biếc, xoan đào, hương thơm của ta là hương thơm của cau xanh, lúa
vàng chứ đâu phải cái đẹp của con mắt xếch vẽ xanh, của tấm mini mời mọc
"tí ti thôi nhé'', của đôi môi tô theo kiểu Mỹ trông như môi người chết
trôi; mà cũng đâu có phải là hương thơm của dầu thơm "Santalia",
"Kiss Me" hoà với hơi người tạo thành một mùi thú vật đang kỳ
"con nước".
Ở đây, từ tháng một, trời nắng chói chang, làm cho đôi mắt mờ,
đầu nhức, lúc nào người đàn ông cũng được "rửa mắt" bằng những cái
vai đẹp hớ hênh, những cái lườn hây hây, hồng hồng, hay những cặp đùi mờ mờ nửa
trắng nửa đen, thành thử ra ... hết, không có gì mà "cảm" nữa, ví có
gió xuân thì cũng khó mà làm cho hồ ao chuyển mình được.
Chao ôi, mệt quá, người đàn ông mệt quá! Đã mệt vì kiếm tiền,
lại mệt vì trác táng, mệt vì nịnh bợ, ví chăng có thấy gió xuân lay động cành
hoa, long lanh cặp mắt của người vợ nao nức niềm trăng ý nhạc thì cũng đành phải
uống thêm vài ly rượu ngâm hổ cốt, tắc kè và rất nhiều khởi tử...Yêu thương
không còn là một nghệ thuật, không còn là làm thơ có bằng, có trắc, có vần, có
điệu.
Lòng đã nóng như thiêu, nhà lại thấp, bức cứ điên lên. Có tiền
lắp cái máy lạnh cho đời thêm tươi một chút, nhưng dù thế nào đi nữa thì thơ
sáng tác cũng chỉ là một thứ thơ tự do, thơ văn xuôi, không có vần có điệu, vì
đôi khi có vần có điệu thì cũng là cái thứ vần thứ điệu lem nhem, lỉnh kỉnh.
Nào đâu những buổi hoàng hôn lành lạnh, quấn quít tơ hồng; nào đâu những đêm
trăng êm mướt như tơ, mái tóc ai xoã trên gối đầy những bông sao rụng; nào đâu
những tiếng tiêu, tiếng nhạc của trời tình bát ngát hoa hương, mến thương nhịp
thở ái ân thường vẫn thấy viết trên những báo xuân, sách tết?
Trên các nẻo đường nắng chói chang ở đất này, người ta chỉ thấy
những người đi vội vã, chán chường mệt mỏi. Dậy từ tờ mờ sáng mà tưởng như đã hết
ngày rồi. Xới vội một bát cơm ra đĩa với khô, vừa ăn vừa lo công việc. Con cái
muốn làm gì thì tuỳ, bố mẹ còn bận đi lo tiền.
Một cô xách "bóp" da cừu dừng lại ở đường Chợ Cũ ăn
mấy cái bì cuốn "nhắm" với một ly đá lạnh; một ông, nhân ngày xuân
tươi đẹp, "bao" vợ và con, mua ba trái dưa hấu bổ ra ăn cả nhà, mặt
mùi "tèm lem"; lại một bà, thương chồng con vất vả quanh năm, bưng về
cả một liễn cary Chà mở tiệc thưởng xuân ăn với rất nhiều bún kèm thêm một vài ổ
bánh mì dài như cây đòn gánh.
Ăn như thế mà khát thì uống một ly chanh muối hay chén đậu đỏ
bỏ rất nhiều nước đá; ai muốn mát ruột mà lành thì uống một chén "sinh
sâm" hoặc một ly sữa đậu nành, còn các co gái dậy thì, ăn thịt nhiều xót
ruột, mua một vài đồng "tầm ruột" hay "cốc" chấm mắm nêm ớt,
ngon đáo để, giòn rau ráu.
Tháng giêng ở miền Nam ngà ngọc có một vẻ đẹp "ly kỳ"
làm cho người ta háo hức, khiến cho cổ họng khô teo, muốn uống nước cả ngày, uống
rồi lại khát, khát rồi lại uống, mồ hôi vã ra như thể là mình "thoát
dương".
Nhưng mà sướng,
Sướng là vì nhà nào, dù kiết xơ kiết xác đến đâu cũng có một
tủ lạnh để vài ba chai nước lọc, một cái radio, một cái tivi hò hét những vũ điệu
điên cuồng khiến cho ông vía, bà cụ, chàng trai, cô gái đều rên rú cả lên, muốn
"vặn mình xà" nhảy vũ điệu "cha cha cha" rồi thoát y vũ như
trong "sô" Trương Minh Giảng. Tươi quá, trẻ quá. Quả là một giai đoạn
"đang lên". Nhưng tại làm sao tất cả những sinh khí tươi trẻ, đang
lên đó không làm khuây khoả được lòng người sầu xứ luôn luôn mong cho đất nước
tiến triển vượt bực, mà trái lại lại làm cho y rầu rĩ hơn, nhớ thương hơn những
tháng giêng Bắc Việt đã qua rồi?
Ờ, cứ vào dạo này đây, ở Bắc người ta đi lễ vui đáo để. Chiều
chiêu, đứng ở nhà Khai Trí Tiến Đức, nhìn lên cầu Thê Húc sơn đỏ ở giữa đám mây
xanh đông đảo những người đi lễ trong ngôi đền Ngọc Sơn trắng toát, anh cảm thấy
có những lúc nước lộn lên trời, trời rơi xuống đất khi nhìn những bóng người hiện
ra huyền ảo ở dưới làn nước xanh mơ.
Qua Ngõ Hồ là đền Hàng Trống có tiếng là "hương ngát của
trời"; quá ra đến Hàng Vải là đền Quan Phước, ai mất người, mất của đến cầu
xin thì thấy; từ đó ngược lên, ra lối Toà án là chùa Quán Sứ - ờ, chắc bây giờ
mấy cây thông bách tán ở trước cửa chùa đã lớn lắm rồi đấy nhỉ! Thế rồi là chùa
Dâu, chùa Kim Cổ, đền Quan Thánh, chùa Trấn Quốc thờ ông thánh đồng đen, chùa
Bà Đá, chùa Liên ... trời! Biết bao là chùa đẹp, biết bao nhiêu cảnh nên thơ,
biết bao nhiêu người đi lễ cầu con, cầu của!
Trước đây, tháng giêng ở Bắc là tháng người ta chỉ dành ra để
trước là lễ Phật, sau là lễ tiên tổ ông bà. Người sống cảm thông với người chết
trong tháng ấy, lấy tâm tư mà nói chuyện với nhau, lấy đạo lý mà khuyên bảo, dạy
dỗ nhau cách nào cho vẹn đạo làm người, chớ có thấy giàu mà ham, chớ vì sang mà
bỏ nghĩa, chớ vì cầu an mà làm tôi mọi cho người ngoài.
Từ xưa, Bắc Việt có bao giờ là một miền giàu có? Ai cũng phải
ăn nhịn, để dành; lúc nào cũng phải lo đối phó với ngoại xâm chỉ rình bóp cái cổ
họng của Đông Dương trước nhất; không năm nào không lo bão tố, lụt lội, hạn
hán, mất mùa ... Nhưng lạ lắm, cô Ba à, tại sao tôi thấy người Bắc lúc nào cũng
bình tình, trầm mặc, sẵn sàng "chơi" lại những thử thách của trời
trong khi vẫn sống một đời sống nội tâm phong phú, nhất là người đàn bà Bắc,
sao cũng lo gánh vác giang son nhà chồng, cũng lo từng miếng ăn giấc ngủ cho chồng
cho con, cũng hai sương một nắng mà có vẻ như không "đầu tắt mặt tối"
như người đàn bà ở trong đây? Ở trong đây, người ta vội quá: người tử tế lo vội
vàng để kiếm sống đã đành, ngay các cô tứ thời lấy ngoại kiểu "ngồi lên đống
tiền" cũng vội; các xe hơi chạy vội, cái kèn xe bóp vội, xoa mạt chược
cũng vội, và nếu đôi khi có tập uống chén trà Tàu, bắt chước ngâm bài
"Hoàng Hạc" cũng cứ vội luôn.
Bây giờ, ngồi mà nhớ lại, tôi không thể nghĩ được rằng tháng
giêng ở Bắc có những sự vội vàng, vất vả não nề đến như vậy. Người ta sống đúng
như cái sống do các bậc quân tử Tàu chủ trương: sống đầy đủ, có thiếu một chút
cũng không sao; làm việc cho mình, cho xã hội nhưng vẫn có thì giờ đi thuyền
trên đầm thơm hát bài "Hái Sen" một mình; buôn tần bán tảo ở đô thị,
thôn quê nhưng vẫn dành thì giờ đi chợ kiếm một món ăn ngon cho chồng, rồi đến
ngày rằm mồng một vẫn rảnh rang đi lễ cầu cho sống lâu, giàu bền, dân an, quốc
thái và có hội hè gì vẫn sửa nếp áo mới, tô đôi má cho hồng để cùng với chồng
vui chơi thưởng thức.
Từ ngày mồng bốn tháng giêng, ở các làng vùng Bắc bắt đầu mùa
quan họ.
Hát cho lở đất long trời,
Cho giời biết mặt, cho người biết tên,
Hát từ chợ Phủ hát lên,
Hát suốt tỉnh Bắc qua miền Đông,
Hát sao cho cạn dòng sông
Cho non phải lở cho lòng phải say.
"Anh đã biết hát ví rồi. Lối hát này, trai gái hát quanh
năm, tát nước hát, giã gạo hát mà dún đu cũng hát. Hát quan họ khác thế: lối
hát này chỉ có riêng trong những ngày hội mùa xuân, trai gái hát cầu vui, nhưng
có nhiều làng còn tổ chức hát thờ thần, trao giải. Muốn vào hát giải, trai gái
phải biết năm giọng rất khó hát là Tình Tang, Đường Bạn, Hữ La, Xuống Sông, Lên
Núi ... Hay lắm! Nhất niên nhất lệ, tội gì bỏ sót một buổi nào..." Vào
ngày chín tháng giêng, làng Nội Ninh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang (tục gọi
là làng Nếnh) có rước thần kể hạnh, hát đúm nhưng mê nhất là trò kéo chữ.
Những tay cờ, dưới hiệu lệnh của một vị chỉ huy, chạy ngang dọc
ngược xuôi thành một hàng chữ có ý nghĩa. Những chứ này phải làm lễ xin thánh
ban cho, chứ không phải muốn dùng chữ gì cũng được. Có năm là "Phong đăng
hoà cốc", có năm là "Thiên hạ thái bình".
Nhưng mê nhất là hát tuồng. Bây giờ ở đây tuồng cải lương và
kịch được công chúng ưa xem, nhưng riêng tôi thì cứ ra giêng, ngày trước, thế
nào vợ chồng cũng phải đi xem tuồng cổ, để nhân dịp đó bói tuồng xem năm mới
làm ăn ra thế nào rồi đến lúc tan hát ra về, vợ chồng dắt tay nhau đi nhởn nha
dưới bóng trăng bàn luận về vai trò Khương Linh tá đóng thật tài, hay Quan Vân
Trường qua ngũ quan trảm lục tướng trông ghê quá...
Cuối tháng giêng có những đêm không mưa, trời sáng lung linh
như ngọc, chỉ chừng mười giờ tối thì trăng mọc cao lên đỉnh đầu.
Cái trăng tháng giêng, non như người con gái mơn mởn đào tơ,
hình như cũng đẹp hơn các tháng khác trong năm thì phải: sáng nhưng không đẹp lộng
lẫy như trăng sáng mùa thu, đẹp nhưng không đẹp một cách úa héo như trăng tháng
một. Cái đẹp của trăng tháng giêng là cái đẹp của nàng trinh nữ thẹn thùng, vén
màn hoa ở lầu cao nhìn xuống để xem ai là tri kỷ, mặc dầu không có ai thấy để
đoàn biết tâm sự mình, nhưng cứ thẹn bâng khuâng, thẹn với chính mình. Ánh
trăng lúc ấy không vàng mà trằng như sữa, trong như nước ôn tuyền. Đi vào giũa
ánh sáng mơ hồ ấy, mình cảm như thấy mình bay trong không gian vô bờ bến.
Nằm trên cái giường tre ngoài vười kê dưới một gốc lan tây
thơm phức, mình nghe rõ ràng có tiếng trăng thủ thỉ thì thầm. Ở nhà ngoài, vọng
vào câu chuyện của mấy cô hàng xóm. Không, vào tháng giêng, người Bắc Việt ít
có giải trí nghèo nàn trong rạp hát, nhà xinê hay tiệm nhảy: một bà nói chuyện
mới đi lễ chùa Trầm về, xin được một cây xăm "thượng thượng"; một cô
khác trịnh trọng đưa biếu người chị em thân một gói quá Thiết Quan Âm của ông
bác vừa ở Trùng Khánh về ăn Tết; một bà khác nữa giở hộp trầu ra, vừa nhai vừa
cuốn theo lối "sâu kèn" những điếu thuốc là ta ướp hoa ngâu.
Vào khoảng nửa đêm, thành phố im lắng. Có mấy hạt mưa xuân bắt
đầu. Người chồng đóng cửa lại, vào nhà. Không khí lại càng thân mật thêm lên.
Chắt chiu trong mươì mấy năm trời, kể từ lúc còn hai bữa cơm đèn cho đến bây giờ
có đồng ra đồng vào, người vợ đêm xuân cảm thấy con tim có cánh, rót hai li rượu
nhỏ mầu trăng cùng đối ẩm với người chồng lấy nhay từ lúc hãy còn nghèo túng. Nầy,
trầu vàng, vỏ tía ngon đáo để, hay là ta ăn một miếng, rồi bói một quẻ Kiều đầu
năm xem xấu tốt ra sao hãy đi ngủ, hở mình?
Chao ôi, đến cái thú bình dân nhất là ăn trầu, ở đây người sầu
xứ cũng thấy không ưng ý. Suốt cả tháng giêng, cau đắt, bảy tám đồng một quả, cố
mua mà ăn vẫn cứ cứng quèo quèo. Hầu hết phải ăn bằng cau khô. Mà càng ăn như
thế thì lại càng nhớ những miếng trầu ngày xuân ở Bắc, ăn với miếng cau
"tiên đầm" ngọt cứ lừ đi. Ngồi đánh tam cúc hay rút bất với nhau, những
người bạn của chồng xưa nay ăn trầu vẫn kêu cay đắng thấy vợ bạn nhai ngon quá
cũng "xin" một miếng ăn cho ấm người, mà cũng là để lấy may vì
"mười bốn ván liền rút toàn nhị tống cửu, tam tống bát".
Bây giờ, đâu còn những cốc rượu, những miếng trầu, những đêm
rút bất say sưa như thế nữa? Đâu còn những chén hạt mít vợ mời chông nhấp men
tình, đâu còn những buổi họp bạn đến một hai giờ sáng - vì không có giới nghiêm
- rồi quay ra ăn bánh chưng rán với cá kho, giò thủ, và tráng miệng với chè đậu
đãi, uống trà mạn ướp sen?
Người khách xa nhà nằm ngửa mặt lên trần, mơ lại những ngày
xuân đã mất và cảm như tất cả những cái vui đẹp, say sưa đó thuộc vào một tiền
kiếp xa xôi.
Không. Y không phải là một người hèn nhát, nhưng mang trong
mình một lúc tới bảy tám biệt ly, quả là có lúc y buồn quá cũng muốn chết đi
cho rảnh. Không có lý nào y lại khóc với lòng! Y cố nhắm mắt để ngủ thì đến gần
sáng bỗng mơ mơ màng màng thấy ở cửa đi xuống vườn, nơi rặng chuối, có bóng một
người đàn bà đẹp, mặc áo xanh, bước qua cửa sổ vào viện sách.
Đêm tháng giêng ở Sài Gòn nóng quá, có khi gần sáng mà người
nằm ngủ hãy còn lã chã mồ hôi. Bóng người đàn bà đẹp cúi xuống lau trán cho người
mê ngủ. Và bỗng nghe thấy như xa, như gần ở bên tai:
"Thường tình, ai cũng ưa hiện tại bởi vì hiện tại chờ đợi
những đổi thay, hứa hẹn những tương lai hứa hẹn, thế mà làm sao anh cứ băn
khoăn mãi với quá khứ làm gi? Hay là tại sầu nhiều chăng, giận nhiều
chăng?"
Người sầu xứ, trong cơn mơ thiêm thiếp, phảng phất thấy hình
bóng của người đàn bà mặc áo xanh đó quen quen, mà nghĩ mãi vẫn không biết là
ai. Đó là một người quen biết thực, trong đời sống thực? Hay là hình ảnh của một
mùa xuân đã chết, của một cái đẹp đã mờ xa, một mối tình chung thuỷ nhưng não
nùng, ai với ai cùng xây một mộng ước mơ nhưng bị trời bắt phải lìa nhau lúc
sông?
Người đàn bà mặc áo xanh lại nói:
"Vui và buồn ở đời là tuần hoàn cả. Tất cả bí quyết của
sự sống là biết tin tưởng và đợi chờ, vì tin tưởng và chờ đợi thì cái gì mà chẳng
đến? Anh đọc sách có còn nhớ chuyện Pygmalion không?"
"Đó là một nhà điêu khắc có tài ở trên một hòn đảo xanh
biêng biếc giữa đại dương thần thoại.
"Pygmalion đem hết tâm hồn tạc nên một pho tượng đẹp, tượng
nữ thần Galatée, đẹp quá, đẹp vô cùng là đẹp, đến nỗi chính mình lại say mê tác
phẩm của mình.
"Nhưng người đẹp chỉ là một vật vô tri, hiểu đâu được
tình cảm não nùng của nhà nghệ sĩ? Pygmalion than khóc ngày đêm và, ngày đêm,
khấn nguyện được có một người vợ đẹp tuyệt trần như pho tượng. Thì một sớm kia
tiếng khẩn cầu thần đến tai thần Vệ nữ. Và bà thần này - vốn giống đa tính,
thương người đồng điệu - đã hoá phép cho pho tượng Galatée thành ra người thực
để cho "chàng" và "nàng" chung sống với nhau".
Người đàn bà đẹp mặc áo xanh nói tới đó thì vòng tay ta khép
lại, làm cho trăng non ở ngoài cửa sổ cũng phải thẹn thùng.
Đôi mắt đẹp lung linh sầu. Ta thấy như cả một mảnh vườn thơm
ngát hương cau nghiêng xuống mé giường xô lệch.
Em yêu ơi, sống là tin tưởng và chờ đợi, nhưng biết rằng mái
tóc người ta có còn xanh mãi được chăng?
Đã lâu lắm, chúng mình không được tin tức của nhau Quỳ nhỉ.
Chiến tranh cắt đứt ân tình của hai ta: thôi đành lấy câu vận mệnh để khuây dần
thương nhớ vậy.
Nhưng thương nhớ kì lạ lắm. Có những đêm không ngủ, nằm nghe
tiếng mưa rơi, tôi cố nhớ lại nét mặt của người thương, mà không hiểu tại sao
con mắt, miệng cười và mớ tóc xoã trên bờ vai tròn trính lại lu mờ như thể chìm
đắm trong khói song. Mà trái lại có những kỉ niệm rất bé nhỏ, rất tầm thường lại
hiện ra rõ rệt, không suy suyển một ly trong trí óc của người nặng nợ lưu ly, nằm
buồn trong gác nhỏ ngâm câu thơ nhớ vợ:
Ủ ê nét liễu sầu tuôn gió
Thổn thức tình tơ lệ ướt đào.
Hoa tủi còn đâu duyên tác hợp,
Mây bay rồi nữa giấc chiêm bao!
Tôi nhớ những buổi tối đi trên con đường Toà án ngan ngát mùi
hoa sữa, nhớ những đêm trăng hai đứa dắt nhau trên đường Giảng Võ xem chèo, những
đêm mưa ngâu, thức dậy thổi một nồi cơm gạo vàng ăn với thịt con gà mái ấp. Bao
trùm tất cả những niềm thương nỗi nhớ ấy, tôi nhớ nhất một đêm cuối tháng
giêng, đầu hai năm ấy, hai đứa mới quen nhau, cùng ăn chung một quả vú sữa của
một người bạn phương Nam gửi ra cho, rồi đánh tam cúc cho tới nửa đêm về sang.
Bây giờ, ngồi xem én nhạn bay, có lúc tôi cũng bổ một quả vú
sữa ra ăn, nhưng ăn thì lại nhớ đến một đêm tháng hai đã mất “để mùa xuân kia
có trở lại cũng bằng thừa”.
Yêu cái đêm tháng hai ấy không biết chừng nào, nhớ những buổi
đánh tam cúc và rút bất không biết thế nào mà nói.
Lúc ấy, tết đã hết từ lâu, mọi người đã trở lại với công việc
thường ngày như cũ, nhưng mùa xuân vẫn còn phơi phới trong long người khách đa
cảm nhìn đâu cũng thấy diễm tình bát ngát. Vừa hôm nào đi lễ ở Đống Đa, hôm nay
đã là hội chùa Vua; mười ba là hội Lim; rằm tháng giêng đi các chùa lễ bái; rồi
là chùa Trầm, rồi trẩy hội Phủ Giầy, rồi xem tế thần ở Láng, đi về qua Giảng
Võ, rẽ vào xem rước vía ở miếu Hai Cô; vài hôm sau lại đi hội Lộ, trở về xem rước
ở đình Thiên Hương, ghé qua đình Ủng xem tết thần và đến đêm thì đi xem hát tuồng
Tàu ở đền Bạch Mã…
Ở bất cứ hội hè nào, đàn bà con gái cũng đẹp nõn nà. Hoa rét
còn đọng ở ngọn cây, ngọn cỏ. Những con mắt cười với những con mắt, những bàn
tay muốn nắm lấy những bàn tay. Lòng người ấm áp muốn gửi sự ấm áp cho những
người thương mến. Quái lạ, sao cùng là đất nước mà ở miền Bắc trời lành lạnh
nên thơ dến thế, mà ở nhiều miền khác thì lúc ấy trời lại nóng, rôm sảy cắn
nhoi nhói muốn làm cho ta cào rách thịt ra. Ăn cái gì cũng không ngon vì mệt
quá. Đêm ngủ chẳng đẫy giấc vì càng uống nước đá lại càng háo trong người. Cái
máy lạnh mở cho hết cỡ cũng chẳng làm thắm được tấm long yêu thương mệt nhọc.
Người con gái đa tình xa nơi phần tử đêm nằm bỗng thấy buồn tê tê ở trong long
vì chợt nhớ đến một câu hát cũng còn nhớ được lúc mẹ ru, khi còn bé, ở đất Bắc
xa xôi:
Buồn vì một nỗi tháng hai
Đêm ngắn ngày dài, thua thiệt người ta!
Yêu quá cái đêm tháng hai ở đất Bắc; thương quá cái đêm tháng
hai ở Bắc, thành ra cái gì cũng thấy qua đi nhanh quá. Ước gì năm tháng dài
them ra để ngày thì đi xem hội xem hè, đêm thì cùng với những người than vui
xuân với quân bài cao thấp.
Hỡi những người mày móc, đừng có bảo những đồng bào ấy là những
người hưởng lạc. Bị kẹt trong một cái thế hết xâm lăng nọ đến quân cướp nước
kia, với những tài nguyên chưa có bao giờ khai thác, họ, những người phương Bắc,
phải chiến đầu không ngừng, đổi bát mồ hôi lấy bát cơm để sống, nhưng họ không
vì thế mà phải chạy ngược chạy xuôi, phờ râu trớn mắt để đánh vật với đồng tiền.
Họ làm việc bằng chân tay, bằng trí óc để chống lại thiên nhiên, để duy trì sự
sống, để vươn lên mãi, vươn lên mãi, nhưng lúc nào cần nghỉ ngơi, họ biết nghỉ
ngơi, khi nào cần phải chắt chiu cái nội tâm họ biết chắt chiu cái nội tâm, khi
nào cần phải sống đẹp, sống cho đúng ý nghĩa của sự sống thì họ sống đẹp, sống
cho ra sống. Vì thế cứ làm việc nhưng suốt một tháng giêng họ vẫn cứ vui xuân.
Tuy vậy, vẫn chưa đủ, những ngày vui còn kéo dài ra tận tháng hai mà người ta vẫn
cứ tiếc sao những đêm tháng hai ngắn quá…
Lúc ấy cá thú ăn bánh chưng rán với cá kho không còn nữa mà mứt
sen, mứt gừng, mứt bí cũng như bánh Xuân Cầu cũng không còn. Những đánh tam
cúc, rút bấc đến nửa đêm, đất nước than yêu lại mang đến cho ta một cái thú tuyệt
kỳ thanh cao, tuyệt kỳ trang nhã.
Bàn tam cúc vừa giải tán thì đồng hồ điểm mười hai giờ. Cái
đêm tháng hai ở Hà Nôi kỳ ảo lắm. Có khi còn mưa phùn, có khi có gió thổi se se
trên lộc đào, nhánh mai, nhưng bao giờ cũng vẫn còn hơi rét. Thành phố im lặng,
ngồi trong nhà mà nghe thấy từng cái lá rụng ngoài vườn. Anh em bè bạn lần lượt
ra về thong thả. Trẻ ở nhà trong cũng ngủ yên. Hai vợ chồng nhìn nhau không
nói, nhưng cảm thấy mình như là tiên sống cách biệt cõi trần, lấy cái ấm “cò
bay” bằng đồng bạch ra dun nước rồi cầm cái khăn đỏ lau lại bộ đồ trà, pha một ấm
trà ướp thuỷ tiên mời nhau uống, trịnh trọng như hai tân khách.
Các cụ sành trà thường bảo muốn thưởng thức trà tuyệt kỹ thì
phải là cái thứ trà mộc không ướp hoa gì, nhưng mình có phải là tay sành đâu mà
phải theo khuôn sáo ấy! Chỉ biết là vợ con ở trong nhà, học đòi các cụ gọt thuỷ
tiên, còn thừa thì đem trồng trong cát, chơi hoa đến hết ngày rằm, đem cắt những
bong hoa hãy còn tươi ướp trà Tàu rồi sấy cất đi để dành, lúc phởn phơ trong bụng
thì lấy ra pha uống, thế thôi.
Ôi chao, cần gì phải trà mộc, cần gì phải nước giếng thanh
tân, cứ cầm cái chén quân đưa lên môi và nghĩ rằng hoa thuỷ tiên là do vợ mình
gọt, trà thuỷ tiân này là do vợ mình ướp, ấm trà này là do vợ mình pha thì cũng
đã thấy ngào ngạt hương tình trong khắp cả cái đêm xuân tĩnh mịch này rồi!
Trầm ở trong chiếc lư đồng vừa lúc đó lụi dần, toả ra một mùi
thơm nhẹ hoà lẫn với hương trà làm cho cả hai vợ chồng cùng bang khuâng…Gió lay
động cánh màn nơi cửa sổ. Người vợ xoã tóc, đi lại nằm dài trên nệm trắng, mở mắt
trong bong tối nhìn mây bay và nghe thấy hình như ở xa xa có tiếng nhạc trừ
trên trời rơi xuống.
Khẽ quay mình lại với vợ để cho ấm áp hơn, người chồng hỏi:
-Này mình, có phải mùa này là mùa đào bói quả không?
-Sao tự nhiên anh hỏi vậy?
Người chồng lặng im một lát không nói gì. Ba phút sau, nghe
hơi thở biết là vợ đã ngủ rồi, y nằm yên nhắm mắt va tiếp tục nối lại giấc mộng
vừa qua: giấc mộng hoa đào, nước suối.
Ờ phải, chính vào cữ này là cữ đào bói quả đây. Người đàn ông
lạc phách trở lại với gia đình, đêm tháng hai năm ấy, nằm bên người vợ thương
bé nhỏ, mơ màng thấy mở cửa động Thiên Thai. Cách đây đã lâu rồi; cũng vào cữ
tháng hai như thế này, y đã lạc bước vào một thứ Thiên Thai nơi trần thế rực rỡ
hoa đào, mông mênh nước suối ở vùng biên thuỳ Bắc Việt.
Chính vào khoảng tháng hai này đây, có một buổi sang y đã cưỡi
con ngựa thồ đi nhởn nha một mình nhìn lên chin mươi chin ngọn Thập Vạn Đại
Sơn. Đến cái đoạn một trong chin mươi chin ngọ ấy gác sang đất nước Việt Nam,
quả là đã có một lúc y tưởng là Thiên Thai thực, vì rừng đào bát ngát ngút
ngàn, trời đất êm ru, mà ngửng mặt lên trời thì nghe như có tiếng tiêu tiếng địch.
Con ngựa thồ đi khẽ từng bước một. Hàng nửa ngày đường mới thấy ở tít tắp đằng
xa có mấy cô sơn nữ mặc váy thuỷ ba, bịt khăn trắng ven đầu đi đu đưa ven suối.
Nước suối trong văn vắt, bong các cô sơn nữ chiếu xuống nước
làm cho một người hoá hai, y như thể các cô tiên đi hái hoa trong vườn của nhà
trời mà ta vẫn thấy trong các truyện thần tiên khi còn nhỏ.
Người Thổ trồng đào nhiều. Người ta đã thấy có những gốc đào
cổ thụ đến hai ba người ôm mới xuể. Du khách đi Lao Cai, đến Sa Pa, cũng qua một
rừng đào đẹp không kém đào ở Thập Vạn Đại Sơn. Đi vào rừng, trời mù mù như thể
có sương bao phủ, nhưng bỗng nhiên đến một khúc quẹo, trời sang hẳn ra. Nhìn
lên không có một đám mấy. Trời nắng ấm, trông cứ y như là ngọc lưu ly vậy. Gió
từ trên đỉnh cao thổi xuống, làm rung động những cành cây, Hoa đạo rơi lả tả
trên cỏ xanh như một cơn mưa màu sắc.
Vừa lúc đó, có ba cô nàng cưỡi ngựa thồ, vắt chân về một bên
đi nhởn nhơ dưới trận mưa hoa, vừa nói chuyện vừa ngửa mặt lên trơì cười. Hoa đào
vương vào tóc, rủ lên trên vai áo, làm bật cái cạp và cái nẹp hoạ “trần hoa
cái”, hoặc “trần đường triện”, trông y như thể là ba cô tiên nữ.
Bây giờ ngồi nghĩ lại những hình ảnh xa xưa ất, tôi vẫn còn
thấy đời ngọt ngào như có vị đường và tưởng như không bao giờ có thể quên được
hương thơm quyến rũ của trời nước, của hoa đào, của da thịt những cô sơn nữ đẹp
não nùng, sầu being biếc, ngửa mặt lên cười một cách hồn nhiên trong cánh rừng
bạt ngàn san dã hoa đào.
Du khách, dù là hoạt động đến đâu, những lúc ấy cũng cảm thấy
se sắt trong long mà chán ngán cái đời sống phồn hoa hệ luỵ. Buộc con ngựa thồ
dưới gốc cây, anh nằm trên thảm cỏ, he hé con mắt nhìn những cánh hoa dào rơi lả
tả ở quanh mình và nghe tiếng suối nước ở xa xa thì thầm thủ thỉ như ca lời ca
ân ái: “Anh ơi đừng về nữa, ở lại đây anh, ở lại đây anh”.
Tiếng suối vọng vào khe núi, nùi thì thầm cùng mây, mây tâm
tình với gió và gió chạy trong rừng đào, nhắc lại: “Ở đây anh, ở lại đây anh”.
Chính giữa lúc đó, có một trái đào rơi xuống trên nệm cỏ. Cầm
trên tay, du khách thoáng thấy một niềm e ngại, sợ cầm mạnh thì làm mất mát cái
đẹp của đào đi.
Trên khắp mình đào ưng ửng hồng, có những sợi long tơ óng ánh
như long tơ trên mặt cô gái dậy thì. Cứ cầm ở tay chơi, đã thấy ngan ngát thơm
rồi; nhưng nếu anh đưa lên miệng cắn một miếng thì anh sẽ giựt mình cái thơm của
đào không có thứ trái cây gì sánh kịp, mà có cắn một miếng như thế anh mới lại
càng thấy trái đào hé mở đẹp không biết bao nhiêu. Trong ruột đào, bật lên một
màu hồng có những chỉ đỏ cánh sen ôm lấy một cái hột đỏ cùng màu, nhưng sẫm hơn
một chút, ướt hơn một chút. Gớm cho nhà văn nào đã lấy hai chữ “nhuỵ đỏ” để nói
lên tấm long nàng con gái tuyết trinh buồn về nỗi không đem bẻ cho người tình
chung ngày trước!...
Ở miền Nam nước Việt, sang tháng hai ta có không biết bao
nhiêu thứ trái cây: nào mận, nào xoài, nào cam, nào quýt, nào vú sữa…thứ nào
cũng ngon, thứ nào cũng quý, nhưng tại sao tôi vẫn cứ mơ ước những trái đào Thổ
ở Cao Bằng, Lao Cai, Sa Pa hay ở biên thuỳ giáp Vân Nam, nhìn sang ngọn Tây
Phàn? Tôi nhớ những buổi trưa trong sang cùng nằm trên cỏ với những cô nàng người
Thổ, bỏ một hào bạc ra ăn cả một vườn đào, muốn hái bao nhiêu tuỳ ý, ăn jỳ chán
thì thôi, y như là ta ăn măng, ăn sầu riêng ở miệt vườn Lái Thiêu, hay cam hoặc
bưởi ở bên kia song Tam Hiệp. Ăn như thế mới đã đời!
Vừa ăn, vừa nhớ đến những câu chuyện cũ nói về những con chim
ăn đào tự bên Tàu rồi tha hột về đánh rơi ở trên miệt núi biên thuỳ, đâm chồi,
mọc cây, sống cả hang thế kỳ, đem lại cho ta những quả đào sơn dã đỏ tía như
đào tiên mà Đông Phương Sóc ăn trộm trong vườn đào bà Tây Vương Mẫu, hoặc những
chuyện ma xó canh vườn đào, ai ăn trộm một trái thì đếm một, ăn hai trái thì đếm
hai…,anh cảm thấy anh sống một cuộc đời huyền thoại mà mắt cô gái Thổ là suối,
tóc cô gái Thổ là cầu để cho anh đi đến bến yêu thương.
Anh mơ về một ngày xa xưa đã từng phiêu bạt đến một “bản” Thổ
ở Lao Cai với một gia đình Thổi, ngày ngày trông sang Hồ Kiều, tưởng tượng đến
sự tốt tươi của trai gái đùa cười trong nắng lung linh như ngọc.
Từ năm giờ chiều, tuyết phủ các thôn xóm ngút ngàn. Ngồi nhìn
ra chung quanh, anh cảm thấy đắm chìm trong một sa mạc lạnh tê, trắng xoá, vừa
nên thơ, vừa ghê rợn vì thỉnh thoảng lại nghe thấy một con chim kêu quái gở hay
tiếng của một đoàn sơn cầu nhìn lên mặt trăng buồn hiu hiu mà tru lên. Anh sởn
da gà, nhưng trong long thì cảm thấy như nóng lắm. Lúc ấy mà bước xuống thang,
ra vường hái lấy một hai quả tuyết lê ăn, anh thấy tỉnh táo một cách lạ kỳ và đồng
thời mang máng thấy rằng sống ở đất Bắc vào cái cữ giêng hai sướng quá, sướng
không chịu nổi. Cây lê có tuyết phủ trông như vẽ ở trong một bức tranh một xứ lạnh
Âu châu.
Trái lê cũng thế: đúng là một trái cây bằng thuỷ tinh. Anh cầm
trái lê, khẽ gõ vào chân thang, băng tuyết phủ ở bên ngoài rụng xuống. Lấy dao
bổ ra, thưởng thức từng miếng nhỏ, tôi đố có thứ trái cây ướp lạnh nào ngọt xớt,
dịu hiền và thơn ngát thơn ngào như thế đấy! Anh không cần nhai, cứ đè lưỡi xuống
miêng lê thì nó đã tan ra từ lúc nào rồi.
Móc coọc, cũng thuộc loại này và cũng sản xuất vào tháng này,
cũng ve vuốt khẩu cái của người ăn như thế, nhưng hơi cúng mình một chút. Tuy
nhiên, yêu quá là yêu, nên ăn thế nào cũng cứ thấy ngon vì cái ngon lành của mỗi
thứ có tính cách riêng biệt cũng như mỗi dây trong chiếc tì bà reo lên một thứ
tiếng tơ đồng khác nhau.
Có phải là tại mình thương yêu phần tử nên yêu luôn từ bong
hoa mà yêu xuống đến trái cây, yêu từ cái lá hoè lăn tăn mà yêu lan sang chum
hoa mộc? Hay là quả thật, như nhiểu người vẫn nói, trái bí ở đây to mà kém
ngon, con gà lớn mà kém ngọt, trái đu đủ bự mà kém thơm? Tôi cũng đã ăn phật thủ
ở đây rồi, nhưng cứ nói thực không việc gì dối trá, sao trái phật thủ Bắc bầy
trên bàn thờ ông bà ngày tết, đến tháng hai bổ ra vẫn có cái hương vị khác trái
phật thủ ở đây?
Tháng hai của Bắc Việt xa xưa ơi, yêu tháng hai quá và nhớ
tháng hai nhiều lúc đến biếng cười biếng nói.
Biết đến bao giờ người lữ khách mới lại được thấy lại cái
tháng hai ngày xưa của nẻo Bắc cách mấy mươi trùng thương nhớ?
Những say tỉnh: Bắc Kinh mưa gió,
Vẫn mơ màng: phòng cũ chiếu chăn,
Gối sầu cách áng mây Tần
Băn khoăn tay áo, chân quần ở đây,
Án nọ đỡ ngang mày sớm tối
Nay tháng ngày no đói với ai?
Gió thu một tiếng bên tai,
Thuần lư chợt nhớ đến mùi Giang Nam!
Thấy gió thu, Trương Hán đương làm quan tại triều nhớ đến rau
rút, cá mè ở quê hương. Người lữ khách ngày nay, xa cách quê hương, thấy tháng
hai trở về, cũng động long nhớ tiếc không biết bao nhiêu khuôn mặt, không biết
bao nhiêu miếng ăn ngon, không biết bao nhiêu tình thương yêu đã mất. Nhớ từ những
con đường mưa bay riêu riêu cùng vợ đi nhởn nha ven hồ Bảy Mẫu, nhớ những đêm
trèo lên ngọn đồi trê đường về Pháp Vân hái một trái cam vừa ăn vừa nghe tiếng
trống chèo ở xa xa vọng về mà nhớ lại.
Nhớ quá chững là nhớ, thương không biết ngần nào là thương.
Thương nhất là người vợ nhỏ bé yêu chồng, mùa nào thức nấy, không bao giờ đợi
cho chồng phải nói lên sự ước mơ. Này mình, em đố vào tháng hai này, xứ sở mình
còn có gì đặc biệt nữa nào? Người chồng chịu, không biết trả lời sao. Nhưng đố
ai nói lên được cái thú vui thầm lặng trong óc chồng, hôm sau, khi đi lên Nghi
Tàm mua một cây thế về trồng trong cái chậu Giang Tây, bỗng thấy ở trên bàn một
mâm đầy tú hụ hành, thía là, thơm, mùi, ngổ … xanh rờn giữa mấy đĩa bún trắng
tinh.
À đúng rồi, cá anh vũ mùa này béo, ăn chả cá thì tuyệt trần đời.
Người vợ vừa đích than ngồi quạt chả ở ngoài sân vừa nói chuyện
với chồng đương nhắm nhót một ly rượu sen Tây Hồ:
- Đây, cá anh vũ Việt Trì đây. Chả cá phải ăn cá này mới được
Tại sao ăn chả cá lại phải có cá anh vũ? Mà hà cớ gì cá anh
vũ lại phải là cá ở Việt Trì mới ngon?
Người chồng không cần biết gì lôi thôi, chí có tháng hai ăn
cá anh vũ nướng chả thì ngon thực. Nếu muốn đổi món, cá anh vũ làm gỏi cũng
ngon lạ ngon lung nhưng người vợ biết ý chồng, mua cá anh vũ nấu cháo ám thì
người chồng thấy hợp giọng hơn nhiều lắm. Xắn một miếng cá, chấm nước mắm ngon
có vắt chanh, bỏ ớt, và quậy mấy cây tăm cà cuống nguyên chất tự tay mình lấy ở
trong bọng cà cuống ra, ăn với cháo có hành cuộn lại, có rau cần điểm một ít
thìa là ngọt cứ lừ đi, quỷ thần không hưởng thì thôi chớ đã hưởng một chén chắc
chắn cũng phải đòi ăn chén nữa.
Đêm tháng hai ở Hà Nội ngày trước, hầu hết các nhà đều đóng cửa
từ lúc bảy tám giờ chiều. Thật đúng là người ta không biết lăn xả vào cuộc sống
để làm tiền, để hưởng vội lấy những thú vui bợm bãi trên chiếu bạc hay trong những
cái “sô” đầy long rậm lá, hoặc để ăn những bữa cơm đắt tiền bằng cả gia tài của
một người trung lưu rồi hút, rồi chích, rồi đánh đập như những kẻ thất phu tàn
bạo…Nhưng để đền bù lại, họ có cái thú trầm lặng, vui cái vui của gia đình thê
tử, uống chén nước trà mạn sen với an hem và góp vài hội tổ tôm hay rút bất,
đánh tam cúc lấy vui trong bầu không khí than yêu, cởi mở, với họ hang bè bạn.
Ngày tháng trôi đi nhẹ nhàng. Không lo tiền, không lập mưu
thiết kế, không oán ức, ăn rau rút muối mè, cũng thấy ngon. Thỉnh thoảng, một
người bạn mới đi chơi về lại gửi cho một vài mớ rau sắng, đem nấu suông, hay
gia them một bánh trứng cáy vào cho đậm, vợ chồng ngồi thưởng thức cảm thấy có
một phần ngon hơn ăn yến.
Trời thương, các con chúng cũng ngoan. Tiền không có nhiều,
nhưng cũng tạm gọi là có căn có bản. Cả năm làm ăn vất vả, chẳng có lúc nào được
rỗi rãi thực tình, sống lại những buổi đầu lưu luyến, anh ạ, hay hôm nào chúng
mình đi chùa Hương đi? Tháng giêng vừa đây, đã đi chùa Trầm rồi, sớm đi chiều về,
mệt lắm. Nếu đi chùa Hương, ta phải đi hai ba ngày cho thong thả chớ không đi
như năm ngoái, đi sang hôm trước, chiều hôm sau đã về, lễ Phật không được đầy đủ,
nói gì đến chuyện thưởng thức bầu trời cảnh bụt của đệ nhất động Nam Thiên?
Hai mươi mấy năm đã qua đi từ bữa trẩy hội chùa lần trot ấy,
nhưng long nào mà quên được cái buổi chiều giữa tháng hai năm đó, chúng ta cùng
ngồi ở trên con đò xuôi bến Đục ngắm những con cốc bói cá trên dòng nước trong
văn vắt. Kỳ lạ thay là cái Hương Sơn! Bây giờ, có những đêm nằm thao thức không
ngủ được, chợt nhớ đến cái cảnh trập trùng non non, nước nước, mây mây đó, tôi
cảm thấy quả là trong suốt một đời tôi chưa từng được gặp một sơn thanh thuỷ tú
nào như thế: đẹp từ cái khe núi, gốc cây, đẹp từ cái ghềnh núi, bụi lau, đẹp từ
con chim, ngọn cỏ.
Nhưng bao trùm lên hết, bất cứ cái gì cũng có một tâm hồn,
cái gì cũng tiềm tàng một kỳ bí thiêng liêng làm cho bất cứ ai cũng cảm thấy
lòng dịu hiền đi, như sợ một cái gì từ bi lắm, như muốn trút bỏ hết sự đời, như
muốn sống cách gì cho thực từ ái, thực nhân đức, thực vị tha để chuộc lại những
tội lỗi mình đã phạm.
Từ chùa Trong ra chùa Ngoài, từ đỉnh núi xuống doành khơi, từ
con chim mổ kiến gõ mỏ vào cây kêu cốc cốc đến con vượn ru con như đọc kinh ở
khe suối đầu ghềnh, anh cũng thấy đều như miệng cái đạo Phật rất màu mặc dù từ
trước đến khi đó không hề tin tưởng nơi trời, Phật, anh cũng thấy cần phải cúi
đầu trước khói nhang thắp lung linh khắp các bàn thờ, trong khắp các động và lầm
thầm khấn vái đức Phật từ bi cứu vớt chúng sinh chìm đắm trong ta bà thế giới.
Căng thẳng một niềm tin tưởng, cả hai vợ chồng chèo hết núi
này sang động nọ, đi hết suối này đến chùa kia, gần một ngày trời không biết mỏi,
gặp gì ăn nấy mà thấy cứ ngon.
Ấy là bởi vì long nhẹ thêng thang, quên hẳn tục luỵ để lại từ
bên Đục. Người vợ thức cả đêm ở chùa Ngoài để lễ rồi lại đi hang nửa ngày đường
trên vách núi cheo leo mà hình như đẹp them ra: lạ thật. Nếu có lúc nào thấy mỏi,
ô hay, không hiểu tại sao chỉ vào một cái cầu, uống một chén nước lão mai lại
thấy khoẻ ngay, còn cơm ăn ở một cái quán trên đỉnh cao thổi bằng gạo đỏ với một
miếng cá kho tương và một bát canh cà chua nấu với đậu phụ rán vàng, tại sao lại
ngon lạ ngon lung thế nhỉ! Có lẽ vợ chồng từ khi ăn ở với nhau chưa bao giờ được
ăn một bữa cơm kì diệu, mê ly đến thế!
Nâng một chén nước lên miệng uống, rồi nhìn xuống chân núi,
bao nhiêu ruộng rẫy bé như thể là bàn tay trẻ con, người đi kẻ lại nhỏ như con
ong cái kiến. Mình tự nhiên cảm thấy như đứng sát với trời và nghe rõ rang hơi
thở của vũ trụ bao la, của từng vì tinh tú. Xa xa, một đàn vượn chuyển cành nọ
sang cành kia. Rừng mai, rừng mận nở trắng xoá cá những đồi núi chung quanh, y
như thể một bức tranh tàu chấm phá. Có tiếng chim kêu trong bụi: người bản Thổ
bảo đó là tiếng từ quy.
Người vợ ngần ngại không muốn đứng lên. Cảnh đẹp muốn lưu
khách lại. Nhưng từ dưới chân núi, một đoàn người mặc quần áo đủ màu xanh đỏ đã
cuồn cuộn tiến lên như một đoàn du già nối đuôi nhau để llặn ngòi noi nước lên
cho kì được đến cửa trời.
Hai vợ chồng chống hai chiếc gậy lụi nhập đoàn đi vào “Hang Mới”,
và cùng hoà tiếng “nam mô” với mọi người trong khi nhẹ bước trèo hang ngàn vạn
động đá và chui qua hết động nọ đến hang kia.
Nam mô a di đà Phật!
Nam bô cứu khổ cứu nạn Quan thế âm Bồ tát!
Tiếng nam bô làm chuyển động cả không khí vang lên đến khe
núi, đồi cây dội xuống rừng mai, đồng lúa rồi phản ứng lên trên trời để trời chả
lại tiếng vang cho lá cây nước suối.
Ở đỉnh núi đằng kia, sương bốc lên mù mù như khói. Một tiếng
gà rừng. Tất cả vũ trụ chỉ là một giấc mơ _ nam bô a di đã Phật.
Em ơi, cứ niệm nam bô như thế, ở bên em anh không thấy mệt.
Ta ngày chèo núi mà long nhẹ lâng lâng _ đã đành là tại trời phật độ trì, nhưng
cũng có lẽ tại anh tin tưởng _ tin tưởng rằg những lời khấn khứa của em ở trong
các động các hang, được Phật, trời chứng dám. Em khấn trời khấn Phật cho vợ chồng
ta được sống với nhau đến bạc đầu, dù đói khổ thế nào cũng cam. Anh tin rằng niệm
nam bô đi hết hang này động nọ không thấm mệt thì khấn trời khấn Phật cho vợ chồng
được sống bên nhau cũng được Phật trời chứng dám … Ngờ đâu, chiến tranh lại làm
cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu lứa đôi chia lìa, bao nhiêu lệ rơi
máu chảy, làm cho người xa nhà thui mất cả hy vọng được trở về nơi cố lý, uống
lại chén trà thuỷ tiên, nhìn những người than mến cũ và ngâm với người thương
khúc bạc ai!
Nam bô a di đà Phật!
Nam bô Quan thái âm Bồ tát!
Ứơc gì cứ niệm như thế mà được trời Phật chứng dám thực, thì
mình cứ niệm không ngừng để trả cho sạch nợ lưu ly, trở về phần tử một ngày _ một
ngày thôi cũng được _ để kể lại tình tương tư với người yêu bé nhỏ, uống một
chén rượu Tây Hồ với miếng cá anh vũ nướng vàng và nằm trong rừng đào Thổ biên
thuỳ nghe hoa đào rụng lả tả xuống vai các cô nàng cưỡi ngựa thồ in bong lung
linh xuống dòng suối trong như lọc.
…Nhưng đến tháng ba thì trời đất quả là kỳ ảo.
Bảo rằng tháng ấy còn rét, không đúng, mà bảo là hết rét rồi
cũng không đúng nữa.
Trời trong như ngọc, đất sạch như lâu. Ngủ dậy lúc còn tối trời,
anh ngồi uống nước trà đợi sang thì uông chưa xong ấm nước, anh bỗng thấy có những
đám mây hồng từ phía đông kéo tới giữa một nền trời xanh ngăn ngắt một mầu. Ở đằng
sau nhà, chim hót ríu ran, đánh thức những người còn đang thiêm thiếp. Anh mở cửa
nhìn ra ngoài thì lá cây sạch bong ra, long lánh như ở trong một phim ảnh mầu
tuyệt đẹp: sương móc ban đêm rửa hoa lá cỏ cây, rửa cả cát bụi trên các nẻo đường
thành phố.
Giẫm đôi giày lên trên đất mịn màng, anh cảm thấy cái mát mẻ
của đất, của sương vương trên cỏ thấm vào long anh y như thể anh đi chân không
vậy. Chim vẫn hót ríu ran. Anh nhìn lên trời cười thì những đám mấy hồng toả ra
một thứ ánh sang trắng như sữa, nhẹ như bong, tràn lan trong không khí và úp chụp
lấy các lùm cây nội cỏ. Anh tự nhủ: “Hôm nay chắc nắng to”. Anh sửa soạn một bộ
quần áo mỏng để mặc cho nhẹ nhõm và dễ chịu.
Thì quả nhiên, đến buổi trưa nắng thực, nhưng đi lên lầu ngủ
vừa dậy, anh cảm thấy có một cái gì rất lạ xảy ra. Anh nhắm mắt lại, nằm lặng
ngóng, để xem cái tiếng reo ở ngoài vườn vọng lại là tiếng gì mà đến bất thình
lình và xôn xao như vậy. Thì ra đó là tiếng reo của gió, của mây, của lá: chính
trong khi ta đương mộng về Tây Phàn với mấy cô nàng sơn cước, trời đã chuyển bất
ngờ, đương nắng thành râm, và chỉ trong khoảnh khắc, rét cuối chạp, đầu xuân đã
về trê cánh gió, giữa một khoảng trời tháng ba nắng ấm.
Cái tháng ba ở Bắc có những ngày huyền ảo như thế đấy. Nếu là
người thích ví von, anh có thể ví tháng ấy với một cô gái có sắc đẹp nghiêng
thành ngiêng nước.
Đẹp dến nghiêng nước nghiêng thành thì có quyền làm nũng như
Dương Quý Phi làm nũng vua Đường Minh Hoàng: không đau răng cũng nhăn mặt cho
them xinh, mà vì có đâu răng thực thì phải ăn trái lệ chi mà quân sĩ phải rong
ngựa đi năm sáu ngày trời mới mong kiếm được. Yêu Quý Phi quá, thì Quý Phi càng
làm nũng, mà Đường Minh Hoàng lại càng sủng ái Quý Phi hơn. Thì người Bắc đối với
tháng ba cũng vậy: yêu cái nắng ấm của tháng ba nhưng cũng yêu cái rét đột ngột
của tháng ba, mà nếu ví dụ trong tháng ấy có ngày nào nắng chói chang làm cho
“chó già le lưỡi” thì cũng cứ yêu luôn, yêu không kỳ quản. Người đẹp mà làm nững
thì lại càng đẹp hơn.
Tôi yêu tháng ba đất Bắc một phần vì thế và tôi không muốn
tin rằng cái rét tháng ba có thể làm cho “bà già chết cóng”. Tôi chỉ thích nghĩ
rằng cái rét đôi khi bất ưng trở về với tháng ba là một cái rét thơ mộng, cái
rét của một trời đầy hương và ngát hoa, trong đó có những chàng trai mặc quần đỏ
ngồi bên án sách ngâm thơ, nhưng gặp lúc ngửa nghiêng thì
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
… Giã nhà đeo bức chiếc bào,
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu…
…và những người đàn bà thủ tiết chờ chồng và than khóc mình
mình:
Nước chảy mà phiền chẳng rửa,
Cỏ có thơm mà dạ chẳng nguôi…
…Trông chàng long rượi rượi buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thuỷ không bằng thuyền.
Nàng Bân cũng thuộc vào loại chinh phụ đó.
Thương người ở bên trời, ngay từ khi giá rét bắt đầu, nàng đã
lo gửi áo rét cho chồng, nhưng…
Nàng Bân may áo cho chồng,
May ba tháng ròng mới được cửa tay,
Lạy trời cho cả heo may,
Nàng Bân chết quách đêm nay cho rồi.
May ba tháng trời mới được có một cái cửa tay, người chinh phụ
ấy hẳn là buồn quá cho nên thấy gió rét bất ưng trở về tháng ba, thương người
quan tái, không kịp có áo gửi đi, nàng cầu trời cầu phật cho nàng chết quách.
Hỡi ơi, ở đời này, vào bất cứ thời nào, lại chẳng có hang triệu
nàng Bân! Vì thế nhà thi sĩ không thể không gieo một vần đầy lệ:
Chàng bên trời, thiếp ở Ngô,
Chàng đi nhớ thiếp, thiếp mơ tới chàng.
Thư bao nhiêu, lệ bao hang,
Lạnh về, áo đến tay chàng hay chưa?
Riêng cái tên mà người ta đặt cho cái rét muộn mạng đó đã thơ
mộng lắm rồi: rét nàng Bân. Nhưng có ai đã từng rét cái rét ấy, sầu cái sầu ấy
đôi lân, tất đều nhận thức rằng cái rét ấy còn chứa đựng một cái gì đẹp như thế
hay hơn thế: đàn bà, con gái trời đã cho xinh đẹp gặp cái rét nàng Bân tự nhiên
đẹp trội hẳn lên, như thể có một chiếc đũa thần làm biến đổi cả máu huyết, màu
da, con mắt, miệng cười, tiếng nói. Từ xa, ta cảm thấy người nào cũng thơm thơm
như những nụ tầm xuân.
Vào tháng chạp, tháng giêng, tức là vào cái cữ rét đà, rét lộc,
không khí có lúc hanh hao, khô ráo làm cho má và môi người đẹp nẻ ra thành những
vết chân chim bé nhỏ. Đến cái rét này thì khác hẳn: tự nó đã đẹp và nên thơ, nó
lại còn làm cho má và môi của đàn bà con gái cũng nẻ, nhưng da không nứt rạn mà
chỉ ửng hồng lên như thể da một trái đào tơ mịn màng mơn mởn, làm cho chính Liễu
Hạ Huệ có sống lại cũng phải bắt thèm…
Cỏ cây mây nước thấy người ta, trong tháng ấy, tự nhiên đẹp rực
rỡ lên, đẹp não nùng, hình như hờn giận và cố ganh đua để cho xanh bằng người,
thắm bằng người.
Từ tháng giêng, cây cối bắt đầu nảy lộc nhưng đến tháng hai
lá non mới bắt đầu ló ra và hoa cũng bắt đầu hé mở nhuỵ thơm không còn ngậm ý,
giấu tình như trước nữa. Đó là mùa “lá bang tai trâu, sầu đâu chân chó”: trên
các cành bang, lá non hé mở và cuốn lại, chưa bung ra hết, y như thể tai trâu,
còn cây đầu đâu thì vào khoảng này cũng trổ lá non nhưng chum lại với nhau
thành một hình tròn trông giống hệt vệt chân con chó để lại trên mặt đất, sau một
đêm mưa tuyết.
Cũng như người con gái dậy thì lơn lên và đẹp không ai biết,
chỉ vào khoảng cuối tháng hai, đầu tháng ba thì là bang, lá sầu đâu nở bung ra.
Nhìn lên, lá non xanh màu cốm giót dún dẩy đu dưa một cách đa tình, làm cho người
đa cảm tưởng tượng như cây cối giơ những khăn tay bé nhỏ xanh xanh, vàng vàng
ra chào mừng,vẫy gọi…Đến cuối tháng ba, lá bang sum sê che kín cả đường đi học.
Dọc theo con song đào chạy ngang cách thôn xóm ở Vụ Bản, Hải Hậu…những cây bang
đứng soi bong xuống song đào chạy dài tít tắp hang chục cây số trông như thể một
cái tàn bất tuyệt không lồ. Đứng ở dưới nhìn lên, mình cảm thấy đứng ở trong một
cái hang kết bằng lá non và không thể không nhớ lại lúc nhỏ còn đi học, sân nhà
trường chi chit gốc bàng…
Đó là những cây bang nguyên giống, chớ không lai căng như những
cây bang mà ta thấy ơởđây, mọc cao vun vút và tua tủa lên trời. Bàng chính thống
cao lên chừng hai sải tay thì lá xoè ra như cái tán, kiểu cây ấy dung để nhuộm
hang thì hang đen không chịu được. Nhưng cái tuổi lên chính, lên mười đâu có
them biết nhuộm là gì. Sự mê thích của đứa trẻ nổi tiếng phá phách là tôi hồi ấy,
mỗi khi tới mùa bang, là trèo lên cây đi tìm tổ chim bạc má vì giống chim này
ưa làm tổ trong những cái lá bang cuốn lại và lấy dãi làm chỉ “khâu” hai đầu nối
lá lại với nhau.
Trong khi đi bắt tổ chim như thế, các cậu bé thỉnh thoảng lại
với được một cái sâu kèn thì sướng như điên. Lấy que đẩy con sâu ở trong tổ nó
ra bóp giật một đầu lại, phùng mang trợn mắt lên thổi toe một tiếng, anh cảm thấy
mình là một tên tướng thổi kèn hiệu xuất quân. Anh chạy khắp nhà, thổi ầm cả
lên, ăn không biết bao nhiêu chổi long gà vào đít, nhưng có sâu kèn trong túi,
không dung không chịu được, anh lại toe vài tiếng nữa…Chết thì thôi. Cai tuổi ấy
đâu có ngán đòn, ngán chửi!
Bị đánh lắm thì phản đối cha mẹ một cách tiêu cực, móc túi ra
lấy một vốc quả bang để ăn. Bàng, ngon nhất là bang quế, hột đỏ như son, thơm
có khi còn hơn cả đào: đào để gần mình mới thấy thơm chớ vớ được một trái bang
quế thì, nói thực, để cách xa mình cả một sải tay, đã ngửi thấy mùi thơm phưng
phức!
Nếu không kiếm được bang quế, cố mầy mò, thám thính vớ được
trái bang đực ăn cũng mê ly hết sức: bang cái nhiều hơn và mọc từng chum, chớ
bang đực thì có cái phong thái đặc biệt “anh hùng độc lập” đứng một mình một chỗ,
không them kéo bè kéo đảng với ai. Bàng được có trái to bằng nắm tay đứa trẻ.
Những người không sành thường nghĩ bang ăn chát. Thực ra, vớ
được một quả bang đực, nhất là bang quế, cắn một cái ngập răng, nhai thủng thỉnh,
còn ngọt hơn cả cam hay táo. Nếu ăn hết một trái mà anh thấy còn them thì lấy
hòn đá đập cái hột ra; anh sẽ có một cái nhân bùi như tram; và có nhiều, đem đồ
xôi trước cúng cụ, sau ăn thì tuyệt.
Có người bảo cây đa cây đề là cây tiêu biểu của nước ta.
Riêng tôi thấy cây bang là thứ cây đặc biệt nhất: cành lá đã sum suê, đứng xa
trông về lại đẹp; mặt khác, cả cái cây từ lá cho đến rễ, từ búp cho đến cành đều
dung được việc, không có một cái gì bỏ phí.
Còn cây sầu đâu? Cây sầu đâu cũng vậy. Lá, đưa ngâm ngoài ruộng
xâm xấp nước cho ải rồi đem bón nhất định là hơn hẳn phân hoá học, còn than cây
cố chăm nom cho thẳng, dăm bảy năm hạ xuống làm cột nhà, bong cứ lộng lên mà mối
chỉ còn cách trông mà khóc vì không thể nào đ*.c nổi! Thế nhưng tại sao người
ta không gọi sầu đâu là xoan ta, lại kêu bằng một cái tên buồn như thế? Phải
chăng là tại vì cây này trong héo ngoài tươi, tượng trưng cho những người đẹp u
buồn, ngoài miệng thì cười mà thực ra hang bữa vẫn chan cơm bằng nước mắt?
Cũng vào khoảng cuối tháng ba, các cây sầu đâu mọc ở các vùng
quê Bắc Kỳ đâm hoa và người ta thấy hoa sầu đâu nở như cười. Hoa nhỏ bé, lấm tấm
mấy chấm đen, nở từng chum, đu đưa như đưa võng mỗi khi có gió. Có người cho
hoa đó là một thứ hoa không vương giả như hoa đào, phong lan, mai mận…Nhưng các
cụ thực biết thưởng hoa lại quả quyết không có một loài hoa nào thơm một cách
chân thật, quê mùa như thế. Bây giờ nhắc đến loại hoa này, tôi vẫn còn nhớ in
những buổi chiều vàng đi thơ thẩn về miền quê, bong lạc bước tới một vùng cát
trắng ở Xuân Trường, Hải Hậu, ở Phố Cát, Lương Đường, ở Bình Thuỷ, Mai Động…san
sát những căn nhà nhỏ bé xanh um cây cối, trắng xoá tường vôi, mà nhà nào cũng
có vái gốc sầu đâu vượt lên như ngạo nghễ khoe với trời cao ngất ngất những
chùm bong phơn phớt màu hoa cà êm êm.
Hỡi ơi du khách đa xuân tứ! Tôi đố anh nhìn thấy những cái
cây mảnh mai yểu điệu mang từng chùm hoa diễm kiều như thế mà lại không dừng
chân đứng lại! Tự nhiên anh thấy tim anh nhoi nhói.
Ở đời thỉnh thoảng ta lại có cảm giác như thế mỗi khi sung sướng
quá, mỗi khi yêu nhiều quá. Yêu hoa sầu đâu không để vào đâu cho hết, nhớ hoa sầu
đâu ở quê hương ta không biết mấy mươi! Người mắc bệnh lưu lý đã xa cách phần tử
mấy chục năm rồi mà lạ thay sao cứ đến tháng ba, nhớ đến sầu đâu mình vẫn cảm
như còn thấy thoang thoảng đâu đây một mùi thơm mát mẻ, dịu dàng, mát mẻ còn
hơn cả hương cau, mà dịu dàng có khi hơn cả mùi thơm hoa mộc! Mùi thơm huyền diệu
đó hoà với mùi của đất ruộng vấy vỡ ra, mùi đậu giã mà người nông phu đi hái về
đem về phơi nắng, mùi mạ non lên sớm xanh màu hoa lý và đẹp như những bức tranh
lập thể, mùi khoai sắn, mùi rau cần ở các ruộng xâm xấp nước đưa lên … bao
nhiêu thứ đó, bấy nhiêu thương yêu…có phải đã có một lúc anh cảm thấy như ngây
ngất, như nhức đầu, như say một thứ men gì phải không?
Anh cứ muốn lạc bước đi như thế mãi để uống cái hương thơm của
quê hương vào tận tâm can tì phế. Ấy đó, người Việt trầm lặng như thế đó, có cần
gì phải tìm những thú vui đắt tiền – mà ví có tiền thật nhiều đi nữa, chắc gì mỗi
lúc đã mua được để mà thụ hưởng? Chúng ta tự hào về điểm đó cũng như ta tự hào
ăn không cần no mà cũng chẳng phải nghiên cứu xem có đủ sinh tố trong các món
ăn không; ở đây cần binđinh mà cũng chẳng cần phodiđe hay máy điều hoà không
khí, chỉ làm cho người ta dễ bịnh; mặc không cần thời trang gì hết, cốt sao che
được than mình cho khỏi nóng lạnh mà miễn sao cho vải vóc bền thì thôi, cần gì
tơ bong, cần gì xoa nhưng, cần gì lụa Thái Lan ahy catê của Mỹ! Người Việt Nam
chỉ cần có một điều là yêu thương mọi người và không muốn cho ai ghét như bệnh
dịch. Một lời chào hỏi đậm đà; một miệng cười niềm nở; một bữa cơm thanh đạm dọn
vội vàng để mời người khách phương xa ăn đỡ long: quý hoá biết bao nhiêu, tình
tứ biết bao nhiêu, thương cảm biết bao nhiêu, cần gì phải mâm cao cỗ đầy, cần
gì phải rượu ngoại quốc ngon, chiêu đãi viên đẹp, cần gì phải theo răm rắp nghi
lễ giả dối, đen bảo là trằng, xấu bảo là tốt, dở bảo là ngon.
Có ai đã từng dự những bữa tiệc ở những nhà hang cao mười tầng
lấu, nuốt một cách khó khăn những món casulee giá hang ngàn một đĩa, ăn những
bánh ngọt đầy tú hụ hạnh nhân, đường, săngti và mứt…tất cả đã thấy rằng nhiều
khi ăn một bát phở xe đậu ban đêm ở ngoài đường lại ngon hơn, uống một chén nước
trà tươi thật nóng, rít một hơi thuốc lào thật say lại thú hơn rồi nhẩn nha thưởng
thức một đĩa bánh chay hay nhấm nhót mấy cái bánh trôi lại làm thoả mãn ông thần
khẩu hơn.
Giữa bầu không khí thơm ngát hương sầu đâu ấy, anh thử bảo
người nhà hái về mấy ngọn rau cần đầu mùa, nấu một bát canh với tôm he mà ăn với
chén cơm gạo vàng xem có phải anh thấy đúng in những cảm giác đó không? Rau cần
là một thứ rau rẻ tiền cấy trong ao, cứ đến giữa tháng ba thì tốt lá, dài rễ,
nhổ lên ăn ngay thì ngọt lừ, khó có thứ rau nào sánh kịp. Nếu nấu canh mãi
chán, anh có thể xào rau cần với huyết heo bóp nhỏ, hay muốn cầu kỳ hơn một
chút thì xào với long heo, thịt bò. Rau cần, với cải bắp cho một tí rau răm
vào, muối xổi, lấy ra ăn với thịt đông hay kho tầu, nó lạ miệng và có khi thú
hơn cả dưa cải nữa…Nhưng ăn cháo ám mà không có rau cần thì…hỏng, y như thể là
vào một khoảng vườn mà không có hoa, đi trong mùa xuân mà không thấy bướm.
Tháng ba mà không có những ao rau cần xanh ngăn ngắt, tươi
hơn hớn không phải là tháng ba Bắc Việt.
Gió xuân mơn cánh hoa đào,
Mưa xuân phấp phới trên ao rau cần.
Ấy, đất nước này chỉ đẹp giản dị thế thôi, hiền lành thế
thôi, ai muốn nói thế nào thì nói chớ dân nước chúng tôi vẫn nhận là đẹp nhất
thế giới, đáng yêu nhất trần hoàn. Đố ai chê được! Đố ai cướp được!
Cha truyền con nối, đời nọ qua đời kia đã truyền cho nhau nên
từ đứa bé mới ra đời cho đến lão bà sắp chết, ai cũng lưu luyến quê hương và
không nói ra lời mà ai cũng cảm thong cái đẹp mộc mạc, thần tiên đó. Càng đẹp
hơn nữa là những ngày tháng ba làng nào cũng có hội hè đình đám, đèn chăng lá kết
rợp trời, hương án, quạt cờ la liệt. Đó là mùa tế thần, tế thánh, mùa rước kiệu
của cả Phật giáo lẫn Công giáo, mùa đánh cờ người, cờ bỏi, mùa rước sắc, mùa chọi
gà, chọi cá, nhưng quyến rũ nhất và đặc biệt nhất là những cuộc đấu vật ở Hà Lạng,
Trà Lũ, Hoành Nha, Mai Động…
Bây giờ, ngồi trong nhà xinê chật hẹp ở cái xứ sở đáng yêu bốn
mùa nắng chói , xem những tay “sumô” đấu “păng tờ rát” bẻ đầu, bẻ cổ, bẻ chân,
bẻ tay nhau oanh oách, tôi thích mơ về một thửơ thanh bình xưa cũ, cứ vào khoảng
tháng ba thì lại đội một cái mũ dạ bẻ cụp, mặc “tờ reng cốt” hút thuốc lá “com
măng đơ” đi về Mai Động xem thi vật.
Cái lối vật này đâu có dữ dội như lối vật tai ác quái quỷ của
các võ sĩ mà ta thấy trên màn bạc vào cái lớp phim gọi là thời sự, dưới mục đề
“thể thao”. Các đô tranh giải không to béo như trâu trương, người nhung nhúc thịt
là thịt, nhưng to lớn, trượng phu, cổ to, bắp thịt nổi cùng mình, đứng bái tổ
mà người ta ngỡ là thần Dớt xuống trần hay Hách Cưu sống lại.
Bây giờ ngồi nghĩ lại những tay đô ấy, thực quả tôi không biết
bắt đầu từ đâu và nói thế nào cho hết được cái mê say, cảm phục của tôi hồi đó.
Tôi chỉ biết rằng nếu tôi nhắm mắt lại, đến tận bây giờ, tôi vẫn còn mượng tượng
được cái màu da đỏ như táo Tàu của họ, những bắp thịt ở tay lúc thường mà chạy
đi chạy lại như con chuột và cái bụng lép kẹp cũng có những bắp thịt chạy dọc
chạy ngang. Tôi nhớ một tay đô nhất, vô địch Hải Hậu, Xuân Trường, Giao Thuỷ…tên
là Cả Thuyền biểu diễn sơ sơ mà bóp nát cả một cái giàn làm bằng những ống luồng
to như cái chĩnh muối cà; tôi nhớ Ba Xuông doạ người đứng xem, móc mười ngón
chân xuống mà xúc được một đống đất thó rắn như đá tung lên trời; và tôi nhớ cả
nữ đô Tô Thị Hằng vật nhau một buổi với chin đô đần ông bằng những phép “cuốn
chỉ”, ”ra vàng”, ”vào tay tư”, “bắt bò” biến hoá như thần mà đến lúc lĩnh giải
vẫn cười nói thong thả như một người mới đi chơi mát về.
Ôi, tháng bà đầm ấm ngày xưa, tháng ba tươi tốt, người đã tịt
mù tăm tích! Biết bao giờ ta lại còn nghe thấy tiếng trống giục các đô vào trận,
biết bao giờ ta lại được trong thấy những tay vật nhà nghề bắt bò thần tốc,
khoá chân tay nhau rồi vật chổng chân lên trời! Ta vốn ghét những kẻ võ biền, hạ
nhau tàn ác’ ta ghét “păng cờ mát”, quyền Anh, nhưng thú thực đến cái vật của
Việt Nam thì ta phải nhận là thượng võ chính cống; là thi tài nhưng không hung
ác, điên rồ; là tiêu biểu được hết cả tính của dân ta, phàm thấy ai đã ngã thì
thôi không đánh nữa, trái lại, lại còn đến gần, chắp tay xá mà nân dậy.
Ở Bắc Việt, tháng ba có Tết Hàn thực kiêng dung lửa, chỉ ăn
ròng đồ lạnh, ngoài ra lại còn biết bao nhiêu hội hè, mà hội hè nào cũng ý vị,
mà cũng nên thơ, mà cũng hấp dẫn người ta như thế, thì bảo làm sao, xa nơi phần
tử lâu ngày, người mắc bệnh tương tư kinh niên lại không thương không nhớ và
không muốn nhờ én nhạn gửi về cho xứ sở, vợ con một ít nỗi niềm đau xót?
Đau xót nhất là không biết vợ con bây giờ ra thế nào? Từ ngày
chia rẽ mối tơ thì ra sao?
Đã cay đắng nhiều đường rộn rã.
Lại nhục nhằn đến cả vợ con.
Mấy năm chút nghĩa ôn tồn
Giao đào trả mận long còn bang khuâng.
Đường kia nọ, nửa chừng bề bộn
Nỗi trước sau, trăm món ngổn ngang,
Mắt kia thác cũng còn giương,
Hồn kia muốn đứt, còn vương nỗi này.
Có một lúc có tin đồn ở Vĩnh Phúc, mấy tháng sau lại thấy nói
đã lên ở thành Tuyên. Tuyên thành! Chẳng pháo đó là nơi chúng ta đã cùng theo
khàng chiến lên ở một dạo hay sao?
Em ơi, em ơi, nhắc lại như thế thì nhớ quá. Nhớ cũng đúng vào
cữ tháng ba như thế này, vạn năm đã xa xôi, chúng ta cùng nhịn đói đi xem tung
còn mà bụng thấy no, phải không Quỳ?
Dăm cô con gái chưa chồng,
Hội tung còn đến, thấy lòng nao nao
Các cô gái chưa chồng thấy lòng nao nao, nhưng chúng ta thì
thấy lòng rộn rã còn vui hơn cả trai thanh gái lịch người THái vận đủ các thứ
quần áo mới, mang đủ các màu chói lọi trên người, đi tung còn để bói quẻ đầu
năm.
Thức ra, từ tháng giêng trở đi, ở miền thượng du, trai gái người
Thái đã bắt đầu đi tung còn rồi; nhưng vui nhất là tháng ba vì lúc đó là mùa
“hoa bướm” đổ xuống bờ cỏ bụi cây, trai gái kéo nhau đi tung còn, hoa bướm rơi
xuống đầy vai, đầy đầu, trông xa xa như thể trời rắc “côngpheti” xuống mặt đất
để chia sẻ nỗi vui của lớp người trẻ tuổi yêu nhau.
Đứng xem trai gái tung những quả còn tròn bọc vải ngũ sắc có
đính cái đuôi dài lên những cái vòng tròn cạp giấy hồng điều, thấy họ rướn người,
giơ tay lên trời, anh còn nhớ chính em đã nói “trông họ đẹp như tiên vậy”.
Hội tung còn của đồng bào Thượng là một hội để cho trai thanh
gái lịch gặp nhau, nói lên sự yêu thương, để cho anh con trai tỏ tình với cô
gái và để cho cô con gái khoe sắc khoe tài với cậu con trai, nhưng thực ra nó
là một cuộc bói – bói nhân duyên. Cô nào mà tung còn được trúng vòng nhiều thì
sẽ gặp may, tốt mày xanh tóc, cặp nào tung còn được điểm nhiều thì năm ấy sẽ được
đẹp lứa vừa đôi. Tất cả, đó là một cuộc bói như đầu năm ta bói tuồng hay bói Kiều
và có một vài cô người Thái, da trắng như trứng gà bóc, mình đẹp như tượng Vệ nữ
thần, quả quyết rằng bói như thế trúng lắm, trăm lần hoạ chỉ sai có một hai.
Ở Tuyên thành, bây giờ em có lần nào trở lại xem hội tung còn
ngày trước nữa không? Phải chi én nhạn biết nói tiếng người như trong truyện thần
tiên, thể nào ta cũng cậy chin, cậy cá nói nhỏ vào tai người yêu một câu thương
nhớ và xin với nàng ghi dạ đừng quên:
- Người yêu ơi! Nếu có dịp xem hội tung còn, em nhớ khâu còn
và cũng tung thử vài hội xem sao nhé. Tung thử để bói xem trời để cứ mông mênh
thế này thì đôi ta biết có còn giữ được mối tình tư quy lúc bẻ cành liều ở chân
gò Mả Đỏ?
Chẳng biết ăn cái trứng nhạn vào thì có mát long mát dạ được
tí nào chẳng, chớ thật tình ở miền Nam yêu quý, sang đến cái tháng tư này trời
nóng quá, ăn gì vào miệng cũng không ngon.
Anh cứ thử tưởng tượng một con lộ dài như đường Công Lý chẳng
hạn, chạy từ Chợ cũ cho đến Tân Sơn Nhứt, sơ sơ cũng mươi cây số dài, vậy mà chỉ
có vài chỗ có ba cái cây cho ta bong mát còn thì toàn là nắng, nắng suốt ngày,
nắng như điên, thế mà anh lại lên cơn yêu Sài Gòn muốn đi nhởn nha ngắm cảnh
thì khỏi phải ước đoán, lúc về, nếu không thành lợn quay ít ra anh cũng
“trúng”, phải cạo gió rồi uống Càn khôn tán, Căn cơ tán vài ba phong là xoàng.
Miền Nam mến thương ơi, thương mến miền Nam thì lúc nào cũng
có thữa, nhưng muốn tìm những lý lẽ độc đáo để khen cái nắng chói chang ấy thì
quả thực không thể nào khen nổi. Ấy là tại vì nắng khổ đến thế nào cũng vấn cứ
chịu được đi, nếu mình không dư tiền để đi nghỉ mát Vũng Tàu, Long Hải; nhưng bực
nhất là có hôm đang nóng vỡ đầu như thế thì trời lại giáng một trận mưa đột ngột
làm cho nhiều khi không kịp tìm một nơi ẩn trú, cứ phải đi đại ngoài đường như
một triết nhân, mặt mũi tèm nhem, quần áo lướt thướt, mà về đến nhà thì sổ mũi
nhức đầu, ơn ớn lạnh nơi xương sống. Cái bịnh tê thấp chẳng biết có phải một phần
phát sinh vì mưa nắng thất thường, vì khí hậu ở đây nóng ghê náng gớm mà bên
trong thì lại ẩm thấp chẳng? Mình vào ở đây thấy tê thấp nhiều quá cũng đâm ra
trợn, ăn thức gì cũng phải nghe ngóng xem sao, mặc dầu ai cũng biết miền Nam
yêu quý còn món ăn đem lại cho người viễn khách những hương vị tân kỳ độc đáo.
Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn còng,
Về ruộng ăn cá, về đồng ăn cua.
Cua cá nhiều, hình như cũng chẳng lợi lắm cho người tê thấp
cho nên người Bắc sành ăn vào đây chỉ mơ ước có một thứ trứng nhạn mà thôi.
Nhưng mơ là một chuyện mà được ăn lại là chuyện khác, có phải người nào muốn ăn
cũng được ăn đâu. Đó là vì vào tháng tư, ở miền Nam, tại các đảo ven bờ biển
trong vịnh Thái Lan có những khu rừng sác trù mật mà các loài chim biển thường
về làm tổ và sinh con đẻ cái. Đó là mùa chim nhạn đẻ trứng…
Tháng tư cơm gói ra Hòn
Muốn ăn trứng nhạn phải lòn Hang Mai.
Đồn rằng ăn cái trứng nhạn này mát ruột mà lạnh hạ đờm mà lại
thong tiểu tiện nên nhiều người vào đây ao ước lắm, nhưng vì không thuận tiện
trong sự giao thong một mặt, lại không thể lòn Hang Mai mặt khác, nên đành cứ
phải sống nhăn ở thủ đô ăn cơm gạo Mỹ hột tròn chin trăm đồng một tạ và uống rượu
với xoài xanh hay mận rồi nằm gối đầu tay không nhìn én nhạn bay qua như Cao Bá
Nhạ mà lại nhìn sang cái mái tôn nhà hang xóm suốt ngày vặn rađiô nhức óc và
dăm thì mười hoạ mới thấy trời, khi nào Mỹ thả hoả châu trong đêm tím.
Không. Nói thế mà thôi, chớ anh nào nghiện trái cây thì ở đây
cũng thú vị, anh có thể an xoài xả láng – mà đủ các loại: xoài cát, xoài tượng,
xoài ang ca, xoài roi; để các thứ; xoài chin cây, xoài nhuộm, xoài ngâm khá đá
– ăn mận kỳ thích thì thôi. Thêm nữa, lơtuma ăn ngon như bở mặc dầu hơi bí và
nghẹn cổ nếu ta ăn hơi hấp tấp; vú sữa từ giêng hai đến tháng này vẫn còn đầy rẫy
trong chợ, bên lề đường; anh làm bà ly nhậu với các thứ đó và nhìn ra trời nắng
chói chang, lấy tay bóp lấy đầu nhức quá và ngâm một bài “Bạch Tuyết thi”, ấy
thế mà cũng có lúc tưởng mình là một thứ tiên ở hạ giới rồi.
Ấy là nói những lúc anh cao hứng vì có rượu nó “đưa” đi, mình
cảm thấy hung hồn phấn khởi. Về nhà, lăn ra giường ngủ một giấc thật dài, đến
khi tỉnh dậy thì thấy trăng chiếu vào giường. Anh nhớ lại bài thơ cũ:
Thấy trăng chiếu đầu giường,
Tưởng mặt đất mờ sương,
Ngửng đầu nhìn trăng sang,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Anh nhớ cố hương không phải là không có cớ. Vào cữ này, ở Bắc
Việt, trời cũng bắt đầu nóng, nhưng không nóng như thế này. Cái nóng ở Bắc cũng
làm cho rôm sảy nó đốt người ta một cách khó chịu, nhưng đương đi ngoài nắng mà
vào chỗ râm thì da thịt ta cảm thấy bình thường ngay, chớ không điên cuồng, rồ
dại lên. Anh muốn tắm, và tắm thì thấy mát da mát thịt liền. Ở đây, có khác:
anh đương nóng, nghĩ bụng về đến nhà phải tắm liền, nhưng vừa cởi quần áo anh
thấy sởn gai ốc, và có khi suy đi nghĩ lại một chút, có người ngại mà thôi
không tắm nữa, đợi đến hôm sau cũng được.
Nói về mấy cái thú ở đời, có nhà thi sĩ đã cho cái tắm là một
cái thú ngang với cái thú đi chơi những vùng đất đẹp mùa xuân, cái thú uống rượu
hoàng hoa mùa thu và cái thú ngâm thơ Bạch Tuyết mùa đông. Người tỉnh rượu lúc
canh tà, nhìn trăng rồi cúi đầu nhớ cố hương, lúc ấy them cái thú tắm suối của
một ngày xa xôi ở xứ Mường vùng Việt Bắc, them không biết thế nào mà nói.
Đó là những ngày tay chống gậy, vai mang ba lô, anh lang
thang trên các nẻo đường đất nước để sống cái đời lý tưởng: vừa hôm qua mới ở Đọi
Đệp ngủ trên mặt đất lạnh, ăn tô phở vịt thì chiều hôm sau đã ở trên đỉnh núi
vùng Hoàng Su Phò với một gia đình Mèo; sớm ngày vừa thấy ở trong một thung
lũng Ngũ Châu thì chiều tối đã ngồi hút thuốc vặt ở Thường Sơn, Cẩm Thuỷ.
Làm sao mà quên cho được những ngày sống từ Hoà Bình đến Ngũ
Châu, Lang Chính, Quảng Hoả, Bái Thượng, Ngọc Lạc…Vào cái khoảng tháng từ này
đây, trời bắt đầu nóng, ngày nào mình cũng đi tắm suối ở xứ Mường và cho đến
nay vẫn còn ghi ở trong long biết bao nhiêu kỷ niệm xanh một màu núi tím, nước
xanh. Cứ vào giờ ngọ, trai gái dắt nhau đi tắm, máng nước bắc từ trên đỉnh núi
xuống. Con gái Mường, con trai Kinh vẫy vùng trong những vũng nước ở chân núi,
trông xa y như thể là thần tiên cổ Hy Lạp tả trong tập “Tiếng hái nàng Bilitis”
của Pierre Louys: nước thì xanh, nùi thì tím, hoa trên sường núi đỏ màu cánh
sen mà các cô nàng thoát y lại trăng như ngó sen, tọc rủ xuống lưng, đen như mực
tàu…Người con trai Kinh lạc loài vào giữa các tiên nữ ấy, thoạt đầu thấy ngượng
ngùng, nhưng sau quen đi cảm thấy ghiền tắm suối và không ngại đùa giỡn và té
nước vào các cô nàng vây lấy anh ta như trong một hội hoa đăng trên thượng giới.
Ông thi sĩ nào đó từng đề cao cái thú tắm Lục Hà Trì mùa hạ
không biết có được hưởng thụ cái sướng tê người của anh chàng văn nghệ Bắc Việt
không, chứ tắm như thế đó ai mà không nghiện.
Muốn cách gì, cứ đến trưa là phải lo sửa soạn đi tắm rồi,
không thế thì không chịu được: Tắm như thế không phải là tắm cho cái than thể tục
tằn này mà là tắm luôn cho cả đôi mắt, tắm nốt cả cái tâm hồn phiền toái của
mình vì vừa tắm, vừa ba lơn, vừa trò chuyện, mình mới thấy cô gái Mường đáng
yêu biết chừng nào, chân thực biết chừng nào.
Bất cứ cái gì cũng làm cho cô sung sướng và cười lăn cười lộn:
một miếng xà phòng, vật thử có là bao, nhưng đem cắt từng miếng nhỏ bằng ngón
tay biếu mỗi cô một miếng thì đã là cả một trời hạnh phúc.
Cố nào cũng muốn tắm cho anh và cô nào cũng có một đôi ba điều
để chỉ bảo cho anh biết: chỉ có người Mường tắm thế này thôi, chớ người Mán
không có tắm nhiều, còn người Thái ở trên đỉnh núi cao từ thuở bé đến già không
có nghĩa gì, mà cả cái phép tắm bằng sữa, tắm bang đầu thơm của các ông hoàng
bà chứa hiện nay không nước mẹ gì so với các cô nàng cao cấp người Mường ngày
trước: đi tắm, các cô có chừng mười, mười lăm nữ tì đi theo, kẻ mang quần áo,
người mang gương lược. Cái suối tắm được vây kín lại. Tắm xong thị nữ đưa cô
nàng vào một nhà mát dựng lên gần đó, đặt lên một cái ghế cao bằng trúc mà chỗ
ngồi có đục sẵn những lô thong hơi. Trong khi kẻ chải đàu, người xoa nắn, một
vài thị nữ khác đã sửa soạn sẵn một lư hương cổ đặt ở dưới ghế; trong lư hương,
có đốt trầm, rễ nhang bài và nhiều thứ hoa thơm khác phơi khô, tất cả cháy riu
riu, âm ỉ, đủ cho một ngọn khói nhẹ nhàng bốc lên, lọt qua ghế trúc để thấm nhuần
vào da thịt, vào long, vào tóc của cô nàng.
…Ngày nào tắm, cũng cứ phải đủ nghi thức ấy. Lần lần, toàn thể
da thịt, long tóc của cô nàng thành ra một thứ trầm hương thự thụ đến nỗi không
cần phải “thực thi”, chỉ nghĩ thôi, mình cũng đã thấy người đẹp trầm xông xạ ướp
đó mát rời rợi đến chừng nào và bất cứ ngửi vào đâu cũng thơm biết ngần nào…
Nghĩ đến thế, không tài nào ngủ được, mà lại càng thấy người
mình dã nóng, long ruột mình lại càng nóng them lên. Bao nhiêu chuyện xa xưa vớ
vẩn ở đâu kéo lại, giăng tơ trong óc mình như mạng nhện.
Phải rồi, vào mùa này đây, hoa gạo bắt đầu nở đỏ chói ở ven hồ
Hoàn Kiếm, rơi xuống nước xanh, rụng xuống cỏ xanh, ve sầu lột cánh đã kêu rền
rền vào buổi trưa; và cứ chiều chiều dân Hà Nội kéo nhau đu dạo quanh hồ, trải
chiếu lên cỏ hay dắt nhau đứng giữa cầu Thê Húc nhìn ra những phố Pônbe, Tràng
Tiền hay Hàng Đào, Ngõ Hồ, Cầu Gỗ lập loè nghìn vạn con mắt điện màu sang chói.
Tháng tư đầu mùa hạ.
Tiết trời thật oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha
Đàn muỗi bay tơi tả
Nỗi ấy tỏ cùng ai.
Tình này buồn cả dạ!
Mấy câu thơ ấy, học thuộc lòng khi còn nhỏ bé ở một ngôi trường
trăng giữa phố Hàng Vôi – Không biết có phải của cụ Bảng Mộng không nhỉ, chẳng
hiểu tại sao đêm nay lại đến với tôi? Mà tại sao có lúc tôi quên phứt mất rồi,
mà đêm nay tự nhiên lại nhớ rành mạch khong quên một chữ?
Nhớ đến như thế, tức là nhớ lại cả một thiếu thời lúc còn mặc
cái áo maga đi học, vừa đi vừa tung chiếc giày do Đức Mậu lên trời vì đi giày
nóng chân quá, giẫm đất nó thảnh thơi, mát mẻ hơn. Ồ, “tiết trời thật oi ả”
nhưng tại sao chỉ vì thấy “tiếng dế kêu thiết tha” và “đàn muỗi bay tơi tả” mà
cụ Bảng “buồn cả dạ” và không biết “tỏ nỗi ấy cùng ai”?
Đến bây giờ nằm nghĩ lại một cách thong mình, thấu đáo, tôi
thấy không vô lý gì hơn, vì nhớ đến “tháng tư đầu mùa hạ”, tôi không thấy buồn
một chút nào.
Tháng tư của miền Bắc ngày xưa, tháng tư yêu dấu có nóng, có
oi, có dế kêu, có muỗi đốt nhưng tất cả những cái đó có thấm vào đâu với những
buổi bình minh nạm vàng, mở mắt ra nhìn lên cao thì thấy mây bay thong thả như
trời khảm bằng xà cừ, gió hây hây mát, mở cửa đi ra đường thì cảm thấy cả trời
đất trong như là pha lê mà cái than mình nhẹ tênh tênh như là có cánh.
Anh có thể đi dạo như thế chừng nửa tiếng đồng hồ rồi mới về
tắm rửa và làm công chuyện. Đời ngọt ngào trầm lặng và thong thả. Chứng chín mười
giờ, nắng hoe lên, trời bắt đầu nong nóng, nhưng đời sống trầm lặng không làm
cho anh đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Vừa làm việc, anh vẫn có thì giờ pha một ấm nước
trà tàu để nhắp giọng cho đỡ khát nước cả ngày. Anh có thì giờ trò chuyện tâm
tình với các bạn quen và nếu anh mệt, tôi mời anh làm như tôi khi còn nhỏ, bắc
một cái chõng tre, tìm một chỗ mát nhất trong nhà, ngửa mặt nhìn lên trời xem mấy
bay, ăn củ khoai lang vàng đầy nhựa rồi thiu thiu nhủ lúc nào không biết…
Êm ái thay những giấc ngủ sang tháng tư có gió mát đem lại
cho ta những giấc mộng thiên thần. Cứ nghĩ rằng người ta ở đời chịu bao nhiêu
khổ luỵ, lo bao nhiêu thứ “bà rằn”, trải bao nhiêu nỗi buồn thương vô nghiac, rồi
rút cục lại làm nên thiên tứ đỉnh chung, giàu thiên ức vạn tải, buông xuôi hai
tay xuống cũng là hết, hết cả, không hơn gì một anh nghèo rớt mùng tơi không có
tấc đất cắm dùi, không có cả vợ cả con để chia lo sẻ buồn…thì mình lại càng thấy
hưởng được phút nào nhàn nhã, sống được phút nào thong thả với nội tâm mình, tức
là được lãi…
Cái người đàn ông Bắc Việt lắm khi lạc hậu đến như thế đấy. Mà
không những lạc hậu, lắm khi lại điên khùng: nằm đâu mà mơ ước tận đâu, ở thung
lũng thì mơ trèo lên nùi ngắt một bong hoa mà đương ở biển thì lại mong lên rừng
xanh, bẻ đôi cành, hái một quả sim chin vừa ăn vừa nghe tiếng chim kêu vượn
hót.
Tôi cũng thế: nằm ở đây, tôi nhớ tháng tư ở Bắc Việt xưa cũ
không biết ngần nào và trong những giấc mộng thiên thần, đố ai tưởng tượng được
long tôi bang hoàng đến chừng nào khi thấy mình còn là đứa trẻ lên năm lên sáu,
đi ra ven hồ, tìm đến các bãi cỏ, dưới các gốc cây để đái vào những cái lỗ con
con bắt dế, vì mùa này là mùa dế sắp chui ra, leo lên cây để lột xác thành những
con ve sầu. Có khi đi như thế một mình, có khi đi với vài chúng bạn. Cả mấy đứa
mang theo một cái ống bơ, nếu đái vào lỗ mà chưa đủ cho dế phải ngột mà bò lên
thì chúng tôi lấy ống bơ ra nằm xuống bãi cỏ ở vệ hồ, thò tay xuống múc nước đổ
vào lỗ dế. Chừng mười hai giờ, trời bắt đầu nắng to. Mệt quá, tìm một cái bong
mát dưới một cây cao nào nằm khểnh, nhìn ra những bãi cỏ chung quanh xem những
cái “búp đa” màu vàng ố rơi xuống cỏ rồi nhặt lấy thi nhau thổi, hoặc tìm những
quả đa rụng, lấy tay khía vỏ xanh ra đến cái thịt đỏ lấy con dao nhỏ khắc cái mắt,
cái mũi thành những cái mặt nạ Quan Vân Trường, Lữ Bố hay Lưu Bị…
Không một ngày nào, tôi không bị mẹ đánh và giam như tên tử
tù ở trong nhà. Những ngày như thế, tôi thường hay mắc võng vào hai cây nhãn ở
sau vường nằm ngủ, mơ những cuộc giang hồ vặt ở con đường Hàng Vôi sau nhà Máy
Đèn chi chit những cây nhột để bắn sáo sậu và chim khuyên; mơ những buổi lãng
du trên cầu Bồ Đề sang bên Gia Lâm, Gia Quất; và mơ những buổi sang đi tha thẩn
lên Cột Cờ, gần trại lính, cầm một cái đinh chọc vào cây đa lấy nhựa để sang ngồi
ở đài “Chiến sỹ trận vong” vê lại thành quả bong. Cứ mơ như thế rồi thiu thiu
ngủ lúc nào không biết để đến khi thức dậy thì nghe thấy tiếng ve sầu kêu rền rền
ở chung quanh nhà.
Tôi không hiểu tại sao có người lại không chịu được tiếng ve
kêu và cho là đinh tai nhức óc. Riêng tôi, cứ đến đầu mùa hạ, thấy tiếng ve kêu
rền rền trên các cay me, cây sấu, cây xoan, cây gạo, tôi cảm thấy một cái thú
khác thường của một người nằm mơ mơ màng màng sắp ngủ mà có một gian nhạc tuyệt
vời từ trên trời tấu cho mình nghe một bản nhạc kỳ diệu không thể được thưởng
thức hai lần trong một năm.
Nắng mới tháng tư thường làm cho người ta mỏi mệt vào buổi
trưa. Thành phố Hà Nội im ắng tiếng người, tiếng xe: anh châm một điếu thuốc
lá, cầm tờ báo đọc thiu thiu sắp ngủ… thì đột nhiên có tiếng ve kêu, trước
khoan khoan, sau mau mau, rồi cứ kêu như thế rền rền, không ngớt, lớp này vừa
nghỉ thì lại có lớp kia thay, đều đều mà liên tục đến nỗi nghe tiếng ve, anh cảm
thấy trời đất im lặng lạ lùng, nếu ve ngưng bản nhạc một giây thì y như thể có
ai phá sự im lặng thần tiên đó.
Tôi yêu tiếng ve kêu và tôi lại yêu cả cái kiếp ve nghệ sĩ.
Cái kiếp gì quái gở! Từ lúc còn là trừng mèn đến lúc thành nguyên hình ve ve, vỗ
đôi cánh huỳnh kim ca hát cho thiên hạ nghe khúc nhạc mê ly, tính ra phải bốn
năm ròng tu luyện, lúc ở dưới đất đen, lúc đào lỗ chun lên, lúc đối phó với loài
người chỉ rình bắt đem về chiên mỡ hay loài chim loài kiến tha về ổ để cho vào
tồn kho, ấy thế mà đến lúc mạnh chân khoẻ tay múa may, ca hát được thì chỉ sống
nhiều lắm ba mưi ngày! Cái kiếp con vờ âu cũng thế. Nhưng mà ở đời có mấy ai thấu
tâm sự của ve? Đông đảo thay là những người chê trách ve chỉ biết ca hát múa
may rồi đến khi mùa đông tháng giá thì tiền hết gạo không phải đến vay kiến! Khốn
nạn, ve có bao giờ sống được đến khi gió bấc thổi đâu. Thường khi chưa tới giữa
mùa hạ ve đã “từ bỏ cái nghiệp du ca”, buông chân báo vào cành cây rớt xuống đấy
“kim thiền thoát xác” giúp cho con sâu cái kiến có một thực phẩm tích trữ ăn dần
trong mùa đông tháng giá.
Tôi chưa ăn sùng ve chiên mỡ bao giờ, nhưng bây giờ nghe thấy
tiếng ve kêu ở trong rừng, trên núi hay giữa đô thành ngọc ngà này, bất cứ lúc
nào, tôi cũng nhớ lại cái tiếng ve kêu rền rền đặc biệt ở Hà Nội ngày xưa. Nhớ
tiếng ve tức là nhớ những buổi trưa và buổi chiều sẩm tối vào cứ tháng tư ở cái
Hà Nội mến yêu có xe ôtô xitéc đi tưới đường cho mát mẻ, có những hàng “xê cố”
gánh đi bán rong ngoài đường, có những hàng kem ở chung quanh Hồ Gưm thướt tha
những cô gái mặc áo hang màu, đẹp mộc mạc ngây thơ, đưa nước ngọt và kem cho
khác giải khát mà lại khéo chạm vào khách một cách ý vị và duyên dáng. Đã nhớ
như thế là nhớ tất c: nhớ ánh đèn lung linh ở phía Tràng Tiền rung động trong
nước hồ, nhớ Bút Tháp, Nghiên Rùa, nhớ những cây liễu xanh mơn mởn nằm nghiêng
trên mặt nước chỗ cạnh trấn Ba Đình, nhớ những buổi chiều cùng con là Vũ Lăng cầm
một cái sáo dính nhựa thông đi bắt ve sầu về để xem nó kêu từ miệng hay từ cái
“mõ” ở hai bên háng, nhớ những buổi tối cùng vợ đi xe giờ về mạn Láng, nằm trên
nệm cỏ thơm, ngửa mặt lên trời xem mây bay cùng ăn trái vi đầu mùa…
ờ phải, cũng vào cữ này đây, ở Bắc việt bắt đầu có vải. Nhưng
mà trái vải ở Bắc, trái vải yêu thương, trái vải thơm lừ, ngọt xớt! ít lâu sau
nàt, ở Đà Lạt có nhà trồng tỉa đã lấy được giống vải đem trồng và đem trái bán ở
chợ sài Gòn; thêm vào đó, ở các tiệm bán trái cây lại còn có một loại vải phơi
khô, bán kí, vỏ thâm sì mà móp lại, bóc ra ăn thịt khô queo, dai nhách mà chẳng
có mùi thơm gì hết. ăn vải như thế tức vô hình thoá mạ một loại trái cây nổi tiếng
vì được người đàn bà đẹp nhất đời Đường ưa chuộng.
Tất nhiên, người đẹp ấy không ăn vải đóng hộp bao giờ. Người
Tàu còn mê vải đến nỗi phải chế ra một thứ trà ướp bằng nước trái vải, tức và
“Lệ chi hồng trà”, nhưng dù là vải đóng hộp, trà vải, vải khô hay vải tươi trồng
ở Đà Lạt đem về, tất cả đều không có nghĩa lý gì, nếu anh đã được hai lần thưởng
thức trái vải chính cống ở đất ngàn năm văn vật.
Ở Lạng Sơn, Tuyên Quang, có một loại vải thiều trông y hệt
trái chôm chôm, có lông, ăn vào nhiều thì say và dễ bị sốt rét như ăn dâu vậy.
Đó không phải là vải chính cống Bắc Việt. Vải Bắc Việt, đến mùa, không miền nào
không có. Ai đi hội Phủ Giầy hẳn còn nhớ những dẫy vải dài hàng cây số, cành lá
sum sê, đứng xa trông cây nào cây nấy tròn xoe nhưu cái tán, đén cuối tháng ba
đầu tháng tư, trái trổ từng chùm to bằng cái nong làm cho cả bầu trời tươi lên
hơn hớn vì màu xanh của lá chen vào màu huyết dụ của trái cây. Có người đã đi
Tàu, đi Tây về ăn thứ vải này khen còn ngon hơn cả Tàu – và có ý muốn bảo rằng
thứ vải mà Dương Quý Phi ngày xưa bắt Đường Minh Hoàng cho ngựa đi hỏa tốc lấy
về để ăn chưa chắc ngon bằng.
Tiên Hưng nước chảy lững lờ,
Bên thì rặng vải, bên bờ tre xanh,
Ai về Cổ Quán cùng anh,
Mà xem bộ đội tung hoành súng gươm.
ấy đó, cái vải Tiên Hưng lẫy lừng danh tiếng như vậy mà so với
cái vải Cầu Họ còn thua xa. Cầu Họ nổi tiếng vì vải là bởi đất ở đây hợp với giống
vải; hơn thế ở Cầu Họ lại có một khoảng đất riêng tốt đặc biệt để trồng vải tiến.
Nói đến vải tiến thì quả thật là “cúng” được! Tôi không biết
ngày xưa dân làng ở đây tiến vải các vị tiên đế ra sao, nhưng tôi biết rằng dưới
thời vua Bảo Đại, dân làng Cầu Họ làm những cái lồng bằng thép chứa hàng hai ba
chục ký loại vải này để gửi xe lửa gấp vào đế kinh Ngài ngự.
Lúc đó, tôi còn trẻ tuổi, ngồi yên một chỗ không thể nào chịu
được. Tôi nhớ có một đêm tháng tư, không hiểu tình cờ làm sao gặp một người bạn
làm xếp da rủ đi chơi tếu trên một chuyến tàu đêm chạy từ Nam vào Huế. Nửa đêm
về sáng, mấy anh em lấy rượu ra uống. Ông xếp ga và hai anh “bagadít”, gặp lúc
rượu ngà ngà, nghĩ ra được một món nhắm rất hách và rất quý: ngay trên chuyến
xe ấy, có chở một lồng vải vào Huế cho vua Bảo Đại. ờ, cứ bảo cái vải tiến này
ngon ác lắm, hay là ta móc ở dưới đáy lồng – vì chung quanh lồng đều cặp chì, mở
ra thì có dấu vết dễ làm cho anh em hỏa xa đêm ấy mang tai mang tiếng – lấy ít
trái ra nềm thử xem sao.
Thì ra cái vải gia dụng, cái vải thật ngon cũng có khác với
cái vải thường ta ăn rất nhiều. Ngay từ cái vỏ trái vải tiến cũng đã khác thường
rồi: nó không đỏ màu huyết dụ, mà ong óng một màu nâu cổ kính, mà nhẵn lì đi chớ
không có gai gồ ghề. Nhìn kỹ hơn một chút nữa thì trong làn da màu nâu ấy có một
chấm đỏ hiện lên. Trái vải này thực ra không lớn lắm, trung bình chỉ to hơn cái
chén quân pha trà tàu một chút nhưng đặc biệt là khi bóc vỏ ra rồi, không có nước
tèm lem, mà hột thì chỉ nhỏ bằng cái đầu ngón tay. Cùi nó dày như cùi dừa,
nhưng không trắng bạch mà lại hung hung màu ngà. Đặt lên lưỡi cắn một miếng thì
nước chan hoà, ngọt sắc mà nhai thì mềm, không nhão mà lại giòn, nhai khe khẽ
mà chính tai mình thấy như sậm sựt.
ới ơi trái vải của miền Bắc xa xưa, ngon biết chừng nào, ngọt
biết bao nhiêu, thôi, chắc là từ giờ đến chết ta không còn có bao giờ ta được nằm
trên cỏ thơm đường Láng để thưởng thức với người vợ tấm mẳn biết nhau từ một
đêm mưa rào ở vườn Bách Thảo và chia tay không phải từ lúc đánh Tây mà lại
chính là lúc nước nhà ca hát mừng rao độc lập, tự do thống nhất!
Nhớ ơi, nhớ sao nhá thế này! Nhớ cũng vào một mùa vải như thế
này, hai vợ chồng rảnh rang cùng đi về Vụ Bản thuê một căn nhà rơm để nghỉ mát
thay vì đi lên núi, sáng sáng, lúc mặt trời chưa mọc, hai đứa cùng đi tha thẩn
dưới rặng vải cùng uống mùi thơm của vải chín tiết ra trong không khí trong văn
vắt. Chín mười giờ sáng, vào một cái quán ăn một bát canh bún, uống một chén
chè tươi rồi lại đi… đi mãi dưới các vòm cây tận cho tới trưa, mệt quá, không
thể đi được nữa, phải ngồi dựa vào gốc cây thiêm thiếp… Mặt trời bắt đầu lên
cao. Có vài chỗ mạ đã tốt giãi ra mơn mởn xanh màu cốm giót.
Quỳ ơi, bây giờ em ở đâu? Tại cái xứ có nhiều loài kèn xe hơi
cực kỳ tối tân này, em có biết rằng có người chồng thỉnh thỏang trông ra nắng
tháng tư lại nhớ đến một buổi trưa tiền kiếp, chúng ta đang dựa gốc cây thiêm
thiếp, sực nghe thấy tiếng chim tu hú đậu ở đâu mà kêu to như thể ở chính bên
tai ta vậy?
Phải rồi, cứ mùa vải đến là có chim tu hú. Tiếng chim kêu nào
có độc đáo gì đâu, mà xét ra cũng chẳng hay ho gì cả vậy mà không hiểu làm sao
kẻ xa nhà, nằm gối đầu tay sầu giữa tháng tư, lại cứ nhớ da diết, nhớ tê mê đến
cái tiếng của nó và ước ao lại được nghe lại một lần. “Tu hú! Tu hú! Tu hú!”.
Thấy cái mã chim xấu xí mà tiếng kêu lại nhạt phèo, trẻ con lấy đá ném, kèm
theo câu chửi “Tu hú! Chú mày chết!” nhưng chim vẫn cứ kêu như thường và có khi
đứng ở trên tít ngọn cây mà nhin xuống như không coi thiên hạ ra gì cả.
“Tu hú! Tu hú!” Thế là cái gì vậy? Nó bảo rằng mùa xuân đã
qua đi, mùa hè đã đến, nếu không yêu lấy đời thì thu đến và đông sang sẽ hết biến
một năm? Hay là nó kêu gào nỗi buồn trơ trọi kẻ du mục, suốt đời không có tổ,
phải đi đẻ nhờ trên đất khác, rồi bây giờ nhớ con, đậu thật cao mà gọi con? Hoặc
là chim sống mãi cuộc đời lang thang, mộng làm chuyện lớn lao, không nghĩ đến
gia đình mà bây giờ thấy ngày tàn bóng xế vẫn chẳng làm được trò gì hết, nên
kêu lên để cho thiên hạ biết cái lòng tiếc nuối của mình?
Thôi, nhưng muốn cách gì đi nữa thì mùa xuân cũng đã chết rồi,
bây giờ chỉ còn lại những ngày mỏi mệt để ngồi mà tiếc nhớ, thèm thuồng những
ngày vui đã qua đi như bóng nắng chiều lên tường hoa nhà cũ.
Ngày xưa, có người nghe thấy hơi may, chắp tay xin hai sao bến
Hán cho vợ chồng được đoàn tụ vào ngày thất tịch. Mình bây giờ thấy tháng tư
đem tiếng ve sầu, tiếng tu hú trở về chỉ thấy buồn não nề, vì có ngờ đâu cái buổi
sáng nào đó vào giữa tháng tư vợ ra bến nước tiễn chồng đi chơi lại chính là
ngày ly biệt – chốc đà ly biệt mười mấy năm trời, mà không biết đến bao giờ mới
lại được đoàn tụ với nhau!
Nhớ lại hàng hôm đưa nhau trên bến nước đìu hiu, hai đứa cùng
trèo lên một trái đồi, giong một ngọn đèn mờ lên uống rượu và ăn bữa cơm thanh
đạm mà ngon, chắc chắn là đến khi nhắm mắt cũng không thể nào quên được. Nhớ đến
miền Bắc xa xôi, nhớ đến ngày gia đình bị chiến tranh tàn khốc chia cây rẽ lá,
người chồng nằm ở cái đất này làm cách gì mà quên được người vợ khéo tay mùa
nào thức nấy, thân chinh muối dưa, nén cà để cho hợp ý chồng, mùa nào thức nấy,
đi chợ lo từ con cá lá ray, để cho cm lành, canh ngọt.
ở đấy này, trời nóng như nung như nấu. Buối trưa, ăn xong rồi,
gặp những hôm khó ngủ, nằm nhắm mắt gối đầu tay mà nhớ những chuyện xa xưa, người
chồng thường vẫn thấy hiện ra lờ mờ trong trí óc cái bóng lưng thon nhỏ của người
vợ ngày xưa, ngồi ở cửa trông xuống dưới vườn, cắt những chũm cà để đến hôm sau
đem muối. Ngon biết chừng nào, cái quả cà Nghệ muối vừa vặn, lấy ra ăn với nước
rau luộc hay là canh trứng cua đồng vắt chanh cốm thơm lạ thơm lùng.
Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trông đậu, trồng khoai, trồng cà.
Cà trồng tháng hai, cuối tháng ba, đầu tháng tư đem ra ăn thì
nhất, không thể nào đúng “líp” hơn. ăn một chén cơm chỉ có chan nước lã không
thôi, mà điểm mấy quả cà Nghệ thanh thanh, mặn mặn, cắn cứ giòn tanh tách, anh
sẽ thấy là đưng mệt mỏi, người cũng tỉnh ra liền và muốn ăn một, anh cũng cứ phải
ăn hai, ăn ba mới chịu. Cái “cà bát” dầm tương ăn cũng “ác” lắm”: này cứ thử
dùng cao lương mỹ vị độ một tuần mà coi, anh chán ngấy lên đến mang tai, về
nhà, lấy cơm nguội với thứ cà dầm tương này ăn thử rồi nói chuyện lại cho tôi
nghe nhé!
Gớm thay cái xứ Bắc Việt mến thương không giàu bằng ai, không
sang bằng ai mà sao lại sản xuất được cái cà, cái dưa, cái tương, cái mắm ngon
“quỉ khóc thần sầu” đến thế.
Công anh làm rể Chương Đài,
Một ngày ăn hết mười hai vại cà…
Câu hát khéo phóng đại làm sao! Nhưng quả cà ở Bắc, quả cà
chính cống ở trên đất Bắc, nó ngon đáo để là ngon, muốn gì ta cũng cứ phải tin
như thế và riêng tôi lại biết chắc có những ông ngoại quốc đến Bắc Việt chê ỏng
chê eo mà ăn tương ăn cà như quỉ, ăn hết cả cơm, ăn đến nỗi phải vào nằm nhà
thương để… xổ!
Hỡi ôi là cái lòng thương nhớ của người ta: nhiều cái chẳng
ra cái “chết” gì mà làm cho mình nhớ quá. Nhưng nhớ đến qu cà Nghệ hay là miếng
cà bát dầm tương ăn đúng vào lúc hè, có phải đâu chỉ là nhớ cà mà thôi, mà
chính nhớ đến người vợ tào khang, từ thuở bé đã được mẹ dạy cho cách làm tương
cà mắm muối, lớn lên chỉ sợ không muối dưa muối cà được bằng chị bằng em, - vì
vẫn nghe thấy nói rằng muốn biết tài bếp núc của các bà các cô, chỉ xem mèm muối
tương cà thừa đủ!
Nhưng coi chừng đó, hỡi người bạn háu ăn! Cà mềm môi chén tì
tì vào, khát lắm, mà phàm đã khát mà theo tác phong ở trong này, cứ nã hết ly
đá lạnh này đến ly trà đá khác, hết chai lave nọ đến chai nước ngọt kia thì bụng
dễ trương lên như cái trống.
Khéo biết ý chồng, người vợ đã nấu vài chén chè để cho chồng
xi giải khát mà mát ruột. Tháng tư chẳng chẳng là tháng “đong đậu nấu chè” đó
sao? ở miền Nam này, chè ngọt là một cái gì thường quá, bất cứ lúc nào, bất cứ ở
đâu, sà vào một cái tiệm hay một cái xe đậu ở đầu đường cuối ngõ, anh cũng có đủ
thứ chè dùng: chè đậu xanh, chè bạch qu, hạt sen, chè phổ mài nhần, chí mè phù,
chè hạnh nhân, chè trứng… ăn một vài chén, xỉa tiền ra trả là xong. Tiện quá.
Cũng y như thể ta đi chơi vậy!
Tôi yêu yêu cái tính tình thực tế, cái cách giải quyết mau lẹ
và khoa học ấy, nhưng tôi lại yêu hơn cái thú la cà, chậm rãi của Bắc Việt xưa
cũ, đi hát thì phải đi hát cô đầu, uống trà thì phải đủ lệ bộ, quân, tống đâu
ra đó, ăn uống thì phải ăn cho sành cho kỹ, “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Đến
bây giờ, tôi vẫn nghĩ rằng chưa chắc chè ở Bắc Việt đã thực ngon hơn chè của
các chú bán đầy đường, nhưng quả thực ăn một chén chè ở Bắc tôi thấy thấm thía
vô cùng là thấm thía. Đó là tại vì đậu để nấu chè thuộc một giống tốt hơn mà lại
trồng trên một thứ đất màu mỡ hơn Tại vì các thứ chè ở Bắc nấu không giống chè ở
Nam? Hay là tại vì mình “tưởng” như là ngon hn bởi vì chè Bắc do chính tay mẹ
mình, người thương của mình thân chinh vào bếp nấu cho mình?
Có lẽ cả ba giả thiết trên đều đúng cả Hiện nay đi bách bộ
trên các nẻo đường ở miền Nam hay la cà vào các chợ, các sạp ở mười một quận đô
thành, người “di cư” chợt thấy có hàng xôi vò chè đường, ít khi ngăn được khẩu
cái khỏi thèm thuồng. Có nhiều hôm, ta lại thấy có những bà hàng rong bán chè đậu
đãi, chè đậu đen xôi vò, chè hoa cau cũng hấp dẫn mê ly đáo để; nhưng tất cả
các chè đó chỉ là một thí dụ rất nhỏ bé của cái hệ thống chè bao la bát ngàt của
miền Bắc mà ta thương ta nhớ.
Chao ôi, có ai sầu xứ vào một ngày nào đó, thấy trong người
háo quá, thèm cái phong vị chè của nơi nghìn năm văn vật có nhớ đến chè cốm
không? Vào tháng tư, củ mài nhiều, vợ chồng nấu chén chè củ mài để vợ chồng
cùng ăn trước khi đi ngủ cũng hấp dẫn lạ lùng, nhưng điển hình nhất cho chè ở Bắc
Việt đó ai quyên được chè lam và chè bà cốt?
Tại sao lại kêu là chè bà cốt? Thú thực đến bây giờ tôi cũng
không hiểu cái tên chè này phát sinh từ điểm tính nào – có phi từ câu hát bình
dân “Con chim chính choè… ông thầy ăn một, bà cốt ăn hai, còn cái thủ cái tai
đem lên biếu chúa, chúa mới hỏi chim gì? Con chim chích choè, nó đậu cành
chanh…” nhưng chè bà cốt quả là một thứ chè đặc biệt Bắc Kỳ, ba chục năm ở miền
Nam, tôi chưa thấy có nhà nào nấu! Tội nghiệp, cái chè ấy có gì lạ đâu, chỉ có
gạo nếp, mật và gừng, nhưng nói đến chè, không hiểu tại sao tôi lại nhớ nhiều
nhất đến chè bà cốt! Nhớ như thế tức là nhớ đến hồi tôi còn nhỏ lắm, còn bà,
còn bố mẹ, đông đủ đại gia đình, mỗi khi nhà có vụ gì buôn bán phát tài thì bà
nội tôi lại “ gióng lên: “Hôm nay để tao nấu cháo bồi cho trẻ con ăn” hay “à,
lâu lắm, không nấu chè bà cốt. Có đứa nào ăn không, bà nấu cho một nồi”!
Ngày xưa, đời sống của người dân vất vả và tằn tiện, có đâu
như bây giờ. Làm ăn một nắng hai sương, tối ngày vất vả kiếm ra được tiền,
nhưng nào dám ăn vào miệng bao giờ. Tôi nhớ rằng thầy mẹ tôi buôn bán vào cái hạng
đủ ăn mà nửa tháng hay một tháng một lần mới dám liều ăn một bát cháo lòng bò
sai người đi mua từ hiệu “Cát Tường” ở Cầu Gỗ đem về, hay hôm nào phởn lắm mới
dám đưa đứa con cưng nhất đi ra Bờ Hồ ăn một bát phở tái ba xu.
Chè bà cốt, chưa chắc đã ngon hơn các thứ chè khác trên đất
Việt thân yêu, nhưng cứ mỗi khi nói đến chè thì tôi lại nhớ ngay đến chè bà cốt,
có lẽ là vì nhớ đến ngày còn nhỏ, sống trong thanh bình, ở không có binđinh,
máy lạnh, ăn không có patê gan, phomát và bơ, chỉ có những món ăn mèng thế thôi
nhưng lúc nào cũng mát ruột, mát lòng, không vì “miếng ăn quá khẩu thành tàn”
mà bị ngoại quốc nó khinh cho như chó!
Chè đậu đãi bây giờ người ta gánh bán khắp các ngả đường,
nhưng cũng thuộc loại chè đậu này, tôi ít thấy có ai làm chè lam. Hỡi những người
bạn ở đây hay phiêu bạt nghìn trùng mây nước, bây giờ mỗi khi thấy năm hết tết
đến có còn nhớ những đêm mùa xuân lành lạnh, chúng ta đóng cửa lại uống ruợu,
đánh bài rồi đến lúc tàn canh thì cùng xúm lại quanh bàn ăn chè lam, uống trà mạn
sen?
Tội nghiệp cho người vợ bé nhỏ đầu tắt mặt tối, miễn sao làm
cho bạn chồng và chồng được vui vẻ là mãn nguyện! Trà mạn sen phải do chính tay
mình mua sen, tỉa lá, lấy “gạo” rồi ướp lấy, sấy lấy; còn chè lam cũng phải do
mình đãi đậu, quấy lấy và chính mình xem lúc nào nên bỏ đường, cho gừng, bắc ra
và đn vào đĩa, cho vào trong “lồng bàn”. ăn cái chè lam, nó không mềm quá, mà
cũng không rắn quá. Đến lúc tôi lớn lên, không còn mấy nhà làm chè lam nữa.
Bây giờ, nhớ đến cái loại chè lam này, thỉnh thỏang tôi lại
thấy hiện ra trên màn bạc của trí óc những buổi chiều ở căn nhà cổ kình đầu
Hàng Gai, u già tắm rửa và thay quần áo cho tôi xong rồi, tôi lại “lẩn” ra đầu
Hàng Trống, ngay ở dưới cây đèn, trông sang nhà Đỗ Bá Tỵ, vẽ tranh bạch hổ, để
ăn ốc luộc hay mua ô mai, trám, khế, để ăn. Một bà già đội một cái mẹt con cứ
vào khoảng sáu bảy giờ chiều thì ngồi lại đó bán quà cho trẻ con. Trong các quà
đó, tôi nghiện nhất chè lam – nhưng cái chè lam này không phải là chè lam đơn
đĩa mà là chè lam đóng thành bánh mỏng, dài bằng bàn tay, hình cái lưỡi, hai đầu
tròn, ngoài có rắc một lớp bột mỏng như kiểu kẹo vừng, kẹo bột.
Tháng tư, đong đậu nấu chè
Nói đến chè Bắc Việt, người xa quê tự nhiên thèm lại mấy thứ
chè bây giờ không còn nữa, nhớ luôn cả chè hoa cau, chè củ từ, nhớ chè đường vẩy
mấy giọt dầu chuối hăng hăng, nhớ thạch chan nước đường có ướp hoa bưởi từ đêm
hôm trước…
Thực ta, có hôm nào rầu rầu trong bụng, sầu sầu con tim, mình
nhẩn nha nấu lấy một cái thứ chè ao ước để mình thưởng thức với mình, cũng cứ
được đi; nhưng nghĩ vậy mà thôi, chớ cũng chẳng bao giờ làm cả Là vì có nấu lên
ăn cũng không ngon lành gì mà lại rầu thêm, vì đâu còn cái hưng vị chung tình,
bùi ân ngọt ái của người vợ vui cái vui của chồng, buồn cái buồn của chồng, mà
lại khéo đón ý chồng nấu đôi chén chè để hai vợ chồng cùng thưởng thức trong bầu
không khí lắng đọng của ban đêm có tiếng ve kêu lẫn với lời oan trách của con tất
xuất.
Cảm giác của anh ra thế nào? Tôi không biết. Nhưng tôi biết
là đối với nhiều người, bốn câu thơ ấy hay ác, mê không chịu nổi.
Đả tử hoàng oanh nhi,
Mạc giao chi thượng đề.
Đề thời kinh thiếp mộng,
Bất đắc đáo Liên Tê.
Mê nhất là có người không biết chữ nho, nghe thấy ngâm lên bốn
câu đó, không hiểu nghĩa ra sao mà cứ thấy là hay. Nói gì đến dịch ra tiếng Việt,
giữ được nguyên ý của thơ là du dương, tiết tấu thì khỏi cần phải nói, cũng thừa
biết là người nghe thơ cảm xúc biết chừng nào, tiêu sái biết chừng nào:
Đánh cho chết cái hoàng oanh,
Ai cho mi hót trên cành cây cao.
Hót thời tan giấc chiêm bao.
Chẳng cho hồn thiếp được vào Liêu Tây.
Tôi cũng mê bốn câu thơ trên vào hạng nặng, nhưng vì quá
thành ra mắc bệnh hay phân tích, nên có lúc tôi đã mạo muội chê cái bà chinh phụ
ở trong th hi khó tính: mộng gì mà chẳng có lúc tàn; chỉ vì đương nằm mơ thấy
chồng ở Liêu Tây, nghe thấy tiếng chim kêu, tỉnh mộng, mà sai thị nữ đánh đuổi
cái hoàng oanh đi, thì cũng tội nghiệp cho chim quá.
Riêng tôi, chưa bao giờ tôi lại ghét chim như vậy; trái lại,
nếu bây giờ còn nhớ lại cảm tính gì sâu đậm nhất đối với chim, ấy là tôi nhớ đến
lúc còn nhỏ, vào những ngày tháng năm, chim khuyên, chim sẻ, chim sâu đã đánh
thức tôi dậy vào lúc tinh mơ sáng.
Tinh mơ sáng tháng năm, trời trong vắt như lọc qua một tấm vải
mầu xanh. Đó là lúc trời mát mẻ nhất trong một ngày, giấc ngủ của người lành mạnh
tương đối vào lúc này ngon nhất, nhưng không bao giờ tôi dậy muôn là vì chính
vào lúc đó thì các con chim bé nhỏ ríu ran tập hót ở trên các ngọn cây chung
quanh nhà. Bao giờ cũng vậy, nghe tiếng chim hót như thế tôi cũng thức dậy,
nhưng không mở mắt vội, cứ nằm mà nghe khúc nhạc của chim và tôi ưa nằm đoán một
mình xem tiếng nào là tiếng chim sâu, tiếng chim khuyên, tiếng nào là tiếng
chào mào, tiếng chích choè, và tiếng nào nữa là tiếng chim vu, bạc má…
Không khí thanh bình lúc ấy hiện lên từ trong ngọn gió, từ tiếng
động ở trong nhà, từ cái xẻng của người phu xúc đất dắt vào trong đường rầy xe
điện cho đến cái tiếng chổi chà cán dài ngòng của người quét đường làm việc một
cách thong đong, nhàn nhã.
Chắc hẳn cũng có nhiều người vất vả, nhưng không hiểu tại sao
dưới mắt tôi lúc đó, đời sống của người ta có vẻ nhẹ nhàng, bình dị, không bôn
ba lo nghĩ quá đến đồng tiền như bây giờ để đáp ứng những đòi hỏi mỗi ngày mỗi
nhiều hơn Bây giờ, thấy người ta giữa buổi trưa nắng nảy đom đóm mắt mà vẫn cứ
chạy bù đầu ở ngoài đường để buôn bán làm ăn kiếm đồng tiền mua cái máy giặt,
cái tivi, cái máy thu bằng… tôi ưa nhớ lại những buổi trưa tháng năm trước ở Bắc
Việt, cũng oi, cũng nóng, cũng mồ hôi kê nhễ nhại, nhưng hầu hết người nào lúc
đó cũng tự cho phép mình nghỉ xả hơi, kiếm một chỗ nào có gió mát để chợp mắt
đi một chút.
Đường phố vẵn hẳn người đi lại. Nằm ở trong nhà nhìn ra bên
ngoài thấy cái cảnh đêm của phố phường tự nhiên mình cảm giác thấy cái nắng
cũng có vẻ nên thơ, tiếng giun tiếng dế nghe cũng có một cái gì thú vị, mà ngay
đến sự uể oi của người ta cũng là thứ uể oi phong lưu chứ không phải vì quá lao
tâm khổ trí mà thành ra kiệt sức. Hầu hết mọi người, ngoài thì giờ bôn ba tranh
đấu sự sống còn ra, vẫn có một chút thì giờ để pha một ấm trà ngon nhắm nhót,
cao hứng ngâm một vài câu thơ để mình lại nghe với mình, xong rồi tìm những đường
phố mát thủng thỉnh đi chơi, xem cây thế, ngắm gió lan và nếu cao hứng hơn chút
nữa thì đi tìm hàng mằn thắn gia dụng đậu ở đễn Vũ Thạch ăn một tô hay rẽ xuống
chợ Hôm tìm hàng bánh cuốn ngon nhất thưởng thức vài miếng rồi tráng miệng một chén
chè hạt sen long nhãn.
Ấy, cứ ăn bậy như thế lại ngon, chớ thật ra thì vào cái tháng
này nghĩ đến cm đã ngán. Người vợ hiền biết ý chồng cứ phải nghĩ cách để thay đổi
món luôn luôn cho cồng “dễ nuốt”: nay canh riêu cua, mai giò sống nấu với canh
cải ngọt, mốt rau ngót nấu với trứng cáy ăn với cà… nhưng ta cứ phải thành thực
nhận rằng ở Hà Nội, vào những buổi chiều tháng năm “đứng gió” người sang kẻ hèn
đều có thể tự tạo một cái thú vô cùng thanh lịch mà ít đồng tiền: ấy là ăn bánh
tôm ở trên hai bờ cỏ đường Cổ Ngư.
Cô Năm đã ra thăm ngoài Bắc lần nào chưa nhỉ? Thử tưởng tượng
mà coi: một bên là Hồ Tây, một bên là hồ Trúc Bạch, giữa là con đường Cổ Ngư thẳng
vút lên Nghi Tàm, hai bên viền cỏ xanh mưn mướt và san sát cây cao bóng cả Cứ
vào khong năm sáu giờ chiều, nắng bắt đầu nhạt thì người ta dọn bàn ghế ra hai
bên lề cỏ ấy bán cho những người đi hứng gió các thứ giải khát địa phương. Ngồi
uống đỡ mệt rồi, mà thấy lòng phơi phới vì có gió mát từ hai cái hồ đẹp dâng
lên, anh có thể bo khẽ chủ nhân đưa lên cho anh một đĩa bánh ăn chơi.
Bánh đây là bánh tôm – nhưng kỳ lạ lắm cô Năm à: nói cô đừng
buồn, chớ thực quả là tôi thấy cái bánh tôm chiên bán ở tiệm, ở quán, ở chợ
trong mười một quận đô thành nó vẫn thế nào, chớ không như cái bánh tôm ở đường
Cổ Ngư Hà Nội. Cái bánh tôm chính cống ở Hà Nội không có khoai lang tẩm bột
đánh với trứng vịt rắc lên trên, mà là thứ bánh chỉ hoàn toàn có bột và tôm
thôi, ăn vào không ngán mà lại thm, chấm với xì dầu, giấm ớt, ngon không chịu
được. Anh muốn ăn chiên già hay chiên non, tuỳ ý; nhưng chiên già hay chiên non
cũng vậy, ăn cái bánh ấy, tôi đố người nào lại không da diết nhớ lại lúc còn đi
học, kẹp cái cặp vào hai đùi, đứng ăn hai ba xu bánh tôm như thế và húp xì dầu
giấm bao nhiêu cũng chưa thấy “đã”. Cái bánh tôm ấy, ăn không cần kèm các thứ
rau, đã ngon rồi. Bánh tôm ỏ trên đường Cổ Ngư chính là thứ bánh ăn theo kiểu
đó - mà chưa biết chừng lại thú hơn vì nhiều lẽ khác: vừa ăn bánh mình lại vừa
được trời quạt cho khỏi nóng; thêm vào đó, sóng nước lại rì rào đập vào bờ như
hát ru bao nhiêu cái nõn bà của biết bao nhiêu người. ối, vào những buổi chiều
như thế thì nam thanh nữ tú thiếu gì chẳng sợ anh nhìn không xuể. Mà thương nhất
là mắt cô nào cũng như mơ, nhìn anh mà anh biết ngay là thương yêu anh thực sự,
y như thể mẹ thương con, em gái thương anh trai vậy.
Càng về tối, sóng càng tràn mạnh hơn vào vệ cỏ. Bây giờ, anh
không còn thấy sóng rì rào nữa, nhưng có vẻ như thủ thỉ ân tình. Vừa lúc đó,
người hầu bàn bưng một đĩa trái cây tráng miệng lên. Bà ấy cầm một quê bồ quân
đưa lên miệng thì chính là lúc ông cũng vừa ngồi sát lại với bà ấy hơn chút nữa
và bắt đầu kể chuyện ngày xưa:
“Ngày xưa - mình cũng chẳng nhớ là vào triều đại nào - có một
ông vua nước ta đem quân sang đánh nước Chiêm Thành. Anh không nói giỡn đâu: nước
mình ngày xưa hùng lắm, phần nhiều các nước hùng đều coi nước nhỏ là tiểu yêum
không ra gì. Nhưng nước nhỏ còn khuya mới chịu đầu hàng. Quân ta bị Chiêm Thành
chống lại, gặp nhiều trận thất điên bát đo. Có một lần chính nhà vua bị vây ở
trong rừng núi và tưởng chừng phen này có thể cùng nhăn răng chết đói, nhưng
may làm sao giữa lức khổ lên khổ xuống như thế thì chim rừng ở đâu bỗng tha đến
cho một loại tráo cây nhỏ xíu, lớn hơn quả găng một chút, nhưng đẹp một màu huyết
dụ mà ăn vào thì lại ngọt, có hột nhỏ như vạt vừng. Trái ấy nuôi tạm quân ta một
hai ngày để cho ta kịp thời sửa sai, mở một đường máu ra để thoát.
“Trái ấy là trái bồ quân em đương nhấm nháp đó, em! Có nơi gọi
là bồ quân, có nơi kêu là hồng quân, nhưng chính tên nó là phù quân, vì nhà vua
nhớ lúc bị vây, có loài chim đem loại trái cây này để cứu, nên gọi như thế để kỷ
niệm một thứ quả đã cứu vua chúa và quân quan thoát nạn”.
Điểm đặc biệt nhất của bồ quân là không ăn từng vốc hay từng
chùm, mà ăn từng trái, như trái xơri; nhưng xơri bán từng lon, chớ bồ quân thì
xâu vào một cái que, mỗi que chừng dăm sáu trái, khi nào ăn thì tỉa ra từng quả
để cho mình vừa suy nghĩ vừa ăn.
Nói không phải nịnh, chớ miền Nam nước Việt nhiều trái cây
không chỗ nói, mà trong đó có nhiều thứ ở Bắc không thể lấy giống đem ra trồng.
Muốn trồng thế nào, xoài trong này đem ra ngoài ấy cũng thành ra muỗm còn
sabôchiê, vú sữa, sầu riêng, cốc, ô mai, măng cụt… cho đến lúc đất nước chia
đôi, tôi vẫn chưa thấy ai gây được giống… ít lâu nay, ta đã thấy có trái sấu
bán kí lô cho túi nilông để các bà nội trợ mua về nấu canh; ta cũng thấy quất,
hồng Lạng, cam sành… nhưng riêng tôi cm thấy như từ một thế kỷ nay không được
trông thấy trái phù quân xâu vào que là một, qu nhót là hai, qu cậy là ba, quả
vải là bốn, quả hồng bì là năm…
Thật ra lúc nào thức đêm nhiều xót ruột, chán cảm nhấm nhót
trái cây của miền Nam nước Việt thân yêu, tôi vẫn nhớ đến năm người bạn lâu
ngày không gặp đó, nhưng sang đến tháng năm tôi phải nói thực là có lúc nhớ quả
nhót đến thèm… rỏ dãi!
Ấy là vì tháng năm là mùa nhót, nhưng làm cho tôi nhớ nhót
nhiều chính là tại vì nhà nào ở Bắc, vào ngày tết Đoan ngọ, mồng năm tháng năm,
cũng giết sâu bọ bằng rượu nếp, mện, nhót và bỏng bộp. ờ, mà nghĩ cũng thật
tình thật. Sống vào cái thời đại mới này, mỗi khi muốn phát động một chiến dịch
gì, gây một phong trào gì, kỷ niệm một ngày lịch sử gì ta vẫn thấy dán khẩu hiệu
ầm ầm, bắc loa đi cổ động nhân dân sa sả thế mà có nhiều lúc nhân dân cũng lười
biếng chẳng theo; vậy mà sao cứ đến mấy ngày lễ vớ vẩn ở đâu, chẳng cần cổ động,
chẳng căng biểu ngữ, chẳng hô khẩu hiệu mẹ gì mà dân vẫn cứ tự động theo răm rắp?
Cứ lấy cái ví dụ người mình, nghìn nhà như một vạn nhà như một, tự động ăn tết
Đoan ngọ thì đủ biết.
Ở thành thị vào cái tháng này, người ta lo làm ăn. Mỗi phố tổ
chức lễ vào hè riềng biệt đã phờ râu ra rồi. Còn ở nhà quê, càng bận, vì tháng
năm là tháng làm mùa:
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để cho ta lại làm mùa tháng năm.
Sớm ngày đem lúa ra ngâm,
Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi, ta ném ruộng ra,
Đến khi lên mạ thì ta nhổ về,
Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước ruộng vơi mười, còn độ một hai.
Ấy thế mà tôi đố ai thuyết phục nổi nhà quê cũng như thành thị
đến ngày mùng năm cứ cắm đầu làm việc, không ăn tết Đoan ngọ đấy. Không bao giờ,
không bao giờ.
Đến cái lớp tôi lớn lên, bị ảnh hưởng của văn minh Âu Mỹ cứ kể
đã là sâu cay lắm, tôi cứ phải thú thực là không có một năm nào tôi bỏ được cái
tục giết sâu bọ - mặc dầu tôi đã làm cách mạng bản thân, không nhuộm móng tay
móng chân bằng lá móng như hồi còn bé tí.
Vào những ngày bé tỉ tí ti đó, bố mẹ tôi cho người đi mua lá
móng về cho vào cối giã từ ngày mùng bốn để đến tối thì phát cho mỗi đứa con một
chút. Anh em chúng tôi đem cái thứ lá giã nhỏ đó đắp vào mười đầu ngón chân, mười
đầu ngón tay rồi lấy những miếng vải nhỏ quấn lại một đêm để sáng tinh mơ hôm
sau thức dậy mở ra ngắm nghía và hành diện vì móng tay móng chân mình đỏ chói mầu
gạch cua bể luộc.
Bên cạnh cuộc cách mạng nhuộn móng chân móng tay, tôi lại bỏ
luôn cái lệ mua “bùa tua bùa túi” để đeo vào nút áo hầu tránh tà ma quỉ quái;
nhưng trước sau, du các ông nhà báo đả kích thế nào cũng mặc, cứ đúng sáng sớm
mùng năm tháng năm là tôi phải giết sâu bọ bằng cháo trắng, rượu nếp và các thứ
trái cây mà vợ đã đi chợ Mơ, Ô Cầu Dền mua cả đống về từ hôm trước.
Nhớ đến như thế thì làm sao mà quên được là có nhiều lần hai
vợ chồng cặm cụi đồ xôi cả ngày rồi rắc men, rồi ủ, rồi đêm thức dậy dở ra xem
đã có nước chảy xuống thau chưa và bàn bạc có nên rút bớt lại không hay cứ để
nguyên thế cho tới sáng… Này em ạ, cái rượu nếp này ăn thì ngon thật, nhưng làm
công phu quá.
Hay là từ giờ ta cứ mua béng về ăn, tội gì mà vất vả cái thân
thế này, mệt quá.
Vợ không chịu, nhưng rồi cũng chiều chồng. Thực thế, cứ sáng
mùng năm tháng năm, các đường phố Hà Nội ngày xưa đâu cũng sang sảng tiếng rao
rượu nếp. Kêu một hàng vào mua, cả nhà ăn, chỉ mất hơn hào chỉ là cùng, nhưng
có phần thú hơn của nhà làm, không những vì các bà bán hàng này là những chuyên
viên làm rượu nếp, mà còn vì lẽ nữa là từ cái chén đến đôi đua của họ cũng hợp
lệ bộ hơn.
Mấy năm gần đây, ở miền Nam, người Bắc di cư cũng làm rượu nếp
bán rong, đựng rượu nếp vào những cái bát như bát ăn cm và dùng muỗn để xúc lên
ăn như ăn chè đậu xanh, đậu đỏ.
ăn rượu nếp ra ăn, đâu có tàn nhân thế! Cái chén đựng rượu nếp
phải là những cái chén nhỏ như chén chè, còn đũa dùng thì là một thứ đũa riêng
vót bằng tre cật, ngắn bằng hai ngón tay, tròn trịa, nhẵn nhụi mà lớn chỉ hơn
cái tăm bông một chút. Tôi van cô bạn đứng có lấy đôi đũa xinh xinh đó để và
lùa một mạch vào trong miệng tươi hơn hớn, mà tôi xin cô khẽ cầm đua xới từng hạt
rượu nếp lên, để lên đũa rồi thong thả nhấm nhót từng miếng nho nhỏ, be bé và
cô sẽ thấy cái rượu ấy nó ngọt biết chừngnào, cái nếp ấy nó ngậy, nó thm, nó
bùi, nó bổ biết chừng nào!
Ở miền Nam, tôi đã thử căn cơm rượu, ăn không và có khi ăn lẫn
cả với xôi. Bảo rằng cơm rượu này không ngon, không đúng; mà bảo ngon, lại cũng
không đúng nữa. Có lẽ tôi chê vì thành kiến, nhưng tôi cứ phải nói thực là cái
thức cơm rượu viên từng cục nổi lềnh bềnh trong rượu không gây cho tôi một cảm
xúc gì đặc biệt và có nhiều lần tôi đã có tìm hiểu xem tại sao tôi lại không
thú cơm rượu bằng rượu nếp.
Có lẽ yếu tố đầu tiên là việc trình bày, sau đó là vấn đề nề
nếp dùng để đồ xôi làm rượu. Nếu tôi có lầm xin cô Năm, cô Sáu, cô Bảy cô Tám,
cô Chín, cô Mười cứ chỉ dạy cho tôi: rượu nếp Bắc làm bằng gạo lứt, loại nếp
cái chưa giã, còn cm rượu thì làm bằng nếp trắng, riêng hai cái nếp đã khác
nhau rồi và cái ngon, cái bùi của hai thứ đó cố nhiên là đã khác biệt hẳn nhau.
Kẻ phàm phu này ăn cơm rượu cảm thấy hơi sường sượng và không mấy đậm. Chớ cái
rượu nếp chính cống Bắc Việt thì là một cái gì khác hẳn: nó mềm, nó ngọt, nó lại
bùi. Ngọt, bùi và ngậy là vì nếp lứt cái nó đã no đủ chất bổ rồi, một hạt nếp ấy
để lên trông chẳng khác một con rệp ăn no bụng sệ: còn cái hạt nếp trắng thì nó
dài, chỉ lớn hn hạt gạo tẻ một chút, trông yếu lắm. Còn mềm? Theo tôi, đó là vì
làm rượu nếp đòi hỏi nhiều công phu hơn làm cơm rượu. Làm cơm rượu, người ta
ngâm nếp rồi đồ lên như đồ xôi là đủ. Rượu nếp không thế người nội trợ sành sỏi
không ngâm gạo, nhưng đồ lên như đồ xôi một lần, dỡ ra nia, xả nước lại đồ lên
lần nữa, rồi mới đỡ ra nia, “sềnh” ra, chớ lúc nào nguội mới cho vào rá, cứ một
lần nếp mỏng thì lại rắc một lần men làm bằng thuốc Bắc, rồi lấy lá chuối, lá
khoai ngứa hay lá sen ủ lên cả Nước rượu chảy như giọt nước đồng hồ ngày xưa xuống
một cái thau đặc sẵn dưới cái rá nếp đồ…
Ai bảo giết sâu bọ như thế là nuôi sâu bọ? Tôi thú thực theo
học Tây từ thuở bé, cũng biết ấm ở nói chuyện khoa học như ai, nhưng tôi xin
nói với các bạn một điều: nếu giết sâu bọ như thế là phản khoa học, tôi thích
phản khoa học cả đời, vì rượu nếp ăn quá ngon, sướng quá, “thần sầu” quá.
Mà không phải tôi chỉ phản khoa học như thế mà thôi đâu: rượu
nếp ăn rồi, tôi lại thích ăn liền roi mện – Hỡi ơi, mận Thất Khê to bằng quả
đào, cắn một miếng ngập răng mà ngọt, dám chắc không có thứ mận Đà Lạt nào sánh
kịp - ăn luôn cả một vốc nhót cho nó đau bụng luôn đi, nhưng năm nào cũng “giết
sâu bọ” như thế, tôi chẳng thấy đau bụng bao giờ hết! Chính vì “được trời
thương" như thế cho nên ở giữa cái thời buổi mà người ta kêu là “thời buổi
hoả tiễn” này, nằm ở cái rốn Sài Gòn mà bài hát ca ngợi là “đẹp quá”, tôi vẫn hủ
hoá nhằm ngày tết mùng năm thì cứ “giết sâu bọ” như thường – bất di bất dịch!
Ở đây, tôi giết sâu bọ bằng uýtky, mạcten, rượu Minh Mạng nhắm
với củ kiệu, mãng cầu, khế xanh, cốc tím, xoài ang ca, vú sữa. Vừa giết sâu bọ
như thế, vừa nhớ lại lúc còn ở Bắc Việt, có một vài lúc, tôi muốn kêu trời lên
một tiếng để xem trời có cách gì cho tôi được ăn một qu nhót, và chỉ một quả
thôi, để cho đỡ thèm thuồng, nhớ tiếc. Nhớ như thế nào, có phi là tiếc nhớ thèm
thuồng riêng quả nhót thôi đâu, mà thèm thuồng tiếc nhớ cả một thuở thiếu trời
xanh mướt mộng thần tiên, đi học về, mua nhót đầy hai túi áo, lấy ra từng quả
xoa vào cái tay áo maga cho hết bụi phấn rồi bóp cho mềm, chấm muối ớt, mút sì
sà sì sụp.
Đó là nhót chín.
Nhót xanh thì lại nhớ cách khác, nhớ là cứ vào cái khoảng cuối
tháng tư, đầu tháng năm, vợ mua nhót xanh về nấu canh ăn sướng quá, sướng không
biết thế nào mà nói. Cái trái cây gì gớm ghiếc: trông như quả trám màu bạc ố,
bóp hơi mềm mà đem nấu canh thì không thể có cái gì ăn ý với thịt thăn hơn: Khế
nấu riêu cua, sấu dầm nước mắm ớt chấm với rau muống luộc, nhưng nấu canh thịt
ba chỉ hay thăn, để cho dễ nuốt vào mùa hè, không có gì hơn là nhót. ăn như thế
mới là hợp với… lẽ trời, sai đi thì hỏng kiểu.
Giết sâu bọ vào những ngày mồng năm tháng năm mà ăn nhót
chính hay nhót xanh đều thú cả. Tôi không biết các nhà khoa học vì lẽ gì bảo giết
sâu bọ mà ăn rượu nếp, nhót, mận thì là nuôi sâu bọ, nhưng tôi thì cho rằng nếu
ăn như thế mà có bị Tào Tháo đuổi thì bát quá cũng chỉ là một cách xổ thôi: người
Việt Nam không có cái thói quen uống thuốc xổ ba tháng một lần như lời ông đốc
tờ chỉ bảo, nếu một năm có trót dại xổ một lần cho nhẹ bụng, chắc cũng chẳng chết
ai đâu mà sợ.
Có lẽ nhiều người nghĩ như vậy nền vào ngày tết Đoan ngọ họ
ăn chí tử; ăn bao nhiêu thứ đó cho là chưa đủ, đến bữa trưa, nhiều nhà lại ăn
bún xoá vịt, tố thêm dưa hất rồi đi tắm với nước đun với lá chanh và vỏ bưởi. Tắm
như thế, theo nhiều người, trừ được nhiều thứ bệnh cũng như có nhiều người tin
rằng nếu chính giữa trưa mùng năm tháng năm mà trời đổ mưa hứng lấy nước ống
máng bôi vào những ngón tay “xước mang rô” thì sẽ hết hẳn, không bao giờ trở lại,
hay sắc vỏ cây bưởi bong để uống sau khi ăn đủ các thứ “độc” vào bụng rồi thì
không còn sợ đau bụng nữa.
ấy, chính vì tin như thế, cứ mỗi khi tết Đoan ngọ tới thì tôi
ăn th cửa, chẳng lo âu gì hết và tôi tiếc rằng ở đây người ta không còn được hưởng
những thú lặt vặt như thế nữa. Còn gì chán đời hơn là cứ mỗi khi ăn một thứ gì,
uống một chất gì, người ta lại cứ phải tự hỏi xem thức ăn ấy, đồ uống ấy lợi hại
ra sao và có đủ chất bổ không.
Bổ càng hay, nhưng thích mà không bổ cũng cứ ăn ăn cho đã. ở
đây, xoài tháng năm nhiều vô kể mà thơm, mà ngọt cứ lừ đi, chẳng lẽ vì thầy thuốc
bảo là nóng mà phải chịu buộc mồn buộc miệng hay sao? Mà tính tôi lại thích hồng
bì, nói dại đổ đi, bây giờ có ai ở Bắc Việt vào cho một mớ, vở cứ bóng như da đồng,
ăn mới đến môi đã trôi đến cổ, mà bảo tôi đừng nên đụng tới vì sợ kiết lỵ hay
phi chánh trị, nghe sao… vô được!
Bắc Việt mền thương ơi! Nhớ Bắc Việt ngày trước quá, nhớ sao nhớ
quá thế này! Mà càng nhớ lại càng yêu, vì Bắc Việt ngày trước tự việc nhỏ đến
việc to, từ khía cạnh ngày sang phưng diện khác, lúc nào cũng giữ nguyên được đặc
tính của mình, không bị chi phối, không bị ai cho được vào trận hoả mù để rồi từ
đó bỏ đặc thái của mình đi tìm cái mới lại chưa chắc đã là bổ ích, chưa chắc đã
hợp với dân tộc Việt.
Đừng ai thấy thế mà bảo rằng mình không tìm tòi, học hỏi
thêm. Không. Mình muốn tiến luôn, nhưng bảo mình bỏ tết Đoan ngọ vì nó hủ lậu
không hợp thời, nhất định mình không chịu. Có khi chính vì thế mà mình lại yêu
tháng năm hơn nữa cũng nên bởi vì tháng năm có tết Đoan ngọ… mà nhớ đến bao
nhiêu phong tục của nước ta đã tạo nên một nền văn hoá oai hùng mà bao nhiêu
ngoại nhân muốn cắt ngọn đều tỏ ra bất lực.
Trời tháng năm nóng quá, đêm mời bắt đầu có ngọn gió phe phẩy
đuổi cái nóng đi. Hai vợ chồng kê cái giường tre ra nằm ở dưới gốc bưởi trước
nhà, nhắc lại cái bữa bún xoá vị buổi trưa không được hoàn toàn xứng ý vì măng
ninh chưa nhừ. Mặc dầu có giò mát rồi, chồng vẫn quen tay quạt cho vợ và nói nhỏ:
- Làm thế đã ngon chán rồi, đừng nghĩ nữa. Ngủ đi. Em không
biết đêm tháng năm chưa nằm đã sáng đấy ư?
Chập chờn nửa tỉnh nửa say, vợ đáp lại chồng, nhưng nói như
thế là nói cho chính lòng mình nghe vậy.
-… Chưa nằm đã sáng thực, những đêm ngắn lại càng hay, chớ có
làm sao đâu. Em yêu đời quá, mình ơi, ngủ nhiều thấy phí phạn quang âm quá.
Bên kia bức tường hoa, con đỗ vũ sầu đưa giọng khắc khoải trầm
trầm như ru người ngủ vào một thế giới đầy những lầu hoa điện ngọc, thỉnh thỏang
lại bay lên ngạt ngào tiếng địch quyện vào bóng lá của những hàng thuỳ dương
xanh biếc.
Thế thì con đỗ vũ là con quái gì mà lại ru người sắp ngủ vào
những giấc mộng vàng son như thế?
Gớm ghê cho các bố già, bất cứ vật gì cũng có thể tạo thành sự
tích. Con đỗ vũ, còn có tên là đỗ quyên, là tử quy, chỉ là con chim cuốc đen
trùi trũi, miệng lớn, đuôi dài, lưng màu tro, bụng màu trắng, cứ hết xuân, sang
hạ thì kêy ra rả, nhưng kêu dữ nhất vào tháng sáu bởi vì thiên hạ đồn rằng nó
kêu hết mùa hạ thì thổ máu ra mà chết.
Tôi chưa thấy ai quả quyết đã trông thấy con cuốc kêu ra máu,
nhưng không biết bao nhiêu văn sĩ, thi nhận dựa vào truyền thuyết đó đã viết
nên những lời thống thiết và nhất định nó kêu ra máu vì thương nước.
Là vì, theo sự tích, con cuốc kiếp trước là vua nước Thục, tục
gọi là Đỗ Vũ. Ông vua đốn mạt này thông dâm với vợ bề tôi Biết Linh, nên trao
ngôi báu cho anh chàng này. Về sau, Biết Linh làm ngặt, không phát lương thực
cho Đỗ Vũ. Buồn bã, Đỗ Vũ bỏ xứ mà đi.
Sau, thác đi, hoá thành chim đỗ vũ. Người ta bảo rằng Đỗ Vũ
tiếc nước nên ngày đêm mới kêu lên những tiếng thảm thiết bi thương như vậy.
Lại có người bảo rằng chim cuốc là hoá thân của vua Chàm.
Ngày xưa, nước Chàm nằm ở phía Nam xứ Giao Chỉ. Dưới thời vua La Hoa, Chàm đem
quân đánh Giao Chỉ. Thấy thế của mình yếu mà đối phương thì mạnh một gián quan
Chàm tên là Quốc hết lời can vua nhưng vua Chàm không nghe. Biết rằng cuộc viễn
chinh này thế nào cũng đem lại thất bại cho xứ Chàm viên gián quan Quốc xin đi theo
phò vua để được chết theo vua, hầu tỏ được tấm lòng trung quân báo quốc.
Cuộc chiến giữa hai nước Chiêm Thành và Giao Chỉ diễn ra ở
Đèo Ngang. La Hoa chết vì trúng một mũi tên. Viên gián quan Quốc xông ra trận,
định cướp lấy xác nhà vua, nhưng cũng bị chết luôn. Hồn của Quốc không tiêu tan
được, hoá ra làm con chim cuốc. Ngày đêm, chim ấy kêu lên những tiếng bi thưng
của một vị trung thần khác quốc vương tử trận: “Cuốc, cuốc! La Hoa?” Cuốc, cuốc
đây, còn La Hoa bây giờ ở đâu?
Ấy chỉ có thế thôi, nhưng con cuốc đã thành ra một đề tài bất
tận trong văn học sử.
Nhớ thương đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Bà huyện Thanh Quan đi qua đèo Ngang lúc chiều tà đã cm hái
nên những vần thơ bất hủ. Sau đó, cụ Trần Danh án, một di thần nhà Lê, cụ Nguyễn
Công Trứ, cụ Tam nguyên Yên Đổ, cụ Nguyễn Thượng Hiền, cụ Huỳnh Thúc Kháng… mỗi
khi nhớ thương đất nước đều nhắc đến con chim cuốc; nhưng đặc biệt nhất, theo
tôi, là bài “Tàm phụ ngâm” của Tạ Phưng Đắc, tả người con gái nhà nghèo hái dâu
nuôi tằm, nhờ tiếng cuốc kêu khắc khoi mà không ngủ, thức thâu đêm suốt sáng để
chăm lo việc tằm tang. Trong khi ấy, có người con gái đẹp trên lầu cao cũng thức
thâu đêm suốt sáng nhưng là để đàn địch múa hát với người yêu.
Tử quy để triệt tứ canh thì,
Khởi thị tàm trù phạ diệp hy.
Bất tín lâu đầu dương liễu nguyệt,
Ngọc nhân ca vũ vị tằng quy.
Canh tư tiếng cuốc kêu vang
Dậy xem tằm nở lòng càng lo âu;
Tằm nhiều sợ thiếu lá dâu,
Thoáng nghe địch ngọc rộn lầu bên kia
Hàng dương xế bóng trăng khuya,
Say mê múa hát này chưa chịu về.
Tôi không biết những người khác nghe tiếng cuốc thì cảm nghĩ
thế nào; riêng tôi, lại thấy tiếng con chim nước trầm trầm, buồn buồn nghe mới
đầu khó chịu nhưng quen tai rồi thì lại hay hay, mà đến khi nghe đều đều thì
như thể là tiếng ru mình ngủ vậy.
Thường thường, trong những lúc chập chờn sắp ngủ như thế, tôi
hay mơ thấy hiện ra những cung vàng điện ngọc của một thời xa xừa lắm lắm rồi,
có những người con gái nghèo nghe tiếng cuốc kêu mà buồn cái cảnh hưng vong suy
thịnh của kiép người sung sướng, trâm cài ngọc giắt, ngồi trên lầu cao múa hát
sáng đêm đến nỗi mê quá không còn muốn ra về nữa…
Sung sướng như thế thì cuốc kêu ra máu có làm gì. Kêu ra rả
thì cuốc chết, có ai thưng, mà cuộc đời thì cứ thản nhiên trôi đi như một dòng
sông chảy đều đều, hết trong lại đục, hết vui lại buồn. Sống rấtkhó mà chết thì
tương đối dễ hơn nhưng ít có ai muốn chết.
Có đêm đi lang thang trên vỉa hè thành phố Sài Gòn, nhìn lên
cao thấy những cái lầu khuya sáng chói đèn màu, tôi có lúc đã tự hỏi không biết
con cuốc ở miền Nam có giống con cuốc ở miền Bắc hay không, mà nếu nó kêu thì
hay kêu vào thángmấy, kêu “cuốc cuốc” hay kêu ồm ồm như chim “thắng bè” chim
“già sói”, kêu thanh thanh như “nhạn sen”, “óc cao” hay kêu ríu rít, líu lo như
chim “chàng nghịch”, chim “võ vẽ”?
Nổi tiếng về người đẹp, về trái cây, miền Nam nước Việt còn nổi
tiếng về chim cá Hậu Giang lạ không biết thế nào mà nào mà nói, nhiều không biết
thế nào mà kể, nhưng tôi cầu xin cho ở đây không nên có giống chim cuốc gì, bởi
vì tiếng nó kêu thảm quá, nhỡ lọt vào tai của những người tiền rừng bạc bể,
phong nhã hào hoa, có thể làm cho u ám phần nào sự vui sướng thần tiên, cao
quý. Bắc Việt, so với Nam Việt, là một xứ nghèo, nghe những tiếng kêu thảm thiết
nó quen đi, không có làm sao hết...
Nhưng hỡi ai ở đất lạ đã có lần đặt chân đến Bắc Việt, có thể
cho tôi biết tại sao Bắc Việt nghèo như thế, buồn như thế và chịu đựng đau khổ
nhiều như thế, mà người xa tử vẫn thương vẫn nhớ, vẫn yêu, vẫn quý?
Cái thương cái nhớ, cái yêu, cái quý đó, người Bắc Việt nào,
"cũ" cũng như "mới", giàu cũng như nghèo, sang cũng như
hèn, đều cảm thấy và đều rầu rĩ, nhưng ít có nói ra. Vì thế những cảm nghĩ ấy
ngày một ngày hai nó lẩn cả vào trong tiềm thức để rồi có những đêm xanh như
tóc những cô gái tuyết trinh, người xa nhà mộng thấy mình phiêu diêu đi về những
đường cũ lối xưa trò chuyện với những người thương yêu đã mấy thế kỷ nay vắng mặt.
Những đêm mộng về Hà Nội như thế, thức giấc nửa đêm muốn ngủ
lại không tài nào ngủ được. ở trên cái gác nhỏ, nhìn xuống con đường giới
nghiêm, thỉnh thỏang có một chiếc xe quân cảnh bay vun vút như hỏa tiễn, người
xa quê cm thấy như có cái gì bốc cháy ở trong người. Y nhìn bốn phưngười trời
và tự bảo: "Nếu bây giờ trời mưa cho một trận thật to, may ra mình ngủ được".
Nhưng cái mưa ở miền Nam, lạ lắm. Chính vào lúc mình cầu mưa
như thế thì chọc thủng trời ra cũng chẳng mưa; nhưng lại cũng vào lúc mình
không ngờ và không mong nhất thì mưa, nhiều khi không kèn không trống, trút xuống
ầm ầm làm cho người đi đường không kịp tìm chỗ ẩn, khiến người ở trong nhà thấy
người đi đường ướt lướt thướt, quần áo dán cả vào mình, cảm thấy ái ngại và tội
nghiệp.
Ấy, cũng vào tháng sáu này đây ở Hà Nội cũng hay có mưa rào,
nhưng mưa rào ở Bắc đâu có thế: trước hết, mưa Bắc thường thường không lớn bằng
mưa ở trong Nam, nhưng mưa Bắc lai rai hơn có khi mưa suốt ngày suốt đêm không
nghỉ, khác hẳn cái mưa rào trong Nam thoắt một cái mưa, đánh đùng một cái tạnh,
rồi nắng liền. Y như thể một anh "thọc lét không cười" liến khỉ mà mặt
thì cứ phượt ra không nhếch mép… Lắm lúc thấy cái mưa như thế, tức giận không để
đâu cho hết, nhưng có lúc thấy mưa cũng thương nhưng thật yêu mưa, phải nói rằng
quả là tôi yêu những trận mưa rào đất Bắc nó có đầu có đuôi, có xuôi có ngược,
nhất là không bao giờ vừa mưa xong lại nắng liền, mà bao giờ cũng có một thời kỳ
quá độ, tạnh mưa thì mát mẻ hắt hiu, thơ mộng…
Vợ chồng ăn ở với nhau, như thể là bàn tay mở rộng, còn có gì
mà giấu được nhau? Bữa cơm hôm ấy, vợ làm thêm một món nữa để chồng nhắm với rượu
ngâm bát vị hạ thổ bách nhật và chính vợ rót ra mời chồng uống rồi tự mình cũng
cầm lấy cái ly uống một chút cho lưu thông huyết mạch. Trời mấy hôm nay oi quá,
mưa được một trận thế này, cho của cũng không bằng. Chồng lại mời vợ uống thêm
chút nữa và thấy mắt vợ tự nhiên sáng hơn mọi ngày mà đôi má hình như hồng hơn
và mịn hơn Không khí mát mẻ thế này, đóng cửa ở trong nhà uổng quá.
Đi ra ngoài ngoại ô cho thoáng đãng thêm, anh nghe thấy rõ
ràng không khí thơm nức mùi hoa chanh như ở trong giấc mộng: đường sá sạch như
lau; lá cây ngọn cỏ xanh ngăn ngắt vì vừa được trời tắm rửa, không còn trắng bụi
như ban trưa nữa. Bước trên những con đường xào xạo đá dăm cát trắng, mà nhìn
vào những căn nhà nhỏ bắt đầu lên đèn ở giữa những mảnh vườn mát mẻ, có bóng
đàn bà ẩn hiện, tự nhiên anh cảm thấy đời thơm tho ý vị mà tim anh, quái lạ,
sao lại rung rinh lên nhè nhẹ như đôi cánh bướm!
Chẳng hiểu có phải vì thế mà mình mát mẻ dễ chịu thực hay là
tại mùi hoa lá, sau trận mưa, hòa vào không khí làm cho ta say như nhấp phi men
tình? Anh nhớ… hình như đã có một thời kỳ, anh cũng say như thế. à, phải rồi,
đó là lúc hai vợ chồng mới gặp nhau, mới yêu nhau, cùng nhau ngồi trên một bãi
cỏ ven hôg Bảy Mẫu thả chân xuống nước và cùng ngây ngất vì hương gió ngát mùi
sen thơm dội về ban đêm.
Đêm hôm ấy, người vợ nằm rải suối tóc xanh ở trên giường nệm
trắng, cảm thấy cái hương gió ngày xưa ở đâu lại trở về vuốt ve da thịt mình.
Anh ơi, mở cửa sổ ra cho trăng chiếu vào thật nhiều vào giường
của đôi đứa chúng mình và anh để tay thế này, anh nhé, vì em thích nghe tiếng đồng
hồ đeo tay của anh kêu tí tách bên tai như những trái tim bé nhỏ. Và người chồng
tợ nhiên lại thấy từ trong tóc da của người bạn chiếu chăn cái mùi sen ngát của
một buổi xa xưa trên bãi cỏ ven hồ Bảy Mẫu…
Ngủ đi em. Anh ru em ngủ đi em. ở đàng Nam, có những đám mây
vần vụ thế kia và thỉnh thỏang lại lóe lên những lằn chớp sáng, có lẽ còn mưa,
em ạ.
Đương nắng hạn, gặp mưa rào, đã đành là thú thật, nhưng thấy
mưa nhiều cũng sợ vì thámg này là tháng ở Bắc có nhiều dông bão, mà nước lại
thường dâng to. Đây là mùa người ở tỉnh kêu trời kêu đất vì không mưa, nhưng
người nông dân, sống với thiên nhiên hàng ngày xem phong vũ biểu qua những phản
ứng động trời của cây cỏ cùng loài vật.
Kiến cánh vỡ tổ bay ra
Bão táp mưa sa gần tới.
Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa.
Đóng thấp thời bão, đóng cao thời lụt.
và họ lo từng chút một – có khi được mùa này mà lo cho mùa
khác:
Được mùa cau, đau mùa nhãn.
Kể ra được mùa nhãn thì ai cũng lo là phải. Mặc dầu nông dân
ta chưa đúc kết kinh nghiệm về mây mưa, sấm chớp nóng rét, lụt bão thành một bản
thống kê có lý giải khoa học, nhưng ai cũng có thể nghiệm thấy rằng những năm
được mùa nhãn, những năm ấy là năm nước lớn và bão lụt nhiều. Ai cũng biết như
thế, nhưng cầm lấy quả nhãn để ăn, có mấy ai nhớ vậy đâu, chỉ biết ăn nhãn thì
sướng không gì bằng, ăn bao nhiêu đi nữa cũng không biết chán.
Ở miền Nam, độ mươi năm trở lại đây, người ta đã có nhãn bán
đầy đường, bán từng ký, bán từng mớ và cũng bán từng trăm bó lại, trông đẹp mắt
vô cùng nhưng riêng tôi ít khi dùng vì ngay lúc mới bắt đầu có nhãn ở đây, tôi
thấy nhãn ở đây "trơ" quá. Cố ăn để thưởng thức hương vị của thời
trân, càng nhớ quả nhãn Bắc Việt, cũng là quả nhãn mà sao khác một trời một vực!
Cô Ba thử tưởng tượng những quả nhãn to gần bằng trái chôm
chôm bó lại, chung quanh có lá xanh ôm lấy quả vàng ong óng như những vòng tay
ôm ấp người thương, chỉ nhìn thế thôi cũng đã sướng mắt rồi phải không? Chưa thấm,
cô Ba à: lột vỏ ra, đưa lên miệng còn sướng hơn. Cái cùi nhãn trắng như ngà, mà
dày, mà thơm mà lại ngọt như đường phèn, làm cho ta thoạt đầu chỉ muốn giữ
nguyên ở lưỡi, vì sợ nuốt vội thì phí quá.
Nhưng nhãn ấy thì ăn thua gì so với nhãn lồng, nhãn tiến,
không to sồ sộ như thế mà ăn vào còn mê ly gấp ngàn lần! Cái giống nhãn này lớn
chừng nào thì cùi dày chừng ấy, lột vỏ ra không có nước dính tay, nhưng ăn vào
thì nước nhiều, hưng thm ngào ngạt, nhằn mãi mới thấy cái hột có khi chỉ to bằng
đầu ngón tay của đứa trẻ con mới đẻ.
Bây giờ, gặp ai ăn nhãn, tôi cảm thấy như vậy vẫn còn thấy rõ
ràng những ngày tháng sáu ngày xưa, cứ mỗi khi nhãn sắp chín thì ông Hương Tam
lại lên mời mẹ tôi mua một vài cân. Nhãn mà ăn nhãn Hưng Yên hay nhãn Cót thì
quả là… trời sầu đất thơm, quỉ khốc, thần kinh! Anh có thể ngồi trên bãi cỏ, bảo
trẻ trảy nhãn cho anh ăn kỳ thích thì thôi, nhưng biết thế nào là thích? Vì thế,
hàng năm những gia đình đủ ăn ở Hà Nội thường đặt mua năm mười cân nhãn
"gia dụng" để ăn dần cho đến hết mùa.
Nhiều người bảo rằng giống nhãn ăn vào nóng lắm. Tôi chưa có
dịp nghiên cứu xem lời ấy có đúng không, nhưng có một vài lần tôi đã say nhãn,
từa tựa như say rượu nếp cẩm, uống vào ngọt lừ lừ nhưng say lúc nào không biết,
say nhè nhẹ, say êm đềm, mà có thể say lơ mơ như thế hai ba ngày. Có người bảo
ăn long nhãn cũng có thể say như thế. Long nhãn phần nhiều làm bằng nhãn Lạng
Sơn. Đây là đất sản xuất một phần lớn tổng số tiêu thụ trên toàn quốc. Vừa ăn,
và ngắm nghía miếng long nhãn, người ta thấy cùi nhãn này dày ở phần trên, mà mỏng
ở phía dưới, chớ không dày toàn diện như những quả nhãn lồng, nhãn điếc mà ta
ăn hàng ngày hay bóc ra lồng một hạt sen vào bên trong nấu chè để thưởng thức
vào những buổi chiều oi bức.
Tôi yêu đất nước tôi vì mỗi vùng có những con cá lá rau, những
hoa thm trái ngọt nổi tiếng, và tôi yêu người nước tôi đã khéo biết đem các thức
ăn ngon lành nổi tiếng đó làm thành tục ngữ ca dao, muôn đời nghìn kiếp không
sao quên được: cam Xã Đoài, xoài Bình Định, bưởi Đoan Hùng, mít Gio Linh, nhót
Thanh Chương, tương Nam Đàn, nhãn Hưng Yên, giò Văn Điển, vịt Bầu Bến, gà trống
thiến Lạng Sơn… Dưa La, cà Láng, nem Báng, tưng Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm
Sét…
Cũng vào mùa này đây, ăn mận ai mà không nhớ mận Thất Khê vừa
giòn vừa thơm, ăn ngọt ơi là ngọt, na thì na Láng là ngon nhưng na Phủ Lý cũng
là na có tiếng; song lẽ đến bây giờ tôi vẫn chưa biết tại sao dứa ở Bắc Việt
ngon lạ ngon lùng như thế mà không thấy có câu tục ngữ nào nói tới? Tôi đồ chừng
là tại dứa ở vùng nào cũng có mà ở vùng nào cũng ngon lành như nhau nên thành
ra không có gì cần phải ghi nhớ nữa.
Phải không cần ghi, nhưng nhớ thì vẫn nhớ. Cũng như nhãn, dứa
ở ngoài ấy cũng khác dứa trong này: trái nó phần nhiều không lớn như trái thơm
nhưng đến cái dứa thì mật thì tuyệt, nhất định thơm ở trong này không bằng. Vợ
ngồi bổ dứa cắt từng khoanh, xếp vào trong đĩa tây trắng bong ra, rắc đường
tây, bỏ nước đá vào, đợi ăn cơm xong, thì lấy ra tráng miệng: này, anh thử cầm
lấy một miếng soi lên sẽ thấy miếng dứa chắc nình nịch, lõi gần như không có.
Mà nếu có, ăn cũng không có xơ nhiều, nhưng đặc biệt là chung quanh miếng dứa
sao nó vàng thế nhỉ, vàng cứ như mật ong, mà cũng thơm phưng phức như là mật
ong!
Cái thứ dứa thường để ăn lắm rát lưỡi nhưng thái từng miếng để
xào với lòng vịt thì tuyệt trần. Lòng vịt với dứa hình như có duyên nợ với nhau
từ kiếp trước cho nên lòng vịt xào với dứa ăn ý nhau lạ lùng, còn xào với lòng
gà, không hiểu tại sao nó có cái gì làm cho thực khách thấy ngang ngang một
chút.
Có một ông bạn già nghiêm trang, một hôm giải thích cho tôi về
sự kiện đó như sau:
- Có gì lạ đâu, ông? Dứa màu vàng, thuộc về dưng, vịt ở dưới
nước thuộc về âm. Âm dưng hòa hợp với nhau thì nhất định là đúng phép, cũng như
núi với sông, bướm với hoa, trai với gái!
Dù sao, ăn như thế cũng chỉ là ăn chơi ăn bời: mùa nực mà ăn
đồ xào nhiều, nóng lắm. Người đàn bà săn sóc đến miếng ăn giấc ngủ của chồng,
tinh ý, không ưa làm món thịt thường xuyên, mà lại ưa làm món cá bửi vì cá vào
cữ nước lớn thường tương đối béo. Muốn ăn cá chép phải đợi đến cuối tháng bảy
sang tháng tám; cá quả thì tết Trung thu ra ăn mới vừa miệng người sành; còn cá
rô Đầm Sét nổi thiếng là ngon thì đợi đến tháng một, tháng chạp ăn mới thật là
đáo để.
Nhưng ở vùng Bắc Giang, Hà Đông vào Vân Đình, Hương Tích, Đọi
Đệp, chợ Đần, chợ kẹo, ai đã qua chơi. mấy nơi đó vào cữ cuối tháng sáu, đầu
tháng bảy có còn nhứ rằng có một thứ cá rô gọi là "cá rô non", ăn
cũng ra phết lắm không? Giống này chỉ to hơn ngón tay út, lưng đen, bụng vàng,
đánh vẩy bỏ ruột, nấu với rau cải cúc ăn đã sướng nhưng không thấm vào đâu, nếu
đem hầm trong nồi đất, theo lối nhà quê.
Tôi không bao giờ quên được những ngày tản cư ở cái làng đồng
chiêm giữa chợ Kẹo và chợ Ngăm, không biết làm gì trong những giây phút vô
liêu, vợ chồng và con cái mua những cái xa về kéo sợi. Đến phiên chợ, đem sợi
bán.
Yêu người vợ tấm mẳn không biết chừng nào! Trong những giây
phút gian lao như thế, vẫn chẳng nghĩ đến mình, lúc nào cũng chỉ lo chồng buồn,
chồn khổ, vì thế bao giờ bán sợi rồi cũng tìm mua cho kỳ được một vài thứ để
đem về nấu nướng cho chồng thưởng thức và thết đãi các bạn hữu ở mạn trên về
qua đó hay ở Hưng Yên, Đáp Cầu sang thăm.
Cái món "cá rô non" ăn ngon không chịu được, nhưng
có nhiều phần chắc chắn là tôi khó có dịp được thưởng thức lần thứ hai. Không
những vì giống cá này ở đồng chiêm, nơi đây hiếm có, mà còn vì đời sống ở đây vất
v gay gắt quá, người ta không có thể phí phạm thì giờ nịnh khẩu cái của mình
hay nuông chiều một ý thích có khi không mắc mỏ gì cho lắm.
Thực vậy, một rổ cá rô non ngày trước bán đắt lắm cũng chỉ đến
hai hào. Đem về làm chẳng tốn kém gì, bất quá cũng chỉ thêm một hai xu lá gừng,
cọng gừng và một ấm nước trà tàu đặc là cùng, nhưng mà hầm một nồi để ăn mất
công phu nhiều lắm. Làm vẩy, mổ ruột bỏ đi rồi, xếp vào nồi, cứ một lớp lá gừng
và cọng gừng lại là một lớp lá cá, đun rồi lấy nồi đất úp lên trên, lấy tro và
trấu trét lại cho nồi thật kín; lúc đó mới bện rơm chung quanh nồi, bỏ ông nồi
rau ra và vùi xuống tro có lửa riu riu, phủ kín nồi. Như thế, vài ba tiếng đồng
hồ. Đến lúc được, mở ra thì cá rô đỏ đòng đọc mà dừ nhiễn; ăn ngon gấp bội cá
mòi đóng hộp.
Nếu không muốn cầu kỳ, cá rô ron nấu với rau cải, bỏ mấy nhát
gừng, ăn cũng sướng khẩu cái lạ thường. Nhưng tháng sáu là mùa trám xanh ở Bắc,
ăn canh cá, tội gì không điểm trám xanh vào cho nổi vị thơm. Trám xanh khác
trám đen: trám đen bổ đôi ra, chấm với tương Bần, hay nhồi thịt, mộc nhĩ, nấm
hương đem hấp; còn trám xanh, nhiều người cho rằng làm theo lối đơn giản, bổ
đôi ra, dầm nước mắm ớt, ăn kèm với canh cá rô rau cải theo kiểu cà của ta hay
trái ôliu của Tây, hợp giọng không chịu được.
Vợ chồng yêu thương nhau thì ăn uống cần gì phải cầu kỳ mới
ngon. Tôi còn nhớ có một thời kỳ sống độc thân ở một căn gác nhỏ tại Thanh Mộc ấp
cứ chiều đến lên đèn, phải sửa soạn đi đến nhà hát ở nhà bà Phủ Thắng. Nói là
đi hát cho thanh nhã chứ thực ra thì là vì mê đào. Đào này lại không ở đêm ở
nhà hát, cứ vào khoảng mười hai giờ thì về nhà ở cách đó chừng bốn năm cây số.
Tôi không hiểu mãnh lực gì ghê ghớm cứ buộc tôi tối não cũng phải đưa cô ta về
nhà; tuy nhiên, cái đó cũng chưa lạ bằng có đêm tháng sáu, mưa rào như trút nước,
tại sao tôi lại cứ có thể cùng đào đội mưa đi như thế cả tháng mà cứ khỏe khoắn,
cứ tưi vui như thường? Nghĩ lại những đêm hai đứa, độ một giờ sáng mới về đến
nhà, ướt lướt thướt như chuột lột, phải quần phơi áo xong lấy nồi đất thổi một
nồi cơm nóng lên ăn với mấy cọng rau cải xanh chấm nước mắm dầm trứng, tôi mới
vượt bực là bầu không khí lúc ăn và người cùng ngồi ăn với mình.
Ở miền quê Nam Việt, tháng sáu là mùa khoai và bắp. Trông thấy
những luống khoai tươi tốt, có củ to như cái cườm tay, tôi lại nhớ lại những bữa
ăn với vợ sau này, cũng thanh đạm như hồi còn tằng tịu với cô đầu ở Thanh, có
khi chỉ có mấy nõn khoai mà sao ăn ngon thế. Thì nào có quái gì đâu: ở Hà Nội,
sáng sáng vẫn có những người ở quê lên bán những cái nõn khoai xanh ngăn ngắt,
cuộn lại như tháp bút. Mua về rửa đi, cho vào nồi đất có tưng ngon và mc ninh dừ
lên rồi lấy ra ăn; có thế thôi, nhưng mà ăn cứ là ngon, một cái ngon mộc mạc,
quê mùa, nhưng bây giờ có khi đưng ngồi ăn thịt gà rang muối hay vịt bỏ lò, sực
nhớ đến thì thấy thèm quá thể là thèm. Y như là đương uống rượu mạnh như đốt ruột
đốt gan mà thèm một chén chè Tàu ướp trong một bông sen dầm trong nước Hồ Tây
hay là rỗ gót phong trần trên một vùng đồi núi xa xôi, lúc chiều tà, nghe thấy
tiếng hát dịu dàng của người vợ ru mình vào giấc mơ huyền thoại:
Bên này con sông,
Bên nọ con sông,
Nước sông bên nọtheo dòng bên kia.
Quản chi lận đận sớm khuya,
Thân em dầu dãi nắng mưa vì chồng.
Tiếng ru xen lẫn lời than của con đỗ vũ làm cho trăng trên trời
mờ đi. Không khí lúc nửa đêm về sáng rung lên nhè nhẹ. Trong lúc chập chờn, người
chồng thấy sao rụng ngay xuống đầu mình và ở phía xa xa hình như có tiếng xênh
phách của những cô nàng bé nhỏ ti ti vừa bay vừa hát:
Bến Nam liễu bá con đò,
Mảnh mây viễn phố, cánh cò hàn sa.
Ngàn Đông khói lẫn lạc hà,
Giọt mưa cổ thụ, tiếng gà cô thôn.
Vó câu pha gió nhẹ bon,
Bên lầu Bắc hỏi hoàng hôn địch nào?
Trời Tây bóng hạc non sào,
Đường rêu khách quạnh ruổi vào Thiên Thai.
Thì mình cứ nhận ngay là cái trò ấy gợi cảm không chịu được.
Sáng tháng bảy, ai chẳng nhớ đến đại lễ Vu lan bồn, xá tội vong nhân! mà cứ nói
đến xá tội vong nhân, chắc chắn trong mười người Bắc Việt di cư phải có tám
chín người nhớ đến bài thơ Chiêu hồn:
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may, lạnh buốt xương khô.
Não người thay, buổi chiều thu
Tôi còn nhớ lúc bắt đầu vào đây, tìm cả tháng không ra bài
văn ấy. Về sau, vào một ngày tháng bảy nhớ đến Nguyễn Tuân xát xà bông vào người
nổi bọt lên, gõ chậu Thau, niệm bài văn đó, tôi thèm được nghe một cô đầu nào ở
Phú Nhuận, Đại Đồng niệm đúng theo lối Bắc cho nghe, nhưng chưa có dịp nào thì
may làm sao người phục trách mục Tao Đàn cho nghe bài ấy qua giọng một danh ca
xứ Bắc.
Thử tưởng tượng: chín mười giờ đêm, cả nhà đi ngủ rồi, mình
lò mò trở dậy, ngổi vặn máy nghe một mình bài thơ thảm thiết ấy với một giọng
quỷ khốc thần sầu thì đã rợn tóc chưa? Thật tình, tôi không ngạc nhiên chút nào
khi thấy có những cô hàng xóm người Nam thấy tôi nghe bài đó, sáng hôm sau, hỏi
tại sao tôi lại có thể nghe một cách thích như thế và các cô lại không ngại nói
trắng ra là các cô nghe “tởn” lạ lùng vì nó “ma quái” quá! Muốn chê gì, mặc,
tôi cứ nghe như thưởng.
Tôi có cái bệnh là không ưa đài phát thanh, xuân thu nhị kỳ mới
mở máy nghe một chút; nhưng năm nào vào ngày mười bốn hay rằm tháng bảy, tôi
cũng nhớ vặn nghe bài chiêu hồn ma quái ấy và bất cứ năm nàm, với bất cứ ca sĩ
nào, tôi cũng thấy nguyên vẹn cái thích thú buổi ban đầu. Tuy nhiên, mỗi khi
nghe xong, bao giờ tôi cũng tiếc một chút là tháng bảy ở đây… nắng quá, oi quá,
hấp hơi quá. Mà tôi thì quan niệm rằng bài Chiêu hồn của Nguyễn Du chỉ có thể
hay hoàn toàn khi người ta niệm vào ngày mưa sầu gió thảm liên miên ở Bắc.
Bắc Việt từ đầu tháng bảy, mưa thối đất: mưa lai rai, mưa dầm
dề, mưa lê thê, và tự nhiên thấy mưa ai cũng não nề là vì không ai bảo ai mà đều
biết đó là mưa ngâu. Và ai cũng nhớ lại câu hát mà ai cũng thuộc lòng từ thuở
nhỏ:
Tục truyền tháng bảy mưa ngâu,
Con trời lấy đứa chăn trâu cũng phiền.
Một rằng duyên, hai rằng là nợ,
Sợi xích thằng ai gỡ cho ra…
Vụng về cũng thể cung nga,
Trăm khôn nghìn khéo, chẳng qua mục đồng…
Ở trong Nam, vài chục năm về trước, những ai chưa từng đặt
chân lên đất Bắc không thể biết thế nào là mưa ngâu.
Vào lúc đó, một năm chia rõ rệt hai mùa: mùa mưa và mùa nắng,
quanh năm không biết cái lạnh là gì. Về sau này, thời tiết thay đổi hẳn. Có người
đùa bảo rằng người Bắc mang theo thời tiết vào đây, năm tháng đổi thay, từ
tháng chín tháng mười, vào lúc nửa đêm về sáng trời hơi lạnh, phải đắp chăn
đơn. Cuối chạp, có mưa, đôi khi từa tựa như mưa phùn để cho cây cối đâm chồi nẩy
lộc. Từ tháng năm, bắt đầu mùa mưa. Sang tháng bảy có khi mưa sậm sụt. Mưa
không lớn, nhưng ào ào một tí rồi thôi, rồi lại mưa, mưa dai dẳng, có khi kéo
dài cả một buổi chiều đến hết đêm, nhưng mưa như thế không thể ví với mưa ngâu
đất Bắc.
Ở đất Bắc, sang tháng bảy trời chưa lạnh, nhưng đứng ở trên
cao mà nhìn ra sông nước, người ta thấy trời đất cỏ cây ướt sũng một thứ hơi
đùng đục, khiến người ta linh cảm như sắp có một cái gì làm cho tá bứt rứt, làm
cho ta tấm tức. Trời thấp tè tè. Thỉnh thỏang, lại có một làn gió ướt thỏang
qua. Ai cũng đoán là sắp mưa. Quả nhiên mưa thực, nhưng cái mưa gì mà buồn
không chịu được! Nó lai rai như muốn cứa vào thần kinh ta, nó tạnh một lát rồi
lại mưa, mưa đều trên mái nhà, mưa đều trên bụi cây đồi cỏ, có lúc im phăng phắc
nhưng có lúc lại trút xuống rào rào, rồi lại mưa đều đều, và cứ mưa như thế hết
ngày ấy sang ngày khác hết đem nọ sang đêm kia, chán không để đâu cho hết, mà rầu
rĩ trong lòng không biết bao nhiêu.
Chẳng còn ai muốn bước chân ra đường. Đứng ở sau bức châu
liêm nhìn ra con đường lấy lội, người còn gái đẹp tưởng tượng như mình sống ở một
thế giới cách biệt với đời và cảm thấy chưa bao giờ cô quạnh lạnh lùng như thế.
Bao nhiêu ước mơ đã quên đi trong những ngày hè oi bức có tiếng đàn ông cười
giòn tan, có những bóng dáng phong lưu in vào tròng con mắt, có những câu nói hữu
tình đẩy đưa những con mắt hữu tình, tự nhiên, không biết từ đâu trở lại làm
cho con tim trời cho đa tình đau như thể có một bàn tay nào bóp khẽ.
Nhìn mưa ngâu, người con gái đẹp cũng thấy mưa ở trong lòng
mình vì cho rằng mình là một thứ Chức Nữ bị trời đầy phi cách biệt. Ngưu Lang
và Chức Nữ còn có dịp gặp nhau đêm thất tịch để cùng than khóc với nhau, còn
Ngưu Lang của nàng thì biết đến bao giờ mới gặp?
Ai không vui duyên hương lửa, ai ôm trong lòng vạn lý tình,
ai tiễn người đi mãi mãi không về, ai nhìn khói sóng mà nghĩ đến người bạt ngàn
mây nước, ai nhớ ai cùng xây mộng ước m nhưng vì trời chẳng chiều người mà phải
gẩy khúc đàn cho kẻ khác nghe, vào những ngày mưa ngâu như thế, hỏi có đau
không, hỏi có sầu không? Ai cũng như ai, không nói ra lời nhưng đều thấy lòng nặng
trĩu một bầu trời thương cảm. Thương cho vợ chồng Ngâu một năm mới gặp mặt nhau
một lần, thương cho mình, thương cho kiếp người sao lại dệt toàn bằng những sự
nhỡ nhàng ngang trái! Giọt lệ của vợ chồng Ngâu, ai cũng cho là chính giọt lệ của
mình. Ai cũng cho là mình còn khổ hơn cả vợ chồng Ngâu vì vợ chồng Ngâu còn có
chim quạ bắc cầu ô thước, chớ đến mình thì có chim nào bắc cầu đâu? Câu chuyện
truyền kỳ, tự nhiên, đượm một vẻ nên thơ kỳ lạ và rồi người ta thấy rằng mưa
ngâu to ra một thi vị bao la man mác.
Những đêm như thế, người nằm nghe mưa thấy trong cõi buồn vơ
vẩn một thú vị nhẹ nhàng của những người được đau khổ để cảm thông cái đau khổ
của bao nhiêu người khác cũng đau khổ như mình, đương sống hay đã chết. Đêm mưa
sườn sượt nghe thấy tiếng van xin của những người ăn mày ở đàng xa vọng tới,
hay tiếng guốc kê sền sệt trên đường khuya, hoặc tiếng rao buồn muốn chết của
những người đi bán hàng khuya chưa về với gia đình, mình tự nhiên thấy chán chường
cho kiếp sống và tự hỏi có nhiều người khổ quá sức là khổ thế thì có thể gọi họ
là người được không?
Nhưng nói cho cùng thì sống chết đều khổ cả. Ai bảo chết là
xong chuyện? ờ thì cứ bảo là phản khoa học đi, bảo là dị đoan đi, nhưng thâm
tâm tôi bao giờ cũng tin rằng chết không phải là hết, rất nhiều người chết mà vẫn
khổ như thường.
Ấy là những người chết mà không siêu thoát, chết mà vẫn nuối
tiếc cái gì, chết mà không nhắm mắt, vì còn ân hận. ấy là những người trước đây
lăm le thay đổi non sông nhưng gặp phải vận cùng thế khuất; ấy là chỉ còn mảnh
lá che thân; ấy là những kẻ lâu đài phượng các không còn ai bát nước nén nhang;
ấy là những kẻ vào sông ra bề, đem thân chôn dấp vào lòng vào chiếu xác một
manh; ấy là những đứa trẻ lỗi giờ sinh phải lìa mẹ cha từ tấm bé, không có ai bồng
bế.
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc linh đinh quê người.
Hưng lửa đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên…
Những hồn mồ côi ấy siêu thoát làm sao cho được, đành là cứ
phải vất vưởng ở ngang bờ dọc, bụi, lang thang ở quán nọ cầu này, nay hiện lên ở
đầy chợ cuối sông, mai lại lập loè ở chân mây ngọn suối.
Khi sầm sầm mưa gào, gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau;
Ngàn cây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường.
Những cô hồn vô định, côi cút ấy đành là chỉ còn biết trông
vào những người có đôi chút từ tâm, ngày rằm mồng một thì bỏ cho bát cháo nắm
xôi, hay đốt con thoi vàng manh áo để rồi
Nghe gà gáy kiếm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra.
Tháng bảy mưa ngâu, thắp ngọn đèn con lên mà niệm một mình
bài “Văn tế thập loại chúng sinh”, quái thật, sao mình cố giữ cho lòng bình
tĩnh mà như có sóng gió nổi lên ở trong tim?
Nửa đêm về sáng, trời bắt đầu lành lạnh. Gớm ghiếc cho cái
mưa quái quỷ gì cứ kéo lê thê ra mãi không có một lúc nào ngớt hột. Ngoài kia,
trời tối mù mù.
Có ai thức vào những lúc này có cảm thấy gì không, chớ tôi
thú thực có nhiều lần đã ớn lạnh nơi xương sống vì tưởng như trông thấy những
cô hồn rách rưới tang thương kéo từng đoàn đi lờ lững trong không khí âm u
sương khói.
Bao nhiêu truyện “Liêu trai chí dị”, “Truyền kỳ mạn lục” đọc
từ ngày đi học lần lượt xâm chiếm đầu óc tôi lộn xộn, lờ mờ, nhưng có lúc hiện
ra rõ rệt như những tia sáng yêu ma loé ra trong một thế giới hỗn mang có những
hồ ly hóa trang thành đàn bà xõa tóc, những bộ xưng trắng chui từ trong lòng
núi ra đi lọc cọc, chạm vào nhau kêu cóc ca cóc cách, và những người không đầu
từ những mảnh giẻ ở dưới đất bay ra thành hàng vạn đốm lửa rồi tụ lại thành ra
không biết bao nhiêu ngọn tháp bay lơ lửng trên lưng chừng trời.
Tất cả những cái đó là người hay ma? Là u hồn không được siêu
thoát hay chỉ là ảo tưởng do người không phản khoa học tưởng tượng ra vì bị ám ảnh,
vì hỏng óc?
Thôi, chẳng tội gì mà nghĩ ngợi vẩn vơ về vấn đề có ma hay là
không có ma, chết là hết hay linh hồn còn tồn tại, những cô hồn không được cúng
kiến đi lang thang trong cõi hư vô là thật hay chỉ là chuyện đặt để không đây để
lấy làm điều răn người sống! Chỉ biết rằng mắt mình trông thấy thật như thế thì
cứ nói toẹt ra, chẳng sợ ai cười là hủ hoá, là “rừng”, là “chậm tiến”.
Thế nhưng mà tại sao những cô hồn rách rưới tang thường kéo từng
đoàn đi lơ lửng trong không khí sùi sụt mưa dầm, lạnh toát hơi may, cứ diễu đi
diễn lại mãi không thôi thế này? Họ đi đâu mà kéo đi bất tận thế này? Họ có bao
giờ nghỉ ngơi không, hay là cứ phải đi như thế mãi, như thế mãi? Mà họ là ai vậy
mà trông vừa gớm ghê, vừa ai oán,nửa như thực mà nửa như hư thế này?
Quả là đến lúc viết tời đây tôi cũng không hiểu tại sao lại
nhớ đến một chương trong thiên phóng sự “Về Bắc Việt” của Madeleine Riffaud “
viết dưới bom”: ở, Mỹ bắt đầu oanh tạc Bắc Việt hồi 1966 chính là vào cữ mưa rằm
tháng bảy, vong nhân xá tội đây! “Chúng tôi đọc thấy rằng, từ một vài tháng
nay, các phi vụ ở Bắc tăng gấp ba, số bom ném cao lên vòn vọt, còn nhiều gấp tư
số bom ném trung bình hàng tháng ở Cao Ly. Người Việt Nam có bị tiêu diệt
không? Mà họ làm thế nào chịu đựng được?”
Chẳng cần phải nghĩ vẩn vơ, ai mà lại không biết số người chết
hẳn phải nhiều. Đem cộng con số này với bao nhiêu người Việt Nam đã chết vì bom
của “đồng minh” đến “giải phóng” chúng ta khỏi ách của "phát xít” Nhật,
bao nhiêu người chết đói năm 1945, bao nhiêu người chết vì bệnh tật, súng đạn của
Pháp đến “cứu” ta ra khỏi “nanh vuốt” của Cộng sản, rồi lại bao nhiêu người chết
vì “chống Cộng”, bao nhiêu người chết vì bom Mỹ, súng Mỹ ở ngay tại miền Nam,
bao nhiêu người bị đột kích, pháo kích, truy kích, xung kích, oanh kích công
kích, xạ kích, phục kích… ờ, nhiều quá sức là nhiều, thế thì những oan hồn cứ
kéo nhau đi hằng hà sa số, trường kỳ bất tạn cũng không có gì lại hết.
Nhưng mà họ đi đâu? Họ cứ đi mãi thế à? Nghe nói cả bên đạo,
bên đời đều chủ trương là có một cõi ghê gớm lắm, tục gọi là địa ngục, rộng bằng
cả thế giới chúng ta đang ở, xét xử rất phân minh, ai làm tội ác thì bị cưa đầu,
cắt lưỡi, leo cầu vồng, cho chó ngao moi ruột, còn người nào làm việc thiện thì
được lên thiên đường.
Thiên đường và địa ngục, hắc bạch rất phân minh, thế thì tại
sao lại có những cô hồn không lên thiên đường mà cũng không ở địa ngục, cứ đi
phất phưởng lang thang như thế? Có phải là Nam Tào, Bắc Đẩu đã quên ghi họ vào
sổ tử chăng? Hay là vì họ không có tiền chạy chọt nên còn phải ở ngoài chờ đợi?
Hay là vì không phải ở “đàng ta” nên chưa được gọi vào xét xử, cứ phải cơm nắm,
muối vừng đứng chầu rìa?
Nhưng dù sao đi nữa thì mình cũng cứ chịu vị đài đức nào đã
ghi ra sự tích lễ Vu lan, mỗi năm lại lấy ngày rằm tháng Bảy làm ngày xá tội vong
nhân… ở nơi âm phủ.
Bây giờ ngồi nghĩ lại thì mới thấy tội nghiệp cho vợ mình: cứ
mỗi năm đến lễ ấy – còn kêu là lễ Trung Nguyên hay là tết Vu lan – thì lại kể lại
cho chồng nghe sự tích lễ ấy theo đúng sách “Mục Liên cứu mẫu kinh diễn âm”,
theo đó thì Mục Liên không phải là tên thật mà là cái hiệu. Tên thật Mục Liên
là La Bộc.
“Theo đúng sách, La Bộc là con ông Phổ Tướng và bà Thanh Đề.
Vì gia đình túng thiếu, La Bộc phi đi buôn bán ở tỉnh Kiên Liên. ít lâu sau,
giàu có, La Bộc cho người đem tiền về biếumẹ. Bà mẹ ăn xài hết nhẵn rồi lại còn
giết con chó làm nhân bánh biếu sư. Đến lúc La Bộc về thì bà mẹ lái chối và nói
rằng bao nhiêu tiền con gửi về cho đã đem cúng cả vào đền chùa miếu vũ rồi.
“Chẳng bao lâu, bà mẹ chết. Chịu tang mẹ ba năm, La Bộc đi qua
nước Ki Đô là nơi Phật ở, xin pháp ở lại tu luyện theo hầu. Phật thương tình, ứng
thuận, sai thầy Kha Na cắt tóc ông và đặt tên là Đại Mục Khiên Liên và cho vào
tu ở chùa Lã Bí trong rừng Quít Sơn. Cái tên Mục Liên phát sinh từ đó. Muốn đến
rừng Quít Sơn, phải qua chùa Thiên Giai là nơi có những âm hồn ở lẩn quất nghe
kinh. Mục Liên chỉ nhận thấy có cha là ôm mặt khóc, Phật hiện lên bảo cho biết
là Thanh Đề vì khi sống điêu ngoa gian ác nên bị đày xuống ngục A Tỳ rồi.
“Mục Liên lặn lội tìm cho tới ngục A Tù gặp mẹ. Nơi đây bà mẹ
chịu trăm ngàn thứ cực hình, không sao chịu nổi. Thấy con, bà mẹ khóc lóc nhờ
con tìm cách cho bà ra khỏi ngục. Mục Liên dắt mẹ đi nhưng quỉ sứ giữ lại.
Chàng lại cầu xin đức Phật. Ngài thương tình bảo Mục Liên: “Nhà người cứ an tâm,
trở về Vương Xí, ta sẽ hoá phép cho mẹ người thành con chó ở bên cạnh nhà
ngươi”.
“Quả nhiên về đến Vương Xí thì có một con chó quấn quít ở bên
chân Mục Liên. Chàng hiểu ngay đó là mẹ mình, bèn hoá phép cho con chó thành
người. Từ đó, Mục Liên ngày đêm đem hết lợi khuyên mẹ sám hối, rủ lòng theo
chân lý đạo Phật. Bà mẹ nghe lời con, ăn chay niệm Phật, rồi một đêm rằm tháng
bảy, hoá thành tiên bay lên trời. Mục Liên bay theo mẹ và cầu xin đức Phật xoá
tội cho bảy đời họ hàng nhà mình.
“Dựa vào sự tích ấy, cứ đến ngày rằm tháng bảy, các đền chùa,
miếu mạo đều làm chay chạy đàn, phá ngục cho các tội nhân. Tục gọi là tết Vu
lan. Mọi nhà cũng đều làm lễ cúng bái rất thành kính vì tin rằng ngày đó là người
ở dưới âm, vong nhân xá tội cho những người quá cố”.
ấy, câu chuyện đại khái chỉ có thế thôi. Nghe một, hai lần
cũng vui tai, nhưng vớ chồng ăn ở với nhau chốc là hai mươi một, hai mươi năm
trời mà cứ nhắc đi nhắc lại sự tích ấy vào dịp vong nhân xá tội, thét rồi cũng
ngấy. Nhưng đến bây giờ, cũng vào tháng bảy ngày rằm, cũng ăn cái lễ xá tội
vong nhân dưới một trời nắng cháy, mình có muốn gối đầu vào tay vợ, nghe chính
vợ kể lại cho mình nghe sự tích Mục Liên Thanh. Để một lần nữa trong khi ở
ngoài trời mưa sườn sượt, có gió may thổi vi vu thì cũng chẳng còn được nữa…,
nuối tiếc đến mấy thì cũng chẳng còn được nữa…
Nhưng nuối tiếc không phải chỉ có thế mà thôi. Người ly hương
còn nuối tiếc không biết bao nhiêu cái không khí chùa chiền ở Bắc vào dịp lễ
Trung Nguyên, chiêng trống, chũm choẹ vang rân cả những vùng chung quanh, các sự
lũ lượt ở xa về họp ở mấy ngôi chùa chính, đội mão có múi như múi khế, thêu
xanh đỏ, trắng, vàng, cầm gậy chạy đàn, ra điệu phá cửa những nhà ngục ở dưới
âm ty để giải thoát cho những u hồn tội lỗi rên xiết trước những hình phạt gớm ghê
mà óc người không thể nào hình dung được trọn vẹn, như leo cầu vồng, rớt xuống
sông mê, chó ngao moi ruột, quăng vào vạc dầu, cưa đầu, móc mắt, leo cột đồng
nung đỏ, rút lưỡi hà răng…
Có trông thấy người vợ bé nhỏ thắp hết tuần nhang này đến tuần
nhang kia, khấn hết bàn thờ này đến bàn thờ khác, xuýt xoa lễ bái hết gốc cây
này đến ụ đất kia, mình mới thấy rõ ràng hơn hết cả bao giờ là vợ mình tin tưởng
như điên, lễ trời lễ phật đã đành, nhưng nếu thấy rằng lễ yêu tinh quỷ sứ, cô hồn
các đảng, bà cô ông mãnh mà các tà ma yêu quái đó đỡ ác đi thì cũng chẳng ngại
gì mà không lễ.
Lễ như thế, chưa đủ: về nhà còn lễ nữa. Nhưng muốn lễ thế nào
thì lễ, vào ngày tết Trung Nguyên nhà nào cũng phải nấu một nồi cháo trắng múc
ra từng chén đặt ở trước nhà, và nhang đèn vàng mã, chè đường bỏng bộp bầy ra để
cho các u hồn phảng phất ở chung quanh đó tìm lại mà phối hưởng. Lễ xong, các
phẩm vậy ấy người nhà thường không ăn, mà để cho các người nghèo khó đến giành
giựt để ăn hoặc cho vào bị đem về nhà.
Sống ở trong này, thì tôi không thấy các thành phố ăn tết
Trung Nguyên như thế. Có thể bo rằng bà con miền Nam ăn tết to hơn: xí nghiệp,
Công ty, tư sở, công sở nào cũng cứng rồi quay ra uống lave, nhậu với thịt quay
bánh hỏi, không cứ vào đúng ngày rằm tháng bảy mà có thể vào bất cứ ngày nào từ
rằm đến ba mươi, vui lắm, nhộn nhịp lắm, nhưng không có mấy nhà nấu cháo bầy ra
đường và bầy chè lam, bỏng bộp để tiếp đón những oan hồn đi qua, như ở Bắc.
Tôi còn nhớ lúc nhỏ, vào những đêm cúng cháo chúng sinh như
thế xong rồi, lên giường nằm ngủ, tôi thích tưởng tượng ra những cảnh cô hồn ở
các nơi kéo nhau về ăn cháo, tranh giành bỏng bộp, chè lam và giành giựt nhau
những cái áo cắt bằng giấy tàu xanh đỏ, những thoi vàng bẻ bằng nan nứa ngoài bọc
giấy vàng hay những tờ giấy tiền làm bằng những tờ thiếc tráng tượng trưng cho
bạc và những tờ thiếc quét “hoè” tượng trưng cho vàng.
Nhớ lại như thế tức là nhớ lại cả một thời bé dại, nhà chưa
có gì, tôi còn đi học “Dương Tiết” ở nhà cụ Tú Tăng đầu Hàng Gai. Học xong, về
nhà, bắc chõng ra giữa sân nhìn lên trời xem mây bay rồi ngủ lúc nào không biết.
Đến khi thức dậy thì mẹ tôi đã đếm xong những thiếc buộc lại từng bó ngàn tờ một.
Nồi lá hoè cũng vừa nấu xong, thấy tôi lấy một cái chổi cọ dúng vào nồi lá hoè,
phết lên tờ thiếc thành một mày vàng sẫm. Tôi phụ trách gấp đôi những tờ thiếc
lai, phơi lên những cái “vè” nhỏ làm bằng tre, mắt ướt để ra ngoài. Khi nào hoè
khô, một người em tôi lấy xuống, xếp đếm từng trăm một, buộc lại thành bó một
ngàn, thỉnh thỏang để một miếng giấy để đánh dấu từng trăm một.
Những tờ thiếc trắng và vàng đó bán vào cái cữ rằm tháng bảy
chạy không thể nào tả được. Về sau này, nhà tôi không “bồi thiếc” nữa, mà cũng
không quét hoè nữa, nhưng đến rằm tháng bảy thì vẫn cúng cô hồn; tuy nhiên,
cúng với tháng năm lì lợm, tôi không còn mấy khi nghĩ đến các cô hồn ở các nơi
về cướ cháo lá đa như hồi tôi còn nhỏ; nhưng trong thâm tâm, tôi vẫn yên trí rằng
nếu ngày rằm tháng bảy mà không lễ các cô hồn thì là một cái tội không thể tha
thức được đối với những người đã khuất, nhất là những u hồn lang thang khe suối
gốc cây, vất vưởng nơi cầu sương điếm cỏ.
Ấy là bởi vì mặc dầu đã bị tiêm nhiễm văn minh Hy Lạp,
Latinh, mặc dầu khoa học thét vào tai tôi rằng tin tưởng như thế là hủ bại, tôi
vẫn không thể nào tẩy não được mà vẫn cứ “ngoan cố” tin rằng ngoài cái thế giới
chúng taq đang sống hiện nay, còn một thế giới u huyền khác mà loài người chưa
cứu xét được đến nơi đến chốn nhưng bởi vì “muốn cho xong chuyện” nên kết luận
toạc ngay là “dị đoan”.
Thôi thì muốn bo tôi là chậm tiến, là dị đoa, là hủ hoá thế
nào tôi cũng cứ chịu đi, nhưng những điều mà tôi thấy, những điều mà tôi biết
không cho phép tôi nói khác những điều tôi vừa nói.
Thế là nghĩa làm sao?
Tôi không hiểu ra sao hết, nhưng có những sự việc mà tôi chứng
kiến, mà người sống các chuyện ấy hãy còn sống sờ sờ để làm nhân chứng cho tôi,
lắm lúc đã làm cho tôi nghi ngờ khoa học. Có cô hồn không? Cô hồn có oan ức
không? Cúng kiến có giúp ích gì cho họ hay không? Câu chuyện nhỏ dưới đây chắc
chắn sẽ cho bạn đọc phải suy nghĩ nhiều, còn tin là có thật hay cho tôi bịa đặt,
hoàn toàn tuỳ ở nơi các bạn.
Hồi 1947, một người bạn tôi tên là Q. (Hiện nay làm ở Sở
Thanh niên) ở ngoài kháng chiến hồi cư về Hà Nội. Thành phố lúc ấy tan nát, có
đường không còn lấy một căn nhà. Vì thế Hội đồng An dân, phụ trách sự ăn ở cho
những người có nhà bị tàn phá, buộc lòng phải lấy tạm nhà của những người chưa
trở về để cho những người hổi cư ở tạm. Q. được Hội đồng An dân dành cho ngôi
nhà số 47 đường Lê Lợi.
Đây là một căn nhà hai tầng, khác rộng, đàng trước có vườn.
Chung quanh có một hai ngôi nhà khác đã có người về trước.
Vốn là một thanh niên mạnh khoẻ, lì lợm, có võ mà lại bắn
súng vào hạng khá, Q. một mình đến ở đó (vì lúc ấy gia đình anh chưa về). ở được
độ một tuần,hàng xóm có người sang chi trò chuyện, đến lúc ra về hỏi Q. “ở bên
này, ông thức khuya nhỉ, mà sao bè bạn đến cứ rầm rập, chúng tôi không tài nào
ngủ được”. Q. ngạc nhiên hết sức vì từ lúc hồi cư, không có người nào đến thăm
anh lúc đêm hôm. Chính anh cũng nghe thấy tiếng chân người rầm rập cả đêm,
nhưng anh lại cứ tưởng đó là tiếng người đi lại ở nhà bên cạnh.
Từ lúc nghe câu chuyện, anh bắt đầu để ý thì ngay tối hôm ấy
mới nhận thấy rằng tiếng đi sầm sập ấy ở chính dưới nhà anh – anh ngủ một mình
trên gác. Lắng tai nghe kỹ thì dường như có hàng trăm người vừa đi giầy, vừa đi
guốc, vừa đi chân không, từ ngoài vườn đẩy cửa vào trong nhà, giương to mắt ra
nhìn thì không thấy gì. Tứ bề yên lặng. Nhưng Q. không phải là tay “vừa”: thấy
thế, anh tức, nhất định phải “ăn thua đủ” với bon ma quỷ đó. Anh rình.
Hình như biết “thóp” như vậy, bọn đó bắt đầu làm dữ: rung
chuyển giường của anh, ném đá vào đèn, chạy sầm sầm lên gác rồi hàng trăm ngàn
cái đầu đâm sầm vào tường tạo nên một tiếng vang dữ dội trong đêm tối. Q. đương
nằm chồm trở dậy thì thấy có hàng trăm cái bóng cao lớn, đen trùi trũi, có cái
mặc áo ngắn, có cái cởi trần, râu ria tua tủa mà đầu thì trọc chạy sầm sầm đến
trước mặt anh rồi… biến mất…
Bao nhiêu tiếng tục tằn rác rưởi nhất, Q. giở ra dùng hết,
nhưng vừa nằm xuống được một lát thì lũ quỷ sứ ở đâu lại dẫn đến, nện gót xuống
sàn gác kêu thình thịch và có vẻ như muốn sấn cả lại để lôi anh dậy. Vớ lấy cây
súng giấu ở đầu giường, Q. bắn lia bắn lịa, vừa bắn vừa chửi. Đến lúc nhìn lại
thì tường vách và đồ đạc đều có vết đạn nhưng tuyệt nhiên không thất có dấu máu
nào. Cứ như thế chừng một tuần. Thét rồi, Q. không biết làm thế nào khác, đành
phải chong đèn nằm ngủ, nhưng cứ chợp mắt một chút – mà có khi mắt còn mở hẳn
hoi chưa ngủ – thì lũ quỷ sứ kia lại sầm sập chạy từ dưới nhà lên làm dữ. Cho đến
một ngày kia, gia đình Q. ở hậu phương về, ông thân anh Q. thấy căn nhà con ở dữ
quá, nhất định bắt anh phải dọn đi nơi khác.
“Cứ ở mãi thế này, trước sau gì cũng chết, làm sao mà sống nổi.
Bởi vì ai lại còn không biết tự vệ ở Hàng Bạc, Hàng Gai, Hàng Bông, Hàng Hòm đến
ngày chót rút cả về khu Lê Lợi này, quân Pháp một mặt công kích, một mặt ném
bom, nhà cửa tan nát, trăm người không thoát một; oan hồn của họ không tiêu tan
được cứ lưởng vưởng ở đây khuấy phá, không những ban đêm mà có khi cả ban ngày
nữa. Có người thuật lại rằng có những ngày mưa dầm sùi sụt những cái bóng ma ấy
kéo nhau thành hàng một, đi lơ lửng trên trời, sàn sàn các ngọn cây và lại cũng
có hôm họ lại hiện ra trong các chợ vầy vọc và các hàng miếng chín và chỉ từ
sáng đến trưa bao nhiêu thịt thà, nem chả tự nhiên thiu thối hết, chỉ có mà đổ
đi. Thôi, anh ạ, tôi xin anh là hết; anh bướng với ai chớ bướng với các “ông ấy”
chỉ có mà dại thôi”.
Anh Q. đành phải nghe lời ông cụ, nhưng vẫn tức bực không chịu
được. Vào đêm trước khi định dọn nhà đi nơi khác, anh ngồi chửi om lên, chửi
văng mạng, chửi tuốt, nhưng không chỉ đích xác ai. Vào gần sáng, lũ người đen
trùi trũi, trọc đầu lại đến, nhưng lần này có vẻ hoà nhã hơn. Một người - áng
chừng là đại diện cho cả bọn - đứng ở đầu giường lúc anh đang chập chờn sắp ngủ,
bảo: “Chúng tôi phá anh như thế cũng đủ rồi. Thôi, bây giờ chúng ta nói chuyện
thành thực với nhau, anh có bằng lòng không? Chúng tôi quả thực không muốn làm
cho anh bực tức hay tác hại đến sinh mạng của anh. Bây giờ, chúng tôi muốn kết
thúc, không đùa dai nữa. Anh lo công việc của anh, còn chúng tôi thì có công việc
của chúng tôi. Chúng ta giã biệt. Nhưng trước khi chia tay, xin nói thật với
anh, chúng tôi đói rét lắm, anh cố xoay cho chúng tôi một ít quần áo, thuốc
đánh răng và kiếm cái gì để anh em “mổ” cho đỡ lòng một tí”.
Thức dậy khi mờ sáng Q. nằm suy nghĩ, chửi thề một hồi lâu rồi
ra phố mua bánh mì chả lụa về bầy đầy một mâm, đặt trên một cái ghế giữa sân.
Vì lúc ấy những người hàng mã chưa về, anh lục tủ lấy hết quần áo cũ, dây lưng,
sơ mi, cavát, thuốc đánh răng thật, chồng lên một đống trên cái chiếu trải dưới
đất rồi châm nến, đốt nhang, lẩm nhẩm khấn các oan hồn phá phách anh từ nửa
tháng nay “nếu có linh thiêng thì về thụ hưởng”. Đoạn, anh đổ một chai dầu lửa vào
tất cả, bật một que diêm đốt hết, trong lòng bán tín bán nghi, không biết làm
như thế thì có ích lợi gì không, mà những oan hồn kia làm sao hưởng được những
đồ vật cháy ra than đó.
Nhưng Q. ngạc nhiên không thể tả được, mà còn ngạc nhiên mãi
đến tận bây giờ, vì kể từ đêm hôm đó trở đi, anh không thấy những cái bóng trọc
đầu, đen trùi trũi đẩy cửa vào nhà anh, chạy thình thịch trên thang gác để rung
chuyển giường anh, ném đá vào đèn, và đâm đầu vào tường vách để bắn tung ra như
quá bóng, như trước nữa.
Đêm buồn không ngủ mà chong một ngọn đèn con lên, nhớ lại những
chuyện “liêu trai” như thế, mình dù sống ở miền Nam người đông như kiến cũng thấy
ớn lạnh nơi xương sống và muốn bắt chước người xưa bán cả áo cừu đi để mua rượu
uống cho đỡ sợ và luôn thể tiêu cái sầu thiên vạn cổ.
Nước khe cơm vắt gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành, đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Công danh, phú quý, sắc đẹp, ngai vàng, bao nhiêu mồ hôi, nước
mắt, bao nhiêu trí tuệ, mưu cơ, rút cục lại cũng chỉ còn là những oan hồn đi vất
vưởng đó đây, chờ lúc lặn mặt trời thì kéo ra để ăn xin một nắm cơm, bát cháo,
la cà các đền chùa miếu mạo nghe kinh và suy nghĩ về chữ “giai không vạn cảnh”.
Thôi rồi, lại nói chuyện “chiến bại” rồi. Thế thì còn đâu là
tinh thần đấu tranh, tiến bộ? Nhưng giả thử ở đời ai cũng suy nghĩ một cách chiến
bại như thế, chưa biết chừng thù hận sẽ ít đi, chiến tranh giảm bớt và do đó số
oan hồn cơ khổ sẽ giảm rất nhiều cũng nên! Nhưng nói vậy mà chơi thôi chớ thế
giới làm sao mà “thoái hoá” như thế được? Còn giống người thì còn ganh đua, còn
ganh đua thì còn mâu thuẫn mà còn mâu thuẫn thì còn đâm chém giết chóc nhau, lẽ
đó khó mà tránh được.
Còn nhớ ngày xưa có một anh chàng tên là Candide, trong một
cuộc lãng du cuối cùng, nhìn thấy ở giữa đại dương có một hòn đảo trên có người
ở đông đúc như kiến cỏ. Candide quay lại hỏi ông cố vấn theo sau:
- Người ta làm việc mà tấp nập như vậy?
Vị cố vấn trả lời:
- Thưa, họ chém giết nhau. Đất nước chia làm hai bọn: một bọn
mang tiếng là bảo thủ, một bọn tự nhận là tân tiến. Bọn tân tiến lật bọn bảo thủ,
hai bên giết nhau hơn cả người khác giống.
Đi một lát nữa, đến một eo đất kia thấy người ta làm việc
quên cả ngày đêm, Candide vỗ tay khen:
- Học chăm chỉ quá. Chắc là họ kiến thiết quốc gia.
Vị cố vấn chậm rãi nói:
- Họ đang xây cất nhà tù đấy, là vì có mỗi khi có cách mạng
thì có một số người chống cách mạng. Phe thắng sẽ bắt hết những người của phe bại,
hoặc giết chết, hoặc cho vào nhà giam. Thế rồi, không còn chỗ để mà giam người
nữa, họ phải hối hả xây thêm nhà giam mới để nhốt những đồng bào của họ.
Candide hơi buồn nhưng chỉ một lát sau, chàng vui lại vì thấy
ở trên một đảo khác có đèn giăng lá kết và từ trên chiếc tàu chạy giữa biển khi
chàng nghe thấy tiếng đàn hát từ đàng xa vọng lại.
Candide vỗ tay, bảo viên cố vấn:
- Thôi, chắc chắn ở đây là thiên đường rồi. Nếu không, sao lại
có nhã nhạc và sinh ca như thế?
Viên cố vấn lắc đầu:
- Bẩm, cũng lại không đúng nữa. Đây chính là địa ngục: những
người đàn hát múa may đó có phải vui sướng gì đâu; họ phải theo lịnh chủ, múa
hát đàn ca như thế để che lấp tiếng khóc than của muôn dân đói khổ rên xiết dưới
gông cùm nô lệ. Có thế, chủ họ mới có lý do để tỏ cho thế giới biết là dân
chúng không đồ thán mà trái lại, lại vui vẻ tôn thờ cả tớ lẫn thầy…
Lần này, Candide không còn bám được vào cái gì để mà tin tưởng
và yêu đời nữa. Chàng ngửa mặt lên trời mà than: “Đời đến thế này thì ra còn biết
phân biệt ai là người, ai là quỷ. Chẳng thà toàn là quỷ cả lại còn dễ sống hơn!
“Nói như thế là nói phẫn. Có nước nào chịu đựng chiến tranh và chét chóc nhiều
đến như nước Việt Nam không? Oan hồn, ma quỷ hằng hà sa số, nhưng chính mắt người
thì có mấy ai thấy chúng đâu, hay chỉ thấy toàn người – mà những người đẹp như
tiên, thơm như mít, mỗi ngày nghĩ ra được thêm thú vui kỳ quái để tiêu khiển
trong tiếngnhạc “sốt gơn” huyền ảo.
“Anh ơi, đừng bỏ em ở nghĩa trang một mình…”
Không. Có ai bỏ em đâu. Trăng chiếu lên nấm mộ em, hãy đứng dậy
đi, chúng ta cùng hát một bản “sun”. Thế giới sẽ chụp lại hình ta và đó là một
cách tuyên truyền hùng hồn nhất để tỏ cho c trần hoàn này biết là ở Việt Nam, cả
người sống lẫn người chết đều sung sướng.
Gặp những ngày trời đất xuống màu như thế, người khách xa nhà
cả trăm người như một, đều cảm thấy buồn tê tê trong lòng mà tự nhủ: “ờ, đúng
là mùa thu ở Bắc… Trời này có rượu ngon đem uống thì tuyệt trần đời!”.
Thế thì ngày trời đất xuống màu ấy ra sao mà người ta lại rầu
rầu trong dạ, sầu sầu muốn uống một cái gì? Thôi, ai lại còn lạ cái thời tiết ở
miền Nam nước Việt nó nhõng nhẽo đến chừng nào: buổi tối nóng như điên, nửa đêm
xoay ra lạnh lúc nào không biết; chiều sấm chớp ầm ầm, yên trí có mưa thì một
lát sau trăng lại sáng trưng, ấy thế mà chính lúc người ta đang yên chí là nóng
còn lâu thì mưa trút xuống rào rào làm cho ai cũng ngạc nhiên tự hỏi: “Quái,
sao năm nay mưa sớm thế?
Thế rồi ai cũng tưởng là mùa mưa bắt đầu thì chọc trời cũng
không ra một hạt nước, trời nóng đến cái mức làm cho người ra mờ cả mắt, nhức cả
đầu; nhưng có một buổi tối kia đi ăn đầu cá với một người yêu xa cách lâu ngày ở
cầu Bình Lợi thì tự nhiên trời đổi gió, giăng tơ lên ngọn cỏ lá cây để đến lúc
sắp đứng dậy ra về anh cảm thấy như có một cái lưới buồn rủ từ trên trời xuống
nước, lan tràn ra khắp cả mặt đất chân mây và gói ghém luôn cả anh cùng với tâm
óc anh vào đó.
Lau lách ở ven hồ kêu lên những tiếng rì rào y như thể những
tiếng than nhỏ bé; nước vỗ vào bờ nghe trầm trầm; qua những chùm lá, qua những
cành cây, gió rì rào như kể chuyện xa xưa và giục người ta xích lại gần nhau
cho ấm cõi lòng hơn một chút.
Mùa thu ở Bắc cũng đến với người ta như thế. Bây giờ mỗi khi
thấy trời trở gió, không gian bàng bạc một màu chì; mỗi khi thấy lá rụng ở các
công viên những người đau ngực, bay lào xào trên mặt đất hanh hoa; mỗi khi thấy
lá tre rụng vèo xuống các ao hồ nằm êm trong những lớp bèo ong bèo tấm, có ai
biết rằng tôi nhớ lại những gì không? Cứ vào đầu tháng tám, trời Bắc Việt buồn
se sắt, đẹp não nùng, sáng sáng thức dậy từ lúc còn tối đen, cầm cái áo maga mẹ
lấy ở trong rưng ra mặc cho mình, húp bát cháo đậu kho và ăn ba nắm xôi lạc do
mẹ mua cho rồi đút hai ba đồng xu đồng kêu sủng soẻng trong túi áo đi qua dẫy
Nhà Thờ, thẳng một lèo đến dốc Hàng Kèn, có ai biết rằng tôi đã trông thấy những
gì và nghĩ những gì không?
Lúc ấy, trời đã sáng thu. Lá cây nhội ở hai bên đướng đi ra dốc
Hàng kèn vưn những cái thân gầy lên trên trời và mỗi khi có gió thổi thì từng
chiếc lá vàng lại rụng xuống, xoay nhiều vòng, rồi đậu ở trên những vai trắng
nuốt của các pho tượng mỹ nhân cởi truồng trong công viên ở cuối Phố Nhi, gần
cái hang đá thờ Đức Mẹ.
Cái mà bây giờ còn trông thấy rõ từng ly từng tí là một cậu
vé xách cái cặp da nặng trĩu đi học một mình, vừa đi vừa ôn lại một bài văn
xuôi có vần:
“Sáng ngày ra, ta đi học, hiu hiu gió, lá vàng rụng bay. ấy
là gió mùa thu, đưa hơi thu, rét sắp đến. Hỡi các anh học trò con, có nghĩ đến
mặc áo rét không? áo mặc rét, các anh sẽ trông lấy vào đâu? Có khi phải về hỏi
mẹ cha.
“Các anh đi học xa, mẹ ở nhà, sáng, mùa thu, đưa hơi thu, rét
sắp đến, đã nghĩ lo áo rét cho các anh. Mẹ mở hòm, tìm áo cũ, áo cũ lành tốt thời
gửi ngay, áo cũ rách thời mẹ vá, không có áo cũ thời mẹ may.
“Các anh ở nhà trường ngồi bàn ghế, cầm bút viết mẹ ở nhà, ngồi
dưới cửa, cầm kim vá may. Các anh đi ra đường, thấy gió lạnh, lòng nhớ mẹ mong
mẹ gửi cho áo; mẹ ở nhà thấy gió lạnh, lòng lo con, gửi cho áo, mong con học
cho hay.
“Gió mùa thu, mỗi năm, lá vàng bay. Các anh đi học trường, mỗi
năm càng mỗi hay, đền công cha mẹ, không phụ áo mẹ may.
“Gió mùa thu, lá vàng bay, năm sau như năm trước. Nếu sự học
của các anh cũng năm sau như năm trước thời công mẹ may áo cũng như gió mùa
thu, lá vàng rụng bay”.
Lẩm nhẩm ôn lại bài học rồi, anh học trò bé nhỏ ấy nhìn lên bầu
trời bàng bạc và nhy nhót như một con chim se. Là vì y biết là mùa thu đã bắt
đàu, các cây nhội chi chít quả, chim hót về nhiều, chắc chắn y có nhiều hy vọng
bắn được nhiều để về nuôi, nếu còn sống hay rán lên cho mèo ăn, nếu chẳng may
chim bị trọng thương mà chết.
Tuy nhiên, chỉ có ý tưởng của tôi theo chân được cậu bé ấy mà
thôi, vì cậu bé ấy chỉ là cái bóng, mà là cái hình bóng của chính tôi năm mươi
mấy năm về trước. Thương, thương cậu bé vô tội ấy biết chừng nào! Tôi chú ý tới
cậu ta, nhưng lúc chính tôi là cậu bé ấy thì tôi lại không chú ý.
Đến bây giờ tôi không còn là cậu bé ấy nữa thì tôi lại
thương, thương vô cùng, nhưng thương, thương đến mấy cũng là vô ích vì cậu bé ấy
đâu còn nữa; đồng thời ông bà, bố mẹ cũng chết c rồi mà có khi anh em, bè bạn
lúc nhỏ cũng không còn nữa, vì chiến tranh này, ai mà dám biết người thân của
mình sống chết ra sao.
Duy chỉ còn có mùa thu tồn tại, nhưng đến cái buồn se sắt, đẹp
não nùng của Bắc Việt thân yêu cũng lại biệt mù tăm tích, không biết đến bao giờ
lại được nghe thấy hơi may về với hoa vàng, không biết đến bao giờ mới lại được
thấy lá ngô đồng rụng xuống giếng thu, nửa đêm thả một lá thuyền con đi mua rượu
sen Tây Hồ về uống mà cũng không biết đến bao giờ mới lại được cùng với người vợ
tấm mẳn ăn mấy con ốc nhồi thịt thăn, miến, mộc nhĩ hấp với lá gừng trông trăng
trong khi thỉnh thong ở đàng xa lại vọng lại những tiếng hát chèo, tiếng rước
sư tử, tiếng trống quân thùng thình!
Mùa thu ở Bắc Việt xa xưa ơi, ta buồn da diết khi nghĩ đến kiếp
chúng sinh hệ lụy trong biển trầm luân nhưng ta không thể không cảm ơn trời phật
đã cho người Bắc đau khổ triền miên một mùa thu xanh mơ mộng diễm tình đến thế.
Mộng từ ngọn gió, cánh hoa mộng đi, mộng từ tiếng nhạn về én đi mà mộng lại, mộng
từ bông sen tàn tạ trong đầm mà mộng lên, mộng từ sắc ố quan hà mà mộng xuống.
Quái lạ là cái mùa kỳ diệu: tự nhiên trời chỉ đổi màu, gió chỉ
thay chiều làm rụng một cái lá ngô đồng thế là bao nhiêu cảnh vật đều nhuộm một
màu tê tái, làm cho lòng người đa cảm tự nhiên thấy se sắt, tư lường. Thế là trời
đất cỏ cây tự nhiên hiện ra dưới một lăng kính mới: trăng sáng đẹp là thế cũng
hoá ra buồn, trời bát ngát yêu thương như thế mà cũng hoá ra tê tái sông nước đẹp
mông mênh như thế mà cũng ra đìu hiu lạnh.
Ngay đến cái thân mình, bình thường chẳng làm sao, vậy mà
không hiểu cơn cớ nào thấy gió thu về xào xạc ngoài hiên mình cũng tự nhiên thấy
thương cho thân thể và bâng khuâng buồn nhớ. Nhớ cái gì, buồn cái gì, không rõ
rệt. Chính vào lúc bóng tôi chưa tan, người vợ thấy chồng chong một ngọn đèn
con lên pha trà uống một mình và khe khẽ ngâm thơ cũng không hiểu tại sao chồng
lại bâng khuâng như vậy.
Trăng tà con quạ kêu sương,
Lửa chài le lói, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đâu bến Cô tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Chính thực ra nghe thấy gió thu đuổi lá chạy ở rặng cây ngoài
vườn, người vợ cũng bâng khuâng nhưng chính mình không biết đó thôi.
Lúc ấy, muốn chiều chồng cách gì đi nữa thì cái buồn vô căn cớ
của người chồng cũng không thể, bao nhiêu cuộc ân tình ngang trái, bao nhiêu mộng
ước không thành, bao nhiêu cuộc phù trầm cay đắng của những ngày xa thật là xa,
tưởng đâu như ở một tiền kiếp đã lu mờ, tự nhiên trở lại như vang như bóng, ẩn ẩn
hiện hiện trong khúc ngâm cảm khái của Bạch Cư Di buộc ngựa vào gốc ngô đồng
trèo lên trên một cái chòi uống rượu với đám ca nhi lạc phách.
Bóng đâu trong sáng vô ngần,
Sầu thêm giận đắp cõi trần khắp nơi,
Đóng lâu đồn thú kìa ai,
Biệt lý buổi mới đâu người trước sân.
Canh khuya ai đó phi tần,
Vua không yêu nữa tần ngần về cung.
Biên thành thế thủ không xong,
Bạc đầu ông tướng thong dong lên chòi.
Soi cho đứt ruột bao người,
Thiềm thừ, ngọc thỏ trên đời biết chi!
Cái buồn mùa thu lê thê, cái buồn mùa thu tê mê, cái buồn mùa
thu não nề nhưng không day dứt đến mức làm cho người ta chán sống. ấy là vì gió
thu buồn nhưng trời thu lại đẹp, đẹp nhất là trăng thu, đẹp đến nỗi làm cho người
ta buồn nhưng vẫn cứ muốn sống, để hưởng cái đẹp bàng bạc trong khắp trời cây
mây nước nếu chết đi thì uổng quá.
Trong một năm, không có mùa nào trăng lại sáng và đẹp như
trăng thu. Từ thượng tuần tháng tám, nhìn lên cao, nhà thi sĩ thấy cả một bầu
trời phẳng lì mà xanh ngắt, không có một đám mây làm vẩn đục làn ánh sáng mơ hồ
của trăng tỏa ra khắp cả nội cỏ đồi cây chân sim bóng đá, nhưng từ rằm trở đi
thì ánh trăng mới thực lung linh kỳ ảo. Vợ chồng dắt nhau đi vào trong ánh
trăng lúc ấy cảm thấy mình đi ở trên trần mà dường như có cánh ở dưới chân,
không bước mà có cái gì đẩy chân đi nhè nhẹ vào trong cõi mê ly thần thoại. Lắng
tai nghe thật kỹ, đâu đây có cái gì rung động như cánh của những con bướm mới
ra ràng.
Mà ở đây, có cái hương thơm gì dìu dịu thế? à, đấy là hương
lúa ba giăng, mà tiếng rung động nhè nhẹ kia chính là tiếng ân tình nhỏ bé của
những bông thóc thơm thơm ngã vào lòng nhau để tìm sự ấm áp trước ngọn gió vàng
hiu hắt.
Mùa hồng lúc này đã rộ, bưởi cũng đã nhiều, nhưng thơm ngọt
ngào mùi đất nước quê hương, đó có cái gì sánh được với cốm Vòng ăn với chuối
trứng cuốc ngon lừ.
Đi trên những con đường nóng bỏng của trời tháng tám miền Nam
bây giờ, tôi nhớ gì là nhớ đến những buổi sáng mùa thu mẹ mua cho một mẻ cốm
giót ăn lót lòng buổi sáng trước khi đi học, rồi đến khi có vợ có con thì vợ biết
tính chồng, thường dặn những người gánh cốm ở Vòng lên bán, thế nào cũng giữ
cho những mẻ cốm thật ngon đem nén rồi đơm vào những cái đĩa con vừa ăn vừa nhấm
nháp nước trà sen thơm ngát.
Những ngày như thế, trời vào buổi trưa sáng mờ mờ như lọc qua
một dải lượt nõn nường. Có người thấy trời đẹp nõn nường như thế cảm thấy rạo rực
không ngủ được. Tôi nhớ có nhiều khi giữa buổi trưa, có những anh bạn gõ cửa
vào ngồi đòi uống rượu “nhắm với bất cứ cái gì cũng được”. Gió đập vào lá cây
hoàng lan trông giữa sân kêu rào rào. Một vài cành hoa tím ở trên giàn hoa rơi
vào trong chén rượu: anh em uống cả hoa và cứ như thế uống cho đến xế chiều rồi
tất cả dắt nhau đi lang thang bất cứ đâu, vì tuy rằng không ai nói ra lời,
nhưng ai cũng cảm thấy trong sâu thẳm cõi lòng rằng gặp những ngày trời đất thế
này mà không đi ra ngoài thì uổng quá. Đi quanh Hồ Gươm nhìn lên cây gạo ở Ngõ
Hồ nghe những con sếu báo tin rét sắp về; đi lên Ngọc Hà ở đằng sau Bách Thú
xem hoa và tán tỉnh chuyện tầm phơ với mấy cô nàng trắng ngà trong ngọc; đi ra
Nghi Tàm mua mấy cây thế rồi rẽ ra ngõ Quảng Lạc tìm nhà một ông bạn già để ngắm
lại cái tượng “Mạnh mẫu gánh sách cho con đi học”… đi như thế trong một bầu
không khí vừa vừa lạnh, hiu hiu gió, biêng biếc sầu; kể đã là thú của người đàn
ông được vợ chiều, vào buổi tà huân dắt tay vợ đi chơi ở ngoại ô nhìn trăng
giãi trên ruộng lúa và nghe tiếng hát trống quân theo gió vang heo hút ở làng
bên kia sông vọng lại.
Trăng sáng quá, em ơi, cứ đi như thế này, cả đêm em không biết
chán. Trăng giãi trên đường thơm thơm; trăng cài trên tóc ngoan ngoan của những
khóm tre xào xạc; trăng thơm môi mời đón của dòng sông chảy êm đềm; trăng ôm lấy
những bộ ngực xanh của những trái đồi ban đêm ngào ngạt mùi sim chính… trăng
ơi, sao trăng khéo đa tình, cứ đi hoài theo chân cô gái tuyết trinh và lẻn cả
vào phòng the của người cô phụ lay động lá màn chích ảnh?
Lúc ấy, đứng dừng lại nhìn vào mắt vợ thì trong mắt vợ mình
cũng thấy có trăng, có trăng cả ở toàn thân mặc quần áo mà như là kho thân; chạm
mạnh vào thì vỡ. Tự nhiên mình có cảm giác trăng ở trong lòng mình cũng lung
linh một thứ ánh sáng xanh màu huyền diệu, thắm hoa hương, làm cho cả tâm óc
chơi với, rung động.
- Ờ, ngày xưa Thân Thiên sư dùng phép thuật đưa Đường Minh
Hoàng du Nguyện điện để tìm Dương Quý Phi có lẽ lòng cũng chỉ chơi vơi, rung động
đến thế là cùng.
Tội nghiệp cho cái ông vua mê gái quá chừng là mê: Dương Quý
Phi chết rồi mà thương nhớ không nguôi đến nỗi phải nhờ Thân Thiên sư đánh đồng
thiếp đi tìm, mà đến lúc Thân Thiên sư bảo là đã gặp nàng thành tiên trên cung
nguyệt. Chỉ một lát, thân hình của ông vua mê gái đó nhẹ bỗng như lông hồng,
bay bổng chín từng không, vào được cung nguyệt và gặp người yêu thực. Nhưng
tiên giới và phàm trần cách biệt nhau, Dưng Quý Phi chỉ biết trông Đường Minh
Hoàng mà khóc.
Theo sách “Thiên bảo di sự” thì Quý Phi ném một chiếc vòng ngọc
cho Minh Hoàng rồi biến mất. Minh hoàng nhặt lấy xem: quả thực là chiếc vòng ngọc
tự tay mình ban cho nàng năm xưa. Nhà vua ứa nước mắt. Thì vừa lúc đó con ngọc
thỏ đang cầm chầy giã thuốc ở dưới cây quế, ném cái chầy vào vai áo nhà vua mà
bảo: “Làm vua mà chẳng biết lấy nước lấy dân làm trọng chỉ say mê một người đàn
bà, chuyện đó đã xấu lắm rồi, nhưng xấu vượt bực là đến lúc loạn ly, chẳng biết
sửa lỗi mình lại đổ cả lỗi lên đầu một người yếu đuối như thế sao gọi là thương
yêu được, sao gọi là tiếc nhớ được?”. Đường Minh Hoàng sực thức.
Thì ra đó chỉ là một giấc chiêm bao, nhưng lạ thay cái vòng của
Quý Phi tặng ở trên cung nguyệt vẫn còn ở trong tay Minh Hoàng. Buồn héo lá
gan, Đường Minh Hoàng từ đó đỡ nghĩ đến Quý Phi nhưng nhà thơ Lý Thương ẩn nhờ
đó đã viết nên tám câu thống thiết khi đi qua trạm Mã Còi, nhắc lại cái nhục
quân sĩ bắt nhà vua phi giết Quý Phi, đồng thời nhớ đến lời nguyện ước khi xưa
giữa “chàng” và “nàng” đêm thất tịch.
Cớ sao bốn kỷ làm thiên tử
Kém Mạc Sầu kia được hẳn hoi
Mê gái, thế thì hay hay dở? Dở hay hay không dám quyết, nhưng
Đường Minh Hoàng chỉ vì mê gái mà thành ra thần tượng của tình yêu, âu cũng ly
kỳ ác!
Không thế, sao cứ đến Trung thu ở Bắc cũng như Nam, nhà hát
nào cũng đưa vở tủ “Đường Minh Hoàng du Nguyệt điện” để chài người đi xem; còn
hàng bánh dẻo, bánh nướng thập cẩm, đậu đen, hạt sen trứng muối, ôi thôi hàng
nào mà không có một bức tranh thật lớn vẽ ông vua mê gái đó lúng liếng con mắt
nhìn Dưng Quý Phi hay làm thành hình đen cho chạy đèn kéo quân để hấp dẫn nhiều
người bu lại?
Ở niềm Nam, đồng bào ăn tết Trung thu kể đã vui đáo để, nhưng
không có những khu hoàn toàn tết, Mua một cái đèn con thỏ, ở Chợ Lớn có, ở Sài
Gòn cũng có cả cái tàu chạy trong thau nước, có đầu sư tử, có ở đường Thủ Khoa
Huân có mà ở Nancy cũng có; có đèn quả đào, có cả ngựa nghẽo bằng nilông nữa…
nhưng ở Bắc thì không thế.
Có những năm đi xem tết Trung thu ở niềm Nam đất nước ta, tôi
tưởng như lạc vào trong một cái động đồ chơi bằng giấy có đủ các cầu vồng, chan
hoà ánh sáng thần tiên, nhưng có ai bảo cho tôi biết tại sao tôi vẫn cảm thấy
là chơi cái tết Trung thu như thế vẫn còn thiếu cái gì? Cái gì đó là cái không
khí chăng? Cái gì đó là cái thời tiết chăng? Cái gì đó là cái tâm hồn phơi phới
chăng?
Từ đầu tháng tám, các phố Hàng Gai, Hàng Hài, Hàng Mã, Hàng
Hòm, Hàng Thiếc, Hàng Bông lờ, Hàng Trống hoá trang một cách kỳ diệu đến nỗi
làm cho du khác không thể nào nhận ra được nữa. Các hàng tạp hoá, hàng sách,
hàng giấy, hàng tơ lụa, nhất nhất đều thu cả hàng hoá lại một chỗ để bày bán
toàn những đồ chơi tháng tám. ôi chao, sao mà lắm kiểu đèn thế, đèn quả dưa,
đèn xếp, đèn trái trám, đèn con thỏ, đền kéo quân, đèn thiềm thừ, đèn ông sao…
Hỡi người đàn bà đẹp như th đi sắm tết cho con, bà đã mua con
voi lắc lư cái đầu đứng trên một cái bệ có bánh xe đẩy được thì ngại gì không
mua thêm một đầu sư tử và một quả ngọc cho nó vờn để vui cửa vui nhà? Ai ưa điển
tích, rước ông lão Vọng râu bạc ngồi câu cá về mà bầy cỗ; con cá chép kia là
“Lý ngư bái nguyệt” treo ở nhà có con đi thì rất nhiều hy vọng đỗ cao; nhưng cô
gái nhà lành kia đừng mua lũ nhỏ làm bằng vỏ trứng làm gì? cứ về lấy hai quả dừa
phết bông gòn vào rồi đính tai đính mắt vào đó làm hai con thỏ mẹ đặt vào trong
hai cái bát chiết yêu, trông còn nền nã hơn nhiều, phải không cô?
Bây giờ tôi bàn với cô như thế này: Ngày mười bốn kê cái án
thư ra ngoài hàng hiên bầy hai con nhỏ mẹ hai bên, giữa để một cái lư trầm rồi
đặt ông Lã Vọng câu cá ở giữa, hai bên là hai con chó tết bằng tép quả bưởi bổ
ra, mắt làm bằng hai hột nhãn, hai bên hai bát hạt dẻ, giữa là bốn bát chiết
yêu gạo nếp trắng bao lấy bốn chữ cũng bằng gạo nếp nhuộm màu xanh, đỏ, tím,
vàng “Trung thu Nguyệt bính”. Ai muốn cỗ to hơn thì treo ở trên một cái đèn kéo
quân, dưới đặt rất nhiều ghế, và trên mỗi ghế để một thứ đồ chơi như đàn lợn
làm bằng catông, cô tiên đánh đàn, cái đầu sư tử và các thứ bánh trái như bánh
dẻo, bánh nướng, bánh đậu xanh, bánh chữ, bánh Tô Châu; nhưng có một nguyên tắc
không ai được phép quên; cái bánh dẻo to nhất phải bày ở giữa, trên một cái kỷ
kê ở trước án thư, và nhớ đặt lên đó một con thach sùng bằng bột; còn các con
giống khác như kỳ lân, con phượng, trái đào, quả chuối, cành hoa… muốn đặt đâu
cũng được.
Ấy đấy, cỗ trung thu bầy như thế có thể coi là tạm xong rồi đấy.
Bây giờ chỉ còn đợi trời tối là thắp đèn xếp, đèn quả bưởi, đèn mùi trám treo ở
đây kẽm căng hai bên cho sáng tinh lên rồi đốt nhang thắp nến, lễ trời, lễ phật,
trong khi người lớn đốt nhang thắp nến, lễ trăng, còn trẻ con đánh trống cứ om
lên và múa sư tử lung tùng xoèng ở trước sân gạch có trăng chiếu sáng như ban
ngày.
Bây giờ đã lớn tuổi, rồi trí óc hẳn là phi suy đi chứ có đâu
được phương cương như trước, nhưng quả tình tôi không hiểu làm sao cứ nhớ đến
những cái tết Trung thu hồi nhỏ, bầy cỗ, múa sư tử, đánh trống ầm ầm như thế
thì tôi lại như thấy máu chảy mạnh hơn, con mắt sáng hơn, mà tinh thần cũng
hăng hơn?
Gớm chết là cái thuở thiếu thời tai ác ấy. Nhà tôi bán đầu sư
tử: ai mà bảo sư tử của nhà khác cùng phố lớn hơn mà đẹp hơn thì tôi tưởng có
thể sanh sự liền; đèn kéo quân nhà tôi bán cũng là đèn đẹp nhất; còn cỗ tháng
tám thì khỏi phải nói, bao giờ tôi cũng thấy cỗ nhà tôi hách nhất và to nhất,
không cỗ nhà ai sánh kịp… Cứ từ mười hai tháng tám là ngày bầy cỗ, tôi sướng
như điên, có đêm thao thức đến một hai giờ khuya không ngủ được. Đi hết Hàng
Thiếc xem những cái tàu bay tàu thuỷ, lại rẽ Hàng Mã xem con giống quay xuống
Hàng Gai xem đèn và sư tử, rồi lại quành ra Hàng Trống để đứng ngắm nghĩa xem
nên về nhà xin tiền để mua cái trống nào, tôi oán ức bố mẹ bắt phải lên giường
đi ngủ. Nằm nhìn lên những đám mây bay quanh ông trăng sáng in rõ hình thằng cuội,
cây đa, tôi thao thức vẩn vơ và nhiều khi, mở mắt rõ ràng, tôi tưởng như thấy
có những cô tiên bé nhỏ bằng ngón tay út bay là là từ mặt trăng xuống đất dắt
nhau đi “dung giăng dung dẻ” và hát những câu hát dân gian mà tôi thích thú vô
cùng vì lẽ chính tôi cũng biết những câu hát ấy:
“Ông giẳng, ông giăng – xuống chơi với tôi – có bầu có bạn –
có ván cơm xôi – có nổi cơm nếp – có đệp bánh chưng – có lưng hũ rượu – có chiếu
bám dù – thằng cu xí xoái – bắt trai bỏ giỏ – cái đỏ ẵm em - đi xem đánh cá -
có rá vo gạo – có gáo múc nước – có lược chải đầu – có trâu cày ruộng – có muống
thả ao - ông sao trên trời…”
Tôi cũng lẩm bẩm trong bụng hát theo các cô tiên rồi thiu
thiu ngủ lúc nào không biết, nhưng trong khi chập chờn vẫn nghe thấy tiếng trống
sư tử ở đàng xa vọng lại và những đứa trẻ hàng xóm vừa vỗ tay vừa đồng ca:
Ông trăng mà bảo ông trời,
Những người hạ giới là người như tiên.
Ông trời mới bảo ông trăng,
Những người hạ giới mặt nhăn như tườu.
Nhớ ơi là nhớ cái tết Trung thu ở Bắc! Vui, mà vui thế là
cùng! Về sau này lớn lên, nghĩ đến giờ phút đó, tôi không lạ làm sao lại có những
người thấy tết Trung thu về lại muốn phát điên lên, bầy các trò chơi lạ để hưởng
thụ cuộc đời cho đã.
Ờ này, hầu hết chúng ta gặp lúc trời sầu ngất ngất, lòng hận
mang mang, thường ngâm câu thơ cổ:
Thương nữ bất vi vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa
Nhưng có mấy ai nhớ rằng Hậu Đình Hoa, nguyên thuỷ là của một
anh chàng thấy mùa thu đẹp như điên không chịu được, đã sai các cận thần soạn
ra bản hát ấy để cùng hát với khúc “Ngọc Thụ” đêm rằm tháng tám ở Vọng Nguyệt
đình trong ngự uyển?
Cái anh chàng mê mùa thu xanh ấy là một vị vua chơi bời vô độ,
hoang dâm có tiếng, tên là Trần Hậu chủ. Chính ông này đã cùng các cận thần soạn
ra hai khúc “Ngọc Thụ” và "Hậu Đình Hoa”, nhạc và lời dâm dật để cho các
phi tần đẹp nhất trong ban “Nguyệt lý quần tiên” vừa múa vừa hát theo điệu “lộng
nguyệt vũ” tức là múa vờn trăng vậy.
Ôi chao, người ta cứ đả kích các cái “sô” và khích động nhạc
bây giờ: tội quá. Âu Mỹ, tổ sư lối vũ nhạc ấy, bất quá cũng chỉ là những kẻ nối
gót Hậu chủ mà thôi! Đêm thu, trăng sáng, Trần Hậu chủ cho bày tiệc yến diễn,
nào nấy chỉ khoác ngoài một cái áo dài màu lụa bạch để vừa múa vừa thoát y… rồi
thỗn thà thỗn thiện đến trước mặt Hậu chủ đề trình… ngự duyệt.
Tương truyền các trong ban “Nguyệt lý quần tiên” đều vui vẻ
trình thân như các người đẹp “xếch xy” bây giờ, duy có một người đẹp rụt rè
không chịu tiến lại gần nhà vua.
Nhân lúc đó chất men đã bốc, Hậu chủ chạy lại ghì chặt lấy cô
ta, xé cái áo dài lụa bạch ra để… soạng làn da mát rượi mỗi lúc mỗi trắng, mỗi
lúc mỗi trong hơn và sáng hơn: Nhà vua cười ha hả:
- Chao ôi, trăng cũng đa tình! Không thế, sao mỗi lúc mỗi
sáng hơn lên như vậy?
Rồi ngâm vang bốn câu thơ dưới ánh trăng:
Chiếu thử ôn nhu hương
Duy ngô đắc chung lão
Lao nguyệt phí quang mang
Về sau, có người tạm dịch:
Gớm cho trăng cũng đa tình,
Này nơi êm ấm cũng rình sáng soi;
Suốt đời riêng một ta vui
Trăng soi tỏ lắm cũng toi công mà!
Sách xưa chép rằng: saukhi ngâm xong bốn câu thơ trên, Hậu chủ
buông tay ra thì người con gái lăn xuống đất, không động đậy. Thì ra người đẹp
bị hôn quân nắm chặt, sợ và hổ thẹn không chịu được, đã tắt thở từ lúc nào rồi.
Các phi tần hỏang hốt tâu lên Hậu chủ thì đức vua lè nhè truyền
cho thái giám khiêng bỏ xác chết xuống sông. Nhưng cũng chính giữa lúc ấy thì lửa
sáng loè ở hoàng thành, tiếng hò hét, tiếng đao kiếm vang lên như sấm dậy, quân
nhà Tuỳ chiếm được hoàng cung và bủa vây tứ phía để tìm bắt tên vua dâm dật.
Hậu chủ chui trốn vào một bụi rậm, chờ lúc nửa đêm về sáng,
thừa khi có mấy che khuất mặt trăng bò ra một cái giếng ở hậu cung, đâm đầu mà
chết.
Cái chết không mấy gì đẹp, điều đó ai cũng thấy nhưng nghĩ
cho cùng thì cũng tội cho Hậu chủ vì tội có phải riêng của Hậu chủ đâu. Ai bảo
trời thu đẹp não nùng, buồn se sắt; ai xui gió thu biêng biếc nỗi sầu hắt hiu;
ai làm cho ánh trăng thu mươn mướt như nhung để cho người đa cảm thấy tâm hồn
phơi phới, thấy lòng tê tái, thấy thèm ân ái?
Nằm ở trên cái lầu cao nhìn ra dòng sông có khói to mờ mờ,
người chồng tưởng như thấy trong lúc bòng giăng lồng bóng nước thì cả bầu trời
rền rĩ lên khe khẽ, thương thương, y như thể tiếng rền rĩ thương thương khe khẽ
của người vợ nằm trong vòng tay của người chồng trìu mến.
Gió lay động bức màn mỏng nơi cửa sổ. Xa xa, ở trên con đường
dọc mé sông, có những bóng đèn trẻ con đi rước tháng tám phản chiếu xuống nước
trong văn vắt. Im, để mà nghe! Anh có thấy gì không?
- Anh chỉ nghe thấy có tiếng thở của trăng và tiếng tim em đập
mạnh như một con chim bé nhỏ.
- Không. Còn gì nữa. anh không thấy à? Thỉnh thỏang cùng với
gió may ở bên kia sông đưa lại, có tiếng hát trống quân. Thôi phải rồi, mình ở
thành phố lâu ngày không nghe hát trống quân, mà Trung thu không có tiếng hát
trống quân không được. Em là con gái Thuận Thành ở Bắc Ninh vốn là đất nổi tiếng
về hát trống quân và quan họ. Đã lâu lắm, em không được nghe một đêm trống quân
nào “gia dụng” thể nào, tối rằm này,chúng ta cũng phi sang Gia Quất xem hát,
anh có chịu không?
- Chịu chớ. Và anh chịu luôn các cụ nhà ta sao mà tâm lý thế,
lại khéo biết lất mùa này làm mùa cưới vợ, lấy chống. Gió hiu hiu khêu gợi thế
này, mà trời về khuya, lại hơi lành lạnh, trai với gái tốt đôi, thử hỏi còn có
bài thơ nào đẹp hơn không?
Quan quan thư cưu…
Nằm xích nữ lại đây em, anh kể cho em nghe nốt bài thơ của cặp
vợ chồng mới cưới…
Người vợ mỉm cười, mở rộng cửa sổ ra hơn một chút để cho ánh
trăng tràn vào cả gian phòng. Đến lúc thiu thiu ngủ trên tay chồng, người vợ
nói khe khẽ như trong mộng: “Nhớ nhé… thế nào chúng mình cũng phải đi nghe hát
trống quân!”
Thương biết bao nhiêu, nhớ không có cách gì quên được cái đêm
Trung thu năm ấy, hai vợ chồng quấn quít tơ hồng, cùng dắt tay đi qua cầu Bồ Đề
sang bên kia sông, vào trong một cái quán ngồi ăn miếng bánh đậu xanh, uống
chén nước chè tươi, nghe hai tay tổ là Hai Mão và cô Sinh ở Hưng Yên về Hát đố
nhau những câu hiểm hóc do lý Xuyến ở Gia Lâm sang cầm trịch.
Từ khi lạc bước vào Nam, tôi không còn được đi xem một đám trống
quân nào, trừ phi nghe với vẩn ở trên đài phát thanh, nên càng nghĩ đến cái đám
hát đêm Trung thu năm đó lại càng nhớ quá.
Thực ra, nói đến hát thì nhớ không biết bao nhiêu thứ: Phú Thọ
có hát xoan, hát ghẹo, Vĩnh Phúc có hát hội Rô. Bắc Ninh có hát quan họ và có
biết bao nhiêu miền còn bao nhiêu điệu hát mê ly nữa, như hát cửa đình có mầu sắc
tôn giáo, hát nhà trò ở các đám khao vọng, hát ca trù, hát văn, hát xẩm… nhưng
khồng hiểu là vì vợ mình thích mà mình cũng thích lây hay tại một lý do nào
không biết, tôi thích hát trống quân… không chịu được.
Tục truyền nghệ thuật hát trống quân có từ thế kỷ thứ mười ba
phổ biến lúc quân ta chống quân Nguyễn. Khi nghỉ, quân ta ngồi gõ vào tang trống
mà "hát suông” và “hát đôi”. Về sau, trong ngày tết Trung thu, trai gái
thường họp nhau dưới bóng trăng, trên bãi cỏ, trước sân đình, để háy trống quân
với nội dung đối đáp giao duyên, đề cao tình bạn, ca ngợi cnh đẹp của thiên
nhiên đất nước.
Hỡi cô Ba Sa Đéc, cô Tư Cần Thơ, cô năm Vĩnh Long, cô Sáu Mỹ
Tho, cô Bảy Đồng Xoài, mấy cô đã có bao giờ được xem tận mắt một đám hát trống
quân chưa? Ngộ không để đâu cho hết, mấy cô à. Nhạc cụ của điệu hát này giản dị
không chỗ nói: đàn kìm, đàn nhị, đàn xến, tay ban cầm… hết thảy đều là đồ bỏ. Tất
cả nhạc cụ chỉ gồm một cái hố sâu, có cái thùng bằng thiếc sáu thước căng giữa
hai cái cọc. Cầm mảnh gỗ, gõ khẽ một chút vào đầu dây, cái dây bật vào thùng
phát ra một thứ âm thanh giòn giã nhịp theo tiếng hát:
Thình thùng thình!
Một đàn có trắng bay tung,
Bên nam bên nữ ta cùng cất lên,
Cất lên một tiếng linh đình,
Cho loan sánh phượng, cho mình sánh ta…
Hát trống quân thường mô tả niềm vui hồn nhiên của dân ta.
Người hát phải biến báo, mau trí, sáng tác đột xuất để hát trả lời lại bên kia,
có khi nghiêm nghị, có khi trào phúng, nhưng bao giờ cũng phải giữ thái độ
thanh nhã, khiêm nhường, thua thì chịu thua chớ không được tỏ thái độ cục cằn
thô bỉ, nói thánh nói tướng, đề cao mình, hạ thấp địch.
Tôi nhớ đêm ấy Hai Mão đã hát một câu hóc búa để hạ phe Sinh:
Thình thùng thình!
Tiếng đồn thục nữ đại tài,
Bây giờ anh hỏi một lời phân minh.
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,
Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng,
Tài hoa ma mọi già gan,
Hỏi rằng tên học anh chàng ở đâu?
Tuy biết nhiều câu đố hiểm hóc, nhưng chỉ thuộc những vật dụng
hàng ngày, chớ không biết nhiều điển tích, Sinh không thể nào giảng được. Dưới
ánh trăng rằm, khán giả thấy mặt nàng đỏ ửng lên… Nhưng chẳng lẽ ngồi im? Nàng
đành phải nhượng bộ, xin Hai Mão giảng giùm:
Một lòng như ý sở cầu
Xin chàng nói lại trước sau sự tình
Thình thùng thình!
Thình thùng thình!
Hai Mão nhìn Lý Xuyến cầm trịch một cách hả hê và giảng:
Thình thùng thình!
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,
Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng,
Họ Lưng tên gọi Thạch An,
Triều vua Gia Tĩnh rõ ràng tài hoa,
Thật là trong ngọc trắng ngà,
Thấy mình không biết giảng ra mấy lời.
Đôi ta cũng một làng chơi,
Thấy em thực nữ trả lời cũng xinh,
Bây giờ lại hỏi phân minh,
Tài hoa ngỏ hết sự tình anh hay.
ở đời một giống lạ thay,
Đêm đêm hí nguyệt ngày ngày có thai.
Thình thùng thình!
Những tiếng “Thình thùng thình” cứ nhắc đi nhắc lại mãi câu đố
của Mão làm cho Sinh càng rối ruột, Biết làm sao bây giờ? Sinh nhất định không
chịu phục vì Sinh vẫn khinh Mão ra mặt thường giễu Mão què.
Nhưng tiếng “Thình thùng thình” mỗi lúc thêm giục giã. Mà cái
phép hát trống quân lại không cho người ta giở giọng cục cằn liều lĩnh.
Rút cuộc, Sinh lại đành phải xin hàng vậy, xin hàng như vậy
có lợi vì giữ được thể diện với công chúng và mặt khác thì lại được chia giải
thưởng, chớ giở mặt liều thì chẳng được xơ múi gì.
Sinh cúi mặt hát:
Thấy chàng tôi bỡn cợt chơi,
Thi gan mới biết là người tài hoa.
Chấp chi bồ liễu đàn bà,
Giữ gìn cho vững bông hoa trên cành.
E khi sông gió bấc bình,
Đành thân phận thiếp, ngại danh giá chàng.
ấy mới tài, ấy mới gan,
Xin chàng tỏ lại rõ ràng thiếp hay.
Có thế chứ! Cái công tu luyện của Mão không phải là vô ích.
Thấy Sinh hạ mình xin lỗi, Mão thấy nao nao trong lòng. Bèn hát:
Hay, hay, hay thực là hay
Làng cho có lẽ chịu tay bợm già,
Thuyền quyên rõ mặt tài hoa,
Nếu nàng đã chịu thì ta cũng lờ,
Cát đằng thuận nẻo gió đưa,
Chấp chung tần to sớm trức tuỳ lòng.
Sinh đáp:
Sâm thương đã vẹn chữ đồng,
Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?
E khi chiếc bách ba đào,
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may.
Sắt cầm hồ đã bén dây,
Thiếp xin thưa lại câu này vui chung.
Hai chữ “vui chung” của Sinh có ý nghĩa xin chia giải với
Mão, nhưng sợ người cầm trịch không nghe, nàng liếc Lý Xuyến một cách tình tứ rồi
hát:
Đâu nhiều tài tử anh hùng,
Biết rằng lòng có chắc lòng cho ai,
Sợ khi ép trúc nài mai,
Thế trong dù lớn hơn ngoài phó phân.
Vụng hèn nhờ lượng đại nhân,
Tuỳ lòng giải cấu xử phân được nhờ.
Lý Xuyến hiểu ý, trông Sinh mà cười. Ông phê vào tờ giấy cầm
trịch cho nàng ngang khuyên với Mão.
Nhưng sau Trung thu năm đó, Sinh không đi hát giải nữa. Cô đã
trở thành bác Mão gái; còn Mão què, xong vụ giật giải ở Gia Quất rồi cũng bỏ
nghề, xếp một chỗ ngồi ở đề Mậu Dưng đoán thẻ cho các bà các cô đi lễ.
Đau nhất là trong khi thiên hạ ca khúc bạc đầu như thế thì ba
năm sau đó, vào một ngày cách mạng bùng nổ mùa thu, vợ chồng mình lại ngâm câu
ly biệt. Đó chính là cái năm mà chính lúc vợ chồng đi lễ giao thừa đền Ngọc Sơn
thì cầu Thê Húc gẫy. Điềm xui xẻo đó ai ngờ lại vận vào mình cho đến cuối năm,
rồi từ đó cứ kéo lê thê mãi như lời thơ “Chinh phụ hành”.
Thập bát giá lang quân,
Thập cửu lang quân xuất,
Nhị thập, bất qui lai,
Kim niên nhị thập nhất.
Mà sau này có nữ sĩ dịch là:
Mới năm mười tám lấy mình,
Mà năm mười chín dứt tình ra đi
Hai mươi, mình vẫn chưa về,
Giờ hai mươi mốt trăng thề con soi!
Cái thời buổi loạn ly tạo nên bao nhiêu là biệt ly. Nằm ở miền
Nam vắng trăng mà chỉ thấy hỏa châu, không có tiếng trống quân mà chỉ nghe toàn
tiếng súng, không biết làm gì để giết cái vô liêu, người chồng bây giờ chỉ còn
biết trèo lên trên lầu, cầm ly rượu nhìn ra bóng đêm mịt mùng, ngâm câu thơ
“Thú cổ đoạn nhân hành”:
Sưu không trống giục người xa,
Thu về cánh nhạn bay qua gợi sầu.
Đêm nay sương trắng bắt đầu,
Cố hương hẳn cũng một mầu gưng nga.
Mấy em tan tác không nhà,
Tử sinh nào biết đâu mà hỏi han.
Thư đi không thấu dặm ngàn,
Bên trời huống lại chưa tàn nửa bình.
Nửa đêm về sáng, trăng xuống thấp chỉ còn cao bằng ngọn tre
thì cũng lúc ấy người tương tư cố hương cũng say khà. Hà, sáng mai đây, cuộc đời
lại tiếp diễn, cả thế giới lại thi nhau kêu gọi hoà bình và chưa biết chừng lại
có người tự thiêu “vì hoà bình, cho hoà bình”. Nhưng hoà bình bao giờ tới? Hoà
bình đi có còn trở lại không?
Người xa nhà không muốn nghĩ lôi thôi gì nữa, vì hy vọng sống
để trông thấy hoà bình và trở lại cố hương nhìn lại cố hương một chút trước khi
nhắm mắt, mỗi ngày mỗi nhạt đi mất rồi.
Cái thời buổi ly loạn này, tiến bộ đến tột bực, có đây lại
như thời Thiên Bảo được. Cuối thời Thiên Bảo, An Lộc Sơn nổi loạn, chiếm kinh
thành Tràng An, Vua Huyền Tôn phải chạy vào Thục. Sau, hoàng thái tử lên ngôi ở
đất Linh Vũ, hiệu là Túc Tôn.
Bây giờ Đỗ Phủ ở Khưng Thôn (Lộc Châu) cùng với gia quyến.
Nghe tin tân quân mới tức vị, nhà thi sĩ từ biệt vợ con, trốn đến nơi hành tại.
Chẳng may giữa đường, ông bị giặc bắt và bị kẹt mấy tháng trời. Mãi sau, Đỗ Phủ
mới trốn được về Linh Vũ. Túc Tôn phong cho ông chức Tả thập di, giữa khi ở
nhà, vợ con ông cùng quẫn, đến nỗi có vài con nhỏ chết đói. Túc Tôn nhận cho
phép ông về thăm nhà:
Mặt trời xế về Tây,
Núi cao cao vút, sắc mây ửng hồng.
Kim ô chìm xuống mặt đồng,
Thấy ta, cái sẻ reo mừng ngõ gai,
Ta từ ngàn dặm xa xôi,
Về quê hương cũ với người thân yêu.
Vợ con sửng sốt nhường bao,
Lạ rằng “người ở nơi nào lại đây?”
Định Thần lau mắt lệ đầy,
Lầm than, kể lại những ngày ra đi…
Loạn ly, trôi giạt một thì,
Ra đi, đâu hẹn ngày về hôm nay.
Đầu tưởng, hàng xóm tới đầy,
Nghẹn ngào cùng vị thân này cảm than.
Cầm đèn quên cả đêm tàn,
Nhìn nhau còn tưởng mơ màng thấy nhau.
Bây giờ sống trong chiến tranh “một” mới, ai đã từ biệt vợ
con để ra đi lại còn dám nuôi hy vọng được ngâm lại bài “Khương Thôn” như Đỗ Phủ?
Hoạ chăng chỉ thấy cố hương trong giấc mộng hay là mượn bóng trăng để gửi mối
tương tư hoa vàng về chốn nghìn dậm quan sơn.
Tiếng chim xào xạc bên đồi.
Giật mình lại ngỡ tiếng người dưới hoa,
Đường xa, rừng vắng, trăng tà,
Khói lên nghi ngút thấy nhà ta đâu!
Trăng thu, mây thu, gió thu ơi, trăng đẹp quá, mây cao quá,
gió buồn quá, người nhớ nhà van xin trăng đừng đẹp quá, mây đừng xanh quá, gió
đừng buồn quá, vì càng đẹp, càng xanh, càng buồn thì người xa nhà lại càng nhớ
day dứt đến phong vị Giang Nam, không có cách gì khuấy kho được trăm sầu nghìn
giận.
Đó cũng là lời nguyện ước của cô giá còn son nhớ chồng đi
lính trong khi chiến cuộc vẫn lan tràn, sen tàn rồi sen lại nở bao nhiêu lần mà
người thưng vẫn đi biền biệt không về.
Từ ngày chàng ra ải quan,
Mình em với bóng trăng tròn lẻ loi,
Trăng đừng tròn mái hiên ngoài,
Xin trăng hãy vỡ làm hai mảnh lòng,
Mảnh thì rơi xuống cô phòng,
Mảnh gài ngọn ải cho chồng em soi
Đến gần sáng, gió may làm rụng mấy cái lá biệt ly cuối cùng trên
mặt đường hanh hao xào xạc.
Người mặc bịnh tương tư uống thêm một ly rượu thật đầy, cho
thật say, rồi lên giường nằm thiu thiu giấc hồ. Trăng khéo trêu người, nào có
chịu thôi, lại chiếu vào cái giường xô lệch một nửa trăng (là trăng) để đó, một
nửa giường để đó (để đó) chờ ai… hữ la ơi…
Thì đã bảo cái gì đẹp thường là vẫn chóng tàn. Giai nhân,
danh tướng đều không để cho người ta thấy bạc đầu thì dễ gì trăng lại cứ sáng
mãi, tròn luôn để cho tao nhân mặc khách cứ uống rượu khà mà ngâm câu “nguyệt
thi cố hương minh”.
Trăng giữa tháng tám đẹp trội lên, đẹp ảo huyền tức là trăng
sắp kém tươi và bớt sáng đến nơi rồi. Biết quá cái diễn tiến của cuộc đời là thế,
các nhà thơ đành chỉ còn biết nhìn trăng mà luyến tiếc, sống mà đã cảm thấy rõ
rằng ngày đương có là ngày đã hết.
Bao nhiêu lời vàng nói lên cái cảnh đưa bạn ở trên sông nước
bây giờ thành ra là những tiếng thơ tả nỗi lòng của người đa cảm chia tay với
trăng thu để cho những ngày bàng bạc mầu thì có mưa bóng mây, có gió lạnh, có
tiếng sếu kêu đìu hiu về thay thế.
Đầu bến sông Hoài bóng nguyệt soi,
Trời chìm đáy nước, nước trôi xuôi,
Sáu triều việc cũ,
Mây nổi chơi vơi,
Dưới trăng ấy
Ta với người
Biết nhau rồi đấy muôn trùng thẳm
Thuyền rẽ sông Hoài sóng bạc trôi.
Cái buồn của tháng tám nên thơ, qua khúc rẽ, cái buồn của
tháng chín ủ ê, day dứt.
Nhìn lên trời, người ta trông thấy trăng liềm nhô ra khỏi mộng
để cho ánh ngà vắt sữa xuống ngàn cây; nhưng bây giờ thì mỗi khi chiều lắng xuống,
sưng đâu đây đã dâng lên và hơi lạnh bắt đầu vỗ cánh bay vào trong quán gầy, có
người đàn bà vặn ngọn đèn nhỏ lên may áo rét cho chồng nơi gió cát.
Những lúc đó, vì có muốn bắt chước người ly phụ trong thơ Đường
lậy trăng xin ở lại trăng cũng chẳng buồn nghe. Bây giờ, nghĩ mới ghê cho các cụ
ngày xưa, biết lẽ tồn vong hn c ai ai, gặp những giây phút rầu rĩ như vậy,
không nói không rằng, lặng lẽ trèo lên núi cao uống rượu “Trùng cửu đăng cao” để
tiếc nuối mùa thu sắp hết.
Hay là để hưởng nốt những cái gì còn thể hưởng? Không biết.
Nhưng các cụ ăn tết Trùng cửu ở trên cao như thế thì vợ chồng mình một ngày
trùng cửu xa xưa nào đó cũng bắt chước, trèo lên trên lầu, nhìn ra sông nước xa
xa ngâm khúc hát tạ từ:
Hôm nay có phải là thu,
Mấy năm xưa đã phiêu du trở về,
Cảm vì em bước chân đi
Nước nghiêng mặt ngọc lưu ly phớt buồn.
Ai về xa mão cô thôn,
Một mình trông khói hoàng hôn nhớ nhà.
Ngày anh mới bước chân ra,
Tuy rằng cách mặt lòng ta chưa sầu.
Nắng trôi, vàng chảy về đâu?
Hôm nay mới thật bắt đầu vào thu.
Ở cuối sông, sương đục bốc cao ngút lên đến trời. Người vợ,
thấy gió lạnh, kéo cái khăn choàng che nửa mặt mà rằng:
- Nhưng nghĩ cho cùng thì “trùng cửu đăng cao” để tiếc nuối
trăng thanh gió mát chưa chắc đã hoàn toàn đúng. Đâu phi chỉ có mùa thu là đẹp?
Mà tết Trùng cửu ăn vào ngày mùng chín tháng chín mỗi năm hình như còn có một ý
nghĩa khác hẳn thế, chớ không phải dành riêng cho các nhà văn nghệ sĩ ngồi mà
luyến tiếc mùa thu đẹp và than khóc mùa thu chết.
Chứng cớ là theo sách sử để lại thì tục ăn tết Trùng cửu bắt
đầu từ bên Tàu: cứ vào ngày mùng chín tháng chín, cả thiên hạ đều nô nức vui
chơi như trong tết Thanh minh, kẻ lên núi cao, lội suối, người ra sông thả một
con thuyền rong chơi, người đánh cờ dưới bóng tùng, kẻ thả diều trên bãi cỏ.
Các công nương mỹ nữ, trong xiêm y lộng lẫy, đi trong sương mù, gió lạnh hái
hoa đêm về cùng với các trái cây đặt lên bàn thờ, vì theo tục lệ truyền lại thì
ăn trái cây tháng này tránh được tai nạn bất thường, còn hoa đem sắc lên lấy nước
uống thì tránh được nhiều bệnh tật trong những ngày đông tháng giá.
Vậy là cả bàn dân thiên hạ vui chi trong ngày tết Trùng cửu,
chớ không phải chỉ là ngày tết dành riêng cho các mặc khách tao nhân nói lên
cái đẹp của mùa thu đang chết.
Có lẽ như thế đúng hơn, vì mùa thu đẹp, mà đẹp hơn nữa là những
ngày tàn thu, nhưng ai bảo mùa đông lại không có những cái đẹp riêng của nó,
cái buồn nên thơ riêng của nó?
Tháng chín là tháng cuối cùng của mùa thu, nhưng bây giờ ngồi
nhớ lại những ngày tháng chín đã qua ở Bắc, tôi thấy rằng tháng chín không hẳn
là thế, mà còn ấp ủ một cái gì đẹp hơn thế, đa tình hơn thế: ấy là lúc đôi mùa
thu, đông gặp nhau, mở hội giao hoan trước khi đưa tiễn nhau trên bến sông trắng
cỏ bạc đầu, có gió lạnh mới về chạy xào xạc trong lau lách.
Ới ơi những người lỡ hội chồng con, có phải đến tháng này, ở
Bắc Việt, cái gió lạnh mới về ấy thấm vào da thịt, len lỏi tới sâu thẳm của tâm
hồn, nó làm cho người buồn dằng dặc, tự nhiên cảm thấy thèm khát yêu đương hơn
cả bao giờ hết phải không?
Nhìn ra thì thấy cái gì cũng vẫy chào, hẹn hò nhau, cái gì
cũng tơ hồng quấn quít, cái gì cũng đủ lứa no đôi; hồng thì có cốm đẹp duyên,
buổi thì có lòng ân ái, gió bấc có mưa phùn, cam vàng có quít xanh, ăn cái món
rươi thế nào cũng phải có vỏ quít mới dậy mùi, thế thì tôi đố ai cầm lấy chén
cơm mới đưa lên môi mà lại không nghĩ ngay đến chim ngói nhồi củ cải, thịt ba
chỉ, hạt sen và miến?
Ghê cho các loài cây sao mà đến tháng này thấy hoa rét trở về
cũng như cảm thấy thèm thuồng ôm ấp, để cho đỡ lạnh lùng. ấy là cây phật thủ.
Ba mươi tám năm trước ở miền này, tôi chưa được thấy loại cây “tiến” ấy nhưng
bây giờ lạc nước đi vào vườn của mấy ông bạn chịu chơi, một vài gốc phật thủ đã
thấy hiện ra, nhưng hầu hết chỉ tốt lá đẹp hoa mà bói thế nào cũng không chịu
ra lấy một hai quả để bầy cho thơm nhà.
Ở Bắc, cứ vào cữ tháng chín này, sao các cây phật thủ sai quả
thế? Mà tại sao ở đây lại cứ đực ra? Hay là tại thổ ngơi? Hay là tại hơi bom đạn
của Mỹ ném đã làm thui chột các quả đó ngay khi còn trứng nước?
Hoá ra nghĩ như thế là lầm. Có tìm được những người đã trồng
phật thủ ở Bắc Việt vào đây mới biết là giống cây này tuy là mang cái tên rất đạo
mạo trang nghiêm nhưng đến tháng tám bước sang đầu tháng chín là lúc bói quả
thì lại không chịu được sự lẻ loi, cô quạnh. Muốn cho sang đến tháng chín phật
thủ có trái thì từ tháng bảy, tháng tám nhà trồng tỉa đã phải ủ cho cây “một chất
đàn bà” để cho ấm lòng.
“Nói bậy. Cây gì mà lại có cây khéo khéo đa tình đến thế?”.
“ấy thế mà thực đấy, mới phiền. Không có chất đàn bà, cây nhất
định cứ ì ra nằm vạ”.
“Thế cái chất đàn bà ấy là chất gì?”
“Nói thì tục tĩu, nhưng thực, sợ gì mà không dám nói? Chất ấy
có thể là một cái yếm, một cái quần, một cái khăn… Nhưng điều cần là khăn ấy,
quần ấy, yếm ấy phải do người đàn bà đã dùng rồi, nghĩa là phải có hơi hướng của
người đàn bà mới được. Đem ra bón ở gốc cây, cũng như hoàng lan bón phân ngựa,
mai vàng bón gạch non, sứ Thái Lan bón khô dầu, rồi lấy nước giặt quần dơ của
đàn bà ra tưới, ấy thế là phật thủ đỏ mày hạy hạt, sang đến tháng chín thì quả
cứ lúc lỉu ở trên cây. Lại lấy cái quần, cái yếm cũ của đàn bà ra bọc lấy trái
cho đến khi da nó bóng lên, các cái móng dài cuốn lại như móng tay Phật, anh
hái đem về để lên trên mâm ngũ quả, đến đêm hương dậy, lên khắp cả nhà. So với
thanh yên,và bưởi, hay hồng hạc, cam sành, trái phật thủ bổ ra ăn chơi một miếng,
chửa chắc đã ngon bằng, nhưng từ xưa nó vẫn được tiếng là quý thành ra lúc ăn,
ai cũng lấy làm trịnh trọng – nhiều khi cứ để đấy mà trông, thỉnh thoảng cầm
lên mà nắn cho nó teo đi, để dành phòng khi đau bụng mang ra dùng chớ không dám
ăn sợ phí. Những người ăn thuốc “sưa” rồi lại bầy ra cái trò kỳ cục không chỗ
nói: tiêm thuốc phiện vào trong phật thủ rồi để đấy cho nhuyễn vào vỏ và thịt của
trái cây. Này, cứ thỉnh thoảng tiêm một chút như thế rồi để đấy, hàng năm không
thúi; khi nào cần, lấy ra dùng một miếng, sợ còn hay hơn là thuốc tiên, cụ ạ. Gớm
cho cái giống Âu Tây họ không chảy máu mắt ra; lấy vỏ phật thủ chế ra cái rượu
cointreau ngon đáo để, ngọt cừ lừ, ấy thế mà say đo đồng đo địa lúc nào không
biết”.
Mứt phật thủ ăn cũng ngon gia dụng, nhưng riêng tôi lại ưa
cái mứt kỳ đà hơn, vì cùi của kỳ đà dầy, còn thơm cũng tựa như phật thủ. Đó là
một thứ bưởi lớn có khi hơn cả cái đầu một đứa trẻ lên năm, ngon không thể bằng
bưởi Đoan Hùng, Phúc Trạch nhưng quý vì cái cùi của nó giòn, ăn vào sừn sựt mà
thơm một cách độc đáo, nửa như mận Thất Khê mà nửa như hồng mòng.
à, hồng mòng! Phải rồi, cái hồng này ít lâu nay cũng thấy bầy
bán ở niềm Nam nhưng có lẽ vô duyên là khẩu cái của tôi cho nên từ khi có loại
trái cây này bầy bán các chợ đô thành, tôi chưa được thưởng thức một trái nào mềm
xớt, ngọt lừ như hồng mòng ở Bắc ăn với cốm vào cuối tháng tám đầu tháng chín.
Cốm thì xanh biêng biếc mà hồng thì đỏ chói chang, hoạ sĩ lập
thể nào đã dám dùng hai mầu đó kết hợp với nhau chưa? ấy thế mà ở Bắc, cứ đến
tháng chín thì nhà trai lại đem đến sêu tết nhà gái hồng và cốm, hai thứ bầy
sát với nhau. Nhìn những mâm hồng và cốm tốt đôi như trai gái tốt đôi, ai cũng
cảm thấy lòng mình nở hoa và kính sợ tổ tiên ta hơn lên một chút vì sao các cụ
lại có thể lựa chọn tài đến thế trong việc chi mầu sắc đồng thời lại đem cho
nhân duyên của trai gái một ý nghĩa đậm đà đến thế.
Hồng, thực ra, có ba bốn loại: hồng hạc, bốn múi, trái dài,
ít hột, ngon nhất là giống ở Việt Trì; hồng ngân tức là thứ hồng xanh, có trái
ăn hơi chát, muốn kiếm thứ thực ngon phải là giống ở Sơn Tây. Nhưng trong lễ cưới
hỏi, nhất định phải tìm cho được hồng mòng, chẳng những trông đã đẹp mắt, mà cốm
và hồng ăn vào miệng lại nhuyễn với nhau, vừa thơm, vừa ngọt, vừa bùi, ấy ai đa
cảm, mấy mà không nghĩ rằng thịt ướp lấy thịt, da ướp lấy da để hoà làm một
cũng chỉ mê ly đến thế chớ không thể nào hơn được!
Ôi thôi, đến cái thú thưởng thức miếng ngon đất Bắc vào những
ngày tàn thu, nghe gió bấc thổi vi vu bên cạnh người thương bé nhỏ thì biết kể
đến bao giờ cho hết. Tháng chín thì quít mới đỏ tròn, ăn chưa xứng ý, nhưng cam
thì có cả rừng bạt ngàn san đã ở trên những vùng mường mán, ai muốn ăn bao
nhiêu tuỳ thích, mà muốn trả mấy hào cũng cứ được đi. Tuy nhiên, ăn như thế chỉ
là ăn chi. Mùa này, bắt đầu có cam sành nổi tiếng ở Bố Hạ, vỏ vàng ăn ngọt như
đường phèn; cam chanh ở Xã Đoài không những ngọt lại thơm, chẳng thế lại được
liệt vào hàng cam tiến; còn cam Giàng sản xuất từ làng Giàng ở Thanh Hoá thì có
ý mát và nhiều nước hơn.
Tôi nhớ lại có những buổi chiều vô liêu tháng chín, trời lạnh,
gió tê tê buồn, không đi ra ngoài, ăn cơm xong, tráng miệng bằng cam rồi không
biết làm gì ngồi châm một ngọn đèn dầu lên hút thuốc rồi lấy những cái vỏ cam
bóp và ngọn lửa; nước ở trong vỏ tia ra làm bùng ngọn lửa đèn, tạo cho mình một
sự thích thú và hồi hộp lạ.
Chẳng biết cái vỏ cam ấy để dành có làm được vị thuốc gì
không, chứ cái vỏ quít thì quả là dùng vào được nhiều công việc quá. Ai ăn nhiều
mà đầy dạ bụng, khó tiêu cứ lấy vỏ quít kinh niên sắc lên mà uống; nhưng ăn rươi
mà dùng vỏ quít phơi khô không sướng bằng dùng vỏ quít tươi mới lột ra, thái
như sợi chỉ.
Tài thế! Chẳng cần nhiều chỉ một dúm thôi, cho vào rươi tráng
trứng, rươi mắm, rươi nấm với củ cải theo kiểu tam xà đại hội hay là rươi xào
xâm xấp nước với củ niễng, rắc mấy cọng mùi lên trên, tự nhiên rươi dậy hẳn
mùi. Thiếu vỏ quít, nhất định không phi là rươi nữa cũng như non thiếu nước,
trăng thiếu hoa, gái thiếu trai, nhất định không có cách gì tạo nên được bài
thơ ý nhị!
Thế nhưng mà quái, làm sao đến tháng chín, có nhiều cái thú ý
nhị thần tiên thế nhỉ?
Đã cốm với hồng, đã vỏ quít với rươi, lại còn gạo mới chim
ngói nữa. Có phải là ông trời đem tất cả những cái gì đẹp nhất, mê ly nhất lại
cho người Bắc Việt để đền bù lại cái đời sống vất vả của những người ưa chuộng
hoà bình nhưng liên tiếp cả ngàn năm phải vật lộn, phải đấu tranh để chống lại
ngoại xâm lúc nào cũng manh tâm thôn tính cái dải đất nổi tiếng là bờ xôi, ruộng
mật?
Mặc. Muốn mưu toan gì mặc, người đàn ông cứ quyết tâm giữ phần
đất của mình đến kỳ cùng, còn người đàn bà thì cứ thờ chồng nuôi con, và giữ lấy
dung nhan cho đẹp để cho người chồng được hởi dạ dưới ngọn đèn rủ chao xanh.
Thường thường, vào cữ có nắng hanh ban ngày, da người vợ hi nẻ
và hồng lên đôi má. Mặc dầu ánh sáng đèn chiếu ra xanh lờn lợt, người chồng ngồi
cạnh vợ cũng thấy đôi má vợ phn phớt hồng như hoa đào. Tấm áo nhung đen rưng rức
làm nổi bật sắc da ở cổ tròn trịa lên; cặp một có vẻ thắm thêm một chút; ở
ngoài gió bấc xào xạc làm rung động ngọn hoàng lan và người chồng nhìn vợ nghĩ
đến làn da ấm áp thm thm mùi hoa chanh.
Trời tháng chín ở Bắc Kỳ lạ lắm. Có nhiều lúc trời đang nắng
hanh vàng bỗng tím về một hướng rồi mưa rào rào một lúc rồi tạnh, rồi bất thần
lại mưa.
Đó là mưa bóng mây, đó là mưa rươi.
Cái mưa này, tuy vậy không có gì độc hết. Thường thường, người
ta chỉ se mình, khó ở một chút thôi. Nhưng trời khéo đa tình, cứ vào lúc màn
đêm rủ xuống, gió bấc nổi lên thì máu phát ra từ con tim dường như chy mạnh hơn
và cả vợ cả chồng đều thấy diễm tình bát ngát trên làn môi thương thương, trong
đuôi mắt yêu yêu… Đến khuya, cả hai vợ chồng vẫn nằm mở mắt trong bóng tối để
nghe tiếng gió lay động những cành hoàng lan. Người vợ lấy tay đập khẽ vào vai
chồng nói khẽ, như sợ có ai nghe thấy:
“Này, mai nhớ đánh thức em dậy sớm, đừng có ngủ quên đấy
nhé”.
“Dậy sớm làm quái gì. Thức khuya mệt, ngủ đi cho khoẻ”.
Nhưng người vợ không thể chiều ý người chồng vì mai là muồi bốn,
phải đi chợ Mới Mơ mua chim ngói về cúng với gạo mới.
Gạo mới gặt về đúng lúc có chim ngói, hai thứ gắn liền với nhau,
cũng như quít với rươi, hồng với cốm thiếu một thứ không còn ra nghĩa lý gì.
Nhưng tại sao hai thứ đó lại ăn khớp với nhau như thế? Suốt một năm, người ta
không thấy bóng một con chim ngói, thế mà không hiểu tại sao cứ có gạo mới thì
cái giống chim ấy ở đâu lại dẫn diệu về để làm tăng cái thơm, cái dẻo của gạo mới
tạo thành một khối thuần nhất, lạ kỳ, thứ này làm tăng hương vị của thứ kia
lên, khiến cho người sành ăn chỉ còn biết tặc lưỡi, gật đầu vì không còn chữ để
mà ca ngợi nữa.
Chẳng biết xem ở sách nào, người vợ kéo cái chăn đơn lên đến
cổ y như con chim nhỏ thò đầu ở tổ ngó ra ngoài, kể cho chồng nghe lai lịch của
con chim ngói:
- Đúng rồi. Cái giống chim này quanh năm không có, tuy chỉ xuất
hiện vào khong đầu tháng chín mà thôi. ấy là vì nó không phải là một giống chim
của nước ta, mà là của những vùng biên giới Trung Hoa thấy gió rét, bay về
phưng Nam để tìm một nơi ấm áp hơn trú ngụ, nhưng vừa tới đây thì người ta bẫy
từng đàn. Bẫy bằng vó như bẫy chim sẻ vậy.
Tài tình đáo để người Việt. Các đồ vật ứng dụng chẳng cần máy
móc móc không gì, chẳng cần phưng trình thức, đại số thức, hoá học thức con tườu
gì, ấy thế mà đem ra dùng thì bén nhậy và hữu hiệu lạ lùng.
Cái vó bẫy chim ngói, có gì cầu kỳ đâu: chỉ có một cái lưới,
hình tròn, giữa có một cái trụ để dụng một lửa lưới lên, còn nửa kea thì để nằm
trong ruộng, trên rắc lúa làm mồi. Chim ngói, bay từng đàn mà râm cả một góc trời,
sà xuống để ăn thóc. Người bẫy chim, do một sợi dây buộc vào cái vành lưới làm
bằng tre cật, giật một cái, phần nửa lưới úp xuống, và cả mẻ chim vào bên
trong. Muốn cách gì cũng không thể chệch được vì người bẫy chim đã cẩn thận buộc
vào vành lưới đó nhiều hòn gạch nặng, một khi đã úp xuống thì chim khó lòng
thoát được ra. Có khi có tới vài chục con bị mắc lưới theo kiểu đó cùng một
lúc.
Bây giờ, ngồi ở đây nhiều khi trông mưa nhớ nhà, tôi ưa nhớ đến
những ngày có bóng rươi ở Bắc, cha mẹ anh em quây quần dưới một ngọn đèn dầu,
chúng tôi tranh nhau vặt lông chim ngói rồi thả xuống đất giậm chân đạp tay để
cho nó trốn lủi vào những gầm giường, xó tủ.
Chính ra con chim ngói trông cũng không đẹp mấy: từa tựa như
bồ câu, chim gáy, nhưng nhỏ hơn và tròn mình hơn. Lông chin ngói mầu nâu, điểm
những chấm đen đen, mà đuôi thường cụt. Vặt lông rồi, nó để lộ ra một làn da
xam xám, thỉnh thoảng có vết máu rớm ra vì người nhổ lông bất cẩn. Có lẽ vì nó
sợ, và có lẽ vì đau, chim chíu đầu xuống đi bập bà bập bỗng, trông như một đứa
trẻ lột trần vừa bị đòn đau, tìm chỗ trốn.
Tội nghiệp cho kiếp chim, ai thấy mà không ái ngại, nhưng triết
lý là một chuyện mà thực tế lại là chuyện khác: chỉ một lát nữa thôi, mổ ruột bỏ
lòng đi rồi nhồi hạt sen, ý dĩ, miến, thịt ba chỉ, mộc nhĩ, nấm hưng cho vào nồi
hầm lên, anh sẽ thấy rằng các nhà đạo đức tu hành khuyến cáo các đệ tử ăn chay
trường, cấm sát sinh, thật quả là dại, dại quá, dại không thể để đâu cho hết.
Đáo để là cái giống chim này, sao mà thịt nó thơm, mà lại mềm đến cả cái xương,
bồ câu, chim cu sao có thể đem ra mà ví được? Chết, đem nó làm món gì cũng ngon
chết người đi: Xáo với măng, lá lốt như kiểu sáo vịt đã hay, thái ra từng miếng
nhỏ hấp với rau cải nõn lại càng ngon tệ, nhưng ngon vượt bực là đồ một chõ xôi
“nếp cái mới” rồi úp mọt hai con chim ngói lên trên để cho mỡ nó nhuyễn vào xôi
lấy ra ăn thập nóng, nhất định là c thế giới này không có một món ăn nào sánh nổi!
ấy chính là chim ngói ngon và quý một cách rùng rợn như thế
cho đến mùa mà ăn ngay thì đắc tội với trời: không được!
Vì thế tất cả những gia đình có lễ giáo mỗi khi đến mùa chim
ngói đều phải sửa lễ cúng trời đất, tổ tiên cùng với gạo mới vì cuối tháng tám
đã gặt lúa mới, sang tháng chín gạo mới đã bắt đầu đem bán ở khắp nhà quê kẻ chợ.
Ở đây, ngon nhất thì có Rẻ Cánh, Nanh Chồn, Nàng Hưng… thổi một
nồi c m lên thơm ngát cả nhà; kể ra cũng đã là “cao cấp”, nhưng mà đến cái gạo
Tám Thơm ở Bắc thì phải nói là thm “điếc mũi”, ghế nồi cơm lên, không những cả
nhà thấy ngào ngạt hương thơm mà cả mấy nhà hàng xóm cũng bắt thèm rỏ dãi! Gạo
Tám nổi tiếng nhất là ở Bắc Ninh, nhưng Bắc Ninh lại có một làng riêng sản xuất
một thứ Tám Thơm “thượng thặng”: làng Cói. Gạo Tám Cói thổi lên ăn với chim
ngói hầm đem cúng thiên địa quỷ thần và tiến vua quả thực là đúng khổ, y như
thưởng trống cô đầu đến đoạn “dịp phách phách” mà đánh “bóc bóc” hai tiếng ăn
nhịp với nhau chan chát, chịu sao cho nổi!
Nhưng người đẹp như Tây Thi đau bụng nhăn mặt lại mà vẫn cứ đẹp
như thường thì gạp Tám Thơm cứ gì phải ăn với những món thực quý, thật là mới
ngon? Này, thổi một nồi cơm gạo Tám Cói cho thật vừa lửa, ghế cho thật vừa tay
rồi xới ra một chén đưa lên, nhìn cái hạt cơm trong muốt, trắng tinh, ong óng
như con ong, có khói bốc lên thơm ngào thơm ngạt, có khi anh chỉ rưới lên một
tí nước mắm Ô Long hay một hai thìa nước thịt rim ăn cũng đã thấy ngon quá thể
rồi; nhưng nếu người nội trợ Bằng thấy thịt thăn ngon mà rẻ, lại mua về làm mấy
lạng ruốc bông để đấy, lấy ra ăn với cơm Tám vừa chín tới thì… nhất định tối
hôm ấy phải yêu thương người vợ hơn một chút.
Người chồng mới nói rằng:
“Cơm hôm nay thổi khéo quá. Giá em thổi cơm thi nhất định anh
phải chấm em giải nhất”.
ấy đó, người đàn ông thường có những cái bực mình lặt vặt như
thế đấy: tưởng nói như thế thì lòng tự ái của vợ mình căng lên, không ngờ chính
anh nịnh vợ lại đâm ra “hố” vì nịnh không đúng chỗ.
“Anh nói em lại nhớ. Phải rồi, vào cái cữ này đây, ở Bắc Ninh
ngày trước, có cái tục thổi c m thi nhưng không phi ở Thuận Thành mà ở Thị Cầu.
Con trai bốn giáp Đông, Bắc, Giữa, Già, từ mười tám đến hai mươi được cử đi rước
thần – anh có nhớ tháng tám tháng chín là hội cha mà tháng hai tháng ba là hội
mẹ không – và đến hôm rã đám thì được phép dự cuộc thổi cơm thi.
“Nhưng thổi cơm thi có tiếng là làng Tích Sơn, huyện Tam
Dương tỉnh Vĩnh Yên. Khác hẳn làng Thị Cầu làng Tích Sơn lại có tục thổi cơm
thi vào ngày hội mở ngày mồng ba tháng kiến dần. Trai làng từ mười tám đến bốn
mươi phải thổi mỗi người một nồi cơm mang đến trình các cụ ở đình. Sau khi ban
giám khảo xét nét rất nghiêm minh, nồi nào thổi khéo nhất thì để thờ, các nồi
khác để các cụ thưởng thức rồi còn bao nhiêu để mời khác thập phương nếm thử.
“Nhưng ở Thị Cầu, cũng như ở Tích Sơn, cơm thổi dự thi mà được
trúng cách không tơi lên như thứ cơm gạo mới em thổi cúng tháng ngày hôm nay
đâu anh ạ.
“Lúc em còn nhỏ, em đã đi xem nhiều cuộc thổi cơm thi rồi nên
em cũng biết ít nhiều. Cơm dự thi mà được coi là khéo phải hội hai điều kiện; một
là cơm phải mịn như cơm nắm, đổ ở nồi ra có thể lấy dao cắt thành miếng một mà
cầm không có chát hay có vỏ bao lấy nắm cơm; hai là cái nồi đất thổi cơm không
được bén lửa, nấu cơm rồi mà cái trôn nồi vẫn mới nguyên.
“Ăn một miếng cơm như thế, nó cứ lừ đi trong cuống họng, vừa
thơm vừa mát mùi nhựa gạo. Nhưng chỉ ăn chơi bời một hai bữa là cùng, chớ ăn
hàng ngày thì phải thổi cho ráo nước, cơm cứ tơi lên, không khô, không nát thì
mới gọi là thổi khéo”.
Khéo chống chế, anh chồng nói:
“À, ra cơm thổi thi nói như thế hay sao? Nào ai biết. Chỉ biết
đọc truyện “Phạm Công Cúc Hoa” thấy nói đến thổi cơm thi khác thổi cơm thường.
Nhưng mà cơm thi hay cơm thường thì em vẫn cứ là nhất, anh tự lập lấy một ban
giám khảo, và chấm như thế đấy”.
Người vợ cười và đêm ấy cũng thấy yêu thương người chồng mặn
mà hơn đêm trước nhiều.
Gió bấc thổi về gần sáng lạnh hơn, buồn hơn. Cả hai người lúc
ấy cùng cơm thấy sống đủ đôi ấm quá, mà cái tháng chín ở Bắc quá là tháng lý tưởng
của bùi ân ngọt ái. Nhưng càng bùi, càng ngọt bao nhiêu thì cũng lại càng
thương biết mấy mươi những người chinh phục trăng tủi, hoa sầu không biết than
cùng ai thở cùng ai không biết chồng đi trận còn sống hay đã chết, đành là gửi
hồn mộng đến Ngư Dương để gặp bạn chiếu chăn ngày cũ:
Bên thành rặng liễu thướt tha,
Dâu xanh um tốt to ra đầy đồng.
Vẩn vơ mang giỏ về không,
Ngư Dương còn nhớ giấc nồng đêm qua.
Bây giờ, nằm ở niềm Nam, nhớ về phương Bắc, người chồng không
ngờ đâu mình lại cũng là người đi hái dâu chỉ thực sống khi còn trong mộng, mà
mộng tỉnh rồi thì lại tiếc mộng mấy mươi!
Hôm xưa đương lúc nửa đêm,
Gặp nhau trên gối đã tìm trong mơ.
Nỗi lòng vừa kể hết;
Mặt đẹp tựa hoa xưa,
Tha thướt đôi mày liễu,
Nửa mừng nửa ngẩn ngơ,
Muốn gần nhau vẫn đứng trơ,
Đau lòng nghĩ tiếc giấc mơ vừa tàn.
Tiếc không biết bao nhiêu những đêm lạnh nằm chung một chăn
đơn với vợ ăn hạt dẻ, nói đôi ba câu chuyện buồn vui thế sự; tiếc những buổi
chiều mưa rươi hai đứa dắt nhau đi trên những con đường vắng ẩm ướt có hoa sấu
rụng thơm lên trong không khí một mùi hương dìu dịu, man mát lại chua chát; tiếc
những ngày tản cư cùng đứng trên con đê sông Máng với con trai nhìn về phía có
đèn sáng ở đô thành ngâm bài thơ đi đầy.
Nằm ở đây bây giờ, người chồng bỗng nhiên thấy tủi thân vì cảm
thấy chìa khoá để mở cái tháp vàng đã mất rồi, ngày vui không hy vọng còn trở lại,
cũng như người tỳ bà nữ bến Tầm Dương không còn hy vọng được thấy những ngày ở
Hà Mô có không biết bao nhiêu chàng trẻ đem the thắm để mua lất tiếng đàn huyền
diệu.
Thì ra cái thân mình ở đây cũng chẳng hơn gì người tỳ bà nữ
lúc về già, lấy người lái buôn chè, một đêm ngồi thuyền gảy mấy thiên ai oán
cho Bạch Cư Dị nghe lúc tiễn bạn ở sông Bồn, vào khi ông bị biếm ra làm chức Tư
mã ở quận Cửu Giang hẻo lánh:
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất chính gối sầu hôm mai,
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đờn địch cả năm;
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau già trúc võ nảy mầm quanh hiên,
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,
Cuốc kêu sầu vượn nói nỉ non,
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng,
Há chẳng có ca rừng địch nội,
Giọng líu lô buồn nỗi khó nghe
Tiếng tỳ bỗng lắng canh khuya,
Nghe thấy tiếng đàn của người tỳ bà nữ, khắp tiệc hoa đều
tuôn nước lệ rơi, nhưng đến lúc chiếu cuốn rượu tàn, trở lại chỉ còn chiếc thuyền
trăng giãi nước trôi, người tỳ bà nữ nằm một mình, nghĩ một mình lại chỉ còn biết
vui với cảnh, với người trong mộng, ấy vậy mà ngay ở trong mộng cũng buồn, tỉnh
dậy mà vẫn còn thấy nước mắt đầm đìa mặt gối.
Người chồng bây giờ ở đây cũng ôm đàn đi gảy thuê cho thiên hạ
giải sầu, nhưng đêm khuya về nằm một mình ở căn nhà gầy, y không khóc như người
tỳ bà nữ, nhưng nâng chén rượu lên uống một mình, ngâm khẽ mấy câu thơ cũ:
Hơi may heo hắt từ tây,
Giang Nam phong vị độ rầy ra sao?
Năn nỉ với hai sao bến Hán,
Dải trường giang giới hạn đông tây,
Hai sao soi biết nạn này,
Xin cho thất tịch cùng ngày đoàn viên.
Vầng trăng trước về miền vân thuỷ
Soi những người thiên lý tưng tư,
Đi qua vườn cũ lơ thơ,
Thử xem án cũ cầm như thế nào?
Trông đàn én bay cao phấp phới,
Xịch then song gọi với trước mành.
Tiện đây nhờ gởi chút tình,
Chờ xuân nhắn gởi chim xanh còn chày!
Tình nam bắc thây ngày qua tháng,
Sầu biệt ly vơi sáng đầy chiều,
Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Cậy ai về nẻo Thước Kiều hỏi tin…
Đến nửa đêm, thức dậy, cái giường tre ở ngoài vườn có sương
mù bốc lên như khói. Ngửng đầu nhìn thấy có những cánh hoa trắng nhỏ rụng lả tả
trên chiếu lạnh. Người chồng cúi đầu nghĩ lại giấc mộng vừa qua, thấy mình về
phương Bắc cùng vợ đi trên con đường xưa cũ, con đường hò hẹn khi mới quen
nhau, hai đứa cùng lấy một tấm lá che đầu để tránh mưa rơi mà chân thì giẫm lên
những cánh hoa sấu rụng cũng nhỏ, cũng trắng như những cánh hoa rụng đêm nay
trên chiếc giường trống trải.
Nhưng hoa này đâu phải là hoa sấu rụng thơm lên trong đêm
xanh một mùi hương dìu dịu, man mát, chua chua! Mà đó chỉ là hoa cây trứng cá
lúc rụng cũng duyên dáng vô vàn, nhưng chẳng có hương thơm gì hết!
Không khóc như người tỳ bà nữ bến Tầm Dương? Mà chỉ rót rượu
uống một mình rồi nằm khoèo trên chiếu lạnh, mộng về Hà Nội, đi với vợ trên con
đường hò hẹn thơm thơm mùi hoa sấu?
Không. Nói như thế là dối mình, dối người. Tỉnh mộng rồi, người
chồng ấy nằm khóc một mình.
Khóc thì yếu thật, nhưng anh ta khóc, khóc âm thầm – rồi khóc
nức nở, khóc thảm thiết như chưa khóc thế bao giờ.
Là vì chính ngày tàn thu ấy, anh ta vừa được một người bạn viễn
phương tìm đến báo cho biết rằng người vợ mà anh khắc khoải nhớ thương qua ngày
ấy sang tháng khác đã lìa trần và lúc gần mất chỉ nhắc nhở đến anh vì băn khoăn
không biết ở miền Nam no đói ra thế nào và sống chết ra sao. Nhớ đến những lời
bạn thuật lại cho nghe, người chồng buồn đứt ruột: bao nhiêu kỉ niệm đã có khi
lắng xuống bây giờ lại như nước bị khuấy lên.
Trong bóng đêm lạnh, có tiếng mưa rơi trên giàn hoa thiên lí,
anh khóc vợ, khóc chính mình, khóc không cho ai biết.
Và bao nhiêu những việc đã qua dần dần hiện ra mờ mờ nhân ảnh
trước đôi mắt lệ nhoà: cái đêm hẹn ước đầu tiên, gặp mưa rào trên con đường vắng
tanh vắng ngắt đi vào Bách Thú; những lời trách móc phản đối của gia đình; bao
nhiêu là hi sinh của người đàn bả quyết tâm theo một người chồng mang tiếng là
hư hỏng bị cả họ hàng khinh khi; những ngày đầu chung sống thắp một ngọn đèn dầu
ở trong màn viết một bài truyện lấy năm đồng bạc; những lời ong tiếng ve của ruột
thịt bạn bè khi thấy vợ đem bán hết cả tư trang; rồi tiếp đó là những ngày thắt
lưng buộc bụng, một nắng hai sương, xây dựng cơ đồ để mong mở mày mở mặt với
người; những ngày tao loạn vợ chồng con cái lang thang đi sát vào nhau trên
sông Máng để cho gió khỏi thổi bay đi; những ngày hồi cư thức khuya dậy sớm, vợ
chồng heo hút với nhau, chồng có khi cáu bẳn, chơi bời hư hỏng, nhưng vợ thì cứ
chịu đựng, cứ thui thủi ở nhà dạy con và lo lắng miếng ăn giấc ngủ cho chồng từng
li từng tí.
Thôi, thế là hết. Bây giờ thì còn ước mơ gì nữa, bây giờ thì
còn đợi chờ gì nữa, bây giờ thì còn cầu xin gì nữa? Vợ chồng lấy nhau từ lúc
còn hàn vi, đến lúc chết tưởng là được vuốt mắt cho nhau, ai ngờ đâu lại vô
duyên đến thế. Đã buồn như vậy, lại còn rầu vì nỗi cùng lúc hay tin vợ mất thì
lại được biết là con nhớ bố mấy năm nay thăm dò mà không làm sao nhờ được én nhạn
trao tin, cháu nhớ ông chỉ cầu nguyện nhận được một chữ của ông gửi về để cho
ngui ngoai thương nhớ nhưng chiến tranh tàn ác đã cắt hết cả đường dây liên lạc.
Thương nhớ não lòng não ruột, nhưng biết làm sao hở Khoái, hở Lăng? Mà cháu
Khanh, có phải sau khi ở Trung Quốc trở về, cháu đã có gia đình rồi phải không?
Nhớ lúc ra đi, đứa cháu ấy mới có bảy tám tuổi, theo bà ra bến
nước tiễn đưa ông, nào đã biết chi là buồn. Mười tám, mười chín năm rồi… Bây giờ,
ở miền Nam, người li hương nhở đến vợ, nhớ đến con, đến chảu làm thế nào mà
quên được những buổi tối tháng mười ở Bắc có gió bấc thổi lành lạnh, có mưa rơi
rầu rầu, ai đi đâu, ai làm gì cũng cố phiên phiến để về cho sớm quây quần với
nhau chung quanh cải bàn ăn, dưới một ngọn đèn hồng ấm áp?
Lúc ấy, trời bắt đầu rét, gió bấc bắt đầu thổi, người ta chưa
quen với khí hậu nên cứ chiều đến, lúc lên đèn ăn cơm thì gia đình sum họp đầy
đủ, người lớn trẻ con, mỗi người có vài ba câu chuyện nói với nhau, hưởng cái
thú vui ích kỉ là sống đầm ấm trong khi ở bên ngoài có những người hối hả bước
mau dưới trời mưa để về nhà. Khói từ nồi cơm và các thức ăn toả ra trong gian
phòng nhỏ ở cầu thang đi xuống làm cho lòng người ấm thêm lên và cơm ăn cũng
ngon hơn lên một chút.
Đây là mùa gạo ba giăng cơm thổi lên ăn quên chết. Là vì riêng cái gạo
nhựa mới ăn vào đã dẻo quá rồi, thơm quá rồi, người vợ lại cẩn thận chuyên đong của người quen thành ra không pha phách gì hết,
ăn mới thực hoàn toàn thích khẩu.
“Cũng thì là một thứ thóc, cho vào cối xay, nhưng mỗi người
hàng xáo sàng trấu cho tách rời khỏi gạo, khéo vụng khác nhau. Phải làm sao cho
gạo không lẫn trấu. Mà thế cũng chưa đủ: gạo sàng rồi phải giã trắng thì ăn mới
ngon miệng chớ có trấu lẫn vào, hư cả chén cơm đi”.
“Vẽ chuyện! Gạo giã ngon, thì có lẫn một vài hạt trấu vào vẫn
cứ ngon như thường”.
“Không được. Ăn một chén cơm ngon lúc hết mà có một vài hạt trấu
lẫn vào, coi như bỏ. Vì thế những người hàng xáo thông thạo, lúc sàng gạo rất cẩn
thận mà đến lúc giã gạo cũng không cẩu thả: họ đếm từng chày, và đôi khi hồ gạo
bằng một vài cái mạ non. Xong rồi, phải giần cho thật kĩ để cám và tấm tách rời
riêng khỏi gạo”.
“Trấu dùng để đun bếp hay trải chuồng lợn, cám thì cho lợn
ăn, còn tấm sở dĩ phải để riêng ra là vì ăn hơi sạn sạn. Cái nghề hàng xáo cũng
như nghề con gái may áo cưới cho người ta, anh ạ. Gạo ngon thì đem bán hay để
dành cho chồng cho con, còn chính các bà các cô hàng xáo thì ăn cơm tấm”.
“Tại cơm tấm ăn ngon và lạ miệng”.
“Không phải. Nhưng bởi vì cơm tấm no lâu, đi chợ xa đỡ phải
ăn quà. Mà bỏ đi cho lợn ăn thì phí”.
Đói no một vợ một chồng,
Một niêu cơm tấm dầu lòng ăn chơi.
Cách đây ba chục năm, ở miền Nam có sáu xu vào tiệm ăn, phổ
ky đưa ra một đĩa xì dầu, một cái hột gà và một thìa mỡ nước không tính tiền
ngoài đồ ăn ra, mà cơm thì nóng sốt, trắng tinh - vì kỹ nghệ xay thóc mở mang,
không có nghề hàng xáo như ở Trung và Bắc -tôi gần như không thấy ai ăn cơm tấm;
nhưng bây giờ vì ơn nhờ kiệm ước, cơm tấm được coi là một thứ quà sảng vào hạng
sang, thiên hạ ăn nha nhẩn, trông thấy người ta ăn mà mình đã thấy ngon rồi.
Nhưng ngon cách mấy đi nữa thì cũng không có cách gì so sánh
được với gạo ba giăng tháng mười. Cơm chín tới, cả nhà quây quần lại rồi bắc ra
ăn với cá mương đầm Vạc vào hồi này đương béo kể đã là ngon, nhưng ngon thật là
ngon thì phải kể đến cá mòi vì thảng mười chính là mùa của giống cá này - béo
bùi nhất định là hơn đứt cá thu, mà ngọt thịt thơm hương dám cuộc là cá trắm,
cá mương không thể nào sánh kịp. Thực ra, cá mòi không lạ gì lắm với miền Nam
là đất có tới chín mươi ba thứ cá, tôm, cua, còng; ngon như cá trẻm, cá chìa
vôi, cá lăng, lạ như cá duồng, cá tra lóp, cá sặc buồm, có tiếng như cá thát
lát, cá chạnh lá tre, cá vồ chó, cá vồ cờ… Cứ vào khoảng tháng năm, tháng sáu ở
đây, các chợ có mà thiếu giống cá mòi, các bà các cô mua rả rích đem về, hoặc
chiên lên dầm nước mắm, hoặc nấu ngọt hay kho lạt ăn bằng thích.
Nhiều người bảo: “Thích gì! Cá mòi đóng hộp quanh năm có bán,
ăn vào thơm mà xương lại nhừ, không tanh, tội vạ gì mà mua về làm cho cực!”
Những người nói như thế là lầm. Cá đóng hộp kêu là sardines
là cá trích, cá lầm, còn sardines của Mỹ và của Nhật là cá chuồn chuồn có râu ở
mép và một cái vây dài ở lưng trông như cái cánh. Cá mòi (hareng), cũng thuộc
vào loài cá biển, nhưng khác thế: nó dẹp, nhiều xương răm, mình tròn, thường
thường lớn bằng ba ngón tay là cùng. Đặc trưng của nó là lắm mỡ; vào tháng năm
tháng sáu, cá này béo gia dụng, mua một kí đem về lấy dao khứa ở hai bên lườn
ra mà chiên lên có khi được tới một chén mỡ vàng như mỡ gà mái đẻ.
Ở Phan Thiết, tại cực nam Trung bộ, cá mòi là căn bản của một
sản phẩm đặc biệt quý giá: mắm mòi – một sản phẩm từng làm đầu đề cho nhiều câu
hát, câu hò tình tứ:
Cô kia bới tóc cánh tiên,
Ghe bầu đi cưới một thiên cá mòi.
Không tin dở thử lên coi,
Rau răm ở dưới, mắm mòi ở trên.
Con trai Bình Thuận nghe thấy cô gái Phú Yên đẹp quá, mê cứ
tít đi, dẫn cưới cả một thiên cá mòi, thế thì đủ biết mắm mòi ngon biết chừng
nào, cá mòi quý là nhường bao.
Ở Bắc Việt, cá mòi không có nhiều như ở Nam và ở Trung. Cả
năm, chỉ tháng mười, tháng một mới thấy giống cá này xuất hiện, mà đặc biệt là
nó chỉ rộ lên mươi ngày lại thôi rồi lại có, có vài ba bận rồi thôi hẳn, y như
thể chim ngói và rươi vậy.
Tôi còn nhớ mỗi khi trời bắt đầu rét mà có cá mòi thì người
ta gánh đi bán rao ầm ĩ cả hàng phố lên, y như thể có một thứ hàng gì lạ lắm.
“Ai mua cá mòi ra mua”. Và cũng như rươi, cốm và chim ngói, quay đi quay lại chỉ
một buổi sáng là những bà nội trợ sành ăn đổ ra mua hết nhẵn. Ở bên ngoài có
gió rét mưa phùn, đóng cửa sổ lại mà uống một vài cốc rượu hâm cho nóng thì vừa
lúc vợ ở dưới bếp đưa đĩa cá mòi lên cho chồng đưa cay: không, dù anh là người
không ưa món cá, sợ tanh, anh cũng phải nhận cá mòi ở Bắc khía cạnh, rồi xát
nghệ, nướng lên trên than tàu, chấm nước mắm gừng, nhắm rượu ngon gia dụng!
Cứ nói thực ra thì có người đẹp miền Nam không lấy làm dzui lắm,
nhưng tôi cứ phải chịu lấy cái tội “thiếu sự thể” mà nói rằng, vào đây, tôi
cũng ăn cá mòi, nhưng cá mòi ở Bắc sao nó vẫn có cái gì ngát hơn, bùi béo hơn,
mà cũng ngọt ngào hơn. Không biết có phải tại hiếm mà quý? Tại thương vợ quá,
phàm vợ làm món gì cũng thấy ngon dội hẳn lên? Hay là bởi tại thời tiết hiu hiu
lạnh, mang mang buồn, ăn vào thấy ngon hơn? Mà cũng không biết có phải tại con
cá mòi ngoài Bắc nó li kì hơn con cá mòi ở Nam và ở Trung?
Sách “Giao Châu Ký” chép rằng ở miền bể phía Nam có thứ cá
vàng đến tháng chín hoá ra con chim cút, trứng ăn vào bổ thận tráng dương, thịt
chữa được các chứng phiền muộn, cảm lị, thì sách “Thoại thực kì văn” của Trương
Quốc Dụng cũng ghi rằng cá mòi là do con chim ngói hoá ra, cái ruột con cá mòi
là cái mề của con chim ngói.
Cuối tháng chín ăn chim ngói cơm mới sau lễ Thường Tân còn
đương thòm thèm thì chim ngói bói không còn lấy một con, mà bây giờ sang đến giữa
tháng mười lại vang rân tiếng rao cá mòi là con chim ngói hoá thân, mấy mà
không cố mua ăn cho kì được để ngẫm nghĩ lại cái ngon của chim ngói và nhân tiện
sánh cái ngon của chim ngói so với cá mòi ra sao.
Ăn một miếng cá như thế, muốn nói gì thì nói, cũng cứ phải nhận
là thú vị không tả được, mà vừa nhắm nhót vừa thấy thú vị trong lòng, ngon một
cũng thành ra ngon mười, gia đình dù có túng thiếu ít nhiều cũng vẫn chan hoà một
bầu không khí tươi vui ấm cúng. Chính lúc ấy, người chồng cảm thấy câu dân ca
này đúng hơn cả bao giờ.
Khế rụng bờ ao, thanh tao anh lượm
Ngọt như cam sành, héo cuống anh chê…
Mà người vợ, hình như cảm thông với chồng từ khoé mắt, từ tiếng
cười, mặc dầu không thốt ra miệng cũng cảm thấy trong tim như có tiếng hát bé
nhỏ vọng ra:
Nhà em có vại cà đồng,
Có ao rau muống, có đầy chĩnh tương
Dầu không mĩ vị cao lương,
Trên thờ cha mẹ, dưới nhường anh em.
Một nhà vui vẻ êm đềm,
Đói no trong cảnh không thèm luỵ ai.
Hay lắm. Cơm hôm nay thường thường thôi nhưng mà hay vì món
cá mòi. Người chồng say chếnh choáng, lên trên gác đi nằm trước, vỗ vào cái chậu
sứ Giang Tây trồng một gốc thanh tùng cổ thụ mà hát một mình:
Bữa ăn có cá cùng canh,
Anh chưa mát dạ bằng anh thấy nàng.
Chập chờn nghe tiếng gió mưa ở ngoài sân, người chồng loáng
thoáng thấy tiếng trẻ ở dưới nhà trò chuyện với nhau về một con chim yến “chú
Lăng làm bay mất”, tiếng máy nước chảy lanh canh xuống những tách chén chị sen
đang rửa… rồi người vợ phàn nàn:
“Quên rồi, lúc nãy không ai nhắc tôi lấy chuối để cho cậu xơi
tráng miệng! Chuối thế này mới là chuối chứ”
Cốm, hồng, chuối trứng cuốc, cam… đó là thời trân của thảng
mười, nhưng yêu nhất là quả quýt tháng mười sao mà nõn nường đến thế, sao cái vỏ
nó mỏng đến thế, sao màu sắc tươi lạ tươi lùng đến thế. Tháng chín thì quýt đỏ
trôn, sang đến tháng mười thì quýt chín. Trông những vườn quýt trĩu trịt những
quả thắm một màu vàng xen vào những chùm lá xanh màu thiên lí, ai mà quên được
những cô hàng đẹp như thơ, chít khăn vuông cười duyên với khách mà nói nửa đùa
nửa thật:
“Quýt đẹp như thơ, ngọt mua chua trả, ba quả một hào.”
Ờ thì mình cứ nhận là si, đã chết ai chưa, nhưng mà ăn nói
duyên dáng như thế, cứ mua đi để… ăn dần, mình ạ! Yêu biết bao nhiêu người vợ
tào khương thấy thế đã không giận người chồng trắc nết mà lại cỏn cười hoạ theo
với cô hàng và nức nở khen cô hàng xinh quá.
Nghe thấy thế người chồng rờn rợn tưởng là vợ chơi chua,
nhưng dò ý tứ mãi thì thấy không phải thế, thực ra chỉ là khéo biết chiều ý chồng
mà thôi.
Không chiều ý thì làm sao người chồng “lên cơn” bảo đưa tiền
để tiêu xài một cách phi lí mà cũng cứ chịu liền? Ấy là tại vì người vợ hiểu chồng
quá đi rồi, biết là có tiền cũng chẳng đi cô đầu cô đít hay là trai gái phiện
phò đâu, nhưng lại đi lên Nghi Tàm hay tạt về Ô Đống Mác mua cái đồi, hòn non bộ
hay một cây thế lăng nhăng gì đó để ra ngắm vào ngắm rồi tưới, rồi sửa, rồi uốn,
rồi bón, rồi hãm mất hết ngày.
Mùa thu vừa qua đây, cây khô lá vàng, vì thời tiết hanh hao,
sang đến tháng mười, có mưa dầm, cây cối tỉnh lại, không mua ngay gốc tùng La
Hán của Nhiêu Ban hay chạy lên nhà Ba Thá nói khó để lại cây bỏng nổ gốc to bằng
cổ tay mà lá lăn tăn như hạt thóc thì uổng quá.
Sáng dậy, ra thăm mấy chậu cảnh, mấy cái đồi, thấy lá cây còn
óng ánh nước mưa, lá tươi hơn hớn, hay những cái “rễ nồi” trắng phau như có ai
mới lau chùi, mình tự nhiên thấy nhẹ nhõm cả người và tưởng như mình là một thứ
người đạo cốt tiên phong sống hẳn ra ngoài vòng kiềm toả. Khoác một cái áo lạnh
lên lưng, đi quanh quẩn trong vườn, “trả lại” cành này cho cây này, tỉa những
lá thừa kia cho cây kia, mình thấy ngày giờ trôi đi nhẹ như mây, nhưng nếu ví
thử cái máu giang hồ vặt nổi lên, không muốn bị tù hãm trong bốn bức tường mà lại
đi ra ngoài hứng rét đội mưa để nghe tiếng chuyển mình của sông hồ đồi núi thì
lại thấy trong lòng ngan ngát một sự say sưa khác hẳn.
Đó là cái say sưa thần thoại của Từ Thức nhập Thiên Thai nhìn
ra bát ngát chung quanh toàn những hoa đào, mà lắng tai nghe thì trên trời dưới
đất toàn là tiếng suối đàn róc rách.
Nhưng tháng này đâu đã có hoa đào? Mận mới bắt đầu nảy lộc
xinh xinh màu hoa lí, trà chửa ra hoa mà mộc thì cũng chưa hé nụ, nhưng hoa chẩu,
sang đến giữa tháng mười sao ở đâu ra không biết mà nở nhiều đến thế! Nhớ lại
lúc còn kháng chiến, vai mang một cái ba lô, tay chống một cái gậy tre, lê gót
trên con đường Chi Nê đi Đầm Dạ thẳng hướng lên Lạc Thuỷ, Châu Sơn dưới mưa
phùn gió lạnh, phải nói có cả chục cây số đường đất trắng tươi hoa chẩu. Hoa chẩu
rơi xuống kín cả đầu, cả vai người cán bộ, kín cả cỏ hai bên vệ đường, kín luôn
cả đồi cây, vách đá ở chung quanh. Xa xa, bỗng nổi lên tiếng xi xô của mấy đồng
bào Thổ đi làm việc buổi chiều về, hát lên những câu hát mình nghe không hiểu,
nhưng biết là nói lên nỗi uất hận của những người căm thù đế quốc làm cho con
lìa cha, vọ lìa chồng, anh lìa em, mẹ lìa con, tình nhân lìa tình nhân vì chiến
tranh.
Ngày tháng mười tàn vội vã, mặt trời vừa lặn thì bóng tối dãi
ra khắp đồi núi lúc nào không biết. Chính vào lúc đó, đứng trên một trái đồi mà
lắng nghe hơi thở của trời, ta thấy có một mùi hương kì lạ làm cho ta nhẹ nhõm
hẳn lên, một mùi hương dìu dịu nửa như mùi dạ lan hương mà lại nửa như mùi hoa
mơ, hoa mận. Giẫm lên hàng cây số hoa chẩu đó và tắm hương của nó vào lòng, anh
nhớ lại bộ tứ bình ngày xưa treo ở trong căn nhà lụp xụp phố Hàng Gai và thấy
hiện ra rõ rệt, như trong một cuốn phim, cái cảnh mùa đông ở trong tranh vẽ một
ông già mặc áo tay dài, vai mang bình rượu, đi với một tiểu đồng “đạp tuyết tầm
mai”.
Nhớ lại như thế tức là nhớ lại cả một thiếu thời hồỉ cha mẹ
song toàn, cứ vào những buổi tối tháng mườỉ thì cậu Hảo và chú Cả Tộ lại sang
nhà ngồi nói chuyện mua cái áo dạ Mông Tự để may mặc vào những ngày giá rét sắp
tới hay là rủ nhau đi ăn chả cá ở nhà Hy “chớ không nên vào cái nhà Sơn Hải mới
mở ăn không thú lắm vì không có cái không khí mông lung sương khói”
Ở đây là xứ giơ tay ra thì có gạo, vớt nước lên thì có cá, ôi
thôi, còn thiếu món cá gì mà chẳng có người làm: đầu cá nhắm không, hay cuốn
thành gỏi, hoặc là ăn với bún, cách gì cũng vẫn cứ là ngon; muốn lạ miệng, thì
dùng cá nướng trui, cá bọc vào đất rồi bện rơm lại mà hầm, như các ông sư hổ
mang hầm thịt chó; nhưng có cô gái nào xót ruột thì nên dùng canh chua cá lóc
hay lấy tạm cá tra sọc, cá sặc buồm, cá bi côi nấu với xoài xanh ăn cũng “đỡ”
vô cùng.
Cá làm thành bao nhiêu món, cá tạo nên bao nhiêu là bài thơ,
nhưng chỉ lạ có một điểm là làm sao không ai làm chả cá để đến nỗi phải đợi sau
khi di cư đến bảy tám năm trời mới có hai ba nhà làm món ấy để cho các ông ghiền
món ăn này “xài đỡ”!? Đi chơi mười một quận đô thành, đi khắp cả các Vàm Đông,
Vàm Láng, Vàm Tây, Bãi Xầu, Sóc Trăng, Bạc Liêu xưa kia nổi tiếng về nghề đóng
đáy thả lưới, quăng chài để bắt cá bắt tôm mà cũng nổi tiếng luôn là có nhiều
các chú:
Bạc Liêu nước chảy lờ đờ,
Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu
thật quả tôi chưa thấy một người Tàu nào làm chả cá trong khi
bao nhiêu món ăn Bắc như phở, bánh dẻo (1), thang, cuốn, thịt cầy, lươn, ếch, họ
đều làm tuốt để bán cho người mình thưởng thức! Tại chả cá khó làm? Tại có một
bí quyết riêng ướp chả? Hay tại vì cá anh vũ dùng làm chả không ở đâu có ngoài
Bắc Việt? Điều đó chưa có người nào nghiên cứu nhưng hồi còn ở Hà Nội, mỗi khi
ngồi tán chuyện gẫu với Hy-Chả-Cá (2) mà thấy có những người Tàu ở Hồng Kông về
đặt mua cả trăm cả ngàn “gắp” với đủ rau, hành, nước mắm, bánh đa, cà cuống, mắm
tôm, chanh ớt để đưa lên máy bay chở hoả tốc về Hồng Kông ăn nhậu thì tự nhiên
mình cũng thấy sướng tê tê vì người mình đã sản xuất được một món ngon đặc biệt
mà chính ba tàu nổi tiếng là nước “kén ăn” cũng phải mua của ta để xài!
Nghĩ như thế rồi ăn một bữa chả thật ngon, được chủ nhân để
dành cho vài chục gắp “lòng”, chan mỡ nước kêu lách tách, rồi uống nước trà mạn
sen, ăn một miếng trầu nóng ran cả người lên, đoạn đi ngất ngưởng trong gió lạnh,
tìm một cái xe bỏ áo tơi cánh gà trực chỉ Khâm Thiên hay Vạn Thái nghe một vài
khẩu trống, không, anh phải nhận với tôi là cái bọn tiểu tư sản sống vô bổ và đầy
tội lỗi thực đấy nhưng sướng lắm - sướng không chịu được. Có anh sẽ bảo:
“Nói giọng gì mà nghe thấy cái thói ích kỉ nó thấm vào đến tận
xương, tận tuỷ! Thế chú mày không biết rằng ở quê cày bừa gặt hái vất vả, người
nông dân chính vào cái cữ này khổ cực vô cùng, không mở mắt được, có khi phải làm
việc suốt đêm đến sáng?”
Đương nằm làm một điếu tự tay em tiêm “trôn quýt” đưa mời, mà
nghe thấy ông bạn nói thế, ai mà không cảm thấy như bỏ cục tuyết vào cổ áo làm
tê dại cả xương sống, xương sườn.
Người hưởng lạc cảm thấy nao nao trong lòng một giây lâu,
nhưng sau đó lại tìm ngay được rất nhiều lí lẽ để tự bào chữa cho mình, tự an ủi,
và tự tuyên bồ là mình trắng án. Là vì nằm bắt óc nhớ lại hết các ca dao, tục
ngữ, dân ca của đất Việt trời Nam, anh không thể nào kiếm ra được một câu nào
nói lên là người dân quê khổ cực trong tháng mười.
Tháng giêng chân bước đi cày,
Tháng hai vãi lúa, ngày ngày siêng năng.
Thuận mùa lúa tốt đằng đằng,
Tháng mười gặt lúa ta ăn đầy nhà...
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành…
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi
Nước ruộng vơi mười còn độ một hai.
Ruộng thấp đóng một gàu dai
Ruộng cao thì phải đóng hai gàu sòng.
Chờ cho lúa có đòng đòng,
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người,
Bao giờ cho đến tháng mườí,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.
Gặt hái ta đem về nhà
Phơi khô, quét sạch thế là xong công.
Thực ra, chính đến tháng mười là người dân quê Bắc Việt tương
đối rảnh tay, vì lúc bấy giờ là mùa gặt, thóc gặt về, đập sảy, phơi phóng xong
rồi là yên. Cho đến hết tháng mười, họ chỉ còn lo quây vào cót để ăn dần, bán dần
đi để lo trả công trả nợ, đóng sưu đóng thuế cho chồng, nhưng đấy là những năm
được mùa. Còn mất mùa thì sao?
Phải biết rằng trước đó, vào lúc lúa sắp chín, đã có bỉết bao
nhiêu ngày, biết bao nhíêu đêm, người nông dân lo sợ mất ăn mất ngủ. Họ sợ những
đêm chớp bể mưa nguồn, họ sợ những trận mưa to, khiến nước lũ kéo về làm lụt lội,
và đêm đêm họ trông từng cái ráng trời, cái rễ cây; họ hỏi sao, họ trông gió, họ
nhìn trăng, vì nếu “có bề nào” thì tất cả thành công cốc! Không những là đói mà
còn bao nhiêu thứ khổ cực bêu riếu nữa!
Bây giờ gặp phải hội này,
Khi thì hạn hán, khi hay mưa dầm,
Khi thì gió bão ầm ầm,
Đồng điền thóc lúa mười phần còn ba.
Lấy gì đăng nạp nữa mà,
Lấy gì công việc nước nhà cho đang,
Lấy gì sưu thuế phép thường,
Lấy gì bổ chợ đong lường mà ăn?
“Nói thế là nguỵ biện. Tháng mười gặt hái, vui vẻ như anh vừa
nói là chỉ nơi đất đồng mùa. Ở những đất đồng chiêm như Nam Định, Thái Bình, Phủ
Lý, tháng năm là mùa gặt hái, còn tháng mười, anh còn nhớ ra thế nào không? Từ
giữa tháng sáu, các cánh đồng chiêm biến thành những dải nước mông mênh trắng
xoá. Làng mạc thành ra những cù lao nằm chơ vơ trong nước bạc, từ thôn này sang
thôn nọ có khi phải đi bằng thuyền nan. Và cái cảnh trời nước mông mênh như thế
kéo dài cho tới trung tuần tháng tám. Lúc ấy, nước mới bắt đầu rút lần lần. Đó
cũng là lúc người dân quê bắt đầu lo bừa vụ chiêm. Thử tưởng tượng cuối tháng
chín đầu tháng mười, trời đất hanh hao, tay chân bị nẻ mà phải lội nước để cày
bừa những thửa ruộng lởm chởm những gốc rạ đâm vào chân. Mà nào chỉ có thế thôi
đâu, đất đồng chiêm lại nhiều giống đỉa cứ bám riết lấy chân người cày ruộng mà
cắn và hút máu!
Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Đấy tôi lại đố anh tìm được một câu dân ca nào nói lên được
cái khổ cực của người dân quê hơn là câu ca dao nói về việc cày bừa vụ thảng mười!”
Nghe thấy thế người khách chơi đêm ớ mặt, không biết nói ra
thế nào. Nhưng biết làm sao được? “Trời cho mỗi người một lộc”, thôi, ta cứ biết
hưởng thụ đã rồi muốn ra thế nào thì ra.
Về khuya trời rét ngọt, nằm trên một tấm nệm rồi trùm cái
chăn lên trên mình nghe các em lẩy Kiều hay hát vo bài Tỳ bà, thỉnh thoảng lại
làm một điếu, hãm một miếng táo hay một trái nho, rồi lim dim con mắt lại mơ mơ
màng màng, tôi quả quyết với anh rằng cách mạng, đảo chánh, chống bất công xã hội…
tất cả những cái đó anh đều cho là “đồ bỏ” không ăn nhằm gì hết! Những lúc ấy
mình mới mang máng thấy rằng những người làm chánh trị họ tâm lí thật: cái bọn
“tạch tạch sè” chẳng làm được mẹ gì, còn những người cứu nước từ ngàn xưa như
Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Huệ, Lê Lợi… đều xuất thân là những nông dân áo vải…
Thôi, biết rồi! Nghĩ lan man quá làm gì nó mất vui đi mà hại
lây cả đến bữa thuốc xài toàn hộp con rồng, đã đậm mà lại bùi như lạc. Đến mờ mờ
sáng, vác cái thân mệt nhọc ra về, bảo phu xe mắc cái áo tơi lên để cho hàng phố
khỏi nhìn thấy mặt, có phải đã mấy lần người chồng ấy hé mắt nhìn ra ngoài đã
thấy vợ đỗ cái xe nhà ở gốc cây đa ba ngọn, đi chợ thật sớm mua con cá lá rau
cho thật tươi, thật rẻ, để cho cơm lành canh ngọt, chồng con vui vẻ, gia đình ấm
cúng, thuận hoà?
Ghét không biết chừng nào cái thiếu thời đầy tự ái! Mang tội
lỗi cùng mình đến thế, người chồng đã chẳng biết thương người vợ mưa dầu nắng
dãi mà lại còn lấy làm hả hê vì đã sống đúng theo lí tưởng của một người chồng
kiểu mẫu lúc bấy giờ: vợ phải chịu thương chịu khó, còn chồng thì muốn ăn chơi
chè rượu gì, tuỳ ý, vợ không có quyền can thiệp.
Sau này, đến lúc có con, có cái với nhau rồi, bắt đầu biết
thương vợ, anh ta có lúc đã nghĩ thầm thế nào rồi một ngày kia, gặp khi có bóng
trăng hữu tình soi sáng trước sân, vợ chồng góp trăm mối lại để đem làm tâm sự
thì sẽ thú hết cả tội lỗi với người thương về những lỗi lầm ngày trước… nhưng
thôi, bây giờ thì còn biết thú tội với ai, thú tội cách gì, mà còn ai nữa để mà
thú tội!
Nằm trong đêm, mở mắt nhìn vào cái tối tăm sâu thẳm, bao
nhiêu đoạn đời sống bên cạnh vợ con, dưới mái nhà lành, hàng đêm lại hiện ra từng
mẩu một, từng mẩu một, và chưa bao giờ anh lại thấy ngao ngán cho mình như thế,
chưa bao giờ lại thấy cái thân bé nhỏ của mình chồng chất nhiều nỗi sầu to đến
thế!
Sàigòn đẹp như mắt cô con gái đa tình! Ta yêu Sàigòn quá,
nhưng ghét sao mười mấy năm nay vẫn cứ giới nghiêm hoài không để cho người ta
đi thong thả nghe tiếng của ban đêm một chút? Thôi thì muốn làm gì nhau thì
làm, cũng cứ vùng dậy mà đi, đi, miễn là đi, nhưng đi đâu, mà đi làm gì, chưa
biết. Thì ra lầm quá: mình cứ tưởng tượng giờ giới nghiêm thì chẳng có ma nào ở
ngoài đường, hoá ra không phải. Giới nghiêm cho có lệ, chứ một hai giờ sáng,
nhiều nhà hàng, tiệm nước vẫn có khách túa vào, nhảy nhót ăn chơi, hả quá.
Nhớ lại có những đêm tháng mười ở Hà Nội, vợ chồng còn sống cạnh
nhau, cứ vào khoảng này thì mặc áo ấm dắt nhau đi trên đường khuya tìm cao lâu
quen ăn với nhau một bát tam xà đại hội có lá chanh và miến rán giòn tan, người
chồng lạc phách đêm nay nhớ vợ cũng đóng cửa lại đi tìm một nhà hàng nào bán thịt
rắn để nhấm nháp một mình và tưởng tượng như hãy còn ngồi ăn với người vợ
thương yêu ngày trước, nhưng sao đi tìm mãi, đi tìm hoài không thấy một tiệm
nào bán thịt rắn thế này?
Rõ mình là thằng điên! Rắn thì phải ăn vào trời rét, vì rắn
lúc ấy mới béo mà nhả hết chất độc ở trong mình ra, cho đến đông chí thì vào
thu hình trong hang; lúc ấy rắn ăn không còn bổ mà có khi còn độc nữa, thế thì
sao tháng mười ở đây, nóng chảy mỡ ra, lại có thể có thịt rắn để làm vui khách
hàng kén ăn?
Người đàn ông oan khổ lưu li ngửng lên nhìn trời thấy mây đỏ
đòng đọc mà không khí đặc quánh lại như có thể lấy dao ăn để thái ra: trời này
còn nóng mà độc lắm đây. Ai dại gì mà ăn thịt rắn. Muốn ăn thì phải về Đồng
Tháp, chớ ở Sàigòn người ta ăn những cái gì chứ đâu có ăn thịt rắn, đi kiếm chỉ
mất công vô ích.
Hờ hờ, nếu không có thịt rắn thì ăn làm gì? Người chồng tức
giận mà không biết tức giận cái gì, lại quay gót về nhà và tưởng như thấy ở mỗi
góc đường tăm tối có những cầm thú đi hai chân chỉ rình giết người đi khuya và
hình như ở xa xa có tiếng vượn lâm tuyền khóc rợn trăng khuya, “đâu đâu u uất hồn
sơ cổ, từng bóng ma rừng theo bước đi”.
Người khách đi đêm ơn ớn lạnh. Anh ta nhớ lại lúc cùng đi với
vợ trong đêm theo bước nhịp mà họ gọi đùa là “nhịp bước quân hành”: ờ, lúc ấy cầm
thú ít, yêu ma không có, đời đẹp như một bông hoa trinh trắng, không biết một
ngày kia bắt chước Orphée xuống địa ngục tìm Eurydice, có bao giờ lại thấy như
thế nữa không?
Ôi mộng, chỉ là mộng và chỉ là mộng mà thôi! Địa ngục thì bao
giờ lại có hoa trinh trắng! Đến dưới một gốc đèn rầu rĩ, anh thấy cái bóng anh
đi lù lù ở phía trước, đi cô độc trên đường dài.
Người chồng dừng lại, sợ chính bóng mình. Nước mắt anh lại ứa
ra, và chảy dài theo lối đi lấp loáng một bông sao rụng.
Chú thích:
(1) Bánh cuốn ở Thanh kêu là bánh dẻo
(2) Chủ hàng chả cá nổi tiếng nhất ở Hà Nội
Tưởng là hết chuyện truyền kỳ, quả là lầm. Sang tháng một, lại
có truyền kỳ về con cà cuống.
Có ai ở Bắc Việt vào đây cho hỏi thăm tháng một mấy năm nay ở
Bắc Việt, trời có rét lắm không, mưa vẫn riêu riêu buồn như trước hay thời tiết
vì ảnh hưởng bom đạn của Mỹ đã khác xưa? Nghe thấy nước bạn Mỹ xuất toàn lực
ném những loại bom kinh khủng lắm, mà ném toàn bom nặng tới bảy trăm tấn có sức
phá hoại ngang bom nguyên tử, mình ở đây thấy rợn cả tóc gáy lên, ấy thế mà
không hiểu làm sao cứ nghe thấy người ta nói là Bắc Việt vẫn đánh và đánh dữ
hơn cả lúc mới phát động chiến tranh là khác!
Thế thì là cái thớ gì? Ở dây, người ta cũng ném bom tiêu diệt
quá khích, ai cũng bảo là thời tiết không như trước, mưa không đúng cữ mà nắng
cũng ra ngoại lệ, thành ra mình cũng tưởng thời tiết Bắc Việt đổi thay, do đó lắm
đêm nằm tưởng tượng, mình cứ ngỡ là Bắc Việt không còn mưa rét nữa mà có khi lại
nóng nứt đá tan vàng cũng nên. Nghĩ như thế, thấy buồn; nhưng nằm nghĩ thêm một
lúc mình lại cười muốn khóc. Bom không làm nhụt được người thì sao mà lại ảnh
hưởng được đến trời?
Bảo rằng thuốc khai quang có thể làm cho người ta ngứa; đạn
thối có thể làm cho người ta nghẹt mũi trước tiến bộ của văn minh khoa học; đạn
cay có thể làm cho người ta nhức đầu khó chịu, nhưng bảo rằng bom mà thay đổi
được thời tiết, có lẽ là chuyện mơ hồ bịa đặt.
Ấy, chính vì nghĩ dớ dẩn như thế mình mới thấy yên tâm hơn một
chút.
Hơn thế, lại còn nghe thấy nói rằng những vùng bị bom, mười
ba năm nữa không cày cấy, trồng trọt được cũng lại là loè nữa. Trái lại, có người
quả quyết những chỗ bị bom cày như thế trồng trọt cày cấy lại tốt hơn, còn
không khí ở những vùng bị bom nguyên tử ở Nhật tưởng đâu là bị ô uế đời đời nhưng
chỉ mấy tháng sau thì lại sạch sẽ và trong vắt như thuở trước. Cây lại đâm hoa
trổ lá, chim lại ca hát trên cành, thế thì cơn bom đạn qua rồi trời lại trong
xanh, gió lại thổi, mây lại bay, cây lại nở ngành xanh ngọn, có hề gì đâu, như
thiên hạ vẫn thường đồn đại ?!
Nước non là nước non trời
Không ai dời đặng non, không ai chia đặng nước, thế thì tháng
một ở Bắc Việt, tất nhiên vẫn rét, mưa tháng một ở Bắc Việt tất nhiên vẫn riêu
riêu. Và nghĩ đến như thế thì bảo không yêu Bắc Việt làm sao cho được?
Mưa rét thì khổ, khổ nhất cho người nghèo, nhưng biết như thế
mà vẫn cứ yêu bởi vì cái mưa, cái rét ấy thông thường quá, vì chỉ có Bắc Việt mới
có cái mưa cái rét ấy thôi. Ai đã xa nhà, trôi nổi ở một phương trời không có
nước mắm, không có phở, tương tư phở và nước mắm thế nào thì ở giữa một thành
phố khét lẹt hơi người, chói chan nắng lửa, người ta cũng nhớ mưa rét tháng một
ở quê hương mình đến thế là cùng.
Chập tối, thắp một ngọn đèn lên ăn cơm rồi uống một ngụm nước
vối, quây quần lại với nhau nói chuyện, cái thú ấy kể đã êm đềm; nhưng nếu lại
chống một cái gậy tre, đi qua vũng lội mà sang nhà hàng xóm bàn chuyện tầm phơ,
cái thú ấy lại càng đậm đà hết sức.
Những cái gộc, những cành cây mót lại và chất đống ở đằng sau
vựa thóc, lúc bấy giờ lấy ra đem chụm để cùng quây lại mà sưởi ấm, có một cái
gì rất mờ ảo, thần tiên, làm cho người ta quên mệt nhọc, quên cả lo âu, quên
luôn những buồn rầu về tiền nong công nợ. Ánh lửa bập bùng soi vào những bộ mặt
nửa sáng nửa tối của những người ngồi nói chuyện. Thỉnh thoảng, nghe gió rào
rào và nước lóc róc trên tàu ba tiêu, có người mới nhớ là bên ngoài mưa và rét.
Ở trong này chén nước vối nóng làm ấm lòng người ta. Một ông vỗ vào đùi:
- Ờ, thằng Cún đâu nhỉ, tao có giấm mấy củ khoai trong bếp
tro, về lấy sang đây, mau!
Có tối chỉ có một mẻ ngô rang mà khề khà ăn gần hết đêm. Lại
có ông nhấm nháp một vài chén rượu với chả nhái, rung đùi tưởng chừng như có thể
gãy cả thang giường vì ngon quá thể là ngon, ngon có thể chết ngay đi được.
Hồi kháng chiến, tôi đã từng sống ở những làng đồng chiêm và
những buổi tối tháng một vẫn ngồi đốt lửa họp hội đồng như vậy. Họp chừng một
tuần, thành ra nghiện. Nghiện chuyện của bà con lối xóm, nghiện nước vối, nghiện
ngô rang, nghiện khoai lùi, và nghiện luôn cả cái lòng ưu ái đậm đà của những
người hàng xóm nghèo nhưng ăn ở lúc nào cũng như bát nước đầy.
Ở đất đồng chiêm, khoảng giữa tháng mười, sau khi tát nước để
làm vụ cấy, người nông dân gieo mạ trên những thửa ruộng xâm xấp nước. Buổi chiều,
chắp hai tay sau lưng đi ra ruộng, vào trung tuần tháng một, ta đã thấy ngọn mạ
dạt dào trước gió bấc. Qua màn mưa phùn tím nhạt, những ruộng mạ xanh hoa lí giải
ra như những tấm thảm lưu li, chỗ đậm, chỗ nhạt, trông thật tài tình. Mạ lúc ấy
cao chừng ba tấc, mỗi khi có gió chạy qua, rạt cả xuống rồi lại đứng lên, trông
y như thể là các cô tiên đang múa.
Trông thấy mạ, người nông dân không những sướng mắt mà sướng
cả lòng. Là vì lúc ấy họ cảm thấy đã hơi hơi “ăn chắc”; mai kia, họ sẽ nhổ mạ
lên bó lại từng bó, xén bớt đầu lá để đem cấy lại, nhưng trước khi cấy lại, thường
thường phải tát nước vào trong ruộng.
Chính lúc này nước lại khan, hồ ao lắm khi gần như cạn hết,
người làm ruộng phải mất công tát từ những mương xa, nhiều khi phải cho nước chảy
qua ba bốn thửa ruộng khác mới tới ruộng của mình. Ấy chính đôi khi tát nước
như thế mà bắt được vài con cá nhỏ hay mấy con tôm càng, họ nhịn miệng không
ăn, lại đem biếu vợ chồng người khách lạ tản cư về làng họ. Tội nghiệp, ông bà ấy
bỏ cả nhà cả cửa mà đi…
Họ không nghĩ đến chính thân họ mà chỉ nghĩ thương đến người
từ ở phương xa tới và đã biết bao nhiêu lần đi kiếm rau mồng tơi, mảnh bát về nấu
canh, họ không quên hái thêm một mớ cho vợ chồng mình “ăn tạm”.
Ở thị thành, phải nói thật là cái không khí yêu thương, ưu ái
đó không có mấy. Tôi nhớ những đêm tháng một hồi còn bé, cứ độ tám giờ tối thì
nhà nào nhà nấy đóng kín cửa lại ở trong nhà với nhau, ít có người nọ đến thăm
người kia, ít có đốt lửa sưởi với nhau và cũng ít có những “vụ” uống nước vối,
ăn khoai lùi, trò chuyện cởi mở với nhau như thế. Thường thường, trẻ con chui
vào chăn bông đi ngủ sớm, trùm kín đầu đâu đấy rồi mới móc túi lấy hạt dẻ hay
ngô rang ra xực, trong khi một cô em gái đọc cho bà nội nghe truyện “Thuyết Đường”
hay “Tây Du” lấy công một hai xu một quyển.
Có khi ăn chưa hết ngô rang trong túi đã ngủ rồi, và chỉ độ một
tiếng đồng hồ đã mộng thấy mình đi qua cầu, sang Gia Lâm, Gia Quất bẻ trộm ngô
và bị người ta đuổi đánh. Sợ toát mồ hôi, thức dậy thì có khi cả nhà đã tắt đèn
đi ngủ rồi. Lúc ấy, nằm mà lắng tai nghe những hạt mưa nặng hơn lúc ban ngày
rơi lộp bộp trên mái ngói, người ta, dù hãy còn nhỏ nhít, cũng thấy buồn tê tê,
nhưng buồn nhất đêm đông ở Bắc Việt là tiếng rao “giò giầy” và tiếng một người
ăn mày từ ở tít đàng xa vọng tới, ví cái thân mình với con cá: “con cá nó sống
vì nước, con sống về cửa ông cửa bà”.
Hình ảnh một người đàn ông mặc áo lá rách, đội một cái thúng
vá trên đầu và xách một cái đèn dầu ở tay, thỉnh thoảng lại đánh rơi trong đêm
khuya một tiếng rao ngái ngủ “giò giầy” cũng như hình ảnh một người mù, tay cầm
một cái gậy bò lê dưới trời mưa, trong gió lạnh (có khi có một con chó dẫn đường),
tính đốt tay cho đến bây giờ đã có ngót sáu mươi năm nhưng vẫn cứ mờ mờ hiện hiện
trong óc tôi mỗi khi thấy tháng một trở về.
Tháng một trở về ở đây không có gió bấc, không có mưa phùn,
tháng một trở về ở đây tươi hồng rậm lá, tháng một trở về ở đây sướng như điên
trong tiếng nhạc “sốt gun” có cô con gái Việt Nam bá vai thằng Mỹ đu đưa, thế
mà không hiểu tại sao tôi cứ nhớ hoài, cứ thương mãi cái tiếng rao “giò giầy”
và tiếng than “con sống về cửa ông cửa bà” của người ăn mày mù! …
Sàigòn ơi, Sàigòn có đêm hồng, Sàigòn có những cô ca sĩ đeo một
triệu rưởi hột xoàn ở cổ và một triệu rưởi hột xoàn khác ở vú, có khi nào quay
về xứ Bắc anh em để nhận thức rằng Sàigòn sướng không biết chừng nào vì gạo thì
thừa, cá lại lắm mà mùa đông lại không cần áo rét vì
Ở đây được cái quanh năm nắng,
Chẳng mượn ai đan áo ngự hàn!
- Rỡn hoài. Bộ anh này muốn nói mỉa Sàigòn sao chớ?
- Đâu có. Này, tôi hỏi: thế từ xưa đến nay có bao giờ ở miền
Nam lại có người chết đói chưa? Mà có bao giờ đã có người chết rét chưa? Ở Bắc,
có những năm mất mùa, vô số người chết đói; còn rét mà chết, nói đâu xa làm gì,
chỉ cách đây vài năm thôi, các báo chẳng đăng bằng tít bự như thế này, rằng “Ở
Bắc Việt người ta chết cả đống vì trời ra tai rét quá, không thể nào chịu nổi”?
Thế nhưng mà thôi, nói mấy cũng là thừa, bởi vì từ xưa tới
nay ai cũng biết là Bắc Việt nghèo khổ mà Nam Việt thì phè phỡn. Phè phỡn vì
Nam Việt là con cưng được trời thương, nhưng “con ghét làm nên” có lẽ cũng là
được trời thương cách khác. Nhưng dù là con thương hay con ghét thì cũng là anh
em ruột thịt cho nên Nam, Bắc lúc nào cũng thương nhau, mỗi khi thấy cẳng đậu
đun hạt đậu, thì hạt đậu khóc hu hu:
Cùng chung nhau một mẹ,
Đun nhau nỡ thế ru?
Tôi không ưa mấy ông “Bắc Kỳ cũ” lên mặt thạo, nói rằng người
Nam “chịu được người Trung chớ không chịu được người Bắc” và mặc dầu người Nam
không nói ra miệng nhưng trong tiềm thức vẫn nuôi một tinh thần kì thị.
Thú thực, tôi chỉ thấy ở Mỹ có kì thị đen trắng chứ ở Ấn bây
giờ cũng chẳng còn kì thị giữa quý phái và cùng đinh thì sao ở Việt Nam lại có
thể có kì thị Nam Bắc được? Nói lí sự nghe lãng nhách, cứ nhìn vào thực tế mà
xem. Chỉ trong vòng có hơn chục năm nay, Bắc Việt và Nam Việt đã tỏ ra “chịu”
nhau như chưa bao giờ thấy ghi trong lịch sử: chịu nhau từ việc lớn là bảo vệ tự
do, xây dựng dân chủ cho đến việc nhỏ như vũ nhạc, y phục, trang trí, ẩm thực,
thời trang… Cuộc di cư vĩ đại một ngàn chín trăm năm mươi tư tưởng đâu là một
giai đoạn đau buồn trong lịch sử Việt Nam, thế mà không ngờ lại thành ra một
cái cớ để siết thêm chặt tình thương yêu Nam Bắc.
Hồi còn người Pháp ở đây, tôi hả hê không biết chừng nào khi
thấy có những ông tây chính cống nghiện mắm tôm, đến nỗi cho cả mắm tôm vào chè
đường để ăn. Đến thời Mỹ, thấy họ đem thực phẩm từ Mỹ sang để xài với cả nước lạnh
từ bên Mỹ sang để uống, tôi cử tưởng suốt đời ngườỉ Mỹ không thèm nhúng vào một
miếng ăn nào của Việt Nam; ấy thế mà chỉ một hai năm sau, chả giò, chả lụa,
lươn um, thịt bò khô trộn với đu đủ, bún thang… họ tìm ăn như quỷ. Thấy vậy,
tôi cười, và thích thú vô cùng.
Nhưng thích thú, hả hê gì thì cũng không bằng thấy các ông,
các thầy người Nam lịch sự như trời nghiện phở Bắc, sáng sáng không làm một tô
thì đừ ra trông thấy, hay các bà các cô người Nam đẹp như tiên chịu bún riêu,
bánh cuốn, bún ốc, rượu nếp, thang… hơn là bún bò, bì cuốn, hủ tíu thịt heo,
cháo huyết…
Vẫn biết mỗi thức ăn có một phong vị riêng, không thể đem ra
so sánh được, nhưng trông thấy người Nam “ăn Bắc”, tôi thấy có một cái gì duyên
dáng lạ lùng, và tôi ưa nghĩ rằng ăn như thế là đem cái thương yêu đặt vào
trong lòng, trong ruột.
Cô Ba đã thấy có những người Bắc mới vào đây không biết ăn sầu
riêng chưa? Ngộ lắm: họ lợm giọng, muốn nhả ra, nhưng sợ bất lịch sự đành phải
nuốt mà chảy cả nước mắt nước mũi ra, y như thể một đứa trẻ ăn cơm muốn bỏ mứa
nhưng không được, phải nhắm mắt nhắm mũi nuốt cho xong.
Ở Bắc, có một món mà lúc đầu nhiều người trong này cũng không
chịu được, cũng như có một số người Bắc lúc đầu không chịu được sầu riêng nhưng
sau quen giọng rồi thì nghiện như nghiện cần sa vậy: đó là cà cuống - một thời
trân của tháng một, được lưu ý nhiều từ khi có cuộc di cư.
Bây giờ, nói đến cà cuống, tất còn có cô Bảy, cô Ba lợm giọng
và chê là hôi quá, không chịu nổi, nhưng nói chung thì nhiều người ở đây đã chịu
cái giọng của nó rồi. Tôi còn nhớ hồi năm một ngàn chín trăm hai mươi chín, ba
mươi, ở trong này, về phía đồng bào người Nam có thể nói một ngàn người thì may
ra có một dùng được nổi mà thôi, còn chín trăm chín mươi chín người “cẩm như
Tây” không thể ngửi được mùi của nó, chớ đừng nói là thưởng thức.
Thực tình đến bây giờ tôi không biết tại sao lại có người ngửi
mùi cà cuống mà lại bảo là hôi, chớ ở Bắc thì có thể nói không người nào lại
không mê cà cuống, không nhà nào lại không có một ve cà cuống để sẵn trong nhà,
ăn uống món nào đó cần phải có tí cà cuống mà không có để đưa ra thì người nội
trợ chưa được liệt vào “số dách”.
- Tưởng là gì! Con cà cuống anh nói đó có phải tên thật là đà
cuống không? Nếu thế thì ở đây thiếu gì. Người ta không buồn bắt. Vào cữ này,
đêm nào anh cứ đi láng cháng trên con đường Tân Sơn Nhứt hay là ra cầu Bình Lợi
xem có cả đống không?
- Chính “hắn” đó. Người ta quen gọi là cà cuống. Thực ra, tôi
không biết sự tích nó thế nào, nhưng nhớ lại lúc vợ chồng sum họp với nhau, ngồi
nhể bọng cà cuống lấy dầu, thì vợ vốn là người thuộc thơ và nhớ tích truyện,
cho biết con cà cuống thực ra là con đà cuống, và cũng như chim ngói, cá mòi,
cũng có một truyền kì về nó.
Tục truyền rằng Triệu Đà là người đầu tiên ở nước ta ăn cơm với
con cà cuống. Thấy thơm một cách lạ kì, ông ta bèn gửi dâng vua Hán một mớ và gọi
nó là “quế đồ”, nghĩa là con sâu cây quế. Vua Hán nếm thử thì nhận rằng nó giống
mùi quế thực, khen ngon và phân phát cho quần thần mỗi người một con. Bất ngờ
trong đám có một ông lắm chuyện tâu rằng: “Đó không phải là con sâu sống ở
trong cây quế mà chỉ là một con sâu sống ở dưới nước “thuỷ đồ”. Vua mới phán rằng:
“Thử nãi Đà chi cuống dã”, nghĩa: đó là lời nói láo của Đà. Từ đó, cà cuống
thành ra đà cuống. Nó còn một tên nữa là “long sắt”, nghĩa là con rận rồng.
Con rận rồng! Nghe tên có quý không? Ta có tám món ăn quý nhất
gọi là bát trân : nem công là một, chả phượng là hai, da tây ngu là ba, bàn tay
gấu là bốn, gân nai là năm, môi đười ươi là sáu, thịt chân voi là bảy, yến sào
là tám. Con rận rồng không phải là một thứ trân, mà chỉ nên coi là gia vị,
nhưng nghe tên thì quý có phần hơn cả bát trân là khác.
Là vì con cà cuống quý không phải vì thịt nhưng vì cái dầu của
nó. Cứ vào cữ tháng một ở Bắc Việt cà cuống trứng, cà cuống cay “dội” lên ở khắp
nơi. Trên các đường phố Hà Nội thương thương, có những người đàn bà đội thúng ở
trên đầu, tay đu đưa đi trong im lặng không rao một tiếng mà tài thế, nhà nào
cũng biết để mà gọi vào mua.
Tôi còn nhớ có một thời kì tôi được sống những ngày trời
tháng bụt: mùa rét, tám chín giờ mới dậy, chừng mười giờ mặc ba-đờ-suy, đi ghệt
đờ-vin láng cháng ra một nhà hàng gần đó uống rượu hâm, rồi về nhà giết những
phút vô liêu bằng cách lên gác xuống nhà, ngâm ngợi dăm ba câu lếu láo.
Chính nhờ thế, tôi mới biết là những người đàn bà bán cà cuống
ấy sở dĩ không cần rao vì họ đã có khách quen cả rồi: có hàng thì cứ tự nhiên
đem vào bán, mà đã vào thì các bà nội trợ cứ tự nhiên mua. Người bán và người
mua cùng ngồi nhể bọng cà cuống cho vào một cái đĩa nhỏ, đến khi xong cả thì mới
trút vào trong một cái ve nhỏ bằng ve dầu Vạn Ứng, đậy thực kín, lấy giấy bóng
bao ngoài cái nút rồi lấy dây quấn chặt để cho không bay hơi đi mất.
Vì không có công chuyện gì phải làm ăn gấp rút, có nhiều lần
tôi cũng “ké” vào ngồi xem và cũng bắt chước đi lấy tăm nhể bọng cà cuống chơi.
Những con cà cuống này còn sống cả. Nếu cầm không cẩn thận, nó châm cái ngòi
vào tay. Ngòi nó từa tựa như vòi con ve vậy. Mà “như” gì nữa? Theo tôi, cà cuống
là một loại ve lớn, nhưng thay vì mình ve khác tròn thì mình nó dẹp, có bốn
cánh, hai cánh ở trong ngắn, mỏng mà vàng còn hai cánh ở ngoài thì dài, cứng
hơn một chút, màu cánh gián sẫm, có gân tim tím.
- Anh cẩn thận kẻo nó bò đi mất đấy. Mà nó lại bay nữa, phải
coi chừng!
- Biết quá mà. Hồi chúng mình chưa lấy nhau, anh đi chơi một
hai giờ đêm mới về. Anh còn nhớ cũng vào khoảng tháng này đây, đi con đường từ
Lò Sũ về Bờ Hồ, qua rạp Philharmonique và đền Bà Kiệu lá rụng và cà cuống bay cứ
rào rào làm lu cả bóng đèn điện ngoài đường, bắt không xuể… Nhưng này, sao nó
chỉ dội lên mấy ngày, một tuần lễ là cùng, rồi mất hẳn không thấy nữa?
- Cái gì đẹp mà quý lại chẳng hiện lên rồi mất ngay? Con
rươi, chim ngói, cá mòi, cốm… đều thế cả. Có phải Tây cũng như Tàu đều tin như
vậy và vẫn nói rằng “ngay hôm nay phải hái liền những bông hồng của cuộc đời”
phải không anh?
- Nhưng mà này, sao mình nhể “liền” cái bọng của con này lại
không có gì là nghĩa làm sao?
- Ông ơi, ông chỉ được cái tài nói khoác. Có phải con cà cuống
nào cũng có bọng để lấy dầu đâu! Đây này là con đực, chỉ có con đực là có dầu
thôi.Vì thế, cà cuống cay bao giờ cũng là cà cuống đực. Con cà cuống đực có một
cái bao nhỏ dính với ruột, trong chứa một chất nước như mùi nước đái quỷ. Ở hai
bên, phía trong bụng, dưới cặp chân thứ ba, có hai cái túi nhỏ bằng hột gạo
trong đựng một chất nước thơm. Cái nước thơm ấy, ta đương nhể ra đây. Nhể phải
nhanh tay mới được, chậm thì bay mất mùi thơm đi. Ta gọi cái nước thơm ấy là dầu
cà cuống. Dầu cà cuống nhẹ hơn nước, mùi thơm hơi cay, cho vào lọ mà bịt nút
không kín thì nó bay hơi đi mất.
Nhớ những lời của vợ kể ngày xưa, người chồng nói khoác hôm
nay lại cứ đúng nguyên văn mà nói lại với những cô bạn mĩ miều phương Nam đương
ngồi ăn thang chan đẫm mắm tôm cà cuống. Cô nào nghe cũng cứ treo mắt lên môi
anh chàng. Và anh không quên nói tiếp mấy câu tráng miệng:
- Thế nhưng đừng tưởng cà cuống chỉ quý riêng về cái dầu đó
mà thôi. Ta biết cà cuống có hai thứ: cà cuống cay và cà cuống thịt. Cà cuống
cay cho chúng ta chất dầu đặc biệt vừa nói, nhưng cà cuống thịt lại có một vẻ
lâm li khác hẳn. Bỏ cánh đi rồi, anh nhần nhần sáu cái chân nó, lấy cái đầu, xé
ra nhấm nhót cái ức trước rồi cái đuôi sau, anh sẽ thấy nó có một vị ngon khác
hẳn các món ăn ngon nào khác: nó nhận nhận, bùi bùi, beo béo mà lại thanh
thanh, một người tục có thể ăn cả trăm con không biết ngán.
Mà ngán làm sao được? Tháng một là tháng cà cuống thịt hầu hết
đều có trứng, tách đôi cái bụng nó mà nhần lấy những chùm trứng xanh xanh, vàng
vàng như hoa cà hoa cải, tôi nhất định tin là còn khuya cái món ca-vi-a (1) của
Âu Mỹ mới mong sánh kịp.
- Thế cà cuống cay lấy dầu xong thì “rục” cả đi ư?
- Nói bậy. Ăn cũng ngon như cà cuống thịt vậy, nhưng nó kém
ngon một chút vì không có trứng mà thịt ở ức không mấy béo.
Một cô mĩ miều bỗng đập tay vào vai cô ngồi cạnh:
- Thôi chết rồi, nói vậy thì ở đây mình cũng có cà cuống mà
mình không bắt để ăn…
- Thì đã nói là ở đây thiếu gì, nhưng cái hay là có người
không buồn bắt, trong khi có người khác lại biết bắt lấy để rút cái chất nước
thơm và cay ở trong bụng nó làm đồ gia vị độc đáo nhất, mê li nhất. Đừng ai bảo
ăn uống như thế là tầm bậy tầm bạ. Không. Ăn uống như thế là đã đi đến chỗ tinh
vi triệt để, không dễ gì các nước vỗ ngực là văn minh, mà cũng không dễ gì các
nước có một nền văn hóa hai ba trăm năm đã biết ăn như vậy.
Mù-tạt là cái gì? Nước cà tô-mát là cái gì? Mà ma-di là cái
gì? Đó là tất cả những cái gì rất ngon, rất quý của Tây phương, ai mà dám chê;
nhưng có nhiều lúc tôi đã nghĩ thầm như thế này và tôi cười muốn chết: ngày tết
gói bánh chưng trộn nhân với mù-tạt; ăn thang, cuốn, chả cá, tiết canh lòng lợn
chấm mắm tôm mà lại cho tô-mát-dút (2); hoặc ăn bánh cuốn, cháo ám mà lại cho
vào nước mắm một ít ma-di hay lạp-chíu-chương thì trời đất quỷ thần ơi, phong vị
các món ăn gia dụng ấy sẽ ra sao?
Nước Việt Nam khổ sở của chúng ta có biết bao nhiêu món ăn
thích khẩu, nhưng biết bao nhiêu món ăn thích khẩu sẽ “đi đoong” nếu không có
gia vị là cà cuống. Âu cũng là một điều đáng tiếc là phải đợi mãi đến gần đây
ta mới thấy người mình ở trong này lấy dầu cà cuống để điểm vào những bữa tiệc
hay những bữa quà cho “thơm” hơn! Vậy mà dần dần đồng bào ở đây và cả các ông
ngoại quốc cũng “chịu giọng” cái “chất nước trong, cay hắc mà hôi hôi đó” - chịu
quá, chịu đến hoá ra ghiền, vì tôi đã thấy có người ăn bất cứ món gì cũng phải
cho mấy giọt cà cuống vào nưởc chấm mới làm được vừa ý ông thần khẩu.
Ấy thế mà cà cuống ở đây, thực ra, mới chỉ là hạng nhì, vì cà
cuống đây không cay sắt là một lẽ, mà lẽ khác là vì dầu cà cuống phần nhiều pha
chớ không được nguyên chất, lại cũng có thứ dầu cà cuống chế bằng chất hoá học
chớ không phải là dầu chính cống, lấy trong bọng con cà cuống ra.
Tôi tiếc ở đây người ta không xài cà cuống thịt, phảí chi có
những người đến mùa đi bắt đem về luộc lên để cho các bợm nhậu đưa cay, dám chắc
xí-quách, lỗ tai heo, khô nai, khô cá thiều, thịt bò lúc lắc đều thua xa một nước.
Nhưng nói thế mà thôi, chớ nóng chảy mỡ ra như cái tháng một ở
trong này, ăn vàng vào miệng cũng như là ăn rơm. Chỉ được cái trái cây gỡ lại.
Không nuốt được cơm, chỉ lấy trái cây mà rẫy, rồi ăn xong thì mồ hôi mồ kê nhễ
nhại, anh nằm quạt máy lim dim con mắt mơ về những chuyện xa xưa, tôi đố anh
không có lúc thấy tiếc tiếc, nhớ nhớ, thương thương cái bầu trời đục màu chì lỏng,
cái mưa lầy lội chỉ vừa làm ướt gấu quần và cái rét êm êm, ngòn ngọt thỉnh thoảng
lại có một ngọn gió hơi buôn buốt thổi vù vù từ xa lại làm cho những cành cây
thưa lá đập vào nhau và reo lên khe khẽ như tiếng của những người yêu bé nhỏ gọi
những người yêu.
Mưa rét như thế, ai mà chẳng cảm thấy ở trong nhà đọc sách thỉnh
thoảng lại nhắp một miếng cà phê do chính mình pha lấy và hít một khói xì gà
thì nhất: những người có chất nghệ sĩ lắm khi khó chịu đến cái mức vợ con không
thể nào chịu nổi. Có ai nằm nhớ lại Hà Nội ngày nào, vào những lúc trời se sắt,
mưa dầm dề, gió lê thê như thế, thỉnh thoảng ở giữa đường lại có một anh chàng
mặc áo tơi, đội mũ mốt săng, đi ghệt, ngậm cái ống điếu đi lang thang một mình
như đang nghĩ thơ không?
Ấy đó, biết là đóng cửa lại ở trong nhà ấm cúng thật tình,
nhưng có những người nhìn lên trời thấy ở bên ngoài sầu sầu một cách nên thơ, tự
nhiên cảm thấy không chịu được, phải vội vàng khoác áo đội mũ ra đi để tận hưởng
cái rét, để dầm mình vào trong mưa, để nghe cái nhịp thở âm thầm của cỏ cây lúc
đó bắt đầu hé những lá non bé tí tẹo, xanh mươn mướt.
Không phải là thi sĩ, nhưng vào những buổi chiều tháng một ở
Hà Nội, người nào cũng muốn làm thơ: trời lạnh có gió mưa, nghe tiếng rao sì-cốc-bểu
là một loại bánh cuốn hấp, người ta cũng thấy có một cái gì gợi cảm; cái xe tay
trùm áo tơi cánh gà cũng có thể là một đề tài để cho người đa tình suy nghĩ hay
một cái quán bên đường he hé mở để cho người đi qua nghe thấy một cái lò than hồng
tráng bánh cuốn có mấy người ngồi ăn trong làn khói mờ mờ như sương cũng có thể
làm cho ta tưởng tượng bao nhiêu cuộc hợp hoan chờ đợi…
Rét lắm, anh ơi, thôi đi về, anh nhé. Những bờ vai sát lại với
những bờ vai; những con mắt nhõng nhẽo tìm những con mắt ngọt ngào; mớ tóc ai
đen rưng rức như đêm tăm sao khéo buông lơi xuống môi má người thương y như thể
tơ hồng quấn quýt lấy cành mộc-liên xanh nõn…
Kéo cái màn cửa sổ mà nhìn qua lớp kính mờ mờ hơi nước xuống
con đường nhựa láng bóng nước mưa, anh thấy vũ trụ im ru như trong buổi hồng
hoang mà nhịp thở ân tình của người yêu là tiếng hát ru, còn bộ ngực ngát thơm
là cái gối mộng đưa anh xuống con thuyền bát nhã chở về miền cực lạc.
Bây giờ, ngồi ở trong một quán nước vắng teo mà nhìn lên gác
nhà ai le lói một làn ánh sáng mờ mờ ấm ấm, người chồng phiêu bạt đột nhiên cảm
thấm thía hơn cả bao giờ nỗi cô chích của mình và bao nhiêu kỉ niệm với người vợ
bùi ân ngọt ái khi xưa lại trở về như những cánh chim non trong mộng.
Ối, ở cái đất giàu có sung sướng này, hương phấn thừa thãi,
giơ ngón tay út lên thì lúc nào chẳng có người sẵn sàng kết bạn một đêm với anh
ngay, nhưng người chồng “đánh rẻ cái hồng nhan” đứng dậy, bỏ quán nước đứng
lên; đi thủng thỉnh dưới mưa phùn gió bấc. Ngao ngán cho thân mình, y có lúc
không còn mong gì nữa, không còn thèm gì nữa. Mong gì bây giờ? Mà còn thèm gì
bây giờ? Những tiếng cười tiếng nói đa tình, những bộ đứng, cách đi duyên dáng
của các cô bạn mĩ miều đã tắt như lửa ở trong lò sưởi tắt lúc trời gần sáng.
Bao nhiêu ấm cúng, bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu an ủi đã chết rồi, bây giờ
chỉ còn lại một cái gì trống rỗng mông mênh, một cái gì nhạt nhẽo không làm
rung động được khứu giác, một cái gì ghê rợn thoang thoảng mùi bệnh tật và chết
chóc.
Chiếc chìa khoá vàng rớt từ ở trên đỉnh tháp xuống bây giờ biết
tìm đâu? Đến gần sáng, người chồng mới về được tới nhà, mở cửa rộng ra, và tự
nhiên thấy tạt lại một mùi gì nhạt nhẽo: có lẽ đó là mùi chăn hôi chiếu mốc. Mệt
mỏi, anh không buồn đóng cửa lại nữa, gục đầu xuống cởi giày nhưng để nguyên quần
áo lăn ra giường và lấy nửa cái chăn đắp vào ngực cho đỡ lạnh.
Ngoài kia, mưa rơi buồn thê thiết; gió thổi qua khe cửa làm
cho lá màn màu bạc úa cũng rung lên vì lạnh. Kỉ niệm xa xưa ơi, cứ đến trêu chọc
người gối lẻ nằm mất ngủ đêm mùa đông làm gì ?!
Em ra bến nước trông về Bắc,
Chỉ thấy mây trôi, chẳng thấy làng!
Y giơ tay bưng lấy mặt, nhưng vẫn không tài nào chợp được mắt.
Một lát thì ở xa tiếng gà đã gáy te te. Trời lọc qua cửa kính
rọi vào một làn ánh sáng đục lờ như thể cà phê sữa. Chẳng biết bây giờ ở xứ bạn
nằm yên giấc, trời đã sáng chưa, mà sao ở trong căn phòng úa héo này, vẫn còn tối
mù tối mịt.
Người chồng lăn bên này, lăn bên nọ thì đã thấy ở bên cạnh có
tiếng máy truyền thanh nhỏ nhẻ vọng sang. Cái đất này nghiện máy truyền thanh,
cải lương, Quỳ ạ.
Trước đây, vợ anh thích nhất hai tuồng “Sơn Hậu” và “Chiêu
Quân cống Hồ”. Anh cũng thích là vì vợ thích. Nhưng đêm nay, ruột cứ nẫu ra,
còn bụng dạ nào mà nghe nữa? Anh kéo chăn trùm kín lấy đầu, nhưng giọng Út Bạch
Lan trong “Bụi mờ ải nhạn” vẫn cứ như khoan vào lỗ tai. Trong lúc chập chờn nửa
mê nửa tỉnh, anh bỗng thấy từ dưới đất dưng lên đồi núi trùng trùng điệp điệp,
trắng xoá dưới những lớp tuyết dày dãi ra bát ngát không biết đâu là đất, đâu
là trời.
Không có một bông hoa, một bóng chim. Tuyết, chỉ toàn là tuyết
trắng. Thỉnh thoảng, nổi lên một tiếng tì bà oán hận. Rồi ở xa xa, xa tít đàng
xa, có hai cái hình bóng bé nhỏ hiện lên trên hai con ngựa gầy cúi đầu đạp tuyết
mà đi về phía chân trời tẻ ngắt. À, ra là Vương Chiêu Quân đi cống Hồ, có Lưu
Văn Long hộ vệ, và cứ đến mỗi chặng đường, Chiêu Quân lại khóc bằng mười đầu
ngón tay trên cây đàn tì rồi tức cảnh làm thơ để Lưu Văn Long hoạ lại, nói lên
nỗi lòng thương Hán oán Phiên.
Người chồng chảy nước, nói một mình như thể người mơ ngủ:
- Tội nghiệp Chiêu Quân vì sắc đẹp mà phải đem mình sang cống
vua Phiên, nhưng ai oán nào cho bằng Lưu Văn Long bị vạ lây, phải bỏ vợ mới cưới
đi hộ tống “lịnh bà” sang đất rợ để tới khi được về thì tóc xanh đã bạc quách từ
bao giờ rồi!
Chú thích:
(1) Caviar: một loại trứng cá esturgeon, thoạt đầu chỉ Nga
có, nhưng bây giờ thì có hầu hết cả Âu Châu.
(2) Tomato juice: nước cà chua.
Đáng lý ra thì công lên việc xuống như thế, vợ phải mệt đừ,
nhưng tài thực, không những đã chẳng sao mà lại còn tươi hẳn lên là khác. Ấy là
vì làm việc nhiều mà quên mệt? Ấy là vì thời tiết? Ấy là vì thương chồng,
thương con mà không quản ngại vất vả chăng? Đã đành là vào cữ tháng chạp ở Bắc
Việt người ta thấy trong người khoẻ mạnh hơn cả những tháng vừa qua; đã đành có
khi lòng yêu thương làm cho người ta quên mọi nỗi buồn phiền cực khổ khi thấy
những người thân yêu của mình vui sướng; đã đành là có nhiều khi ham mê công việc
quá mà quên mệt mỏi; nhưng bao nhiêu cái đó chưa thấm vào đâu với cái vui của
người đàn bà khi thấy năm hết tết đến, nhà cửa bình an, vui vẻ mà trong mình lại
có một số tiền dành dụm được từ trong năm, tạm đủ để mua bán cho bằng chị bằng
em hầu ăn một cái tết không to nhưng cũng không lúi xùi.
Năm nào chồng cũng bảo vợ:
- Thôi nhé, năm nay ăn thế nào xong thôi, chớ bày vẽ ra lắm
chỉ tổ ốm người, em ạ.
Và năm nào vợ cũng trả lời:
- Thì nào có sắm sửa gì đâu. Chỉ có vài con gà con qué và một
nồi cá kho xì xằng…
Ấy thế mà từ đầu tháng chạp, nhà chẳng có lúc nào rỗi rãi. Vấn
đề quần áo tết đã giải quyết xong xuôi từ cuối tháng một rồi – vì sợ để đến gần
tết mới lo thì không có người nhận may – người vợ ngày nao cũng dậy từ tinh mơ
đi chợ để bắt đầu mua các thứ đồ nấu cất sẵn một chỗ, vì sợ để đến rằm tháng chạp
mới mua thì đã kém ngon mà lại đắt. Hầu sì, bong bóng, bào ngư, bột ngọt, măng
tây, vây cá… tất cả những thứ đó cất sẵn cả vào trong chạn. Tuy vậy, cũng chửa
yên tâm. Nhiều khi sực nhớ ra điều gì lại lấy cuốn sổ ra ghi.
- Phải thế mới được. Dạo này em nói trước quên sau, hỏng quá.
Này, còn phải mua mấy cái tranh gà lợn và hai ông “Tiến tài,
Tiến lộc” để dán ở hai cánh cửa chính này; mua một hộp thuốc đánh đồ đồng này;
lên trên phố Lò Rèn lấy hai con dao gọt thuỷ tiên đặt đánh này; mua thêm mộc
nhĩ để gói giò thủ này… À, nếu em quên, anh nhớ nhắc nhé: mai, thể nào cũng phải
xuống ông Cả ở Khâm Thiên xin một ít lan chân cua về trồng.
Ở Hà Nội, đến Tết, nhà nào cũng phải có một cành đào hay cây
mai, một chậu cúc, cụm hồng nhung hoặc một cặp đỗ quyên có hoa nở đỏ chói để
cho vui nhà vui cửa; nhưng có những nhà đặc biệt quan niệm rằng tết mà không có
hai chậu lan chân cua để trưng bày thì cái tết kém hẳn phần rực rỡ. Bởi thế năm
nào cứ vào đầu tháng chạp, người vợ cũng tự tay trồng hai khúc xương rồng vào
hai cái chậu sứ Giang Tây rồi lấy con dao nhọn khía cây xương rồng ra để ghép
những cánh lan chân cua vào cho lan hút lấy nhựa xương rồng mà sống. Ghép lan
như thế, phải làm từ đầu tháng chạp. Chừng một tuần, những lá lan trông như
chân con cua bể căng nhựa, tươi lên trông thấy, và thường thường vào cuối tháng
chạp thì hoa nở sum sê, đỏ chói - nhưng đỏ một màu đỏ đặc biệt, nửa như màu chu
sa mà nửa lại như màu cánh sen.
Người chồng vụng chân tay, chịu chết không thể làm được công
việc đó, đành là phải đứng ở bên cạnh để xem có đỡ đần được việc gì chăng. Tủ
chè, sập gụ và bộ sa lông bằng gụ cẩn đá hoa đánh bằng xi không được, phải đánh
bóng bằng lá chuối khô; đồ đồng đánh bằng tro và trấu, đã lau sạch rồi mới bôi
thuốc đánh đồng; sàn gạch cứ đổ dầu lạc một đêm rồi lau đi, đợi đến hai mươi
chín, ba mươi cọ bằng nước thì mới bóng; mi môn, quần màn đem phơi sẵn một vài
nắng chớ không thì mốc đấy. Lăng ơi, con xem giùm mẹ cái tranh “Đông Phương Sóc
ăn trộm đào” cuộn lại cất ở đâu, lấy xuống phơi nhân thể để nay mai treo ở
ngoài phòng khách nhé.
Bao nhiêu màn ở ban thờ đã thay hết rồi, nhưng cái mâm ngũ quả
nhớ đem rửa sạch. Khanh ơi! Còn Khoái, con nhớ hai cái đèn lục lăng treo ở hai
bên bàn thờ Phật, phải hạ xuống rửa các miếng kính bằng xà phòng chớ cứ lau
không, không sạch. Ấy đó, quanh đi quẩn lại chỉ rặt những công việc vặt như thế
mà hết cả ngày. Hết cả ngày mà cũng không hết việc. Cứ vào khoảng mồng mười trở
đi, người vợ lại phải thức khuya để quét dọn bàn thờ, bày biện lại mấy bộ đồ
trà, mấy bình rượu thúy lục, thúy hồng bày ở trên đầu tủ rồi đem hộp mứt ra rửa,
cắt những miếng trang kim để bày dưới những miếng kính ở cơi trầu, rồi ra sân vặn
đèn thay nước của từng cốc, uốn lá và lấy những cái tăm tách những cài giò thuỷ
tiên ra để cho đừng chạm nhau. Nhiều khi đến lúc ấy thì người chồng đã chợp được
một giấc ngắn rồi. Nhìn xuống nhà thấy còn đèn, biết là vợ chưa đi ngủ, người
chồng dặng hắng rồi xuống thang, nhăn mặt:
- Làm gì mà đến giờ này vẫn chưa ngủ?
Biết là chồng khó tính, người vợ cười:
- Em sắp xong đây. Chỉ còn một tí nữa thôi: em để chậu thuỷ
tiên này ra sân cho có sương rồi lên ngay đây mà.
- Một giờ hơn rồi đấy. Em cứ thức thế này ốm mất. Đã bảo cái
tục ăn tết phiền lắm, phải giản tiện một chút, cứ theo đúng thủ tục thì theo
làm sao cho được.
Ngọn đèn đêm bật lên rồi, gian phòng ngủ chìm vào trong một
bóng tối xanh biêng biếc. Bấy giờ người vợ mới thủ thỉ bên tai chồng:
- Thì em cũng muốn giản tiện lắm đấy chứ, nhưng cũng chỉ giản
tiện được có chừng thôi. Tết mà không trang hoàng một tí cho vui cửa vui nhà và
sắm sửa lệ bộ mỗi thứ một tí, lòng nó không yên, anh ạ.
Có lẽ là vì từ bao nhiêu đời nay tổ tiên mình, rồi đến ông
cha mình tin tưởng, rồi đến mình đây tin tưởng là đất đai cũng như sinh vật,
ngưng hoạt động trong những ngày cuối năm, lại bắt đầu sống lại, với sự trở về
sắp tới của khí ấm. Từ quan niệm đó, người ta vui mừng trông đợi lúc cây cối và
muôn vật trở lại cuộc sống bình thường và ao ước năm mới phải có một cái gì mới,
một tiến bộ mới.
Người nông dân ao ước sản xuất nhiều, người thị thành ao ước
khôn ngoan hơn, giàu có hơn, trưởng thành hơn. Bao nhiêu thù oán xếp lại, tình
đoàn kết được đề cao, sự lo buồn lộn xộn quẳng đi một xó. Người ta thăm hỏi
nhau, kiêng mắng chó chửi mèo, kiêng hốt rác, rồi trông nêu, vạch vôi vẽ cung
tên, chẳng qua chỉ là để hi vọng năm sắp tới bản thân mình, gia đình mình, làng
nước mình sẽ khôn ngoan hơn, khoẻ mạnh hơn, sinh sản nhiều hơn. Người ta chúc mừng
nhau, cầu trời khấn phật, chỉ là để xin các sức huyền bí viện trợ cho mình. Sự
hoang đường mê tín thường xuất phát từ một nhu cầu thực tế. Không theo như thế
thì không yên dạ. Không yên dạ vì sợ rông, vì sợ xúi quẩy cả năm, nhưng không
yên dạ còn vì sợ việc này hay việc nọ trong năm sẽ không bằng được năm cũ.
Em nghe thấy nói trước đây, ở chợ Đồng (Hà Nam), chợ Phủ Giày
(Nam Định), có những người đến phiên chợ cuối năm thường cố mang một thứ hàng,
bất kì nhiều ít, bất kì tốt xấu đi bán, chỉ mong bán chạy chớ không mong lấy tiền.
Bán như thế là bán cái xúi quẩy của năm cũ đi.
Cũng vậy, ở Nghệ Tĩnh trở vào Thừa Thiên ngày trước cũng có tục
đến phiên chợ tết thì đem đồ đi bán và rao “Có ai mua dại ra mua” và không cần
bán mà cũng không cần ai trả lời mua hay là không mua.
Tất cả những tục lệ ấy, truy tầm ý nghĩa sâu xa của nó, chỉ
là biểu hiện nguyện vọng của dân tộc muốn cho mọi sự trong năm mới phải hơn năm
cũ.
Em thiết nghĩ nêu ta có chỉnh trang nhà cửa, mua bán sắm sửa
cái này cái nọ, cho cửa nhà vui vẻ chẳng qua cũng chỉ là theo truyền thống của
dân tộc, lập lại cái nguyện vọng chung của dân tộc, nếu không có lợi thì cũng
chẳng có gì là hại.
- Nhưng mà mệt mỏi, bận rộn, ốm người!
- Đó là ý nghĩ của anh, chớ em thì thấy mình có bận rộn mấy
ngày này thì đến tết nghỉ ngơi, mình mới càng thấy sự nghỉ ngơi thanh thả là
quý báu. Anh bảo người ở xa nhà xa cửa đến tết lôi thôi lếch thếch vợ con kéo về
quê ăn tết còn mệt mỏi và tốn kém đến đâu, sao mà họ vẫn cứ về quê ăn tết?
Không về là không ăn tết, không ăn tết thì không thể yên tâm được. Có ai bắt buộc
họ đâu, nhưng họ cứ về, vì cách gì trong một năm họ cũng phải trở về nhìn lại
bàn thờ, ngôi mộ, cây cau, cúng ông bà, thăm họ hàng làng nước một lần, mà lần
đó phải là ngày tết. Về quê ăn tết, đối với tất cả người Việt Nam tức là trở về
nguồn cội để cảm thông với ông bà tổ tiên, với anh em họ hàng, với đồng bào
thôn xóm; về quê ăn tết tức là để tỏ cái tinh thần lạc quan ra chung quanh
mình, tỏ tình thương yêu cởi mở và biểu dương những tinh thần, những kỷ niệm thắm
thiết vì lâu ngày mà quên đi mất.
Riêng cái quan niệm về tết đó đã cao thượng lắm rồi, nó khác
hẳn đạo Phật, đạo Lão, nó không tách ra khỏi cuộc sống mà lại đi vào cuộc sống,
dựa vào cuộc sống mà vươn lên, nó thực tiễn và tiến bộ, anh ơi, mình chỉ thông
cảm sơ sơ cũng đã thấy khỏe rồi. Thú thực với anh, em không thấy mệt một phút
nào và em nói thẳng là em yêu tết, mong tết y như lúc em còn nhỏ vậy.
Chẳng lẽ em của anh yêu tết, thích tết, ham sắm tết và trưng
bày ngày tết, anh yêu lại ngăn cấm em sao?
Nghe vợ nói như thế, người chồng ớ người ra, không còn biết
nói năng sao. Ờ thôi, em muốn làm gì mặc, nhưng có mệt mỏi, đừng than phiền đấy!
Nhưng cùng lúc nói câu ấy, người chồng thấy vợ đột nhiên đẹp trội hẳn lên, y
như thể một thiên thần. Nghĩ cũng kì: ăn thì khểnh, ngủ thì ít, mà làm sao
trong những ngày gần tết, vợ mình lại nhanh nhẹn hơn, đôi mắt sáng hơn mà má
cũng hồng hơn? Người chồng cảm thấy rõ rệt như thế; hơn nữa, trong những buổi
theo vợ đi chợ Mớ Mơ, chợ Bằng, chợ Ô Cầu Dền, chợ Đồng Xuân, chợ Đần, chợ
Ngăm, chợ Đẹp… đông quá, chen chân không được mà sao vợ mình cứ đi dẻo quẹo,
không tỏ vẻ gì mệt mỏi, dừng chỗ này mua một thứ, rẽ ra dãy kia mua thứ khác,
ôm đồm trăm thứ mà vẫn cứ tươi như thường.
Đất thì lầy lội, người thì đông, chen chúc xô đẩy ồn ào, minh
mệt muốn đứt hơi, đứt ruột mà cứ phải đi theo xách làn mây lẽo đẽo, lắm lúc muốn
thở hắt ra đi về; nhưng nghĩ thế mà thôi, chớ chợ tết có một sức hấp dẫn hết sức
kì lạ, muốn về nhưng lại cứ muốn đi, đi để xem thiên hạ mua bán, đi để xem bao
nhiêu cái ngon, cái đẹp của quê hương, đi để xem… chợ tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc,
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ,
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu.
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau,
Sương trắng đổ đầu cành như giọt sữa;
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh;
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh,
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.
Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ,
Để lắng nghe người khách nói bô bô,
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán.
Mấy thầy khoá gò lưng trên cánh phản
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân;
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm
Miệng lẩm nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ;
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cỏ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu;
Áo cụ lý bị người chen sau kéo,
Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra.
Lũ trẻ con mãi ngắm bức tranh gà,
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi,
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa.
Những mẹt cam đỏ chói tựa son pha,
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết.
Con gà trống mào thâm như cục tiết,
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem…
Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm…
Không nhớ nhà thơ nào đã tả chợ tết như thế nhỉ! Mệt quá, anh
ta cũng chẳng buồn nghĩ xem là ai nữa, thì vừa lúc ấy vợ lại từ dãy hàng hoa quả
xách một cặp gà sống thiến bảo mình ngồi canh để còn đi mua thêm mấy chục cam
sành nữa rồi về.
Ngồi trên cái ghế dài thấp lè tè, làm một khói thuốc hãm với
nước trà tươi nóng, người chồng lại lim dim con mắt nhìn qua làn khói thì thấy
người lố nhố đi lại y như trong một bức phim màu vậy. Cái yếm sồi của cô gái
quê khéo đa tình lại đeo một lá bùa vàng; chiếc quần là ống sớ của chàng trai
chống chiếc gậy tre làm nổi bật cái áo tam giang của cô gái bán dừa; ông thầy
bói chít khăn nhiễu nước dưa có nhìn thấy quái gì đâu mà sao cứ nghển nghển
trông vào những bức câu đối đỏ của ông đồ bán chữ? Đây là tiếng ới, đó nọ câu
cười; mấy ông lái trâu nói thứ tiếng gì mà nghe như tiếng xạ phang, còn các bà
bán cây sao hôm nay ăn trầu tươi thế? Nhưng tất cả… tất cả đều thua hai chị em
cô hàng bán chiếu cạp điều cười đã xinh, ăn nói lại tình, ô hay, sao chiếu chất
cao gần nóc chợ mà mình lại thấy như có hoa nở ở chung quanh?
Thì ra chợ tết có một sức hấp dẫn kì lạ thật: nhìn vào cái gì
mình cũng thấy đẹp, trông người nào mình cũng thấy tươi, thấy cái gì mình cũng
muốn mua. Cái ống bương cắt chéo góc, ngày thường ai mà thèm để ý, ấy thế mà
mình cũng muốn mua để về trồng mấy giò lan “đồng tiền”; cái chút chít bằng đất
ra cái chết gì, ấy thế mà mình cũng muốn mua cho trẻ vì bây giờ ở phố phường
không có bán; mà cả đến hai chị em cô bán chiếu nọ mình cũng muốn mua luôn đem
về vì ngộ quá, y như thể một cặp búp bê Nhật Bản. Nhưng mà nghĩ một cách tội lỗi
thế thôi, và chỉ tán láo tán lếu tí ti thôi, chớ đâu dám đi sâu quá…
Phải chi đây là “phiên chợ cưới” thì mình đâu có ngán.
Phiên chợ cưới… Phiên chợ cưới… Ờ phải rồi, nhớ lại lúc vợ chồng
chưa lấy nhau, người chồng rộng cẳng thường vẫn bỏ nhà đi ăn tết lang thang, có
khi ở nhà con hát đàn, có khi ở một vùng quê, lại cũng có khi ở một vùng sơn cước.
Anh ta nhớ có một năm lên vùng Tam Đảo chia tỉnh Vĩnh Yên với Thái Nguyên, anh
đã đi một phiên chợ đặc biệt của đồng bào người Mán ở mấy tỉnh Vĩnh Yên, Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ: phiên chợ cưới. Chợ cưới họp vào ngày hai mươi
nhăm tháng chạp tại xã Tam Long, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Yên, ở ngay cổng
làng Tam Long, giữa cánh đồng, bên một con sông đào nhỏ nước trong văn vắt.
Từ mười giờ sáng đến năm giờ chiều, các trai gái, hoặc là đi
một mình hoặc là cùng đi với bà con thân thích, kéo nhau tới chợ – nơi mà ngày
thường mấy xã ở quanh vùng vẫn họp nhau buôn bán. Nhưng hôm nay thì một con cá,
một lá rau cũng không có, vì đồng bào ở đây đã mua bán xong xuôi từ mấy hôm trước
rồi. Hôm nay, trai gái ăn mặc tề chỉnh, đến đây là để giao duyên và tình tự với
nhau. Có cặp thề sông hẹn núi; có đôi ước hẹn một ngày chồng vợ vuông tròn; lại
có những tình nhân trao đổi cho tình nhân những món quà kỉ niệm. Khe suối, bụi
tre, đồi cây, bờ ruộng, chứng kiến bao nhiêu mối tình thơ mộng, dường như cũng
rung động một cách khác thường, tươi lên một cách khác thường. Những cái phá sặc
sỡ, những cái khăn, những đôi hài sảo thêu xanh viền đỏ với bao nhiêu hoa tai bạc,
vòng cổ vàng, vòng tay đen, vòng chân tím giao hoan với mây ngàn trắng màu bạc
cũ, gió núi biêng biếc màu bằng lăng làm cho phiên chợ cưới và bao nhiêu cảnh vật
ở chung quanh có một vẻ huyền ảo lung linh như một buổi quần tiên đại hội trong
một thuở vườn thần thánh trên Thiên Đình.
Phiên chợ cưới… Chớ sao? Tiên cũng lấy nhau, chớ đâu chỉ có
người phàm trần mà thôi. Cô sơn nữ và chàng trai vùng Tam Đảo quanh năm vất vả
vì ma chay, giỗ chạp, nuôi trâu bò, gà lợn và đi rừng cắt đông trùng hạ thảo, mộc
nhĩ, hái lá kim giao, quên làm sao được phiên chợ cưới cuối năm; hết năm nọ đến
năm kia, bọn này thành vợ thành chồng thì bọn khác lại kế tiếp đi chợ cưới Tam
Long để gắn bó keo sơn, kết nên những cuộc ân ái đẹp như trăng thu, trắng như
tuyết núi.
Thả hồn về chợ tết ở Kinh, người chồng tiếc không biết bao
nhiêu cái đẹp đã qua và cảm thấy tức bực con người ở đây sao vất vả tấm thân vì
nhiều thứ phù hoa quá. Năm hết tết đến rồi, mình lì đến mấy đi nữa cũng cứ là
thấy sốt ruột vì nhiều công việc chờ đợi quá. Hôm qua, vợ đã gióng lên là nhớ
việc gì thì phải làm ngay, chớ cứ để dồn lại đến ngày chót, làm sao cho kịp: lần
này về, cách gì thì cũng phải lo “gửi tết”. Mình là ngành thứ phải đem đồ lễ đến
nhà gia trưởng: gà vịt, hoa quả, vàng hương; những ngành trực thống phải “gửi”
vàng hoa; còn những ngành khác thì dùng vàng hồ hoặc vàng lá. Vàng hồ là một thứ
vàng gốm, một phần ba những thoi vàng ở lớp trên làm bằng giấy bồi vàng, còn
hai phần ba lớp dưới là những thoi bạc làm bằng giấy bồi trắng có dính mặt
kính, trang kim. Vàng hoa làm toàn bằng giấy màu vàng, cũng có dính mặt kính,
trang kim như vàng hồ nhưng nhiều hơn, tượng trưng cho vàng thoi, do đó mỗi
nghìn vàng là một nghìn thoi nhỏ. “Gửi tết” nhà gia trưởng mà không có vàng,
không được.
Gửi tết rồi lại còn phải lo biếu tết. Bao nhiêu bạn bè, thân
thích xa gần buôn bán, giao thiệp với mình, làm ơn làm huệ cho mình, nhất thiết
phải moi trí óc ra mà nhớ cho kì hết để đem đồ đến biếu. Biếu như thế không phải
là đút lót, mà chỉ là để tỏ cái tinh thần thương yêu, cởi mở, thực thi quan niệm
“thêm bạn bớt thù”, san bằng những mâu thuẫn để cho người ta có dịp biểu thị những
tình cảm, những ý niệm thắm thiết mà người ta không biểu thị được trong những
ngày thường trong năm phải làm ăn vất vả, đầu tắt mặt tối không có thời giờ
thăm viếng nhau, trò chuyện với nhau lâu.
Xong được mấy công việc đó thì cũng đã đến rằm, mười sáu rồi.
Đến cái ngày ấy, anh thấy thời giờ đi nhanh một cách tệ hại. Dù anh lơ là với tết
cách nào đi nữa, anh cũng cứ thấy tim anh rộn ràng lên, anh không biết phải làm
việc gì trước, việc gì sau và anh thấy rằng mặc dầu là bỏ giấc ngủ trưa, những
ngày cuối năm ấy quả là đi nhanh quá, nhanh như “bóng câu qua cửa sổ” – cái
danh từ rất sáo mà lúc nhỏ anh vẫn viết trong tờ “com-pờ-li-măng” đọc chúc mừng
thầy giáo trong buổi học tất niên viết trên một tờ giấy rất trắng vẽ một bó hoa
buộc bằng một cái băng tam tài!
Thì ra mình trách vợ bận rộn về tết, ốm cả người, mà chính
mình từ rằm tháng chạp trở đi cũng bận rộn, vất vả y như vợ vậy. Cái việc mua
giấy hồng điều rắc vàng để nhờ ông Cả Nam viết câu đối dán ở cột trước cửa và
ngoài sân; cái việc mua trầm để đốt trên bàn thờ; cái việc đi chọn pháo Công Tường
Cát để đốt đêm giao thừa vào ba ngày tết, nhất định mình không đảm trách thì
không được. Cũng không được, nếu sắm sửa tết tàm tạm xong xuôi mà mình lại
không cùng với vợ đi thăm mộ gia tiên nội ngoại để viếng các cụ, đắp lại mộ các
cụ và thắp nhang mời các cụ về ăn tết với con cháu nhà. Trước đây, làng Đáp Cầu,
huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh có cái lệ đi thăm mộ gia tiên hàng năm ấn định
vào ngày ba mươi tháng chạp nếu là tháng đủ, hay hai mươi chín nếu là tháng thiếu.
Nhiều làng khác cũng theo như thế. Nhưng sau này, đời sống xô bồ, có thay đi
chút ít, người thành thị đi thăm mộ ông bà cha mẹ sớm hơn một chút, có khi trước
ngày ông Táo lên chầu trời, có khi sau vài ngày.
Thực tình, cái giống nhà văn, nhà báo có lúc đáng yêu thật,
nhưng có một vài khi cũng làm cho đàn bà bực cả mình. Cái gì lại đem cả ông Táo
ra chế nhạo là “đội mũ đi hia chẳng mặc quần”? Cái gì lại đề nghị bỏ tục lễ ông
Táo mà cho như thế là dị đoan? Cái gì mà năm nào cũng nhạo ông Táo “lập bô” lên
với Trời về các việc xảy ra dưới trần?
Muốn nói gì thì nói, người vợ, đúng ngày hai mươi ba tháng chạp,
cứ phải đủ lệ bộ tiễn ông Táo lên trời thì mới yên lòng.
- Mình là người trần mắt thịt, biết thế nào là dị đoan hay
không dị đoan, biết thế nào là Tây Phương có lí hay Đông Phương có lí? Ai bảo
phản khoa học em chịu, ma ai bảo cái tục này do quan lại phong kiến đặt ra để
ngu dân, lại cũng chịu luôn; nhưng lễ tiễn ông Táo vẫn cứ lễ tiễn như thường vì
không làm như thế thì em ăn tết không ngon. Tội gì mình lại khổ thân mình như
thế?
- Nhưng mà nó buồn cười, em ạ. Tiễn một ông vua bếp cưỡi ngựa
cá chép lên chầu trời, còn có cái gì nực cười bằng?
- Nói như thế, thật hay, thật đúng. Nhưng mà ta cũng nên biết
rằng ta thờ kính ông Táo có phải là ta thờ kính cái ông vua bếp cưỡi cá chép
lên chầu trời đâu?! Cũng như ta trồng nêu, vẽ vôi bột, gói bánh chưng, dọn cửa
lau nhà, kiêng cữ chửi mèo mắng chó, ta tiễn ông Táo là để chứng tỏ tính chất đồng
nhất của xã hội, vì biết ăn tết tức là tầm mắt ta đã vượt được cái tổ chức thị
tộc bộ lạc chật hẹp để sống với nhau rộng rãi hơn trong sự đoàn kết của nhiều
thị tộc bộ lạc thống nhất với nhau về quan niệm, nghi lễ cũng như về thời gian.
Đấy là lúc tổ chức gia đình đã có cơ thay thế cho tổ chức thị
tộc. Sự thờ cúng ông Táo và sự tiễn đưa ông Táo lên trời hôm hai mươi ba tháng
chạp chứng tỏ rằng người mình lúc ấy đã tổ chức thành gia đình nhỏ, mà cái bếp
của ông Táo là tượng trưng cho gia đình, cái bếp là đơn vị nhỏ nhất của xã hội.
Cái gia đình ấy, cái đơn vị ấy đồng nhất từ Bắc vào Nam cho nên không có kẻ nào
chia rẽ được Nam với Bắc.
Nếu bảo tiễn ông Táo là mê tín dị đoan thì cả nước ta đoàn kết
ngay cả trong sự dị đoan, mê tín: ông Táo ở Bắc, hôm hai mươi ba tháng chạp,
lên chầu trời cưỡi một con cá chép thì cũng ngày ấy ở Trung, ông Táo cưỡi một
con ngựa yên cương chĩnh chạc, còn ở trong Nam thì giản dị hơn, đồng bào ta
cúng ông một cặp giò – cặp hia để cho ông đi lên Thiên Đình cho lẹ!
Người chồng đùa dai, chọc nữa:
- Người ta bảo là ông Táo tham nhũng lắm, chẳng biết có đúng
không? Ai mà lễ ông chu đáo, ông tâu tốt, ai không có gì, ông truy…
- Đấy là nói đùa. Nhưng nếu căn cứ truyền thuyết mà bàn thì
ông Táo nếu ăn tiền có muốn tâu bậy cũng không thể được. Là vì – lại theo thần
thoại – các cụ ngày xưa chống tham nhũng triệt để chớ đâu có như bây giờ. Anh
quên mất rồi ư? Tháng mười ta có lễ song thập là ngày lễ gần cuối năm, có tên
là Hạ Nguyên.
Đó là theo tục lệ nhà Phật.
Nhưng theo truyền thuyết thì ngày song thập, tức là mồng mười
tháng mười, trên Thiên Đình, Ngọc Hoàng Thượng Đế sai một sứ thần tên là Tam
Thanh xuống kinh lí trần gian để kiết toán những điều lành hay dữ trong một năm
qua để làm biên bản tâu lên Ngọc Hoàng minh xét. Vì thế, vào ngày ấy, dân chúng
lập bàn thờ hương án để rước điều lành, tránh điều dữ trong dịp thăm viếng của
sứ thần Tam Thanh, đồng thời sửa cơm canh cúng ông bà cha mẹ qua đời và cầu Trời
Phật phù hộ cho mạnh khỏe, ăn nên làm ra, tai qua nạn khỏi.
Như vậy là trước ngày ông Táo lên chầu Trời hai tháng thì đã
có một phái đoàn điều tra xuống dưới trần để xem xét tình hình rồi, các ông Táo
của các gia đình gan có bằng gan cóc tía cũng không dám khai gian nói bậy.
Nói câu này, nhất định có người sẽ bảo là mình nịnh vợ, nhưng
có thế nào cứ nói thế, không sao: tôi thích nghe những truyện truyền kì như thế
nhưng từ buổi di cư vào miền Nam ít được ai nói tới, thành thử lắm khi cũng nhớ,
mà đời hình như cũng kém thơ mộng đi một chút. Có lẽ cũng chính vì thế mà ăn mười
tám, mười chín cái tết ở đây, vào ngày ông Táo chầu trời, không thấy ai cúng cá
chép, mình có khi cảm thấy như nhớ cái gì đẹp lắm mà mất đi không còn thấy nữa.
Tôi nhớ Bắc Việt vào những ngày hai mươi ba tháng chạp, tiễn ông Táo lên Thiên
Đình, cái không khí nó khang khác chớ không như thế này… Từ sáng tinh sương,
chưa bước chân xuống giường, tôi đã nghe thấy rao ơi ới ở khắp các nẻo đường:
“Ai mua cá ông Táo không?”, “Cá ông Táo không nào”. Nghe như thế, tự nhiên lòng
mình bỗng nao nao vì biết rằng có cá ông táo là sắp đến Tết rồi. Không thể nào
nằm được nữa. Mình ra xem thì thấy những bà bán hàng gánh hai cái thùng sơn đi
vắt vẻo đôi tay, như chạy, để bán vội cho hết hàng, kẻo còn phải về sớm để sắm
sửa tiễn ông Công lên chầu Trời tâu việc hàng năm của mỗi gia đình. Ông Công đó
là thần Trương Đàn hay Tử Quách, chỉ phụ trách riêng về việc bếp núc, còn Thổ Địa
trông nom việc nhà, Thổ Kỳ có nhiệm vụ coi về chợ búa và tăng gia sản xuất cho
đàn bà.
Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ là ba nhân vật trong truyện truyền
kì “hai ông một bà” mà dân gian đều biết: hai ông là Trọng Cao và Phạm Lang,
còn một bà là Thị Nhi cùng chết trong một đống rơm. Để kỉ niệm ba người cùng chết
một lần vào ngày gần tết, dân chúng làm cái bếp ghép bằng ba hòn gạch đều nhau
bắt góc. Ở giữa, có để một hòn đá: đó là tên đầy tớ xông vào đám cháy để cứu chủ
không được mà cũng bị chết lây. Thường thường, ai cũng tưởng lễ tiễn ông Táo là
ngày lễ cuối cùng trong một năm, thật ra sau đó hai ngày còn lễ tiễn ông vải, lễ
tạ trường và lễ tất niên.
Trong lễ tiễn ông vải, người ta đem hết cả những chân nhang
trong một bát hương đốt quanh năm ra đổ xuống sông hồ hay đốt đi và thay tro
khác vào bát hương. Nhân lúc con cháu dọn dẹp, bày biện lại bàn thờ, ông vải thừa
dịp đi chơi vài ngày để chờ lễ Giao Thừa lại trở về ăn tết với con cháu trong
nhà.
Ít lâu sau này, lễ tạ trường đã bỏ vì chữ Hán hết thời, nhưng
lễ tất niên thì vẫn giữ nguyên cò bay ngựa chạy từ đồng ruộng đến thị thành:
đúng ngày ba mươi tháng chạp, dân chúng làm cỗ ăn mừng và gọi là cỗ tất niên.
Ăn xong bữa cỗ này buổi sáng, đến mười hai giờ đêm là lễ giao thừa đánh dấu lúc
hai năm mới cũ giao tiễn nhau, pháo nổ đì đùng, thiên hạ lũ lượt kéo nhau đi lễ
đầu năm hái lộc.
Em ở mình đây, trời nắng lắm
Sài Thành không biết có xuân sang.
Xuân này xứ Bắc ra sao nhỉ,
Đào có hây hây? Cúc có vàng?
Câu đối có còn ôm đỏ cột,
Nêu dài tiếng khánh có khua vang?
Nói đến Tết ở miền Bắc thì trăm nhớ nghìn thương, chớ đâu chỉ
có đào, câu đối và cây nêu như nhà thơ xa cố quận nhờ nhạn đưa thư về hỏi thăm
chị Trúc? Nằm ở nơi đây là đất mà có người ca ngợi là mỗi khi tết đến “dưa hấu
chất cao hơn nóc chợ”, người xa nhà nhớ nhất cái mưa xuân bay nhè nhẹ như hôn
vào môi, vào má người ta, thay thế cho cái mưa phùn đem buốt lạnh thấm vào da
vào thịt; nhớ những con đường hoa láng láng, thơm thơm như có bàn tay ai lau rửa
thay thế cho cái lầy lội, ướt át kéo dài từ tháng một sang đến thượng tuần và
trung tuần tháng chạp; nhớ những hoa mận, hoa đào đú đởn múa may trước gió hiu
hiu thay thế cho những cành khô nghèo nhựa nằm chết chóc trong giá rét trước
ngày đông chí.
Tài thế, lập xuân rồi thời tiết đổi thay liền! Thảo nào sách
Thích Danh giải nghĩa Xuân tức là xuẩn, nghĩa là cựa động, muôn vật đến mùa ấy
cựa động mà sống dậy. Người đàn bà Trời đã cho đẹp, lập xuân rồi tự mình cũng
thấy mắt biếc hơn, má hồng hơn, ngực tròn hơn và cảm thấy như nhấp một thứ men
nồng làm cho lòng phơi phới.
Đêm qua hoa nở nhị vàng,
Sáng ngày thiếp thấy bóng chàng áo xanh.
Chàng áo xanh về quê ăn tết thấy cô gái đa tình, mấy mà không
thấy lòng rạo rực thương yêu và thốt ra lời tình tứ:
Vườn em có choẻn cau non,
Nhà anh có chiếc cơi son đợi chờ.
Thậm chí đến bậc lão đại, bạc cả mái đầu, thấy hoa xuân hé miệng
ra cười cũng cảm như thấy con tim muốn nói lên những lời yêu thê thiết.
Ai ơi, chơi lấy kẻo chầy
Xem hoa bốn mắt đi giày ba chân.
Yêu tháng chạp không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những
ngày giáp tết, thời tiết sao mà đĩ thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế, lời
nói, tiếng chào sao mà duyên dáng tơ mơ thế.
Tôi yêu hết và tôi nói là tôi yêu hết; yêu ngọn cỏ gió đùa,
mây trôi lãng đãng, ngọn núi đồi sim, nhựa cây mạch đất, yêu con sâu cái kiến nằm
co ro trong tổ bấy giờ trỗi lên tìm lá mới hoa non, yêu cô gái mặc quần lĩnh
hoa chanh lại cài một cánh hoa hồng trên mái tóc, yêu con bướm đa tình bay lượn
trên giàn hoa thiên lí, cái áo nhung xanh nổi bật lên trong vườn quýt đỏ, cam
vàng, trông mới lại càng yêu những giọt mưa bé tỉ ti đọng lại trên nhung mướt
làm cho người đẹp óng a óng ánh như thiên thần trong mộng. Cũng may mà cứ vào
tháng chạp, ở đây, thỉnh thoảng lại có những đêm xanh gió thổi hiu hiu làm cho
người thức khuya cảm thấy da tê tê, lành lạnh mà nghe như thấy tết đến xuân về
trước ngõ nên cũng nguôi ngoai được phần nào, chớ cứ nắng chói chan, khô héo liền
liền thi chỉ thương nhớ mà héo hắt đi, sống làm sao cho nổi.
Tết ở đây thiếu gì vải lụa của Thái Lan, Đại Hàn, thiếu gì đồ
ăn thức uống của Nhật, của Mỹ, thiếu gì trái ngon, gái đẹp “lô can”, nhưng cơn
cớ làm sao mỗi khi có sự giao tiễn đôi mùa thì lòng lại hướng về quê cũ xa xưa,
mơ lại ngày nào cùng vợ đi mua đôi ba chậu cúc vàng, quất đỏ, rồi về ăn quấy
quá cho xong để lại đi ù lên Ngọc Hà mua mấy cánh mẫu đơn về để cắm bình, không
quên vài tấm giấy đỏ để gói tiền mở hàng cho trẻ, một chai Mai Quế Lộ hay Sử Quốc
Công, hai vợ chồng đi dưới mưa riêu riêu dặn nhau phải nhớ mua một hộp trà Thiết
Quan Âm vỏ thiếc và xẻ vài chai rượu nếp cẩm hạ thổ từ tháng tám!
Nhớ lại như thế thì quên làm sao được vào những ngày hai mươi
bốn, hai mươi lăm vợ thức từ bốn năm giờ sáng, khoác một cái áo lạnh trên mình
ngồi giữa sập sắp xếp các món đồ đem đi biếu tết những bạn bè thân thiết. Đó là
cả một vấn đề phức tạp: hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc để biếu ông Long đã đành
rồi, nhưng ông Luận hôm qua đã cho rượu, chả lẽ mình lại biếu rượu nữa, thôi
hay là biếu cân mứt và chục cam Xã Đoài. Hộp kẹo này đưa sang bác Thanh Châu;
chị Sen ơi, hai hộp trà mạn sen tự tay mợ ướp đây là để dành cho ông Chung, ông
Chước; nhưng đến Nguyễn Dân Giám thì quả là khó nghĩ. Hôm hai mươi ba mới rồi,
để đánh dấu tập “Dưới rặng thông” in làm phụ bản số tết, anh ta sai người làm đội
một cái quả to bằng cái nia từ Hàng Cân đến Hàng Da, đầy đủ bún thang, chả quế,
giò lụa, nước xuýt, bào ngư, hầu sì, cuốn; bây giờ biết đem biếu gì đây? Ấy, chỉ
có thế mà nghĩ mãi không biết làm ăn ra thế nào.
Ôi chao, cứ suy nghĩ vơ vẩn mãi thế này, bực lắm. Người chồng
nại cớ đi lấy “cái phong bì” của nhà báo tạ ơn nhân dịp cuối năm, rủ bạn hữu đi
ra ngồi “Lơ Lắc” uống lót dạ vài cái “pun sô” và trông mưa bay trên hồ Hoàn Kiếm,
ngâm bài thơ điên.
Có linh hồn, tôi đem cho trọn vẹn,
Vốn nhà nghèo, không quen cảnh bán buôn.
Đến những kẻ mới vờ duyên hứa hẹn,
Tôi cũng cho trọn vẹn cả linh hồn...
Điên! Điên! Điên! Và say nữa, xin say,
Điên đến chết và say cho đến khóc.
Say thêm nữa! Phút giây điên ngà ngọc!
… Dốc máu buồng tim, giết hồn lấy xác!
Ta cao dâng tế lễ đấng Thiêng Liêng.
Nhạc đâu rồi! Lễ vật sắp đưa lên,
Xin mau nổi cho hồn ta rung động…
Yêu tết không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày
hai mươi chín, ba mươi, anh em say suốt ngày, tơ lòng rung động như điên, chè
chén ở quán này chưa đã lại sang tiệm khác đập phá ầm ầm. Mà để làm gì? Chỉ là
để tỏ rằng mình là những người văn nghệ bị đời bạc đãi nhưng nọ cần ai cả, mục
hạ vô nhân…
Quan niệm đời một cách sai lầm như thế, chúng tôi tuy vậy vẫn
tự cao tự đại và thỉnh thoảng lại lên cái mặt sầu đời, bỏ cả lễ giao thừa, đi một
mình ở ngoài đường để suy tư, và suy tư mãi chẳng thấy tòi ra cái gì thì tìm một
cái gì trác táng để liều thân hoại thể. Thuốc phiện. Trai gái. Rượu chè. Chúng
tôi không chê bất cứ một thứ gì làm cho con người sa đoạ. Nhiều khi đi đến gần
sáng mới về mà vẫn thấy người vợ còn thức với con để xem lại nồi cá kho, gói mấy
cái giò gà, thái củ cải, cà rốt để sáng hôm sau nêm vào đồ nấu hoặc vừa quấy một
xanh chè đậu vừa ngồi trông nồi bánh chưng luộc ở ngoài sân, người chồng cũng cảm
thấy hơi se lòng một chút nhưng lại tự mình tha thứ mình liền, chỉ vì lẽ là
ngày tết, người đàn ông có thể tự cho phép sống ra ngoài vòng kiềm toả từ ngàn
xưa ấn định, mà cũng là để giải phóng bao nhiêu trói buộc, với hi vọng năm mới
sẽ đưa lại nhiều may mắn hơn năm cũ.
Về khuya, bắt tay bạn hữu ra về, đi thơ thẩn trên đường hoa một
mình, anh thấy lòng anh cũng căng lên một thứ nhựa như cây cỏ và hình như có những
bàn tay bé nhỏ mơn man trái tim anh lúc ấy đập mạnh hơn vì máu chảy dồn dập và
nóng hổi.
Lúc ấy, nhà đã trang trí xong xuôi. Đèn nến thắp la liệt trên
bàn thờ. Nhìn vào chỗ nào cũng thấy khói hương nghi ngút. Cây đào và những cánh
mẫu đơn in bóng lên tường làm cho anh ngỡ mình đương đứng trước một bức tranh cổ
của Tàu. Ở ngoài kia, có tiếng gì nhỏ bé như tiếng sóng xa xa mà lại như tiếng
đàn hát của thần tiên, tiếng chuyển mình của sông hồ, của lộc cây, của giàn hoa
thiên lí?
Người chồng ngờ đó là tiếng của mùa xuân, nhưng không nói cho
ai biết, lẳng lặng mở bình Mai Quế Lộ, rót ra hai cốc nhỏ mời vợ một, còn mình
uống một. Thỉnh thoảng, ở ngoài sân lại có tiếng tạch, tiếng đùng: ấy là lúc
các trẻ trong nhà bắt đầu “đốt pháo một” tung lên trời. Mùi thuốc pháo thơm
thơm bay vào trong nhà,
làm cho cả vợ cả chồng hơi ngột, nhưng ngột một cách du dương.
làm cho cả vợ cả chồng hơi ngột, nhưng ngột một cách du dương.
Trong khi ấy, từ xa xa vọng lại tiếng ống bương nện xuống đất
đều đều, hoà với những tiếng hát trầm trầm, bổng bổng của những em đi “súc sắc
súc sẻ” ca ngợi sự hoà ấm của gia đình “có rồng ấp trên giường cao, có rồng chầu
dưới giường thấp” và chúc cho ai nấy “sinh đẻ những con tốt lành, những con như
tranh, những con như vẽ”, sống lâu một trăm tuổi lẻ mà lại giàu có đề đa, có
voi buộc trong tàu, có ngựa giỡn nhau trên cỏ…
Cái tết đẹp nhất, mê li nhất chính là ở vào giây phút thần
tiên đó. Lát nữa, cúng kiến trời đất tổ tiên xong rồi, người vợ thoa tí phấn,
điểm một giọt hồng lên má rồi bận cái áo nhung màu hoa sim cùng chồng vả con mở
cửa đi ra đền Ngọc Sơn, rẽ sang đình Hàng Trống, đi lên Hồ Tây, vào đền Quan
Thánh lễ giao thừa, rồi người thì cầm cành lộc, người cầm hương lộc, đi thong
thả về nhà, sự mê li còn gấp trăm gấp ngàn lần nữa.
Những đêm như thế thường thức cho đến gần sáng bạch cả nhà mới
đi nằm. Là vì về đến nhà, còn bao nhiêu việc nữa chớ đã được nghỉ ngay đâu. Mở
cửa vào xông đất lấy. Khoái và Lăng chạy ngay vào buồng khách lấy bánh pháo Điện
Quang dòng từ trên mái xuống đốt lấy may; vợ thì lễ xì xà xì xụp; xong rồi cả
nhà quay ra ăn uống, nếm thứ này một tí, nếm thứ kia một tí, rồi trò chuyện, rồi
lập chương trình đánh tam cúc và rút bất, bắt đầu từ tối mồng hai, rồi chồng mở
hàng cho vợ; vợ mở hàng cho con… Ối, cứ thức đến sáng bạch cũng vẫn cứ được đi,
nhưng sợ là mai mệt nên hai ba giờ sáng phải đi ngủ cả.
Chẳng biết lũ trẻ đi nằm như thế thì có ngủ được không, chớ
người chồng mơ lại lúc mình còn nhỏ, nhớ mang máng rằng giấc ngủ đêm ba mươi tết
chập chờn, không mấy khi ngon. Ấy là tại vào cái thuở thanh bình ấy, pháo đốt
suốt cả đêm không ngớt một phút nào, người đi lễ đông nườm nượp, lại thêm có những
người có lẽ vì vui quá cứ ngửa mặt lên trời đi ngâm thơ bô bô ở ngoài đường!
Ôi những đêm giao thừa xa xôi, những đêm giao thừa cực lạc,
đi không bao giờ trở lại, ta chẳng còn thấy thần thánh xuống trần để vui cuộc đời
trần tục, ta chẳng còn thấy Đức Tin ngời lên trong ánh mắt của muôn người… Cố
nhân ơi, cố nhân đem theo biết bao nhiêu hương vị đậm đà của kiếp sống khiến
cho những giao thừa còn lại chỉ là thừa mà thôi…
Em ở mình đây, trời nắng lắm,
Sài Thành không biết có xuân sang.
Một đêm trăng khuyết đầy thuơng nhớ
Đất Bắc xa vời không tiếng vang.
… Ôi, vườn dâu cũ ai cười đó,
Xào xạc bên sông tiếng chợ tàn.
Mưa bay đầy ngõ hoa đào rụng,
Này đã giao thừa pháo nổ ran…
Ờ phải, ở đây pháo cũng nổ giao thừa, nhưng còn đâu là bầu
không khí dịu hiền của những ngày trước nữa. Bao nhiêu bè bạn giờ nầy đây đã về
với gia đình. Người chồng cô chích cảm thấy mình lẻ loi, xa vắng hơn cả bao giờ
hết, đi tha thẩn một mình trên các đường phố giới nghiêm, thỉnh thoảng lại có
bóng một gã công an chìm và cảnh sát cùng quân cảnh bảo vệ an ninh trong bóng tối.
Xa xa, tiếng súng nổ như điên.
Không đâu, năm nào đến tết cũng ngưng bắn vài chục tiếng đồng
hồ: mình thừa đạn thì nổ thay pháo chớ không phải là diệt địch, cứ yên tâm uống
rượu, và tán láo, đừng có sợ! Chao ôi, chơi bời láo lếu mà thấy an ninh được bảo
vệ kĩ càng như thế, mình lại càng thấy yêu Sàigòn không biết chừng nào. Có những
nhà hàng mở cửa suốt đêm. Có những quán cà phê bày bàn ghế ra hè nhiều gái chơi
bời ngồi đợi khách hơn là khách vào uống rượu. Lại cũng có những phòng trà có
ca nhạc hai ba giờ sáng mà vẫn có người vào nghe.
Kì chưa, thế thì họ không lễ giao thừa à? Họ không kiêng cữ
gì à? Họ không cần biết xông đất là gì à? Họ khoa học như Mỹ, không tin dị đoan
chăng? Hay là khói lửa và sự chật vật trong cuộc sống đã làm lệch lạc đầu óc họ?
Người mắc bệnh sầu thương cố lí, không lệch lạc đầu óc, mà cũng không bài xích
dị đoan, ngồi ở đầu ngọn gió lạnh giao mùa, nhìn hàng tiếng đồng hồ vào trong
bóng tối đêm ba mươi không nói, không rằng, đứng dậy, trả tiền đi thong thả
trên con đường vắng ngắt. Đèn Sàigòn sáng lắm, nhưng đêm ba mươi tháng chạp thì
ngửng lên trời làm sao thấy được mây lưu lạc, mà tiếng nhạc “sun” ầm ĩ như thế
thì nghe làm sao thấy “tiếng sóng nhỡ nhàng ở bến cũ cây đa”?
Đêm ấy, trên con gác nhỏ leo lét một ánh đèn mệt nhọc, có một
người nhớ da diết giao thừa Bắc Việt, ngồi dở những trang sách cũ xem lại những
tranh con gà con lợn. Tội nghiệp, sinh vào cái thời loạn, ở ngay trên chính đất
nước mình mà không có lấy mấy bức tranh con gà con lợn thực để mà coi, phải dở
đồ giả chụp lại đem ra ngắm! Tự nhiên anh cảm thấy có một cái gì làm cho da dẻ
tê tê, gờn gợn lạnh. Đã mấy chục năm nay, anh ta không còn được trông thấy những
bức tranh gà lợn thực, đưa lên mũi ngửi mùi giấy, mùi mực, mùi màu thực của những
bức tranh ấy nữa. Đêm nay, nghe tiếng pháo của nhà ai nổ vang ở chung quanh,
người tương tư Bắc Việt không biết làm gì, giở lại những bức tranh gà lợn giả
lên coi, cảm thấy da dẻ tê tê, lành lạnh chính là vì anh thấy hiện lên ở trên
những bức tranh chụp lại, vẽ lại đó không biết bao nhiêu kỉ niệm xa xưa đã được
khâm liệm trong trí óc.
Đó là những kỉ niệm lúc còn nhỏ bé ở căn nhà thấp lụp xụp phố
Hàng Gai, còn cụ tổ, còn bà nội, bà ngoại, còn cha mẹ, còn đông đủ anh em chú
bác.
Năm nào cũng vậy, cứ vào những ngày cuối năm mẹ tôi đi sắm tết
về cũng mua cho anh em chúng tôi một cuộn chừng chín mười tờ tranh vẽ trên giấy
Đáp Cầu, dọc chừng một gang tay rưỡi, ngang chừng bốn gang hay hơn một chút. Những
bức tranh ấy mang những hình vẽ khác nhau: hái dứa, gà mẹ gà con, chuột vinh
quy bái tổ, Phúc Lộc Thọ, Thần Trà, Uất Luỹ, cóc đi học, Ngưu Lang Chức Nữ,
Đinh Tiên Hoàng cưỡi rồng v.v... Bức nào cũng xanh đỏ loè loẹt, bức nào cũng có
những nét hóm hỉnh mà ngây thơ, bức nào cũng làm cho chúng tôi thích thú. Và
năm nào cũng vậy, anh em chúng tôi cũng tranh giành nhau những, bức tranh gà lợn
đó, có khi đến đánh nhau; nhưng rút cục thì anh em thoả thuận dán đầy cả lên tường
để ngắm chung và làm như thế thì nhà tôi, đương bình thường, vụt hiện ngay ra một
quang cảnh Tết vui tươi khác thường, tưng bừng nhộn nhịp không chịu được.
Sau này, lớn lên một chút, đi học Tây, tôi lên mặt hợm, coi
thường những tranh ấy và cho là “quê một cục” vì hàng ngày học sử Hy Lạp, tôi
thường thấy những bức hoạ của Gauguin, Léonard de Vinci… và tôi nghĩ rằng tranh
như thế mới là tranh, vẽ như thế mới là vẽ, chớ cứ quanh đi quẩn lại chỉ có mấy
chú chuột thổi kèn tàu, Chức Nữ mặt méo xẹo, mà lại có đuôi gà, cóc đi học quạt
lò mà cái ấm lại to hơn cóc… thương làm sao cho nổi! Ấy là cái lúc tôi lai Tây,
học sử địa “Nước tôi tên là xứ Gaulle, tổ tiên tôi là người Gaulois” và tôi tưởng
rằng cái quan niệm mới mẻ ấy sẽ cứ tồn tại mãi, rồi trưởng thành, rồi già nua
trong đầu óc tôi như thế mãi. Hoá ra tôi lầm. Thôi trường ra, đi lang bạt nay đó
mai đây xa nhà cửa ông bà, xa quê hương bác mẹ, cái gì làm cho tôi nhớ nhất, ấy
là cái tết, mà nhớ đến tết, cái mà tôi không thể nào quên được, ấy là những bức
tranh gà lợn.
Kế đó là thời kỳ chè rượu bê tha, nằm ở một cái phòng chật hẹp
ở phố Hàng Đồng hút thuốc phiện, bị cả họ khinh khi, nằm bẹp gí trên một cái
giường mệt nhọc, hút thuốc tối ngày rồi đợi đến đúng trưa ngày ba mươi thì trở
dậy đi mua một cành mai vàng về cắm trong một cái cốc dơ và dán ở đầu giường bức
tranh “Chức Nữ Ngưu Lang” để mỗi khi hút xong một điếu lại lơ mơ ngắm bức
tranh, tự ví mình với Ngưu Lang bị trời đày, chư tiên ở trên trời khinh bỉ
“nhưng đây nọ có cần”, một ngày kia làm chuyện lớn, khối anh xúm lại mà nịnh
như nịnh Tô Tần ngày trước.
Một thời gian qua đi nữa rồi đến thời kì bỏ thuốc, sống với vợ
con theo đúng một anh “chân chỉ hạt bột”: cứ mỗi khi tết đến thì vợ, không do
ai bảo hết, cũng làm đúng như mẹ mình ngày trước, cứ mỗi khi tết đến thì lại
mua mấy bức tranh gà lợn về để cho con dán lên trên tường.
Thì ra những bức tranh gà lợn đó không phải chỉ hoà đồng với
tôi, nhưng hoà đồng với vợ, với con tôi như thế, có lẽ vì chúng tượng trưng cho
tinh thần dân tộc Việt Nam mà chúng tôi không biết. Tường tết mà vắng những
tranh ấy mình cảm thấy nhớ nhung. Tết mà không mua tranh ấy dán lên tường, mình
thấy chưa phải hoàn toàn tết.
Tôi nhớ có nhiều khi cứ suy nghĩ vẩn vơ như thế và nói mãi
cho con nghe ý nghĩa những bức tranh gà lợn, mình thành ra bị ám ảnh và đến lúc
nhắm mắt ngủ thì nằm mê - mê thấy hiện ra những cảnh chuột đi hai chân như người
thật, lợn con lội qua sông, mê thấy Đinh Tiên Hoàng đứng điểm binh như một ông
tướng Đức, mê thấy cá chép đi cà kheo lộc cộc trên cầu Thê Húc. Tất chỉ những
thứ đó hiện ra rồi biến đi trong một thế giới kỳ ảo lạ lùng mà người cảm thông
với vật, chuyện trò thân ái với nhau chớ không có một tí ti gì là thù ghét…
Thôi rồi, bây giờ còn làm sao mà thấy lại được những giấc mơ
thơ mộng như thế nữa, bao giờ mới lại được sống ngày thanh bình mà người ta lấy
tay vuốt ve từng cái lá, nương gót chân đi sợ làm đau từng ngọn cỏ, mà cũng đến
bao giờ Nam, Bắc mới hết qua phân để cho người ly hương lại được trở lại quê
nhà vui dưới mái nghèo, kể lại tình kiều tử mười mấy năm đằng đẵng và cùng nhau
nhắc lại hồn quan sơn trong lửa đạn dãi dầu.
Người đàn ông sầu nhớ giao thừa Bắc Việt gục đầu xuống những
trang sách cũ, chợp mắt đi lúc nào không biết và y cũng không biết rằng những ý
nghĩ vừa hiện ra trong trí óc đều là những ý nghĩ hiện lên trong khi y ngủ. Mệt
quá chừng là những phút buồn khổ một mình, không biết than cùng ai, khóc với
ai, nhất là chính mình lại biết rằng trong khi buồn khổ như thế thì trăm họ ở
chung quanh lại vui tươi - dù là cái vui tươi mù loà giả tạo, cái vui tươi chửi
rủa những người lương thiện bị coi là ngu ngốc vì không biết khuây khỏa trăm sầu
ngàn giận mà lại đi sụt sùi thở ngắn than dài.
Cách đây mươi mười lăm năm, đúng như nhà thi sĩ “nấn ná ở nơi
xa” đã nói, Sài thành không biết có xuân sang và ăn cái giao thừa không bằng
vui cái đêm lễ Giáng Sinh. Nhưng bây giờ đã khác: xa xa, có tiếng giày dép người
ta đi lễ giao thừa. Súng nổ ầm ầm thay tiếng pháo. Ti vi và truyền thanh hát
oang oang những khúc vui xuân…
Người khách ly hương cúi xuống đường, nhìn xem cái giao thừa ở
đây khác cái giao thừa ở Bắc ra sao thì vừa vặn có một người lê bước trên đường,
nhìn một cành mai cầm ở tay mà đưa lên câu sầu xứ:
Nhớ nhà quăng chén rượu,
Thôi rồi, những ngày vui!
Đâu đây rền lửa đạn,
Có tiếng ai sụt sùi...
Vàng bay năm lại hết
Lại vẫn không giao thừa…
Ới bạn trăm năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ?.
Vũ Bằng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét