Nhân vật văn học và chức năng
1. Khái niệm “Nhân vật văn học”
“Văn học là nhân học”. Từ lâu, câu nói của M. Gorki đã
trở thành một định nghĩa được mọi người dẫn ra mỗi khi trình bày
hay lý giải bản chất của văn học. Văn học dù đề cập tới vấn đề
nào, dù không trực tiếp viết về cuộc sống của con người, dù viết
về một thế giới khác với thế giới con người thì điểm phát xuất và
đích đến của văn học vẫn luôn là cuộc sống con người. Tác phẩm văn
học viết về một thế giới của những chim muông cây cỏ, hay một thế
giới thuộc thiên giới hay địa phủ thì qua những nhân vật xuất hiện
trong tác phẩm ta vẫn nhận ra dấu ấn của cuộc sống con người.
Nguyễn Minh Châu quan niệm “Cuộc sống là những vòng
tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó chính là cuộc sống của con người”.
Trong thế giới nghệ thuật, nhân vật là nơi gửi gắm nội dung tác phẩm
cũng như thông điệp của nhà văn. Nhân vật giữ một vai trò quan trọng trong
tác phẩm, giữa nhân vật và đời sống văn học có mối liên hệ chặt chẽ.
Tác giả của giáo trình Lý luận văn học tập
2 định nghĩa: “Nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ hình tượng
các cá thể con người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn
nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ
thuật ngôn từ” [1, 114].
Pospelov minh giải thuật ngữ “nhân vật” trong Dẫn
luận nghiên cứu văn học: “Thuật ngữ “nhân vật” lấy từ tiếng Pháp và
có nguồn gốc La tinh. Người ta gọi bằng từ “Persona” - cái mặt nạ mà
diễn viên đeo vào mặt, và về sau gọi là nhân vật được miêu tả một
cách nghệ thuật trong tác phẩm” [2, 17].
Nhân vật văn học là hình tượng con người hoặc mang ý nghĩa
con người được thể hiện bằng các phương tiện văn học trong tác phẩm.
Nhân vật văn học là sáng tạo độc đáo của nhà văn, nhằm miêu tả, khái quát
và biểu hiện những tư tưởng, quan niệm của tác giả về cuộc sống, con người. Đó
có thể là những nhân vật có tên như Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến (Chí
Phèo); là Jean Valjean, Fantine, Marius… (Những người khốn khổ). Hay
những nhân vật không tên như thằng bán tơ, mụ nào trong Truyện
Kiều; là người đàn bà vợ nhặt trong Vợ nhặt của Kim Lân;
là người đàn bà làng chài - mụ rỗ mặt - trong Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Nhân vật trong tác phẩm văn học
biến hóa đa dạng, có thể là các loài vật, loài cây trong truyện cổ
tích, là chú chó Buck trong Tiếng gọi nơi hoang dã - Jack
London, là con rối tạp chủng Gregos Samsa trong Hóa thân -
Kafka. Nhân vật đồ vật trong các tiểu thuyết của giáo hoàng tiểu
thuyết Mới A. Robbe - Grillet (Cục tẩy, Ghen - Cánh cửa
chớp lật).
Nhân vật văn học có thể được miêu tả đầy đặn chi
tiết từ ngoại hình, tiểu sử, tâm lý, tính cách, số phận thường
thấy trong các các phẩm tự sự hay kịch. Có khi nhân vật văn học chỉ
được miêu tả một cách thoáng qua ở một bình diện nào đó. Sự miêu
tả đầy đủ chi tiết đến đâu một mặt chịu sự chi phối từ thể loại
cũng như dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Đọc Chí Phèo, ta thấy
được cuộc đời của Chí Phèo cả quá khứ lẫn hiện tại, thấy được ngôn
ngữ chửi bới, cà khịa tới những hành động rách mặt ăn vạ, đâm thuê
chém mướn rồi bi kịch đớn đau của Chí Phèo khi bị tha hóa rồi sau
đó bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện ngay trên chính con đường
trở về như thế nào… tất cả những điều đó được Nam Cao dụng công thể
hiện rất chi tiết. Nhưng có khi nhân vật chỉ là những chủ thể hành
động và phát ngôn (ít khi bộc lộ cảm xúc) như truyện của Ernest
Heminway, tiêu biểu là Ông già và biển cả. Những đoạn hội thoại
của nhân vật được xóa sạch mọi dấu ấn tâm lý chỉ độc một lời nói
như cỗ máy vô hồn, mà người ta gọi đó là lối văn phỏng vấn. Các
nhân vật bị xóa hết các dấu ấn tiểu sử, đến cái tên cũng trở nên
biến dạng méo mó, điều này thấy rõ ở các tiểu thuyết của Kafka K.
trong Lâu đài, Josep K. trong Vụ án, và sự miêu tả các nhân
vật được tiến hành và xử lý bằng “lối viết trắng” (Albert Camus).
Với tác phẩm trữ tình, do dung lượng và đặc trưng của
thể loại là yếu tố cảm xúc, nên nhân vật trong tác phẩm trữ tình
hầu hết chỉ được khắc họa với những suy nghĩ tâm tư, cảm xúc. Đó
có thể là tâm trạng nhớ nhung, là nỗi buồn phiền hay là sự dằn vặt
trong thế giới nội tâm của nhân vật. Đôi khi những tác phẩm trữ tình
cũng miêu tả nhân vật chi tiết hơn với những yếu tố ngoại hình, tính
cách song vẫn không phải là nội dung chủ đạo so với cảm xúc của nhân
vật.
Em là ai cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi
Mái tóc em đây hay là mây là suối
Ánh mắt em nhìn hay chớp lửa đêm đông
Thịt da em hay sắt hay
đồng
Nhân vật văn học có khi trùng với một hiện tượng nổi
bật của tác phẩm. Ngoài những nhân vật là con người kể trên ta còn
thấy nhân vật Nhân Dân trong tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của
Lev Tolstoy, thời gian là nhân vật của cuốn tiểu thuyết dòng ý
thức Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust, nhân vật
chiếc quan tài trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Công Hoan…
Văn học không thể thiếu nhân vật, đặc biệt là với
các thể loại như tự sự hay kịch để có thể hình thành nên cốt
truyện. IU. M. Lotman chỉ ra các thành phần không thể thiếu để làm nên
cốt truyện, nhân vật là thành phần thứ ba không thể thiếu. “Từ những
điều trên dẫn tới chỗ yếu tố nhất thiết phải có của bất kỳ một
cốt truyện nào đó là:
1) Một trường ngữ nghĩa nhất định được phân
ra thành hai tập hợp bổ sung cho nhau;
2) Ranh giới giữa những tập hợp
này, cái ranh giới không thể đi qua được trong những điều kiện thông
thường, nhưng ở một trường hợp cụ thể (văn bản cốt truyện luôn hướng
về trường hợp cụ thể) nhân vật - hành động có thể đi qua được;
3)
Nhân vật - kẻ hành động” [3, 410].
Ngay cả khi cả khi các nhà tiểu thuyết Mới tuyên bố
“Cái chết của nhân vật” thì nhân vật vẫn luôn tồn tại trong tác phẩm
của họ. Việc xem như nhân vật đã chết chỉ là sự chối bỏ nhân vật
để thay vào đó là thế giới ngập tràn đồ vật nhưng miêu tả đồ vật
vẫn luôn gợi ra hình bóng của nhân vật. Nói như Đặng Anh Đào thì “không
thể nào tiêu diệt được nhân vật trong tác phẩm của những người định
cắt đứt với truyền thống bằng cách đó. Nhân vật trong tác phẩm của
họ chỉ bị tổn thất một mặt mà thôi - dù đó là một mặt rất cơ bản
của nhân vật truyền thống… Tiểu thuyết mang nhân vật vẫn sống” [4,
25].
Nhân vật văn học không chỉ là mặt nạ (persona) - như
một ký hiệu chết cứng mà đó là hình tượng hết sức sống động, là
“ký hiệu đặc biệt, không hề đơn giản như quân cờ, bởi đó là con
người sống, một cá thể có cuộc sống riêng, nhiều khi phức tạp, bí
ẩn, không thể lược quy vào một ký hiệu” [2, 116]. Nhân vật văn học
vừa là đối tượng vừa là con người hành động trong tác phẩm dưới sự
điều khiển của ngòi bút nhà văn tham gia vào sự phát triển xung đột
truyện. Có khi nhân vật văn học trở thành một sinh thể độc lập có
đời sống riêng để tạo ý nghĩa tự thân cho mình, đó là trường hợp
những nhân vật điển hình.
“Nhân vật văn học là một hiện tượng ước lệ, có
những dấu hiệu để nhận ra”. Cũng như con người trong đời sống, dấu
hiệu đầu tiên nhận biết nhân vật là tên. Mỗi nhân vật được đặt tên
trước hết là định danh sau đó trở thành dụng ý nghệ thuật trong một
số tác phẩm. Tên gọi góp phần thể hiện quan niệm nghệ thuật về con
người của nhà văn đó. Các nhà văn Tự lực văn đoàn gọi tên nhân vật rất
thơ mộng, rất đẹp và rất thời thượng, họ là những thanh niên tân nhân vật mà
ta thường thấy với những tên: Ngọc, Lan trong Hồn bướm mơ tiên; Lộc, Mai
trong Nửa chừng xuân… hay như trong Số đỏ - sáng tác hiện thực -
của Vũ Trọng Phụng: Tuyết (ngây thơ), Phán (mọc sừng), cậu Tú Tân, cô Hoàng
Hôn, Văn Minh, Xuân (tóc đỏ), ông TYPN… Nguyễn Tuân đã gọi nhân vật của mình bằng
những cái tên mà một thời vẫn quen gọi, như: ông Phủ, ông Nghè, ông Thượng, ông
Ấm, cụ Kép, ông Cử Hai, ông Đầu Xứ Anh, ông Đầu Xứ Em v.v... Những cái tên đó phần
nhiều gắn với lối gọi của những con người theo nghiệp khoa cử, của những kẻ sĩ
trong chế độ xưa.
Tiếp đến là những dấu hiệu tiểu sử nghề nghiệp, hay
những đặc điểm nhận dạng riêng. Những dấu hiệu ấy dần được đúc kết
thành công thức giới thiệu nhân vật trong sáng tác văn học dựa theo
từng thể loại. Dấu hiệu ban đầu đó chi phối và quy định tới tiến
trình cốt truyện cũng như mọi hành động của nhân vật. Nguyễn Đình
Chiểu giới thiệu về nhân vật với những dòng đầu:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình
Hai câu thơ mở đầu khái quát toàn bộ nội dung tư
tưởng cũng như cái nhìn nghệ thuật của nhà văn về con người. Như thế
những sự việc diễn biến tiếp sau ở truyện thơ này đều hướng tới ca
ngợi tấm gương trung hiếu - Lục Vân Tiên và tấm gương tiết hạnh - Kiều
Nguyệt Nga.
Nhân vật văn học là hình tượng tư duy trực tiếp bằng
ngôn ngữ. Bởi thế sự miêu tả chủ yếu ở nhân vật chính là thông qua
hành động. Qua hành động nhân vật tự bộc lộ tính cách của mình. Ở
văn học hiện đại, sự thể hiện nhân vật không gò bó trong phạm miêu
tả hành động mà còn được thể hiện qua sự miêu tả tâm lý nhân vật.
Văn học có thế mạnh trong việc đi sâu vào dòng ý thức, dòng nội tâm
của nhân vật làm sống dậy những mảng sống khuất sau vẻ thường ngày
không được phơi lộ. Đằng sau một cô Mị (Vợ chồng APhủ ) câm lặng cam
chịu như con rùa nuôi nơi xó cửa, ít ai ngờ được trong tâm hồn người
sơn nữ ấy luôn tiềm tàng một sức sống mãnh miệt. Tô Hoài, bằng khả
năng phân tích diễn biến tâm lý độc đáo, làm sống dậy diễn biến tâm
lý nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. Trong đêm tình mùa xuân, Mị từng hồi
hộp với âm thanh của tình yêu và Mị cũng có ý thức định quyên sinh - một hình
thức của sự phản kháng lại cách sống đày đọa. Lòng ham sống, yêu đời là yếu tố
tiềm ẩn trong người phụ nữ này. “Mị thấy phơi phới trở lại trong lòng” rồi Mị
muốn chết “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay” [5,
166].
Nhân vật văn học là sáng tạo độc đáo của nhà văn.
Khi xem xét đánh giá nhân vật văn học ta không nên đồng nhất với con
người ở ngoài đời để đưa ra những phán xét đúng - sai, tốt - xấu,
chân thật - không chân thật. Đơn cử như trường hợp nhân vật Tấm trong
truyện cổ tích Tấm Cám. Nhiều ý kiến của độc giả, đặc biệt
là của độc giả thời hiện đại, tiếp nhận nhân vật Tấm như một con
người có thực ở ngoài đời, đặt nhân vật trong hệ không - thời gian
có sự sai biệt so với Chronotope cổ tích. Người ta cho hành động Tấm
giết Cám là ác. Cần đặt nhân vật trong hệ thống thi pháp thể loại
của truyện cổ tích. Tấm hiện lên trong truyện không phải với tư cách
là con người cá nhân. Đó là nhân vật chức năng. Nói cách khác, Tấm
là cái loa phát ngôn cho tư tưởng khát vọng của nhân dân, và nhân vật
được xây dựng trên triết lý dân gian “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặt
bão”, “ác giả ác báo”… Chiến thắng trong truyện cổ tích không phải
là chiến thắng trong hiện thực mà đó là chiến thắng trong mơ ước,
nhân dân ta mơ ước về một cuộc sống hạnh phúc, công bằng, không có sự
áp bức và bóc lột. Bởi vậy cổ tích mãi là giấc mơ của nhân dân về
một hiện thực trong mơ ước.
Tóm lại, “Nhân vật văn học là con người được thể
hiện bằng các phương tiện văn học. Nội dung của nhân vật nằm trong sự
thể hiện của nó. Chỉ đến khi tác phẩm kết thúc người đọc mới có
ý niệm đầy đủ về nhân vật” [1, 118].
2. Chức năng của nhân vật văn học
Là yếu tố căn bản của thế giới nghệ thuật trong tác phẩm,
nhân vật trong tác phẩm văn học có chức năng nghệ thuật và chức năng biểu
cảm.
Trước hết, nhân vật phải có khả năng khái quát tính cách.
Nhân vật với những hành động, ngôn ngữ, suy nghĩ, lời nói, tâm trạng…
tất cả những yếu tố đó góp phần làm rõ tính cách của nhân vật. “Tính
cách nhân vật văn học là hiện tượng có tính lịch sử nên chức năng
khái quát tính cách nhân vật cũng mang tính lịch sử” [6, 235]. Ở mỗi
thời đại, quan niệm và nhận thức ấy có sự thay đổi vô cùng phong phú, phức tạp.
“Trong văn học nghệ thuật hậu hiện đại, thay vì con người khổng lồ - chủ nhân
ông vũ trụ của nghệ thuật Phục Hưng, con người duy lý trong thời kỳ Khai Sáng,
con người cô đơn, xa lạ trong cái hiện thực phi lý, song vẫn cố gắng tìm kiếm bản
thể hài hòa nguyên vẹn của mình (và cho mình), trong nghệ thuật hiện đại chủ
nghĩa, là con người bị “chấn thương” từ bên trong bởi sức ép của thực tại rối
ren, hỗn loạn, của mạng lưới thông tin, tri thức dày đặc thời hậu công nghiệp,
một thứ “mờ mờ nhân ảnh” đằng sau những ký hiệu, những trích đoạn của “liên văn
bản” [7, 57].
Nhân vật văn học được xem như chiếc cầu nối hai bờ tư
tưởng giữa người đọc với nhà văn để đưa người đọc thâm nhập vào thế
giới nghệ thuật, hòa nhập vào môi trường nơi con người hành động
trong tác phẩm sinh tồn. Theo bước chân của các nhân vật trong truyện
thần thoại, ta được sống trong thế giới của buổi sơ khai, khi trời và
đất còn là cõi hồng hoang hỗn độn chưa có sự phân biệt trời với
đất, chưa có ngày và đêm. Thần linh là những đấng tối cao đang tham
gia vào công cuộc thiết lập vũ trụ, mỗi thần một công việc:
Ông đếm
cát
Ông
tát bể
Ông kể
sao
Ông
đào sông
Ông trồng
cây
Ông
xây rú
Ông trụ
trời
Ông cời
cua
Ông
làu chim
Ông
câu cá…
Nhân vật thần thoại nói riêng và trong văn học dân gian
nói chung là nhân vật chức năng, mỗi nhân vật có một chức năng riêng,
và hành động chỉ với chức năng đã được quy định. Bởi thế sau khi
làm xong nhiệm vụ nào đó thì nhân vật hoàn tất chức năng của mình
và kết thúc sự tồn tại. Đó là cơ sở để lý giải sự kiện, sau khi
đánh tan giặc Ân, Thánh Gióng trở về trời. Bởi chức năng nhân vật
Thánh Gióng là chức năng đánh giặc.
Nhân vật văn học thể hiện tư tưởng nghệ thuật. Nhân
vật văn học góp phần thể hiện quan niệm cũng như lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao
với những Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận,… thường được nhà văn miêu tả
trong sự đối sánh với các loài vật. Qua hệ thống nhân vật với đặc
điểm kể trên nó thể hiện cái nhìn con người trong tư duy nghệ thuật
Nam Cao. Nhà văn nhìn con người dưới cái nhìn biện chứng giữa hai phần
“người” và “con”. Đó là hai mặt không tách rời trong mỗi một con
người, hai mặt đó luôn đấu tranh phủ định lẫn nhau. Những xu thế ấy
được Nam Cao thể hiện qua sự miêu tả bao giờ cũng là sự đe dọa, sự
tiếm quyền của phần “con” khiến phần “người” bị lấn át. Nên mỗi nhân
vật, mỗi tác phẩm của Nam Cao bao giờ cũng là những hồi chuông thức
tỉnh con người đang đi trên ngưỡng phân biệt giữa phần “con” và phần
“người”, và các nhân vật Nam Cao thường chìm trong bi kịch trong cái
chết, có thể là cái chết thể xác có thể là cái chết tinh thần…
Nam Cao muốn truyền thông điệp tới độc giả, hãy cứu lấy nhân tính
của con người, cần nhân đạo hóa môi trường sống để con người trở nên
tốt đẹp hơn.
Nhân vật văn học là con đẻ của thời đại, mang dấu ấn
của thời đại. Mỗi một thời đại lịch sử có những kiểu nhân vật đặc
thù. Chẳng hạn hình tượng anh vệ quốc quân là nhân vật của thơ ca
Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Đến cuộc kháng chiến chống
Mỹ trường kỳ gian khổ, nhân vật anh giải phóng quân trở thành điểm
sáng trong sáng tạo thơ ca, là hình tượng kết tinh vẻ đẹp của con
người thời đại. Hay cùng viết về hình tượng nhân vật keo kiệt trong
văn học, từ Harpagon tới Grandet cũng là cả sự chuyển biến mang dấu
ấn thời đại lên hình hài của nhân vật. Nếu nhân vật Harpagon của
Molier là sản phẩm của xã hội phong kiến nên tính cách Harpagon là
tính keo kiệt, hà tiện của bọn giai cấp quý tộc. Nhưng đến Grandet, y
là sản phẩm của xã hội tư sản Pháp, nên tính cách của Grandet không
dừng lại ở tính hà tiện như Harpagon mà nó nhuốm tính tình của
thời đại kim tiền trong xã hội tư sản, nó toát nên tính cách keo bẩn
của bọn tư sản Pháp thời đó.
Việc lựa chọn xây dựng và cách miêu tả nhân vật mang
dấu ấn sáng tạo độc đáo của nhà văn, và chịu sự chi phối của phong
cách nhà văn đó. Nam Cao thường thành công trong đề tài viết về nhân
vật trí thức tiểu tư sản và người nông dân. Vũ Trọng Phụng miêu tả
con người bằng cái nhìn giễu nhại nên ông thường chỉ thấy ở các nhân
vật những thói hư tật xấu “Xã hội này tôi chỉ thấy là khốn nạn quan
tham lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một tụi văn sĩ đầu cơ xảo quyệt
mà cái xa hoa chơi bời của bọn giàu thì thật là những câu chửi rủa vào cái xã hội
dân quê thợ thuyền lầm than bị bóc lột” [8]. Nhân vật trong những “tờ hoa”
của Nguyễn Tuân bao giờ cũng là những nhân vật tài hoa, những chủ thể
thẩm mỹ hết sức độc đáo.
Nhân vật văn học là công cụ, phương tiện, cách thức tác giả
khám phá, miêu tả, khái quát những tính cách người, những vấn đề về con người
và đời sống xã hội. Nhân vật văn học góp phần thể hiện quan niệm cũng như
lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. Trần Đình Sử, La Khắc Hòa,
Phùng Ngọc Kiếm, Nguyễn Xuân Nam (2011), Lí luận văn học tập 2, Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
2. G. N. Pospelov (1985), Dẫn
luận nghiên cứu văn học tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Iu. M. Lotman (2007), Cấu
trúc văn bản nghệ thuật, Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
4.Đặng Anh Đào (2001), Đổi
mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
5. Ma Văn Kháng, Nguyễn Khắc Trường,
Nguyễn Nghiệp (2007), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi tập 2 (văn
xuôi). NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Lê Huy Bắc (2006), Nghệ
thuật Phran-Dơ Káp-Ka (chuyên luận), Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
8. Vũ Trọng Phụng (1937), Để
đáp lại Báo Ngày nay: Dâm hay không dâm, báo Tương lai, số ra ngày 25/3/1937.
Tháng 2/2019
Bùi Phương Thảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét