Món lạ miền Nam - Vũ Bằng
- Miền Nam nước Việt
có nhiều thức ngon lành lắm, sao không sưu tầm lại mà viết thành một cuốn nữa
coi chơi?
Tôi bỏ nhà đi lang bạt
từ lúc mười bảy tuổi. Đến Sài Gòn dạo đó, tôi đã ăn nem Thủ Đức, thưởng thức
phá lấu Lồ Ồ, ăn tóp mỡ nhiễn đường ở Sa Đéc, nếm suông ở Cây Mai, thịt bò bảy
món Bà Hom, mì Cột Đèn Năm Ngọn.
Rồi đến kỳ này, lại trở
về quê ngoại mến thương, tôi đã thưởng thức nhiều món hơn, nhưng thú thực tôi
không thấy các món đó có nói lên được cái gì mới mẻ, lạ lùng cho lắm.
Có lẽ tô cá chìa vôi
ngon thực, nhưng lòng còn gởi về cố lý nên cá rô đầm Sét vẫn là hơn, trái su su
mát như da cô gái tuyết trinh, ô hay, sao lại như đăng đắng, mà miếng thịt gà
muốn chế hóa cách gì đi nữa cũng vẫn cứ nhạt phèo?
Mãi đến gần đây, tôi mới nhận ra rằng hương vị của những miếng
ngon không hoàn toàn do nơi khẩu cái. Tự nhiên, không vì lý do gì hết, vào một
buổi chiều xuống mầu kia, mình thấy miếng thịt gà đậm đà hơn, trái su su thoang
thoảng ngọt và con cá chìa vôi ăn béo mà thơm.
Ồ, tại sao lại thế?
Thì ra ngon hay không là tự ở lòng mình. Chưa chắc miếng ngon
miền Nam bây giờ khác trước. Nhưng người xa nhà cảm thấy ngon lành khác trước,
có lẽ vì bây giờ y nhận thức được lòng thương yêu của những người ở chung quanh
rõ rệt, đậm đà hơn trước.
Đương buồn day dứt, có một anh bạn rủ về Cái Bè ăn ốc gạo;
năm tàn nhớ quê, một cô ở Cao Lãnh mang biếu bánh in và ngồi ngay bên cạnh tách
ra từng lát mỏng mời ăn; bà già vợ ở Rạch Giá lễ mễ đem cho mấy cái bánh tét bắp,
ít khô tra, khô gộc và xôi vị... Tất cả những cái đó có nghĩa lý gì đâu, nhưng
ăn thấy đậm đà, ý vị, vì mình ăn vào một miếng mà cảm thấy họ cho mình cả một tấm
lòng.
Thương biết bao là thương, mến chừng nào là mến! Nhưng mến
thương sao cho bằng thương mến người vợ miền Nam xót xa người chồng Bắc xa nhà,
nay làm món ăn này, mai làm món ăn khác, mong sao cho chồng khuây khỏa được nỗi
buồn thiên lý tương tư.
Dùng thịt nhiều xót ruột em nấu canh chua cá lóc anh xơi; chạo
tôm quận vào mía lao ăn ngọt và bùi; nếu anh mệt thì dùng bát cháo chìa vôi
nhé!
Bánh bèo bì ở Bún nổi tiếng là ngon; tô mì Bà Điểm; hủ tíu chợ
giữa Mỹ Tho; bánh in Cao Lãnh; nem Tân Hương ăn mịn xớt mà giòn; tôm nướng Tân
Thuận Đông vừa thơm vừa ngọt.
Gà nhúng hèm ngon nhất là Bình Hòa; con “móng tay” Long Hải;
bưởi Tân Triều; măng Lái Thiêu; cam Cái Bè; dừa xiêm Mỹ; dưa hấu Cầu Ngang; con
cá nhám rào thịt ngon lừ, ăn mát ruột mà lành; trứng chích, trứng diệt vừa bùi
vừa béo; có cô con gái theo chồng ra tỉnh mà vẫn còn nhớ mãi nem nướng Đức Hòa,
cá cháy Cái Vồn, măng le Bà Rịa ngon hỡi là ngon!
Chồng mà không chịu ăn thì vợ đừ ngay ra mặt, khóc đòi về với
bà già. Tôi yêu người vợ miền Nam thực thà như đếm, yêu ai thì yêu lộ liễu,
thích cái gì thì muốn cho ai cũng biết rằng mình thích mới nghe! Đẹp thì muốn đẹp
cho sắc sảo, áo quần phải làm sao cho nổi bật lên hơn cả quần áo của chúng chị
em; mà ngày lễ và chủ nhật phải nèo chồng đi chơi cho kỳ được để cho người ta
thấy hạnh phúc lứa đôi của mình.
Miếng ngon của miền Nam cũng thành thật như người đàn bà vậy.
Ăn một miếng, ngon ngay, nhưng ngon không phải do vị của chính thức ăn, mà là tại
xạ và ớt làm nổi vị lên, điểm cho khẩu cái một tơ duyên ấm áp.
Ăn như thế cũng có một cái thú riêng, nhưng làm cho người ta
yêu hơn các món ăn của miền Nam, chưa chắc đã là vì các món ăn đó có nhiều ớt
và nhiều sả, mà cũng không phải vì món ăn của miền Nam nịnh khẩu cái ta ngay, để
rồi chỉ lưu lại một dư vị rất mong manh trong cuống họng.
Tôi yêu miếng ngon miền Nam nhiều là vì nó lạ - lạ đến nhiều
khi không thể tưởng tượng được - và chính những cái lạ đó đã cho tôi thấy rõ
hơn tính chất thực thà, bộc lộ và chất phác của người Nam.
Ăn cháo cóc; nhậu nhẹt đuông chiên; nhắm món dơi xào lăn với
bánh mì; ăn ve con lăn bột; nhắm nấm chàm... rồi tráng miệng bằng một ly chè
rùa hay một chén mủ trôm... thoạt mới nghe, mấy mà du khách không phải cho là
“lạ hoắc”, “kỳ cục” hay “ớn quá”!.
Nhưng có thưởng thức đủ cả những món lạ đó của miền Nam, người
ta mới thật nhận thức được đất của miền Nam nước Việt phong phú biết chừng nào,
người của miền Nam nước Việt hồn nhiên biết chừng nào, và miếng lạ của miền Nam
nước Việt lạ biết chừng nào!
Có nhận thức như thế, ta mới thấy món lạ của miền Nam ngon
hơn lên và ta yêu hơn lên người miền Nam nước Việt qua những món lạ đó, không từng
thấy ở Bắc hay Trung.
Tôi viết cuốn “Món lạ miền Nam” này để ghi một chút ân tình lại
trong những ngày xa phần tử, được các người xa lạ thương yêu như mẹ thương con,
như vợ thương chồng, như em gái thương anh, chăm bón cho những miếng ngon vật lạ
để khuây khỏa nỗi lòng của người mang nặng bảy tám biệt ly một lúc.
Có bạn nào con đẻ của miền Nam nước Việt lúc này ở nơi hải
giác thiên nhai, tình cờ đọc sách này, thấy tha thiết với xứ sở của mình hơn;
có bạn nào chưa tới miền Nam nước Việt mà đã thấy có cảm tình qua những miếng lạ
mà tôi sẽ nói tới dưới đây hay có bạn nào từ nơi xa lạ đến, không tìm thấy sự
ngon lành của nước Việt miền Nam mà vì loạt bài này thấy thương mến miền Nam,
miếng ăn của miền Nam, đất nước miền Nam hơn, thế là tôi mãn nguyện.
Ghi chú:
Ghi chú:
(1) "Miếng ngon Hà Nội" in lần thứ nhất trên báo Mới
(xuất bản ở Sài Gòn năm 1950-52, in thành sách năm 1955, Nhà xuất bản Nguyễn An
Ninh) tái bản năm 1957 (Nhà xuất bản Nam Chi trong Kim Lai Tùng thư)
Thôi cũng là may: phe dân chủ ở Mỹ thắng, mình đã thấy ngay một
cái lợi là biết ăn canh rùa. Mới nghe, tưởng là đùa, nhưng sự thật quả là như
thế.
Từ thuở bé, sống ở Thủ đô Bắc Việt, ông bà tôi, rồi đến thầy
mẹ tôi, chỉ dung nạp được một thứ kêu là ba ba: ba ba tần, ba ba nướng chả, ba
ba om, ba ba nấu giả cầy (có đậu phụ, chuối xanh, lá tía tô... Thượng đế ơi,
ngon quá!)... nhưng đến cái con vật mệnh danh là con rùa thì tối kỵ, không ai lại
ăn đến cái thứ đó bao giờ. Quái, con rùa thì khác gì con ba ba? Mà sao ăn ba ba
lại không ăn rùa?
Có lúc tôi nghĩ như thế nhưng không dám hỏi.
Mãi đến sau này, lấy vợ, có buổi mây chiều gió sớm, ngồi “đấu
lý” với nhau, tôi mới biết người hiền nội trợ phương Bắc không ăn rùa là vì
thành kiến từ ngàn đời xưa để lại:
Thương thay thân phận con rùa, Lên đình đội hạc, xuống chùa đội
bia Ở đình chùa nào, người ta cũng thấy con rùa bằng đá hay bằng gỗ nên con
rùa, không ai bảo ai, đã mặc nhiên thành ra một con vật huyền bí, có tính cách
thiêng liêng, phải tôn thờ, phải kính cẩn, không được coi làm thường. Thôi, đừng
có nói bậy, mà phải tội bây giờ đấy. Người vợ hạ giọng xuống khẽ bảo chồng, như
dạy dỗ, như khuyên can:
- Rùa là đệ tử trung thành của Đức Phật từ bi đấy, biết chưa?
Ngày xưa, đã lâu lắm lắm rồi, lúc thầy Đường Tăng đi thỉnh kinh bên Tây Trúc,
chính là nhờ con rùa đấy, chớ không thì làm thế nào mà đi được thiên sơn vạn thủy,
đương đầu được với bao nhiêu quỷ sứ, yêu tinh!? Thế cho nên thỉnh được kinh rồi,
thầy Đường Tăng thành Phật thì Đức Quan Thế Âm ngài cũng cho con rùa thành Phật
luôn... Vì thế không bao giờ nên ăn thịt rùa. Ăn vào thì xúi quẩy, lụn bại,
không còn buôn bán, làm ăn gì được!
Yêu nhau, bảo thế nào lại chẳng phải nghe. Hai chục năm, sống
ở bên cạnh người vợ bé nhỏ, một niềm kính Phật thờ Trời, tôi không một phút nào
dám nghĩ đến chuyện ăn thịt rùa. Mãi đến tận gần đây, vào trong này, một biến cố
lạ lùng xảy ra, khích động tính tò mò quá mức, khiến cho người chồng đã có một
lần quên hẳn lời người vợ yêu để liều ăn một bữa thịt rùa xem sao. Nhưng mà cái
việc liều lĩnh đó không phải là không có cớ!
Ấy là vì khoảng dăm năm trở lại đây, ngày vui của kẻ viết
sách này có thể đếm trên đầu ngón tay mà ngày buồân thì dằng dặc như trong đoạn
kết bài thơ của vua Đường khóc người đẹp họ Dương. Mình cứ rình một cơ hội gì để
liều đổi thời vận xem ra thế nào, thì trúng ngay vào lúc Tổng thống Eisenhower
hết nhiệm kỳ, hai ông Kennedy và Nixon tranh nhau làm Tổng thống.
- Nói chuyện dằng dai, dễ ghét!
- Thì đã bảo mình đương buồn mà! Đêm vắng, nằm không ngủ được,
mình mới lôi những bài tuyên ngôn của hai ứng cử viên Tổng thống Mỹ ra coi, rồi
dây mơ rễ má, đọc luôn cả những bài văn cổ động cho hai ông. Một cuốn sách
tuyên truyền cho công dân Kennedy đã làm cho tôi chú ý: cụ thân mẫu ra ông
Kennedy, năm đó gần tám mươi tuổi, chính là trưởng ban tuyên truyền của ông;
các anh em ông đi khắp mọi nơi hô hào cử tri bỏ phiếu cho ông không ngớt, nhưng
giúp việc cho ông đắc lực nhất, chính là những cô em gái ông hoạt động bất phân
mộ dạ, dưới muôn vàn hình thức khác nhau.
Các cô đi không còn thiếu một câu lạc bộ, một hội liên đới phụ
nữ nào; các cô diễn thuyết và lấy lòng phụ nữ cho ông anh; nhưng tài tình nhất
là cụ thân mẫu và các cô em của ứng cử viên Kennedy khéo làm các bánh ngọt để
biếu các bạn gái ở từng quận xã và không quên gửi kèm theo một cuốn sách mỏng
trình bày rất đẹp. Một cuốn thơ xanh mầu hy vọng? Hay đó là một bản sao mấy bức
danh họa của Gauguin, Van Dyck? Không, thơ họa gì cũng không bằng. Cuốn sách nhỏ
bé gửi biếu các cử tri đó chứa đựng một bảo vật gia truyền của dòng họ Kennedy:
bí quyết nấu canh rùa. Xin mời các bạn gái cử tri trên toàn bộ nước Mỹ cứ theo
đó mà làm, các bạn sẽ tạo hạnh phúc cho chồng con và các bạn sẽ thấy thiên đường
không ở đâu xa, mà chính ở ngay trên trái đất!
Đọc thế, tôi thấy hay hay; nhưng làm cho tôi suy nghĩ thực
nhiều, phải là từ lúc có tin điện loan truyền cùng thế giới: Kennedy đắc cử!
Không hiểu tại làm sao từ đó, lúc nào tôi cũng nghĩ tới món
canh rùa và, thường đêm, vào lúc chập chờn sắp ngủ, tôi hay liên tưởng đến một
cái đĩa tây trắng cứ bong ra, đựng một thứ nước óng ánh vàng, trên thả một
nhánh tỏi, vài ba lát ra-đi, lập là lập lờ vài miếng thịt hung hung mầu vàng ố!
Phải, tôi tưởng tượng canh rùa của người Âu Mỹ như thế đó, nhưng chẳng biết ăn
thế thì có ngon không nhỉ? Người Âu Mỹ ăn thịt ngựa, thịt ếch, ừ thì cũng được
đi; nhưng bảo rằng họ thích canh rùa thì quả là từ khi đọc tập sách cổ động cho
ứng cử viên Tổng thống Kennedy, tôi mới thấy lần đầu tiên như vậy. Rùa ăn có giống
thịt ba ba không? Thịt nó dai và nhạt? Và ăn uống thì cách thức làm ra thế nào,
hở... cô Năm?
Tôi có một cô bạn nhỏ quen nhau từ câu chuyện đi lấy lát ở Cồn
Tranh dệt chiếu và biết nhau từ một sáng thu đi hái lá so đũa nấu canh với cá
cơm để cùng ăn trong một túp lều tranh trên cồn. Yêu quá thể là yêu, cô gái bé
miền quê Sa Đéc! Này, có phải ở ruộng người ta cho bông hoa bằng lăng này là biểu
hiện của tình yêu mộc mạc không? Ờ mà quên mất nhỉ, bao giờ em lấy chồng? Mà
yêu nhau quá thế này, đến khi anh về thành với vợ, em có buồn không?
Người con gái bé nhỏ không biết gì hết, ngoài những chuỗi giờ
dằng dặc ngồi bẻ bìa, móc chân làm chiếu kiếm tiền, chỉ biết cặm cụi vào bếp để
nấu hết món này đến món kia làm vui người bạn mang nặng trong lòng nỗi biệt ly
xứ sở.
Ăn uống không có gì hết cả: vài trái điều xào với tôm, ăn vào
một buổi chiều có gió hây hây; một chén mủ trôm trưa hè; một nồi cá cháy không
lột vỏ, không đánh vẩy, kho lạt ăn với cơm nguội; một chén dế cơm chiên nhắm
nhót buổi tối trước khi đi nằm, hay mấy con ốc gạo cuốn theo lối bì cuốn chấm đẵm
giấm ớt ăn vào lúc đương xót ruột... Chỉ có thế thôi. Nhưng phải trông thấy tận
mắt người con gái bé nhỏ đó xào nấu, chế hóa các món ăn và đệ lên cho mình
dùng, ta mới có thể cảm thông được sự trang trọng lên cao đến mức nào và ta
không thể không nghĩ rằng những món quà hèn đó, đối với cô Năm, còn quý hơn là
các bà các cô ở thành trịnh trọng với sơn hào hải vị.
Sinh làm con nhà nghèo, cô chỉ biết con cua, con ếch, lá rau
bò ngót, con cá nham rào, cùng lắm là miếng huyết heo luộc ăn với gạo lúa đốc,
chớ có bao giờ biết vây yến, sucút hay camămbe Ôsiđa là gì. Ăn thịt con rùa, cố
nhiên tôi phải hỏi cô Năm và cố nhiên một hôm tôi đã được thưởng thức món rùa
chính cống làm theo kiểu miền quê Nam Việt.
- Trời ơi! Sao anh lại có thể ví con rùa với cua đinh? Có lẽ ở
xứ sở anh, người ta kêu cua đinh là ba ba, và em nghe các bà Bắc di cư nói chuyện
thì “ở ngoải” người ta ăn ba ba thường lắm, hoặc theo kiểu tần, hoặc theo lối
rán hay om với chuối xanh, đậu phụ, riềng, mẻ, điểm thêm mấy lá tía tô hay rau
ngổ. Ở đây, cũng vậy, người ta cũng ăn cua đinh, nhưng cua đinh và rùa có hương
vị khác hẳn nhau, cũng như thịt vịt ta không thể như thịt vịt xiêm, hay không
ai lại có thể so sánh con cá ngáp với con cá sặt, chỉ vì lẽ cùng là loài cá.
Không ai bảo cho tôi biết ở đô thị, người ta ăn thịt rùa theo
cách thức nào, cũng như tôi chưa sưu tầm được bí quyết nấu canh rùa của em gái
cố Tổng tống Kennedy ra sao; nhưng mấy món rùa của cô Năm nấu cho tôi thưởng thức
hôm đó đã làm cho tôi chợt cảm thấy như vừa mới nghe thoang thoảng đâu đây một
hương lan hòa với hương xuân lúc cùng với người yêu trèo lên một đỉnh núi cao
trên Đà Lạt.
Có những người sành ăn muốn thưởng thức món ăn gì, hết sức giữ
cho kỳ được vị của món đó trong khi chế hóa mới vừa lòng. Ăn rươi, sợ tanh, mà
cho gia vị đánh át mất cả vị của chính con rươi; ăn dê hầm mà cho lá sả và tẩy
gừng quá tay để cho mất mùi hoi, hoặc pha mắm tôm ăn chả cá mà cho nhiều rượu
và chanh quá, làm mất cả vị của mắm tôm, ăn như thế tức là “ám sát” các vị căn
bản của món ăn, “thực bất tri kỳ vị”. Tôi thích món ba ba tần, ba ba hồng síu,
ba ba om duyên dáng, triền miên, nhưng ăn đến rùa mà thật gọi là “thưởng thức”,
cần phải ăn theo hai món chính mà cô Năm đã làm cho tôi. Đó là món rùa xào và
món xé phay gỏi bắp chuối.
Lúc còn ở ngoài Bắc, tôi đã được trông thấy một con rùa to bằng
cái nia lớn lên phơi nắng ở trước đền vua Lê. Rùa như thế, tôi đã cho là lớn lắm
nhưng sau này xem sách thì chưa thấm vào đâu hết.
Trong hai mươi nhăm loài rùa sống ở trong trời đất, người ta
đã tìm thấy những con to bằng cả một cái chiếu rộng nhất, cân nặng tới năm trăm
kí, nhưng trái lại, lại có những con sống hàng trăm năm mà không lớn hơn một
bàn tay, ta có thể cho vào túi bađờsuy đi dạo mà không ai thấy.
Người ta bắt nó ra sao? Ta thường vẫn tưởng chỉ có hai thứ
rùa: rùa núi và rùa sông, rùa sình. Thực ra, ngoài hai thứ đó, còn có một thứ
rùa biển nữa. Rùa biển ăn thịt cá, tôm và nhiều khi bắt vịt, bắt le như chớp
nhoáng; còn rùa sông, rùa sình thì thường ăn rêu, ăn sậy nhưng cũng không chê
tôm cá, nếu chẳng may những con này sa vào miệng chúng; bởi vì rùa biển, rùa
sông hay rùa núi đều có một điểm giống loài chim là chúng có một cái miệng
không răng mà hai mép thì rắn như sừng, thường gọi là cái mỏ.
Những người ăn thịt rùa không thích những thứ lớn quá vì ta
có quan niệm cái gì lớn quá đều là thần hoặc là ma. Rùa lý tưởng cho người ta
ăn thịt là thứ rùa lớn bằng cái đĩa tây. Theo các sách Âu Mỹ thuật lại thì từ
năm 1708, người Âu châu đã thích ăn thịt rùa, Đại úy Francois Leglat đã viết
trong một cuốn nhật ký của ông: “Thịt rùa cũng tựa như thịt trừu nhưng ăn thanh
hơn nhiều”. Nhà thám hiểm Marc Antoine Rendu ăn thịt rùa hả quá cũng viết:
“Canh rùa là vua canh” và không chê những con rùa kỳ lạ không có vảy nhưng toàn
mình bọc một tấm da như kiểu một nhà võ sĩ thời Trung cổ.
Con rùa cô Năm làm cho tôi ăn hôm ấy không kỳ lạ đến như thế;
nó giống như các con rùa thường, chỉ khác mai nó hung hung vàng. Cô nói:
- Rùa ăn thế nào cũng được, chỉ có một điều nên nhớ là thứ
rùa quạ, mu đen như quạ, ăn không tốt. Người ta lại bảo rằng ăn rùa quạ cũng
như ăn cua đinh mà cụt một cẳng thì dễ sanh bịnh cùi. Chẳng biết có đúng hay
không? Con rùa mà em mua được hôm nay là rùa vàng, ăn vào phát tài, anh dùng
đi, chớ cứ ngồi mà nhìn em hoài vậy ư?
Cô Năm tiếp thêm cho tôi một miếng rùa xé phay. Cô nói:
- Anh ăn đi, ngọt lắm. Em làm kỹ, không có sợ đau bụng đâu.
Người ta bảo rằng làm cái giống rùa này mà không lau cho khô nước thì dễ sinh
đau bụng. Anh đã thấy em làm rồi đấy: thịt khô mà chín nhừ. Có người cho lên lò
nướng rồi tróc mu ra. Em không thế. Em cho vào nồi, trong nồi có sẵn muối hột;
em rang muối, khi nào muối nóng thì bỏ rùa vào.
Thấy muối nổ cũng đừng bắc ra vội; phải đợi cho muối vàng và
tan thành bột, hãy bắc nồi ra. Lúc đó, rùa mới thực chết và thịt nó lúc ấy mới
thực săn. Em cậy nắp ra, bỏ ruột, có trứng thì lấy trứng; đoạn, lấy dao lách thịt,
xé phay, cuốn bánh tráng, gia đậu phộng, rau răm và hẹ, như thế này. Anh phải
chấm đẫm nước mắm ớt có pha giấm và đường, ăn với đồ chua mới ngon, anh à.
Ăn kiểu này thì thưởng thức được chân vị của món thịt rùa;
người ta thấy thoang thoảng một chút tanh tựa như cái tanh của sò, của hến,
thêm cái chất ngọt của thịt gà chân chì mà lại man mát tựa như thịt vịt xiêm.
Thú thực là tôi không thấy cái gì “tựa thịt trừu” như lời Đại úy Leglat đã nói,
song ăn đến cái nước lèo rùa luột thì phải nhận là ngon, nhưng cái ngon đây vẫn
không phải là cái ngon đáo để của thịt trừu, hay thịt bò con, mà là cái ngon dịu
hiền, thanh cảnh và kín đáo, tựa như món gà giò nấu với sa sâm, ý dĩ, thêm chất
tanh tanh thú vị của món hà mà ta ăn sống ở trên bờ biển Vũng Tàu hay Long Hải.
Ông nào cho ăn như thế là thanh cảnh quá, muốn đậm đà hơn một
chút, nên dùng món rùa xào: thịt rùa rang lên rồi chặt ra từng miếng bằng con cờ,
cho vào chảo xào với củ hành, gia thêm thứ rau gì tùy ý, xúc ra đĩa, ăn luôn với
một hai tớp rượu đưa cay, ta cảm như ăn ba ba hồng síu của Tầu. Nếu cho vào nồi
gia nước, đun lên và bỏ thêm mấy miếng su su, cà rốt, tống cú và vài cái chân
gà ác hầm lên, ta sẽ cảm thấy cái vị ba ba cáy dùng.
Nhưng ăn thực cho thích khẩu những người sành thường dùng món
rùa hấp cách thủy: thịt rùa chặt ra từng miếng nhỏ, cho đúng phân lạng sa sâm,
ý dĩ, đại quy và bạch thược, đợi cho thịt rùa thật chín và mềm, đem ra ăn, sướng
ông thần khẩu không chịu được.
Hấp cách thủy như thế hơi lâu.
Trong khi chờ đợi, những ông bợm nhậu có thể lấy mấy cái chân
rùa ra nướng lên nhấm nháp. Chân rùa nhiều gân; ta cạp chân gà thế nào thì gân
chân rùa cũng từa tựa như thế; nhưng có nhiều người bảo gậm chân rùa “không có
sướng” bằng lấy những cái vẩy trên mai nó nướng cháy lên mà nhắm rượu - chết chửa,
giòn cứ tanh tách mà bùi quá thể là bùi! Này, các trái “noa” của Tây, tôi đố có
thể đem ra mà bì được đấy!
Rùa cách thủy đã được rồi đấy, mời ông lấy ra dùng. Húp mấy
thìa thử mà coi, ông thấy mát ruột liền; nước không béo nhưng ngọt; mùi tanh của
rùa quyện lấy mùi ý dĩ, bạch thược tạo nên một vị riêng tựa như thịt nai tơ, mà
lại tựa như thịt rắn, nhần nhận, the the, mà lại trơn lừ cuống họng như canh yến.
Ăn mà sướng khẩu cái như thế, chẳng là đã quá rồi sao? Nhưng có những người kỳ
lắm, phàm ăn món gì lạ là cố tìm ra vài tính chất bổ béo của nó cho kỳ được mới
nghe. Vì thế có ông bạn đã nghiêm khắc bảo tôi:
- Trời! Nếu rùa mà chỉ có thế thì đâu có quý! Nó quý vì cái
khác kia...
- Bẩm, cái khác ấy là cái gì?
- Con rùa cũng như con trâu, ông ạ, không có một bộ phận nào
của nó mà không được việc. Cái mu và cái yếm của nó đem phơi dùng để bói và làm
thuốc chữa cam phổi, cam gan, cam thận, cam tim của trẻ con; mật nó phơi khô trị
chứng đau răng hay lắm, còn thịt nó thì không thể nào nói xuể... người ta bảo
ăn được trăm ngày thì vợ chồng yếu sẽ mạnh, có ông già sáu mươi tám tuổi lấy vợ
hai mươi chín tuổi mà bốn năm sanh liền hai đứa con trai đấy!
Tôi tiếc là lúc viết bài này không có sách “Kinh nghiệm Y lý
Đông phương” để truy cứu xem những lời nói của ông bạn đúng được bao nhiêu phần
trăm; nhưng có một điều tôi biết chắc là chính giống rùa mạnh lắm, có một sức sống
tuyệt kỳ, mà lại sống lâu như Bành Tổ.
Năm 1938, người ta đã tìm thấy ở Mỹ những con rùa mà ở trên
mu còn hằn những vết đạn hồi bảy mươi nhăm năm về trước, lúc xảy ra cuộc Nam Bắc
phân tranh.
Lại vừa đây, người ta mới bắt được một con rùa trên mu có khắc
số 1844. Thì ra con rùa này sống ít nhất cũng được trên 120 năm nay và xem bộ
dáng thì vẫn còn mạnh lắm.
Nhưng phá kỷ lục sống dai - theo sự hiểu biết có hạn của những
nhà tự nhiên học - thì là con rùa mà người ta đưa tặng Nữ hoàng Eugénie. Theo
nhà nghiên cứu Ambroise Randu, lúc con rùa này theo Nữ hoàng đi Ai Cập để khánh
thành kinh đào Suez nó đã được 140 tuổi trời. Giữa đường, nó bị lạc. Mãi về
sau, người ta mới thấy nó - nhưng thấy ở đâu? Ở vùng Kim Tự Tháp! Quốc vương
Farouk đệ Nhị (Farouk II) nuôi nó trong Hoàng cung. Bây giờ nó là “thượng
khách” của vườn thú Le Caire, thủ đô nước Cộng hòa Ả Rập Thống nhất và tính đến
nay được hơn 250 tuổi.
Ở phương Đông, rùa là một trong tứ quí (lân, ly, qui, phượng),
không những là vì rùa báo điềm lành, mà còn được coi là tượng trưng của tuổi thọ
của con người. Thực ra, rùa không những sống lâu mà lại còn mạnh lắm. Các nhà tự
nhiên học cho biết một con rùa núi bình thường có thể “cõng” một đứa trẻ trên
lưng mà đi lại thong thả hàng cây số. Một con rùa lớn ở Mỹ có thể chở phăng
phăng một “gi ay”(1) nặng bảy mươi kí trên cái mu đường kính bốn mươi lăm phân
của nó.
Thế kỷ trước, nhà bác học Thụy Điển Alexandre Kestern muốn giữ
xác một con rùa làm kỷ niệm, tìm cách giết nó đi mà loay hoay hàng tháng không
biết giết nổi. Thoạt đầu, ông ta treo con rùa lên cao, cho đầu nó vào trong một
thùng phuy nước, và lấy dây buộc cổ nó lại, để cho nó ngạt hơi dần. Nó vẫn “sống
nhăn”. Kestern lấy một cái kim bự đâm thấu óc nó: nó vẫn cứ sống luôn. Ông ta
bèn ngâm nó vào rượu có pha chất cyanure de potassium: Vô ích nốt. Rút cuộc,
ông phải áp dụng phương pháp của “ông Sài Gòn”: trảm thủ nó như là trảm Trịnh
Ân! Một tuần sau thân thể nó còn cựa quậy, bốn chân duỗi ra và thụt vào trong
mu, còn cái mỏ thì vẫn cắn!
Một con vật dai sức và sống dai như thế, cố nhiên phải là con
thịt lý tưởng của những nhà dinh dưỡng muốn tìm sức mạnh bằng món ăn.
Thuở nhỏ, học ngụ ngôn của La Fontaine, chúng ta thường vẫn
yên trí rùa là một giống vật chậm chạp và không hoạt động: sự thực, không phải
thế. Có nhiều giống rùa biết lội còn giỏi hơn cả cá, hàng triệu cây số lận; còn
rùa núi, rùa cạn thì ở Anh, người ta đã thấy có con đi du lịch tới 350 cây số
trong vòng hai năm. Rùa ở đảo Galapagos đi thủng thỉnh từ năm đến bảy cây số một
ngày, không biết mỏi; nhưng lạ vào bực nhất là ở Đông Dương có một giống rùa
leo núi như khỉ và trèo lên cây để kiếm thức ăn như vượn.
Ăn một món ăn lạ mà vừa nhấm nhót mà lại vừa cảm thấy ly kỳ
như thế, ai mà lại không thấy lòng mình phơi phới như có cánh bay. Cô Năm đứng
dậy, đi thủng thỉnh vào nhà trong, lật cái lồng bàn, bưng ra một cái đĩa, đặt
trước mặt tôi và nói:
- Thế nào? Anh ăn thịt rùa thấy làm sao?
- Cũng được, là lạ miệng.
- Nhưng chưa thấm với cái này...
- Gì vậy?
- Trứng rùa. Ăn rùa mà không thưởng thức trứng, tức là chưa
ăn rùa vậy.
Tôi nhón tay cầm một cái trứng lên coi. Luộc rồi, trứng rùa
có sắc trắng, tròn và nổi lên những tia máu đỏ. Nó lùng bùng nhưng dai, cắn vỡ
thì có nước và một cái màng mầu vàng sẫm. Cái trứng đó vừa mút vào thì đã trôi
đến cổ rồi, nhưng đừng có nuốt vội vàng, hỡi người bạn háu ăn! Thử cắn nhỏ nhẹ
những cái trứng đó ra, anh sẽ thấy nó rắn hơn tròng đỏ trứng gà, mà quánh như
sáp, vừa nhai vừa ngẫm nghĩ thì có ý bùi hơn và cũng thanh hơn. Này, ăn thêm một
hai cái nữa, tuyệt trần, phải không anh?
Ô, thảo nào các nhà tự nhiên học không ngớt ca tụng trứng
rùa.
Sách thuật rằng vào khoảng dăm chục năm về trước, ở Căm Pu
Chia, công việc kiếm trứng rùa được qui định theo một sắc lịnh của nhà vua, và
trứng của những con rùa quí ở sông đều phải đem “tiến” cũng như hồi trước nước
ta “tiến” lên nhà vua nhãn, quế, vải, cốm hay vây, yến. Sở dĩ vậy là vì trứng
rùa ăn thích khẩu, đã đành, mà còn vì một lẽ nữa là nó hiếm.
Cứ vào mùa “con nước”, rùa cái cũng “động đực” như heo nái vậy.
Đương sống thanh nhàn, tĩnh mịch, các “em” kéo nhau đi tìm “chất đàn ông” không
phải vì “nhớ đến tên các anh viết trên lá, trên hoa, viết trên vú trên mông”,
nhưng chính là để “giết cái sầu cô độc, xây mùa tình ái, dựng niềm yêu... thế hệ”!
Ôi chao, các cậu rùa lúc đó “lấy le” dữ quá. Y như các bố trẻ
“lưu manh” lộng hành ở các quán nước hiện nay để chiếm lòng các nữ ca sĩ, các cậu
rùa giao chiến cực kỳ ác liệt cắn nhau chí chóe và tìm đủ các miếng khóa “ta ki
đô” để vật ngửa nhau ra. Anh nào thắng, dắt em yêu đi hưởng tuần trăng mật - một
tuần trăng mật kéo dài tới hàng tuần, có khi tới gần một tháng!
Mắn thế! Chẳng mấy hồi, cô rùa đã có bầu. Thường thường, cô đẻ
mươi mười lăm trứng, nhưng người ta đã từng thấy có những con rùa biển lớn đẻ tới
ba, bốn trăm trứng làm ba lần. Nhưng dù là thuộc loại rùa biển, rùa sông, rùa đất
hay rùa núi, chúng cũng cào đất mà chôn trứng xuống, vì thế, trứng rùa khan hiếm
và do đó thành ra món “tiến”.
Vừa ăn thịt rùa, vừa nhẩn nha suy nghĩ, một mình như thế,
mình tự nhiên thấy trứng rùa đã ngon lại ngon quá chừng là ngon, mà thịt rùa đã
quí lại quá chừng là quí. Và mình tưởng chừng như lúc ấy cô Năm có làm ba con
rùa nữa mình cũng cứ ăn... bay!
Đêm ấy, trăng chiếu xuống mảnh giường kê ở ngoài vườn. Tiếng
con “kuềnh quang” và con trằng hiu ru tôi vào những giấc ngủ đầy những mộng
lành: tôi thấy mình lại dẻo dai như hồi hai mươi tuổi và đi mãi, đi mãi, qua
thiên sơn vạn thủy như rùa, đến một cuối trời kia có mây xanh, gió tím... và ở
một bên bãi lau có gió thổi hắt hiu, tôi bỗng thấy một người yêu đã mấy năm nay
không gặp!
Ghi chú:
(1) G.I = Government issue, chỉ người lính Mỹ.
(1) G.I = Government issue, chỉ người lính Mỹ.
Thế là hết. Bao nhiêu thành tâm, với công trình thức trắng
đêm để muối được một liễn thịt chuột đem lên cho con gái ở đô thành tan vỡ hết
trong giây phút chỉ vì một chữ không. Không ăn. Không thể nào ăn được. Ghê lắm.
Mấy đứa cháu nhất định không dám ăn. Có nhiều người chồng vốn đã là người “kén”
ăn không thể nào chịu nổi, nhưng vì chiều vợ chỉ cười mà không nói gì. Là vì
cái liễn thịt chuột muối kia là của bà già vợ lễ mễ đem từ An Giang, lên cho “vợ
chồng con Tư” - mà chuột An Giang, khỏi phải nói, ai cũng biết là nổi tiếng
ngon nhất miền Nam nước Việt. Tội nghiệp nó lấy chồng đã mười một năm nay mà
chưa có cơ hội về thăm quê. Nhớ lại lúc nó còn con gái, chỉ thèm ốc gạo và
thích chuột mà dăm thì mười họa mới được ăn một bữa. Không phải vì An Giang hiếm
chuột - trái lại nhiều là khác - nhưng chỉ vì tại ở nhà không có con trai, nên
không có người đi săn chuột về ăn. Bỏ tiền ra chợ mua, đối với con nhà nghèo,
là chuyện không mấy ai nghĩ tới. Sống ở quê, thèm chuột quá mà phải nhịn; bây
giờ có tiền ở đô thành muốn ăn thịt chuột chắc gì đã có, bà già nhà quê mang liễn
thịt chuột muối biếu con, hí hửng là cả nhà người con gái cưng của mình sẽ tiếp
nhận một cách niềm nở và thưởng thức say mê, không ngờ vừa mới mở nắp liễn ra
thì, trừ người vợ, cả nhà đều há hốc miệng mà kêu lên một tiếng vô nghĩa, chưa
thấy ghi trong tự điển.
Có phải tại ở đô thành người ta không biết ăn thịt chuột
không? Hay tại anh chồng Bắc Kỳ không thấy ai ăn thịt chuột bao giờ nên nghe thấy
nói thịt chuột thì bở vía? Không phải. Ở Bắc Kỳ, tại các miền quê, có khối người
ăn thịt chuột, nhưng anh chỉ nghe thôi mà thực mắt thì chưa thấy ai ăn bao giờ.
Anh ta quan niệm rằng những người ăn uống như thế là ăn uống lem nhem, bần cùng
bất đắc dĩ mới phải ăn thịt chuột; phải chi có tiền để ăn thịt lợn, thịt gà, thịt
bò, thịt vịt thì chắc chắn không có ai nghĩ tới chuyện ăn thịt chuột bao giờ.
Vào đến đây, anh ta đi dạo chợ Bàn Cờ, xóm Chiếu, đôi ba lần đã thấy có người
xách hai cái lồng làm bằng dây kẽm bán chuột, mỗi lồng độ hai chục con, lớn bằng
chừng cái cườm tay, còn sống nguyên, con nào con nấy vểnh râu ra, phình phình lỗ
mũi, giương mắt ra nhìn thiên hạ một cách nhâng nháo như những thằng ăn cướp. Ấy
thế mà người ta cũng kéo lại mua đông đáo để. Hai trăm, hai trăm rưởi, một chục
con. Người mua chuột chỉ vào từng con, người bán, y như thể một tay hát xiệc, bắt
đúng tẩy liền, lôi ra khỏi lồng, quật đánh đét một cái xuống đất, con chuột chết
hộc máu mồm giẫy mấy cái rồi “đi đứt”. Mà tuyệt nhiên người bán lúc bắt chuột
không hề bị một con nào đụng đến cái móng tay!
- Thấy vậy, tôi vẫn ưa nghĩ rằng chắc gì chuột đó đã là chuột
đồng như người ta vẫn nói! Hơn thế, tôi yên trí các tay bán chuột đó là mấy anh
chàng ngụy tạo dân vườn ruộng và chuột của họ là chuột cống ăn bẩn ăn thỉu, ăn
dơ ăn dáy mà hàng đêm họ vẫn bắt được ở cống rãnh, sình lầy, tha ma mộ địa, ăn
vào chưa biết ngon lành, bổ béo đâu mà hãy thấy ngay là rất có thể bị thổ tả, hay
dịch hạch.
Vì yên trí như thế, ở Bắc rồi vào Nam, tôi nhìn những người
ăn thịt chuột với những ý nghĩ đặc biệt: vừa sợ, vừa ghê. Đến khi vào đây sống
với người bạn đầu gối tay ấp miền Nam, đi đây đi đó và đêm khuya nằm nghe vợ
nói chuyện về các món ngon vật lạ, tôi phải nói là tôi ngạc nhiên không chịu được
vì thịt chuột không phải là thứ ăn chơi ăn bời nhưng là một thực phẩm gia dụng,
một món ăn được nhiều người ưa chuộng và ca tụng hơn cả thịt gà, thịt vịt, thịt
rừng, thịt chó.
Ăn thôi nôi đứa con nhỏ xong rồi, hai vợ chồng sau khi tiễn
khách ra về, ngồi uống nước với nhau ở dưới giàn hoa thiên lý. Không hiểu vì
liên tưởng ra sao, vợ bảo chồng:
- Anh có thành kiến rất kỳ. Lúc nào anh cũng quan niệm gà rô
ti là nhất, phải chi hôm nào em làm một món thịt chuột ram mặn cho anh xơi, anh
sẽ thấy gà rô ti, ngỗng rô ti, vịt rô ti, không đi đến đâu hết. Anh tưởng cái mỡ
hai con gà sống hôm nay em làm là “nhất” rồi ư? Không, anh ơi, mỡ ấy không thấm
vào đâu với mỡ chuột, nó vàng, thơm mà ăn lại không ngán, ăn một lại muốn ăn
hai, ăn ba, ăn bốn, ăn mãi không thôi.
Vợ chồng sống với nhau mãi rồi thành ra cũng phải chịu đựng
nhau. Mới đầu thấy nói ăn thịt chuột thì ghê, không muốn nghe nói tới, dần dần,
nó quen đi, vợ muốn nói gì mặc kệ; nhưng sau, mình tò mò, chú ý hơn một tí, thì
thấy cũng “là lạ” và mặc dù không muốn ăn thử xem sao nhưng không thấy kinh tởm
như trước nữa.
Không. Muốn đề cao thịt chuột thế nào đi nữa thì anh chồng Bắc
Kỳ cũng cứ lắc đầu. Nhưng một hôm kia đi về thăm quê cô Năm, bạn vợ, anh chồng
tự nhiên thấy lòng mình lâng lâng vì cập với cô Năm đi chợ, anh thấy chính cô
cũng ca ngợi thịt chuột và mua về mấy chục ăn chơi. Người cô đẹp, giọng cô hữu
tình, mắt cô lại lẳng: thế là chết anh đàn ông, tự nhiên nhìn thấy cái gì của
cô cũng đẹp, lời nói nào của cô cũng hữu lý có duyên và anh ta muốn ăn thử xem
thịt chuột ra thế nào mà người đẹp ca ngợi hết lời như vậy. Cái máu mê của anh
đàn ông đa tình đánh cho chết cũng không bao giờ thay đổi. Nhưng vốn đã biết
tính đa nghi của vợ, anh vẫn làm bộ giẫy lên đây đẩy để cho chính vợ phải
khuyên nhủ đừng làm buồn cô Năm, anh ta mới không chê ỏng chê eo. Ừ thì ăn, đã
làm sao chưa? Anh ta nghé bên này, ngó bên kia, làm ra cái bộ ngạc nhiên hết sức,
nhưng rút lại cũng cứ bám cô Năm đi hết các dẫy hàng ở chợ để xem cô lựa chuột.
Lúc đó bắt đầu mùa mưa. Từ lúc mưa bắt đầu thưa thớt cho đến
khi mưa xối xả suốt ngày suốt đêm, chẳng cứ chợ An Giang, bất cứ ở chợ nào cũng
bầy bán chuột như ở thành thị người ta bán hàng đánh cắp ở P.X. bày bán la liệt
ở hai dẫy hè đường. Trên thì trời, dưới thì chuột: tự nhiên anh cảm thấy nếu
mình không ăn thịt chuột thì thành ra người mọi rợ cũng như một ông mặc quần áo
sang trọng lạc vào một thế giới khỏa thân hóa thành một “quái thai” một “dị
nhân” - nếu không muốn nói là quái vật.
Kể từ lúc ấy, anh cảm thấy đỡ ghê tởm một phần nào. Thực
tình, nghĩ thì kinh, nhưng có nhìn thấy chuột bày bán ở chợ thì cũng chẳng cảm
thấy sợ hãi hơn khi ta nhìn thấy bán thịt heo, thịt chó, thịt rừng hay thịt gà,
thịt vịt. Chuột săn được đem về đập chết rồi đem thui, lột da, mổ bụng, lấy bớt
mỡ chỉ chừa lại lá gan rồi đem ngâm nước phèn, thịt chuột đỏ dần lên sau lần lần
xuống mầu, trắng phau phau và láng bóng như da người trinh nữ; có đôi chỗ lại ửng
hồng lên. Không, không, cách gì anh cũng phải nhận với tôi rằng cái da thịt mịn
màng ấy hứa hẹn không biết bao nhiêu, hấp dẫn không biết chừng nào và trừ phi
anh là Liễu Hạ Huê không nói gì, chớ nếu anh cũng là người như tôi thì muốn gì
anh cũng phải liên tưởng một cách tục tĩu và tội lỗi đến thân thể ngọc ngà “dầy
dầy sẵn đúc” của cô Năm Trứng Gà - chẳng gì cũng nổi tiếng là “người đẹp Long
Xuyên” một thuở.
Cô nói với vợ tôi, nhưng lại lúng liếng con mắt về phía tôi:
- Chị Tư đã biết quá rồi, lựa là phải nói, nhưng anh Tư đây
có lẽ chưa biết rõ nên cứ nói nghe chơi. Cái giống chuột này thui lên rồi lột
da ăn mới thiệt ngon, chứ đem nhúng nước sôi thì trông như chuột chết sình,
không những đã không đẹp mắt mà ăn vào lại không thơm. Bởi thế, chuột bán ở chợ
hầu hết đều đem thui vàng rồi lột da không có ai bán chuột sống trừ phi phải
chuyên chở từ tỉnh này sang tỉnh khác, từ nhà quê ra kẻ chợ.
Tôi đã được thấy người ta mua chuột sống ở chợ xóm Chiếu, chợ
Bàn Cờ, nhưng muốn thực biết người ở đây thích thú thịt chuột đến chừng nào thì
một buổi sáng đẹp trời nào phải đi dạo ở các chợ An Giang xem người ta mua thịt
chuột tưng bừng như thế nào. Không phải chỉ có dân quê mới ăn thịt chuột như ở
Bắc ta vẫn thấy, nhưng thị dân cũng cứ say mê thịt chuột luôn: này, ông nghị
viên mua ba chục đấy, hai trăm hai một chục có bán không? Còn bà Bảy bán chạp
phô, chú Tiều mập ở xế chợ chê chuột không béo và kém tươi muốn bỏ đi, nhưng
không biết tiếc rẻ làm sao lại rủ nhau quay lại trả hai trăm mười lăm đồng một
chục, thôi bán cả đi để về cho sớm sủa có hơn không, bà Sển.
Thì ra không phải chỉ có vợ tôi và cô Năm Trứng Gà mê thịt
chuột mà “bàn dân thiên hạ” đều mê. Tôi bất thần nhớ có lần đã thấy có cô vào
tiệm cầm đồ ở tỉnh cầm cà rá và dây chuyền lấy ít tiền, ra gần đó mua luôn ba
ký sầu riêng ăn cho đã đời: đến mùa cái thứ trái cây này mà không được thưởng
thức, một số người cảm thấy mình thiếu thốn, đau khổ và coi như bị trời bạc
đãi. Vào cữ tháng bảy tháng tám, những người đã có lần được thưởng thức thịt
chuột rồi mà không được ăn thịt chuột có lẽ cũng ở vào cái trạng thái tâm lý của
những người cầm dây chuyền và cà rá để ăn sầu riêng cho kỳ được.
Thực đến bây giờ tôi không biết cái sắc đẹp hữu tình của cô
Năm Trứng Gà ảnh hưởng đến bữa chuột thịt đầu tiên bao nhiêu phần trăm, nhưng
tôi thành thực tin rằng không có món thịt nào mà lại biến chế được thành ra nhiều
món như thịt chuột. Thịt bò nhiều lắm chỉ có bảy món, thịt dê độ bốn năm món,
thịt gà thịt vịt cũng năm sáu món là cùng, chớ thịt chuột thì có thể chế biến
ra được mươi mười hai món, mà đến lúc ăn quen rồi món nào cũng hấp dẫn, món nào
cũng lạ và món nào cũng có những hương vị khác nhau.
Tôi phục cô Năm và vợ tôi đã cho tôi thưởng thức bốn món ăn
chơi “lẫm liệt”: Chuột lá lốt, chuột cuốn, chuột xé phay và chuột lúc lắc.
Nhưng làm cho ta sướng cả khứu giác, thị giác và thính giác cùng một lúc có lẽ
là cái món chuột nướng vàng trên than hồng, mỡ rớt xuống than cháy xèo xèo, bốc
lên một mùi thơm điếc mũi còn hơn cả bún chả băm và chả miếng của người Hà Nội.
Ngồi ở đầu xóm cuối xóm chỉ ngửi thấy mùi thơm cũng bắt thèm và phải chửi đổng
một câu cho... đã tức! Rượu đế nước nhất ngâm sâm và bìm bịp, hạ thổ một trăm
ngày lấy lên uống rồi gắp một miếng vàng ngậy như mùi da đồng, nóng hôi hổi, chấm
nước mắm sả ớt, điểm mấy sợi xoài thái chỉ rồi nhai rất từ từ và lấy hai ngón
tay nhón một tí rau thơm, một tí húng cây hay một tí ngò tây, anh sẽ thấy -
quái! Sao cái thịt này nó mềm thế nhỉ, mà lại ngọt, mà lại thơm một cách rùng rợn,
mê ly thế nhỉ!
Ăn đến ba miếng, rượu bắt đầu làm cho “cái chất xam xám” ở
trong đầu người đàn ông xáo động và anh ta nhớ lại có một ngày mươi mười lăm
năm về trước, anh đã trịnh trọng dự một bữa gỏi cá của một người bạn già mời,
mà không báo trước cho anh biết sẽ ăn món gì. Ngồi vào bàn, biết là chủ nhân mời
ăn gỏi, anh ta choáng người lên, liếc con mắt hỏi ý kiến người bạn ngồi bên cạnh
thì người bạn này cũng không biết thưởng thức món này luôn; nhưng vì xã giao,
hai người bấm nhau bảo cứ ăn bừa một vài miếng xem sao thì rút cuộc chính hai
cha lại ăn kỹ nhất, và ca ngợi món gỏi này nhiều nhất.
Bữa ăn thịt chuột đầu tiên của tôi tại An Giang cũng y như là
bữa ăn gỏi đó ở miền Bắc Việt Nam: Nhưng không lẽ đâu lần đầu gặp người đẹp mà
lại cứ ăn tì tì một cách “phàm phu tục tử” coi sao cho tiện, tôi đành phải làm
ra vẻ “khảnh ăn” xin một chén cơm, “viện cớ không uống được rượu nhiều”.
Ăn thịt gà, thịt bò, thịt vịt, thịt heo, xong món này thì đổi
món khác, điều ấy ai cũng thấy rồi và có như thế thì người ăn mới lạ miệng và
không thấy ngán. Ôi chao, đến cái thịt chuột thì huyền diệu lắm: nhậu thịt chuột
rồi, đến lúc ăn cơm lại dùng toàn những món chuột luôn, vậy mà chẳng thấy ngán
một ly ông cụ, trái lại vẫn cứ ngon ơ, ăn muốn... chết cơm mà miệng vẫn cứ muốn
còn ăn nữa. Mê không để đâu cho hết là món chuột bằm nhỏ xào rau mò om cập với
bánh tráng nướng và món chuột xào bầu ăn vừa mát vừa thơm, từa tựa như cơm trộn
với trứng cáy mà lại ăn thêm với mấy ngọn rau sắng chùa Hương vậy.
Quả tình là rượu lúc ấy đã ngà ngà nhưng trước mặt vợ, mình
phải tính toán đo lường từng câu nói không dám ca ngợi cô Năm Trứng Gà quá mức,
sợ vợ buồn. Thì quả đêm ấy về đến nhà, vợ chồng nằm trò chuyện với nhau, vợ gợi
lại bữa ăn ban ngày và nói:
- Không, cứ kể chị Năm làm ăn đã khéo lắm, nhưng anh cho cái
món “chuột bằm nhỏ xào rau mò om” hôm nay là nhất thì em không chịu. Để hôm nào
có ai về Hậu Giang, em gửi mua vài chục làm mấy món “lạ hơn nữa” anh ăn thì chắc
chắn muốn chết luôn.
Biết là lúc này là giờ quyết định để mà nịnh vợ không có thế
mặt sẽ “sưng lên một đống”, tôi phải lấy một cái giọng rất vui vẻ trẻ trung:
- Thôi, em đừng nói, nghe mà thèm. Thèm luôn cả em nữa đấy!
Như được gãi vào lòng tự ái, vợ tươi hẳn mặt lên:
- Anh có thể tưởng tượng em sẽ làm cho anh những món gì
không? Sơ sơ làm bốn món thôi, nhưng bốn món anh mê chết mất. Là món chuột ướp
ngũ vị hương chừng một tiếng đồng hồ đem khìa với nước dừa, đậy vung lại chừng
mười lăm phút để giữ lại hương thơm, món chuột ướp hành, tỏi sả bỏ lò, món chuột
kho mềm sau khi ram vàng và món chuột xào lăn. Nhưng cái “tủ” của em là mắm chuột
và khô chuột. Mùa nước, chuột nhiều, ăn không hết đem thui đi, lột da, chặt đầu
chặt đuôi làm mắm để dành ăn quanh năm; còn mùa nắng thì làm chuột, ướp với lá
lốt, đem phơi thực kỹ để làm khô, ăn còn sướng hơn cả khô nai, khô bò, khô cá sặt...
Trăng chiếu vào nửa tấm giường, lung linh bóng lá cây thiên
lý. Xa xa có tiếng chim đêm. Người vợ lim dim con mắt, thả hồn về xứ mộng có giống
chim kêu lên năm tiếng một lần và nói như mơ:
- Anh ơi, nhớ không biết bao nhiêu, yêu không biết chừng nào
những cái rừng lát mà em sinh sống khi còn bé nhỏ. Phải rồi cứ vào cái cữ mưa
này đây, em hay đi xem người ta săn chuột, vui như hội. Anh không thể tưởng tượng
những tay săn đó giàu kinh nghiệm và thông thạo nghề nghiệp của họ đến chừng
nào. Trông một cái bãi có những cây lát ngả nghiêng họ biết là có chuột đi qua,
đi phía nào, làm ổ ở đâu và biết như thế rồi họ đem những cái “đăng” ra giăng mắc
khu vực đó theo hình chữ V, nói một cách khác là họ bủa giăng tứ phía để vây
chuột lại không cho chạy ra ngoài. Ở cuối đăng, họ đặt một cái “lọp” lớn bằng
dây kẽm chế theo kiểu cái nơm đơm cá, miệng lớn lòng nhỏ và có dây kẽm đâm ra
tua tủa để cho chuột đã mắc vào đó thì chỉ có thể thấy cửa tử mà không còn cửa
sinh. Bố trí xong xuôi, họ lấy những cây mía đập giập đầu hay thùng sắt tây
khua ầm ĩ để làm cho chuột hoảng sợ chạy từ phía miệng đăng vào lọp.
Bắt như thế có khi một bọn ba bốn người vớ được dăm bảy chục
con. Nếu không muốn ầm ĩ quá, có người dùng đèn măng xông. Ba bốn người cầm ba
bốn cái đèn măng xông đến nơi có chuột đã được khám phá từ buổi trưa hay lúc trời
chạng vạng: họ chiếu đèn măngxông vào khu vực có chuột làm cho cả một vùng sáng
lóe như thể Mỹ thả hỏa châu để tìm quân địch. Nhưng chuột hơi khác người một
chút: thấy sáng chói chúng sợ hãi nhảy cả ra và bị chóa mắt, không thể chạy
nhanh được nữa, thế là bị bắt hoặc bị chĩa đâm lòi ruột kêu choe chóe.
Nghĩ cũng tài tình: trong tất cả những giống vật có lẽ không
có loài nào khôn ngoan lanh lẹn đa mưu đa kế như giống chuột. Chúng bén nhạy về
đủ mọi bộ phận: đi lại thong thả trong đêm tối mà không vấp té, đó là nhờ hệ thống
râu ria ở hai bên mỏ và phần lông ở đầu dài hơn lông ở mình một chút; chúng
đánh hơi người rất nhạy cũng như các vật mà người ta dùng đánh bả; ngoài ra lại
có một khả năng truyền giao cách cảm rất mạnh, nhờ thế mà chúng báo hiệu cho
nhau nhanh y như thể ra đa mỗi khi trong xã hội của chúng có con bị bẫy, bị
đánh hay ăn phải bả. Hội đủ ngần ấy ưu điểm chuột có thể xâm lăng loài người dễ
như bỡn, ấy thế mà rút cuộc chúng vẫn bị loài người chế ngự và đặt dưới cái
ngàm nô lệ. Ấy là vì người ta đã tìm biết được một khuyết điểm của loài chuột về
thị giác.
- Nói giỡn sao, em? Thấy thế nào mà lại dám bảo chuột yếu về
thị giác?
- Ai chẳng tưởng mắt chuột lồi ra và đen lay láy như thế là
tinh, chả thế mà các cụ vẫn nói “mắt cứ tho ló như mắt chuột”. Ấy vậy mà tho ló
là một chuyện mà yếu lại là chuyện khác. Người nhà quê không hiểu sống vì kinh
nghiệm hay đọc sách cổ xưa nào không biết, quả quyết rằng cái tầm mắt của loài
chuột tương đối ngắn và hẹp và điểm đặc biệt nhất, ly kỳ nhất, là mắt của chúng
chỉ nhìn được theo một chiều, không thể lúng la lúng liếng, liếc dọc liếc ngang
như những cô gái và chàng trai đĩ bợm.
Biết đúng khuyết điểm ấy, những người săn chuột bằng chĩa
không bao giờ tiến đến phía chúng từ đằng trước mặt. Nhưng dùng chĩa đâm chuột,
không ham mấy. Bắt sống chuột là điều đáng kể hơn. Muốn bắt sống, cũng không mấy
khó: họ dùng chó để bắt hơi hang nào có chuột nhiều. Biết được “tổ chấy” rồi, họ
đào hang, chú nào hoảng nhảy ra thì chộp liền cho vào lồng bằng dây kẽm. Tuy
nhiên, thường thường người ta không đào hang làm gì cho mất công: tìm được một
hang chuột rồi, chỉ một người và chỉ một người thôi cũng có thể bắt được hàng
dăm chục chuột. Họ lấy miệng hang làm căn cứ, rồi từ đó đi tìm các ngách bịt
kín lại và chỉ để lại một ngách thôi. Đoạn, họ lấy rơm ẩm chất ở miệng hang đốt,
un khói và quạt cho khói lùa vào trong hang đánh một trận hỏa mù quyết liệt. Ngồi
chờ ở miệng ngách quả nhiên chỉ một lúc thì thấy chuột bố, chuột con, chuột bô
lão, chuột nhi đồng, lốc nhốc bò ra vì không thể nào chịu nổi khói nó làm cho
chảy nước mắt nước mũi hắt hơi tức thở như công lực thả lựu đạn cay vào những
người biểu tình chống độc tài áp bức.
Anh ơi, anh ơi, muốn nói cách mấy đi nữa anh cũng không thể
nào quan niệm được cái tài săn chuột của người nhà quê với tất cả sự thâm hiểu
về đặc tính vật lý, về đời sống, về tập quán và bản năng phản ứng của họ về
loài chuột.
Chuột có thể sống lâu nhất chừng ba hay bốn năm, nhưng thường
thường là không thọ nổi quá một năm nếu sống ở ngoài đồng ruộng bởi vì chúng phải
đối đầu với những bất trắc và điều kiện không thuận lợi về thời tiết và khí hậu.
Em nhớ có một lần có một công kỹ nghệ gia tên Hồng Đức Tồn đã về vùng em ở để
nghiên cứu về nghề nuôi chuột lấy thịt ăn theo khoa học, như ta nuôi gà Mỹ hay
nuôi chim cút. Theo ông ta thì thường một con cái sống với một con đực chớ
không chơi bậy bạ, như đa số người ta. Khi con cái từ một tháng rưỡi đến năm
tháng thì nó chịu đực và có thể sanh sản để truyền tử nhược tôn. Thời gian từ
khi thụ thai với con đực cho tới khi sinh đẻ, khoảng chừng hai mươi mốt ngày và
trung bình mỗi lứa con cái sanh được tám con. Mỗi năm một con cái có thể sanh bốn
bận.
Tám con chuột con thường gồm bốn đực và bốn cái. Ma thuật ái
tình lại quay lại cái vòng truyền thống: từ một tháng rưỡi đến bốn năm tháng,
tám cập này lại hạ sanh mỗi cập tám con, tám tám sáu mươi tư, tựu trung một con
chuột cái tính sơ sơ một năm cũng cho ra đời được khoảng ba bốn trăm chuột con
chuột cháu, chuột chút và chuột chụt. Tuy nhiên, không phải chuột bất cứ ở vùng
nào cũng sinh sản theo mức độ nói trên. Có những vùng khí hậu thích hợp, thức
ăn dễ dàng, chuột sanh sản nhiều hơn nữa, nhưng trái lại có những vùng khó kiếm
ăn thì tương đối đẻ ít hơn: chỉ đẻ khỏe vào mùa mưa còn mùa nắng thì cai đẻ
(không biết bằng thuốc ngừa thai hay theo phương pháp Ogino-Knauss?).
Em còn nhớ có một lần đi xem hun chuột, em đã thấy có người bắt
được cả một ổ gồm hai vợ chồng và mười ba con đỏ hon hỏn, chưa mở mắt. À này,
ngoài Bắc có biết điều này không nhỉ?
Người vợ nằm sát lại gần chồng hơn và nói nhỏ như tiết lộ một
bí mật gì ghê gớm lắm:
- Chuột con, chưa mở mắt, ngâm rượu, hạ thổ bách nhật trị hết
bịnh suyễn đấy. Anh có biết thế không?
- Không. Nhưng hình như đã lâu lắm lắm rồi, anh có đọc một
bài báo Pháp của một nguyên Đại sứ Tây Ban Nha viết về những con chuột bao tử,
những con chuột mới ra đời chưa mở mắt.
- Họ có nói rằng những con chuột đó trị khỏi chứng hen suyễn
như em vừa nói phải không?
- Không. Dùng chuột để chữa bệnh, chắc là người Âu Mỹ chưa biết
và có lẽ lúc này họ còn đang nghiên cứu. Chuyện chuột bao tử đây thuộc về phạm
vi ăn uống.
- Trời ơi! Người Âu Mỹ cũng ăn thịt chuột hay sao?
- Để yên cho anh nói, em thương ạ. Nguyên Đại sứ Tây Ban Nha
mà anh vừa nói đó, lúc ấy làm Đại sứ ở Trung Hoa, dưới triều Mãn Thanh. Hoàng đế
Trung Hoa, Tây Thái Hậu có một lần mời đại diện của mười tám nước Âu Mỹ đến dự
một bữa tiệc độc nhất vô nhị, không tiền khoáng hậu. Dự bữa tiệc ấy về, ông ta
viết một hồi ký dầy bằng một cuốn sách, thuật lại từ cách tổ chức, trưng bày, lề
lối thù tiếp, ăn uống cho đến chi tiết các món ăn mà người đầu bếp của nhà vua
đã nghiên cứu và nấu nướng để cho quan khách thưởng thức trong hồi hộp, kinh
hoàng, và tán thưởng liên tiếp suốt cả tuần - là vì bữa tiệc ấy kéo dài trong
suốt cả tuần, chớ sao! Ăn uống say sưa rồi, ai muốn ngủ có phòng riêng và người
đẹp như tiên hầu hạ; ai có công việc phải đi, cứ tự nhiên rồi lại về ăn; còn ai
muốn đánh bài, ăn thuốc, thì sang một khu riêng có đủ các thứ “tệ đoan xã hội”
cứ dùng thả cửa rồi lại quay về mà ăn uống, ăn uống thế nào kỳ cho thích khẩu
thì thôi. Vì đọc thiên hồi ký đó trên dưới hai mươi năm nay rồi, anh không thể
nhớ hết chi tiết các món ăn lạ nhất, quí nhất và ngon nhất thế giới để kể lại
cho em thương; chỉ nhớ trong các món ấy có một món kêu là sâm thử. Sâm là cây
sâm, thử là chuột, sâm thử là chuột sâm.
- Kỳ, sao lại có thứ chuột gì là chuột sâm?
- Nguyên Đại sứ Tây Ban Nha thuật lại rằng đến món ăn đặc biệt
ấy thì có một ông quan đứng lên giới thiệu trước rồi quân hầu dưng lên bàn tiệc
cho mỗi quan khách mỗi cái đĩa con bằng ngọc trong có một con chuột bao tử chưa
mở mắt, đỏ hon hỏn hãy còn cựa quậy - nghĩa là một con chuột bao tử sống. Bao
nhiêu quan khách thấy thế chết lặng đi bởi vì nếu phải theo giao tế mà ăn cái
món này thì... nhất định phải... trả lại hết những món gì đã ăn trước đó. Mọi
người nhìn nhau. Tây Thái Hậu cầm nĩa xúc con chuột bao tử ăn để cho mọi người
bắt chước ăn theo. Con chuột kêu chi chí, người tinh mắt thấy một tia máu vọt
ra... Hoàng đế Trung Hoa thong thả vừa nhai vừa suy nghĩ như thể muốn kéo dài
cái thú ăn tuyệt diệu ra để cho cái thú ấy thấm nhuần trí óc và cơ thể. Và Ngài
nói: “Mời chư vị”. Nhưng không một vị nào đụng đũa, cứ ngồi đơ ra mà nhìn. Tây
Thái Hậu bèn cười mà nói đùa: “Tôi tiếc không thấm nhuần được cái văn minh Âu Mỹ
của các ngài, nhưng riêng về cái ăn thì tôi thấy quả các ngài chậm tiến, không
biết cái gì là ngon là bổ. Về món đó, các ngài có lẽ còn phải học nhiều của người
A Đông”.
Không một ông nào trả lời vì có lẽ các ông đại diện ấy đến
lúc ấy đều bán tín bán nghi không biết ăn chuột bao tử như thế là văn minh hay
man dã. Tuy nhiên người ta có thể chắc chắn là chưa có một nước nào trên thế giới
lại có một món ăn tinh vi, quí báu, cầu kỳ đến thế bao giờ. Chuột mới đẻ đem
nuôi trong lồng kính cho ăn toàn sâm thượng hảo hạng và uống nước suối, đến khi
đẻ ra con thì lấy những con đó nuôi riêng cũng theo cách thức đó để cho sinh ra
một lớp chuột mới, nhưng lớp chuột mới này vẫn chưa dùng được. Cứ nuôi như thế
đến đời thứ ba, chuột mới thực là “thập toàn đại bổ”, người ta mới lấy những
con chuột bao tử của thế hệ mới này ra ăn và ăn như thế tức là ăn tất cả cái
tinh hoa, bén nhạy, khôn ngoan của giống chuột cộng với tất cả tính chất cải
lão hoàn đồng, cải tử hoàn sinh, tráng dương bổ thận của cây sâm vốn được y lý
Đông Phương đặt lên hàng đầu thần dược từ cổ chí kim trong trời đất.
- Nói nghe mà bắt rùng mình. Thế cái ông ngoại giao đó có nói
trong đại diện mười tám nước Âu Mỹ có ông nào dám ăn cái món sâm thử đó không?
- Chính cái ông Đại sứ Tây Ban Nha nhắm mắt lại thử ăn nhưng
ông thú thực rằng vừa cho vào miệng cắn một cái thấy chuột con kêu chi chí, ông
ta vội vàng chạy ra ngoài, lè ra, và một tháng sau còn sợ. Sau này, đem câu
chuyện đó nói với mấy vị đông y sĩ, ông ta biết rằng người Âu Mỹ không biết ăn
món ấy quả là “chậm tiến” và mấy ông già còn cho biết thêm rằng chuột thường
nuôi bằng sâm đã bổ hết sức rồi, nhưng nếu tìm được giống chuột chù mà nuôi bằng
sâm theo cách thức nói trên thì còn bổ gấp trăm lần nữa.
- Bộ anh giỡn em sao? Ăn chuột chù? Thế anh có biết cái giống
chuột chù ra sao không đã?
- Biết quá rồi. Hôi nhất trong giống chuột là giống chuột chù
chứ còn gì! Nó xấu: mõm dài, mắt mù dở, đi đứng chậm chạp, lông xam xám tiết ra
từ đàng xa một mùi hôi rình rình chỉ ngửi thôi cũng đủ buồn nôn lộn mửa rồi,
còn nói gì ăn thịt. Ấy thế mà sách Tàu lại nói rằng thịt chuột chù ăn ngon hơn
cả các giống chuột khác. Riêng anh lúc còn ở Bắc đã có lần nói chuyện ăn thịt
chuột với một nhà sư trẻ tuổi cùng học với anh ở trường sơ đẳng. Nhà sư ấy quả
quyết đã nhiều lần ăn thịt chuột chù và cam đoan rằng giống chuột chù sở dĩ hôi
chỉ là vì bộ lông, nếu thui thật cẩn thận, lột da, cạo kỹ thì thịt nó ngọt và
thơm kinh khủng, có lẽ không có một thứ sơn hào hải vị nào sánh kịp. Mà lại có
tiếng bổ dương ích khí còn hơn cả hải cẩu và cao hổ cốt!
Nửa đêm về sáng, sương rơi tí tách trên lá hoa thiên lý.
Trăng lu đi. Mây bay nặng nề báo hiệu một cơn mưa. Chồng bảo vợ:
- Thôi, vào đi. Nằm sương lắm nặng mình không tốt.
Vừa lúc đó, có tiếng chuột reo ở đàng sau cánh cửa. Nằm trên
nệm trắng, xõa hàng tóc đen ra, vợ mới hỏi chồng:
- Hôm qua, chuột lắt reo, hôm nay chuột lại reo nữa. Chắc là
nhà có khách hay là sắp phát tài cái gì đây.
- Đâu có! Chuột lắt reo không phải tin có khách hay phát tài
như người ta vẫn tưởng đâu.
- Thế thì báo điềm gì?
- Báo một điều tốt lành hơn thế nhiều. Báo điềm em sắp có
con.
Người chồng nằm sát lại gần vợ hơn, nắm lấy bàn tay vợ và hít
vào bộ ngực thơm thơm mùi hoa thiên lý. Mưa bắt đầu rơi. Gió lạnh tê tê. Vợ nửa
say nửa tỉnh, nói khẽ vào tai chồng:
- Này anh, không biết người bạn anh nói thịt chuột chù bổ
dương ích khí có thực không? Nếu quả thực, em sẽ kiếm giống đó anh ăn thường
thường và anh nhớ cho thằng cu một đứa em nữa nhé, để nó ngủ một mình buồn, tội
nghiệp!.
Muốn cách gì đi nữa, tôi yêu thì tôi cứ bảo là tôi yêu. Yêu
Sài Gòn quá, Sài Gòn ơi, bởi vì Sài Gòn là trời hoa, đất rượu.
Rượu uống bất cứ loại nào, bất cứ ở đâu, bất cứ giờ nào. Uống
cho kỳ “đã” thì thôi.
Tôi yêu Sài Gòn là vì rượu ở đây “đã” lắm, rượu đậu nành; rượu
Vĩnh Tồn Tâm; rượu thuốc uống vào không tê thấp, khỏi đau gan, khỏi sình ruột;
rượu đế; rượu côngsi; thế rồi lại còn nào là whisky, cognac, nào là rượu Minh Mạng
“nhất dạ lục giao sinh ngũ tử”, rượu dâu, rượu nếp than..., trăm thứ bà rằn rượu...
uống vào đã mát cả ruột gan, lại có bao nhiêu thứ nhắm diệu kỳ, hỏi làm sao
không hả?
Này, anh cứ thử cắt một miếng bần hay miếng cốc, chấm tí ti mắm
ruốc, đưa cay, có phải sướng cái ông thần khẩu quá lắm không? Khế, ổi xanh, củ
kiệu, ba con tôm khô hay vài cái xương “xí quách”, ấy thế là ta đã có mấy thứ
nhắm lý tưởng; để làm cho nổi bật lên cái vị của “chất nước có men” lên rồi.
Anh giơ cái ly lên mời bạn “Dô!” rồi há hốc miệng ra “ngưu ẩm”. Anh tự nhủ:
“Ngày xưa, Đỗ Phủ, Lý Bạch uống rượu cũng chỉ ”pho" đến thế là cùng".
Và có lúc tự anh không nói ra nhưng nghĩ thầm trong bụng “anh là trích tiên,
không biết ở trên thiên cung có tội gì mà bị đầy đọa ”trần ai" nơi hạ giới,
khổ đến thế này, chớ với cái tài và cái đức của anh, nhất định là phải nắm cổ
thiên hạ mà vật ngã xuống đất đen, cấm không cho đứa nào được cất đầu lên để
hít thở cái không khí dành cho các siêu nhân - mà chính anh là một". “Dô”
nữa đi, các bồ! “Dô”!
Rượu tốt, đồ nhắm lại ngon, uống cả ngày cả đêm không chán.
Nhắm mãi củ kiệu, tôm khô, trái cốc, bưởi, xoài và mít chán rồi, ta lại gọi “lỗ
tai heo”, bì cuốn, hay vài chục đồng phá lấu chấm với “lạp chíu chương”... Món
nhậu gì cũng “ba chê”, ấy thế mà bao nhiêu thứ đó đều không có “ki-lô” nào cả đối
với một món nhậu không tiền khoáng hậu là khô. Có khô đi với rượu, rượu mới thực
là tuyệt đã!
Thế thì không có biết khô là gì không, hỡi ông bạn Bắc Kỳ
thân mến?
Khô không phải là một hình dung từ, nhưng là một danh từ; khô
là một biến thể chớ không phải là một trạng thái; khô là một thực tế chớ không
phải là một phương pháp.
Không có một người nào trong chúng ta dạo trên những vỉa hè
thành phố Sài Gòn lại không từng thấy những ông mặt nghiêm nghiêm như suy nghĩ
rất lung về thế sự nhân tình, nâng ly rượu lên uống và đưa cay một con tôm kèm
củ kiệu. Con tôm đó chỉ là một hình thức của khô. Nó là một thí dụ rất nghèo
nàn mà người viết bài này bất chợt nêu ra, chớ thực ra khô không phải là một
món ăn, nhưng là cả một hệ thống phì nhiêu, gồm những miếng ngon vật lạ thiên
hình vạn trạng...
Thực vậy, ăn cóc thì chỉ có cóc thôi, ăn lươn chỉ có lươn
thôi, ăn ếch chỉ có ếch thôi. Nhưng ăn khô thì là ăn không biết bao nhiêu thứ,
vì ở đời này có bao nhiêu sinh cầm, gia súc ăn được thì tức là có bấy nhiêu khô
chờ đợi ta. Nhưng khô mà được người ta thưởng thức, tôn thờ và quí mến nhứt, đó
là khô tôm và khô cá. Ở đây, phàm ai đã cầm một cốc la-de đưa lên miệng, thẩy đều
đã biết khô tôm; ở ngoài Bắc, những hôm mưa dầm gió bấc, chúng ta cũng đã từng
dùng món đó để đưa cay, nhưng không có gì lạ lắm mà cũng không... phổ cập.
Lạ là khô cá. Cái thứ mà ta vẫn gọi là cá mắm khô, bán từng
ký, từng tạ, cái thứ cá mắm khô mà mỗi khi ta qua ngõ Phất Lộc, Hàng Mắm ở Hà Nội,
vẫn xông ra một mùi tanh tưởi, đến nhức đầu, buồn nôn, ở đây đã thành ra một
món ăn rất phổ thông, không đắt tiền lắm, nhưng được thưởng thức đáo để là thưởng
thức.
Trước khi có chiến tranh, thường người ta chỉ thấy lơ thơ một
ít người đàn bà ngồi dưới cây đèn bán khô. Tất cả vốn liếng của họ chỉ là một
cái mẹt trên có một ít khô mực, khô cá đuối, khô cá nhái, khô cá tra, khô cá mặn;
kèm vào đó, một hòn đá và một cái hỏa lò nho nhỏ bằng đất hay bằng một hộp
“bít-quy” trên có một cái “mành”. Khách qua đường lên cơn ghiền, kêu một ly “ba
xi đế” hay một ly rượu thuốc và một miếng khô. Người bán hàng lấy một miếng,
tùy theo ngón tay anh chỉ, để lên trên mành sắt, nướng phồng rồi đặt lên hòn
đá, lấy búa đập cho khô giập mặt. Như thế, nó mềm. Khách nhậu lấy ngón tay nhón
miếng khô, nhai bỏm bẻm như Mỹ nhai kẹo cao su, ực một hơi rượu, rồi móc túi trả
tiền đi thẳng, không có đôi hồi gì hết.
Ấy đấy, trước kia, dưới mắt tôi, người ta ăn khô như thế đấy.
Nhưng bây giờ ở Sài Gòn thân yêu, kinh tế liệt giường liệt
chiếu, người dân ít tiền không dám tự thưởng những món nhắm sang, tôi thấy kỹ
nghệ ăn khô tiến bộ vượt bực, cùng với nghệ thuật nhậu nhẹt: ngoài la-ve, ba xi
đế, bây giờ người ta rủ nhau uống bảy mươi hai thứ rượu thuốc khác nhau, mười bốn
thứ rượu mạnh “lô canh”, rượu cắc kè, bìm bịp, thì cố nhiên khô để nhắm rượu
cũng phải phát triển tới mức tối đa của nó.
Người ta đội thúng đi bán khô, quảy gánh đi bán khô, mở tiệm
bán khô. Buồn không biết làm gì, mở một cái “ba” có đủ các thứ khô để chiều thị
hứng của người ta; ngồi nhà hát cũng có trẻ đem khô vào mời; quán cà phê có ca
nhạc và “sô” cũng để một cái tủ kính bán khô chấm với chanh muối hay là tương ớt.
Ối, còn nói gì đến các quán ở ngoại ô như Tân Thuận, Lồ Ồ, Xóm Mới, Đồng Quê,
Bình Lợi: trên là trời, dưới là khô; trông cứ hoa cả mắt, không biết ăn thứ
nào, bỏ thứ nào!
Tựu trung, khô có thể phân ra làm hai loại chính là khô cá và
khô thịt. Hai loại này lại chia ra làm nhiều phân bộ.
Về loại cá, có khô đồng và khô biển.
Về loại thịt, có khô gia súc và khô dã thú.
Khô đồng là cá đồng phơi khô, như khô lóc nói, khô thòi lòi,
khô tra, khô sặt, khô bống kèo... Khô biển là cá biển phơi khô, như khô gộc,
khô khoai, khô nóc, khô chim, khô đuối, khô nục, khô nù...
Ai ăn khô cá luôn thấy ngán thì có khô thịt. Khô thịt, cũng
như khô cá, chia ra làm hai loại: loại gia súc và loại dã thú. Trong loại gia
súc, có khô trâu, khô ngựa, khô bò... Người mình không làm nhiều khô vịt, khô
gà, khô heo như “các chú”, nhưng ăn lạ miệng có khô cóc, khô nhái, khô ếch, khô
lươn, khô chuột...
Lạ miệng hơn một tầng nữa là khô dã thú, có khô nai, khô beo,
khô tê, khô khỉ, khô cọp. Thứ khô sau cùng này bán tới 80 đồng một ký hồi
1954-1955, ăn chơi cho lạ miệng, chứ thực ra dai cứ như là chão rách, mà lại
khai, chẳng ra cái chết gì. Người ta bảo rằng khô này trị được ban trái, quý gấp
trăm thịt cọp tươi, viện lẽ khô thụ khí âm dương và lúc phơi khô đã lãnh được
nhiều “tia trong đỏ, tia ngoài tím” của mặt trời. Thôi, thì cứ tin đi là thực
cho cả làng cùng vui. Đúng hay không đúng, cái đó để hạ hồi phân giải. Duy chỉ
biết rằng ăn cái khô này, theo lời các cụ già, phải cữ thịt gà và măng tre;
không thế, sẽ sinh ra “dòi trong bụng”. Có lẽ vì thế ít có người ham khô cọp.
Khô đuối ăn dai khẹc, để lên thớt lấy búa đập cũng vẫn dai.
Khô thòi lòi ăn bã bà bà. Khô lóc nói, ăn đoảng vị. Bằng vào những nhận xét của
người sành khô thì ngon nhất là khô chim, khô gộc, khô thiều, khô khoai, khô sặt.
Gặp một buổi chiều rảnh rỗi, ngồi ở cửa sổ trông ra trời nước mênh mông, mà
lòng lại rầu rầu một tí, sầu sầu một tí vì nhớ đến người yêu bạt ngàn mây khói,
anh nâng một ly rượu “độc ẩm”, nhắm một miếng khô lăng-trình nướng vừa chín tới,
anh sẽ cảm thấy như mình đã trả được thù đời. Anh nhai khô, cho rượu và khô
“liên hiệp” với nhau, “hòa đồng” với nhau, tạo thành một vị the the, ngọt ngọt;
anh sẽ thấy thế là... hết, ở đời không còn gì đáng kể nữa, “đời đã hại mình thì
mình vui với rượu và khô: đỡ quá!”.
Nhưng dù là khô tra, khô lóc hay khô lăng trình; dù là khô
nai, khô cọp hay khô ngựa mà nhắm rượu thì cũng không nên dùng mặn. Nhậu, phải dùng
khô lạt. Rượu tốt mà điểm một miếng khô lạt vào, mới cảm được hết cả cái ngon
mùi mẫn của khô, cái ngon thấm thía, cái ngon chan chứa không biết bao nhiêu dư
vị. Nó thơm, mà bùi, hơi ngầy ngậy mà lại mặn, mà lại ngọt như nước mắm nhĩ,
nhai mãi không biết chán.
Có ai một chiều nào nhàn tản trên con đường Pasteur, ở ngã ba
Lê Lợi, có thấy hàng toán người tề tựu ở trước chùa Chà như dự một cuộc mết
tinh vĩ đại? Không, họ không phản đối gì hết mà cũng chẳng yêu cầu gì hết. Khẩu
hiệu của họ căng lên ở trong lòng: họ ăn, họ uống, và uống và ăn để làm thỏa
mãn cái dạ dầy nhiều đòi hỏi. Có người đứng ăn; có người ngồi ghế ăn; có người
ngồi ở xe máy dầu gác chân lên hè để ăn; có người ngồi xổm trên hè để ăn; lại
có người hãm xe hơi lại, thò đầu ra ngoài kêu ăn. Họ ăn gì vậy? Ăn bánh tôm; ăn
bì bún; ăn bánh mì phá lấu; ăn ốc; ăn bánh canh giò heo; nhưng muốn gì thì gì,
món được người ta thưởng thức nhiều nhất, nồng nhiệt nhất và thành tín nhất vẫn
là món đu đủ bào, rưới rất nhiều dấm ớt lên trên.
Ở cái đất quanh năm nắng chói như đây, tạng người ta nhiệt lắm,
lòng lúc nào cũng cứ xót như cào: ăn cái món ấy vào mát ruột. Các ông ưa quá,
mà các bà các cô lại ưa hơn; ăn một đĩa rồi lại muốn ăn đĩa thứ hai, thứ ba...
thứ sáu... Chính tôi đã thấy có một bà ăn chơi sơ sơ một lúc sáu đĩa như thế rồi
xuýt xuýt xoa xoa, chảy cả nước mắt nước mũi mà có vẻ như vẫn còn thèm ăn nữa. Ờ,
cái món đu đủ bào, trộn dấm ớt đó là gì vậy? - Thưa, đó là khô bò. Đu đủ bào,
trên đặt mấy miếng khô bò, tưới giấm ớt rồi rắc mấy lá ngò lên trên... đó, chỉ
giản dị có thế thôi, vậy mà ăn vào... phải biết! Ngon chết người đi được!
Tôi giận làm sao cái khô bò, chế hóa thần tình như thế, ăn
vào đã lạ miệng, lại lành (tuy có vẻ hơi dơ chút xíu!), mà cớ làm sao trong bao
nhiêu năm trời, người ta không nghĩ khuếch trương món đó, chế ra đu đủ bào, pha
giấm ớt và trộn với khô cá, khô nai, khô heo rừng? Chưa biết chừng chế hoá khô
thành một món như thế, ăn còn ngon hơn nữa, và người nào xung phong làm các loại
khô ngâm giấm ớt như thế sẽ hóa ra “vua khô đóng hộp” theo văn hóa đồ hộp của Mỹ,
chưa biết chừng...
Trong khi chờ đợi ngày vinh quang đó, khô hãy tạm sống cái đời
sống chật hẹp trong phạm vi quốc nội. Ngoài việc dùng nhậu nhẹt, khô còn được
người ta dùng làm các món ăn khác, tuy là để xài hàng ngày, nhưng lúc nào cũng
tạo ra được những mùi vị mới, lạ hơn. Mỗi món ngon một cách, cũng như mỗi cô
gái xinh một vẻ, biết kể món nào trước, món nào sau bây giờ?!
Đặc biệt Sài Gòn, có lẽ là món gỏi. Cô muốn dùng gỏi khô sặt,
gỏi lăng trình hay gỏi cá nước, cá lo? Xin tùy sở thích. Miễn là trước khi ăn,
phải sửa soạn cho đủ gia vị, thiếu một thứ thì kém ngon ngay. Dưa leo, đào lộn
hột, rau răm, thịt ba chỉ, xoài sống; mấy thứ đó đặt vào trong một miếng bánh
tráng đã nhúng sẵn vào nước cho mềm; ở giữa đặt mấy miếng khô đừng mỏng, đừng dầy,
không to, không nhỏ; thế rồi cuốn tất cả lại, chấm thật đẫm giấm ớt, vừa chua vừa
mặn, hơi cay hơi ngọt. Chà, mát ruột làm sao! Có ai sợ bánh tráng và đào lộn hột
ăn đầy, có thể dùng giản dị đi một chút mà vẫn thấy “thú vị tơ”: ăn khô với rau
diếp cá, gia thêm vài khoanh trứng luộc, rưới tương trộn đậu phọng ghiền nhỏ,
pha thêm chút giấm và điểm vài nhánh tỏi.
Giản dị hơn một bực nữa là xoài tượng thái từng lát nhỏ kẹp với
một miếng khô ăn. Có lẽ ăn như thế để tỏ rằng riêng khô cũng đã ngon quá mất rồi,
không cần phải thêm gia vị làm gì cho phiền phức, nhưng đành vậy, ăn như thế
cũng chưa tỏ được cái ngon “độc lập” của khô bằng những ông ở Hậu Giang, buổi
sáng, thắp một ngọn đèn dầu lên uống nước trà, vừa uống nước, vừa nhắm khô bỏm
bẻm...
Ăn như thế là ăn theo kiểu “bốn món ăn chơi” của Tầu. Ăn như
thế với cơm cũng được đi, nhưng không mấy thú. Muốn cho ngon thì nên xắt khô ra
cho vào tô, chưng lên với mỡ, gia thêm củ hành và đường; chín tới, bắc ra ăn với
rau sống, chuối xanh; cơm nóng với khô chiên vừa vặn “ăn thùng bất chi thình”.
Người Đức, người Nhật ăn thịt, ăn cá vẫn thường cho đường vào như thế đấy và bảo
giầu chất pờ-rô-tít và li-pít lắm.
Ai cho thế là lợ thì nấu kiểu xiêm lọ: khô rửa sạch, thả vào
nước sôi, đun, rồi cho con mẻ nhồm bắp chuối, bỏ rau om, ngò, chua, lá quế, đợi
chín thì bắc ra ăn, như kiểu cá om với đậu ván ở Bắc: ngon quá xá, có phải thế
không, cô?
Bên ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, vợ bới thêm một chén cơm
nữa cho chồng:
Cơm trắng ăn với khô khoai,
Chồng hòa vợ thuận, ăn hoài quên no
Cứ gì phải ăn vây, yến, bào ngư, gân hươu, tống cú. Cứ gì phải
ăn bí-tết, lăng-gút bỏ lò, gà sữa, “cana ôsitông”, “cátsulê medông” mới được.
Vào khoảng tháng bảy, tháng tám, ở miền Nam nước Việt thường
hay có bão rớt: tự nhiên trời đương nắng bỗng sa sầm hẳn xuống, rồi gió, rồi
mưa, rồi vừa mưa vừa gió, như đổ cửa, đổ nhà đến nơi.
Gặp những buổi gió thảm mưa sầu như thế, hạ bức châu liêm xuống
mà vặn ngọn đèn hồng lên, cô thủng thẳng kể cho chồng nghe cách làm khô ở
“trong này” thì bữa ăn càng nổi vị:
- Làm cái khô này cũng công phu lắm, anh à. Về khô đồng,
không có gì lạ lắm, cũng như khô thịt vậy; nhưng làm được cái khô biển, quả là
tử công phu. Ờ, hôm nào rảnh, vợ chồng mình về Rạch Giá thăm ngoại, em sẽ đưa
anh đi xem làm khô biển, vui đáo để.
“Một buổi chiều kia, đứng trên bờ biển trông ra muôn trùng
mây nước, anh sẽ thấy có những đoàn thuyền lớn, nhỏ tiến vào trong bến, y như
những thuyền mơ trong bài hát giao duyên.
“Đó là những thuyền đánh cá ở xa về. Thường thường, thuyền
nào cũng đầy nhóc cá. Em là con nhà nghèo, sinh đẻ trên sóng nước, nên lúc nhỏ
không có ngày nào em không có mặt lúc các thuyền đánh cá trở về, để chuyển cá
lên bờ giúp người ta lấy bữa ăn và mót cá về cho gia đình dùng đỡ khổ.
“Ở miền duyên hải, rau cải thiếu thốn, người ta hàng ngày chỉ
sống ròng với cá thì trời thương, biển lúc nào cũng thừa cá để nuôi người, cũng
như mẹ hiền lúc nào cũng có sữa cho con bú. Thôi thì đủ các phân loại, các hình
thức, các kích thước, không thể nào tưởng tượng được: có cá cưa, có cá điện, có
cá sư, có cá lép, lại có thứ cá người - bởi vì mặt mũi nó y hệt người ta vậy...
- Ủa, có cá người? Vậy ra người ta không đánh lừa anh sao?
- Anh nói gì? Ai đánh lừa anh và đánh lừa gì vậy?
- Phải, anh ta cứ tưởng là người ta đánh lừa... Người ta đây
là một nhà văn Y tên là Curzio Malaparte.
- Anh nói gì, em không hiểu.
- Em cứ yên, để anh kể đầu đuôi câu chuyện cho mà nghe. Hồi
còn ở bưng ngoài Bắc, anh có đọc một cuốn hồi ký nhan đề là “Làn da” (La peau)
của nhà văn sĩ nói trên, trong có chừng mươi lăm kỷ niệm diễn ra hồi thế chiến
thứ nhì kết thúc, quân đội Đồng minh đến giải phóng cho nước Y bị “chà đạp dưới
gót của độc tài phát xít Mussolini”. Đại diện cho Đồng minh lúc ấy có ba vị anh
hùng ghê gớm: Roosevelt, Staline và Churchill.
Được cái hân hạnh độc nhất vô nhị trên đời là được tam anh đến
viếng thăm để đánh dấu ngày giải phóng cho dân tộc Y, tân chánh phủ Y do Đồng
minh chỉ định ngầm mặc dầu tan tác xác xơ vì bom giải phóng của Đồng minh, mặc
dầu kiệt quệ không còn đủ cơm mà ăn, đủ áo mà mặc, mặc dầu xác người vẫn còn chất
đống lên ở ngoài đường vì được xe tăng giải phóng đè lên bẹp dí như tờ giấy,
cũng cố gắng treo đèn kết hoa, lấy hơi tàn ra hét lên những khẩu hiệu “Đồng
minh muôn năm! Quân đội giải phóng muôn năm!”.
- Anh càng nói, em lại càng không hiểu.
- Thì anh đã nói hết đâu! Tân chính phủ Y, lúc ấy quả là sống
trong cái chết, nhưng cứ phải theo đúng nghi lễ văn minh, tổ chức một bữa tiệc
sang trọng để thết các vị anh hùng giải phóng cho nước Y đáng thương. Nhưng muốn
cho bữa tiệc sang trọng, lấy gì ra để mời ăn bây giờ? Sau một cuộc thảo luận
kéo dài một buổi chiều và một nửa đêm, các nhà tân hữu trách Y quyết định: nước
Y, đến khi được giải phóng, không còn một cái cóc khô gì cả, trừ một hải học viện
nuôi toàn các giống cá quí kỷ niệm của các Tổng thống Mỹ, Thủ tướng Anh, Pháp,
Nga... lúc Y còn là đồng minh của họ.
Các nhà hữu trách Y bèn cho bắt một ít cá quý nhất trong hải
học viện để làm tiệc đãi các vị anh hùng giải phóng. Sau mấy món ăn chơi, nhà bếp
bưng ra một cái đĩa to bằng một cái giường trẻ con, hình bầu dục, do hai người
khiêng lễ mễ. Đĩa trắng bóng, chung quanh là hành lá, ớt, rau cải bầy mỹ thuật
như là một thảm cỏ xanh. Hai người trịnh trọng đặt lên bàn. Quan khách liếm môi
vì món ăn hứa hẹn. Ở giữa đĩa có một con cá rất to. Mọi người giương mắt lên
chưa kịp nhìn thì ở đầu bàn, một bà người Mỹ, bí thư của Tổng thống Roosevelt
hét lên một tiếng rồi ngất xỉu trên bàn tiệc. Mọi người đổ xô lại cứu. Đến khi
bà Mỹ kia tỉnh lại thì bà chỉ giơ tay ra hiệu không nói được. Sau mãi, hỏi ra mới
biết là bà sợ... bà kinh tởm... bà gớm ghiếc cái con cá quý mà tân chánh phủ Y
đã trịnh trọng làm thịt để mời đồng minh xơi. “Cất ngay đi... tôi không thể
trông thấy con cá này đâu... chính là người ta đã làm thịt người cho chúng ta ăn...
thịt một đứa con gái nhỏ... Phải, không phải là cá... đây chính là một đứa con
gái nhỏ”.
Malaparte, cũng ngồi dự bữa tiệc lịch sử ấy, lễ phép đứng dậy
trình bày:
- Thưa quý vị, thưa quý bà, tôi nhất định đây là con cá.
Chúng tôi gọi nó là cá người (nhân ngư). Nó là con cá quý nhất trong hải học viện
của nước chúng tôi. Nước chúng tôi trải qua một cuộc chiến tranh nhơ bẩn, thực
quả không còn gì hết, chỉ còn có con cá này là quí nhất nên chúng tôi tâm thành
đem làm thịt để thết các ngài là những vị anh hùng lịch sử đã đem bom đạn đến
diệt phát xít để giải phóng cho đất nước khốn nạn của chúng tôi... Xin mời các
ngài xơi thử...
Bà bí thư người Mỹ giẫy lên đây đẩy:
- Không, nhứt định không. Đây không phải là con cá. Đây chính
là người, một đứa bé con mà họ giết thịt để mời chúng ta ăn.
Muốn giải thích cách gì cũng không thể được, nhà văn
Malaparte bèn đề nghị đem vứt đi cho người dân Y bị đói khổ vì chiến tranh lấy
mà ăn, nhưng bà bí thư Mỹ cũng vẫn không chịu: bà bắt phải làm một cái nghĩa địa
để chôn con cá.
Nhà văn Malaparte cười mà nước mắt chảy ròng ròng, chắp tay lại
thưa lên:
- Thưa quí bà, thưa quí vị, đến giải phóng nước chúng tôi,
quí vị không tự biết là vô tình đã đem đến cho chúng tôi một bài học: quí vị
nhân đạo không để đâu cho hết, quí vị thương người không để đâu cho hết, hơn thế
lại thương cả đến con cá nữa, và muốn chúng tôi làm một cái nghĩa địa để chôn
cá cho mồ yên mả đẹp. Chúng tôi rất thấm thía về bài học nhân đạo ấy, nhưng kia
kìa, các ngài nhìn qua cửa sổ ra ngoài đường mà xem: nhà cửa bị san bằng, xác
người chất đống không ai chôn cất, con chó cũng như con người đều đói trơ
xương; chúng tôi sống không có miếng cơm cho vào miệng, chết không có một mảnh
đất để chôn, thế thì còn đào đâu ra tiền để làm một cái nghĩa địa chôn cá, theo
tinh thần siêu đẳng của người Mỹ văn minh, giàu có và đầy một tấm lòng nhân đạo?
Ấy đó, câu chuyện chỉ có thế thôi. Nhiều lúc anh đã muốn quên
đi, không ngờ hôm nay em nhắc đến cái giống cá người thành thử lại phải nhớ lại
và tự hỏi: “Vậy ra người ta không đánh lừa anh sao?”.
Nguyên do là vì đọc câu chuyện trên của văn hào Malaparte,
hơn hai mươi năm, nay anh vẫn yên trí là Malaparte nói đùa và bịa ra câu chuyện
“nhân ngư” để nói xỏ các vị anh hùng giải phóng cho nước Y... Ai ngờ lại thật...
Mà ngay ở nước ta cũng có giống cá người... Thế thì ở nước Y người ta giết con
cá người làm thịt mời chủ mới, người Mỹ nhân đạo không chịu ăn thịt con cá người,
bắt làm nghĩa địa để chôn, còn ở nước ta, người ta đem cá người ra làm gì?
- Ôi chao, cá người, cá điện, cá thu, cá lép, cá sư, cá gì
thì cũng đem cân ngay tại thuyền để chở đi bán ở khắp các nơi trong nước và xuất
cảng. Nhưng muốn bán bao nhiêu đi nữa thì cá vẫn cứ là thừa mứa, thành ra người
ta phải tìm cách làm mắm, làm khô. Chỉ có khô mới giữ được lâu thôi.
“Cá ở các thuyền bốc lên được chở về vựa; tại đây, có những
người đàn bà chuyên môn ngồi xẻ cá ra, bỏ ruột rồi rửa bằng nước biển chất lên
cả đống như là núi vậy.
“Sáng hôm sau, cá đó được đem ra phơi trên những giàn tre ở
bãi biển thành những hàng dài tăm tắp, có khi tới một cây số, hoặc treo lên cho
tới khi vừa bủng thì đem xuống rửa đi, rồi xát muối, phơi nữa, phới kỳ cho bao
giờ khô teo đi mới chịu thôi. Rửa nước rồi phơi như thế là để cho cá mềm, chớ mổ
cá xong mà cho vào thùng thông ngay, ngâm muối một vài đêm rồi phơi lên ba bốn
nắng, khô sẽ cứng nhắc như đá, ăn không cẩn thận, có thể gẫy răng luôn”.
Tôi vốn không phải là người ưa cá. Đến tận lúc lớn lên, tôi tập
mãi mới biết ăn chả cá; ngoài ra cá kho, cá rán, cá chưng hay canh cá nấu với
rau cải bỏ mấy lát gừng, tôi ăn không chịu, chỉ bởi lẽ có thành kiến cá tanh,
nhất là cá mặn, cá mắm thì tôi sợ quá.
Vậy mà một hôm kia, tôi đã liều ăn khô. Đó là một buổi sáng
mùa thu. Ở Lái Thiêu, một cô bạn và tôi nằm trong một vườn măng nằm ngửa mặt
lên trời xem mây bay rồi chợt ngủ lúc nào không biết. Đến lúc tỉnh dậy thì trời
đã xế trưa, bụng đói, mà chung quanh không có hàng quán, hàng quà nào hết. Nhân
câu chuyện nói chơi, ông chủ vườn đem đến cho chúng tôi hai bát cơm nguội, mỗi
bát có để một miếng khô cá lép.
Lúc đó, vườn vắng tanh, ở ngoài kia trời nắng chói. Chúng tôi
bưng bát lên ăn thấy ngon không biết chừng nào. Từ lúc bấy giờ tôi mới biết rằng
cơm nóng ăn với khô đã ngon quá đi rồi, nhưng ăn khô với cơm nguội lại càng
ngon vượt mức, ngon không thể nào nói xuể. Và cũng từ đó tôi mới hiểu tại sao
có những cô con gái Bắc, “ở ngoải” thì không ăn được cá mắm, cá mặn mà vào đến
trong này lại nghiện khô, mỗi tháng ba mươi ngày thì cả ba mươi ngày chỉ ăn cơm
với khô thôi cũng cứ ngon đi.
Sự thay đổi kỳ lạ đó, hiện giờ tôi vẫn còn đang tìm hiểu.
Trong khi chưa biết kết luận ra sao, tôi chỉ biết cười khì lúc thấy má con
Châu, con Khương, con Giao suốt ngày đe dọa lũ con, thò có đồng nào thì lại lẻn
ra chợ mua khô bò, khô mực... về để ăn với nhau một cách vô cùng thích thú. Các
cái chú Ba Tàu làm tiền thật tài tình. Một miếng khô tí xíu, chỉ bằng cái móng
tay, đem gói vào một cái túi nhỏ ngoài đề nhãn hiệu “Hai con voi” “Ba con chuột”...
bán một đồng, tính ra đắt vàng trời, ấy thế mà trẻ con cứ mua nườm nượp suốt
ngày. Thấy thế, ông Mỹ cũng làm khô gói vào giấy bạc, trông khoa học không chịu
được, rồi đến ông Mã Lai A, ông Đại Hàn, ông Nhựt Bổn đều có khô gói giấy tung
ra thị trường, ăn dỗ tiền của trẻ con mỗi năm không ít.
- Cứ gì trẻ con! Mình mắng trẻ cho có lệ, cứ chính mình ăn
khô gói giấy cũng mê... Này không biết ngoại quốc họ cho thêm cái chất gì vào
khô mà nó lại ngon khác hẳn “khô chân phương” của người mình thế nhỉ?
Chồng không biết trả lời vợ ra sao. Cả hai cùng nhìn nhau,
không nói và hình như có một lúc cả hai cùng nhớ lại có một buổi sáng mùa thu
nào đó, trong một cái vườn măng ở Lái Thiêu, có một người đàn ông và một người
đàn bà - lúc ấy còn là bạn - cùng ngồi trên một cái chiếu trải dưới đất ăn cơm
nguội với khô.
- Ăn khô ngon đến như thế mà cấm trẻ nó ăn, phải tội.
Vợ cười và bảo:
- Nếu không có bữa khô hôm đó, sao mà có lũ trẻ ngày nay,
mình nhỉ?
Trăng Vũng Tầu sầu biêng biếc, nước Vũng Tầu đêm đến dâng
lên, đập ì uộp vào bờ, nghe thê thiết như bài hát ru xứ Quảng.
Thỉnh thoảng về nghỉ mát ở miền duyên hải này, hai vợ chồng mở
cửa nhìn ra trời nước, có lần thấy niềm hương ý nhạc dâng lên ở trong lòng lại
muốn cùng nhau gảy lại khúc đàn cũ ngày nào, trong một vườn măng ở Lái Thiêu,
hai đứa ăn hai chén cơm nguội với khô rồi ngủ trên bãi cỏ có nhiều bóng mát.
Nhưng người vợ đến nửa đêm gần sáng lại lắc đầu không chịu
nghe lời chồng. Là vì nửa đêm về sáng, có những lằn chớp lóe lên ở chân trời, rồi
trăng lặn, rồi gió lớn nổi lên: ấy là mưa nguồn, ấy là chớp bể...
Người vợ khẽ nói vào tai chồng, như thể sợ có ai nghe thấy
câu chuyện lòng mà cười chăng:
- Anh ơi, quên làm sao được buổi sáng mùa thu năm ấy, hai đứa
mình còn son trẻ, ăn cơm với khô mà ngon như ăn vây ăn yến... Miếng khô siết chặt
ân tình của em lại với anh... nhưng có những buổi thật là kỳ lạ... Ăn khô ngon
quá, em nghĩ xa nghĩ gần... và không hiểu làm sao có một vài lúc em thấy sợ...
nhất là những hôm có chớp bể mưa nguồn như đêm nay... Em thấy lòng xốn xang,
anh ạ, vì em nghĩ... em nghĩ không biết những thuyền đánh cá ở biển để về làm
khô thì gặp bão tố như thế này, họ biết tránh vào đâu... Em nghĩ... phải anh ạ,
em nghĩ rằng miếng khô làm cho ta ăn vào mát ruột hả lòng... nhưng cũng rất có
thể vì miếng khô mà có những gia đình tan tác, vợ chồng tử biệt sanh ly...
Ờ ờ, chính vào cữ này đây, anh ạ, vợ chồng mình nhân một ngày
bão rớt đìu hiu ngồi quấn quít với nhau để ăn một bữa khô ngon lành thì dân
chài miền bể thường lại lo sợ, mất ăn mất ngủ vì đó cũng là cữ trời mưa bão, những
người đi biển thường dễ làm mồi cho cá... Một tiếng chim kêu khắc khoải khác
thường, một giáng trời hơi lạ, một ngọn gió xoay chiều - phải, chỉ có thế thôi
mà lắm khi có thể làm cho bao nhiêu người ủ ê nét mặt, lo sợ một thiên tai xảy
đến.
Ấy là những người ở nhà lo cho kẻ ra đi, không biết sống chết
ra sao và chỉ còn biết chắp tay lại mà cầu Trời khấn Phật phù hộ cho chồng con
họ đi đến nơi, về đến chốn, khỏi phải chôn xác vào miệng kình nghê nơi biển cả.
Ơi! Ơi những người thanh thả, có bao giờ nghĩ tới những kẻ
mang thê noa ra đánh bạc với trùng dương để cướp của Long vương một lứa cá đem
về bán tươi hay làm khô, cho chúng ta ngồi thưởng thức cạnh con khôn, vợ đẹp?.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét