Thứ Năm, 15 tháng 8, 2019

Cõi yêu thương đan rộng nối dài

Cõi yêu thương đan rộng nối dài 
(Đọc tập thơ Cõi vắng của Lê Kim Hạt,
NXB Hội Nhà văn, 2012) 
Cõi vắng, gồm 41 bài thơ, của người thơ bước vào tuổi “Thất thập cổ lai hy”, nhà thơ Lê Kim Hạt (NXB Hội Nhà văn, 2012). Tôi đã đọc tập thơ trước của anh, Bờ nhân gian và bây giờ là một Cõi vắng. Thực ra vẫn là một “nhân gian” của Lê Kim Hạt, nhìn ở các góc cụ thể, trong những hoàn cảnh khác nhau mà thôi. Đó là cõi của người đã trải nghiệm cả đời người, giờ đây trước tuổi điền viên, cái góc quê điền viên, như gió cuối làn, như cây cuối vụ, nghe hoang lieu, hiu quạnh làm sao:
“Vườn vài cây cau
Vóng vót
Chỉ hoa không quả
Tủi nhành
Sân không trẻ rêu xanh ngơ ngắt
Hai nửa già xiêu vẹo mắc vào nhau”.
(Cõi vắng)
Nếu ở Bờ nhân gian, thấy một Lê Kim Hạt đăm đắm niềm quê, cái niềm quê Trung Nguyên, Yên Lạc, Vĩnh Phúc bên dòng sông Phan nhiều kỷ niệm, nhiều giăng níu, nhiều câu thơ thảng thốt thi sĩ của anh về dòng sông, con đò, những người nông dân áo vải nắng gió, trên cánh đồng tần tảo thì ở Cõi vắng, vẫn trên nền cảm hứng về những nỗi người, là cái nhìn nhân văn giãi bày về những miền thân thuộc, nhiều trải nghiệm và thương nhớ của anh, nhưng biên độ cảm xúc và suy tư dường như đã chuyển nhịp, sang một cung bậc thi cảm, ít nhiều đã có sự vận động, thể hiện ở cá mối quan tâm khác so với những gì anh bộc bạch trong những tập thơ trước. Nó không chỉ còn là: “Chum tương vẫn đợi nón mê/ Dây hoa muống tím lê thê ao nhà” nữa, mà thời gian, cuộc sống xô bồ nhiều biến trải ở chốn quê làng đã khác lắm rồi: “Cỏ may mọc rất tinh ranh/ Giàu đâu chưa biết đành hanh thì nhiều/ Lời điêu cũng đến là điêu/ Xót câu bầu bí nhiễu điều giá gương” (Lục bát chuyển mùa). Đây là một lời cảnh tỉnh về những biễn đổi ở nông thôn, nhưng là cái biến đổi làm thay đổi nét đẹp truyền thống văn hóa làng, vốn được coi là những giá trị nhân văn thì mới đáng lo âu, bận lòng đến thế nào.
Dẫu vậy, cuộc đấu tranh, vật lộn để khẳng định những giá trị tinh thần, những giá trị người và những gì còn lại, làm nên tâm thế quê làng vững chãi bao đời, mà có lẽ sẽ còn trường tồn, đã được Lê Kim Hạt “phiên dịch” lại: “Muôn năm cỏ sao thành lúa nước/ Tổ tiên ta dựng lên hồn cốt làng/ làng có thật, chuyện làng không cổ tích/ ngôn ngữ ca dao nắng mưa phiên dịch/ lam lũ tháng năm vẫn rích rắc kéo đàn…/ có lẽ thế mà nên can đảm/ dìu ta qua mọi cám dỗ chắn đường” (Không thể khác).
Ở đó, mối băn khoăn về quê hương, ruộng đồng ngày càng co hẹp, thương cả cánh cò không còn bến đỗ; thực ra là mượn cánh cò mà nuối tiếc những mùa xua. Bây giờ, mùa như bức tranh vẽ nháp nham nhở, phố đã mò vào làng, tất nhiên làm sao cưỡng được, nhưng nó là duyên cớ để ông bày tỏ niềm cảm thong canh cánh của mình: “Đã lâu sông bặt bóng đò/ đồng co hẹp cánh cò đành phiêu bạt/ mùa màng như bức tranh vẽ nháp/ sắc phố phường duệch doạc mắt trẻ con (Mơ va thức). Những biến đổi đến chóng mặt, nó không chỉ là “đồng co hẹp cánh cò đành phiêu bạt” mà nó xáo trộn, “tốc hành” vào thẳng đời sống văn hóa, đời sống tinh thần của làng quê: “Nào diễn văn “tiếp thị” hát say sưa/ nào ngôn ngữ “a còng” ngọt tai thời mở cửa/ đem “quốc doanh” ca dạo tục ngữ/chẳng ngạc nhiên khi “chứng khoán” hiền tài. (Ghi chép bên lề). Nhắc những sự kiện như khoét sâu nuối tiếc. Sao không nuối tiếc khi ngay cả người yêu thương của mình cũng không còn nhận ra, vì gương mặt em, hình hài em giờ cũng quá khác xưa nhờ mỹ viện đã mon men về: “Ta ôm em hay ôm mỹ viện/ ngước mắt lên rụng thuở cánh chuồn”(Mỹ viện). Cánh chuồn tuổi thơ, cánh chuồn yên ả của làng quê, có thế biến mất trước bão gió thời thế như thế chăng?
Nhưng dù sao, vẫn còn đây cái đẹp muôn thuở, và cũng là ký ức là khát vọng của nông thôn: “Chim rửa giọng tiếng trong trẻo quá/ Sương mỏng tang nép ở sau nhà/ Ngọn gió thức giật mình ngơ ngẩn lá/ nắng lên đồng mớm nụ giục hoa” (Viết lúc ban mai). Vẫn còn đây những: “Chiều vàng lưng lửng chân mây/ cánh chim vẽ nửa nét ngày vào đêm” (Lục bát xuống dòng), mà thời gian chưa thể cưỡng đoạt mang đi.
Vẫn còn đây một trung du, với cái nhìn ngộ nghĩnh về những viên sỏi, hay chính là cái nhìn về tuổi thơ, kỷ niệm tuổi thơ bất biến, nhưng những đứa trẻ ngày ấy thì đã vơi dần trên thế gian, càng làm cho Cõi vắng của ông thêm trống vắng làm sao: “Ta quê đồi/ bạn bè cùng sỏi/ gái chơi ô ăn quan/ trai lấy sỏi làm đạn súng cao su…/ đêm hoang hoảng nồng khê/ lem luốc sỏi ngủ ngon trong túi áo túi quần”. Và bây giờ: “Những đứa trẻ xưa/ giờ đã thưa dần”. Chỉ “lũ sỏi đồi mồ côi bây giờ vẫn lông bông/ không nhà không cửa/ không già/ không lớn” (Với sỏi). Và những gốc quê làng luôn vẳng trong tâm hồn thi sĩ Lê Kim Hạt như một góc yên ả “nghỉ dưỡng” tâm hồn cảu người thơ ấy: “Dìu dịu hương vườn dâng vô cớ/ Lúa vào mây bổng cong gọng vớ/ điệu dân ca yên ả sang đò” (Thu cảm).
Cõi vắng của Lê Kim Hạt là cõi trầm tư, băn khoăn niềm riêng của những tâm sự về cội rễ quê làng, về con người sống với nhau ra sao trước một thực tế nông thôn nhiều xáo trộn, nhiều lo âu, bằng một tâm hồn đa cảm và cả nghĩ. Cả những vẻ đẹp luôn thức thỏm trong tâm hồn ông, nhắc ta không thể quên cái đẹp của nhân tình thế thái, cái đẹp bình dị, mộc mạc mà cũng mượt mà nhân nghĩa của quê hương. Ngoài cảm hứng tập trung là những mảng đời sống quê xuyên suốt trong thơ ông từ nhiều tập thơ trước, ở tập thơ này, ông còn viết về tình thầy trò, trong Bài giảng cuối cùng thật xúc động: “Mắt thầy sương khói dâng gầy/ bàn tay giơ nắm bàn tay từng trò/ Một đời sông một bóng đò/ Bao nhiêu nhân nghĩa qua bờ nhân gian!”. Hay ông viết về những hạt cát Trường Sa, dù nhỏ nhoi, cũng là máu, là hồn Tổ quốc, trụ vững nơi miền biên hải…
Đó là tâm thế của một hồn thơ luôn khao khát, trải lòng mình bằng: “Những yêu thương đan rộng nối dài/ cúc vàng vẫn ngóng mùa hoa cải”. Ta hy vọng Cõi vắng của ông vẫn đan rộng nối dài cho những mùa hoa nhân nghĩa còn nở về sau.
 Trần Quang Quý
Theo http://vhnt.ttcntt.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đọc thơ Hồ Chí Bửu

  Đọc thơ  Hồ Chí Bửu MÁY BAY TUỔI THƠ Những năm trước gia đình mình cơ cực Mẹ đi bán chưa về, chiều mưa bụi bay bay Bốn đứa con quây ...