Họ và tên khai sinh: Lê Tốn
Bút danh: Lê Thuần Thảo
Sinh năm 1942
Quê quán: Xã Thạch Thanh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Phúc.
- Tác phẩm chính đã xuất bản:
* Viên Hồng Ngọc (Tập truyện ngắn, NXB Thanh niên, 2000)
* Hồn Cây (Tập truyện ngắn, NXB Thanh niên, 2002)
* Heo may xào xạc (Tập truyện ngắn, NXB Văn học, 2006)
* Giáo giới trường tôi (Tập truyện ngắn, NXB Văn học, 2007)
* Con gái Vĩnh Tường (Tập thơ, NXB Văn học, 2007)
* Lời quê (Tập thơ, NXB Văn học, 2008)
* Bừng thức ngàn mai (Tập truyện ngắn, NXB Văn học, 2009)
* Một thoáng thu (Tập thơ, NXB Văn học, 2010)
* Lai láng tình quê (Tập truyện ký, NXB Văn học, 2011)
* Ký ức xôn xao (Tập truyện, NXB Kim Đồng, 2011)
* Khảm chữ trên non (Tiểu thuyết, NXB Văn hóa Thông tin, 2012)
* Những giai thoại (Tập truyện ngắn, NXB Văn học, 2012)
* Trăng quê (Tập thơ, NXB Văn học, 2015).
- Giải thưởng văn học:
* Giải thưởng Báo Văn nghệ năm 2000 và 2005
* Đồng giải Khuyến khích, Giải thưởng VHNT Vĩnh Phúc 5 năm lần
II (2000-2005), lần III (2006-2010).
II (2000-2005), lần III (2006-2010).
- Suy nghĩ về nghề văn: Nghề văn thật công phu và thật khó.
Những truyện ngắn của Lê Thuần Thảo
BẤT NGỜ ĐÊM TRỪ TỊCH
Hắn sinh năm Giáp dần. Có phải vì cái tuổi đầu hổ này
mà hắn sớm ngang ngạnh. Năm cuối bậc phổ thông, trong một bài báo tường hắn
viết: “Quê hương tôi, một thị xã nghèo thường xuyên leo lét đèn dầu vì luôn
luôn mất điện. Vào đầu đêm, thị xã như đã chết rồi, quán xá vắng teo, nhà nhà
sập cửa, chỉ có gió xạc xào đuổi theo những chiếc lá khô tả tơi trên đường vắng
và ai đó tỏng tai có thể nghe tí tách, tí tách tiếng bóc lạc âm thầm của đám
thị dân lay lắt sống bằng nghề đón lạc củ sáng này, bán nhân lạc ngày hôm sau.
Thi thoảng nghe lao xao ai đó vừa bị bắt vì buôn lậu và đâu đó vừa vỡ đường dây
chơi hụi có đứa vào tù, khối nhà vỡ nợ, tức tưởi tiếng khóc của kẻ lừa người và
người bị lừa…”. Một đoạn khác hắn viết: “...Tôi yêu các nghề làm ra sản phẩm
cho xã hội nhưng biết tìm học nơi đâu?! Học xa thì nhà không có lực mà học gần
thì người ta toàn mờ lớp đào tạo các nghề cạo giấy, nghề phát triển môi mép và
bán buôn nước bọt…”.
Bài báo của hắn rõ ràng là tiếng kèn lạc điệu. Hắn bị
phê bình, bị kiểm điểm. Đời học trò của hắn kết thúc như thế, tạo cho hắn có ít
nhiều mặc cảm.
Bố mẹ cho hắn chiếc xe trâu để vào đời: Chở than, chở
thuê … vất vả sớm tối. Lợi dụng phố không có biển cấm, có hôm hắn cho xe trâu đỗ
nghênh ngang ngay trên sảnh toà thị chính. Lúc cuối chiều vãn việc, cầm hững hờ
cái “vô lăng giây”, hắn nghêu ngao câu thơ cổ: “Đời liệt lạt nhiều nên kém bạn,
người mòn mỏi hết phúc còn ta”. Có kẻ qua đường bảo “đọc sai rồi”. Hắn trợn mắt
lườm, buông gọn một tiếng: “Hử”! rồi tiếp tục nghêu ngao.
Biết hắn sắp hoá rồ, mẹ hắn khóc, xin ông cậu
dưới xuôi cứu hắn. Ông cậu có công ty làm ăn ở nước ngoài về mời hắn sang
làm loong toong. Sang bên đó hắn học tiếng rồi xin đi học một lớp thợ cơ khí,
và làm cho một hãng, có thu nhập ổn định. Chỉ tiếc khi hắn làm ra đồng tiền thì
bố mẹ đã về cõi thiên thu, anh em nhà hắn cũng đã ra riêng ai đầy phận nấy. Qua
thư, qua “chat” hắn cũng biết thị xã xưa giờ đã nên thành phố, làng ngoại thị
quê hắn nay đã lên phường, cái vườn đồi ba sào của nhà hắn nay vào đất khu công
nghiệp, anh em nhà hắn nhờ được đền bù đã tạm gọi là có một cơ ngơi. Mừng cho
quê, mừng cho nhà, nhưng hắn vẫn ám ảnh bởi những bữa cơm đậu sắn triền miên,
tiếng bóc lạc canh khuya, tiếng khóc tấm tức của nhà nhà vỡ hụi và sợi “vô lăng
dây” vắt riệt lòng thòng trong cái thị xã bé nhỏ mà hắn đã thuộc như lòng bàn
tay. Nghe vậy, hay vậy chứ ở xứ người hắn phỏng đoán, từ làng lên phố phải
diện tiến cả trăm năm…
Trước cổng nhà hắn có cô bé kém hắn mười tuổi, hôm tựu
trường tiểu học, bố cô bé sang nhà bảo hắn:
- Ngày ngày anh đi học cho em đi theo với, vì hai
trường cũng ở gần nhau.
Thế là từ đấy, hắn ra cổng thì cô bé cũng ra theo.
Những ngày đầu hắn trêu:
- Rửa mặt chưa mà đi học?
- Rửa rồi mà, còn lấm à, chờ em về lau lại.
Vài bữa sau hắn lại hỏi:
- Đã đánh răng chưa mà đi học.
- Đánh răng tối hôm qua rồi .
- Về đánh lại. Mồm hôi lắm!
- Anh ngửi thấy à! Vâng! Chờ em với nhớ.
Thế mà hai anh em theo nhau suốt mấy năm học. Thường
ngày, em tan học sớm, cứ đến bên cửa sổ lớp đứng chờ. Nhớ cái hôm lớp kiểm điểm
bài báo tường. Hắn đang nóng mặt thì thằng bạn ngồi cạnh lại leo lẻo.
- Kìa, nhận khuyết điểm đi để về, kẻo “người ta” chờ!
Cáu tiết, hắn túm cổ áo thằng bạn, vung tay … giữa lúc
ấy thì ngay bên cửa sổ có tiếng thét.
- Ôi! Đừng.
Nhờ tiếng thét ấy mà tay hắn phanh kịp. Nếu hôm ấy có
thêm quả đấm cho thằng bạn thì chắc chắn đời hắn xuống đáy!
Bây giờ cô bé lọ lem ấy đã tốt nghiệp đại học, đang
làm tư vấn kỹ thuật cho một công ty kiến trúc. Chị hắn gọi điện sang:
“Con bé xinh, nết na, thuỳ mị, vẫn thân thiết với cả
nhà, nó tỏ ra rất quý mến cậu. Cậu về ngay đi không thì đứa khác nó “tậu” mất
đấy. Hoài của!”. Rồi chị cho địa chỉ, điện thoại. Chị còn nói thêm: Hôm nọ chị
nói vui “Có ưng làm em dâu chị không?” Nó bảo: “Ở bên ấy thiếu gì. Anh ấy quên
em rồi”.
Quả vậy, bên này nhiều người thấy hắn làm ăn tử tế,
người ta cũng thương. Ở đây bất kể dân thầy, dân thợ, nếu sống đàng hoàng, thu
nhập ổn định, hợp tình hợp lý là yêu nhau, lấy nhau, không quá nề hà về màu da,
bằng cấp. Những lời chị nói nhắc hắn trở về những xao xuyến tuổi thơ và hắn
hiểu rằng em là cái mỏ neo níu giữ lại cho hắn những kỷ niệm êm đềm về vùng quê
nghèo lam lũ, cực nhọc và một thuở thiếu thời không hẳn vô tư. Hắn bắt liên lạc
với em và hai người đã thư, chat cho nhau hơn một năm nay. Hắn hẹn em: Sắp tới
anh sẽ về!
Dù ngoài ba mươi tuổi nhưng cái máu khùng trong hắn
vẫn còn tiềm ẩn. Hắn sẽ mua vé chuyến bay đáp xuống lúc hai mươi hai giờ, mấy
chục phút tắc xi là đến vùng quê nghèo của hắn. Hắn sẽ vào nhà đường đột như từ
“trên trời rơi xuống” cho cả nhà anh hắn tròn xoe mắt ngạc nhiên, rồi hắn sẽ
sang nhà chị hắn cho chị và các cháu “mừng rú lên” và … Em. Hắn cho em điều bất
ngờ nhất “ Rủ em đi hái lộc giao thừa”!.
Suốt mười lăm giờ bay, hắn không ngủ. Lúc này hắn mới
cảm nhận đầy đủ hai tiếng Quê Hương, mới ngộ ra được nỗi nhớ tình thương ruột
rà, mới thấu hiểu nỗi day dứt của tứ thơ ai đó “Nơi ta ở chỉ là nơi đất ở, lúc
ta xa đất bỗng hoá tâm hồn”.
Hành lý rất gọn nhẹ. Thủ tục nhập cảnh ở sân bay thật
đơn giản, nhưng chiếc tắc xi dập dình lắc lư đưa hắn trên quãng đường từ phi
trường về thành phố quê hương mất gần tiếng đồng hồ vì đang sửa đường. Trước
mắt hắn hiển hiện một vùng sáng lung linh. Vùng đất xứ nào đây? Đường to, điện
sáng, nhà cao ốc, nhà cao tầng nhấp nhô, ở đâu cũng rực rỡ đèn. Mùi hoa xuân,
mùi hương tết quyện đầy không gian thành phố. Trai gái đi lại thong dong, những
ô tô hòm sang trọng dập dìu. Nhà nhà mở cửa chuẩn bị chào xuân. Theo định hướng
hắn bảo tắc xi đánh về làng cũ. Ôi! Quả đồi xưa! Nơi bao đời là làng quê, nơi
chôn rau cắt rốn của hắn và cả họ nhà hắn, đã trăm năm quần tụ êm đềm thì nay
mọc lên một khu công nghiệp kín cổng cao tường. Hắn hỏi người gác cổng:
- Cho tôi hỏi thăm nhà bà con làng Hà xưa ở đây.
Người gác cổng trả lời rất lịch sự: -Báo cáo anh, bà
con làng Hà đã được nhà nước đền bù di dời đi nơi khác, tôi ở nơi khác đến nên
cũng không nắm được.
Cho xe lộn ra bưu điện trung tâm, định qua số máy nhà
anh chị hắn mà tìm ra địa chỉ, nhưng chị bưu điện bảo:
- Làng Hà bà con tản mát về các phố mới, có phố đã có
tên, có phố đang ở thời kỳ hình thành nên chưa có tên…
Hắn lại hỏi mua một chiếc bản đồ thành phố. Chị bưu
điện lịch sự lắc đầu mà thưa rằng:
- Thành phố mới lập, có lẽ chưa kịp in bản đồ. Tụi em
chưa có!
Cậu lái tắc xi tuy tỏ ra rất lịch sự và năng nổ nhưng
cũng không dấu nổi vẻ nóng lòng sốt ruột. Cậu ta nhắc khéo:
- Anh ơi, nhà em giờ này có mình mẹ em ở nhà. Chắc là
cụ mong em lắm!
Lúng túng quá. Hắn xin lỗi chú lái xe và vội vàng dúi
vào tay chú tờ giấy năm mươi ơ-rô. Thấy chú lái tần ngần móc túi như tìm tiền
thối lại, hắn xua tay nói:
- Em về đi, cho tôi gửi lời chúc năm mới bà cụ. Tôi ở
đây gọi người nhà ra đón.
Thế là phương án đột kích tạo bất ngờ cho đêm giao
thừa tan vỡ. Hắn đành phải gọi điện báo về! Hắn sẽ gọi ai đây? Anh hắn? Có thể
giờ nay đang thắp hương bàn thờ gia tiên. Anh rể hắn hay chị gái hắn? Chị ấy
không biết đi xe máy, còn anh rể hắn là thương binh chỉ còn một tay! Các cháu
còn bé. Hắn gọi em:
- Anh chúc mừng em nhân dịp xuân mới.
- Ôi! Em chào anh! Anh khoẻ không? Thế mà em linh cảm
như tết này anh về. Em và chị Hoà vừa nói về anh.
Hắn nghe được cả hơi thở dồn dập, giọng nói gấp gấp,
quen quen.
- Anh về rồi đây. Anh đang ở Bưu điện trung tâm.
Nhịp thở gấp hơn và tiếng nói hồ hởi của em.
- Chị Hoà! Anh Cát đang ở Bưu điện. Chị nói chuyện với
anh ấy đi. Và tiếng chị gái tôi xen vào máy:
- Em Hiền đang chơi ở đây, chị em đang rủ nhau đi hái
lộc đầu xuân. Lại có tiếng đứa cháu nói xen vào.
- Mẹ cho con theo cô Hiền đi đón cậu và tiếng chị tôi
dỗ dành.
- Để mình cô Hiền đi đón cũng được, mẹ con mình sang
nhà cậu Lâm bày cỗ đón cậu Cát về.
Em phi xe máy đến ngay. Hắn ngỡ ngàng vì không thể
tưởng tượng ra cô bé ngày xưa bây giờ trẻ trung, xinh tươi dễ thương đến thế.
Thấy em, cô Bưu điện mỉm cười, khuôn mặt đôn hậu rạng rỡ vui, vừa lúc chuông
giao thừa đã điểm. Hắn giật mình vì tiếng nổ pháo hoa vang lên giữa đỉnh đầu.
Hiền và hắn say sưa ngắm muôn màu hoa sáng rực, từng chùm, từng tia, lung linh
tung bay. Bất giác hắn nắm tay em. Hai người tay trong tay nhìn trời hoa muôn
hồng ngàn tía. Em thì thầm:
- Đẹp không anh?
- Đẹp lắm. Đã bao nhiêu giao thừa ở trời Tây anh đứng
bên bờ sông Xen, cạnh chân tháp Ép Phen, nhìn pháo hoa rực rỡ lung linh thủ đô
ánh sáng nhưng chưa có đêm pháo hoa nào hạnh phúc tựa đêm nay.
CỤ VẼM VÀ TỔ DÂN PHỐ
Bây giờ có những khái niệm thông thường mà ngay cả
những người tốt nghiệp Đại học cũng không biết. Ví như chòm, thôn, xóm ở xứ nhà
quê hay khu phố, khối phố, tổ dân phố, tiểu khu dân cư, khu dân cư... ở thành
thị. Xin mời quý vị độc giả hãy nêu định nghĩa về các danh từ đó để rồi cãi
nhau - tranh luận với nhau ấy mà - cho vui cửa, vui nhà, vui phòng làm việc.
Ấy! Nói đến “phòng làm việc” lại chạm đến một khái niệm nữa. Phòng làm việc là
gì? Có người bảo phải gọi là “phòng không làm việc” mới đúng. Hẳn độc giả phải
sốt ruột bảo: “Ông định viết về cái gì thì “nói toạc móng... voi” ra việc gì
cứ phải vòng vo Tam Quốc mãi!”
Vậy! Thì đây. Tôi đang nói về lão Vẽm, sáu mươi tuổi,
cán bộ hưu trí, nguyên trưởng phòng cấp Sở lâu năm. Làm trưởng phòng lâu năm
nên về hưu lão nhớ cái đọc, nhớ cái viết, nhớ cái nói. Nhớ đọc, lão đặt tờ nhật
báo vừa lá cà, vừa lá ngãi, hai chục trang báo, đọc đến phát chán. Bây giờ báo
về lão chỉ đọc các tít, trước khi ngủ lão đưa báo ra xem rồi tiện xuôi tay úp
báo lên mặt. Ngáy!
Lão có viết và được đăng thơ và văn xuôi. Lúc đầu được
đăng đều đều, về sau đăng thưa dần và cuối cùng thì không đăng nữa. Việc này
rất tế nhị. Lão phải dò hỏi mãi, mới có một lão biên tập ngoại ngũ tuần bảo
lão: Bây giờ “đất” cho văn chương không nhiều, nên phải ưu tiên cho người viết
trẻ, họ không cần tiền mà cần “tiếng”. Cái “tiếng” to hơn cái “miếng”, nên
nhiều khi có bài được đăng họ mua hàng chục số báo biếu, còn nhuận bút họ không
quan tâm - của đáng tội nhuận bút cũng bèo bọt lắm - nhưng tích tiểu thành đại,
cuối năm cái khoản này tồn đọng cũng kha khá. Vả lại thơ của bác vần quá. Thơ
mà vần quá là không hiện đại. Hiện đại cả ý lẫn lời kia: “Đôi ta như vợ chồng
Ngâu. Ăn ở đâu - Ngủ ở đâu - Cũng tình”.
Như vậy đấy! Nghĩa là thơ bây giờ ông bà Ngâu không
cần chim Ô Thước bắc cầu. Ông bà ấy ở bất kỳ đâu đều “hẩn hảo” cả. Còn bác thì
không chấp nhận cái logic này. Ấy! Bác “hỏng” ở chỗ đó.
Nghe vậy lão hiểu ngay. Chuyện vợ chồng Ngâu vốn nó đã
là hư ảo, bây giờ ngay cả cái “hư ảo” mong manh ấy người ta cũng không chấp
nhận. Người ta cần cái hiện thực là họ ăn nằm với nhau thôi. Như đã hiểu ra vẫn
đề lão Vẽm tự ghi vào trang văn chương trong trái tim mình một chữ “Rõ!” viết
in hoa kèm theo một dấu chấm than xa xót.
Lão nhớ nói! Bao nhiêu hội nghị, hội thảo từ cấp xã,
phường đến cấp huyện tỉnh và kể cả hội nghị cấp Bộ đã nhiều lần lão được nói.
Bàn tay lão những ngày đầu còn rụt rè, về sau mạnh dạn hơn và gần lúc nghỉ hưu
có lần lão dám cởi phăng cúc áo zi-lê vung tay chém gió rất hùng hồn. Lão thầm
nghĩ rằng về hưu lão sẽ có điều kiện để nói. Lão sẽ hàn huyên tâm sự với vợ,
bảo ban con cái làm ăn rồi kể chuyện ngày xửa ngày xưa cho các cháu. Ôi! Hạnh
phúc làm ông, ôm cháu vào lòng, vừa rung đùi, vừa kể, những Thạch Sanh, Tấm Cám... kể cả những câu chuyện hình sự, trinh thám mà ông nội lão đã kể cách nay
gần tròn một Hội. Với phường phố lão sẽ chân tình góp ý, đề xuất... Nhiều lắm
những suy tư ấp ủ của lão. Có ý đẹp rồi, lão sẽ chọn lời hay, những lời có cánh
êm ái dễ nghe nhất và biết đâu ý kiến đó chẳng mấy lúc được thấu từ phương lên
phố và lan tỏa đến cấp cao hơn. Nghĩ đến đó lão thấy vui, niềm vui hệt như thời
niên thiếu, lão từng vác cây súng gỗ, tập đều bước một hai và xếp hàng lên sân
khấu ké vai nhau hát bài “Kết đoàn”.
Lão có bà vợ, ngày trẻ thì hon hón xinh. Ngót
sáu mươi mà da dẻ trông còn có vẻ màu mỡ lắm. Lão lân la tâm sự và muốn ngủ
chung cho vui vẻ. Bà ấy phản đối:
- Nỡm! Cái ông này. Tôi vào “Hội bảo Thọ” với các bà ở
tổ dân phố rồi. Ngủ với ông để nghe ông ngáy à? Chưa kể rằm - mồng một lên chùa
làng không sạch sẽ thì phải tội! Nếu mình đã chót phải tội, thì phải xin nghỉ
đi chùa. Các vãi biết lại chả cười cho thối mũi.
- Ấy - Lão cãi - Ở quê người ta mới quan niệm thế, bây
giờ làng mình lên phố rồi! Phố phải khác chứ!
- Phố khác làng - bà vợ lão cãi - Nhưng xưa nay đã vào
“Hội bảo thọ” thì phải kiêng. Với lại tôi còn chăm cháu. Hai ba hơi thì cháu nó
kém thông minh, học giỏi làm sao được. Mà bây giờ con cháu nhà ai cũng toàn
giỏi là giỏi. Năm ngoái nghe nói có cháu nào đó cuối năm không đạt giỏi khóc
đến chết ngất ngay trong lớp, phải đưa đi cấp cứu ở bệnh viện Nhi Trung ương.
Tiếng loang ra cả tỉnh, nhà trường phải họp khẩn, cho cháu lên loại giỏi. Cô
giáo Hiệu trưởng về bệnh viện thăm cháu và phát giấy khen học sinh giỏi ngay
tại giường bệnh. Phát thưởng hôm trước hôm sau cháu ra viện. Bây giờ nghe nói
cô hiệu trưởng đã được phong là Nhà giáo Ưu tú, được cấp trên điều về Sở hình
như làm trưởng phòng hay giám đốc gì đó. Thi thoảng vẫn thấy nói trên ti vi.
Nghe bực mình, lão nói to:
- Thế là sai! Thế là láo rồi bà ơi! Tôi đọc sách - sử
thấy thời Bảo Đại, người ta khuyên học trò là “cố gắng học hành tấn tới”. Thời
Bác Hồ thì người ta chúc các cháu tiến bộ mãi. Theo điều tra tâm lý học thì số
người giỏi trên địa cầu này chỉ chiếm năm đến mười phần trăm thôi. Mỗi lớp chỉ
có vài ba em học giỏi là vừa. Vì vậy nói “học hành tấn tới” hay “tiến bộ” là
nói đúng. Việc phấn đấu học hành là một quá trình rèn luyện. Đằng này như bà
nói giỏi cả lớp thế là siêu thực, là phi lý. Các cụ dạy “Mười ngón tay có ngón
dài ngón ngắn”. Vậy thì bao giờ mười ngón tay bằng nhau chằn chẵn thì mới có cả
lớp học giỏi...
Nghe ông nói gay gắt mà có lý, bà phải dùng võ của
phái yếu:
- Ơ! Sao ông lại to tiếng thế. Ra ngoài thì ông nhẹ
nhàng, với các bà các cô thì ông ngọt nhạt: anh anh - em em. Bao nhiêu năm ông
bay nhảy tung tẩy tôi đã không nói gì, bây giờ về nghỉ, ông chẳng giúp gì cho
vợ con lại còn cãi vã, hà hiếp. Rồi bà gục mặt vào đầu gối “hu... hu...”. Bà
khóc!
Lão im, một cảm giác gai gai, lành lạnh, lan từ xương
sống lên đỉnh đầu. Nén tiếng thở dài, lão đủng đỉnh rút lui trong im lặng. Từ
đó lão hết đòi ngủ chung cho tình cảm nữa.
Lão có hai thằng cháu, một thằng học cấp hai, một
thằng học tiểu học. Đều có giấy khen học sinh giỏi liên tục, Bằng khen treo kín
vách nhà. Thằng bé tiểu học gần ông nhiều hơn, tính nết cũng trẻ con hồn nhiên
lắm. Ông kể chuyện ngày bé ông đi học, phải đi bộ, buổi sáng nhịn suông, trưa
đi học về đói mờ cả mắt. Thằng bé hỏi lại:
- Tại sao mẹ ông không dỗ ông ăn, mà ông phải nhịn.
- Tại ngày ấy nhà nghèo, phải nhịn ăn sáng cháu ạ.
Thằng cháu bảo:
- Thế thì con mèo nhà cháu đến bây giờ mà vẫn nghèo.
Bố cháu làm giám đốc, lương to thế mà không cho con mèo một ít.
Nghe lạ, ông hỏi nó:
- Sao cháu lại bảo con mèo nhà cháu nghèo?
- Tối hôm qua, trước khi đi ngủ, bố cháu bảo mẹ cháu
cái gì đó, hai người cùng cười rồi bố cháu bảo: “Chả nhẽ thịt thì treo mà mèo
phải nhịn!”. Mèo phải nhịn, chắc là nó cũng nghèo như nhà ông ngày xưa thôi.
Ông nhỉ?
Lão không biết trả lời cháu thế nào, đành im. Nhưng
thằng bé vẫn không chịu nó gặng hỏi: - Ông nhỉ! Nhà con mèo nghèo nên phải
nhịn. Ông nhỉ.
Đến nước ấy lão đành phải ậm ừ:
- Phải! Con mèo nghèo! Chẳng thế mà nó cứ hay kêu
nghèo ngheo đấy thôi.
Một tối khác, lão kể cho thằng cháu nghe chuyện “Tấm
Cám”. Thằng bé con, mắt ngời sáng hóng chuyện, tay mân mê cái cằm lão mọc lún
phún râu làm cho lão sung sướng hạnh phúc đê mê. Đến đoạn cuối, cô Tấm được làm
vợ vua, lão kết luận: “Thế là từ đây đời cô Tấm không còn khổ nữa quả là ở hiền
gặp lành”. Chợt thằng cháu lớn ngồi bên bàn học nói chõ vào:
- Sao thế. Cô Tấm ác thế sao ông bảo là hiền được!
Thầy cháu bảo...
Nghe câu nói xiên ngang làm lão vừa tức, vừa cụt hứng,
vừa làm lão mất “uy tín” với thằng bé con. Lão hỏi lại, giọng hơi xẵng:
- Thầy nào bảo thế?
- Thầy giáo dạy môn Giáo dục Công dân trường
con. Hôm giảng về Bộ Luật Tố tụng hình sự, thầy liên hệ: “Việc làm của cô
Tấm ở phần cuối truyện Tấm Cám là hành vi giết người. Chiểu theo điều... khoản... của Luật Tố tụng Hình sự thì cô ấy phải chịu hình phạt tử hình. Hành vi
giết người rồi muối làm mắm là một tình tiết giết người man rợ, cần phải tăng
nặng hình phạt là tử hình. Không cho kháng án. Cộng lại cô Tấm phải chịu hình
phạt tử hình. Thầy cháu dạy Giáo dục Công dân có nhiều bài giảng hay lắm, liên
hệ sâu sắc lắm. Từ bữa đó lão không dám ho he kể chuyện ngày xửa ngày xưa cho
các cháu nghe nữa. Ông thầy giáo gì đó đã liên hệ vậy thì đúng là cô Tấm
cũng... Tự lão hồ nghi với chính mình!
Thằng cháu lớn có cái máy tính được nối mạng để học
thêm. Nhiều hôm nó tìm các tri thức trong máy tính để làm bài, khiến lão vừa
vui, vừa tự hào, hậu sinh khả úy. Tối hôm ấy có chén rượu, lão nằm lơ mơ, thấy
thằng cháu bé hỏi thằng cháu lớn điều gì đó. Tiếng thằng cháu lớn bảo:
- Dễ, bài ấy có trong máy tính, để anh “lôi ra” cho mà
xem.
Một lúc nghe thằng cháu bé nói thì thầm:
- Bài văn dài thế, anh đọc hộ để em chép cho nhanh.
Rồi ông nghe tiếng thằng cháu lớn đọc rõ ràng, chậm
rãi:
“Nhà em có nuôi một ông nội...” Lặng một lúc, tiếng
thằng cháu bé hỏi: “Đầu bài cô giáo ra là viết về ông em cơ mà! Sao anh lại đọc
là “Nuôi một ông nội!”. Tiếng thằng cháu lớn:
Thằng em cãi:
- Nhưng sao anh lại đọc là “có nuôi một ông...”
Thằng anh cáu
- Thì “Nét” nó viết thế đấy. Đây này. Chắc là sau khi
xem, thằng em xác nhận:
- Ừ nhỉ. Anh đọc tiếp đi ...
Lão nằm yên lặng và xót xa. Văn mẫu như thế hay ai bịa
ra câu mở đầu bài văn tai quái thế? Mai kia tả con lợn, con chim cũng tương tự
khi thay danh từ “ông nội” bằng từ “con lợn” hay “con chim chích chòe”...
Lão thở dài, thở ngắn, rồi thở đều đều... Lão ngủ.
Sau mấy cái va chạm nho nhỏ ấy, Lão và hai đứa cháu
như có phần xa nhau hơn. Dưới con mắt ông, thằng cháu nhớn không phải là đứa
trẻ con như ông nghĩ, mặc dù nó vẫn rất lễ phép chào hỏi, thưa gửi, gọi dạ bảo
vâng. Còn thằng bé có vẻ mến anh, gần anh, phục và thân thiện với thằng anh hơn
với lão.
Con trai, con dâu lão làm việc trên thị xã. Nó cho hai
đứa cháu ăn ở với ông bà còn chúng nó ở trên căn hộ gần cơ quan. Thứ bảy, chủ
nhật chúng nó về, cha con, ông cháu lại có bữa ăn tươi. Lương hưu của lão, lão
vẫn giữ, không ai hỏi đến, trong khi mức sinh hoạt ông cháu hàng ngày vẫn tươm
tất, chứng tỏ con trai và con dâu lão khu xử rất khéo.
Bữa ăn tươi có món thịt bê nhúng dấm, do con dâu lão
đạo diễn rất hợp khẩu vị. Con trai lão mang ra bộ ly pha lê Bôhêmin trong vắt,
hình khum khum như trái đào tiên và chai vang xanh Italia có tuổi gần bằng tuổi
lão. Lão nghĩ bụng đây là sự tình cờ mà gặp chai rượu ngon hay con lão, con dâu
lão đã sành ăn chơi đến mức này. Khui chai rượu rất sành điệu bằng một con dao
tây đa năng, có cái dùi xoắn ốc để mở nút li-e của chai rượu vang rồi rót đều
ra sáu cốc. Vợ lão đẩy ra, từ chối:
- Mẹ không uống rượu này
Thằng cháu lão nói:
- Bà nội cứ uống đi. Rượu này làm từ quả nho trồng ở
vùng cao nguyên Tu Rin và Mi Lăng phì nhiêu trong giải đất ven sông Pô chật hẹp
và màu mỡ. Thầy giáo con bảo ông tướng nước Pháp tên là Na-Pô-Le-On sang chinh
phạt nước Italia, cũng mải mê rượu ngon và gái đẹp. Về cuối đời ông tướng ấy bị
giam ở đảo.
Tự nhiên lão thấy bữa cơm vui vui, lão cầm ly vang
trao cho vợ lão và nâng ly của lão lên nói to:
- Uống đi bà! Rượu này nhẹ mà ngon đây! Cả nhà nâng
ly: Chúc sức khỏe.
Lão và con trai uống cạn ly, hai thằng cháu tham gia
chừng năm mươi - năm mươi. Vợ lão và con dâu chỉ nhấp môi. Vợ lão nhăn mặt:
- Nó thơm thơm chua chua như mùi quả dứa ủng ấy nhỉ.
Thôi để mời cha con ông. Nói rồi bà trút cốc rượu vào cốc của ông và của con
trai.
Thoáng chạy vào bếp, con dâu lão mang ra một đĩa đầy
bốc hơi, thơm lừng. Đặt đĩa vào mâm, miệng cười cười:
- Món mới đấy bố. Lươn xào sả ớt. Mời bố ăn nếm ...
Nói rồi nó lấy đũa sạch, thìa sạch múc lươn vào bát ông. Khi lão đang ngả người
vào thành ghế để rộng chỗ cho con dâu thao tác món lươn thì con trai lão đã rót
ba cốc rượu đầy, một cốc cho lão và hai cốc cho vợ chồng nó, rồi nó đứng lên,
lôi vợ nó đứng dậy và nói:
- Vợ chồng con chúc sức khỏe bố.
Lão thấy vui, lão cũng đứng lên chạm cốc và cạn ly.
Con dâu lão cũng cạn ly. Nó uống một hơi, mạnh dạn như mấy con đàn bà táo tợn
trong cơ quan lão hồi nọ vậy.
Vợ lão đã đứng dậy, hai đứa cháu đã xong bữa, con dâu
lão đã buông đũa nhưng vẫn ngồi cùng mâm, ý chừng để “hầu hạ” hai cha con lão.
Chai vang đã cạn mất ba phần. Lão nói:
- Giống vang xanh này, thơm, ngon, nhưng mà uống nhiều
cũng ngấm. Lão đeo mục kỉnh, nâng chai vang lên xem rồi nói tiếp “Sản
xuất 1950, sau thế chiến II năm năm. Ngày ấy ở Italia rượu vang đang được sản
xuất bằng thủ công. Già nửa thế kỷ rồi. Anh tìm đâu được chai rượu quý thế?”
Con trai lão im, đứa con dâu nói đỡ:
- Rượu kính biếu đấy. Bồ của nhà con kính biếu bố đấy.
Nghe vậy lão ngừng nhai. Nhìn thằng con trai “Hứ!” một tiếng. Thằng con buông
đũa ra lời:
- Nhà con cô ấy hay đùa. Rượu này là của cái Ngọc bạn
con, biết tin bố vừa về nghỉ chế độ nó gửi biếu. Bố còn nhớ cái Ngọc ngày xưa
hay đến nhà ta rủ con đi học, bị chó nhà ta cắn, bố phải lai nó lên trạm vệ
sinh phòng dịch trên tỉnh tiêm không? Tiêm được mấy mũi, thấy chó nhà ta không
rồ, nó không tiêm mũi nhắc lại nữa. Bố băn khoăn mãi. Bố nhớ ra chưa?
- Ta nhớ rồi. Cái con nhỏ gầy đen như củ súng, nhà
ngoài bãi sông chứ gì?
Con dâu lão:
- Vâng ạ! Chị ấy xưa đen, nhưng bây giờ trắng nõn nà,
đạt tiêu chí Hoa hậu cấp phường ba bốn năm liền đó. Bây giờ đang là tổ trưởng
dân phố của khu phố ta.
Lão chột dạ. Thôi chết. Ra nó là cái đồng chí vẫn điều
hành mấy buổi họp tổ dân phố vừa rồi đấy ư? Xinh. Tươi. Nền nã. Nói năng thưa
gửi lễ phép lắm. Không trách gì nó biết tên lão. Nó gọi lão bằng cụ. Hôm họp
đầu tiên nó còn giới thiệu: “Báo cáo với bà con, hôm nay có cụ Năng, nguyên là
cán bộ cấp tỉnh vừa được nghỉ chế độ về họp và sinh hoạt với tổ dân phố ta, đề
nghị bà con nhiệt liệt chào mừng”. Cả hội nghị chừng ba chục người mà cũng vỗ
tay lốp đốp râm ran. Cuối buổi họp hôm ấy nó còn nài: “Con mời cụ Năng! Cụ mới
về, cụ có quý kiến gì góp ý cho chúng con”. Hôm ấy lão thấy mình được tôn trọng
quá. Lão trịnh trọng đứng dậy cảm ơn lãnh đạo Hội nghị và hứa lần sau sẽ phát
biểu. Lại được cả hội nghị vỗ tay một lần nữa.
Đến phiên họp sau, vẫn cái chị ấy điều khiển hội nghị.
Lần này thì lão góp ba ý kiến: “Một là cái nhà nghỉ Ngọc Ngọc đầu phố ta, tôi
thấy có nhiều cháu choai choai chừng mười lăm, mười bảy, như học trò cấp hai
cấp ba mà cũng từng đôi nam nữ dắt tay nhau vào. Tầng một là quầy thuốc tây.
Tôi thấy có bán cả bao cao su, thuốc tránh thai. Đề nghị bà con xem thế nào kẻo
mà có khi nối giáo cho giặc, có khi gây họa cũng nên”.
“Thứ hai là có đoàn xe ben khổng lồ. Xe to đùng, mười
mấy bánh, chuyên chở đất đá qua phường. Tiếng phanh xì xì, kin kít và đặc biệt
là tiếng còi hơi chát chúa không ai chịu nổi. Phố ta có nhiều người già, trẻ
con, lại có cả trường học tôi đề nghị phải có công văn báo cáo lên trên yêu cầu
nhà xe bố trí đoàn vận tải ben đi tuyến khác xa khu dân cư”.
“Thứ ba là nhà trường tiểu học đã học hai buổi ngày,
tối còn cho học trò đến nhà cô giáo học thêm. Học suốt ngày đêm thì còn lúc nào
cho trẻ chơi, trẻ lớn. Hay nhà trường định đào tạo các cháu thành siêu nhân?”
Lão nói, cả hội nghị nghe. Cô chủ trì hội nghị ghi
chép tỉ mỉ. Cô bé xinh thật, tóc dài, da trắng, khi ghi chép má nó hồng lên,
môi chúm chím như mỉm cười. Lão nói xong, cô ấy nhẹ nhàng bảo: “Cháu cảm ơn
bác, để rồi cháu báo cáo lên cấp trên. Mời các ông bà, các cụ, các cháu cho ý
kiến thêm ạ”.
Chẳng ai nói gì? Thế là hội nghị giải tán.
Thằng con nói cắt ngang dòng suy nghĩ của lão:
- Còn ít rượu, bố con mình uống nốt bố nhỉ? Nói rồi nó
với chai, cầm cốc. Lão nói:
- Từ từ. Con dâu lão đế theo.
- Bố với nhà con uống nốt, để con vào múc cháo mời bố.
Cháo lươn bố ạ. Thấy nhà con bảo bố thích cháo lươn.
- Thế nhà cái chị Ngọc ấy làm gì ra tiền mà xây được
cái nhà to thế?
- Nhà nó có đám đất bãi làm rau. Khi mở mang thành phố
thì đất ruộng thành đất phố, nhưng đất rau vẫn còn. Mùa nào rau ấy, rồi bí, bầu,
su su, ớt, sả, hành, mùi. Ngày ấy lớp con có hai đứa tên là Ngọc. Cô này
nhà làm rau, tụi bạn đặt là Ngọc - Hành; Còn cậu Ngọc kia nhà cũng trồng rau, bị
bạn gọi là Ngọc Tỏi. Tụi con vào Đại học thì hai đứa cưới nhau. Vừa trồng rau,
vừa buôn rau. Mua rau ở bãi Sông Hồng, bán rau ở đầu nguồn sông Chảy, sông
Thao. Lại mua về măng, mộc nhĩ... Cứ đi hàng hai chiều như vậy mà phất lên.
Xây nhà nghỉ Ngọc - Ngọc và hùn vốn và vay ngân hàng mua ô tô tải mở công ty
vận tải vật liệu xây dựng... Mấy năm nay xây dựng nhiều, nhà nó cũng ngày càng
khấm khá.
Lão hỏi giọng có vẻ gay gắt:
-T hế ra cái đoàn xe vận tải đất đá, chạy ầm ầm như xe
tăng, đạp còi hơi kêu như còi tàu hỏa là của vợ chồng nhà nó đấy à?
- Của vợ chồng nó phần lớn, nhưng lại đội tên con một
ông cốp to tướng mà ai nghe cũng phải nể.
Con dâu lão bưng cái khay sứ lên với hai bát cháo đang
bốc hơi hôi hổi. Con trai lão cầm cốc rượu đưa cho lão:
- Con mời bố. Ông con mình uống cạn cốc này rồi ta ăn
cháo.
Nhận cốc rượu, lão chỉ uống một ngụm rồi đặt cốc xuống
nói:
- Vang này chát quá.
- Đúng đấy ạ. Đây là vang chát, từ Italia xuất sang
Pháp. Ở nhãn nó cũng ghi rõ rượu vang chát bằng chữ Pháp đấy. Lật nghiêng chai
rượu vang nó đọc to Vin rude au gout. Rồi nó nâng bát cháo nóng về phía
ông: “Con mời bố ăn cháo ạ, vợ chồng nhà Ngọc nó biếu chai rượu là quý bố chứ
không có ý gì đâu ạ. Tụi nó rành mạch lắm, làm ăn là làm ăn, tình cảm là tình
cảm. Bây giờ tụi nó không cư xử nhập nhằng như sách vở vẫn bịa ra đâu. Xe chúng
nó, hàng của chúng nó, đi đâu về đâu đã có người đưa đường vạch lối, ngăn không
lại đâu bố ạ”.
Bữa cơm ăn tươi của gia đình với chai vang vừa quý vừa
chát, cho lão ngộ ra nhiều điều. Quê lão từ làng lên phố, lão tưởng chỉ là cái
hình thức bên ngoài bởi vẫn những con người ấy; Hôm qua đi cày hôm nay đi buôn;
Hôm qua ở nhà vườn hôm nay ở nhà ống ... Không đâu! Họ không quê mùa như lão
tưởng!
Nhà lão vẫn để điện thoại bàn. Con trai lão nối đấu
các đầu dây thế nào đó mà nhà vệ sinh, nhà tắm, nhà bếp, nhà ăn, bàn uống nước,
giường ngủ... đều có điện thoại. Mỗi khi có ai gọi đến cả dàn điện thoại cái
gõ, cái rung nghe cứ cọc cọc, xì xì như một dàn nhạc đặc biệt. Giờ ngủ đêm
khuya, giờ hoc của cháu phải tắt điện thoại đi cho yên tĩnh. Con lão nó sắm
điện thoại di đông cho bà lão nhưng bà ấy cứ hay bấm nhầm nên gọi về không nghe
được. Có hôm thì quên sạc pin, có hôm lại bỏ cất trong tủ, khi gọi về chuông
reo, bà lại không tìm được chìa khóa mở tủ... Bực mình nó lắp hẳn một dàn điện
thoại nối từ một cái máy chủ, bà có ở ngoài vườn, ngoài sân, trong buồng hay
trong bếp... đều nghe tiếng máy đổ chuông và tìm đến chiếc điện thoại gần
nhất. Từ ngày ông về nghỉ hưu, ông có máy điện thoại di động, nhưng nó vẫn để
dàn điện thoại cố định ấy. Nó bảo: Máy là máy cũ người ta bỏ mình lấy về, cốt
chỉ để cho mẹ nghe là chính, mất mấy đồng thuê bao mà tiện lợi vô cùng. Có việc
gì gọi về, nói hàng giờ “buôn” thoải mái.
Hôm ấy lão Vẽm đang đứng ngắm nụ cây sen cạn. Thực ra
lão cũng chẳng sành điệu gì cái thứ “hoa nguyệt” này, nhưng lão thấy lạ, tại
sao lũ hoa sen cạn mới nhú, nó cong cong như lưỡi câu, màu tim tím giống như
một loại cỏ ngoài đồng nội mà thuở chăn trâu, lão và lũ bạn hay hái để “chọi
gà”. Giữa lúc đó lão nghe vợ lão vâng dạ rối rít qua cái điện thoại:
- Dạ! Thưa! Cụ có được khỏe không ạ? Dạ! Chúng con vẫn
bình an ạ! Vâng ạ, các cháu vừa về hôm chủ nhật ạ. Dạ! Vâng ạ! Nhà con cũng vẫn
được khỏe ạ! Dạ! Nhà con có ở nhà đấy ạ! Vâng ạ! Để con ra gọi nhà con ạ. Dạ!
Cụ cầm máy đợi nhà con vào ngay bây giờ đấy ạ.
Vợ lão vội vàng ra nói đủ nghe.
- Ông vào đi, nghe điện thoại của cụ
Lão hỏi lại, tiếng nhỏ nhưng giọng có vẻ xẵng:
- Cụ nào?
Vợ lão không nói. Lão cầm máy.
- A lô! Ôi! Thầy ạ! Em khỏe ạ! Dạ! Vâng ạ.
Lão buông máy nói với vợ:
- Bà dọn nhà qua quýt đi. Ông Hải sắp vào chơi.
- Gọi ông là thế nào? Thầy Hải dạy cả tôi và ông. Thầy
ngang vai cha chú. Con mình gọi bằng ông, mình có cháu rồi phải gọi là cụ chứ.
Bà vợ lão vặc lại.
- Ơ cái bà này - Tiếng lão Vẽm - Biết một mà không biết
hai. Làm dâu nhà họ Vũ Đại, lên chức bà nội rồi mà vẫn còn dốt. Cái họ Vũ - Đại
ở làng này có hai cành. Phát triển theo hai hướng. Một cành bên này, truyền đời
chỉ đẻ con một. Thời trước Vua cho phép được đa thê, có ông lấy đến bốn vợ mà
cũng chỉ được độc một thằng con trai. Bởi chỉ đẻ được một con, nên tiền dồn,
của góp, cha truyền con nối, nên nhà nào cũng có lắm của ăn của để, lại toàn
chọn được các nàng dâu đảm đang, nên của cứ sinh sôi. Thời xưa lắm của thì
nhiều đất và có chút ít chữ nghĩa. Thiên hạ gọi cành này là: ‘Thiểu đinh - Đa
điền”. Lắm đất nên nửa sau của thế kỷ trước, cả cành này dính hoạn nạn. Đất nó
làm cho kẻ khóc người cười. Cả cái cành nhà tôi thở dài thườn thượt, oan khuất
đầy trời, nhưng miệng chỉ mếu khe khẽ cho nước mắt chảy lặn vào trong. Kẻ khóc
thì khóc thầm, người cười thì cười to ha há, hô hố, nhưng được một thời gian
thôi rồi lại khóc. Cái khóc lần này đa dạng hơn: Khóc than! Khóc vụng! Khóc
thầm! Khóc thút thít! Và lại cũng có người khóc rõ to ô hô a ha! Lại đến lượt
người khóc thầm năm xưa quay về với hòn dất và khiêm tốn “cười nụ”. Ôi chỉ là
cái hòn đất vô tri mà biết bao nhiêu thân phận khóc cười! Lại cũng vì hiếm con
trai nên các cụ mới đặt tên tôi là Vẽm! Những lúc rỗi rãi cũng đã có đứa bình
đến cái tên tôi: Vũ thì hàng chục nghĩa, Đại cũng có vài ba nghĩa nhưng Vẽm là
cái đồ đốt gì nào? Nếu là dấu nặng, nó là một động vật ở biển, dòng nhà ngao -
hến, nhưng mà dấu ngã Vờ-em-Vem-ngã-Vẽm! Cả một thế giới tù mù. Đếch đứa nào
biết nghĩa của nó là cái gì cả. Thế mà cũng có đứa bình được một câu: “Cái tên
của ông khó hiểu, nên lãnh đạo chưa dám tin ông hoàn toàn, nên phải “ngâm” ông
mãi ở chức trưởng phòng để tiện khống chế!”
Chẳng hiểu làm sao hôm nay lão Vẽm lại ngứa họng, ba
hoa thế?
Bà vợ giục:
- Ông ra cổng đi. Cụ đến rồi kìa!
Vẽm vội vàng chạy ra, đứng nghiêm, lễ phép:
- Chào thầy ạ!
Lão Vẽm chìa hai tay ra bắt. Ông khách cũng đưa hai
tay ra cầm. Ông cụ nói:
- Tôi với anh, có chút tình thầy trò. Kể ra anh chào
thầy cũng phải. Nhưng bây giờ về hưu rồi. Mình lại là anh em. Họ phải theo hàng
ông Vẽm ạ.
Lão Vẽm hơi lúng túng. Chắc lão đang phân vân. Đi
trước thầy, đưa thầy vào nhà có tiện không? Đi ngang hàng thì hẳn là không
được, đi sau thì hóa ra không hay. May quá! Ông cụ thông minh thế. Nói rồi cụ
khoác vai Vẽm như bè bạn đi vào. Vừa khoác ông vừa nói:
- Ông vẫn khỏe nhỉ, gần “cổ lai hi” mà còn săn lắm.
- Dạ! Em cũng phải giữ gìn. Dù sao mình đi công tác ở
tỉnh ngoài, từ việc tập thể dục tập thể buổi sáng cho đến sinh hoạt, ăn ở cũng
luôn phải ý tứ đấy ạ. Nhỡ ra sa chân lỡ miệng không có ai bênh.
Vợ Vẽm rất xởi lởi:
Cụ giáo Hải thong thả ngồi vào bộ xa lông mây, vật kỷ
niệm của cơ quan tặng Vẽm trước lúc về hưu. Cụ Hải nói:
- Chị Vẽm này, ngày trước tôi với chị là thày trò, chị
xây dựng gia đình với ông Vẽm thì chị là con dâu họ Vũ Đại nhà tôi. Theo hàng
trong dòng tộc ông Vẽm là vai em. Nhưng mà tôi thì dạy học ở trường làng, ông
Vẽm lại đi công tác ngoài kia, xa vời vợi, để gọi đúng theo hàng họ thì lại
phải “anh anh”, “em em” có khi không hay. Làng trên xóm dưới, họ nọ họ kia, tuy
không còn cảnh tranh nhau manh chiếu giữa đình, miếng tai hay miếng má nơi cái
thủ lợn cúng thành hoàng như ngày trước, nhưng mà bao giờ nó cũng hay có “sóng
ngầm”. Nay anh Vẽm nghỉ ở nhà, theo hàng họ thì anh ấy và tôi ngang nhau. Anh
chị gọi tôi bằng anh xưng em, hay xưng tôi, hay là thay các cháu gọi tôi là
“bác” cũng được. Tôi gọi anh chị bằng chú, thím cho thân tình. Đừng gọi thầy,
gọi cụ nó xa cách ra vả lại tụi trẻ nhiều đứa không biết cha ông chúng có chung
dòng máu mủ ruột rà, chúng nó lại cư xử với nhau như người dưng nước lã thì
nguy hại! Chú thím không để ý chứ sơ đồ nghĩa trang dòng họ đã xếp tôi với cô
chú vào cùng một dãy đấy. Họ xếp nhà tôi - đến tôi - đến chú- đến cô... đấy.
Hà hà. Sống chỉ mặt, chết chỉ mồ. Ít nữa, lũ con cháu lại nhìn vào bia mà réo
tên cúng cơm của chúng mình giữa đồng không mông quạnh.
Vợ Vẽm nhanh nhảu:
- Dạ vâng ạ, từ mai thầy cho vợ chồng em được gọi thay
cháu là bác ạ!
- Từ nay, từ ngay bây giờ, cô chú nghe chửa - Ông Hải
vừa mỉm cười, vừa chấn chỉnh.
Ông Hải chỉ hơn ông Vẽm chừng mươi tuổi, dạy cấp hai
trường làng. Ông ấy dạy Văn nhưng diễn đạt cục mịch như người dạy võ, được cái
ông biết “cục bộ dòng họ”. Cứ con cháu nhà họ Vũ Đại, dù trong giờ dạy ông quát
tháo, chì chiết thế nào thì mặc ông, nhưng khi cho điểm tổng kết bao giờ cũng
lên sáu bảy phẩy. Nếu ông làm chủ nhiệm thì hạnh kiểm đứa nào cũng từ khá trở
lên. Có lẽ nhờ thấm nhuần bài học: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” này mà
suốt đời ông chỉ dạy một môn, ở một trường từ tuổi thanh niên cho tới khi thành
ông lão. Về cuối đời công tác, cấp trên cũng đề bạt ông làm Phó Hiệu trưởng.
Ông được phân công phụ trách hành chính, giờ giấc mà đồng nghiệp hay gọi vui
là: “Nhà giáo loa đài trống mõ”.
Bà Vẽm là gái làng nên cũng là học trò ông. Nhờ ông
“nhẹ vía” nên học trò làng đều thoát cấp hai, có đứa học lên cấp cao hơn, có
đứa rẽ ngang tìm việc. Nhưng khi về làng, các thầy cô giáo cũ, người thì chuyển
đi, người thì chuyển việc, riêng ông vẫn ở lại trường thành cái cọc bấu víu
tình cảm cụ thể. Dòng họ Vũ Đại cũng thầm biết ơn ông. Bởi trong họ có một cành
đã một thời gian nan vì đất, nhưng nhờ có chút chữ nghĩa nên thoát ra ngoài
được. Rồi đất đổi, người đi, khối anh trở nên mở mày mở mặt. Kể ra đối với dòng
họ ông cũng là người có công.
Bà vợ Vẽm cứ xoắn xuýt lúc thì kể lại chuyện thầy dạy
ngày xưa, nhắc tên mấy bạn học cùng thời cùng lớp, rồi đề xuất:
- Thầy nói chuyện với nhà em nhé. Thưa thầy, cũng
thích thì rồi, cho em xuống bếp chuẩn bị tí chút để đón thầy xơi chén rượu
nhạt.
Ông Hải mắng:
Ô! Thím Vẽm này, chậm hiểu nhỉ. Đã bảo tôi là bác Hải,
là anh em mà thím cứ thầy mãi. Còn rượu thì cứ gì thích thì! Anh em tôi uống
lúc nào cũng được, nhưng hôm nay thì không! Hôm nay đến thăm chú thím và cũng
là để làm việc, để bàn giao cho chú Vẽm việc quan trọng của dòng họ. Còn thím
muốn nghe thì ngồi đấy. Không thích nghe thì vào bếp làm cơm cho các cháu đi
học về ăn. Đấy gần trưa rồi.
Ông nói nhỏ hơn, như nói riêng với Vẽm.
- Tranh thủ báo cáo với chú thế này. Tôi về hưu thì họ
giao cho làm “Chủ tịch Hội khuyến học” họ Vũ Đại nhà ta hơn chục năm nay. Năm
nay tôi vào tuổi bảy ba rồi, cũng mệt mỏi chú ạ, tôi đề xuất với họ chuyển cái
việc ấy sang cho chú. Nói thế chứ chú học nhiều hơn tôi, lại được thử thách ở
tỉnh bạn lớn hơn tỉnh ta, lại được hạ cánh an toàn mà làng quê không nghe tiếng
xì xào điều tiếng gì xấu xa về chú. Thế là trọn vẹn! Thế là xứng đáng làm
“gương sáng cho đàn em noi theo” rồi. Đến rằm này họp họ, cụ Trùm Nậy - đó là
tên ở làng quê - chứ tên trong gia phả là Vũ Đại Phong - trưởng họ sẽ công bố
quyết định bằng văn bản, gửi chú một cách minh khai và trang trọng.
- Ấy chết! Báo cáo... Lão Vẽm định nói “báo cáo
thầy!” nhưng kìm lại kịp. Báo cáo bác là em có làm cái hội, cái đoàn này bao
giờ đâu, cứ để bác làm là phải. Bây giờ bác không làm nữa thì bác bảo ai đó là
nhà giáo, giáo viên, giáo chức gì đó họ làm cho thuận hơn.
Tiếng ông giáo Hải nghe nhỏ nhẹ nhưng vẫn rành rọt.
- Thế này chú ạ! Ông trưởng họ đã cho họp với các chi,
các cành. Lại đã xin ý kiến của cả các bậc “lão thành” trong dòng tộc nữa. Ai,
ai cũng thấy chú làm việc này là hợp lý! Về học hành, về tuổi tác, về gia cảnh,
về... mọi mặt chỉ có chú là xứng đáng. Tôi là vai anh bởi vì họ ta có hai
cành. Chú là cành bổng, tôi là cành la. Cành la đã làm cái việc này hơn mươi
năm rồi, bây giờ lãnh đạo họ nghị quyết giao cho cành bổng vì về thực lực học,
lâu nay cành bổng siêu hơn cành la. Ngày trước cành này đã có người được vào
sân rồng thi đình, thời nay lại có người đỗ hai bằng Tiến sỹ sắp được phong phó
giáo sư. Các cụ trong họ bảo thời kỳ này hội nhập, lại đến chu kỳ cành bổng
phát, các cụ đã quyết cử chú làm.
Lão Vẽm cảm thấy ức ức như bị chèn. Quả thực lâu nay
lão có nhiều quan điểm không bằng lòng với cách giảng dạy, giáo dục của cả phần
vĩ mô ở cấp bộ, cấp tỉnh cho đến việc đánh giá, cho điểm, quản lý việc học,
việc chơi của con em trong họ, trong phường. Lão định phát biểu, định xây dựng,
nhưng nhận làm cái gọi là “khuyến học” này thì có tiện nói nữa hay không. Lão
hỏi lại:
- Báo cáo... Nếu tôi từ chối không nhận quyết định?
- Ấy! Ông Hải cười nhẹ, cười chỉ hở răng, nhếch môi mà
không thành tiếng. Chỉ ai nhìn vào miệng mới biết ông cười. Thời còn công tác,
cũng có lần không thích dạy lớp A, tôi xin sang dạy lớp B. Chú công tác cấp
tỉnh có thể không thích làm ở sở này, đề xuất với cấp trên cho được làm ở sở
khác, thậm chí vùng khác, miền khác. Còn bây giờ, chú về địa phương nói
là phố, nhưng thực chất năm xửa năm xưa nó là làng. Làng Vạc xã Tiên Châu. Dân
phố phần lớn là người mang họ Vũ Đại và họ Mai Đình. Cô ấy nhà chú là con gái
họ Mai Đình, tôi còn căng phông cắt chim hòa bình bay đôi trang trí đám cưới cô
chú: “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”. Chú nhớ chửa? Bây giờ chú còn lựa
chọn gì? Tôi và chú, ai trước ai sau chưa biết nhưng sẽ được đưa qua dãy phố
này, đi qua hàng dương liễu xanh xanh kia để về nghĩa trang dòng họ. Đi cùng vợ
con ta là tổ dân phố, là bà con ở số nhà bên chẵn, bên lẻ của con đường này,
thực chất là anh em không là bên nội thì bên ngoại của dòng họ Vũ Đại và dòng
họ Mai Đình. Hết hàng dương rẽ trái mấy chục mét là nghĩa trang họ ta... Anh
em mình về quê nghỉ hưu là lùi đến chân tường rồi, rơi tới điểm dừng rồi. Người
khôn ngoan là biết chọn điểm dừng đúng độ!
Nghe vậy! Vẽm im.
Như chớp lấy thời cơ ông Hải nói tiếp:
- Báo cáo chú, mấy năm tôi làm, nhờ phúc ấm tổ tiên,
nhờ chủ trương nhà nước hội nhập mở mang dân trí, nhờ cha mẹ các cháu giác ngộ
chăm lo, nhờ học trò có phần cố gắng nên con cháu họ Vũ Đại nhà ta học hành
giỏi giang. Ở tiểu học hầu như một trăm phần trăm học giỏi. Ở cấp hai cấp ba số
giỏi ngày càng nhiều. Gần như hầu hết tốt nghiệp phổ thông đều được vào Đại
học. Có cháu thi đỗ, có cháu được trường Đại học mời vào. Có đứa không đi thi
mà nhận được hơn ba chục bức thư có giấy báo mời tựu trường Đại học... Tôi làm
khuyến học hơn mười năm dòng họ ta được gần chục bằng khen, giấy khen từ huyện
trở lên về Khuyến học. Toàn bộ hồ sơ tôi ghi chép gần hai mươi cuốn vừa vở vừa
sổ tay. Quý nhất là cuốn Sổ Vàng khuyến học dòng họ Vũ Đại hơn một ngàn trang
khổ A4. Để hôm này tôi bàn giao cho chú. Thế chú nhẩy!
- Ấy! Thầy! À bác lui lại tí ti nữa, em đang ủ lạc
rang.
- Cho tôi kiếu! Chả là hôm nay bà nhà tôi cùng các bà
trong phường về hội tạ ở Dâu, con vợ thằng Dương lại về họp ở dưới huyện. Tôi
phải về để cho các cháu nó ăn trưa, chiều còn đi học thêm để nâng cấp. Còn rượu
thím cứ để đấy, chờ anh em tôi khi khác thong thả hơn.
Nói rồi ông Hải đứng dậy bắt tay Vẽm:
- Thế chú nhỉ. Cái khuyến học, hay cái gì cũng thế, ta
sống đến cuối đời rồi, làm cái gì, nói cái gì cũng phải chu đáo và thận trọng.
Phải lựa chú à! Người ta còn răn: “Thẳng mực tàu thì đau lòng gỗ”. Ở quê mà bộc
trực quá có khi gỗ không đau mà lại đau chính mình. Tiễn ông giáo Hải về rồi
lão Vẽm hỏi vợ:
- Thế con dâu ông Hải làm gì mà hôm nay đi họp huyện?
Hay ngại uống rượu mà ông ấy từ chối khéo vậy?
- Tôi tưởng ông biết rồi. Con dâu ông Hải là con bé Hà
vợ thằng Vũ Đại Dương đó. Cô ấy là Hiệu trưởng trường tiểu học phường ta. Nhà
giáo ưu tú, Hiệu trưởng trường đạt chuẩn quốc gia nên học trò phải giỏi mà cô
thì đi họp suốt ngày.
Nghe vậy, Vẽm trở nên trầm
ngâm. Lão đi chầm chậm vào nhà, đầu gật gù như một nhà hiền triết vừa ngộ ra cơ
sự.
LAI LÁNG TÌNH QUÊ
Hết giờ dạy học, thầy Mùi lại tưới hoa, những khóm hoa trồng trong khuôn viên vườn lớp vỡ lòng do thầy phụ trách. Mấy khóm nhài, khóm huệ, khóm cúc, dã quỳ, khóm cúc đại đóa, chậu sen cạn, vạt hoa mười giờ… Hoa đơn sơ, nhưng thầy vẫn chăm bẵm, đó là niềm vui, sự đam mê hay còn điều gì nữa thầy muốn gửi gắm vào hoa?
Thầy quay mặt ra đường, tai dóng vào hoa và đặt gáo nước tưới vào mỗi cây một cách chuẩn xác. Thầy làm say sưa tới mức cô Xoan phụ trách trại chăn nuôi và ông Mùi thọt chủ nhiệm hợp tác xã đứng ở ngoài hàng rào lớp nói chuyện, cười khúc khích mà thầy không hay biết. Cô Xoan nói:
- Mặt ông ấy ngoảnh ra mà sao không thấy chúng ta nhỉ?
- Ông ấy lác, ngoảnh mặt Sơn Tây, ngắm cây Hà Nội đấy. Ông Mùi chủ nhiệm nháy mắt với cô Xoan: Bố này chỉ lệch mỗi cái mắt thôi chứ các bộ phận khác đều khỏe vào loại A cả đấy. Đằng ấy có thích đây là mối cho:
- Ứ… ừ. Cô Xoan vừa nói vừa ưỡn cái ngực thây lẩy ra, vừa đặt vào lưng ông chủ nhiệm Mùi hai quả đấm thì thụp. Ông Mùi nhanh như cắt nắm tay cô Xoan:
- Muốn chết à?
- Chết thì chết, sợ gì? Ông Mùi bóp mạnh vào cổ tay, cô Xoan kêu:
- Ái! Đau em. Thầy giáo Mùi ngừng tay tưới cây, quay nửa vòng tròn cho mặt hướng vào cây hoa nghe ông Mùi nói:
- Mời thầy ra đồi Ba Búa nhận đất. Thực hiện nghị quyết của xã, ban chủ nhiệm Hợp tác xã Tự Lập quyết định cắt cho thầy một sào vườn.
Thầy Mùi “vâng” khẽ, xếp xô, gáo, lững thững đi theo hai người.
Đồi Ba Búa, nguyên là đồi đất sỏi gan gà, chỉ mọc lơ thơ tế, guột. Mấy năm trước, Hợp tác xã cấp thôn, đã trồng vào đấy một đồi cây loại lá nhỏ, thớ xoắn và phàm ăn. Cây lớn, người ta tỉa dần và bấy giờ mới vỡ ra rằng nó là loại cây chỉ thích ứng cho hai việc: Làm củi nung lò gạch và làm chất đốt cho trại chăn nuôi. Khi cây được đốn trụi, mỗi kỳ giông tố, sét cứ nhằm vào đồi mà đánh lửa. Mỗi cơn giông, mấy lần sét đánh vào đồi không ai đếm, nhưng người ta cứ thích số ba đặt tên nó là đồi Ba Búa.
Mùi lác - cứ gọi thế, vì cả làng vẫn gọi thế - là con trai nhà địa chủ Ngạn. Nhà địa chủ Ngạn phải phiêu dạt, ly tán. Mùi lác đang học trường phổ thông cấp ba của tỉnh bị gọi về, đội phân cho ở chái chuồng trâu của địa chủ Ngạn. Ngày ngày Mùi lác gánh sọt ra đồng gắp phân rơi bán lấy tiền mua khoai sắn sống qua ngày. Thấy Mùi lác có chữ, lại an phận lao động, một thời gian sau xóm Gẩu họp bàn và bố trí cho dạy vỡ lòng như một nghĩa cử làm phúc. Ấy thế mà chỉ ba tháng, lũ trẻ con xóm Gẩu biết tự lau mặt, rửa tay; biết thưa, biết vâng, biết dạ; biết ghép các con chữ, dấu thanh thành câu lục bát “Trong đầm gì đẹp bằng sen. Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng…”
Ôi! Cái tiếng bi bô vần, chữ của lũ trẻ nhà quê như làm cho bờ tre thêm ấm bới. Những bà mẹ trẻ lam lũ sau một ngày lao động quần quật, xoa xoa đập đập bàn chân bùn đất, nghiêng mình trên võng tre mãn nguyện và hạnh phúc nghe miệng trẻ bi bô: “Công cha như núi Thái sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Và những ông bố hiền lành, cần mẫn, chiều chiều cùng con trẻ thả lên trời cao những cánh diều lá tre được phết dán từ nhựa quả hồng tơ với tiếng sáo nỉ non, vi vu hi vọng.
Vài ba năm, từ trường cấp một của xã loang ra tiếng thơm:
- Trẻ con xóm Gẩu vào lớp một chững chạc và ngoan hơn trẻ con các xóm khác.
- Trẻ con xóm Gẩu không nói ngọng l, n như trẻ con các xóm khác.
- Tại hội nghị cán bộ xã, thầy hiệu trưởng đề nghị biểu dương lớp vỡ lòng xóm Gẩu…
Dăm năm sau thì cả xóm Gẩu gọi Mùi lác bằng thầy vì hầu như nhà nào cũng có con cháu được thầy rèn cặp, có đứa nay đã vào được trường cấp hai trên huyện. Làng xóm nhìn lại, đưa ra bàn ở hội nghị:
- Cho ông Mùi ăn “năm mươi cân thóc” một vụ là hơi bị đói đấy!
- Ai lại để ông Mùi nằm chái chuồng trâu ngần ấy năm nay! Thật là bất tiện.
- Ngày nghỉ dạy, ông ấy gánh sọt đi gắp phân bán được bao nhiêu tiền chỉ mua dầu, mua muối và mua sách. Khen cho người này thân phận như thế mà đọc sách để làm gì?
- Thì ngày xưa Đội xếp thế. Anh này ngày dạy học, đêm về chong đèn dầu hỏa làm đồ chơi cho trẻ và đọc sách, có biết đói rét là chi!
- Thôi thì thế này vậy. Cho lão dời từ chái chuồng trâu ra chái lớp học! “Vưỡn” thế thôi mà! “Vưỡn” là vô gia cư… Ác cái bây giờ lũ trẻ cả xóm, cả thôn gọi lão bằng thầy và anh em mình cũng gọi theo lũ trẻ…
- Hay là cho lão thôi dạy vỡ lòng.
- Không được. Mấy năm trước đã thử rồi! Hết cô Hoa rồi cô Nụ … cứ lăng xăng múa hát, còn lũ trẻ thì bẩn thỉu, nhếch nhác và dốt như nai.
- Ngày ấy dạy được ba tháng, cái cô Nụ tự dưng ễnh bụng ra, may mà gán được cho anh Seo mù hát xẩm ngoài bến Đoan. Bây giờ càng lớn thằng cu cỏn giống ông ba bị như lột.
- Ông ba bị là ai?
- Ai biết được, nói thế vào ai thì vào.
Lại có tiếng cười khúc khích, tiếng sột soạt cấu véo chỗ bóng tối cuối hàng hiên. Chủ tọa hội nghị vỗ tay bốp… bốp…
- Trật tự nào! Trật tự nào! Việc này kết luận thế này nhá: nghị quyết cho anh giáo Mùi dời chỗ ở từ chái chuồng trâu nhà địa chủ Ngạn ra chái lớp học vỡ lòng của xóm Gẩu. Anh Mùi có trách nhiệm dạy học, bảo vệ lớp, được dùng giếng nước trong vườn lớp, và mỗi vụ được hưởng sáu chục kilogam lúa hoặc lượng lương thực được quy ra lúa. Nào! Ai phản đối thì nói đi. Không ai nói cả. Thế là đồng ý. Thư ký ghi vào sổ Nghị quyết nhé.
Chuyển về chái lớp, thầy giáo Mùi quảy đi ba chuyến, sáu cái sọt đầy. Hai chuyến bốn sọt lồng phồng những đồ dùng, đồ chơi dạy trẻ và một chuyến hai sọt lặc lè đầy sách vở. Người ta đồn lão nhịn ăn để đọc sách, để viết lách quả không sai.
Ra ở chái lớp sáng hơn, thoáng hơn, thầy Mùi say mê công việc hơn. Thầy giã phấn trắng ngào trộn với nước hoa hiên, bột quả dành dành, nước ép quả mua, quả mồng tơi cùng nước gio và than củi tạo ra những viên phấn màu để vẽ tranh dạy trẻ. Từ tranh, lũ trẻ biết được con sư tử, con hổ, con báo; phân biệt được con gà, con ngan, con vịt, con ngỗng; vòng đời của con tằm qua luân hồi bốn kiếp: sâu - nhộng - bướm - trứng … Cứ đơn sơ như truyện kể mà lũ trẻ hiểu thêm đời.
Thầy Hiệu trưởng tiểu học khen học trò xóm Gẩu không chỉ không ngọng, viết chữ đủ nét, ăn mặc gọn gàng mà còn “biết” hơn, “khôn” hơn trẻ con nơi khác là vậy.
Nhìn quả đồi Ba Búa trọc lốc, chủ nhiệm Mùi bảo:
- Thầy thích hướng nào? Lấy hướng phía quả gò thoai thoải thầy nhé. Nó thoai thoải thì sau này cái vườn dễ cải tạo hơn.
Rồi lão trao cho cô Xoan một thanh tre đã được chuẩn bị sẵn.
- Đây, tính từ đây, em đo chiều dài đi.
Cầm thanh tre, cô Xoan đo như trẻ con chơi đánh khẳng. Cô cúi xuống, cái quần vải phíp xắn cao, lồ lộ bắp chân tròn lẳn trắng lốp, lồ lộ cái mông nây nẩy, lão Mùi thọt lom lom nhìn rồi nuốt nước bọt. Đo được một quãng, cô Xoan nhìn lão Mùi thọt cười tít mắt rồi nói buông xõng:
- Được chửa? Lão Mùi đế theo ngay: - Chửa!
Cô Xoan lại tiếp tục đo. Ba bốn lần “Được chửa!”. “Chửa!” như thế thì xong chiều dài. Mùi thọt tự đo chiều rộng bằng các bước nhãng chân của ông. Chân thọt, bước thấp bước cao, ông cứ nhảy đại. Cô Xoan nhìn ông Mùi nhảy rồi cười hơ hớ, không hiểu cô cười cái chân thọt tạo nên những bước nhảy tập tễnh dị dạng hay cô cười cái sức vóc lực điền no đủ, chân ếch, đùi dế chắc lẳn đang huỳnh huỵch nện những bước nhảy mạnh mẽ? Nhảy một lúc như thấy thấm mỏi, ông dừng lại và bảo: “Đủ chiều rộng rồi đó. Có chiều dài, chiều rộng, thầy giáo tự tay bắt cho bốn cái góc vuông để nó thành cái vườn hình chữ nhật thầy nhé!”. Ông liếc sang cô Xoan, rồi chống nạnh ngắm quả đồi nói đầy quyền uy.
- Nhiều chữ nghĩa, chắc là thầy bắt cái góc thước thợ không khó gì, nhưng phải làm cho nghiêm cẩn. Đo xong, thầy cắm cho bốn góc bốn gốc tre bánh tẻ, lấy đó làm mốc thầy tự rào cho thành cái vườn. Hôm nay tôi và cô Xoan cắm vườn cho thầy là thực hiện quyết định của xã nhưng cũng là tình, là nghĩa. Ai hỏi thầy cứ bảo “Lão Mùi thọt cắm cho tôi đấy! Nói thế, kẻo thiên hạ cũng lắm nhời”.
Như không nghe lời cảm ơn nhỏ nhẹ điềm đạm của thầy Mùi, lão quay sang cô Xoan:
- Tối nay ai trực ngoài trại nhỉ. Cô Xoan nói khẽ.
- Em. Rồi hai người sát bên nhau thủ thỉ đi về phía trại chăn nuôi.
Lão Mùi lấy vợ năm trước thì năm sau sinh được thằng bé Ngọc. Thằng bé tròn trịa, xinh xắn ai cũng mừng, nhưng liền sau khi sinh, vợ lão ốm. Cứ sốt nóng, mê sảng, phát điên phát cuồng, rồi một đêm ả trốn xuống ngòi tự tử.
Vợ chết, lão Mùi lao vào công việc thôn xóm. Lão làm đội trưởng thủy lợi đào đắp mương phai, rồi lại lao vào kiến thiết đồng ruộng, bờ vùng, bờ thửa. Lão làm được việc, dân quý, dân tin lão lắm. Thằng Ngọc được dì nuôi cho đi bú chực khắp làng, sau lại được cô nuôi cho đến khi biết đi, biết chạy. Thằng bé trắng trẻo, khỏe mạnh mà không biết nói. Bốn năm tuổi vẫn chỉ biết ồ ề … Đã có tiếng xì xầm:
- Nhà vô phúc: mẹ điên, cha thọt, con câm…
- Nhà nó có quả báo! Quả báo! …
Có người đã đưa ra hội nghị:
«Ai nói nhà đồng chí Mùi có “quả báo” là nói bậy. Hay là âm mưu kẻ địch ngóc đầu dậy! Đề nghị cho xác minh xuất xứ từ đâu? » Chưa ai nói gì, lão Mùi đã đứng lên gạt phắt: “Nhà tôi quả thực gặp nhiều điều không may, “quả nhân, quả báo” dân ta xưa nay vẫn nói. Có ai nói vậy cứ để cho họ nói, nói mãi rồi họ sẽ thôi”. Cái điều lão tự nói ra ấy làm cho lão trở nên đàng hoàng và tiếng xì xào “quả báo” cũng dần phai nhạt. Uy tín của lão trong dân như càng lớn thêm và đến đại hội thành lập Hợp tác xã toàn xã lão được bầu làm chủ nhiệm.
Tại hội nghị lãnh đạo mở rộng, lão Mùi thọt nêu ý kiến: Có ông giáo Mùi, không phải là xã viên vì dính thành phần, coi như làm thuê cho hợp tác xã hơn chục năm nay, mỗi vụ hưởng sáu chục cân thóc nhưng dạy học có kết quả tốt, cả xóm, cả thôn ai cũng gọi bằng thầy thế mà hết ở chái chuồng trâu rồi ra chái lớp. Tôi đề nghị xã cấp cho ông ấy mấy thước đất làm vườn.
Hội nghị im phắc. Hẳn là mọi người đang lưỡng lự, thì lão Tỏm thư ký vụ ủy ban đã tỏn tẻn cười rồi nói: Tôi xin có ý kiến và không chờ chủ tọa cho phép lão nói luôn:
- Việc này tôi biết. Đồng chí Mùi đã suy nghĩ cân nhắc nhiều lắm mới đưa ra bàn ở Hội nghị này. Tôi thấy xóm Gẩu có quả đồi Ba Búa sau khi chặt bạch đàn còn trơ trọi đó. Ta nghị quyết cắt cho thầy Mùi một góc đồi coi như tạ công thầy bằng một búa. Việc này tôi biết!
Tỏm nói đến đó rồi ngừng, nhếch mép mà không cười. Tỏm nhìn lão Mùi rồi đưa tay vớ chén nước trên khay uống chèm chẹp như nhấp rượu. Hội nghị bàn tán nho nhỏ. Có tiếng cười khe khẽ khi lão Tỏm nói “Tạ công thầy bằng một búa” nhưng không ai nói gì thêm. Chủ tọa hội nghị:
- Việc đồng chí Tỏm đề xuất có thể chấp nhận được. Ý đồng chí Mùi thế nào?
- Tôi chờ kết luận của Hội nghị. Tiếng Mùi thọt có vẻ xẵng. Chủ tọa hội nghị coi như không biết điều đó, đứng dậy nói:
- Vâng! Không ai có ý kiến khác thì hội nghị đồng ý đề xuất của đồng chí Tỏm. Cắt cho thầy giáo Mùi một sào ở đồi Ba Búa để làm vườn. Các thủ tục cụ thể giao cho đồng chí Mùi và Hợp tác xã Tự Lập thực hiện.
Hội nghị hôm ấy, lão Mùi được việc nhưng hơi nóng tai bởi lão Tỏm đay đi đay lại hai lần: ‘Việc này tôi biết”. Trong lãnh đạo xã, Tỏm vào loại “nhiều chữ” hơn anh em nhưng nói năng hay chọc ngoáy. “Việc này tôi biết” là Tỏm có ý nói móc cái công lớn của thầy Mùi trong việc chữa câm cho thằng Ngọc con trai lão Mùi.
Thằng Ngọc câm đã sáu bảy tuổi theo lũ trẻ ra lớp vỡ lòng, được thầy âu yếm vuốt ve như tình mẹ. Thầy dạy cho biết tự rửa tay, rửa mặt, rồi thầy cho chải tóc, soi gương, thằng Ngọc sà vào lòng thầy, tan lớp chẳng muốn về. Một hôm thầy săm soi cặp mắt lác, vất vả và thận trọng lấy ra trong tai nó mỗi bên một con đằng đằng (ráy tai) to như con ốc vặn. Thầy lấy bông tẩm cồn nút vào tai nó ba ngày. Sau khi tháo bông, thằng bé nhìn vào mồm thầy, mồm bạn tập nói bi bô ngọng nghịu. Thầy dày công, kiên trì, vừa dạy, vừa dỗ cho đến khi nó nói sõi, nói chuẩn như bao trẻ khác. Thì ra thằng bé bị điếc hóa thành câm. Bây giờ thằng Ngọc đã vào cấp hai học vào hàng giỏi nhất nhì trường huyện.
Lão Tỏm có ý “chọc ngoáy” chuyện đó. Biết! Nhưng lão Mùi không nói gì thêm vì đề xuất của lão cắm vườn cho thầy Mùi đã đạt.
Được đất, rào vườn, nhưng thầy Mùi vẫn ở chái lớp. Những ngày nghỉ dạy học, thầy gánh đất nạc đổ lên vườn. Cái đòn gánh, cái mai và hai sọt đất kiên trì, dẻo dai như “Ngu Công dời núi” chẳng bao lâu mảnh vườn đã bằng phẳng, màu đồi gan gà xưa kia đã thay bằng màu xanh của cà, của cải, của rau, dưa… Chủ nhật ấy, thầy Mùi đang mê mải bắt giàn cho dây gấc tía thì cơn giông vần vũ. Thầy vội vã về đã thấy cô Ngoan đứng ở cửa lớp chào lễ phép:
- Chào thầy giáo. Cháu nhỡ độ đường, xin thầy cho phép cháu đứng nhờ lúc mưa.
- Không giám, cô cứ tự nhiên.
Nói rồi, như không nhìn thấy khách, thầy Mùi vào chái khuân những “thùng”,những “chậu” to, “chậu” bé bày ra giọt gianh hứng nước mưa, rồi ra giếng tắm… “Thùng” đựng nước là cái bồ cật, được xảm phía ngoài bằng nhựa trám, nhựa quả hồng cho kín các lỗ đan, còn “chậu” là những chiếc rá to, nhỏ, cũng được tráng nhựa như thế, lại được gắn ở đáy ba mảnh gỗ để đặt xuống không bị nghiêng. Lần đầu được nhìn những “vật dụng lạ” Ngoan không khỏi ngạc nhiên, và từ ngạc nhiên pha chút ngậm ngùi!
Ngoan vóc người nhỏ nhắn, xinh dòn, là cháu nội địa chủ Thịnh. Bảy tuổi cô đã theo mẹ ra chợ buôn bán trầu không, vỏ quạch. Vài năm nay cô gánh hàng xén bán chợ huyện, chợ quê. Hai cái bồ nhỏ, hai hộp bày hàng có một mặt kính. Sáng bán hàng ở chợ, chiều gánh hàng về các làng quê: Tập giấy, quyển vở, cây bút, kim chỉ … Các vật dụng tầm thường mà thiết yếu. Người mua có tiền thì trả tiền, không có tiền thì đổi bằng sắn khô, khoai lang, nải chuối… Ai không có tiền, hiện vật, thì cứ lấy hàng rồi trả sau. Người ta đồn cô mát tay buôn bán, lại biết tin người như tin chính đức hạnh của mình. Họ mua chịu hàng rồi trả chứ không quỵt nợ, bao giờ! Đã đi khắp phố thị, xóm thôn trong cái huyện nửa đồi nửa ruộng này nhưng lần đầu cô thấy một người sống tùng tiệm, giản dị, và mộc mạc đến thế.
Cô tò mò nhìn vào chái lớp. Một kệ sách cao, vách treo la liệt những bức tranh hoa lá cỏ cây và những con vật: hổ, báo, gà vịt, bướm, ong cùng những con chữ to nhỏ… Một chiếc chõng tre đã cũ, một cái gối gỗ đã sờn và cái chăn nâu trấn thủ đã bạc phếch như là cổ vật từ đời xưa để lại…
Thầy giáo Mùi tắm xong, mặc bộ quần áo sang nhất mà thầy hiện có: cái áo vải phin nâu, cái quần kaki đã bạc, đôi dép cao su còn đủ các quai. Thầy lấy cái ghế đẩu duy nhất của lớp mời cô ngồi và thầy ngồi vào cái ghế băng của trẻ. Ngoan nói trước:
- Cháu là Ngoan, con ông Vượng xóm Chuôm. Hôm nay cháu đổi được thúng sắn khô và buồng chuối mật ngon lắm.
- Tưởng đâu xa lạ, chứ nghe thế thì hóa ra khác xóm mà cùng làng. Tôi cũng có được biết ông bà bên nhà, mà lâu ngày rồi, không biết ông bà bên ấy còn nhớ hay quên.
- Bố mẹ cháu ít nói ra, dưng mà không quên cái gì sất. Thầy có mấy thứ đồ đựng nước làm cháu ngạc nhiên quá.
- Không có tiền mua sắm thì phải tự tạo ra mà dùng thôi. Thế mà cũng đủ cái để rửa mặt, rửa rau, giặt quần áo, cái để tích trữ nước mưa cơ đấy.
- Thầy không có tiền mà mua được nhiều sách thế? Lại tranh ảnh nữa.
- Mua sách, đọc sách với tôi là công việc và cũng là niềm vui. Còn tranh thì mình tự tạo lấy để dạy học trò. Thế cô Ngoan có hay đọc sách không?
- Bố mẹ không cho đi học, nên cháu chỉ biết đọc với tính nhẩm thôi. Cháu đọc Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Nhị độ mai … Cháu thấy đàn ông có tài thì gian truân, đàn bà nhan sắc thì vất vả. Lại còn hai ông Lưu Bình, Dương Lễ thương quý nhau thế nào mà lại ngầm cho vợ mình giúp bạn? Chắc đó là chuyện bịa thầy nhỉ. Ở ngoài đời ai lại làm thế.
Mưa tạnh, cô Ngoan ra về không quên biếu thầy nải chuối mật. Thầy cho Ngoan mượn quyển Lục Vân Tiên. Vài tuần sau không mưa Ngoan cũng tạt vào trước là để trả sách, sau là để biếu thầy chiếc gương con…
Qua lại đôi ba lần rồi cô Ngoan gọi thầy Mùi bằng “anh” lúc nào không rõ nữa. Chọn ngày lành, ông chú của thầy Mùi cùng bác trưởng họ sang nhà ông Vượng xóm Chuôm xin chạm ngõ … Rồi ông chú cho bới tre, bà chị họ cho bới hóp, ông bác họ cho trăm tàu cọ, anh em đôi bên xúm vào làm giúp thầy Mùi dựng được căn nhà. Có nhà rồi là cưới vợ. Khối trai làng lúc ấy mới tiếc.
- Cái Ngoan được cả người lẫn nết, phải cái nhà nó dính thành phần, trai làng lâu nay cứ bỏ lơ bỏ lửng.
- Lão Mùi lác thế mà may. Mèo mù vớ cá rán.
- Ôi dào, ông giáo Mùi lấy cô Ngoan thì thiên hạ để yên, nhưng trai làng đụng vào lại khối chuyện rách việc …
Một hôm đã khuya, nhà thầy Mùi sắp sửa đi nằm thì ông Mùi chủ nhiệm đột ngột đến. Ông Mùi đối với thầy Mùi là chỗ thân tình, ân nghĩa nhưng cũng chỉ âm thầm giúp nhau thôi chứ đến chơi nhà nhau đã hiếm mà lại đến giữa lúc đêm hôm thế này hẳn là hệ trọng. Thầy Mùi tỏ ra vồn vã, cô Ngoan chào rất lễ phép rồi lui vào buồng. Lão Mùi không vào nhà mà đứng ngay bực cửa, nói nhỏ với thầy Mùi.
- Tôi có chuyện riêng muốn nhờ thầy, anh em mình ra ngoài cho dễ nói.
Thầy Mùi lác và ông Mùi thọt bước chùng bước thẳng dò dẫm đi. Trời se lạnh. Đêm yên tĩnh. Những viên sỏi gan gà trượt dưới chân nghe lạo xạo. Đến giữa đỉnh đồi, ông Mùi chủ động ngồi xuống, kéo thầy Mùi ngồi theo. Đêm thôn quê thanh bình. Lặng một lúc, lão Mùi vào đề:
- Tôi muốn nhờ thầy giáo. Chả là cô Xoan ở trại chăn nuôi và tôi lâu nay đã quý mến nhau. Hoàn cảnh của tôi như thầy biết đó, cũng thật éo le mà cô Xoan lại đang độ xuân thì hơ hớ. Trong công việc tôi và cô ấy cứ ra chạm vào đụng hết ngày lại đêm. Thế là chúng tôi chót dại thầy ạ. Nay hậu quả đã nghiêm trọng lắm rồi!
- Đã chót thì cưới. Chị Xoan chưa có chồng, nhà bác vợ mất, ai mà chẳng biết.
- Dưng mà thầy ơi! Cái sự đời nó không suôn sẻ thế. Mấy năm trước, khi anh Bình nhà bà Bầu nhận lệnh nhập ngũ, bà Bầu có đặt cơi trầu vào nhà bà Đào mẹ cô Xoan, xin cô Xoan làm con dâu, đợi đến kỳ anh Bình về phép thì làm lễ cưới. Anh Bình vào chiến trường mấy năm nay, tin tức thưa vắng. Bức thư cuối nhận từ giáp tết năm xưa anh ấy khuyên cô Xoan đừng chờ nữa vì kháng chiến còn lâu dài, chiến trường thì ác liệt mà xuân nữ chỉ có thì… Nhận thư cô Xoan khóc mãi, nhưng vẫn đi lại thăm nom bà Bầu như con cái trong nhà. Cái sự cô ấy và tôi xảy ra cũng là bức xúc tuổi trẻ, cũng có yêu thương và cũng do đụng chạm gần gũi mà không kiềm chế được. Nay việc đã lỡ… Đã ba tháng rồi! Sự việc đã đến lúc không còn che đậy được. Nếu không vướng thằng Ngọc thì tôi và Xoan sẽ bỏ làng cho đỡ tai tiếng thầy ạ… Nhưng nếu ở lại thì phải đàng hoàng. Tôi chủ động đề nghị cho tôi được kiểm thảo với tổ chức và bà con. Các anh chị chủ chốt cũng tán thành phương án ấy, thậm chí lão Tỏm còn nhận viết hộ cho chúng tôi bản kiểm thảo. Nhưng tôi không ưa tính lão ấy. Chúng tôi định nhờ thầy…
- Tôi cứ thấy vô lý. Tại sao anh chị phải kiểm thảo cơ chứ. Về luật pháp… Không để cho thầy Mùi nói hết, lão Mùi đã ngang lời:
- Luật là của cả nước. Còn đây là làng, là lệ làng… Với làng quê tôi dính hai tội: Thứ nhất là dụ “vợ bộ đội” mặc dù hai anh chị chưa đăng ký kết hôn. Thứ hai là chúng tôi đã chót… ăn cơm trước kẻng như người đời vẫn nói. Hơn nữa chúng tôi nghĩ muốn sống với làng quê thì phải đàng hoàng. Với cô Xoan tôi lại là người hơn tuổi, người lãnh đạo …
Thầy Mùi chưa học hết phổ thông, nhưng lâu nay thầy vẫn tự học, tự đọc để hiểu biết thêm, để dạy học trò. Sách mua, sách mượn, thầy đọc không phải ít, thế mà hôm nay ông Mùi thọt chân quê tầm văn hóa chỉ là lớp bình dân học vụ lại nói được cái lý sự bấy lâu nay giữa “Phép Vua và Lệ Làng” rành rẽ làm cho thầy vô cùng cảm động. Thầy nhớ như đã đọc ở đâu đó, câu nói rất hay mà thầy đã có lần ghi vào sổ nhỏ: “Những công dân lam lũ trong cộng đồng cần lao, họ có thể bị mù chữ nhưng không mù nghĩa, họ biết sống nhân văn và cao thượng với đời!”. Câu nói giản dị mà có sức cuốn hút lạ kỳ làm thầy Mùi vô cùng cảm kích: “Muốn sống với làng quê thì phải đàng hoàng”! Thầy Mùi như thấy ấm người lên, ấm áp kỳ lạ lan toả từ bờ tre trầm tích những cuộn khói lam chiều cùng hơi ấm từ những đụn rạ, cây rơm hòa hơi ấm của đất quê trắng phau, bở tơi qua bao mùa đổ ải… Hơi ấm ấy đang ngấm, đang tỏa, đang dâng ngập tình cảm và tâm hồn, xua tan những mặc cảm lâu nay thầy vẫn u hoài. Phải chăng đây là làng quê muôn thuở đã trải hàng ngàn năm với biết bao thăng trầm biến cải, có thể xuyến xao thế này thế khác nhưng so với ngàn vạn năm lịch sử nó chỉ như cái chớp mắt qua mau lại trả về vẹn nguyên xưa cũ làng quê.
- Như bây giờ tôi giúp bác thì giúp thế nào được. Ông Mùi nói ngay:
- Thế này thầy giáo ạ. Quá trình sai lầm của tôi và cô Xoan âm thầm và dai dẳng qua nhiều ngày, tôi đã ghi chép cả vào đây. Thầy lấy làm tư liệu rồi viết hộ cho bản tự kiểm thảo. Trách nhiệm thầy cứ quy cho tôi. Viết như thế còn giữ sĩ diện cho cô Xoan. Phần kỷ luật thầy cứ ghi là tôi xin chịu mức kỷ luật cao nhất. Nói đến đó lão Mùi trao cho thầy Mùi một tập giấy và quyển vở. Lão Mùi không nói “cảm ơn”, cũng không có bắt tay tạm biệt. Họ lặng lẽ đứng lên rồi lặng lẽ đi về hai hướng.
Thầy Mùi về nhà, Ngoan vẫn chưa ngủ. Nàng hỏi:
- Có việc gì mà nói lâu vậy anh. Em cứ nghe lào thào. Thầy Mùi nói qua quýt.
- Ông ấy nhờ làm bản báo cáo thành tích.
- Thành tích về cái gì? Em nghe ngoài chợ họ xì xào cô Xoan trưởng trại chăn nuôi dạo này lông mày dựng ngược lên như bàn chông, da xanh tái, mạch cổ dật dật như là sắp có em bé! Nhiều người nói khéo cô ấy chửa hoang với lão Mùi. Thầy Mùi nói lấp lửng:
- Ôi dào! Thế nào kệ người ta. Mình có tí chữ họ nhờ viết thì viết hộ. Từ chối cũng không hay.
- Ấy là em nói thế. Thôi! Em đi ngủ, còn anh ngủ thì ngủ, thức thì thức nhưng hôm nay không được “làm nũng” đâu nhé để mai em còn dậy sớm lên chợ huyện và còn tạt vào lễ chùa.
Ngoan rất thương yêu chồng nhưng sống khá “nguyên tắc” và giàu đức tin. Ngày nào nàng đi lễ chùa thì hôm trước thầy Mùi bị “cấm vận”. Thầy chiều cô, “nhịn” mãi rồi cũng quen vả lại tính thầy cũng hay thức khuya đọc, viết. Đêm yên tĩnh, thầy Mùi đọc hết quyển vở học trò mà trong đó lão Mùi ghi lại tỉ mỉ mối tình của lão và cô Xoan. Bằng những con chữ đậm nét do bàn tay quen lao động đồng áng cày bừa cầm chắc cán bút nhấn xuống từng dòng kẻ. Lão viết những đụng chạm vô tình giữa cô trưởng trại chăn nuôi và lão trong ngày thường, những biểu hiện của cô Xoan thông cảm với hoàn cảnh côi cút của cha con lão. Cô Xoan đã dành tình cảm yêu thương bù trì cho thằng Ngọc, cô đã vào ra xếp nép cho căn nhà cha con lão bớt tuyềnh toàng. Rồi… một đêm mưa, con lợn Đại Bạch thuần chủng đẻ lứa đầu nhờ thụ tinh nhân tạo. Con lơn to dài như chiếc thuyền con, ì ạch thở khó nhọc khi nó chuyển dạ, rồi nó hôộc lên… Xoan và ông Mùi phải gãi, phải vỗ về, dỗ dành và nó lần lượt đẻ ra mười tám chú lợn con trắng phau đỏ hồng, con nào con ấy tròn dài mũm mĩm, trông mà no con mắt. Nhưng đẻ xong thì con mẹ lả đi, Xoan phải hòa nước đường, Vitamin B1 cho nó uống, rồi nấu cháo nếp đỗ dỗ cho nó ăn. Khi con Đại Bạch đã tỉnh táo, đàn lợn con đã lết đến tìm vú mẹ thì trời đổ mưa. Lúc bấy giờ hai người mới thấm mệt và đói. Gà trong thôn đã eo óc gáy, dễ đến hai ba giờ sáng. Cô Xoan nấu vội bát canh đỗ, hai người ngồi ăn ngay trên tấm phản mộc kê ở văn phòng trại chăn nuôi, cũng là chỗ ở, chỗ nghỉ ngơi của cô trại trưởng. Mưa rả rích. Đêm yên tĩnh. Cái phản hẹp. Mùi đàn bà ngai ngái, nồng nàn làm cho lão Mùi rạo rực. Lão ôm lấy Xoan. Cô đã chủ động quàng tay vào cổ lão và chủ động ngả nghiêng xuống phản. Lão Mùi dật tung hàng cúc bấm của chiếc áo cánh nâu non, áp mặt lão vào khuôn ngực tròn trịa nây nẩy, nồng nỗng ấm, nồng nàn thơm cùng lúc ấy như phản ứng tự nhiên cô Xoan co rúm người. Miệng cô cắn chặt vào bả vai lão mà nghiến… Một lúc lâu sau cô duỗi chân tay, rên khe khẽ, lão Mùi như bay trong làn sương bạc, bảng lảng, bồng bềnh… Ba hồi kẻng từ sân kho hợp tác xã gắt gỏng ngân vang, Mùi và Xoan mới bừng tỉnh… Sau đó còn nhiều lần, khi ở nhà lão Mùi, khi ở trại chăn nuôi… Ông Mùi viết lên những điều ăn năn, hối hận, xin lỗi tổ chức, xin lỗi bà con dân làng. Ông và Xoan đã đến nhà xin lỗi mẹ Bầu và đã được mẹ thông cảm. Ông tự nhận hết khuyết điểm về mình và xin nhận mọi hình thức kỷ luật. Phần cuối ông có mấy dòng viết cho thầy Mùi: “Tôi muốn thành khẩn kiểm điểm với tổ chức, với bà con để tôi và cô Xoan được bà con tha thứ, để chúng tôi được sống thanh thản, đàng hoàng giữa chòm xóm làng quê. Tôi gửi kèm tập giấy, thầy viết giúp cho bản tự kiểm thảo để tôi chép lại gửi cho tổ chức.”
Chợt thầy Mùi nhớ lại lời bà nội của thầy. Bà bảo: “Ông nội cháu trước kia cũng theo đòi đèn sách, đã từng thi hương vài kỳ, được cái tú tài rồi về quê dạy học. Ông kê đơn bốc thuốc cứu độ bao người, còn đặt hướng nhà, chỉ huyệt mộ, can dán việc xích mích trong xã, trong làng. Xuân thu nhị kỳ ông nội và các ông Cống, ông Tú, cụ Cử gặp nhau đốt trầm hương đọc thơ phú, rồi ngâm vịnh, bình, chú, lúc cười, lúc khóc với chữ nghĩa văn chương. Những lúc ấy bà thấy vừa thương, vừa trọng người có chữ. Ông con mất đi còn để lại tập “Đông Ngàn Sơn thủy Vịnh” trong đó có bài “Thiên Nhẫn Phù Vân” được cụ cử Nghiệp khen là “tuyệt bút”.
Thầy Mùi ngẫm ra cái sự bác Mùi nhờ thầy bây giờ cũng giống như ngày xưa vậy. Bà nội kể “ông nội từng “chỉ huyệt cho nhà Bủ Mai. Bố chết đói, phải bó chiếu rách, nhưng trước khi chôn vẫn xé mấy quả cau, lá giầu đến gặp ông nội kể rõ tuổi người quá cố, chết vào lúc nào để xin hướng huyệt, giờ chôn”. Việc lão Mùi tin ông, nhờ ông cũng là “nghĩa xóm, tình làng”. Riêng ông Mùi thọt với ông còn chuyện nọ nối chuyện kia cả một chuỗi. “ân nghĩa tình đời” sâu nặng.
Thầy giáo Mùi viết giúp và ông Mùi thọt đã viết lại. Nhờ văn thầy Mùi lưu loát hay là việc ông Mùi thọt trình bày thành thực mà khi đọc lên bà con “thương” nhiều hơn “giận”. Bà Bầu cũng đã tìm gặp từng người trong tổ chức để giãi bày. Bà bảo:
- Lúc đi bộ đội anh Bình đang học trường cấp ba trên tỉnh còn cô Xoan ở quê. Cơ sự là do tôi, thấy cô Xoan được người, được nết cũng tính bỏ cơi trầu cho hai trẻ nên duyên. Quả thực khi tôi nói chuyện như thế thì anh Bình và cô Xoan cũng ra chiều thuận. Nhưng anh Bình đi đã hơn sáu năm. Mấy năm nay không thư từ, tin tức. Đã có lần anh Bình viết trong thư khuyên cô Xoan đi lấy chồng. Anh Mùi vợ mất mà nhiệt tâm lo cho làng, cho xã. Nay anh Mùi, chị Xoan nên duyên cũng là phải. Tôi đề nghị tổ chức và bà con không nên vì cơi trầu của tôi mà làm khổ người ta…
Tôi về xóm Gẩu theo gợi ý của Ngọc trước lúc anh bay ra nước ngoài trong chương trình Quốc tế hợp tác khoa học bảo vệ môi trường sinh thái biển. Ngọc tâm sự: Đời mình được đi nhiều châu lục, viết hàng chục cuốn sách, toàn chuyện trên trời dưới biển, thế mà cái miền quê nhỏ bé, bao la ân nghĩa tình đời xóm Gẩu lại chưa tả được một dòng. Về đó cậu gặp thầy giáo Mùi rồi sẽ viết ra khối chuyện.
Thầy Mùi ở trong căn nhà một tầng, được thiết kế hợp lý, tọa lạc trong một khuôn viên làm cho tôi nhìn ngắm say sưa. Như đoán được ý tôi, thầy bảo: “Cả khuôn viên này ngót bảy sào, tôi thiết kế theo hình mẫu V.A.C hiện đại. Có nước, phân đầy đủ, cây cối cho hoa trái quanh năm vui lắm. Khởi thủy vườn này do ông Mùi bố cậu Ngọc cắm, ghi trong sổ sách là một sào vườn đồi. Sau này theo quy hoạch phải đo đạc lại, tính chi ly đâu gần bảy sào, thế mà cậu Thênh trưởng ban địa chính xã bảo với mấy người cùng đi: “Chúng mình ghi vườn thầy là năm sào thôi nhé. Ghi thế hàng năm thầy đóng thuế cho chẵn tiền”. Ái ngại quá, tôi bảo: “Làm thế rồi mang tiếng cho cả tôi và các cậu”. Anh ấy bảo: “Thầy tính ở xã này từ nhân vật to đầu nhất đến các ngành, đoàn thể và lũ choai choai như chúng em có ai không là học trò của thầy. Lớp các ông ấy nghỉ hưu thì đến lớp chúng em lên thay. Thầy yên tâm, ba bốn mươi năm nữa học trò của thầy vẫn làm chủ cái xã này”. Phải vật nài mãi các anh ấy mới ghi cho là sáu sào mười thước đấy. Bìa đỏ rồi sổ hồng các anh đều làm cho, lại còn ép nhựa mang đến tận nhà”.
Thấy thầy Mùi vui chuyện tôi gợi: “Cái lớp vỡ lòng xóm Gẩu ngày ấy bây giờ còn không ạ?” “Còn đâu, khuôn viên ấy được mở rộng và xây trường mầm non ngay sau khi tôi được điều động lên dạy trên trường tiểu học. Chả là sau này nhà nước có chính sách tuyển giáo viên vỡ lòng vào dạy cấp một (bậc tiểu học bây giờ). Lên đó tôi cũng chỉ chuyên dạy lớp một, nhưng cứ đến hè thì thầy hiệu trưởng lại yêu cầu tôi luân phiên rèn chữ cho số trẻ sáu tuổi ở tất cả các thôn trước khi vào lớp một. Có chút kinh nghiệm và trách nhiệm, học trò càng tiến bộ thì phụ huynh càng quý thầy. Tôi may mắn được trẻ con toàn xã gọi bằng thầy là nhờ vậy”. Thầy chuyên nước vào chén cho tôi và nói rất chân tình:
- Này! Hôm nay ông ở lại ăn cơm với tôi nhá. Bà nhà tôi về chơi với cháu ngoài Hà Nội nhưng thức ăn hai ba ngày đã chuẩn bị sẵn. Tôi cắm nồi cơm điện chỉ vài chục phút là được.
- Cho cháu xin kiếu. Chả là trước lúc vào đây, bác Mùi bố anh Ngọc có dặn cháu trưa nay về ăn cơm với bác, cháu đã nhận lời.
- Nếu đã hẹn ăn cơm nhà ông Mùi thì tôi không giám giữ.
Tôi gọi cho Ngọc báo tin tôi đã về xóm Gẩu gặp thầy Mùi. Anh ấy hỏi tôi: “Cậu thấy mắt thầy thế nào?” Tôi bảo: “Mắt thầy nhìn được bình thường rồi”. Ngọc reo lên: “Thế thì tốt lành quá. Chính con dâu của thầy mổ mắt cho thầy đấy. Con dâu thầy là bác sỹ, tiến sỹ nhãn khoa vào loại giỏi nhưng trực tiếp mổ mắt cho bố chồng thì cô ấy ngại. Cánh tớ phải xúm vào động viên mãi cô ấy mới dám làm. Thế là ca mổ đã thành công”.
Riêng tôi thấy yêu quý xóm Gẩu quá. Đường sá phong quang, nhà cửa đàng hoàng mà vẫn giữ được bờ tre bến nước. Tôi sẽ trở về xóm Gẩu nhiều lần nữa, để nghe, để hiểu, để viết và để xin thầy Mùi cho xem những điều thầy đã ghi lại trong mấy chục năm qua…
Viết trong chuyến đi điền giã
vào dịp rét Nàng Bân trước ngày Giỗ Tổ.
vào dịp rét Nàng Bân trước ngày Giỗ Tổ.
NĂM PHÚT
Trước kia đây là thị trấn nghèo. Ga xép này lèo tèo dăm ba quán vắng, nhà thưa. Giờ đây là thành phố, nhà ga được mở rộng, tấp nập người, hàng. Mỗi ngày có sáu chuyến tàu khách qua lại: Ba chuyến vào đêm, ba chuyến về ngày, mỗi chuyến đỗ năm phút.
Năm phút ấy có hàng trăm khách lên, xuống tàu, hàng chục tấn hàng vào ga, ra chợ: huỳnh huỵch, hùng hục, lam lũ, vất vả, khóc cười, gọi mời, giục giã, ồn ào… Tàu đến rồi đi chỉ trong năm phút, với bao hạng người lịch lãm, lôi thôi, đàn ông, đàn bà, người già, con trẻ.
Cứ mỗi chuyến tàu về ban ngày, bà giáo Mão lại ra ga, lên tàu, mang trong cái làn mây đã cũ, ba xâu nem chua bán cho khách đi tàu. Đây là nem chua đặc sản của làng Vạc xa xưa mà ngày nay sắp sửa bị thất truyền. Mỗi xâu một chục quả nem được buộc bởi những chiếc lạt giang nhuộm phẩm xanh, được xâu thành một chuỗi bởi lạt nhuộm phẩm hồng. Màu nâu nhạt của lá chuối khô bọc ngoài quả nem, cùng với màu xanh, màu hồng của lạt, trông đơn sơ, dân giã mà không kém phần trân trọng.
Nhiều khách mua đã quen hàng, thuộc giá, cứ thấy bà lên tàu là nhào đến đưa tiền lấy nem. Có người đeo ngay chục nem vào cổ như đeo chuỗi hạt, có người cất kỹ vào túi, vào đẫy mang về làm quà, có người tháo chuỗi nem ra mời, chia vui với bạn đồng hành: “Mời ông, mời bà, mời cháu. Các cụ dạy “Chuyên đò nên nghĩa”, nay ta cùng chung một chuyến tàu, xin mời nếm cùng tôi quả nem đặc sản quà quê này mà nhớ”. Như ra vẻ ta đây thành thạo, bà khách nói thao thao trong tiếng xình xịch, ken két của bánh tàu đang vỗ nhịp với đường ray: “Đây là nem của bà giáo Mão. Gọi bà giáo vì chồng bà dạy học, còn bà nguyên là thanh niên xung phong, về mất sức, không có lương. Mỗi ngày bà làm chừng trăm quả nem, chỉ bán trong ba chuyến tàu ban ngày, để thêm tiền rau, muối. Bà làm nem này theo quy cách làm nem của làng Vạc từ đời xưa truyền lại. Ngoài việc chọn thịt ngon, giã nhuyễn, ướp tẩm công phu theo quy trình công thức gia truyền, ngay đến cái lá lót, lá gói bà cũng làm kỳ công lắm: Lá đinh lăng nõn nà được ngắt tỉa từ chiều hôm trước, trong vườn nhà nguyên là đất phù sa ngòi Vạc, nó có mùi thơm dìu dịu như hương quế thượng ngàn. Những chiếc lá ổi non, nguyên lông tơ mịn, ngắt từ Trại Ổi tự ngàn xưa um tùm trên gò Vạc. Lá ổi, lá đinh lăng được rửa sạch bằng nước Giếng Ngọc của làng xưa. Một cái giếng truyền đời nước trong veo, những ngày nắng nhìn xuống giếng thấy mây bay lơ lửng giữa bầu trời. Lá chuối ngự non được chọn kỹ, rọc thành tấm, hơ qua trên lửa rơm vàng rồi lau sạch làm lá gói lót và những chiếc lá chuối già, lau sạch, rọc thành tấm, phơi giữa nắng trở nên màu nâu nhạt, làm lá bọc ngoài cùng” .
“Người xưa không gọi là “cái nem”; “chiếc nem”; “miếng nem” như bây giờ. Các cụ gọi là “quả nem” một thứ quà quê mà hương thơm, mùi quả. Nó cũng có giờ chín tới, chín muỗn và hỏng như quả na, quả ổi trong vườn.
Quả nem chín, tỏa hương thơm dịu nhẹ của hương đất, hương cây, một thứ hương thơm ngon ngọt. Bóc hết lớp lá chuối già ta cảm như có chút thoảng thơm mặn mòi của thứ nước mắm cốt, đặc sánh được chắt ra từ lu sành, ướp giống tép dầu béo ngậy của đầm quê. Và lõi nem màu hồng tươi được bao ngoài một cánh nhỏ lá đinh lăng và chiếc lá ổi non đã được xén cho vừa phải…
“Ấy! Mời ông, mời bà, mời cháu, bóc nem mà thưởng thức xem bà già này nói đúng hay sai. Quả nem vừa chín tới, khô, cầm tay mà cắn dè, ngẫm từ từ cho biết hương vị thơm thảo của quà quê”.
Hôm ấy, bà giáo Mão vừa bước lên tàu, ngay góc toa đã có người gọi lớn: “Cô giáo”! Miệng nói, tay hắn đón lấy cái làn mây, thành thạo móc ra ba xâu nem. Hai xâu hắn lồng qua đầu đeo vào cổ: Một cái đầu trọc, sẹo gồ ghề, tóc mọc lởm chởm và một cái cổ vằn vèo bao nhiêu là sẹo. Hắn cầm chục nem còn lại, tháo lạt và bảo: “Cô giáo bóc nem hộ cho con với”. Hắn bóc nhanh và bà Mão bóc đỡ, cứ hết phần lá chuối nõn là hắn ném tọt cả quả nem vào mồn, nhồm nhoàm nhai, ngấu nghiến nuốt. Có khi hắn nhai vài ba quả nem một lúc.
Ăn xong chục quả nem, mắt hắn sáng quắc, khuôn mặt hình lưỡi cày dãn ra. Mãn nguyện. Hắn nói:
- Con là học trò của thầy. Một đứa học trò không cha, không mẹ, ăn trộm, ăn cắp, ai cũng khinh ghét, chỉ riêng thầy luôn gần gũi, dạy bảo con. Những ngày con trốn học, bỏ giờ, thầy cho gọi con đến nhà dạy bù, phụ đạo. Dạy xong thầy cho xâu nem, ăn rồi nhớ mãi…
Con không còn tiền trả cho cô đâu, nhưng con có cái áo này gửi biếu thầy. Tấm áo vợ con đưa, ngày con nhập trại. Nó bảo: “Anh cầm lấy tấm áo này, nếu chết thì chôn theo, nếu sống thì khoác nó về với em”. Cô cầm cái áo cho con vui. Mấy năm con mặc áo tù, áo này còn nguyên như mới. Cô đừng ngại. Con vừa được đặc xá. Vợ con đang đợi đón con ở ga sau”.
Nói đoạn, hắn cởi áo, dúi vào làn mây, rồi đứng dậy lững thững bước sang toa bên. Trên cổ hắn toòng teeng hai vòng nem như đôi vòng xích, trông vừa ngộ nghĩnh vừa ngang tàng.
Đầu máy đã rúc một hồi còi dài, tiếng loa vang vang dục giã: “… Đã đến giờ tàu chuyển bánh…”.
Cô giáo Mão bật khóc. Cô nói như phân bua với mọi người: “Khổ tôi quá! Anh gì ơi! Nhà tôi đã mất rồi!” Không một lời đáp lại. Anh chàng kia đã nhòa giữa bao người.
Cô giáo Mão lập cập xuống sân ga vừa lúc tàu chuyển bánh. Đoàn tàu xình xịch đi về ga tiếp theo.
SÍNH LỄ
Thượng Lâu Đình tĩnh lặng.
Đêm xuân này trăng lu.
Đức ngài Hùng Vương Thứ Mười Tám nằm trên võng gai. Võng khoan thai đưa nhè nhẹ. Lão Bộc biết rằng Ngài đang thức. Võng gai, có dây tơ nối với cột hiên đình, Đức Ngài chỉ việc vuốt khẽ khẽ sợi dây là võng nhè nhẹ đưa. Tiếp thêm dầu trám vào bọng đăng, khêu nhẹ bấc cho đèn sáng hơn, lão Bộc lại lùi ra, khoanh tay, đứng bên tấm lịa, nhìn ra cửa lầu. Nhựa trám cháy tỏa hương thơm dìu dịu, ngọn đèn vừa khêu tỏa ánh sáng bập bùng làm bóng lão in lên vách lầu lay động. Tiếng con tắc kè bông làm tổ trên bọng cây chò già đã cất ba tiếng gọi bạn.
Lão Bộc nghĩ: Đêm đã vào khuya! Con tắc kè thấm cái lạnh của đêm xuân làm nó hứng tình? Hay nó đã ngủ thiếp đi trong cô đơn để đến thức giấc giật mình gọi bạn? Ngoài xa nữa có cây phong lan móng rồng nào vừa trổ hoa tỏa vào đêm xuân một làn hương ngọt ngào hòa cùng hương cây mộc bên hiên âm thầm thơm lặng lẽ. Lão Bộc thở dài khẽ như một giây xao xuyến, lão nói với lòng mình: Mùa xuân đã đến, mùa xuân đang chín, xôn xao, rạo rực, đem theo niềm khát khao, hi vọng của muôn loài.
Lão Bộc nghĩ: Đêm đã vào khuya! Con tắc kè thấm cái lạnh của đêm xuân làm nó hứng tình? Hay nó đã ngủ thiếp đi trong cô đơn để đến thức giấc giật mình gọi bạn? Ngoài xa nữa có cây phong lan móng rồng nào vừa trổ hoa tỏa vào đêm xuân một làn hương ngọt ngào hòa cùng hương cây mộc bên hiên âm thầm thơm lặng lẽ. Lão Bộc thở dài khẽ như một giây xao xuyến, lão nói với lòng mình: Mùa xuân đã đến, mùa xuân đang chín, xôn xao, rạo rực, đem theo niềm khát khao, hi vọng của muôn loài.
Lão Bộc có cha làm Bồ Chính, thuộc Bộ Cửu Đức(1) xa ngái kia. Từ tấm bé Bộc đã được cha dạy cho những bài học vỡ lòng về các thế võ gia truyền và làm quen với những miếng đánh, miếng đỡ cơ bản của các thế côn, quyền, cung, nỏ. Bẩm sinh trời phú, mới mười tuổi khiếu thao lược của Bộc đã nổi tiếng như sóng cồn: Bộ Cửu Đức mới xuất hiện thần đồng võ. Trong một lần kinh lý, đức Tiên Vương nhìn thấy Bộc thoăn thoắt múa gậy dưới đêm trăng rồi đem lòng thương mến. Bộc được theo Tiên Vương về kinh đô Phong Châu, được các Lạc Tướng kèm cặp, chỉ bảo. Mỗi một tuần trăng có ba ngày Mộc lại được các Lạc hầu đến giảng về kinh sách. Chẳng bao lâu, Bộc đã trở nên một trang thiếu sinh tài ba nổi trội. Về võ, Bộc tinh thông cả thập bát ban. Năng khiếu bẩm sinh hòa quyện cùng các thế võ được dạy bài bản, nhiều lần các Lạc Tướng đã xin đức Vua cho Bộc theo kèm bên ngựa đi trấn an dẹp loạn một vài nơi. Khi lên Bộ Vũ Định, một mình Bộc xuyên rừng vào hang lèn thẳm sâu bắt tướng phỉ... Bộc là người nổi trội, đứng hàng đầu trong lớp thiếu sinh. Vóc người chắc khỏe, gương mặt khôi ngô, tính tính điềm đạm, nói năng kiệm lời, đặc biệt là đức trung thực thẳng thắn. Nhiều lần Bộc được Tiên Vương ban thưởng, mười sáu tuổi Bộc đã được bàn việc cùng các Lạc Tướng. Mười tám tuổi Tiên Vương cho làm cận vệ, được theo bên ngựa hầu cận bất kể ngày đêm. Tiên Vương băng hà, Lang Cả lên nối ngôi, xưng là Hùng Vương Thứ Mười Tám vẫn chọn Bộc làm cận vệ và từ bấy vua tôi luôn gần gũi bên nhau.
Lo việc nước trăm bề, nhiều đêm đức vua không ngủ, chỉ có nhà vua và Bộc như hình với bóng. Những lúc ấy vua kê cao gối gỗ mộc hương, nằm trên võng gai lắc nhẹ, cho tâm hồn chìm trong tĩnh mịch đêm thâu mà luận suy, tính toán, hoạch định việc nước việc đời. Còn nhớ năm xưa, khi giặc buồm đen vào quậy phá, cướp của, giết người già, hãm hại đàn bà con trẻ, cả một bộ Ninh Hải dân khóc như ri, tiếng kêu than thấu trời dậy đất. Lạc Tướng, Lạc Hầu trấn giữ Bộ ấy đã nhiều phen dùng sức, dùng mưu nghênh địch, nhưng lũ giặc thiện chiến, biết lợi gió để căng buồm, biết chừng con nước ròng nước rặc mà vào ra, biết dựa vào đảo nhỏ đảo to mà ẩn nấp, lại có tướng giặc thạo phép độn giáp xuất quỷ nhập thần cho phép lũ quân như sói lang tha hồ man rợ làm cho quan quân Ninh Hải nhiều phen thất điên bát đảo. Đức vua Hùng Vương Thứ Mười Tám cùng Bộc, bí mật về Ninh Hải đóng vai người đi đổi cá lấy rượu để điều nghiên thực tế suốt cả một tuần trăng. Đức vua cứ lân la gặp các già làng, các Bồ chính mời rượu và hỏi chuyện:
- Rượu của ta có nhiều và ngon lắm! Ai có cá to mang ra ta đổi cho.
Hỏi trăm người, trăm miệng đều nói:
- Giặc chiếm mất biển rồi, dân chỉ còn biết ngày ngày lắc thúng, nhặt con tép, con moi. Không dám vào lộng ra khơi, không bắt cá to được.
- Sao không đánh đuổi quân giặc mà giữ biển? - Đức vua hỏi.
Thần dân đều nói:
- Đã đánh! Đánh nhiều trận rồi! Nhưng đành trong bờ thì ta thắng, đánh ngoài biển thì ta chưa thắng được vì nó có thuyền to, buồn đen căng như đám mây báo bão. Thằng tướng giặc, mặt đỏ như vỏ tôm he, thân to như ông đùng ông đoàng, cầm ngang ngọn giáo, đứng đầu mũi thuyền, phất cờ đốc chiến, trông nó vừa dữ tợn vừa hung hăng, bao nhiêu cung nỏ bắn tên vào, tên không xuyên thủng người nó được.
Đức vua lại hỏi:
- Tên tướng ấy có đi lại, chạy nhảy bình thường như người ta không?
- Nó chỉ ở trên tuyền. Chân đi khệnh khạng, tay vung kềnh càng - Thần dân thưa.
Đức vua vừa nghe vừa gật gật đầu, vừa vuốt chòm râu lòa xòa phơ phất chau mày ngẫm nghĩ.
Đêm ấy, Bộc lại dựng lều, mắc võng gai, kê gối mộc cho đức vua nằm nghỉ. Đêm nồm biển, trong gió hòa hơi biển, mằn mặn, se se. Chừng gà gáy sang canh chợt đức ngài gọi Bộc, giọng nhà vua sang sảng, chứng tỏ đức Ngài chưa chợp mắt:
- Này Bộc! Bộc chợt tỉnh ngay. Vội thưa.
- Dạ!
- Tên tướng giặc to béo, oai phong, đi khệnh khạng, mũi tên không xuyên qua được người nó, nghe vậy nhà ngươi có suy đoán gì không?
Lão Bộc lặng im chốc lát, như để lựa lời thưa, ngắn gọn nhất. Bộc nói:
- Thưa đức vua, vậy có thể là tên tướng giặc ấy có mang theo vật che thân làm cho người nó to thêm, bộ hành chậm chạp, mũi tên khó xuyên qua.
Nghe tới đây, đức vua vùng dậy, vỗ đùi nói với Bộc giọng rất nhẹ nhàng:
- Lời nhà ngươi nói, trúng với ý ta rồi!
Bất chợt nhà vua hỏi Bộc, câu hỏi như không liên quan gì đến việc đánh giặc:
- Ta nghe nói thủơ thiếu thời, nhà ngươi từng có lần thi lặn qua rào Mỹ Chậu - Hộ Độ ở quê nhà. Năm trước người ta lại đồn rằng nhà ngươi lặn một hơi qua Ngã Ba sông Bạch Hạc, lại còn mò vào các hang động dưới đáy cửa Lô Giang để bắt cá Anh Vũ cho dân làm gỏi tế thần Hạc Trắng, có đúng vậy không?
- Tâu bệ hạ? Đúng vậy đấy ạ.
- Vậy ra nhà ngươi có biệt tài hay có phép thuật gì mà ở dưới nước được lâu vậy?
- Thần chỉ bắt chước các bậc ngư phủ hàng cha chú ở quê nhà trong Bộ Cửu Đức mà thôi. Người ta cắt những ống trúc nhỏ cỡ ngón tay rồi nối lại với nhau. Khớp nối được làm bằng cây ruột gà, một loại giây leo mềm, dẻo, có nhựa keo mà hầu như trong vương quốc ta rừng, rậm nào cũng có, tạo thành cây trúc bách phân có hàng trăm đốt thông nhau làm ống thở. Lúc lặn sâu thuốn cá hoặc mò ngọc trai, ngư phủ ngậm vào miệng ống để thở còn đầu kia gắn vào phao câu cho nổi lên mặt nước. Cần lặn sâu thì nối ống thở dài cho đến lúc nào ngư phủ cảm thấy tức ngực, khó thở thì không lặn tiếp nữa.
- Vậy nhà ngươi có thể bày cho các ngư phủ của Bộ Ninh Hải cách lặn như thế để đục thủng đáy thuyền giặc được không?
- Bẩm được ạ.
Nhờ chước ấy mà dẹp tan hàng dãy thuyền to nhỏ của lũ giặc cướp buồm đen.
Sau chiến công ấy, Bộc được vua ban thưởng một vuông khố điều đỏ thắm như hừng đông, được dệt nên bởi những sợi tơ rút ra từ kén những con tằm chuyên ăn lá cây dâu tía, nhả ra kén hồng, lại được các mỹ nữ vùng Tiên Cát với đôi tay ngọc ngà kỳ công trau chuốt dệt nên. Loại lụa ấy đức vua dùng may áo ngự bào và để ban thưởng cho những ai có công lớn với nước nhà.
Bộc được theo đức Hùng Vương Thứ Mười Tám đi kinh lý khắp mười lăm bộ trong cõi bờ Lạc Việt. Đến đâu đức Vua cũng về với dân, hòa với các bô lão, già làng, Bồ Chính trong bữa tiệc vui, trong chén rượu buồn để nghe ngóng thời sự dân tình. Người phủ dụ dân hãy hiền thảo làm ăn, chăm lo nghèo khó, lá lành đùm lá rách đầm ấm thương yêu. Người gặp các Lạc hầu, Lạc tướng, tri nhậm cát cứ ở các Bộ để bảo ban, thăm hỏi. Đặc biệt, đến đâu Người cũng tìm gặp các Quan Lang, con cháu dòng tộc Hùng Vương được bổ nhiệm, phân về cát cứ các bộ, các vùng, Người nói:
“Vua Tổ sinh ra chúng ta, giao cho cai quản giang sơn Lạc Việt. Các quan lang được phân về cát cứ các vùng là nghĩa vụ và bổn phận thiêng liêng trước giang sơn và dòng tộc. Hãy thương dân như thương con; Hãy quý dân như quý mạng sống của mình. Gần đây ta nghe có người muốn ức hiếp dân để lấy ngà voi, gỗ quý. Thậm chí có kẻ còn rắp tâm cướp vợ, hiếp gái nhà lành. Đó là việc làm của lũ hôn quân vô đạo mà các bậc Tiên Vương đã từng nghiêm trị. Các ngươi phải nhớ: Hãy giữ lấy sự trong sáng của dòng tộc Hùng Vương như giữ sự sáng trong mắt mình vậy.
Trong kinh đô Văn Lang và các Bộ, khắp các thần dân, ai cũng ghi tạc lời phủ dụ quý như châu báu của các đấng tiên vương dòng dõi các Vua Hùng. Điều răn với các Hoàng Tử và công chúa như sau: “Ta sinh ra các con để cùng toàn dân làm cho Lạc Việt ta thêm giàu mạnh. Ta nuôi các con là nuôi hi vọng về sau, các con làm rạng danh Lạc Việt muôn thuở thịnh cường. Các Quan Lang hãy tích đức, luyện tài, rèn trí dũng, các Mỵ Nương hãy đảm đương, trung hậu, nết đoan trang. Với anh em trong dòng tộc, Hùng Vương cũng truyền đời lời ủy thác: “Chúng ta là anh em một nhà, trong cùng dòng tộc chi trên cành dưới phải đùm bọc nhường nhịn nhau đã đành, nhưng với muôn dân càng phải nhường nhịn thương yêu hết mực bởi tất thảy con dân Lạc Việt đều chung nguồn cội…”.
Được hầu hạ đấng Minh Quân như đức vua Hùng Vương Thứ Mười Tám, lão Bộc cũng thấy thỏa lòng. Đức Vua trị nước nghiêm minh, thần dân bái phục, trăm họ đồng lòng, triều chính chỉnh tề, các cận thần, các quan văn, võ theo thứ bậc phục tùng răm rắp. Muôn dân trăm họ chịu khó làm ăn. Hòa bình là dân nông trồng trọt cấy cày chăm chỉ; Có giặc là dân binh tầm vông, cung nỏ dựng lũy đắp thành, kẻ trước người sau xông lên liều thân giết giặc, giữ yên bờ cõi Lạc Việt ngàn năm.
Vài năm nay, công chúa Mỵ Nương cập kề đôi tám, có sắc đẹp tuyệt trần cá lặn chim sa. Đã đẹp người, nàng còn đẹp nết, đã khéo tay canh cửi vá may, lại được giọng hát ca, múa lượn, thường dạy các cung nữ và con gái các quan trong kinh đô Văn Lang những điệu Xoan, điệu ví. Những lần được theo cha kinh lý các bộ, các vùng, bao giờ nàng cũng nhập tâm bắt chước và mang về kinh đô những làn điệu mới. Tính nàng khẳng khái nhưng cũng giàu đức thương người. Có lần về Bộ Vũ Ninh, khi thuyền Ngự của đức vua neo trên sông Cầu Giang trong một đêm trăng thanh gió nhẹ chợt nghe trong bờ bãi ven sông ai đó cất lời ca:
“Thân em như khóm lúa tám xoan/ Đã bị ngâm nước mặn lại bị chan nước phèn” mắt Mị Nương ngân ngấn lệ, nàng xót xa cho thân phận của cây lúa đồng Lạc Việt và nỗi truân chuyên của thân phận con người.
Hay tin My Nương đến tuổi cập kê, hàng trăm chàng trai tuấn tú trong vương quốc rắp ranh xin làm phò mã: Người thì văn tài, người thì giỏi võ, người thì giàu có, người thì hào hoa... Nhưng khi biết tin Sơn Tinh, vị chúa miền non cao và Thủy Tinh, vị chúa miền nước thẳm đều đánh tiếng xin đức vua được đón Mỵ Nương về làm vợ thì tất thảy tự rút lui vì thấy mình chưa xứng tầm so tài đọ sức. Sơn Tinh và Thủy Tinh đều tự thấy mình tương xứng với tài sắc chim sa cá lặn của công chúa Mị Nương. Hai chàng trai tài ba nổi tiếng, tuy chưa được làm phò mã nhưng Thủy Tinh đã tuyên ngôn hùng hồn rằng: “Ta có tài hô gió gọi mưa, vẫy biển nước dâng, đe sông sông cạn. Ta có đội thủy binh hùng hậu hằng hà sa số quân. Ta có tướng Bạch Tuộc trăm vòi vào chiến trận có thể xuất chưởng làm mờ biển cả, làm tối tăm một vùng nước đặc sánh như đêm đen, đối phương có mạnh như kình ngư, như cua kềnh, như ông Ngừ biển cả... lập tức bị bắt, bị ăn tươi nuốt sống. Ta có tướng thuồng luồng sức mạnh vô song, vây như mái chèo quạt nước đùng đùng, đuôi như tầm sét đánh đâu chết đây, bụng ăn không biết no, mỗi lần há miệng đớp có thể nuốt sống hàng trăm sinh mạng: Ta có... Ta có...” Nghe tiếng Thủy Tinh oang oang khoe sức, khoe tài chúng dân Lạc Việt vô cùng hoảng sợ khi nhớ đến những cơn mưa dầm dề hàng tháng ròng làm thối đất chết cỏ, đồng điền ngập úng, núi sạt đất lở cơ cực lầm than. Bất kể đêm ngày lời Thủy Tinh oang oang vang khắp mương rãnh khe ngòi sông suối, vừa khoe tài, vừa thách thức. Đó là lời thách thức đối với Sơn Tinh hay là lời hăm dọa với cả mọi thần dân? Trong khi đó trên đại ngàn xanh thẳm Tản Viên, Sơn Tinh cùng quân gia ngày ngày cần mẫn luyện phép nâng đất, làm cho dòng Đà Giang hẹp lại, cho Ba Vì gần với Hoàng Liên ở Phương Bắc, cho Ba Vì gắn với Trường Sơn ở Phương Nam tạo nên biên lũy bảo vệ kinh đô Phong Châu, làm phên dậu chở che phía Bắc, phía Tây, phía Nam giang sơn cẩm tú. Nâng đất đến đâu, chàng cho trồng cây đến đó, cây mọc nên rừng. Đất ngăn nước, cây giữ nước tạo ra nhiều làng vui, bản ấm no lành.
Mãi không thấy Sơn Tinh đáp lời, Thủy Tinh càng đắc chí, chàng như đã cầm chắc phần thắng về mình, lại huênh hoang vẽ ra những tương lai huyễn hoặc: “Khi cưới được My Nương kiều diễm ta là phò mã tài ba dũng lược của nhà nước Lạc Việt, quyền thế uy danh lừng vang bốn cõi, ta sẽ vơ vét hết vàng lụa trong cõi nhân gian và châu báu trong bốn bề, xây cho nàng Biệt Điện Tướng Phủ nguy nga, tráng lệ, sang trọng đệ nhất thế gian. Ta sẽ mang ngọc trai châu báu chốn thủy cung làm vật cầu thân nhờ cậy Nam Tào ban cho nàng trường sinh bất lão. Ta phong nàng làm hoàng hậu miền biển thẳm. Ta sai nàng Tiên Cá luyện cho nàng giọng hát của biển khơi hòa trong dàn hợp xướng mê ly của những thần tiên cánh sóng có những đôi môi hồng như san hô, làm cho bao nhiêu thủythủ tài ba đắm đuối chốn trùng khơi chẳng nỡ rời xa...
Tựa đầu vào chiếc gối mộc gỗ thơm tì, tỏa hương dìu dịu, nhà vua suy tư lặng yên. Thấy chiếc võng chao nhẹ, tưởng nhà vua đã ngủ, lão Bộc rón rén lại gần khẽ khàng tém tấm đắp bằng da báo gấm. Chợt tiếng đức vua sang sảng cất lên, ngài chưa ngủ, tiếng nói rõ ràng, trong sáng, sang trọng: “Này lão Bộc! Ngày mai ta cho thiết triều công bố trước cung đình, trước Lạc Hầu, Lạc Tướng và đông đảo thần dân kinh đô Văn Lang lời thách cưới nàng Mỵ Nương với Sơn Tinh, Thủy Tinh. Nhà ngươi có cao kiến gì muốn nói với ta chăng?”
Lão Bộc chắp tay cung kính: “Bẩm đức vua, thần tưởng rằng việc đó đức ngài đã nghị đàm với các bậc trưởng lão, các quan lang, Lạc Hầu, Lạc Tướng ở kinh đô và khắp cõi Lạc Việt ta rồi!”
Tiếng đức Vua sang sảng: “Có, ta có nghị đàm, có nghe nhiều đề xuất tư vấn, nhưng chưa thuận tai, có người bảo hãy thách cưới nhiều rượu thịt cho toàn Lạc Việt túy lúy no say trong ba bốn ngày vui vẻ. Nhưng ta nghĩ no say rồi nước nhà Lạc Việt có cường thịnh hơn không? Có người khuyên nên thách cưới thật nhiều trâu bò, lợn gà, xiêm y, đàn địch, ngọc ngà, lụa là, châu báu, cho Lạc Việt nên giàu, muôn dân trưng diện, ăn chơi vui vẻ thỏa sức quên đời, lạc thú say sưa... Vậy thì bỏ bê đồng điền, ai cày bừa cấy hái, ai chăn tằm dệt vải, ai trấn giữ biên cương...
Có người khuyên ta thách cưới trái Đào Trường Thọ, ăn được trái đó, nhà vua trẻ mãi thiên thu, giữ ngôi báu mãi mãi của mình. Ôi! Thế ra bằng khuyên ta tham quyền cố vị ư.
Có người bảo, hãy thách cưới viên ngọc gia bảo của Vua Thủy Tề để khi ngậm vào miệng có thể rẽ nước mà đi như trên cạn, thu vào tầm mắt biết bao nhiêu sản vật, phong cảnh kỳ thú chốn thủy cung. Nếu vậy ta say ngắm cảnh lạ mà quên vương quốc này ư? Có người bảo ta hãy thách cưới “Duy nhất giác mã”. Đó là cái sừng độc nhất của con ngựa mọc sừng. Ngày ngày mài sừng đó trong nước uống có thể dư sức mỗi đêm tận hưởng lạc thú hàng trăm mĩ nữ cung tần. Hùng Vương Thứ Mười Tám trở thành ông vua đệ nhất phong độ dưới gầm trời Văn Lang, vượt trội ấy xưa nay không ai sánh kịp. Để rồi hậu thế chê cười ta là ông vua đệ nhất trụy lạc ư?
Chao ôi! My Nương công chúa là con ta, nhưng nàng cũng là thần dân Lạc Việt. Gả nàng cho ai phải được mẹ đất cha trời chứng giám, phải chọn được phò mã có tài ba giúp nước, giúp triều đình an dân, giúp cho bách tính muôn nơi an hưởng thái bình, tiếng hoan ca ấm no của khắp mười lăm Bộ toàn cõi Lạc Việt, từ Nam ra Bắc, từ Đông lên Đoài. Ta suy tư mãi chọn ai một trong hai chàng Sơn Tinh và Thủy Tinh làm phò mã để giúp ta làm cho nước thịnh dân giàu? Giờ thìn hôm nay tại dinh Hy Cương, dưới chân núi thiêng Nghĩa Linh và lăng tẩm của Tiên tổ dòng dõi Hùng Vương ta sẽ trịnh trọng ra lời thách cưới với hai chàng một cách công khai và rõ ràng trước toàn thể văn võ bá quan trong triều đình và đông đảo thần dân chứng giám. Lễ dẫn cưới gồm cả linh vật và báu vật. Linh vật là vật truyền thống thờ cha trời mẹ đất.
Ta chọn “Một trăm ván cơm nếp, hai trăm đệp bánh chưng”. Giang sơn ta có biển rộng, sông sâu, rừng rậm chứa hằng hà sa số báu vật trầm tích ngàn năm. Báu vật thách cưới phải thể hiện được sự quý hiếm còn phải biểu tượng cho tinh thần quật cường, thượng võ, bất khuất cao sang của tiên tổ và thần dân. Ta chọn “Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”. Voi và ngựa là những con vật kiêu dũng, thiện chiến đã nhiều phen xung trận, giương ngà giết giặc, tung bờm liều thân; Gà là linh vật, được cúng thờ tổ tiên và cũng là con vật cần phải có nhiều cựa cứng cựa dám nghênh địch với kẻ thù.
Đức vua nói như giãi bày với lão Bộc điều tâm sự. Chợt nhà vua hỏi:
- Ta thách sính lễ như vậy, nhà ngươi nghĩ sao?
Lão Bộc cúi đầu yên lặng. Đêm mùa xuân tiết trời về sáng như ấm hơn. Đó là tiết ấm áp cho xuân về thêm rực rỡ chồi dâng hoa nở, Lão Bộc đắn đo, rụt rè thưa:
- Bẩm đức Vua, thách cưới: “Một trăm ván cơm nếp, hai trăm đệp bánh chưng” là rất thuận lẽ đời, luật trời xưa nay đã định cho muôn dân. Còn “Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao” là báu vật của rừng. Liệu có gây khó cho Thủy Tinh chăng?
Bất chợt nhà vua ngồi dậy làm cánh võng chao nghiêng, Bộc vội vàng đến đỡ, nhưng trong nháy mắt nhà vua đã ngồi lại ngay ngắn vững chãi, ngài vỗ đùi, vuốt chòm râu cước mà cười! Nhà vua cười to, giọng cười vang vang, sang sảng đầy cảm khoái. Tiếng cười làm rung rinh cả mái đình Thượng Lâu, làm xào xạc cả những cây cao tán rộng quanh vùng. Nghe tiếng cười sảng khoái và kiêu dũng của Đức Vua, lão Bộc run bần bật, sợ nhà Vua quở phạt. Nhưng không! Người ngồi lại ngay ngắn, ánh mắt sáng thông minh, vầng trán cao nhân nghĩa, chòm râu cước hiền từ, tất cả như hòa đồng, cùng bừng tỏa sáng, ngời lên dưới ánh lửa dầu trám bập bùng.
- Nhà ngươi nói phải! Đó chính là điều ta suy tư cân nhắc không biết mấy canh thâu. Sơn Tinh và Thủy Tinh đều là những người tài. Nhưng ta chọn con rể không phải cho bản thân ta, cũng không chỉ tìm chồng cho con gái Mị Nương yêu dấu của ta mà là kén người hiền tài cho đất nước. Ta thấy Thủy Tinh cậy tài hô phong hoán vũ nhưng, ta e tài ấy dễ biến chứng thành độc tài nguy hại. Còn Sơn Tinh, chàng có thể giúp cho đồng điền thêm xanh, cho núi thêm cao, cho rừng thêm thâm u nhiều cây cao bóng cả, che chở dân lành. Sơn Tinh là một Hiền Tài! Ta thấy cuộc sống của Sơn Tinh tường minh chân thiện hơn. Ta mong muốn được chàng làm phò mã, với tài nâng đất, ta sẽ giao cho chàng trị thuỷ giúp muôn dân.
Ngộ ra ý tứ cao sâu của đức Vua, lão Bộc phấn khởi, lão ngắm đức Vua một cách cảm phục và sùng kính. Chợt lão Bộc thảng thốt kêu lên điều ngạc nhiên vừa xuất hiện không ăn nhập gì vào câu chuyện đang bàn:
- Bẩm đức Vua! Qua một đêm thâu mà tóc ngài đã bạc hết cả đầu, trắng như bạch tuyết.
Đức Vua lại vuốt râu, nở nụ cười hiền như bậc lão nông vẫn cười vui cùng con cháu:
- Vua cha ta thường dạy: Làm đức Minh quân không chỉ biết ngồi trên ngôi báu cho trăm họ tung hô vạn tuế mà cốt yếu là hơn người ở trí tuệ, hơn đời ở sự chịu khó nghĩ suy. Hãy nghĩ về muôn dân, hãy lo cho xã tắc, thì bao giờ tấm lòng cũng trong sáng, mà khi tâm đã sáng thì trí tuệ luận ra điều minh triết có lợi cho nước, có ích cho dân để lại tiếng thơm muôn thuở cho nhiều đời sau con cháu tự hào...
Xa xa đã văng vẳng tiếng loa, tiếng trống cổ vũ muôn dân trẩy về Nghĩa Lĩnh dự hội. Đức Vua bước ra sảnh Thượng Lâu, sai lão Bộc chuẩn bị ngựa ngự. Cả một vườn Thượng Uyển nơi Thượng Lâu rực rỡ sắc hoa đào. Cùng lúc ấy ở dinh Tiên Cát, Hoàng Hậu, Mỵ nương và các cung tần cũng đã xúng xính cưỡi đàn bạch tượng, che lọng vàng nhịp nhàng cùng tiếng loa dẹp đường, tiếng trống dồn giục bước.
Dọc Lô Giang, Đà Giang, Thao Giang trên bộ dưới thuyền quan quân, dân chúng rực rỡ, tinh khôi con Lạc cháu Hồng trẩy về Nghĩa Lĩnh linh sơn như nước xiết. Đức Vua Hùng Vương Thứ Mười Tám vận áo Long Bào, đội mũ Bình Thiên cưỡi con tuấn mã màu nắng hạ dẫn đầu đoàn quan gia từ Thượng Lâu đi ra, hợp với đoàn Bạch Tượng của Hoàng Hậu và công chúa tại trang viên Gia Cẩm rồi đoàn voi ngựa ngược qua Minh Nông - Thậm Thình. Dân chúng đứng kín hai bên đường hồ hởi tung hô vạn tuế. Bạt ngàn hoa đào rực thắm khắp đường thôn đồi dọc suốt đường đi. Ngày Hội kén rể hiền của đức Vua Lạc Việt năm ấy rực rỡ trong muôn cánh hoa xuân tươi thắm.
Trở về Đất Tổ sau bao năm tha phương
(1) Theo cuốn “Các triều đại Việt Nam” của hai tác giả Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng do Nxb Thanh niên in năm 2001 thì nước Văn Lang thời Hùng Vương chia làm mười lăm (15) bộ là: Văn Lang, Châu Diên, Phúc Lộc, Tân Hưng, Vũ Định, Vũ Ninh, Lục Hải, Dương Tuyến, Giao Chỉ, Cửu Chân, Cửu Đức, Việt Thường, Bình Văn, Hoài Hoan, Ninh Hải.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét