Bài đọc thêm:
THI CA VÀ TƯ TƯỞNG
TUỆ SỸ
Với cái tựa đó, tôi không cốt ý bàn riêng về một tập sách nào của ông Giáng, viết rải rác về các nhà thơ. Thi ca và Tư tưởng, cái đó muốn được đặt trong cách điệu Chung và Riêng, từ một cuộc Hội thoại trong cõi Hằng thể Tịch nhiên, vang dội những âm hưởng Nguyên sơ hiện hình giữa dòng Lịch sử, và vang dội với một câu hỏi ngân dài bất tận: “và để làm gì, thi nhân trong thời buổi điêu linh thống khổ?” (M. Heidegger, Wozu Dichter; Sương bình nguyên của Bùi Giáng). Câu hỏi đột ngột đứng lên giữa lòng Tư tưởng, như để đánh dấu chỗ sơn cùng lộ tuyệt trong bước đường phiêu lưu khốc liệt của Lịch sử, và cũng như là nỗi Ưu tư (die Sorge) của Tại thể (Dasein) đang hoài vọng những phương trời Viễn mộng Ban sơ trên bước đường Lữ thứ của Thi ca:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Nơi đó, nơi “Ngõ ban sơ” đó, còn là nơi của một cõi miền Hội thoại trong cách điệu tài hoa, mà Thiên nhiên đã phơi mở tất cả xiêm y lồng lộng của Tuế nguyệt phiêu bồng, đã giũ áo mù sa, đã trút quần phong nhụy, và kỳ cùng, tà huy lãng đãng bay cao cùng với Lời Thơ vọng về Hằng thể:
Được lời như cởi tấm lòng
Giờ bom đạn với phi thuyền trao tay
Lời thơ như đôi cánh chuồn chuồn, mà tất cả tinh thể của Tài hoa đã phơi bày trong cơn mưa lũ. Đôi cánh chuồn chuồn bay thấp thoáng, và Hằng thể luôn luôn trì ngự nơi Thiên nhiên Phơi mở. Mưa nguồn và nước lũ, cuộc Hội thoại trào ra những trùng trùng ẩn ngữ. Để làm gì, với ẩn ngữ, với bom đạn, với phi thuyền, với ngõ hạnh...? Để làm gì, với những cuộc Chung và Riêng? Cho đến tận cùng biên tế, và để làm gì, thi nhân...? Tới chỗ đó, cuộc Lữ bỗng mở ra hai ngã đường xuôi và ngược. Cuộc Lữ là để ra đi. Ra đi trước sự sụp đổ của một cuộc Hội thoại, vì thảm họa lịch sử trong viễn tượng đã trở thành những biểu tượng và những hiện tượng. Là đi trong thời buổi điêu linh thống khổ. Đó là từ lúc các thiên thần đã biến mất khỏi trần gian. Thế giới trầm mình trong bóng tối, và triết học đã tôn vinh Đồng nhất tính lên ngự trị. Dưới bóng mù tỏa rộng của Đồng nhất tính, triết học nỗ lực tạo dựng một thế giới quân phân trật tự. Trật tự cho lý tưởng Bình đẳng, trật tự cho lý tưởng Cộng hòa Thống nhất Âu châu: chỉ trong một sớm một chiều, Nã phá luân nghiễm nhiên được triết học tấn phong làm Anh hùng của Lịch sử mang bom đạn dội lên tất cả Lịch sử của Anh hùng. Cuồng phong trỗi dậy, cuộn Lịch sử đổ xô vào sa mạc, và, sa mạc lớn dần... Lịch sử Nguyên sơ biến thành một con sông nhỏ, xa mù và sa mù.
Sông ơi em bỏ sa mù
Đi thiêm thiếp cõi quân thù gọi nhau
Thế là ra đi trong lối về; trở về trong bước ra đi. Đó là cuộc Hội thoại của Thi ca trong Hằng thể; rồi giữa lòng của Hằng thể Tịch nhiên, phơi mở một cuộc Hội thoại của của Thiên nhiên và Lịch sử trong Thi ca. Cho đến lúc, Lịch sử trở thành thời buổi điêu linh thống khổ, thì bấy giờ lại là một cuộc Hội thoại của Thi ca và Tư tưởng. Nhưng, kỳ cùng phải thấy rằng, chúng ta đang từ một cõi Thơ này mà xoắn tay bước tới một cõi Thơ khác, trong cách điệu tương ứng song trùng. Trước hết, đây là cách điệu:
Was bleibel aber,
Stiften die Dichter.
“Tuy nhiên cái lưu tồn thường tại,
người thi sĩ dẫn khởi nó về trong lập định”.
Như thế là cách điệu Thi ca, Hoelderlin và Tính thể Thi ca. Đặt lời đó vào trong cách điệu Thi ca, vì đã bao lâu rồi, cái đó, cái gì đó (Was) cái bản lai thường tại, cái lưu tồn thường tại (bleibel), được triết gia khoác cho một vòng hoa lộng lẫy đặt tên là Đồng nhất tính, rồi bị đuổi đi, đuổi ra khỏi Quê hương trì ngự của Hằng thể; đi để làm kẻ thù, cho Lý tính mở những trận chiến Lịch sử bắt trở về làm nô lệ, và phải trả lời cho câu hỏi: Cái đó là gì? Was ist Das? Cái đó là tất cả cái có đó: Ce n’est pas indentique, c’est la même chose. Đồng nhất vì là đồng loại và đồng loạt. Cho nên bom đạn không trút xuống đầu một ai hay một cái gì, mà trút xuống mục tiêu. Mục tiêu là mục tiêu, không là Một hay là Hai. Sau trận bom từ vòm trời Lý tính dội xuống, sau sự sụp đổ của Một, Hai, Ba... Cái Gì Đó, sau cơn mưa lũ đó, cánh bướm lững thững bay lên, trong tiếng thì thầm Nhưng mà... Nhưng mà... aber... aber...
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Mộng ban đầu còn đó hay không còn đó, mộng ban đầu giữa vùng Sương bình nguyên Sơ nguyên, mộng ban đầu dưới vầng Trăng Châu thổ Nguyên màu: Ni cô Phùng Khánh Nguyên màu Sơ nguyên Đất trích đi vào Nguyên sơ. Cái thường tại tuy nhiên, người thi sĩ thiết lập: Was bleibel aber, stiften die Dichter. Tuy nhiên và thiết lập; thường tại và các Thi sĩ; Cái Đó vẫn là cách điệu nguyên sơ đó. Từ đó dấy lên những tương ứng, tương ngộ. Lời Cố Quận, bản Việt của Bùi Giáng về tập giảng thơ Hoelderlin của He
idegger, được mở đầu bằng “Xuân Việt Nam đọc sách”, với những lời này:
“Bài giảng về thi phẩm Quy hồi Cố quận (Heimkunft) là vào năm 1943. Trước đó một năm, hay là chính vào năm đó, ở Việt Nam có thằng thiếu niên Việt gặp được một vần lục bát in rơi rớt trên một tờ báo bạn đường: ‘Tâm tình một nẻo Quê Chung. Người về Cố quận muôn trùng ta đi’. Hình như man mác trong không gian, thường có những niềm tương ngộ”.
Những niềm tương ngộ, những cuộc trùng phùng, rằng từ ngẫu nhĩ...; nói khác đi, đó là những tao ngộ tình cờ trong một cuộc Hội thoại, phải là những cái tâm phúc tương cờ, tương nhượng... Và chính ở chỗ đó, Tính thể của ngôn ngữ tự hiển hiện: “Als Gespraech nur ist Sprache wesentlich: chỉ duy bằng hội ngữ hiệp ngôn, mà ngôn ngữ lịch hiện là ngôn ngữ tính thể” (Lời Cố Quận).
Ngôn ngữ của Thi ca đi về trong Hội thoại và trên đường về của nó, chúng ta có thể ghi lại mấy cách điệu sau đây. Trước hết là cách điệu của Thiên nhiên Phơi mở:
Em về giũ áo phù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay
Cũng có thể nói đó là cách điệu của chàng Kim khi ‘được lời như cởi tấm lòng’. Còn tấm lòng Riêng của mình lúc mà tấm lòng Chung đã mở. Chung và Riêng cùng gắn bó giao thoa trong tương ứng để cùng đi về trong cách điệu của Lịch sử:
Tay cầm cung bực xô ngang
Nửa chừng dâu biển lấp ngàn ước mong
Đó há không phải là cách điệu của chàng Kim khi ‘xắn tay bẻ khóa động đào’? Bấy giờ mới đến lúc khai diễn một trường Hội thoại. Hội ngộ đưa đường dẫn lối tới Hội thoại. Đường tới và đường lui, đi và về trên một nẻo Quê Chung, Hội thoại suốt canh dài trên bóng đèn mờ tỏ của Hằng thể, trong cơn gió rì rào từ ngoài kia và qua đó, dồn tụ về đó:
Gió lay lất bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hay tay
Tại sao lại phủi với hai tay, và nhất là phủi với hai tay?
Chúng ta thử tự tiện đổi đi một lời, sẽ tưởng tượng ra được một cuộc Hội thoại khác, trong cách điệu khác"
Mòn con mắt sầu đưa từ cổ độ (TS.)
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay (BG.)
Gió cuốn bụi thu mờ bay tới, và hai tay phủi bụi thu mờ, chính là niềm tương ứng, tương ngộ song trùng. Chính là lúc chàng Kim với: Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
Không thấy gì hết bởi vì thấy cỏ xanh rì và nước trong vắt. Nhưng cỏ xanh rì và nước trong vắt vì là không thấy gì hết. Thấy là thấy cái gì? Và không thấy cái gì? Hằng thể Tịch nhiên đang trì ngự ở đó. Từ chỗ đó, Thơ từ nơi tương ứng mà bước tới song trùng. Vậy, tương ứng như thế nào? Thì chúng ta cũng cứ tạm thời ghi lại đây một vài cuộc tương ứng.
Thứ nhất, tương ứng trong Lịch sử. Cuộc tương ứng này chuẩn bị cho chúng ta một bước nhảy để đi vào Hội thoại trong cõi Thơ.
Đoạn chót trong Lời dẫn cho Con đường điền dã, bản dịch Việt về Der Feldweg của Heidegger, in trong Sương Tỳ hải, ông Giáng viết như thế này: “Lẽ thanh khí, lẽ thần giao cách cảm, lẽ tương ứng Synousia, người xưa đã từng đạt tới sâu thẳm vô cùng. Vậy ta xin làm bài thơ chút ít đem gắn vào chỗ đó”. Và bài thơ, được trích hết từ đầu đến cuối ở đây:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điều tài tử qua
Ta về ngóng lại mưa sa
Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào
Chiên đàn đốt tặng chiêm bao
Điệu hoa lầu các đêm nào hóa sinh
Đài xiêu nhụy rớt bên mình
Sấu Thoan Nghê dậy bên mình đăm chiêu
Tỉnh oa khúc sĩ xế chiều
Bình minh phát tiết sương kiều lê pha
Rừng Ong gấu quấn quanh nhà
Càng nghe thấy cổng giang hà cửa truông
Sương tỳ hải dội lên nguồn
Ngàn xưa ôi lệ ngóng Nuồng Mô Din.
Những lời thơ như thế cũng có thể được coi là là những lời từ giã, khi các thiên thần sắp biến mất khỏi Lịch sử. Con người Tại thể bỗng thấy mình lạc lối đi tìm lại nguồn suối Mnémosyne, vì đã lạc lối trong nỗi niềm Lãng quên Hằng thể. Nhưng trong giông tố kỳ cùng của Lịch sử, khi mà ‘Đường đi xuống khung trời sương lỗ đỗ’, có con Thoan Nghê nằm tư lự bên mành viễn mộng. Những triết gia của lịch sử hóa thân làm con ếch ngồi đáy giếng để ngân lên ngôn ngữ của Lý tính trong buổi hoàng hôn của triết lý, để cho lịch sử trở thành thảm họa vây quanh.
Mnémosyne, Nữ thần của Hoài vọng, hay Thánh mẫu của Nàng thơ, đã mất hút cho Tại thể Con người đăm chiêu trong nỗi niềm Lãng quên Hằng thể: ‘O weh Mnémosyne! Wie soll ich sagen? Der Wind springt herum! (ibid). Đó là tiếng vọng bên dòng lịch sử, khi Nữ thần của Tư tưởng và Thánh mẫu của Thi ca đã cất cánh tung bay theo ngọn gió. Lịch sử đẩy thế giới đ như cánh bèo trôi nổi: ‘Thiên địa phiêu chu phù tợ diệp, văn chương tàn tức nhược như ty’: Thiên tài Tố Như đã mở ra cuộc Hội thoại cho những Homère, Empédocle, Hoelderlin, Nerval, Vương Bột, về thiên thu trong cuộc Hội ngộ, cuộc tao hùng, cuộc tương ứng, bên hồng quần quốc sắc Việt Nam: “Suốt trăm năm trong cõi người ta, Thanh Hiên Hiệp Lộ chỉ suy gẫm một điều: làm sao biến lịch sử làm Sử Lịch, dìu dắt Sử Lịch vào Sử Xanh bằng con đường của lục bát ca dao bảy chữ là ba của Logos uyên nguyên còn truyền là tiếng gọi trên con đường Cõi Đạo sơ khai trên ngã ba tam giáo” (ibid).
Vậy, đường đi vào Thơ, đi từ tương ứng Synousia, đi thẳng vào Ngôi nhà Hằng thể và ở đó đang có thịnh triệu của Nguyên ngôn Logos. Đó là đi ngược, đi trong cách điệu trang trọng của Tư tưởng. Nhưng cũng có thể đi xuôi, theo cách điệu phiêu bồng của Thi ca: “Tiếng gọi vèo bay trên dâu biển, nắm biên cương làm nên biên thùy kết tụ, thiết lập ngôi nhà tồn lưu bên nhịp cầu sa mạc đang ngồi nhậu la de” (ibd).
Từ tương ứng trong Lịch sử khai diễn một cuộc tương ứng khác, và khá hào hứng. Tố Như Tử như là ngôi nhà của Hội thoại Đông Tây, Thi ca và Tư tưởng cùng gặp gỡ dưới mái nhà của Hằng thể. Cho nên, người ta không lấy làm lạ khi Parménide nơi cõi trời Tây của Hy Lạp, đã chống gậy, đi về Hồng sơn Liệp hộ.
Ông nương theo cánh bằng tiện gió của Tố Như Tử mà đi.
Trong lịch sử Tư tưởng triết học Tây phương, Parménide đầu tiên đã chỉ ra con đường tư duy về Hằng thể: Ce qui à dire et à penser se donne est nécessairement: son être est d’être. Đó là một mệnh đề, mệnh đề nằm trong nếp gấp ẩn ngữ. Nhưng kể từ khi Platon đặt ra cuộc Đối thoại giữa Parménide và Socrates, Hằng thể trở thành một khối Vô hạn và Vô tận lầm lỳ bất động, và bị đặt dưới sự giám sát khắc khe của Lý tính, Nguyên lý Lý tính (Prince de la Raison). Thay vì Hằng thể trì ngự phơi mở, Lý tính đã đẩy Nó đi vào phiêu lưu lịch sử bằng Biện chứng pháp (Dialectique). Hegel khép chặt Hằng thể trong vận hành của Biện chứng để phục vụ cho lý tưởng thống nhất cộng hòa Âu châu. Thế thì, một cách nào đó, triết học Tây phương đã nhân danh Parménide để đày đọa Hoelderlin, cũng như Gia Long đã nhân danh Khổng Tử, dưới bóng cờ của Hình nhi hạ để đày đọa Tố Như Tử. Trong không gian, chừng như man mác có sự tương ứng của những thảm kịch khốn cùng của lịch sử. Parménide ngõ lời với Tố Như: “Làn ánh sáng Như Lai đã ngậm ngùi về trên mép bờ của Hình nhi hạ Khổng” (Trăng châu thổ). Cuộc Hội thoại đó là những lời ngậm ngùi như thế, của những Cô thần nơi đất trích của Lịch sử. Đây là lời của Tố Như nói với Parménide: “... do đó, bên xứ láng giềng, Hoelderlin vẫn luống công kêu gọi, và Hegel vẫn mặc nhiên lầm lỳ lung trạo sử lịch Tây phương một thời gian dài dậm duộc, cho tới ngày nay thì con cháu Hegel nảy nở tùm lum thiên hình vạn trạng ở tại sơn hà Việt Nam” (ibid).
Sau cùng của cuộc Hội thoại lịch sử hy hữu này, Parménide đọc bài thơ của Nerval để tặng Tố Như:
Và ta đã hai lần hai lượt thắng
Vượt giòng trôi tại địa phủ hoàng tuyền
Vì hai trận trên thất huyền Orphée
Gieo song trùng điệu Thánh nữ với Nàng tiên
Vì nhị bội chuyển cung cầm thủy lệ
Giọng Tiên nương thét Nữ thánh than phiền
Et j’ai deux fois vainqueur traversé l’Archéron
Modulant tour à tour sur la lyre d’Orphée
Les soupirs de la Sainte et les cris de la Fée
Tiên nương thét và Nữ thánh than phiền, đó là tiếng thét và lời than của Thi ca và Tư tưởng, giữa một sa mạc đang lớn dần suốt cõi Đông Tây.
Nguyệt tuyệt đao của Nietzche đã được vang lên để chận lại sa mạc đang lớn dần. Ẩn ngữ của Parménide cũng được tái lập cho Mái nhà của Hằng thể. Và như thế: “Heidegger giúp chúng ta đọc lại Khổng Tử trong vùng lập ngôn sương bóng lãng đãng rất mực vô ngần...” (Sương bình nguyên). Mái nhà Hằng thể được dựng lên nơi Hồng sơn Liệp hộ; chỗ đó, là nơi hội tụ của Như Lai Tu-bồ-đề, của Long Thọ và Nam Hải Điếu Đồ, của Hoelderlin, Nerval, Shakespeare, Huệ Thi, Công Tôn Long... vậy thì, đây há không phải là cuộc tương ứng trên Đất Trích, nơi tụ hội của thảm kịch lịch sử?
Tiếng đàn lịch sử vấn vương
Mười cung bạc mệnh lên đường lưu ly
“Tuy nhiên, trong tĩnh dạ thâm canh còn cái gì đương kết tụ. Niềm hoài vọng theo dõi mãi trên ‘dặm khuya ngất tạnh mù khơi’”. (Sương tỳ hải).
Tương ứng của Lịch sử đã giẫm chân chúng ta đi về nơi tương ứng của Đất Trích. Thi ca từ đó có thể đôi lần thay đổi cách điệu lập ngôn:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Xin chào giữa bước chân ra
Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn
Thử xem cách điệu lập ngôn có thay đổi như thế nào:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Ta về ngóng lại mưa sa
Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào
Những thay đổi khác cũng có thể được khơi diễn, cho các mệnh đề chính và mệnh đề phụ gắn bó nhau dẫn tới chỗ lập ngôn của song trùng nhị bội, như là những nếp gấp trong ẩn ngữ của Lịch sử hay Sử lịch.
Lỡ từ lạc bước chân ra
Mấy lòng hạ tứ màu hoa trên ngàn
Đó là Parménide làm thơ lục bát để tặng cho Tố Như Tử; lập ngôn trên bước đi của Nàng Kiều, và có thể dẫn tới đoạn đường khép kín trong thời đại của Brigitte Bardo, Marilyn Monnroe... vì là Lịch sử tụ hội giữa Hồng quần với khách Hồng quần...
Qua những lời chào giã biệt để lưu ly, lời thơ là Lời Cố Quận gieo về trong rừng núi A ly bê tê, đồng vọng những âm vang kỳ dị của Hằng thể:
Thiên thần hằng vi tiếu
Tạo hóa có buồn không
Vân lý tự nhiên thanh cách thiểu
Đản bằng trì ngự sứ quân thông
A mẫu diên đầu tranh nhứt trích
Túy trung thâu khước tiểu bồng sơn
Tham tha nhứt khẩu long đàm mạt
Uổng khuếch phiêu bồng bát nhã môn
Kim cương từ điệu lưu tồn
Dzuồng ơn ghếch tỏng đót sồn phai eo...
(Jung an Gestalt, doch stark, feiert es
Hebenden Streit unter den Felsen...)
Điệu lập ngôn trên diễn ra trên gặp gỡ ly kỳ của tất cả mọi cõi miền của ngôn ngữ của ngôn ngữ. Chúng tụ hội, và kết dệt thành một Hình bóng thanh xuân, hùng dũng. Jung an Gestalt, doch stark...? Và Bóng dáng thanh kỳ tú lệ nhưng kiêu hùng ấy là một cuộc gắn bó, giùn ghè, nó đón mừng cuộc tranh hùng thân thiết... feiert es Hebenden Streit...? Như thế há không là một cuộc tao ngộ tình cờ, rằng từ ngẫu nhĩ, giữa những nham thạch cù cưa, unter den Felsen? Trong khóe mắt em ngậm ngùi ngày đó
THI CA VÀ TƯ TƯỞNG
TUỆ SỸ
Với cái tựa đó, tôi không cốt ý bàn riêng về một tập sách nào của ông Giáng, viết rải rác về các nhà thơ. Thi ca và Tư tưởng, cái đó muốn được đặt trong cách điệu Chung và Riêng, từ một cuộc Hội thoại trong cõi Hằng thể Tịch nhiên, vang dội những âm hưởng Nguyên sơ hiện hình giữa dòng Lịch sử, và vang dội với một câu hỏi ngân dài bất tận: “và để làm gì, thi nhân trong thời buổi điêu linh thống khổ?” (M. Heidegger, Wozu Dichter; Sương bình nguyên của Bùi Giáng). Câu hỏi đột ngột đứng lên giữa lòng Tư tưởng, như để đánh dấu chỗ sơn cùng lộ tuyệt trong bước đường phiêu lưu khốc liệt của Lịch sử, và cũng như là nỗi Ưu tư (die Sorge) của Tại thể (Dasein) đang hoài vọng những phương trời Viễn mộng Ban sơ trên bước đường Lữ thứ của Thi ca:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Nơi đó, nơi “Ngõ ban sơ” đó, còn là nơi của một cõi miền Hội thoại trong cách điệu tài hoa, mà Thiên nhiên đã phơi mở tất cả xiêm y lồng lộng của Tuế nguyệt phiêu bồng, đã giũ áo mù sa, đã trút quần phong nhụy, và kỳ cùng, tà huy lãng đãng bay cao cùng với Lời Thơ vọng về Hằng thể:
Được lời như cởi tấm lòng
Giờ bom đạn với phi thuyền trao tay
Lời thơ như đôi cánh chuồn chuồn, mà tất cả tinh thể của Tài hoa đã phơi bày trong cơn mưa lũ. Đôi cánh chuồn chuồn bay thấp thoáng, và Hằng thể luôn luôn trì ngự nơi Thiên nhiên Phơi mở. Mưa nguồn và nước lũ, cuộc Hội thoại trào ra những trùng trùng ẩn ngữ. Để làm gì, với ẩn ngữ, với bom đạn, với phi thuyền, với ngõ hạnh...? Để làm gì, với những cuộc Chung và Riêng? Cho đến tận cùng biên tế, và để làm gì, thi nhân...? Tới chỗ đó, cuộc Lữ bỗng mở ra hai ngã đường xuôi và ngược. Cuộc Lữ là để ra đi. Ra đi trước sự sụp đổ của một cuộc Hội thoại, vì thảm họa lịch sử trong viễn tượng đã trở thành những biểu tượng và những hiện tượng. Là đi trong thời buổi điêu linh thống khổ. Đó là từ lúc các thiên thần đã biến mất khỏi trần gian. Thế giới trầm mình trong bóng tối, và triết học đã tôn vinh Đồng nhất tính lên ngự trị. Dưới bóng mù tỏa rộng của Đồng nhất tính, triết học nỗ lực tạo dựng một thế giới quân phân trật tự. Trật tự cho lý tưởng Bình đẳng, trật tự cho lý tưởng Cộng hòa Thống nhất Âu châu: chỉ trong một sớm một chiều, Nã phá luân nghiễm nhiên được triết học tấn phong làm Anh hùng của Lịch sử mang bom đạn dội lên tất cả Lịch sử của Anh hùng. Cuồng phong trỗi dậy, cuộn Lịch sử đổ xô vào sa mạc, và, sa mạc lớn dần... Lịch sử Nguyên sơ biến thành một con sông nhỏ, xa mù và sa mù.
Trung Niên Thi Sĩ Bùi Giáng
Sông chảy khơi vơi như một
dòng nước thiên thu bất động, càng xa càng bất động, như một dòng sông chết (chết
từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn). Cuộc Lữ của Thi ca cũng trôi theo dòng sông, đi về
nơi Hằng thể Tịch nhiên bất động. Trên những bước Lữ hành, Lời thơ trầm tư
trong nỗi ưu tư về Hằng thể vang vọng như thế này: Sông ơi em bỏ sa mù
Đi thiêm thiếp cõi quân thù gọi nhau
Thế là ra đi trong lối về; trở về trong bước ra đi. Đó là cuộc Hội thoại của Thi ca trong Hằng thể; rồi giữa lòng của Hằng thể Tịch nhiên, phơi mở một cuộc Hội thoại của của Thiên nhiên và Lịch sử trong Thi ca. Cho đến lúc, Lịch sử trở thành thời buổi điêu linh thống khổ, thì bấy giờ lại là một cuộc Hội thoại của Thi ca và Tư tưởng. Nhưng, kỳ cùng phải thấy rằng, chúng ta đang từ một cõi Thơ này mà xoắn tay bước tới một cõi Thơ khác, trong cách điệu tương ứng song trùng. Trước hết, đây là cách điệu:
Was bleibel aber,
Stiften die Dichter.
“Tuy nhiên cái lưu tồn thường tại,
người thi sĩ dẫn khởi nó về trong lập định”.
Như thế là cách điệu Thi ca, Hoelderlin và Tính thể Thi ca. Đặt lời đó vào trong cách điệu Thi ca, vì đã bao lâu rồi, cái đó, cái gì đó (Was) cái bản lai thường tại, cái lưu tồn thường tại (bleibel), được triết gia khoác cho một vòng hoa lộng lẫy đặt tên là Đồng nhất tính, rồi bị đuổi đi, đuổi ra khỏi Quê hương trì ngự của Hằng thể; đi để làm kẻ thù, cho Lý tính mở những trận chiến Lịch sử bắt trở về làm nô lệ, và phải trả lời cho câu hỏi: Cái đó là gì? Was ist Das? Cái đó là tất cả cái có đó: Ce n’est pas indentique, c’est la même chose. Đồng nhất vì là đồng loại và đồng loạt. Cho nên bom đạn không trút xuống đầu một ai hay một cái gì, mà trút xuống mục tiêu. Mục tiêu là mục tiêu, không là Một hay là Hai. Sau trận bom từ vòm trời Lý tính dội xuống, sau sự sụp đổ của Một, Hai, Ba... Cái Gì Đó, sau cơn mưa lũ đó, cánh bướm lững thững bay lên, trong tiếng thì thầm Nhưng mà... Nhưng mà... aber... aber...
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Mộng ban đầu còn đó hay không còn đó, mộng ban đầu giữa vùng Sương bình nguyên Sơ nguyên, mộng ban đầu dưới vầng Trăng Châu thổ Nguyên màu: Ni cô Phùng Khánh Nguyên màu Sơ nguyên Đất trích đi vào Nguyên sơ. Cái thường tại tuy nhiên, người thi sĩ thiết lập: Was bleibel aber, stiften die Dichter. Tuy nhiên và thiết lập; thường tại và các Thi sĩ; Cái Đó vẫn là cách điệu nguyên sơ đó. Từ đó dấy lên những tương ứng, tương ngộ. Lời Cố Quận, bản Việt của Bùi Giáng về tập giảng thơ Hoelderlin của He
idegger, được mở đầu bằng “Xuân Việt Nam đọc sách”, với những lời này:
“Bài giảng về thi phẩm Quy hồi Cố quận (Heimkunft) là vào năm 1943. Trước đó một năm, hay là chính vào năm đó, ở Việt Nam có thằng thiếu niên Việt gặp được một vần lục bát in rơi rớt trên một tờ báo bạn đường: ‘Tâm tình một nẻo Quê Chung. Người về Cố quận muôn trùng ta đi’. Hình như man mác trong không gian, thường có những niềm tương ngộ”.
Những niềm tương ngộ, những cuộc trùng phùng, rằng từ ngẫu nhĩ...; nói khác đi, đó là những tao ngộ tình cờ trong một cuộc Hội thoại, phải là những cái tâm phúc tương cờ, tương nhượng... Và chính ở chỗ đó, Tính thể của ngôn ngữ tự hiển hiện: “Als Gespraech nur ist Sprache wesentlich: chỉ duy bằng hội ngữ hiệp ngôn, mà ngôn ngữ lịch hiện là ngôn ngữ tính thể” (Lời Cố Quận).
Ngôn ngữ của Thi ca đi về trong Hội thoại và trên đường về của nó, chúng ta có thể ghi lại mấy cách điệu sau đây. Trước hết là cách điệu của Thiên nhiên Phơi mở:
Em về giũ áo phù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay
Cũng có thể nói đó là cách điệu của chàng Kim khi ‘được lời như cởi tấm lòng’. Còn tấm lòng Riêng của mình lúc mà tấm lòng Chung đã mở. Chung và Riêng cùng gắn bó giao thoa trong tương ứng để cùng đi về trong cách điệu của Lịch sử:
Tay cầm cung bực xô ngang
Nửa chừng dâu biển lấp ngàn ước mong
Đó há không phải là cách điệu của chàng Kim khi ‘xắn tay bẻ khóa động đào’? Bấy giờ mới đến lúc khai diễn một trường Hội thoại. Hội ngộ đưa đường dẫn lối tới Hội thoại. Đường tới và đường lui, đi và về trên một nẻo Quê Chung, Hội thoại suốt canh dài trên bóng đèn mờ tỏ của Hằng thể, trong cơn gió rì rào từ ngoài kia và qua đó, dồn tụ về đó:
Gió lay lất bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hay tay
Tại sao lại phủi với hai tay, và nhất là phủi với hai tay?
Chúng ta thử tự tiện đổi đi một lời, sẽ tưởng tượng ra được một cuộc Hội thoại khác, trong cách điệu khác"
Mòn con mắt sầu đưa từ cổ độ (TS.)
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay (BG.)
Gió cuốn bụi thu mờ bay tới, và hai tay phủi bụi thu mờ, chính là niềm tương ứng, tương ngộ song trùng. Chính là lúc chàng Kim với: Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
Không thấy gì hết bởi vì thấy cỏ xanh rì và nước trong vắt. Nhưng cỏ xanh rì và nước trong vắt vì là không thấy gì hết. Thấy là thấy cái gì? Và không thấy cái gì? Hằng thể Tịch nhiên đang trì ngự ở đó. Từ chỗ đó, Thơ từ nơi tương ứng mà bước tới song trùng. Vậy, tương ứng như thế nào? Thì chúng ta cũng cứ tạm thời ghi lại đây một vài cuộc tương ứng.
Thứ nhất, tương ứng trong Lịch sử. Cuộc tương ứng này chuẩn bị cho chúng ta một bước nhảy để đi vào Hội thoại trong cõi Thơ.
Đoạn chót trong Lời dẫn cho Con đường điền dã, bản dịch Việt về Der Feldweg của Heidegger, in trong Sương Tỳ hải, ông Giáng viết như thế này: “Lẽ thanh khí, lẽ thần giao cách cảm, lẽ tương ứng Synousia, người xưa đã từng đạt tới sâu thẳm vô cùng. Vậy ta xin làm bài thơ chút ít đem gắn vào chỗ đó”. Và bài thơ, được trích hết từ đầu đến cuối ở đây:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điều tài tử qua
Ta về ngóng lại mưa sa
Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào
Chiên đàn đốt tặng chiêm bao
Điệu hoa lầu các đêm nào hóa sinh
Đài xiêu nhụy rớt bên mình
Sấu Thoan Nghê dậy bên mình đăm chiêu
Tỉnh oa khúc sĩ xế chiều
Bình minh phát tiết sương kiều lê pha
Rừng Ong gấu quấn quanh nhà
Càng nghe thấy cổng giang hà cửa truông
Sương tỳ hải dội lên nguồn
Ngàn xưa ôi lệ ngóng Nuồng Mô Din.
Những lời thơ như thế cũng có thể được coi là là những lời từ giã, khi các thiên thần sắp biến mất khỏi Lịch sử. Con người Tại thể bỗng thấy mình lạc lối đi tìm lại nguồn suối Mnémosyne, vì đã lạc lối trong nỗi niềm Lãng quên Hằng thể. Nhưng trong giông tố kỳ cùng của Lịch sử, khi mà ‘Đường đi xuống khung trời sương lỗ đỗ’, có con Thoan Nghê nằm tư lự bên mành viễn mộng. Những triết gia của lịch sử hóa thân làm con ếch ngồi đáy giếng để ngân lên ngôn ngữ của Lý tính trong buổi hoàng hôn của triết lý, để cho lịch sử trở thành thảm họa vây quanh.
Mnémosyne, Nữ thần của Hoài vọng, hay Thánh mẫu của Nàng thơ, đã mất hút cho Tại thể Con người đăm chiêu trong nỗi niềm Lãng quên Hằng thể: ‘O weh Mnémosyne! Wie soll ich sagen? Der Wind springt herum! (ibid). Đó là tiếng vọng bên dòng lịch sử, khi Nữ thần của Tư tưởng và Thánh mẫu của Thi ca đã cất cánh tung bay theo ngọn gió. Lịch sử đẩy thế giới đ như cánh bèo trôi nổi: ‘Thiên địa phiêu chu phù tợ diệp, văn chương tàn tức nhược như ty’: Thiên tài Tố Như đã mở ra cuộc Hội thoại cho những Homère, Empédocle, Hoelderlin, Nerval, Vương Bột, về thiên thu trong cuộc Hội ngộ, cuộc tao hùng, cuộc tương ứng, bên hồng quần quốc sắc Việt Nam: “Suốt trăm năm trong cõi người ta, Thanh Hiên Hiệp Lộ chỉ suy gẫm một điều: làm sao biến lịch sử làm Sử Lịch, dìu dắt Sử Lịch vào Sử Xanh bằng con đường của lục bát ca dao bảy chữ là ba của Logos uyên nguyên còn truyền là tiếng gọi trên con đường Cõi Đạo sơ khai trên ngã ba tam giáo” (ibid).
Vậy, đường đi vào Thơ, đi từ tương ứng Synousia, đi thẳng vào Ngôi nhà Hằng thể và ở đó đang có thịnh triệu của Nguyên ngôn Logos. Đó là đi ngược, đi trong cách điệu trang trọng của Tư tưởng. Nhưng cũng có thể đi xuôi, theo cách điệu phiêu bồng của Thi ca: “Tiếng gọi vèo bay trên dâu biển, nắm biên cương làm nên biên thùy kết tụ, thiết lập ngôi nhà tồn lưu bên nhịp cầu sa mạc đang ngồi nhậu la de” (ibd).
Từ tương ứng trong Lịch sử khai diễn một cuộc tương ứng khác, và khá hào hứng. Tố Như Tử như là ngôi nhà của Hội thoại Đông Tây, Thi ca và Tư tưởng cùng gặp gỡ dưới mái nhà của Hằng thể. Cho nên, người ta không lấy làm lạ khi Parménide nơi cõi trời Tây của Hy Lạp, đã chống gậy, đi về Hồng sơn Liệp hộ.
Ông nương theo cánh bằng tiện gió của Tố Như Tử mà đi.
Trong lịch sử Tư tưởng triết học Tây phương, Parménide đầu tiên đã chỉ ra con đường tư duy về Hằng thể: Ce qui à dire et à penser se donne est nécessairement: son être est d’être. Đó là một mệnh đề, mệnh đề nằm trong nếp gấp ẩn ngữ. Nhưng kể từ khi Platon đặt ra cuộc Đối thoại giữa Parménide và Socrates, Hằng thể trở thành một khối Vô hạn và Vô tận lầm lỳ bất động, và bị đặt dưới sự giám sát khắc khe của Lý tính, Nguyên lý Lý tính (Prince de la Raison). Thay vì Hằng thể trì ngự phơi mở, Lý tính đã đẩy Nó đi vào phiêu lưu lịch sử bằng Biện chứng pháp (Dialectique). Hegel khép chặt Hằng thể trong vận hành của Biện chứng để phục vụ cho lý tưởng thống nhất cộng hòa Âu châu. Thế thì, một cách nào đó, triết học Tây phương đã nhân danh Parménide để đày đọa Hoelderlin, cũng như Gia Long đã nhân danh Khổng Tử, dưới bóng cờ của Hình nhi hạ để đày đọa Tố Như Tử. Trong không gian, chừng như man mác có sự tương ứng của những thảm kịch khốn cùng của lịch sử. Parménide ngõ lời với Tố Như: “Làn ánh sáng Như Lai đã ngậm ngùi về trên mép bờ của Hình nhi hạ Khổng” (Trăng châu thổ). Cuộc Hội thoại đó là những lời ngậm ngùi như thế, của những Cô thần nơi đất trích của Lịch sử. Đây là lời của Tố Như nói với Parménide: “... do đó, bên xứ láng giềng, Hoelderlin vẫn luống công kêu gọi, và Hegel vẫn mặc nhiên lầm lỳ lung trạo sử lịch Tây phương một thời gian dài dậm duộc, cho tới ngày nay thì con cháu Hegel nảy nở tùm lum thiên hình vạn trạng ở tại sơn hà Việt Nam” (ibid).
Sau cùng của cuộc Hội thoại lịch sử hy hữu này, Parménide đọc bài thơ của Nerval để tặng Tố Như:
Và ta đã hai lần hai lượt thắng
Vượt giòng trôi tại địa phủ hoàng tuyền
Vì hai trận trên thất huyền Orphée
Gieo song trùng điệu Thánh nữ với Nàng tiên
Vì nhị bội chuyển cung cầm thủy lệ
Giọng Tiên nương thét Nữ thánh than phiền
Et j’ai deux fois vainqueur traversé l’Archéron
Modulant tour à tour sur la lyre d’Orphée
Les soupirs de la Sainte et les cris de la Fée
Tiên nương thét và Nữ thánh than phiền, đó là tiếng thét và lời than của Thi ca và Tư tưởng, giữa một sa mạc đang lớn dần suốt cõi Đông Tây.
Nguyệt tuyệt đao của Nietzche đã được vang lên để chận lại sa mạc đang lớn dần. Ẩn ngữ của Parménide cũng được tái lập cho Mái nhà của Hằng thể. Và như thế: “Heidegger giúp chúng ta đọc lại Khổng Tử trong vùng lập ngôn sương bóng lãng đãng rất mực vô ngần...” (Sương bình nguyên). Mái nhà Hằng thể được dựng lên nơi Hồng sơn Liệp hộ; chỗ đó, là nơi hội tụ của Như Lai Tu-bồ-đề, của Long Thọ và Nam Hải Điếu Đồ, của Hoelderlin, Nerval, Shakespeare, Huệ Thi, Công Tôn Long... vậy thì, đây há không phải là cuộc tương ứng trên Đất Trích, nơi tụ hội của thảm kịch lịch sử?
Tiếng đàn lịch sử vấn vương
Mười cung bạc mệnh lên đường lưu ly
“Tuy nhiên, trong tĩnh dạ thâm canh còn cái gì đương kết tụ. Niềm hoài vọng theo dõi mãi trên ‘dặm khuya ngất tạnh mù khơi’”. (Sương tỳ hải).
Tương ứng của Lịch sử đã giẫm chân chúng ta đi về nơi tương ứng của Đất Trích. Thi ca từ đó có thể đôi lần thay đổi cách điệu lập ngôn:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Xin chào giữa bước chân ra
Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn
Thử xem cách điệu lập ngôn có thay đổi như thế nào:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Ta về ngóng lại mưa sa
Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào
Những thay đổi khác cũng có thể được khơi diễn, cho các mệnh đề chính và mệnh đề phụ gắn bó nhau dẫn tới chỗ lập ngôn của song trùng nhị bội, như là những nếp gấp trong ẩn ngữ của Lịch sử hay Sử lịch.
Lỡ từ lạc bước chân ra
Mấy lòng hạ tứ màu hoa trên ngàn
Đó là Parménide làm thơ lục bát để tặng cho Tố Như Tử; lập ngôn trên bước đi của Nàng Kiều, và có thể dẫn tới đoạn đường khép kín trong thời đại của Brigitte Bardo, Marilyn Monnroe... vì là Lịch sử tụ hội giữa Hồng quần với khách Hồng quần...
Qua những lời chào giã biệt để lưu ly, lời thơ là Lời Cố Quận gieo về trong rừng núi A ly bê tê, đồng vọng những âm vang kỳ dị của Hằng thể:
Thiên thần hằng vi tiếu
Tạo hóa có buồn không
Vân lý tự nhiên thanh cách thiểu
Đản bằng trì ngự sứ quân thông
A mẫu diên đầu tranh nhứt trích
Túy trung thâu khước tiểu bồng sơn
Tham tha nhứt khẩu long đàm mạt
Uổng khuếch phiêu bồng bát nhã môn
Kim cương từ điệu lưu tồn
Dzuồng ơn ghếch tỏng đót sồn phai eo...
(Jung an Gestalt, doch stark, feiert es
Hebenden Streit unter den Felsen...)
Điệu lập ngôn trên diễn ra trên gặp gỡ ly kỳ của tất cả mọi cõi miền của ngôn ngữ của ngôn ngữ. Chúng tụ hội, và kết dệt thành một Hình bóng thanh xuân, hùng dũng. Jung an Gestalt, doch stark...? Và Bóng dáng thanh kỳ tú lệ nhưng kiêu hùng ấy là một cuộc gắn bó, giùn ghè, nó đón mừng cuộc tranh hùng thân thiết... feiert es Hebenden Streit...? Như thế há không là một cuộc tao ngộ tình cờ, rằng từ ngẫu nhĩ, giữa những nham thạch cù cưa, unter den Felsen? Trong khóe mắt em ngậm ngùi ngày đó
Lúc dung nhan về đối diện trăng tà
Màu nước chảy vô ngần không giải
tỏ
Gió biên thùy về bích ngạn chiêu hoa
Bởi vì cách điệu của của thi ca vốn dĩ
phiêu hốt, khơi vơi, lãng đãng, nên bờ biếc bích ngạn chiêu hoa như một nơi chốn
thong dong thánh thốt. Thảm kịch khốn cùng dù có đổ ào lên Thi ca đến mấy lần
đi nữa, Thi ca vẫn như điềm nhiên, ngao du theo ngày tháng, trong ngày tháng
ngao du. Có thể nói đó là ẩn ngữ song trùng của Thi ca. Với cách điệu song
trùng đó, cho nên khi Thi ca trở gót về trong ngày tháng ngao du, trời đất bỗng
dậy lên những niềm tư lự, ưu tư. Nhưng khi Thi ca đi vòng trong không gian quỹ
đạo của tuế nguyệt xoay vần, vòng quỹ đạo chật hẹp vỡ tung ra cho một cõi trời
lồng lộng. Đi và về, lênh đênh trong thảm họa mà vẫn như tới và lui trong phong
vận hài hòa:
Trên vòm thời đại đi quanh
Rách quần quỹ đạo tan vành nguyệt hoa
Em về bũa rộng bao la
Buồn sông bóng mạ đan sa đến điều
Phong vận đó, một lúc
nào đó, trở nên dồn dập, vì Lời với Lời quấn quít nhau, Tình tự nằm ngay trong
Tình tự, cái Phơi mở hiện hình trong sự Phơi mở... hoàn toàn là cách điệu song
trùng của Thi ca: Quần sẽ đỏ từ khi trăng là nguyệt
Kinh là kỳ từ châu quận tân
toan
Từ xứ sở đắng cay thu đầu chết
Bước dã man sầu xé là gieo vàng
Lá sẽ đỏ từ
da vàng mũi tẹt
Môi là mềm từ mọng miệng cong
côi
Từ bờ cõi chia xương chua là ngọt
Trút lang thang từ nát mộng lên trời
Cách điệu tương ứng song trùng, như là ba cõi miền riêng biệt của ngôn ngữ
trong trình tự lập ngôn cho Thi ca. Nhưng cả ba cùng đi và về trong và trên cái
Một; là cái Một của Hội thoại. Trong Một Hội thoại, Thi ca sẽ dư sức đánh gục
ngã mọi công trình to lớn của triết học, dựng trên cái Một Lý tính, cái Một của
Đồng nhất tính. Một Lý tính đẩy Lịch sử xuống giếng khơi; tỉnh oan khúc sĩ;
chúng ta sẽ như con ếch ngồi đáy giếng trông lên vòm trời, nhưng không đủ sức
làm rách quần của quỹ đạo vòm trời đó. Rách quần quỹ đạo, cho nên Một đích thị
là cái Như. Thi ca tái dựng lập ngôn trong Như Lai Tu Bồ Đề, cho nên mới có Duy
Ma Cật nương uy lực của Thần thông du hí tam muội, rong chơi trong cõi bờ Vô tận
của Hoa Nghiêm. Thi ca đã đi bằng những ‘bước dã man sầu xé gieo vàng’. Bước đi
tái dựng của Thi ca được thực hiện trong cách điệu song trùng như thế này:
“Was
bleitet, stiften die Dichter: Tuy nhiên, cái lưu tồn thường tại, người thi sĩ dẫn
khởi nó về trong lập định. Diễn dịch theo thể lệ lục bát của Hồng sơn Liệp hộ:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài. Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua. Với lời nói ấy, luồng
ánh sáng đi về trong câu hỏi của chúng ta về Tinh thể Thi ca. Thi ca là lập định.
Dựng thơ là Thiết lập qua Lời và trong Lời (Dichtung ist Stiftung durch das
Wort und in Wort). Dựng thơ từ cỗi nguồn, là ngân dài từ ban sơ ngõ hạnh (theo
thể lệ Cửa Trời mở rộng đường mây, hoa chào Ngõ Hạnh...). Dựng qua lời là điệu
tài tử qua và trong lời còn vọng. Và cổng xô là cuộc tiến nhập (einruecken,
Einrueckung) dị thường của một lần Tại Thể bước vào Vạn Hữu trong Tâm nguyện
cho von”. (Lời cố quận). Gọi đó là cách điệu song trùng, vì Thi ca đã tự giải
thích lấy nó, tự thực hiện sự phơi mở cho nó. Thí chính Thi ca tư cái Một và
cái Như mà tái dựng cái Một và cái Như cho một cuộc Hội thoại của Tại thể chúng
ta xuất hiện trong Tồn sinh và Lịch sử. Trong sự hiện thể của Tại thể chúng ta
giữa Tồn sinh và Lịch sử, cách điệu tương ứng song trùng nào đã làm ngân vang bất
tận câu hỏi này: Và để làm gì, thi nhân trong tời buổi điêu linh thống khổ?
Cuối
bài báo này, tôi xin được phép có thêm vài lời phụ chú sau đây. Có thể độc giả
thấy rõ tôi viết về thơ Bùi Giáng trong cách điệu Riêng nào đó; hoặc tôi chỉ viết
về Thi ca trong cách điệu Chung. Nhưng cả hai, đến đây không thành vấn đề nữa.
Thi ca và Tư tưởng, luôn luôn là những tương ứng của Chung và Riêng.
Hoặc giả, có thể tôi đang dọn con đường nào đó cho các
câu hỏi: Làm sao chúng ta bước tới gần một nhà thơ? Hay, Thi ca là tiếng nói
gì, nói lên từ tâm nguyện gì, của Tại thể chúng ta trong cuộc Tồn sinh đầy hiểm
họa?
Có thể không có vấn đề nào như thế hết. Nhưng chắc chắn, điều khó mà chối
cãi cho trôi, là độc giả hẳn đã thấy bài báo đi vòng quanh những nỗ lực cho một
cuộc Hội thoại. Thời đại chúng ta đang kháo khát một cuộc Hội thoại như thế,
trước những thảm họa lịch sử đang dày xéo không cùng ở đây.
Nhưng cõi Tư tưởng đã bị khống chế bởi những tri thức cuồng dại; thảm họa đen tối của nó không còn là một viễn tượng xa xôi, mà đã trở thành những hiện tượng, những quái tượng. Trong khi đó, Thi ca đang bị dồn vào những cuộc đầu cơ lịch sử. Cảnh tượng như thế, chúng ta chịu khó mở mắt mà nhìn là thấy. Cho nên, thay vì nói đủ thứ chuyện, ở đây chúng ta có thể mượn một kết luận như thế này (M. Heidegger, Wozu Dichter): “Trong thời đại của đêm tối cõi đời, cái vực sâu đen tối kia của cõi đời phải được thể nghiệm và được kiệt tận miên bạc bình sinh. Mà muốn vậy, thì điều cần thiết là phải có vài kẻ đạt tới cái chỗ tận cùng của cái đáy vực sâu không đáy”.
Nhưng cõi Tư tưởng đã bị khống chế bởi những tri thức cuồng dại; thảm họa đen tối của nó không còn là một viễn tượng xa xôi, mà đã trở thành những hiện tượng, những quái tượng. Trong khi đó, Thi ca đang bị dồn vào những cuộc đầu cơ lịch sử. Cảnh tượng như thế, chúng ta chịu khó mở mắt mà nhìn là thấy. Cho nên, thay vì nói đủ thứ chuyện, ở đây chúng ta có thể mượn một kết luận như thế này (M. Heidegger, Wozu Dichter): “Trong thời đại của đêm tối cõi đời, cái vực sâu đen tối kia của cõi đời phải được thể nghiệm và được kiệt tận miên bạc bình sinh. Mà muốn vậy, thì điều cần thiết là phải có vài kẻ đạt tới cái chỗ tận cùng của cái đáy vực sâu không đáy”.
(Bài đăng Giai phẩm Văn, số 5/1973)
* NBT cám ơn các đạo hữu Đinh
Cường, Nguyệt Mai
đã gởi bài sưu tập từ tạp chí Văn 1973.
Tuệ Sỹ. Tuệ Sỹ Văn
Tuyển, tập III. VĂN HỌC,
NXB Phương Đông, tháng 7-2015, tr. 50-64.
Vi tính:
Nguyễn Hiền - Đức
Thanh Đa, Bình Thạnh, ngày 6-1-2016
“Một con người vừa là thi sĩ vừa là thiền sư, vừa là nhà hành động nhập
thế với tinh thần vô công dụng hạnh của bậc Bồ tát. Hành động tích cực, mãnh liệt
toàn triệt mà vẫn giữ cảm thức viễn ly và viễn mộng, vì không tham vọng, ích kỷ
mù quáng, cho nên nuôi dưỡng cảm thức viễn ly, vì không bị kẹt dính vào tham
sân si của thế tục, cho nên mới hàm dưỡng viễn mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít
đạo sĩ thi nhân với pháp khí phi thường là Trí tuệ Bát nhã cùng với lòng Đại bi
thơ mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn của ý thức
chính trị toàn diện, ý thức hành động Bi Trí Dũng, dẫn đường soi sáng Thể mệnh
của Sử tính Quê hương…”
PHẠM CÔNG THIỆN
MỘT
ĐƯỜNG LỐI DỊCH THƠ
BÙI GIÁNG
Dịch thơ là điều khảm kha nhất. Dịch thơ ắt phải cho ra thơ nói như ông Crayssac trong bài Tựa bản dịch Kiều: “toute poésie traduit a le devoir de l’être enver [...] La langue des Dieux m’a paru seule idoine à chanter l’héroique et douloureux calvaire de la divine Thuy-Kieu.” Cũng vì quan niệm tới mức triệt để tế nhị đó, nên bản dịch Kiều của Crayssac là bản dịch đạt nhất trong mọi bản dịch Kiều ra ngôn ngữ Tây Phương. Lời thơ Crayssac thỉnh thoảng có vài chỗ sống suợng, nhưng Crayssac đã đòi hỏi, đã tận dụng khả năng ngôn ngữ thi ca Pháp tới mức tối đa. Và nhiều phen bất ngờ, những tư tưởng, tư lường sâu xa, ẩn trong Nếp Gấp Lục Bát Nguyễn Du, bất thình lình được Crayssac mở phơi ra một cách tinh tế.
Tiện đây, tôi xin dẫn một thí dụ để làm sáng tỏ phần nào đường lối dịch thơ. Dịch thơ Emily Dickinson:
My life closed twice before its close
It yet remains to see
If Immortality unveil
A third event to me
So huge, so hopeless to conceive
As these that twice befell
Parting is all we know of heaven
And all we need of hell.
Một bài ngắn như thế của Emily Dickinson dịch còn khó hơn dịch cả một cuốn Lá Cỏ [Leaves of Grass] của Walt Whitman... Ấy bởi vì, nó thuộc loại thơ bất khả dịch diễn.
Những điệp ngữ và điệp âm và đảo ngữ mà Emily Dickinson sử dụng, là riêng Mỹ Ngữ một lần được thiên tài cho phát tiết anh hoa ra ngoài:
my life closed - its close
to see - to me
twice before - twice befell
parting is all - and all
all we know - all we need
of heaven - of hell
to see - to me - to conceive
a third event - as these that twice
so huge - so hopeless...
Tôi thử chép ra như thế, những thanh-âm-vận song trùng nhị bội liên tồn giao hưởng nhau trong bài thơ, xoay vít quanh nhau trong tám câu huyền diệu đó. Thế cũng đủ nhận ra tính chất phong phú đìu hiu dị thường trong lời thơ tài tử. Thế mà, vẫn còn những giao hưởng giao thoa ngấm ngầm âm ỉ trong tiết nhịp rung rinh, không làm sao ghi ra song đôi cho được. Bởi vì những giao hưởng ngầm nọ vừa như giao nhau vừa như xô đẩy nhau, ly khứ nhau... Bây giờ thử đọc lại toàn bài:
My life closed twice before its close
It yet remains to see
If Immortality unveil
A third event to me
So huge, so hopeless to conceive
As these that twice befell
Parting is all we know of heaven
And all we need of hell.
Nếu dịch ra văn xuôi ắt sẽ thành cái gì? Chẳng lẽ vất vơ thành ra cái như sau:
Cuộc đời tôi khép lại hai lần
Trước buổi chung cục của nó
Nó vẫn ở lại để xem
Thử sự Bất Tử có mở ra
Một sự cố thứ ba cho tôi không
Bao xiết đồ sộ khổng lồ tuyệt vọng cho quan niệm
Là ấy những gì đã hai lần xảy ra
Ly biệt là tất cả những gì chúng tôi biết về Thiên Ðường
Và tất cả những gì chúng ta cần (của) nơi Ðịa Ngục
Thật là không thể tưởng tượng được. Chẳng những nghe ra lớ ngớ, mà còn chẳng ai biết nói cái gì. Không một chút ý nghiã nào tồn tại, đừng nói chi là tinh thể tinh hoa. Thế mà thường thường tôi vẫn thấy người ta dịch theo lối đó một cách rất hồn nhiên, và còn cho rằng mình dịch rất sát.
Gẫm về cái vụ dịch thơ, nhiều phen phải toát mồ hôi hột. Giữ tiếng thì lạc lời. Giữ lời thì mất ý. Giữ ý thì mất nghiã. Giữ nghiã thì mất trụi thần hồn tinh thể.
Do đó, ta có thể dám chắc rằng giữa hai bản dịch Kiều ra Pháp Ngữ của ông Nguyễn Văn Vĩnh và René Crayssac, quả thực có cách biệt ngàn trùng. René Crayssac mặc dù không lột hết được tinh hoa ngôn ngữ Kiều, nhưng vẫn đạt hơn Nguyễn Văn Vĩnh có tới hơn một trăm lần là ít.
Ông có tái tạo được một bầu khí hậu thơ-mộng đặc biệt trong bản dịch của ông.
Giờ thử dịch bài thơ Emily Dickinson ra lục bát:
Ðời tôi khép lại hai lần
Trước lần khép mắt khôn hàn vĩnh ly
Tuy nhiên còn nấn ná vì
Ðể xem Vĩnh Cửu còn gì mở ra
Cho mình biến cố thứ ba
Những gì song điệp xảy ra
Gẫm càng đồ sộ gợi ra lại càng
Ngất trời tuyệt vọng mang mang
Thiên đường địa ngục còn chan chứa gì
Vĩnh ly là chất của trời
Biệt ly là thói của đời nhà ma
(kể từ cửa quỷ tuôn ra
thói nhà băng tuyết chất là phỉ phong)
Bạn đọc ắt có nhận thấy rằng tôi đã chịu khó khiếp dẫn vài ngôn ngữ đặc biệt Nguyễn Du vào lối dịch thơ Emily Dickinson. Dịch theo lối đó là âm thầm bố thiết cuộc đối thoại ấm áp cho hai tài tử kia, mà đồng thời vẫn không lìa xa ngôn ngữ Emily Dickinson gì mấy chút. Ðó là bước thứ nhất mà lời dịch đã gắng thực hiện cho cuộc hội đàm. Từ đó chúng ta có thể tiến tới giai đoạn thứ hai. Cái bước sơ khởi ngại ngùng đã đi tới chỗ hài hòa thân thiết thì từ đó, ta có thể “mở lời phương tiện” một cách táo bạo hơn. Lời dịch thứ hai có thể ra như thế này:
Song trùng khép kín đôi phen
Sơ khai đậu khấu khép bằng thiên thu
Tường vôi tô vách tử tù
Trăm năm trong cõi sương phù du tuôn
Niềm riêng nấn ná hý trường
Xem Con Tạo mở môi trường đệ tam
Bình sinh ngất tạnh hội đàm
Xiết bao tuyệt vọng gẫm càng buốt tim
Sự tình nhị bội đánh ghen
Trút quần giũ áo thưa rằng thế thôi
Vĩnh ly là chất của trời
Biệt ly là thói của đời nhà ma
Cước chú:
My life closed twice before its close... Ðời ta đã khép lại hai lần từ trước cuộc khép kín trăm năm... Nghĩa là?
Nghĩa là: trước khi xảy ra cuộc tử diệt thì ta đã hai lần chết thật sự rồi. Nhưng chết mà vẫn chịu chơi, nên còn sống lai rai để xem còn có một đệ tam tử diệt nào thơ mộng hơn chăng. Cái lối nói chịu chơi gay cấn đó đưa tới lời kết thúc dị thường: all we know of heaven ... all we need of hell. Tất cả những gì ga biết về thiên đường... Tất cả những gì ta cần nơi địa ngục... là?
Từ đó dịch lần thứ ba ra thế này:
Cần nơi địa ngục những gì
Biết nơi thiên thượng những gì biển dâu
Chất hằng ly biệt thiên thâu
Biệt ly là thói dâng trào sử xanh
Niềm riêng tại thể đã đành
Nồi riêng hiện thể còn thành khẩn xin
Chờ xem Vĩnh Cửu lặng im
Song trùng tam bội còn tin chi về
Kỳ oan phong vận đề huề
Trước đèn lần giở lời quê dông dài
Mai sau khép mắt ngủ dài
Còn nghe mộng cũ di hài liễu dương
Ðánh tranh chụm nóc thảo đường
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi
Bất thình lình cái câu thơ lục bát Nguyễn Du nọ lại kỳ dị hiện ra tại đây. Mọi sự bỗng dời bình diện. Cái câu thơ “một gian nước biếc mây vàng chia đôi” vốn là một câu thơ thuộc loại hàm hỗn man mác nhất trong Truyện Kiều. Nước biếc một gian? Sao gọi là một gian? Mây vàng chia đôi? Chia đôi cái gì? Chia đôi hai cõi nào? Hai miền hai ngả nào? Nhưng tại sao trong thể thái chia đôi nọ, lại có hàm ngụ quy hợp? Do một thứ tinh hoa âm thầm nào phát tiết từ trong tiết điệu lục bát cùng với những vang bóng lãng đãng tỏa ra từ một nóc thảo đường? Một mái hiên? Một thanh hiên tồn lập bao dong ra như thế và sẽ chứng giám một “vô lượng phương tiện lực” nào, sẽ “vớt người trầm luân” và thành tựu cái nghĩa của “nam hải điếu đồ”? Ðiếu đồ? Ông câu câu cá? Câu cá giữa một vùng tịch mịch chân không? Câu cá trong tính thể giác duyên như lai bồ tát? - Ta làm Nam Hải Điếu Đồ? Ngồi câu con Cá Hư Vô linh hồn? Sự đó liên can gì tới câu: Như lai giả vô sở tòng lai diệc vô sở khứ? Và cái lời đó trong Kinh Kim Cang lại thiêm thiếp đi trong sa mù mà tiếp giáp với câu thơ “Parting is all we know of heaven/And all we need of hell” như thế nào?
Thế thì cái sự vụ dịch thơ đã nằm trong một cõi suy tư nào như thế? Nó đã biến ra một thứ dịch di, dy viễn, diên vỹ, vy diễn, như thế nào, để...? Ðể bất thình lình xô ùa chúng ta trở lại với cái lời Khổng Tử: “Ngô đạo nhứt dĩ quán chi”. [...]
Cái bí quyết của thiên tài sáng tạo, cũng như thi tài dịch thuật, là: tạo nên một vùng sương bóng cho ngôn ngữ. Sương bóng đó có thể bắt gặp bóng sương Hy Lạp, hay Ðường Thi, hay Tây Trúc - không hề gì. Không hề gì. Miễn là nó mở ra một chân trời cho chiêm niệm chịu chơi.
Ðánh tranh chụm nóc thảo đường, một gian nước biếc mây vàng chia đôi. Cài then cửa đóng đến nơi, sư đà hái thuốc phương trời nào xa... Parting is all we know of heaven – and all we need of hell. Ai đã độ ra được cái tầm đầy vơi trong tư lự tồn lưu nọ, ắt chẳng còn thiết chi tới chuyện bàn luận viết sách làm thơ gì nữa cả.
Nguồn:
trích tập san Quê Mẹ, Giai Phẩm Xuân Canh Thìn số 153 & 154, tháng 1 &
2, 2000.
BÙI GIÁNG
Dịch thơ là điều khảm kha nhất. Dịch thơ ắt phải cho ra thơ nói như ông Crayssac trong bài Tựa bản dịch Kiều: “toute poésie traduit a le devoir de l’être enver [...] La langue des Dieux m’a paru seule idoine à chanter l’héroique et douloureux calvaire de la divine Thuy-Kieu.” Cũng vì quan niệm tới mức triệt để tế nhị đó, nên bản dịch Kiều của Crayssac là bản dịch đạt nhất trong mọi bản dịch Kiều ra ngôn ngữ Tây Phương. Lời thơ Crayssac thỉnh thoảng có vài chỗ sống suợng, nhưng Crayssac đã đòi hỏi, đã tận dụng khả năng ngôn ngữ thi ca Pháp tới mức tối đa. Và nhiều phen bất ngờ, những tư tưởng, tư lường sâu xa, ẩn trong Nếp Gấp Lục Bát Nguyễn Du, bất thình lình được Crayssac mở phơi ra một cách tinh tế.
Tiện đây, tôi xin dẫn một thí dụ để làm sáng tỏ phần nào đường lối dịch thơ. Dịch thơ Emily Dickinson:
My life closed twice before its close
It yet remains to see
If Immortality unveil
A third event to me
So huge, so hopeless to conceive
As these that twice befell
Parting is all we know of heaven
And all we need of hell.
Một bài ngắn như thế của Emily Dickinson dịch còn khó hơn dịch cả một cuốn Lá Cỏ [Leaves of Grass] của Walt Whitman... Ấy bởi vì, nó thuộc loại thơ bất khả dịch diễn.
Những điệp ngữ và điệp âm và đảo ngữ mà Emily Dickinson sử dụng, là riêng Mỹ Ngữ một lần được thiên tài cho phát tiết anh hoa ra ngoài:
my life closed - its close
to see - to me
twice before - twice befell
parting is all - and all
all we know - all we need
of heaven - of hell
to see - to me - to conceive
a third event - as these that twice
so huge - so hopeless...
Tôi thử chép ra như thế, những thanh-âm-vận song trùng nhị bội liên tồn giao hưởng nhau trong bài thơ, xoay vít quanh nhau trong tám câu huyền diệu đó. Thế cũng đủ nhận ra tính chất phong phú đìu hiu dị thường trong lời thơ tài tử. Thế mà, vẫn còn những giao hưởng giao thoa ngấm ngầm âm ỉ trong tiết nhịp rung rinh, không làm sao ghi ra song đôi cho được. Bởi vì những giao hưởng ngầm nọ vừa như giao nhau vừa như xô đẩy nhau, ly khứ nhau... Bây giờ thử đọc lại toàn bài:
My life closed twice before its close
It yet remains to see
If Immortality unveil
A third event to me
So huge, so hopeless to conceive
As these that twice befell
Parting is all we know of heaven
And all we need of hell.
Nếu dịch ra văn xuôi ắt sẽ thành cái gì? Chẳng lẽ vất vơ thành ra cái như sau:
Cuộc đời tôi khép lại hai lần
Trước buổi chung cục của nó
Nó vẫn ở lại để xem
Thử sự Bất Tử có mở ra
Một sự cố thứ ba cho tôi không
Bao xiết đồ sộ khổng lồ tuyệt vọng cho quan niệm
Là ấy những gì đã hai lần xảy ra
Ly biệt là tất cả những gì chúng tôi biết về Thiên Ðường
Và tất cả những gì chúng ta cần (của) nơi Ðịa Ngục
Thật là không thể tưởng tượng được. Chẳng những nghe ra lớ ngớ, mà còn chẳng ai biết nói cái gì. Không một chút ý nghiã nào tồn tại, đừng nói chi là tinh thể tinh hoa. Thế mà thường thường tôi vẫn thấy người ta dịch theo lối đó một cách rất hồn nhiên, và còn cho rằng mình dịch rất sát.
Gẫm về cái vụ dịch thơ, nhiều phen phải toát mồ hôi hột. Giữ tiếng thì lạc lời. Giữ lời thì mất ý. Giữ ý thì mất nghiã. Giữ nghiã thì mất trụi thần hồn tinh thể.
Do đó, ta có thể dám chắc rằng giữa hai bản dịch Kiều ra Pháp Ngữ của ông Nguyễn Văn Vĩnh và René Crayssac, quả thực có cách biệt ngàn trùng. René Crayssac mặc dù không lột hết được tinh hoa ngôn ngữ Kiều, nhưng vẫn đạt hơn Nguyễn Văn Vĩnh có tới hơn một trăm lần là ít.
Ông có tái tạo được một bầu khí hậu thơ-mộng đặc biệt trong bản dịch của ông.
Giờ thử dịch bài thơ Emily Dickinson ra lục bát:
Ðời tôi khép lại hai lần
Trước lần khép mắt khôn hàn vĩnh ly
Tuy nhiên còn nấn ná vì
Ðể xem Vĩnh Cửu còn gì mở ra
Cho mình biến cố thứ ba
Những gì song điệp xảy ra
Gẫm càng đồ sộ gợi ra lại càng
Ngất trời tuyệt vọng mang mang
Thiên đường địa ngục còn chan chứa gì
Vĩnh ly là chất của trời
Biệt ly là thói của đời nhà ma
(kể từ cửa quỷ tuôn ra
thói nhà băng tuyết chất là phỉ phong)
Bạn đọc ắt có nhận thấy rằng tôi đã chịu khó khiếp dẫn vài ngôn ngữ đặc biệt Nguyễn Du vào lối dịch thơ Emily Dickinson. Dịch theo lối đó là âm thầm bố thiết cuộc đối thoại ấm áp cho hai tài tử kia, mà đồng thời vẫn không lìa xa ngôn ngữ Emily Dickinson gì mấy chút. Ðó là bước thứ nhất mà lời dịch đã gắng thực hiện cho cuộc hội đàm. Từ đó chúng ta có thể tiến tới giai đoạn thứ hai. Cái bước sơ khởi ngại ngùng đã đi tới chỗ hài hòa thân thiết thì từ đó, ta có thể “mở lời phương tiện” một cách táo bạo hơn. Lời dịch thứ hai có thể ra như thế này:
Song trùng khép kín đôi phen
Sơ khai đậu khấu khép bằng thiên thu
Tường vôi tô vách tử tù
Trăm năm trong cõi sương phù du tuôn
Niềm riêng nấn ná hý trường
Xem Con Tạo mở môi trường đệ tam
Bình sinh ngất tạnh hội đàm
Xiết bao tuyệt vọng gẫm càng buốt tim
Sự tình nhị bội đánh ghen
Trút quần giũ áo thưa rằng thế thôi
Vĩnh ly là chất của trời
Biệt ly là thói của đời nhà ma
Cước chú:
My life closed twice before its close... Ðời ta đã khép lại hai lần từ trước cuộc khép kín trăm năm... Nghĩa là?
Nghĩa là: trước khi xảy ra cuộc tử diệt thì ta đã hai lần chết thật sự rồi. Nhưng chết mà vẫn chịu chơi, nên còn sống lai rai để xem còn có một đệ tam tử diệt nào thơ mộng hơn chăng. Cái lối nói chịu chơi gay cấn đó đưa tới lời kết thúc dị thường: all we know of heaven ... all we need of hell. Tất cả những gì ga biết về thiên đường... Tất cả những gì ta cần nơi địa ngục... là?
Từ đó dịch lần thứ ba ra thế này:
Cần nơi địa ngục những gì
Biết nơi thiên thượng những gì biển dâu
Chất hằng ly biệt thiên thâu
Biệt ly là thói dâng trào sử xanh
Niềm riêng tại thể đã đành
Nồi riêng hiện thể còn thành khẩn xin
Chờ xem Vĩnh Cửu lặng im
Song trùng tam bội còn tin chi về
Kỳ oan phong vận đề huề
Trước đèn lần giở lời quê dông dài
Mai sau khép mắt ngủ dài
Còn nghe mộng cũ di hài liễu dương
Ðánh tranh chụm nóc thảo đường
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi
Bất thình lình cái câu thơ lục bát Nguyễn Du nọ lại kỳ dị hiện ra tại đây. Mọi sự bỗng dời bình diện. Cái câu thơ “một gian nước biếc mây vàng chia đôi” vốn là một câu thơ thuộc loại hàm hỗn man mác nhất trong Truyện Kiều. Nước biếc một gian? Sao gọi là một gian? Mây vàng chia đôi? Chia đôi cái gì? Chia đôi hai cõi nào? Hai miền hai ngả nào? Nhưng tại sao trong thể thái chia đôi nọ, lại có hàm ngụ quy hợp? Do một thứ tinh hoa âm thầm nào phát tiết từ trong tiết điệu lục bát cùng với những vang bóng lãng đãng tỏa ra từ một nóc thảo đường? Một mái hiên? Một thanh hiên tồn lập bao dong ra như thế và sẽ chứng giám một “vô lượng phương tiện lực” nào, sẽ “vớt người trầm luân” và thành tựu cái nghĩa của “nam hải điếu đồ”? Ðiếu đồ? Ông câu câu cá? Câu cá giữa một vùng tịch mịch chân không? Câu cá trong tính thể giác duyên như lai bồ tát? - Ta làm Nam Hải Điếu Đồ? Ngồi câu con Cá Hư Vô linh hồn? Sự đó liên can gì tới câu: Như lai giả vô sở tòng lai diệc vô sở khứ? Và cái lời đó trong Kinh Kim Cang lại thiêm thiếp đi trong sa mù mà tiếp giáp với câu thơ “Parting is all we know of heaven/And all we need of hell” như thế nào?
Thế thì cái sự vụ dịch thơ đã nằm trong một cõi suy tư nào như thế? Nó đã biến ra một thứ dịch di, dy viễn, diên vỹ, vy diễn, như thế nào, để...? Ðể bất thình lình xô ùa chúng ta trở lại với cái lời Khổng Tử: “Ngô đạo nhứt dĩ quán chi”. [...]
Cái bí quyết của thiên tài sáng tạo, cũng như thi tài dịch thuật, là: tạo nên một vùng sương bóng cho ngôn ngữ. Sương bóng đó có thể bắt gặp bóng sương Hy Lạp, hay Ðường Thi, hay Tây Trúc - không hề gì. Không hề gì. Miễn là nó mở ra một chân trời cho chiêm niệm chịu chơi.
Ðánh tranh chụm nóc thảo đường, một gian nước biếc mây vàng chia đôi. Cài then cửa đóng đến nơi, sư đà hái thuốc phương trời nào xa... Parting is all we know of heaven – and all we need of hell. Ai đã độ ra được cái tầm đầy vơi trong tư lự tồn lưu nọ, ắt chẳng còn thiết chi tới chuyện bàn luận viết sách làm thơ gì nữa cả.
THẾ GIỚI THI CA TƯ TƯỞNG BÙI GIÁNG
Hình Bùi Giáng và tác giả bài viết
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn,
thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi
tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao
nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là
các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi
bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên
bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới. Tạp chí Tư Tưởng do viện trưởng Thích
Minh Châu làm chủ nhiệm là cơ quan luận thuyết là tiếng nói của viện Đại học Vạn
Hạnh, thường xuyên đăng tải bài viết của các bậc cao thủ này. Những tác phẩm thi ca, tư tưởng, triết lý, đạo lý của họ vô
cùng thâm thúy, có giá trị mãi cho đến ngày hôm nay.
Lúc bấy giờ có nhà xuất bản
An Tiêm do Thanh Tuệ làm giám đốc, vì một cơ duyên hy hữu nào đó đã dốc toàn
tâm toàn lực ra để lo cho công việc in ấn riêng biệt những tác phẩm thơ văn,
biên khảo, dịch thuật của Bùi Giáng. Sức sáng tạo của thi sĩ vào thời gian này,
từ năm 1962 đến năm 1975 rất mãnh liệt, như ngọn lửa thiêng sáng bừng rực rỡ khắp
trời đất u huyền, khiến cho nhà xuất bản An Tiêm in ấn không kịp.
Tưng bừng xuất
bản An Tiêm
Ấn hành cổ lục chung niềm cảo thơm
Mưa Nguồn tuôn ngát xanh rờn
Ngàn Thu Rớt Hột cô đơn cuối bờ
Đó là một điều không ai hiểu nổi vì suốt ngày
thâu đêm, người ta chỉ thấy một Bùi Giáng lang thang rong chơi, nhảy múa ngoài
đường. Thường ngâm thơ uống rượu lu bù với mọi giới bình dân đây đó, bạ đâu ngủ
đấy ngay ngoài vĩa hè xó chợ, góc quán hiên chùa, rong rêu lêu lổng khắp đầu
phường cuối phố, ngao du trào lộng giữa ta bà, quá độ nồng say như Tản Đà, Lý Bạch
nhưng vẫn thung dung:
Uống xong ly rượu cuối cùng
Bỗng nhiên chợt nhớ đã từng đầu
tiên
Uống như uống nước ngọc tuyền
Từ đầu tiên mộng tới phiền muộn sau
Uống xong
ly rượu cùng nhau
Hẹn rằng mai sẽ quên nhau muôn đời
Em còn ở lại vui chơi
Suốt
năm suốt tháng suốt nơi lan tràn
Riêng anh về suốt suối vàng
Trùng phùng Lý Bạch
nghênh ngang Tản Đà
Thi sĩ sống không nhà cửa, không vợ con, không tài sản,
không sự nghiệp, không danh lợi, không là gì cả ngoài một bầu rượu túi thơ và một
bộ quần áo xốc xếch cũ mèm, rách nát tả tơi, trông giống như một Tế Điên, một
Hàn San, Thập Đắc, một gã ăn mày quái dị lạ lùng. Thế mà sức sáng tạo, sáng tác
quá đỗi rạt rào như thác đổ trào tuôn, thật là vô tiền khoáng hậu. Nhà thơ viết
như thần nhập, như nhảy tung vào cõi mật ngôn ẩn ngữ, làm khơi mở mối giềng xiết
bao rực cháy, gây nên một nguồn cảm hứng tưng
bừng, dậy sóng phiêu bồng cho biết bao kẻ đồng điệu, đồng cảm vút hồn bay chuếnh
choáng, ngất ngây trong cơn say sưa túy lúy.
Thi sĩ Bùi Giáng sinh năm 1926 tại Quảng Nam, quả nhiên là một hiện tượng kỳ lạ mà cho đến ngày nay, chưa một ai có thể hiểu thấu đáo về thế giới tâm hồn hoằng đại, cõi tư tưởng hoằng viễn thâm hậu và cõi thi ca bát ngát vô song đó. Có người hỏi tiểu sử thì Bùi Giáng cười đáp: “Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây gay cấn ly kỳ và sẽ chết đi giữa cỏ cây ly kỳ gay cấn… Thuở nhỏ bỏ học về nhà quê, làm thơ tặng chuồn chuồn và châu chấu.” Hỏi về sự sáng tác phi thường thì lai rai nói: “Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội, thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ nhưng thơ là gì, thì đó là điều ta không biết.”
Điện Bàn Đại Lộc Duy Xuyên
bao tình nghĩa thần tiên mộng đầu
Vĩnh Trinh Lệ Trạch Thanh Châu
Thi Lai Hà Mật nhìn đâu dáng người
Người đầu tiên đã mỉm cười
Nhìn tôi tưởng thấy niềm vui vô cùng
Tôi ngồi tưởng nhớ mông lung
Tưởng từ chín suối tới bao dung Bầu Trời
Thi sĩ khơi vơi ngồi nhớ quê như thế. Quê hương cố xứ bên dòng sông Thu Bồn ở Duy Xuyên Quảng Nam. Về sở học của nhà thơ, quả thật là thông đạt quảng bác vô cùng, làu thông nhiều ngôn ngữ như Anh, Pháp, Đức, Hán. Không biết thi nhân tự học từ lúc nào mà trở thành một bậc thượng trí, hầu như vô sư tự ngộ, chỉ do đọc sách mà phát minh tâm địa như trường hợp thiền sư Huyền Giác đọc kinh Duy Ma Cật mà hoát nhiên triệt ngộ chân lý diệu thường. Từ đó, trọn suốt cuộc đời thi sĩ cứ phiêu nhiên trên con đường thênh thang sáng tạo, bước đi thi ca tỏa rợp trời thơ đất mộng bồng bềnh, bát ngát phiêu diêu.
Nhiều người cho rằng Bùi Giáng là một gã cuồng sĩ điên rồ hay một đại thi hào, một Bồ tát nghệ sĩ gì gì đó cũng được, chỉ là những danh từ, khái niệm mà thôi. Điều cần thiết phải làm là chúng ta hãy đi vào bên trong tâm hồn phong phú, thể hiện qua tác phẩm, may ra có khám phá được điều gì mới mẻ trong cõi tư tưởng của nhà thơ tài hoa này hay không?
Tư tưởng trong thơ Bùi Giáng là gì? Nhưng tư tưởng là chi? Theo Tuệ Sỹ thì: “Tư tưởng là Con Đường, là Đạo, là Tiếng Gọi mời ta lên đường. Chính bằng và trên Con Đường ấy, chúng ta mới có thể bắt gặp được bóng dáng của con người.” (1)
Vâng, tư tưởng là con đường mời gọi chúng ta hành động và do vậy, do bởi hành vi tư tưởng cho nên hành động mới mang một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ mới lạ. Tư tưởng thi ca Bùi Giáng khởi phát rạt rào từ suối nguồn sâu thẳm tâm linh, từ cõi ban sơ tịch mịch khôn dò. Đó là cõi bờ âm thanh vi diệu ngữ của trời trăng mây nước, chim bướm cỏ hoa và ánh sáng rạng rỡ huyền hòa, là bước đi đã đạt tới cảnh giới thượng thừa thi sĩ, chỉ có thể cảm nhận chứ không thể suy nghĩ luận bàn.
Đi vào cõi thơ Bùi Giáng, chúng ta cần phải buông xuống cái biên kiến, chấp thủ và chỉ khi nào cái bản ngã hạn hẹp của mình được chuyển hóa thì lúc ấy chúng ta mới lãnh hội, tương ứng với ngôn ngữ chân thực nghĩa tân kỳ của thi ca, của một cái gì vốn dĩ vô ngôn mà phải nói đột xuất bất ngờ:
Ấy là nhạc? Ấy là thơ?
Ấy là rượu đế một giờ bỗng dưng?
Ấy điên đảo? Ấy điệp trùng?
Ấy từ vô tận lừng khừng mà ra
Thưa em ngôn ngữ thật là
Cái gì như thể ngọc ngà thiên hương
Thưởng thức thơ Bùi Giáng, nên thưởng thức như Phạm Công Thiện nói: “Đọc thơ cũng giống như đọc kinh. Phải thọ, trì, đọc, tụng. Đọc không phải để hiểu mà để biết. Biết cái thâm mật của một giây phút thoáng qua nhanh chóng hơn ánh sáng và biết cái thâm mật của tam thiên đại thiên thế giới, của vô số hằng hà tỉ tỉ thiên hà trong lòng ta và ngoài kia không gian phiêu dật, mà lòng ta là tất cà không gian phiêu dật.
Tại sao Nguyễn Du thường sử dụng chữ biết trong thơ và ít khi dùng chữ hiểu? Đây là một sự việc quảng mật cần nên biết trong tương lai của văn hóa Việt Nam. Thơ là cái gì mà chỉ nên biết chứ không thể hiểu, may ra thì chúng ta có thể biết được cái thâm mật, cái quảng mật và cái thâm quảng mật, có thể biết được sơ sơ qua loa, chứ không thể nào hiểu được. Đó là diệu nghĩa vô lượng của tam mật, tam muội trong thơ văn của những thiên tài vĩ đại trên thế giới.” (2) Bùi Giáng đương nhiên là một thi sĩ thiên tài, siêu quần bạt tụy rồi. Tư tưởng nhà thơ bao trùm khắp thiên hạ và thấu đạt hết ý nghĩa sâu xa thâm trầm của đạo học Đông phương cũng như triết lý Tây phương. Hầu hết các bậc đạo sư, thiền sư, văn nghệ sĩ phương Đông như Đức Phật, Duy Ma Cật, Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, Huyền Giác, Lâm Tế, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Lý Bạch, Tô Đông Pha, Tô Mạn Thù, Đỗ Phủ, Nguyễn Du, Tản Đà đến các triết gia, văn hào, thi sĩ vĩ đại của phương Tây như Martin Heidegger, Nietzsche, Hoelderlin, Wart Whitman, Shakespeare, Gerard Nerval, Kierkegaard, Malraux, Karl Jaspers, Albert Camus, Saint Exepery, Andre Gide, Apollinaire, Emily Dickinson, Paul Eluard, Dylan Thomas, Saint John Perse, Rimbaud, Rainer Maria Rilke… đều được thi nhân nói đến một cách rốt ráo cặn kẽ, tận sâu vào mạch ngầm tư tưởng uyên nguyên, uyên áo vô cùng.
Chúng ta hãy nghe Bùi Giáng phát biểu về thi ca: “Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa bằng lời thơ, thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào hoặc một cơn gió thu, mà muốn thực hiện điều đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể phải làm một bài thơ khác.
Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ, chớ không bao giờ điên rồ gì mà luận bàn về thơ. Người đời nay trái lại, họ buộc phải luận thơ có mạch lạc, luận lý, không được bốc đồng vịnh lăng nhăng. Cái chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghì vậy.” Cho nên, ở đây người viết không dám luận bàn về thơ Bùi Giáng mà giản dị chỉ là cảm nhận một phần nào hương vị suối nguồn thi ca lai láng dạt dào, quá sức dữ dội của thi nhân mà thôi.
Vào miền cõi thơ Bùi Giáng là tha hồ tự do lang thang tang bồng, rong rêu phiêu lãng ngàn phương mọi chốn, trên rừng dưới biển đầy kỳ hoa dị thảo, dạo chơi giữa ngả ba, ngả bốn những con đường sương mù, mây trắng rồi bất ngờ mở ra một phương trời xanh biếc Nguyên Xuân, đồng thanh tương ứng, tương giao theo điệu chào sơ ngộ xưa sau:
Hỏi rằng: Người ở quê đâu
Thưa rằng: Tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: Từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: Nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: Đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: Ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
Nguyên Xuân là mùa xuân rực rỡ sơ nguyên trong lòng người, là Diệu Tâm trầm ẩn nhiệm mầu của chúng ta. Từ cõi quê lòng thanh tịnh đó, thi sĩ bước ra hòa điệu cùng cát bụi phù hoa phố thị, ngao du ngày tháng ta bà qua biết bao heo hút dặm dài, giáp mặt với sơn cùng thủy tận của mộng đời hư huyễn phù du. Nhà thơ chứng kiến cõi người ta cứ lo tranh đấu, tranh cãi đúng sai, phải trái, hơn thua giành giật nhau mãi, ai ai cũng phát huy cái bản ngã to bự của mình bằng cách chạy theo danh lợi, địa vị, dấy khởi hoài tham lam, sân hận, si mê... để vô tình quên đi mất cái bản tâm thực tánh, cái mặt mũi xưa nay, cái cõi miền Tâm Xuân thuần nhiên huyền diệu giữa lòng mình, cho nên thi nhân chạnh lòng trắc ẩn, thương xót cho những cảnh đời quá nhiều thống khổ điêu linh, bởi con người cứ mãi đắm chìm trong vọng tưởng, vô minh, hiểu lầm ngộ nhận:
Trần gian thơ mộng xiết bao
Mà buồn vô tận ai nào biết ai
Chưa yêu dấu đã lạc loài
Chát chua ngộ nhận tự ngoài vào trong
Tháng giêng đau khổ mặt trời
Đông sâu lạnh giá đêm dài nửa năm
Về Bắc ngất tạnh mù tăm
Về Nam chỉ thấy thẳm thăm mịt mù
Đau thương từ bấy đến giờ
Ai người đã tỉnh đã mơ một lần
Ấy đau thương ấy tử phần
Không cho phép cánh đại bàng viễn du
Kể từ vô tận mùa thu
Vô biên khốn khổ tội tù một thân
Kể xa xôi kể gũi gần
Không từ đâu có dặm phần chia ly
Ôi từ vô thủy ra đi
Đến vô biên xứ từ quy xa vời
Trần gian đáng lẽ tuyệt vời
Về sau chẳng rõ muôn đời đảo điên
Niềm đau nỗi khổ ưu phiền
Nối đuôi tiếp tới triền miên từng giờ
Khi biết rõ từng giờ từng phút buồn thảm, u sầu cứ triền miên vây khổn chốn phù sinh đầy trầm mê, phiền não, khổ lụy như thế, thi sĩ phát đại bi tâm, nguyện yêu thương hết cả trần gian, yêu muôn loài vạn vật, cả thập loại chúng sinh giữa ba đời sáu cõi luân hồi, qua lại đến đi:
Tôi tự nguyện sẽ một lòng chung thủy
Qua những lần buồn tủi giữa đảo điên
Thân xương máu đã đành là ủy mị
Thì xin em cùng lên thác xuống ghềnh
Em đứng mũi anh chịu sào có vững
Bàn tay bưng đĩa muối có chấm gừng
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương
Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi
Trần gian ôi cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cánh mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay vói kiễng chân cao
‘‘Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn’’ huống chi là con người phải không? Tình yêu, tình thương ấy tràn ngập khắp các tác phẩm thơ văn Bùi Giáng, dòng dòng long lanh lấp lánh như Mưa Nguồn tuôn đổ, như thác lũ trường giang, chảy hoài miên man ngàn trùng đại hải:
Anh đã định chẳng bao giờ sẽ nói
Rằng tình yêu là chóp đỉnh phượng thờ
Vì anh biết gào kêu thân thiết gọi
Khó lọt vào tim máu của em thơ
Anh đã định sẽ yêu đời suốt kiếp
Suốt thiên thu từ vạn thuở phiêu bồng
Rồi anh chợt thấy mình luôn liên tiếp
Nửa điên cuồng nửa rồ dại lông bông
Và từng phút từng giây chồng chất ngất
Một trăm năm đứt ruột nát gan vàng
Một vĩnh viễn đoạn trường chìm ngây ngất
Dưới trầm luân từ thực thể muôn vàn
Từ thực thể muôn vàn trầm luân kiếp nhân sinh đó, cũng như Nguyễn Du, nhà thơ tự nguyện gánh vác lên vai vô số khổ lụy đoạn trường của Thúy Kiều hay như sư cô Tam Hợp âm thầm nhiếp dẫn từ bi cứu nhân độ thế. Chính vì dâu bể vô thường trong cõi đời máu lệ điêu linh mà Diệu Pháp Liên Hoa kinh đi về thể hiện tinh thần ‘‘khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến’’ chỉ ra Phật nhãn, cái thấy biết tuyệt vời tối thượng:
Từ bi? Vô tận đoạn trường
Đạo cô Tam Hợp? Hoa Hương Bốn Mùa
Trăm năm dâu bể thiệt thua
Cũng là Diệu Pháp thượng thừa Liên Hoa
Từ cõi Diệu Pháp vô vi bất khả tư nghì ấy bước ra, nên hành động của thi sĩ không giống như cõi hệ lụy ta bà đầy đa đoan chấp ngã của chúng ta, thành thử nhà thơ tự nhận mình là thằng điên, thằng khùng, ngây ngô khờ dại cho khỏe nhẹ để khỏi còn ai thắc mắc phân vân:
Thần Tiên Thánh Phật uy quyền
Giúp đời vô tận thằng điên quý gì?
Điên từ muôn một liên miên
Mà ra vạn thuở nối liền Liên Hoa
Ấy từ Diệu Pháp mà ra
Đất đồng mộc mạc nở hoa lẫy lừng
Đó là thể điệu cuồng điên uyên mặc thượng thừa của thần tiên du hý, dậy lừng cung bậc Lăng Nghiêm trầm hùng cùng tuyệt:
Tam bành tứ trướng cuồng điên
Thần thông du hý thiên tiên dự phần
Lăng Nghiêm tam muội dậy lừng
Vượt non băng núi qua trùng điệp truông
Ấy từ bất khả nghị bàn
Từ vô tận xứ mà Nghiêm Hoa rằng
Hoặc từ vô tận hằng hằng
Từ đâu tới một Ngiêm Lăng khôn lường?
Lăng Nghiêm kinh khai thị cái tâm chơn, tâm vọng của con người vốn bất nhị viên dung. Một khi thấu thị kỳ cùng điều đó, thi sĩ bất thần nhập diệu vào cảnh giới huy hoàng hoan hỷ địa, hồn phách bay bổng một niềm vui sướng lâng lâng:
Thượng thừa thể lệ trăm năm
Thần tiên du hý đánh chìm tài hoa
Cái tài hoa trác việt, độc đáo của mình, đáng lẽ nên tự hào, hãnh diện nhưng thi sĩ tự mình làm cho chìm khuất, tiềm ẩn đi, chứ không huênh hoang phách lối, khoe khoang, kiêu ngạo phô bày ra như kẻ phàm phu tục tử thường tình. Đó là nhân cách cao thượng của bậc đại trượng phu. Tự mình vượt lên trên vòng đối đãi thị phi phải trái, thoát ra ngoài mọi sinh hoạt quy ước của xã hội, để sống tự do theo ý mình, thi nhân thực hiện một bước nhảy trọng đại, ngoạn mục phi thường lả tự nguyện làm người điên khủng, khờ dại, lãng trí, tự mình trách móc, mắng nhiếc mình theo cách điệu thể thái tùy nghi:
Bỏ đi dẹp mặt mày đi
Làm thằng thi sĩ như mi dơ tuồng
Mi say rượu mi điên cuồng
Mi không ý thức vui buồn thế gian
Lão già say rượu nói nhăng
Làm thơ lẩm cẩm gia tăng tâm tình
Máu tim chia sẻ tâm tình Nửa dâng
Thần Rượn nửa trình Nàng Thơ
Suốt ngày suốt tháng suốt năm
Nó be bét rượu muôn năm đế nồng
Thượng thừa kỳ vĩ vân mông
Sịch mành tỉnh mộng đêm mồng một giêng
Đền bù xiết kể bao lăm
Đáp đền muôn một trăm năm dại khờ
Khờ như dại dại như thơ
Dại không biết thẹn trơ trơ điên cuồng
Nói thì nói khề khà theo kiểu tự chế giễu, bỡn cợt khôi hài như thế, nhưng trái tim thi sĩ luôn luôn rực hồng ngọn lửa tình yêu thương vô lượng vô biên đối với cuộc đời đang sống trong túy sinh mộng tử này. Nhà thơ đau nỗi đau của con người, sầu nỗi sầu thiên cổ của kiếp nhân sinh tàn úa phai nhàu:
Nỗi buồn khôn tả từ đâu
Đi về phảng phất nỗi sầu thiên thu
Giữa đêm chén tạc chén thù
Một mình độc ẩm sương mù dưới trăng
Nỗi thương nỗi nhớ hằng hằng
Nhớ thương vô cớ cầm bằng như không
Ừ thì như không như có, như mộng như thực, như tỉnh như say... hết thảy đều là một chứ chẳng khác gì nhau như Tâm Kinh đã nói “sắc tức thị không, không tức thị sắc” đó mà:
Giật mình tôi chợt nhớ ra
Rằng đây đất của chúng ta chúng người
Mở môi em mỉm miệng cười
Tình yêu từ đó vẹn mười muôn năm
Yêu em yêu mãi tấm lòng
Yêu em quá độ long đong suốt đời
Nhớ em nhớ suốt mây trời
Suốt trăng vĩnh viễn suốt nơi nào là
Tình yêu đó lai láng như trường giang đại hải mênh mông, cứ tự nhiên trôi chảy, thường hướng đến những tầng lớp nghèo khổ trong xã hội như anh đạp xích lô, cô quét rác hay cô mua bán ve chai. Niềm thương cảm của thi sĩ có cái gì đó thật khác thường kỳ lạ:
Kính thưa đồng chí đại ca
Xích lô vô lượng kể đà bao phen
Từng phen lay lất ưu phiền
Niềm vui vô tận thường hằng đeo đai
Các em quét rác mỗi ngày
Mỗi năm mỗi tháng kéo dài muôn năm
Ve chai giày dép cũ càng
Em mua giúp hết dịu dàng em mua
Tơ trời thêu dệt bốn mùa
Đổi thay thời tiết nắng mưa luống từng
Dạn dày cho rõ phong sương
Âm thầm ý nghĩa muôn phương mây vàng
Từ cô thôn nữ ở đồng quê chân lấm tay bùn đến cô em mọi nhỏ ở trên rừng truông rú thẳm hoang lương, thi nhân cũng chia sẻ tỏ bày rất đỗi ân cần trìu mến:
Cày sâu cuốc bẫm cấy bền
Tháng ngày thanh thản êm đềm buồn vui
Thương em ngày tháng ngậm ngùi
Nhớ em ngày tháng sụt sùi giữa đêm
Thương em như thương một nường
Thiên thu là gái bình thường nhà quê
Em từ thôn nữ năm kia
Về đây phút chốc sẻ chia tấm lòng
Kể từ vô tận tiêu tao
Yêu em mọi nhỏ chốn nào đầu non
Thấy em như thấy vuông tròn
Thành thân thiên hạ biển non dịu dàng
Yêu em như nước lan tràn
Nhớ em như nhớ những tràng giang xa
Nguồn thơ xanh ngát lại mênh mang chảy tràn qua cổng chùa tu viện, vào thăm viếng thùy mị ni cô. Trước những tâm hồn thanh thản đoan trang, chàng thi sĩ lóng cóng theo cách điệu bông đùa cà rỡn quý ni cô thuần hậu, thuần phác thảnh thơi:
Đi tu em nhớ một lời
Đừng bao giờ trở lại đời làm giai nhân
Đừng đẹp đẽ đến vô ngần
Chỉ cần chút đỉnh đẹp tần ngần tu (đi)
Còn gì đẹp hơn là buông bỏ hết những phiền não, vọng mê để lên đường xuất gia, đi tu một trận ly kỳ, hy hữu giữa ảo mộng tồn sinh? ‘‘Tu là cội phúc tình là dây oan’’ Nguyễn Du đã nói như thế, còn Bùi Giáng thì:
Tu là cội phúc phôi pha
Tình là oan nghiệt chiết ma đoạn trường
Đó là thứ tình dính mắc ràng buộc, chiếm hữu nên luôn luôn giận hờn ghen ghét, gây nên bao tan nát đoạn trường. Vượt qua thứ tình yêu nô lệ đó là tự do cất bước thong dong với chiếc áo nâu sồng mộc mạc, thoát khỏi mọi nỗi khổ niềm đau:
Nâu sồng đã bén muối dưa
Còn tình đâu nữa dây dưa tâm tình?
Sự đời tắt lửa tồn sinh
Hồng quần quên mất rằng mình đã quên
Chép tờ địa lý đầy vai
Hùng tâm thánh nữ thiên tài ni cô
Định thần mừng rỡ bước vô
Song trùng chúc phúc hai cô một lần
Ni cô? Thánh mẫu nhu mì
Thành thân vô tận thuận tùy đầu tiên
Ni cô? Thục nữ thuyền quyên
Tìm đâu thấy được Nguyên Tuyền Ni Cô?
Đặc biệt Bùi Giáng dành một tình yêu thương thanh thoát đối với sư cô Trí Hải ở Đại học Vạn Hạnh cũ, người đã dịch Câu chuyện dòng sông của Herman Hesse. Thi sĩ cũng thường gọi sư cô là mẫu thân Phùng Khánh một cách tân kỳ sáng tạo:
Lúc về thờ phượng ni cô
Mẫu thân Phùng Khánh điểm tô đạo trời
Thần lên tiếng thánh đổi lời
Niềm riêng Vạn Hạnh mọc mời cô đơn
U hoài đầu mộng hôm qua
Mẫu thân Phùng Khánh thật là u u
Chân đi từng bước hư phù
Mộng đi từng bước tuyệt trù ống chân
Mẹ về đứng giữa đầu sân
Cuối cùng mẹ bước vô ngần mẹ đi
Mẹ còn nhớ nữa con chăng
Mẫu thân Phùng Khánh con hằng chẳng quên
Tuy đòi phen chết nếp nền
Cung vang lừng bậc điệu đền bù xoang
Mẹ về ngõ vắng vườn hoang
Thừa Thiên sông lạnh kéo sang khu rừng
Với một suối nguồn thương yêu vô điều kiện, yêu thương vô phân biệt, nhà thơ cũng rộn ràng trang trải cùng các cô gái đứng đường, xem các cô kỹ nữ như là tiên nương, thánh nữ giáng trần và tâm sự cùng các cô chan chứa nỗi niềm:
Bất ngờ tôi bắt gặp em
Vu vơ đi đứng một đêm giữa đường
Đến gần bất chợt tình thương
Bất ngờ tâm sự phi thường gần xa
Em từ viễn ngạn tuôn ra
Mười hằng hồng lệ chín sa dòng dòng
Tôi từ lịch kiếp long đong
Em từ lận đận tấm lòng bao lâu
Chúng ta từ cõi lao đao
Quen nhau từ những kiếp nào xưa xa
Tâm hồn của gái giang hồ
Các em vô tận kể từ đâu ra?
Anh nay tuổi quá cỡ già
Thương em như nhớ gian nhà lưu ly
Các em dù tuổi tên gì
Cũng từng đã thốt lời gì anh nghe
Ngày nay đứng phố ngồi hè
Nhớ em mộng tưởng muôn bề rã tan
Cậy em lời cậy muôn vàn
Mình em riêng một đá vàng thiên thu
Tình yêu vô tận tự lòng
Tình không yêu cũng tùy tòng vô biên
Lỡ làng chút phận thuyền quyên
Chưa là thánh nữ cũng tiên nương rồi
Chỉ có cái nhìn vô phân biệt trí mới thấy được như thế. Dễ có mấy ai trên đời này xem các kỹ nữ lầu xanh là tiên nương thánh nữ? Chỉ duy nhất thi sĩ Bùi Giáng mới có cái nhãn quan đại từ đại bi, đại hỷ đại xả như thế và từ cái nhìn thấu thị nhân sinh đó, thi sĩ ngợi ca, tán thán hết lời và gọi chung tất cả thục nữ mười phương là nàng thơ, nàng tiên diễm tuyệt vô ngần. Các nàng thơ, tiên nữ cứ đi về kề cận gần gũi, thân thiết miên man, bàng bạc ở khắp mọi nơi khắp chốn, từ phồn hoa đô hội đến lâm tuyền huyễn ngạn, ngoài bến gió bờ sương ngút ngàn quyến rũ mộng mị chiêm bao, dạt dào xao xuyến, xiết bao tâm tình du dương tha thiết:
Các em vô tận thuyền quyên
Từ thiên cổ tới đầu tiên bây giờ
Các em không thể nào ngờ
Rằng đầu tiên đã bài thơ luống từng
Em từ trái đất tuôn ra
Em đi xinh đẹp tiên nga dậy thì
Gặp em toàn thể nhu mì
Non sông đất nước thuộc tùy tình em
Thương em hơn cả phượng thờ
Ông trời ông Phật mút mùa thần tiên
Yêu em từ cái diện tiền
Của em số dzách thuyền quyên ấy là
Em từ một thuở tuôn ra
Một hơi hô hấp thiết tha dịu dàng
Từ đầu truông tới cuối ngàn
Cỏ cây nhớ mãi muôn vàn tình yêu
Thương em mỗi lúc mỗi nhiều
Yêu em mỗi lúc mỗi trìu mến em
Đường đi lát đá êm đềm
Cậy em thủng thẳng dịu mềm em đi
Mai sau còn một tí gì
Ấy là khu vực nhu mì của em
Cái gì vô tận của em
Ấy là cái ấy của em lạ lùng
Dị thường vô tận hoành tung
Tình yêu tim máu thủy chung tót vời
Anh từ vô tận viễn khơi
Gặp em như gặp đất trời vô biên
Riêng em có lẽ thật là
Thiên thu một thuở muôn nhà một nơi
Cùng em vô tận rong chơi
Khắp trùng dương dội sóng đời đời dâng
Ngân nga vang vọng sóng đời từ cuộc lữ đến cuộc chơi, từ cuộc tình đến cuộc mộng rồi từ cuộc mộng đến cuộc thơ, mở ra tưng bừng những làn gió hương màu phất phới, những phảng phất rung động trầm sâu mầu nhiệm bồi hồi:
Lối đi bình lặng nhiệm mầu
Lối về phấp phới hương màu đầu tiên
Lối đi nhìn ngửa ngó nghiêng
Lối về phảng phất nợ duyên khôn bì
Chập chùng những cuộc đi cuộc về trên con đường mây trắng phiêu du, lãng đãng phiêu bồng. Không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu nên thi nhân dấn mình nhập cuộc vào tồn lưu trôi chảy và đột ngột, thốt nhiên bỗng thấy trần gian đẹp đẽ vô cùng. Đẹp kinh hồn đến độ choáng váng mặt mày, ngập tràn cơn say chuếnh choáng, ngây ngất yêu đời vô tận nên nghêu ngao dạo khúc hát xênh xang.
Trạng thái xuất thần nhập diệu ấy càng ngày càng đến thường xuyên hơn trong cuộc sống thường nhật, nên thi sĩ phiêu hốt, phiêu diêu trong cảnh giới tiêu dao vô ngại đó nhiều đến nỗi phải khiêu vũ nhảy múa như một hoàng đế tự vất bỏ ngai vàng điện ngọc, đi vi hành làm kẻ vô danh tiểu tốt, tha hồ đùa chơi tiếu ngạo, ngâm nga la hét giữa phố thị ồn ào, tấp nập người qua kẻ lại, khiến thiên hạ cứ tưởng là nhà thơ điên. Kỳ thực đó là những phút giây bay bổng, khinh an, hoan lạc, nhập vào hoan hỷ địa xuất cốt diệu thường, cực lạc vô song:
Ông vua kỳ vĩ thập thành
Vì vui quá độ nên thành ra điên
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay quỳ lạy khắp miền nhân gian
Chao ơi! Thái độ ‘‘Chắp tay quỳ lạy khắp miền nhân gian’’ đó, chẳng khác chi hạnh nguyện của Bồ tát Thường Bất Khinh, luôn luôn kính trọng hết thảy mọi người dù ngu trí, lớn nhỏ, giàu nghèo một cách trân quý lạ thường. Dường như nhờ đọc sách, kinh điển Phật giáo Đại thừa mà thi nhân bất ngờ trực ngộ, thấy ra tận tường cái bản tâm thanh tịnh chói sáng vạn hữu an lành:
Thượng thừa hồi phục tâm thanh
Thốt nhiên đốn ngộ ngọn ngành cảo thơm
Bước vào nào thấy chút chi
Bước ra bỗng thấy cái mì nhu em
Toàn nhiên đại ngộ hoát nhiên
Hoát nhiên đốn ngộ thần tiên thượng thừa
Giữa đỉnh cao và hố thẳm, giữa vô hình và hữu hình, giữa phù du và vĩnh cửu với điệu cười sinh tử như không, thi sĩ thấy ra cảnh giới Hoa Nghiêm trùng trùng duyên khởi nên hòa chung cung bậc đất trời rộng mở, thở cùng không khí phóng khoáng, hý lộng giữa đôi bờ mộng thực, tỉnh điên một cách khoan thai thoải mái:
Cái điên cái tỉnh ở đời
Nào ai dám chắc thế thời ra sao?
Kéo dài rất mực chiêm bao
Cuộc chơi kỳ vĩ tiêu tao điên cuồng
Cuộc chơi kỳ vĩ thập thành
Các em kỳ bí hơn anh quá nhiều
Tử sinh giữa cuộc dấn liều
Tử sinh liều giữa diễm kiều cuộc chơi
Chuyện sinh tử đối với phần đông phàm phu tục tử chúng ta là rất đỗi trầm trọng, kinh hoàng khủng khiếp, nhưng với thi sĩ thì thấy nhẹ như lông hồng, cho nên cứ tiếp tục cuộc rỡn đùa chơi, vì đã thấu triệt được lẽ bất sinh bất diệt, chết rồi cũng chẳng mất đi đâu mà chuyển qua hình thức khác, chuyển biến theo luân hồi giữa ba đời sáu cõi, tái sinh theo nghiệp báo của riêng mình đấy thôi:
Em về choáng váng tê mê
Em về từ tử diệt về tái sinh?
Em về vô tận bình minh
Từ em tử diệt tái sinh mừng chào
Chào mừng cuộc sống vô lượng vô biên giữa biển đời trùng trùng sóng phong quang Bát Nhã, sóng lai láng tràn vào từng trang cổ lục cảo thơm, giúp cho người ta thấy lại vẽ đẹp huy hoàng tráng lệ của trí tuệ muôn đời tung bay phất phới:
Thình lình vô tận biển khơi
Sóng triều Bát Nhã đẩy chơi vào bờ
Thượng thừa trí tuệ thẩn thơ
Chép tờ cổ lục cho tờ cảo thơm
Trí tuệ Bát Nhã ấy chẳng ở đâu xa mà nó ở ngay giữa tâm hồn chúng ta đây thôi. Em hãy quay nhìn lại chính mình thì sẽ thấy ngay lập tức cái lòng trong trẻo nguyên sơ hiển hiện ra khắp muôn chiều diệu dụng:
Em đi vô tận trùng trùng
Em về vô lượng tự lòng mà ra
Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng nói ‘‘Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra’’ giống như Hoa Nghiêm kinh ‘‘Tất cả do tâm tạo.’’ Thì ra, cả sơn hà đại điạ, cả ba nghìn thế giới này cũng đều do tâm mình tạo ra mà thôi. Người thi sĩ hốt nhiên ‘‘ồ lên một tiếng’’ và mỉm cười rỗng rang sảng khoái:
Cõi bờ con mắt Hoa Nghiêm
Tường vôi lá cỏ lim dim vô cùng
Cảnh giới Hoa Nghiêm đang thị hiện diễn bày chung quanh khắp mặt đất trần gian cát bụi, từ vô lượng kiếp đến một phút giây của từng sát na vĩnh cửu. Một hôm lang thang lêu lổng, bỗng thi sĩ kỳ ngộ trùng phùng đức Thế Tôn bên vĩa hè phố chợ, khiến chàng rúng động cả thần hồn, vội quỳ xuống đãnh lễ thành tâm:
Thập thành đãnh lễ bước chân
Như Lai hộ niệm phù vân điệu chào
Quan Âm Bồ tát chốn nào
Cũng cho nghĩ nghị lối vào Trung Niên
Ôi Bồ tát hỡi Nhu Lai
Lời thơ đãnh lễ lai rai vài hàng
Ngàn thu rớt hột xuống trang
Lá hoa cồn dậy muôn vàn bữa qua
Trung Niên thi sĩ bàng hoàng, choáng ngợp trước ánh hào quang tuệ giác siêu việt, trực kiến vô ngần Chân Không Diệu Hữu, không biết nói gì hơn là làm thơ tán thán ca hát chan hòa:
Ca về tuế nguyệt thiên thâu
Về ca khoảnh khắc sơ đầu sát na
Chân Không Diệu Hữu là ca
Không chân hữu diệu lưu sa hằng hằng
Đứng đi ngồi ngả ba đàng
Thượng thừa cung bậc muộn màng cứ ca
Chân Không mà Diệu Hữu nên mới có chuyện nói đi nói lại, nói mãi suốt từ thiên cổ xưa nay. Nói từ ngày Đức Phật chứng đạo dưới gốc cây Bồ đề đến bây giờ cũng bấy nhiêu chuyện mà thiên kinh vạn quyển, trùng trùng vô tận vẫn nói không hết lời. Cho nên thi nhân cũng hòa theo chiếu cố, ngưỡng mộ trước phong cách trầm hùng bất động vô nhiễm của Như Lai:
Phật ngồi dưới gốc Bồ đề
Tiên nương dừng bước tóc thề chấm vai
Thưa rằng Phật thật là tài
Thấy mà như chẳng từ ngoài vào trong
“Thấy mà như chẳng từ ngoài vào trong.” Chỉ cần một câu thơ đó thôi, Bùi Giáng đã lột tả hết được tinh túy của đạo lý Đông Phương suốt từ mấy ngàn năm rồi, Khổng Tử, Long Thọ hay Cưu Ma La Thập thì cũng muốn nói quanh nói quẩn cái vô sở trụ, vô sở chấp ấy mà thôi:
Lời thô tục? Ý u tồn?
Ý nào u tục thô ngôn là lời?
Giả danh chân đế cũng rồi
Giả danh tục đế đún đẩy lời cũng qua?
Trăm năm trong cõi người ta
Lọ là Long Thọ lọ là Khổng Khâu?
Vàng beo lục gấu trắng trâu
Đìu hiu trăng mọc nhịp cầu phù du
Bão giông hằng thể bi thanh Liên
Hoa Diệu Pháp lịch hành Thệ Đa
Thập thành sử hiện ra hoa
Thập Ma La Thập lời Hoa Nghiêm rằng
Rằng thì là... như thế. Như thế là như thế nào? Chúng ta hãy nghe Bùi Giáng khề khà đối thoại thong dong:
“- Đọc thơ văn mày viết ra, tao thấy rằng thỉnh thoảng mày nói lên đúng cái tư tưởng ẩn mật trong kinh Hoa Nghiêm, mặc dù mày viết theo cái điệu riêng biệt của mày. Thế nên tao càng ngạc nhiên thấy rằng thường thường mày cứ luẩn quẩn đọc những sách nhảm nhí lăng nhăng. Tao muốn hỏi mày tại sao mà như thế? Mày quên mất cõi tư tưởng lớn hay sao?
- Tao cũng chẳng rõ tại sao, nhưng mày thử giải nghĩa tao nghe thế nào là cõi tư tưởng lớn. Lớn là lớn bằng mặt trời hay mặt trăng hoặc to bự như vũ trụ?
- Cứ tạm cho là to bự như vũ trụ.
- Thế thì tao thử hỏi lại mày: Có khi nào mày nhìn thấy vũ trụ to bự nằm ở ngay trong một giọt sương?
- Có
- Trong một lá cỏ?
- Có
- Trong một lổ chân lông?
- Có
- Thế thì bây giờ mày đã nhận thấy rằng câu hỏi của mày nêu ra ở trên kia đích thực là lệch lạc?
- Có lẽ.”
Thế đó, cảnh giới Hoa Nghiêm là vậy, thấy tất cả vũ trụ mười phương, muôn loài vạn vật, thánh phàm, thế gian và xuất thế gian đều nằm gọn trong tâm của chúng ta đây mà thôi. Tâm như hư không, vốn là rỗng lặng thanh tịnh, chẳng có hình dáng, không sinh không diệt, nhưng vô cùng diệu dụng rất sinh động, tuy bất biến mà tùy duyên. Cái tâm sinh động ấy ứng vào lòng thi sĩ Bùi Giáng nên hồn thơ xuất thần bay bổng lồng lộng giữa trời đất phong quang bát ngát mông mênh. Bên ngoài thì nhảy múa hát ca nhưng bên trong vẫn tịch nhiên niệm Phật như thường:
Huyền hoa đứng ở giữa đường
Người đi rốt cuộc phi thường vẫn đi
Nam mô Đà Phật A Di
Lan mùa nam diện lai quy phục hồi
Con đường hân hoan sáng tạo bước đi đã quá đổi dập dìu, phiêu lãng hoan say, khiến cho thánh thần cũng lắc đầu chịu thua, chỉ có những bậc Bồ tát mới độ lượng mỉm cười tương ứng cùng thi sĩ sâu xa:
Bây giờ huyền diệu sát na
Bước về gọi mộng sơn hà Trung Niên
Là thằng thi sĩ diện tiền
Làm thơ lố bịch thánh hiền chịu thua
Chỉ duy Bồ tát vui đùa
Niêm hoa vi tiếu là vừa lòng thôi
Bồ tát là người có tâm hồn rộng mở, bao dung, chấp nhận tất cả thuận nghịch tỉnh táo hay điên rồ của thế gian, luôn ban vui cứu khổ cho con người, như Tuệ Sỹ phát biểu: ‘‘Không tận hữu vi, Bồ tát chấp nhận sự tồn tại của dị biệt giữa các loại chúng sinh mà kiến thiết quốc độ thanh tịnh. Không trụ vô vi, Bồ tát nhận thức tính bình đẳng như hư không trong tất cả các loại chúng sinh, nên mọi giá trị cá biệt đều được kính trong như là giá trị phổ quát. Không tận hữu vi, nên Bồ tát xây dựng quốc độ thanh tịnh không bằng hận thù tranh chấp. Không trụ vô vi, nên Bồ tát xây dựng quốc độ thanh tịnh bằng tình yêu và sự kính trọng giữa các loại chúng sinh.’’*** Thế là, người thi sĩ tuy điên cuồng nhưng vẫn được các vị Bồ tát chiếu cố, vì thế cứ tha hồ rong chơi, tiếu ngạo giang hồ và chuếnh choáng làm thơ tình yêu, ca ngợi tình thương như muốn nhắn gởi điều chi bí mật cho người em chí cốt vô lường:
Gởi em chút đỉnh mùi hương
Tình yêu xa vắng như dường như không
Gởi em mật pháp phiêu bồng
Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng quy lai
Sau bao nhiêu trận trận tang bồng, phiêu dật, nhà thơ đã truyền âm nhập mật pháp môn gì đó? Chỉ có nàng thơ mới có thể nghe và hiểu ra mật pháp đó mà thôi. Chúng ta đừng có tò mò mà luận bàn đủ thứ. Thi sĩ hẹn hò nàng thơ cùng gặp nhau ở phương trời cố quận cuối nẻo nào heo hút tận chân mây:
Mây theo gió thổi về mau
Bây giờ tiễn biệt mai sau trùng phùng
Cùng em cố quận sẽ cùng
Xiết bao tâm sự điệp trùng tái sinh
Bởi vì cũng từ nàng thơ huyền mộng, từ ngày em xuất hiện trên mặt đất sa mạc hoang vu này đã khiến cho thi sĩ bừng ngộ ra một điều chi kỳ bí lặng im:
Em từ thiếu nữ bước ra
Thành thân thục nữ tên là thuyền quyên
Mang thêm mỹ nữ chênh vênh
Em làm đắm đuối dưới trên bao người
Mỹ nhân cách điệu tuyệt vời
Giai nhân từ đó cũng vời tuyệt hơn
Em muôn vạn xứ êm đềm
Cho em rất mực muôn nghìn mà ra
Anh từ đó ngộ thiết tha
Em là vô tận em là em ơi!
Nàng thơ thỏ thẻ hỏi chàng thi sĩ đã ngộ điều chi ly kỳ gay cấn như rứa thì chàng nhẹ lắc đầu chỉ đáp:
Anh chỉ biết mỗi một điều là như thế
Như thế nào anh nói rõ em nghe?
Là thế đó muôn đời là như thế
Nói làm gì em nghe nữa làm chi!
Phải chăng đó là thể lệ vô ngôn, vì ngôn từ bất lực không thể diễn tả được cái trực ngộ kia? Thôi đành lặng lẽ lắng nghe điều huyền diệu đang dần dần lan tỏa quanh gót ngọc em về dưới nắng sớm chiều mưa:
Em đi bất chợt thượng thừa
Thoảng trong phút chốc còn lưa muôn đời
Em từ viễn tượng xa xôi
Về từ thiên thượng tuyệt vời tố nga
Tình yêu có lẽ chăng là
Tình thương vô tận tặng quà vô tâm
Té ra là như rứa, tất cả muôn sự muôn việc triền miên xảy ra từ xưa đến nay cũng chỉ là vô tâm, vô niệm như không, chẳng là gì gì hết cả:
Như không là ấy ruột rà
Như không vô tận từ ta tặng người
Tặng người em gái quê, gái phố, gái núi, gái rừng, gái biển, gái thuyền quyên thục nữ mười phương một bài thơ tình thương yêu bất tuyệt vĩnh hằng:
Tặng em thể điệu toàn thân
Kết chùm nguyệt rộng đôi vần thi ca
Tặng em thỉnh thoảng mà ra
Thiên thu tặng vật đóa hoa tình đầu
Chiều nay bỗng thấy tình thương
Chảy tràn ngập khắp du dương cõi bờ
Chân tình anh hỏi nàng thơ
Chẳng thà như rứa chớ bơ vơ - ồ!
Hình thành tinh thể bài thơ
Vô cùng kiều diễm một giờ mà ra
Muôn trùng vĩnh biệt thiết tha
Một giờ như thể muôn hoa một mùa
Một mùa chi mà lạ rứa? Thưa rằng không biết nữa. Chỉ hay rằng, đặc biệt, nhà thơ Bùi Giáng có một niềm tương ứng đậm đà, thâm sâu đến độ tâm đắc cùng lục bát Nguyễn Du qua tác phẩm Truyện Kiều. Hình ảnh thi hào Tố Như luôn luôn xuất hiện, đi về trên khắp hàng ngàn trang thơ văn dặt dìu lãng đãng:
Sáng nay chim hót thật nhiều
Tưởng nghìn tiếng nói tình yêu đất trời
Chiều nay có lẽ lá rơi
Mưa rừng đổ xuống khắp nơi ào ào
Mai kia sẽ nhớ ngày nào
Ngày nay ấy mộng rì rào máu tim
Thượng thừa tiếng hót của chim
Của gà gáy sáng từ khuya tới giờ
Làm đi làm lại bài thơ
Kể từ tao ngộ bất ngờ Nguyễn Du
Tôi từ muôn kiếp phôi pha
Gặp em ngàn thuở mà ra một thời
Một lần vô hạn em ơi
Gặp từ vô tận đất trời Nguyễn Du
Chào em thiên nữ vong hồn
Thiên thu đã tới mang dồn dập hoa
Tán hoa thiên nữ ấy là
Thúy Kiều vô tận tên là Nguyễn Du
Thúy Kiều một thuở mà ra
Muôn thu vạn thuở nõn nà hiện thân
Kiều ôi có lẽ một lần
Hồng Sơn thiên lý tử phần tái sinh
Một vùng cỏ mọc nước ngâm
Nghìn năm nhớ mãi cung cầm Nguyễn Du
Các con không gặp Nguyễn Du
Chính ông cũng chẳng gặp Du bao giờ
Nhưng bài thơ ấy còn trơ
Bên nguồn vĩnh phúc bất ngờ tỏa ra
Những là ánh sáng chói lòa
Việt Nam văn hiến băng qua dặm nghìn
Đã hơn bốn nghìn năm văn hiến trôi qua, thi sĩ đi về cố xứ và âm thầm nhập diệu vào cõi miền vĩnh cửu uyên tư:
Về bên cố quận tuyệt trù
Vượt biên giới nhập thiên thu vô lường
Thiên thu vĩnh cửu nằm ngay trong giây phút bây giờ và ở đây. Không còn biên giới phân biệt nhị nguyên đúng sai, phải trái, hết rồi những có không, mộng thực giữa chốn tồn sinh. Người thi sĩ hồn nhiên như trẻ thơ, thở nhẹ nhàng từng điệu thở hài nhi nhẹ vời với tiếng cười nhẹ nhõm reo vui:
Chưa biết nói đã biết cười
Cười như thượng thặng vẹn mười Như Lai
Hồn như Di Lặc dẻo dai
Cười không biết chán chường ai ai người
Quả nhiên nó đúng là người
Mà sao nó khác hẳn người chúng ta
Quả nhiên nó rất là già
Mà sao nó bảo nó là trẻ thơ
Trẻ thơ nào có bao giờ
Biết làm thơ để phượng thờ tình yêu?
Bùi Giáng là thế, vẫn tà tà cách điệu tiếu lâm, riễu cợt hài hước cho “vui thôi mà” chớ có chi đâu mà trầm trọng, nặng nề phê phán đúng sai, trúng trật, dở hay phải không? Thì ra là vậy, trên con đường miên man sáng tạo, trên ngõ về vô sở trú phong quang, thi sĩ thung dung trỗi nhịp cung đàn hoan ca, hòa âm cùng cung bậc Bất nhị như thị như nhiên. Với tinh thần vô sở cầu, vô sở chấp, vô sở đắc, lặng lẽ buông bỏ, cho và cho hết những gì mà thiên hạ đang đấu tranh, giành giật chiếm hữu lẫn nhau, thi nhân tự nguyện sống nghèo nàn hàn sĩ, làm kẻ ăn mày, một tên cuồng sĩ lang thang suốt đời hát bản độc hành ca qua Ngày Tháng Ngao Du làm Rớt Hột Phiêu Bồng giữa mênh mông thông lộ vô cùng bất tận, ngờm ngợp gió ngàn trăng.
Văn hào Mỹ vĩ đại Henry Miller nói: “Từ chút ít sách vở tôi đã đọc, tôi nghiệm ra rằng, những người lặn lội sâu nhất trong cuộc đời, những người nhồi nặn cuộc đời, những người chính là cuộc đời đều ăn ít, ngủ ít, sở hữu ít hay không có gì cả. Họ không có bất kỳ một ảo tưởng nào về bổn phận, hoặc nối dõi tông đường hay duy trì quốc gia. Họ chỉ quan tâm tới chân lý và chân lý mà thôi. Họ chỉ chấp nhận một hình thức hoạt động là sáng tạo. Không một người nào có thể chỉ huy công việc họ, bởi vì họ tự nguyện cho tất cả. Họ cho không, bởi vì đó là cách duy nhất để cho.” (4)
Nhận định trên của Henry Miller rất đúng với trường hợp Bùi Giáng biết bao. Một thi nhân đã tận hiến cho cuộc sống bằng tất cả tinh thành chân thiết nhất, bằng con đường nghệ thuật thi ca.
Nhà thơ Bùi Giáng đã sống trọn vẹn một cuộc đời hạnh phúc viên mãn theo ý nghĩa đạo Phật. Suốt bình sinh cuộc sống, thi sĩ là hình ảnh quá cùng đẹp trong cái nhìn của thiên hạ mọi người, nhất là giới tăng sĩ Phật giáo và giới văn nghệ sĩ, ai ai cũng nhìn ông với niềm ưu ái, quý mến đầy ngưỡng mộ. Ngưỡng mộ sự tự do tự tại, thung dung thoát tục, không dính bụi trần mà “hòa cùng ánh sáng, trộn cùng cát bụi” của thi nhân. Bồng tênh tiêu sái, rong chơi suốt một đời thơ giữa phố thị phù hoa như một hài nhi tóc bạc thơ ngây, nhảy múa hồn nhiên hát ca vi vu vi vút.
Cuộc đời Bùi Giáng vô cùng thi vị, một cuộc đời hoàn toàn sống vì nghệ thuật, dâng hiến tất cả cho nghệ thuật thuần túy, chỉ biết sống hết mình cho thi ca và đệ nhất hy hữu nàng thơ tuyệt cùng chơn mỹ: Em đi hồn nhớ nhung gì
Anh ngồi nhớ cái nhu mì lẻ loi
Trời cho rất mực rạch ròi
Vào trong thục nữ ra ngoài thuyền quyên
Của em toàn thể uy quyền
Của em toàn diện thần tiên dịu dàng
Tư tưởng trong thơ Bùi Giáng mang một ý nghĩa bùng vỡ khai phóng, đầy ắp hào quang sáng tạo. Tư tưởng nhập cuộc chịu chơi vào cõi tồn lưu mà vẫn thanh thản thong dong, không dính mắc, không ràng buộc, không chấp chặt của thi nhân thật chẳng khác gì thái độ vô tâm, vô niệm, vô sự của những bậc thiền sư. Nhà thơ thõng tay vào chợ, tung hoành ngang dọc, nhảy múa quay cuồng đủ thể điệu quàng xiên mà vẫn sáng suốt thông tuệ như như. Tư tưởng phá chấp triệt để của Thiền tông được thi nhân thể hiện suốt bình sinh cuộc sống bằng chính bản thân mình, như ngụ ngầm khai thị một điều gì vi diệu mà mỗi một người trong chúng ta phải tự lãnh hội, tự thấu hiểu ra mà thôi.
Sở dĩ con người đau khổ là vì cố chấp, chấp ngã, chấp pháp, chấp đủ thử lu bù nên cứ mãi khổ đau trầm thống triền miên. Muốn thoát khỏi vòng trầm luân khổ não đó, chỉ còn một cách là hãy trở về lại chính mình, nhận biết cái bản tâm nguyên sơ, sống với thực tại đang là ngay trong từng hơi thở luôn luôn mới lạ và mới lạ.
Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách nhận xét về thi sĩ: “Bùi Giáng cũng như một người điên, cỡ Tế Điên. Cũng như Tế Điên, hình như ông đến cõi đời này để dạo chơi, để đùa rỡn và cũng để giáo hóa cho con người thấy tất cả đều chỉ là trò ảo giác của sắc thân, của chữ nghĩa, của tư tưởng, chúng đều là chuyện đáng để đùa rỡn.”(5)
Thật vậy, cuộc rỡn đùa chơi hay đại hòa điệu chơi giữa cõi người ta, vì tất cả mọi sự trên thế gian này đều chỉ là trò chơi, trò đùa huyễn mộng. Sống là chơi, chết là chơi, điên rồ là chơi, tỉnh táo là chơi, uống rượu khề khà là chơi, mê gái là chơi, làm thơ làm thẩn là chơi, làm văn nghệ là chơi, làm cuồng sĩ túy lúy ca là chơi, làm thiền sư tự do tự tại là chơi, làm bất cứ việc gì cũng là trò chơi, trò đùa du hý tam muội mà thôi:
Mỗi người có một cách chơi
Em vui với gió tôi ngồi nhìn trăng
Em đi năm tháng thường hằng
Tôi nằm nhớ mãi hàm răng em cười
Mở tờ giấy mới ra chơi
Hình như giấy cũng vui cười với em
Bài thơ do đó lem nhem
Lúc vui lúc khổ như em đó mà
Còn tôi vui khổ thật là
Đảo điên rất mực tiên nga giật mình
Trăm năm khó đổi tính tình
Cũng không có thể làm thinh muôn đời
Thôi thì cứ nói cho vui
Nghìn năm chỉ có một đời muôn năm
Làm sao quên được giọng cười ‘‘vui thôi mà’’ của thi nhân? Giọng cười ấy vẫn còn đồng vọng khắp nơi trên mặt đất. Bất cứ ở đâu, nếu ai còn cảm được thi ca và phiêu lãng đều nói về Bùi Giáng với niềm rỡn tếu, bông đùa một cách vui vẻ, thân mật, gần gũi như là anh em chí cốt ruột rà vậy.
Ngày tháng vẫn luân lưu trôi chảy mãi, nói về Bùi Giáng thì bất tuyệt và giọng cười vô sự cũng mở ra bất tuyệt như Ma Ha Ca Diếp niêm hoa vi tiếu trên đỉnh Linh Sơn rờn mây trắng từ nghìn xưa cho mãi đến bây giờ:
Niêm hoa vi tiếu luống từng
Xuân phong bài động thơ mừng vụt dâng
Người thi sĩ thượng thừa đã về đã tới nơi chốn quê nhà, đã qui hồi cố quận, nằm ngắm trăng đón gió cùng mây về hòa điệu khúc cung cầm vô thủy vô chung:
Tâm tình mấy nẻo mông lung
Ta nằm cố quận muôn trùng người đi
Kỳ tuyệt cõi thi ca Bùi Giáng, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng sự sự vô ngại, lý sự viên dung của pháp giới Hoa Nghiêm. Tư tưởng đó được thi sĩ tiêu dung, tiêu hóa và sáng tạo thành một nguồn thơ độc đáo vô song. Hồn thơ như ngọn lửa thiêng ngời tỏa ánh hào quang, cháy bừng lên rực rỡ huy hoàng làm ấm áp khắp mặt đất trần gian, chan chứa nồng nàn trong cõi người ta tha thiết thiên thu.
Giữa thiên thu vạn đại, ngưới viết xin kính tặng thi sĩ một bài thơ: Không chỗ trú chẳng bến bờ
Vẫn bầu rượu với túi thơ dặm dài
Ngút mùa cuồng sĩ lai rai
Nghêu ngao vô sự hát bài Hoa Nghiêm
Có gì đâu phải đi tìm
Ba nghìn thế giới trong tim của mình
Tà tà giữa cuộc phiêu linh
Một hôm bất chợt thấy hình bóng xưa
Nên về cà rỡn bông đùa
Múa ca diệu dụng cùng mưa nắng cười
Miền hoan hỷ địa rong chơi
Khơi nguồn sáng tạo mở trời đất ra
Tâm Nhiên
Chú thích:
(1) Tạp chí Tư Tưởng số 5. Đại học Vạn Hạnh. Sài Gòn 1969
(2) Phạm Công Thiện. Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử, Hoa Kỳ 2009
(3) Tuệ Sỹ. Huyền thoại Duy Ma Cật. Nhà xuất bản Phương Đông, 2007
(4) Nguyễn Hữu Hiệu. Con đường sáng tạo. Nhà xuất bản Hồng Hà, 1973
(5) Nguyễn Tường Bách. Mùi hương trầm. Nhà xuất bản Trẻ, 2001 Thơ văn Bùi Giáng trích trong các tác phẩm: Mưa nguồn, Lá hoa cồn, Sa mạc phát tiết, Sa mạc trường ca, Rong rêu, Như sương, Đêm ngắm trăng, Mùa màng tháng tư, Ký ức, Trúc mai, Mười hai con mắt, Rớt hột phiêu bồng, Bèo mây bờ bến. Thơ vô tận vui, Tuyết băng vô tận xứ, Thúy Vân, Mùa xuân trong thi ca, Tư tưởng hiện đại, Lời cố quận, Lễ hội tháng ba, Ngày tháng ngao du.
Điện Bàn Đại Lộc Duy Xuyên
bao tình nghĩa thần tiên mộng đầu
Vĩnh Trinh Lệ Trạch Thanh Châu
Thi Lai Hà Mật nhìn đâu dáng người
Người đầu tiên đã mỉm cười
Nhìn tôi tưởng thấy niềm vui vô cùng
Tôi ngồi tưởng nhớ mông lung
Tưởng từ chín suối tới bao dung Bầu Trời
Thi sĩ khơi vơi ngồi nhớ quê như thế. Quê hương cố xứ bên dòng sông Thu Bồn ở Duy Xuyên Quảng Nam. Về sở học của nhà thơ, quả thật là thông đạt quảng bác vô cùng, làu thông nhiều ngôn ngữ như Anh, Pháp, Đức, Hán. Không biết thi nhân tự học từ lúc nào mà trở thành một bậc thượng trí, hầu như vô sư tự ngộ, chỉ do đọc sách mà phát minh tâm địa như trường hợp thiền sư Huyền Giác đọc kinh Duy Ma Cật mà hoát nhiên triệt ngộ chân lý diệu thường. Từ đó, trọn suốt cuộc đời thi sĩ cứ phiêu nhiên trên con đường thênh thang sáng tạo, bước đi thi ca tỏa rợp trời thơ đất mộng bồng bềnh, bát ngát phiêu diêu.
Nhiều người cho rằng Bùi Giáng là một gã cuồng sĩ điên rồ hay một đại thi hào, một Bồ tát nghệ sĩ gì gì đó cũng được, chỉ là những danh từ, khái niệm mà thôi. Điều cần thiết phải làm là chúng ta hãy đi vào bên trong tâm hồn phong phú, thể hiện qua tác phẩm, may ra có khám phá được điều gì mới mẻ trong cõi tư tưởng của nhà thơ tài hoa này hay không?
Tư tưởng trong thơ Bùi Giáng là gì? Nhưng tư tưởng là chi? Theo Tuệ Sỹ thì: “Tư tưởng là Con Đường, là Đạo, là Tiếng Gọi mời ta lên đường. Chính bằng và trên Con Đường ấy, chúng ta mới có thể bắt gặp được bóng dáng của con người.” (1)
Vâng, tư tưởng là con đường mời gọi chúng ta hành động và do vậy, do bởi hành vi tư tưởng cho nên hành động mới mang một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ mới lạ. Tư tưởng thi ca Bùi Giáng khởi phát rạt rào từ suối nguồn sâu thẳm tâm linh, từ cõi ban sơ tịch mịch khôn dò. Đó là cõi bờ âm thanh vi diệu ngữ của trời trăng mây nước, chim bướm cỏ hoa và ánh sáng rạng rỡ huyền hòa, là bước đi đã đạt tới cảnh giới thượng thừa thi sĩ, chỉ có thể cảm nhận chứ không thể suy nghĩ luận bàn.
Đi vào cõi thơ Bùi Giáng, chúng ta cần phải buông xuống cái biên kiến, chấp thủ và chỉ khi nào cái bản ngã hạn hẹp của mình được chuyển hóa thì lúc ấy chúng ta mới lãnh hội, tương ứng với ngôn ngữ chân thực nghĩa tân kỳ của thi ca, của một cái gì vốn dĩ vô ngôn mà phải nói đột xuất bất ngờ:
Ấy là nhạc? Ấy là thơ?
Ấy là rượu đế một giờ bỗng dưng?
Ấy điên đảo? Ấy điệp trùng?
Ấy từ vô tận lừng khừng mà ra
Thưa em ngôn ngữ thật là
Cái gì như thể ngọc ngà thiên hương
Thưởng thức thơ Bùi Giáng, nên thưởng thức như Phạm Công Thiện nói: “Đọc thơ cũng giống như đọc kinh. Phải thọ, trì, đọc, tụng. Đọc không phải để hiểu mà để biết. Biết cái thâm mật của một giây phút thoáng qua nhanh chóng hơn ánh sáng và biết cái thâm mật của tam thiên đại thiên thế giới, của vô số hằng hà tỉ tỉ thiên hà trong lòng ta và ngoài kia không gian phiêu dật, mà lòng ta là tất cà không gian phiêu dật.
Tại sao Nguyễn Du thường sử dụng chữ biết trong thơ và ít khi dùng chữ hiểu? Đây là một sự việc quảng mật cần nên biết trong tương lai của văn hóa Việt Nam. Thơ là cái gì mà chỉ nên biết chứ không thể hiểu, may ra thì chúng ta có thể biết được cái thâm mật, cái quảng mật và cái thâm quảng mật, có thể biết được sơ sơ qua loa, chứ không thể nào hiểu được. Đó là diệu nghĩa vô lượng của tam mật, tam muội trong thơ văn của những thiên tài vĩ đại trên thế giới.” (2) Bùi Giáng đương nhiên là một thi sĩ thiên tài, siêu quần bạt tụy rồi. Tư tưởng nhà thơ bao trùm khắp thiên hạ và thấu đạt hết ý nghĩa sâu xa thâm trầm của đạo học Đông phương cũng như triết lý Tây phương. Hầu hết các bậc đạo sư, thiền sư, văn nghệ sĩ phương Đông như Đức Phật, Duy Ma Cật, Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, Huyền Giác, Lâm Tế, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Lý Bạch, Tô Đông Pha, Tô Mạn Thù, Đỗ Phủ, Nguyễn Du, Tản Đà đến các triết gia, văn hào, thi sĩ vĩ đại của phương Tây như Martin Heidegger, Nietzsche, Hoelderlin, Wart Whitman, Shakespeare, Gerard Nerval, Kierkegaard, Malraux, Karl Jaspers, Albert Camus, Saint Exepery, Andre Gide, Apollinaire, Emily Dickinson, Paul Eluard, Dylan Thomas, Saint John Perse, Rimbaud, Rainer Maria Rilke… đều được thi nhân nói đến một cách rốt ráo cặn kẽ, tận sâu vào mạch ngầm tư tưởng uyên nguyên, uyên áo vô cùng.
Chúng ta hãy nghe Bùi Giáng phát biểu về thi ca: “Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa bằng lời thơ, thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào hoặc một cơn gió thu, mà muốn thực hiện điều đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể phải làm một bài thơ khác.
Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ, chớ không bao giờ điên rồ gì mà luận bàn về thơ. Người đời nay trái lại, họ buộc phải luận thơ có mạch lạc, luận lý, không được bốc đồng vịnh lăng nhăng. Cái chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghì vậy.” Cho nên, ở đây người viết không dám luận bàn về thơ Bùi Giáng mà giản dị chỉ là cảm nhận một phần nào hương vị suối nguồn thi ca lai láng dạt dào, quá sức dữ dội của thi nhân mà thôi.
Vào miền cõi thơ Bùi Giáng là tha hồ tự do lang thang tang bồng, rong rêu phiêu lãng ngàn phương mọi chốn, trên rừng dưới biển đầy kỳ hoa dị thảo, dạo chơi giữa ngả ba, ngả bốn những con đường sương mù, mây trắng rồi bất ngờ mở ra một phương trời xanh biếc Nguyên Xuân, đồng thanh tương ứng, tương giao theo điệu chào sơ ngộ xưa sau:
Hỏi rằng: Người ở quê đâu
Thưa rằng: Tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: Từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: Nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: Đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: Ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
Nguyên Xuân là mùa xuân rực rỡ sơ nguyên trong lòng người, là Diệu Tâm trầm ẩn nhiệm mầu của chúng ta. Từ cõi quê lòng thanh tịnh đó, thi sĩ bước ra hòa điệu cùng cát bụi phù hoa phố thị, ngao du ngày tháng ta bà qua biết bao heo hút dặm dài, giáp mặt với sơn cùng thủy tận của mộng đời hư huyễn phù du. Nhà thơ chứng kiến cõi người ta cứ lo tranh đấu, tranh cãi đúng sai, phải trái, hơn thua giành giật nhau mãi, ai ai cũng phát huy cái bản ngã to bự của mình bằng cách chạy theo danh lợi, địa vị, dấy khởi hoài tham lam, sân hận, si mê... để vô tình quên đi mất cái bản tâm thực tánh, cái mặt mũi xưa nay, cái cõi miền Tâm Xuân thuần nhiên huyền diệu giữa lòng mình, cho nên thi nhân chạnh lòng trắc ẩn, thương xót cho những cảnh đời quá nhiều thống khổ điêu linh, bởi con người cứ mãi đắm chìm trong vọng tưởng, vô minh, hiểu lầm ngộ nhận:
Trần gian thơ mộng xiết bao
Mà buồn vô tận ai nào biết ai
Chưa yêu dấu đã lạc loài
Chát chua ngộ nhận tự ngoài vào trong
Tháng giêng đau khổ mặt trời
Đông sâu lạnh giá đêm dài nửa năm
Về Bắc ngất tạnh mù tăm
Về Nam chỉ thấy thẳm thăm mịt mù
Đau thương từ bấy đến giờ
Ai người đã tỉnh đã mơ một lần
Ấy đau thương ấy tử phần
Không cho phép cánh đại bàng viễn du
Kể từ vô tận mùa thu
Vô biên khốn khổ tội tù một thân
Kể xa xôi kể gũi gần
Không từ đâu có dặm phần chia ly
Ôi từ vô thủy ra đi
Đến vô biên xứ từ quy xa vời
Trần gian đáng lẽ tuyệt vời
Về sau chẳng rõ muôn đời đảo điên
Niềm đau nỗi khổ ưu phiền
Nối đuôi tiếp tới triền miên từng giờ
Khi biết rõ từng giờ từng phút buồn thảm, u sầu cứ triền miên vây khổn chốn phù sinh đầy trầm mê, phiền não, khổ lụy như thế, thi sĩ phát đại bi tâm, nguyện yêu thương hết cả trần gian, yêu muôn loài vạn vật, cả thập loại chúng sinh giữa ba đời sáu cõi luân hồi, qua lại đến đi:
Tôi tự nguyện sẽ một lòng chung thủy
Qua những lần buồn tủi giữa đảo điên
Thân xương máu đã đành là ủy mị
Thì xin em cùng lên thác xuống ghềnh
Em đứng mũi anh chịu sào có vững
Bàn tay bưng đĩa muối có chấm gừng
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương
Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi
Trần gian ôi cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cánh mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay vói kiễng chân cao
‘‘Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn’’ huống chi là con người phải không? Tình yêu, tình thương ấy tràn ngập khắp các tác phẩm thơ văn Bùi Giáng, dòng dòng long lanh lấp lánh như Mưa Nguồn tuôn đổ, như thác lũ trường giang, chảy hoài miên man ngàn trùng đại hải:
Anh đã định chẳng bao giờ sẽ nói
Rằng tình yêu là chóp đỉnh phượng thờ
Vì anh biết gào kêu thân thiết gọi
Khó lọt vào tim máu của em thơ
Anh đã định sẽ yêu đời suốt kiếp
Suốt thiên thu từ vạn thuở phiêu bồng
Rồi anh chợt thấy mình luôn liên tiếp
Nửa điên cuồng nửa rồ dại lông bông
Và từng phút từng giây chồng chất ngất
Một trăm năm đứt ruột nát gan vàng
Một vĩnh viễn đoạn trường chìm ngây ngất
Dưới trầm luân từ thực thể muôn vàn
Từ thực thể muôn vàn trầm luân kiếp nhân sinh đó, cũng như Nguyễn Du, nhà thơ tự nguyện gánh vác lên vai vô số khổ lụy đoạn trường của Thúy Kiều hay như sư cô Tam Hợp âm thầm nhiếp dẫn từ bi cứu nhân độ thế. Chính vì dâu bể vô thường trong cõi đời máu lệ điêu linh mà Diệu Pháp Liên Hoa kinh đi về thể hiện tinh thần ‘‘khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến’’ chỉ ra Phật nhãn, cái thấy biết tuyệt vời tối thượng:
Từ bi? Vô tận đoạn trường
Đạo cô Tam Hợp? Hoa Hương Bốn Mùa
Trăm năm dâu bể thiệt thua
Cũng là Diệu Pháp thượng thừa Liên Hoa
Từ cõi Diệu Pháp vô vi bất khả tư nghì ấy bước ra, nên hành động của thi sĩ không giống như cõi hệ lụy ta bà đầy đa đoan chấp ngã của chúng ta, thành thử nhà thơ tự nhận mình là thằng điên, thằng khùng, ngây ngô khờ dại cho khỏe nhẹ để khỏi còn ai thắc mắc phân vân:
Thần Tiên Thánh Phật uy quyền
Giúp đời vô tận thằng điên quý gì?
Điên từ muôn một liên miên
Mà ra vạn thuở nối liền Liên Hoa
Ấy từ Diệu Pháp mà ra
Đất đồng mộc mạc nở hoa lẫy lừng
Đó là thể điệu cuồng điên uyên mặc thượng thừa của thần tiên du hý, dậy lừng cung bậc Lăng Nghiêm trầm hùng cùng tuyệt:
Tam bành tứ trướng cuồng điên
Thần thông du hý thiên tiên dự phần
Lăng Nghiêm tam muội dậy lừng
Vượt non băng núi qua trùng điệp truông
Ấy từ bất khả nghị bàn
Từ vô tận xứ mà Nghiêm Hoa rằng
Hoặc từ vô tận hằng hằng
Từ đâu tới một Ngiêm Lăng khôn lường?
Lăng Nghiêm kinh khai thị cái tâm chơn, tâm vọng của con người vốn bất nhị viên dung. Một khi thấu thị kỳ cùng điều đó, thi sĩ bất thần nhập diệu vào cảnh giới huy hoàng hoan hỷ địa, hồn phách bay bổng một niềm vui sướng lâng lâng:
Thượng thừa thể lệ trăm năm
Thần tiên du hý đánh chìm tài hoa
Cái tài hoa trác việt, độc đáo của mình, đáng lẽ nên tự hào, hãnh diện nhưng thi sĩ tự mình làm cho chìm khuất, tiềm ẩn đi, chứ không huênh hoang phách lối, khoe khoang, kiêu ngạo phô bày ra như kẻ phàm phu tục tử thường tình. Đó là nhân cách cao thượng của bậc đại trượng phu. Tự mình vượt lên trên vòng đối đãi thị phi phải trái, thoát ra ngoài mọi sinh hoạt quy ước của xã hội, để sống tự do theo ý mình, thi nhân thực hiện một bước nhảy trọng đại, ngoạn mục phi thường lả tự nguyện làm người điên khủng, khờ dại, lãng trí, tự mình trách móc, mắng nhiếc mình theo cách điệu thể thái tùy nghi:
Bỏ đi dẹp mặt mày đi
Làm thằng thi sĩ như mi dơ tuồng
Mi say rượu mi điên cuồng
Mi không ý thức vui buồn thế gian
Lão già say rượu nói nhăng
Làm thơ lẩm cẩm gia tăng tâm tình
Máu tim chia sẻ tâm tình Nửa dâng
Thần Rượn nửa trình Nàng Thơ
Suốt ngày suốt tháng suốt năm
Nó be bét rượu muôn năm đế nồng
Thượng thừa kỳ vĩ vân mông
Sịch mành tỉnh mộng đêm mồng một giêng
Đền bù xiết kể bao lăm
Đáp đền muôn một trăm năm dại khờ
Khờ như dại dại như thơ
Dại không biết thẹn trơ trơ điên cuồng
Nói thì nói khề khà theo kiểu tự chế giễu, bỡn cợt khôi hài như thế, nhưng trái tim thi sĩ luôn luôn rực hồng ngọn lửa tình yêu thương vô lượng vô biên đối với cuộc đời đang sống trong túy sinh mộng tử này. Nhà thơ đau nỗi đau của con người, sầu nỗi sầu thiên cổ của kiếp nhân sinh tàn úa phai nhàu:
Nỗi buồn khôn tả từ đâu
Đi về phảng phất nỗi sầu thiên thu
Giữa đêm chén tạc chén thù
Một mình độc ẩm sương mù dưới trăng
Nỗi thương nỗi nhớ hằng hằng
Nhớ thương vô cớ cầm bằng như không
Ừ thì như không như có, như mộng như thực, như tỉnh như say... hết thảy đều là một chứ chẳng khác gì nhau như Tâm Kinh đã nói “sắc tức thị không, không tức thị sắc” đó mà:
Giật mình tôi chợt nhớ ra
Rằng đây đất của chúng ta chúng người
Mở môi em mỉm miệng cười
Tình yêu từ đó vẹn mười muôn năm
Yêu em yêu mãi tấm lòng
Yêu em quá độ long đong suốt đời
Nhớ em nhớ suốt mây trời
Suốt trăng vĩnh viễn suốt nơi nào là
Tình yêu đó lai láng như trường giang đại hải mênh mông, cứ tự nhiên trôi chảy, thường hướng đến những tầng lớp nghèo khổ trong xã hội như anh đạp xích lô, cô quét rác hay cô mua bán ve chai. Niềm thương cảm của thi sĩ có cái gì đó thật khác thường kỳ lạ:
Kính thưa đồng chí đại ca
Xích lô vô lượng kể đà bao phen
Từng phen lay lất ưu phiền
Niềm vui vô tận thường hằng đeo đai
Các em quét rác mỗi ngày
Mỗi năm mỗi tháng kéo dài muôn năm
Ve chai giày dép cũ càng
Em mua giúp hết dịu dàng em mua
Tơ trời thêu dệt bốn mùa
Đổi thay thời tiết nắng mưa luống từng
Dạn dày cho rõ phong sương
Âm thầm ý nghĩa muôn phương mây vàng
Từ cô thôn nữ ở đồng quê chân lấm tay bùn đến cô em mọi nhỏ ở trên rừng truông rú thẳm hoang lương, thi nhân cũng chia sẻ tỏ bày rất đỗi ân cần trìu mến:
Cày sâu cuốc bẫm cấy bền
Tháng ngày thanh thản êm đềm buồn vui
Thương em ngày tháng ngậm ngùi
Nhớ em ngày tháng sụt sùi giữa đêm
Thương em như thương một nường
Thiên thu là gái bình thường nhà quê
Em từ thôn nữ năm kia
Về đây phút chốc sẻ chia tấm lòng
Kể từ vô tận tiêu tao
Yêu em mọi nhỏ chốn nào đầu non
Thấy em như thấy vuông tròn
Thành thân thiên hạ biển non dịu dàng
Yêu em như nước lan tràn
Nhớ em như nhớ những tràng giang xa
Nguồn thơ xanh ngát lại mênh mang chảy tràn qua cổng chùa tu viện, vào thăm viếng thùy mị ni cô. Trước những tâm hồn thanh thản đoan trang, chàng thi sĩ lóng cóng theo cách điệu bông đùa cà rỡn quý ni cô thuần hậu, thuần phác thảnh thơi:
Đi tu em nhớ một lời
Đừng bao giờ trở lại đời làm giai nhân
Đừng đẹp đẽ đến vô ngần
Chỉ cần chút đỉnh đẹp tần ngần tu (đi)
Còn gì đẹp hơn là buông bỏ hết những phiền não, vọng mê để lên đường xuất gia, đi tu một trận ly kỳ, hy hữu giữa ảo mộng tồn sinh? ‘‘Tu là cội phúc tình là dây oan’’ Nguyễn Du đã nói như thế, còn Bùi Giáng thì:
Tu là cội phúc phôi pha
Tình là oan nghiệt chiết ma đoạn trường
Đó là thứ tình dính mắc ràng buộc, chiếm hữu nên luôn luôn giận hờn ghen ghét, gây nên bao tan nát đoạn trường. Vượt qua thứ tình yêu nô lệ đó là tự do cất bước thong dong với chiếc áo nâu sồng mộc mạc, thoát khỏi mọi nỗi khổ niềm đau:
Nâu sồng đã bén muối dưa
Còn tình đâu nữa dây dưa tâm tình?
Sự đời tắt lửa tồn sinh
Hồng quần quên mất rằng mình đã quên
Chép tờ địa lý đầy vai
Hùng tâm thánh nữ thiên tài ni cô
Định thần mừng rỡ bước vô
Song trùng chúc phúc hai cô một lần
Ni cô? Thánh mẫu nhu mì
Thành thân vô tận thuận tùy đầu tiên
Ni cô? Thục nữ thuyền quyên
Tìm đâu thấy được Nguyên Tuyền Ni Cô?
Đặc biệt Bùi Giáng dành một tình yêu thương thanh thoát đối với sư cô Trí Hải ở Đại học Vạn Hạnh cũ, người đã dịch Câu chuyện dòng sông của Herman Hesse. Thi sĩ cũng thường gọi sư cô là mẫu thân Phùng Khánh một cách tân kỳ sáng tạo:
Lúc về thờ phượng ni cô
Mẫu thân Phùng Khánh điểm tô đạo trời
Thần lên tiếng thánh đổi lời
Niềm riêng Vạn Hạnh mọc mời cô đơn
U hoài đầu mộng hôm qua
Mẫu thân Phùng Khánh thật là u u
Chân đi từng bước hư phù
Mộng đi từng bước tuyệt trù ống chân
Mẹ về đứng giữa đầu sân
Cuối cùng mẹ bước vô ngần mẹ đi
Mẹ còn nhớ nữa con chăng
Mẫu thân Phùng Khánh con hằng chẳng quên
Tuy đòi phen chết nếp nền
Cung vang lừng bậc điệu đền bù xoang
Mẹ về ngõ vắng vườn hoang
Thừa Thiên sông lạnh kéo sang khu rừng
Với một suối nguồn thương yêu vô điều kiện, yêu thương vô phân biệt, nhà thơ cũng rộn ràng trang trải cùng các cô gái đứng đường, xem các cô kỹ nữ như là tiên nương, thánh nữ giáng trần và tâm sự cùng các cô chan chứa nỗi niềm:
Bất ngờ tôi bắt gặp em
Vu vơ đi đứng một đêm giữa đường
Đến gần bất chợt tình thương
Bất ngờ tâm sự phi thường gần xa
Em từ viễn ngạn tuôn ra
Mười hằng hồng lệ chín sa dòng dòng
Tôi từ lịch kiếp long đong
Em từ lận đận tấm lòng bao lâu
Chúng ta từ cõi lao đao
Quen nhau từ những kiếp nào xưa xa
Tâm hồn của gái giang hồ
Các em vô tận kể từ đâu ra?
Anh nay tuổi quá cỡ già
Thương em như nhớ gian nhà lưu ly
Các em dù tuổi tên gì
Cũng từng đã thốt lời gì anh nghe
Ngày nay đứng phố ngồi hè
Nhớ em mộng tưởng muôn bề rã tan
Cậy em lời cậy muôn vàn
Mình em riêng một đá vàng thiên thu
Tình yêu vô tận tự lòng
Tình không yêu cũng tùy tòng vô biên
Lỡ làng chút phận thuyền quyên
Chưa là thánh nữ cũng tiên nương rồi
Chỉ có cái nhìn vô phân biệt trí mới thấy được như thế. Dễ có mấy ai trên đời này xem các kỹ nữ lầu xanh là tiên nương thánh nữ? Chỉ duy nhất thi sĩ Bùi Giáng mới có cái nhãn quan đại từ đại bi, đại hỷ đại xả như thế và từ cái nhìn thấu thị nhân sinh đó, thi sĩ ngợi ca, tán thán hết lời và gọi chung tất cả thục nữ mười phương là nàng thơ, nàng tiên diễm tuyệt vô ngần. Các nàng thơ, tiên nữ cứ đi về kề cận gần gũi, thân thiết miên man, bàng bạc ở khắp mọi nơi khắp chốn, từ phồn hoa đô hội đến lâm tuyền huyễn ngạn, ngoài bến gió bờ sương ngút ngàn quyến rũ mộng mị chiêm bao, dạt dào xao xuyến, xiết bao tâm tình du dương tha thiết:
Các em vô tận thuyền quyên
Từ thiên cổ tới đầu tiên bây giờ
Các em không thể nào ngờ
Rằng đầu tiên đã bài thơ luống từng
Em từ trái đất tuôn ra
Em đi xinh đẹp tiên nga dậy thì
Gặp em toàn thể nhu mì
Non sông đất nước thuộc tùy tình em
Thương em hơn cả phượng thờ
Ông trời ông Phật mút mùa thần tiên
Yêu em từ cái diện tiền
Của em số dzách thuyền quyên ấy là
Em từ một thuở tuôn ra
Một hơi hô hấp thiết tha dịu dàng
Từ đầu truông tới cuối ngàn
Cỏ cây nhớ mãi muôn vàn tình yêu
Thương em mỗi lúc mỗi nhiều
Yêu em mỗi lúc mỗi trìu mến em
Đường đi lát đá êm đềm
Cậy em thủng thẳng dịu mềm em đi
Mai sau còn một tí gì
Ấy là khu vực nhu mì của em
Cái gì vô tận của em
Ấy là cái ấy của em lạ lùng
Dị thường vô tận hoành tung
Tình yêu tim máu thủy chung tót vời
Anh từ vô tận viễn khơi
Gặp em như gặp đất trời vô biên
Riêng em có lẽ thật là
Thiên thu một thuở muôn nhà một nơi
Cùng em vô tận rong chơi
Khắp trùng dương dội sóng đời đời dâng
Ngân nga vang vọng sóng đời từ cuộc lữ đến cuộc chơi, từ cuộc tình đến cuộc mộng rồi từ cuộc mộng đến cuộc thơ, mở ra tưng bừng những làn gió hương màu phất phới, những phảng phất rung động trầm sâu mầu nhiệm bồi hồi:
Lối đi bình lặng nhiệm mầu
Lối về phấp phới hương màu đầu tiên
Lối đi nhìn ngửa ngó nghiêng
Lối về phảng phất nợ duyên khôn bì
Chập chùng những cuộc đi cuộc về trên con đường mây trắng phiêu du, lãng đãng phiêu bồng. Không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu nên thi nhân dấn mình nhập cuộc vào tồn lưu trôi chảy và đột ngột, thốt nhiên bỗng thấy trần gian đẹp đẽ vô cùng. Đẹp kinh hồn đến độ choáng váng mặt mày, ngập tràn cơn say chuếnh choáng, ngây ngất yêu đời vô tận nên nghêu ngao dạo khúc hát xênh xang.
Trạng thái xuất thần nhập diệu ấy càng ngày càng đến thường xuyên hơn trong cuộc sống thường nhật, nên thi sĩ phiêu hốt, phiêu diêu trong cảnh giới tiêu dao vô ngại đó nhiều đến nỗi phải khiêu vũ nhảy múa như một hoàng đế tự vất bỏ ngai vàng điện ngọc, đi vi hành làm kẻ vô danh tiểu tốt, tha hồ đùa chơi tiếu ngạo, ngâm nga la hét giữa phố thị ồn ào, tấp nập người qua kẻ lại, khiến thiên hạ cứ tưởng là nhà thơ điên. Kỳ thực đó là những phút giây bay bổng, khinh an, hoan lạc, nhập vào hoan hỷ địa xuất cốt diệu thường, cực lạc vô song:
Ông vua kỳ vĩ thập thành
Vì vui quá độ nên thành ra điên
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay quỳ lạy khắp miền nhân gian
Chao ơi! Thái độ ‘‘Chắp tay quỳ lạy khắp miền nhân gian’’ đó, chẳng khác chi hạnh nguyện của Bồ tát Thường Bất Khinh, luôn luôn kính trọng hết thảy mọi người dù ngu trí, lớn nhỏ, giàu nghèo một cách trân quý lạ thường. Dường như nhờ đọc sách, kinh điển Phật giáo Đại thừa mà thi nhân bất ngờ trực ngộ, thấy ra tận tường cái bản tâm thanh tịnh chói sáng vạn hữu an lành:
Thượng thừa hồi phục tâm thanh
Thốt nhiên đốn ngộ ngọn ngành cảo thơm
Bước vào nào thấy chút chi
Bước ra bỗng thấy cái mì nhu em
Toàn nhiên đại ngộ hoát nhiên
Hoát nhiên đốn ngộ thần tiên thượng thừa
Giữa đỉnh cao và hố thẳm, giữa vô hình và hữu hình, giữa phù du và vĩnh cửu với điệu cười sinh tử như không, thi sĩ thấy ra cảnh giới Hoa Nghiêm trùng trùng duyên khởi nên hòa chung cung bậc đất trời rộng mở, thở cùng không khí phóng khoáng, hý lộng giữa đôi bờ mộng thực, tỉnh điên một cách khoan thai thoải mái:
Cái điên cái tỉnh ở đời
Nào ai dám chắc thế thời ra sao?
Kéo dài rất mực chiêm bao
Cuộc chơi kỳ vĩ tiêu tao điên cuồng
Cuộc chơi kỳ vĩ thập thành
Các em kỳ bí hơn anh quá nhiều
Tử sinh giữa cuộc dấn liều
Tử sinh liều giữa diễm kiều cuộc chơi
Chuyện sinh tử đối với phần đông phàm phu tục tử chúng ta là rất đỗi trầm trọng, kinh hoàng khủng khiếp, nhưng với thi sĩ thì thấy nhẹ như lông hồng, cho nên cứ tiếp tục cuộc rỡn đùa chơi, vì đã thấu triệt được lẽ bất sinh bất diệt, chết rồi cũng chẳng mất đi đâu mà chuyển qua hình thức khác, chuyển biến theo luân hồi giữa ba đời sáu cõi, tái sinh theo nghiệp báo của riêng mình đấy thôi:
Em về choáng váng tê mê
Em về từ tử diệt về tái sinh?
Em về vô tận bình minh
Từ em tử diệt tái sinh mừng chào
Chào mừng cuộc sống vô lượng vô biên giữa biển đời trùng trùng sóng phong quang Bát Nhã, sóng lai láng tràn vào từng trang cổ lục cảo thơm, giúp cho người ta thấy lại vẽ đẹp huy hoàng tráng lệ của trí tuệ muôn đời tung bay phất phới:
Thình lình vô tận biển khơi
Sóng triều Bát Nhã đẩy chơi vào bờ
Thượng thừa trí tuệ thẩn thơ
Chép tờ cổ lục cho tờ cảo thơm
Trí tuệ Bát Nhã ấy chẳng ở đâu xa mà nó ở ngay giữa tâm hồn chúng ta đây thôi. Em hãy quay nhìn lại chính mình thì sẽ thấy ngay lập tức cái lòng trong trẻo nguyên sơ hiển hiện ra khắp muôn chiều diệu dụng:
Em đi vô tận trùng trùng
Em về vô lượng tự lòng mà ra
Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng nói ‘‘Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra’’ giống như Hoa Nghiêm kinh ‘‘Tất cả do tâm tạo.’’ Thì ra, cả sơn hà đại điạ, cả ba nghìn thế giới này cũng đều do tâm mình tạo ra mà thôi. Người thi sĩ hốt nhiên ‘‘ồ lên một tiếng’’ và mỉm cười rỗng rang sảng khoái:
Cõi bờ con mắt Hoa Nghiêm
Tường vôi lá cỏ lim dim vô cùng
Cảnh giới Hoa Nghiêm đang thị hiện diễn bày chung quanh khắp mặt đất trần gian cát bụi, từ vô lượng kiếp đến một phút giây của từng sát na vĩnh cửu. Một hôm lang thang lêu lổng, bỗng thi sĩ kỳ ngộ trùng phùng đức Thế Tôn bên vĩa hè phố chợ, khiến chàng rúng động cả thần hồn, vội quỳ xuống đãnh lễ thành tâm:
Thập thành đãnh lễ bước chân
Như Lai hộ niệm phù vân điệu chào
Quan Âm Bồ tát chốn nào
Cũng cho nghĩ nghị lối vào Trung Niên
Ôi Bồ tát hỡi Nhu Lai
Lời thơ đãnh lễ lai rai vài hàng
Ngàn thu rớt hột xuống trang
Lá hoa cồn dậy muôn vàn bữa qua
Trung Niên thi sĩ bàng hoàng, choáng ngợp trước ánh hào quang tuệ giác siêu việt, trực kiến vô ngần Chân Không Diệu Hữu, không biết nói gì hơn là làm thơ tán thán ca hát chan hòa:
Ca về tuế nguyệt thiên thâu
Về ca khoảnh khắc sơ đầu sát na
Chân Không Diệu Hữu là ca
Không chân hữu diệu lưu sa hằng hằng
Đứng đi ngồi ngả ba đàng
Thượng thừa cung bậc muộn màng cứ ca
Chân Không mà Diệu Hữu nên mới có chuyện nói đi nói lại, nói mãi suốt từ thiên cổ xưa nay. Nói từ ngày Đức Phật chứng đạo dưới gốc cây Bồ đề đến bây giờ cũng bấy nhiêu chuyện mà thiên kinh vạn quyển, trùng trùng vô tận vẫn nói không hết lời. Cho nên thi nhân cũng hòa theo chiếu cố, ngưỡng mộ trước phong cách trầm hùng bất động vô nhiễm của Như Lai:
Phật ngồi dưới gốc Bồ đề
Tiên nương dừng bước tóc thề chấm vai
Thưa rằng Phật thật là tài
Thấy mà như chẳng từ ngoài vào trong
“Thấy mà như chẳng từ ngoài vào trong.” Chỉ cần một câu thơ đó thôi, Bùi Giáng đã lột tả hết được tinh túy của đạo lý Đông Phương suốt từ mấy ngàn năm rồi, Khổng Tử, Long Thọ hay Cưu Ma La Thập thì cũng muốn nói quanh nói quẩn cái vô sở trụ, vô sở chấp ấy mà thôi:
Lời thô tục? Ý u tồn?
Ý nào u tục thô ngôn là lời?
Giả danh chân đế cũng rồi
Giả danh tục đế đún đẩy lời cũng qua?
Trăm năm trong cõi người ta
Lọ là Long Thọ lọ là Khổng Khâu?
Vàng beo lục gấu trắng trâu
Đìu hiu trăng mọc nhịp cầu phù du
Bão giông hằng thể bi thanh Liên
Hoa Diệu Pháp lịch hành Thệ Đa
Thập thành sử hiện ra hoa
Thập Ma La Thập lời Hoa Nghiêm rằng
Rằng thì là... như thế. Như thế là như thế nào? Chúng ta hãy nghe Bùi Giáng khề khà đối thoại thong dong:
“- Đọc thơ văn mày viết ra, tao thấy rằng thỉnh thoảng mày nói lên đúng cái tư tưởng ẩn mật trong kinh Hoa Nghiêm, mặc dù mày viết theo cái điệu riêng biệt của mày. Thế nên tao càng ngạc nhiên thấy rằng thường thường mày cứ luẩn quẩn đọc những sách nhảm nhí lăng nhăng. Tao muốn hỏi mày tại sao mà như thế? Mày quên mất cõi tư tưởng lớn hay sao?
- Tao cũng chẳng rõ tại sao, nhưng mày thử giải nghĩa tao nghe thế nào là cõi tư tưởng lớn. Lớn là lớn bằng mặt trời hay mặt trăng hoặc to bự như vũ trụ?
- Cứ tạm cho là to bự như vũ trụ.
- Thế thì tao thử hỏi lại mày: Có khi nào mày nhìn thấy vũ trụ to bự nằm ở ngay trong một giọt sương?
- Có
- Trong một lá cỏ?
- Có
- Trong một lổ chân lông?
- Có
- Thế thì bây giờ mày đã nhận thấy rằng câu hỏi của mày nêu ra ở trên kia đích thực là lệch lạc?
- Có lẽ.”
Thế đó, cảnh giới Hoa Nghiêm là vậy, thấy tất cả vũ trụ mười phương, muôn loài vạn vật, thánh phàm, thế gian và xuất thế gian đều nằm gọn trong tâm của chúng ta đây mà thôi. Tâm như hư không, vốn là rỗng lặng thanh tịnh, chẳng có hình dáng, không sinh không diệt, nhưng vô cùng diệu dụng rất sinh động, tuy bất biến mà tùy duyên. Cái tâm sinh động ấy ứng vào lòng thi sĩ Bùi Giáng nên hồn thơ xuất thần bay bổng lồng lộng giữa trời đất phong quang bát ngát mông mênh. Bên ngoài thì nhảy múa hát ca nhưng bên trong vẫn tịch nhiên niệm Phật như thường:
Huyền hoa đứng ở giữa đường
Người đi rốt cuộc phi thường vẫn đi
Nam mô Đà Phật A Di
Lan mùa nam diện lai quy phục hồi
Con đường hân hoan sáng tạo bước đi đã quá đổi dập dìu, phiêu lãng hoan say, khiến cho thánh thần cũng lắc đầu chịu thua, chỉ có những bậc Bồ tát mới độ lượng mỉm cười tương ứng cùng thi sĩ sâu xa:
Bây giờ huyền diệu sát na
Bước về gọi mộng sơn hà Trung Niên
Là thằng thi sĩ diện tiền
Làm thơ lố bịch thánh hiền chịu thua
Chỉ duy Bồ tát vui đùa
Niêm hoa vi tiếu là vừa lòng thôi
Bồ tát là người có tâm hồn rộng mở, bao dung, chấp nhận tất cả thuận nghịch tỉnh táo hay điên rồ của thế gian, luôn ban vui cứu khổ cho con người, như Tuệ Sỹ phát biểu: ‘‘Không tận hữu vi, Bồ tát chấp nhận sự tồn tại của dị biệt giữa các loại chúng sinh mà kiến thiết quốc độ thanh tịnh. Không trụ vô vi, Bồ tát nhận thức tính bình đẳng như hư không trong tất cả các loại chúng sinh, nên mọi giá trị cá biệt đều được kính trong như là giá trị phổ quát. Không tận hữu vi, nên Bồ tát xây dựng quốc độ thanh tịnh không bằng hận thù tranh chấp. Không trụ vô vi, nên Bồ tát xây dựng quốc độ thanh tịnh bằng tình yêu và sự kính trọng giữa các loại chúng sinh.’’*** Thế là, người thi sĩ tuy điên cuồng nhưng vẫn được các vị Bồ tát chiếu cố, vì thế cứ tha hồ rong chơi, tiếu ngạo giang hồ và chuếnh choáng làm thơ tình yêu, ca ngợi tình thương như muốn nhắn gởi điều chi bí mật cho người em chí cốt vô lường:
Gởi em chút đỉnh mùi hương
Tình yêu xa vắng như dường như không
Gởi em mật pháp phiêu bồng
Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng quy lai
Sau bao nhiêu trận trận tang bồng, phiêu dật, nhà thơ đã truyền âm nhập mật pháp môn gì đó? Chỉ có nàng thơ mới có thể nghe và hiểu ra mật pháp đó mà thôi. Chúng ta đừng có tò mò mà luận bàn đủ thứ. Thi sĩ hẹn hò nàng thơ cùng gặp nhau ở phương trời cố quận cuối nẻo nào heo hút tận chân mây:
Mây theo gió thổi về mau
Bây giờ tiễn biệt mai sau trùng phùng
Cùng em cố quận sẽ cùng
Xiết bao tâm sự điệp trùng tái sinh
Bởi vì cũng từ nàng thơ huyền mộng, từ ngày em xuất hiện trên mặt đất sa mạc hoang vu này đã khiến cho thi sĩ bừng ngộ ra một điều chi kỳ bí lặng im:
Em từ thiếu nữ bước ra
Thành thân thục nữ tên là thuyền quyên
Mang thêm mỹ nữ chênh vênh
Em làm đắm đuối dưới trên bao người
Mỹ nhân cách điệu tuyệt vời
Giai nhân từ đó cũng vời tuyệt hơn
Em muôn vạn xứ êm đềm
Cho em rất mực muôn nghìn mà ra
Anh từ đó ngộ thiết tha
Em là vô tận em là em ơi!
Nàng thơ thỏ thẻ hỏi chàng thi sĩ đã ngộ điều chi ly kỳ gay cấn như rứa thì chàng nhẹ lắc đầu chỉ đáp:
Anh chỉ biết mỗi một điều là như thế
Như thế nào anh nói rõ em nghe?
Là thế đó muôn đời là như thế
Nói làm gì em nghe nữa làm chi!
Phải chăng đó là thể lệ vô ngôn, vì ngôn từ bất lực không thể diễn tả được cái trực ngộ kia? Thôi đành lặng lẽ lắng nghe điều huyền diệu đang dần dần lan tỏa quanh gót ngọc em về dưới nắng sớm chiều mưa:
Em đi bất chợt thượng thừa
Thoảng trong phút chốc còn lưa muôn đời
Em từ viễn tượng xa xôi
Về từ thiên thượng tuyệt vời tố nga
Tình yêu có lẽ chăng là
Tình thương vô tận tặng quà vô tâm
Té ra là như rứa, tất cả muôn sự muôn việc triền miên xảy ra từ xưa đến nay cũng chỉ là vô tâm, vô niệm như không, chẳng là gì gì hết cả:
Như không là ấy ruột rà
Như không vô tận từ ta tặng người
Tặng người em gái quê, gái phố, gái núi, gái rừng, gái biển, gái thuyền quyên thục nữ mười phương một bài thơ tình thương yêu bất tuyệt vĩnh hằng:
Tặng em thể điệu toàn thân
Kết chùm nguyệt rộng đôi vần thi ca
Tặng em thỉnh thoảng mà ra
Thiên thu tặng vật đóa hoa tình đầu
Chiều nay bỗng thấy tình thương
Chảy tràn ngập khắp du dương cõi bờ
Chân tình anh hỏi nàng thơ
Chẳng thà như rứa chớ bơ vơ - ồ!
Hình thành tinh thể bài thơ
Vô cùng kiều diễm một giờ mà ra
Muôn trùng vĩnh biệt thiết tha
Một giờ như thể muôn hoa một mùa
Một mùa chi mà lạ rứa? Thưa rằng không biết nữa. Chỉ hay rằng, đặc biệt, nhà thơ Bùi Giáng có một niềm tương ứng đậm đà, thâm sâu đến độ tâm đắc cùng lục bát Nguyễn Du qua tác phẩm Truyện Kiều. Hình ảnh thi hào Tố Như luôn luôn xuất hiện, đi về trên khắp hàng ngàn trang thơ văn dặt dìu lãng đãng:
Sáng nay chim hót thật nhiều
Tưởng nghìn tiếng nói tình yêu đất trời
Chiều nay có lẽ lá rơi
Mưa rừng đổ xuống khắp nơi ào ào
Mai kia sẽ nhớ ngày nào
Ngày nay ấy mộng rì rào máu tim
Thượng thừa tiếng hót của chim
Của gà gáy sáng từ khuya tới giờ
Làm đi làm lại bài thơ
Kể từ tao ngộ bất ngờ Nguyễn Du
Tôi từ muôn kiếp phôi pha
Gặp em ngàn thuở mà ra một thời
Một lần vô hạn em ơi
Gặp từ vô tận đất trời Nguyễn Du
Chào em thiên nữ vong hồn
Thiên thu đã tới mang dồn dập hoa
Tán hoa thiên nữ ấy là
Thúy Kiều vô tận tên là Nguyễn Du
Thúy Kiều một thuở mà ra
Muôn thu vạn thuở nõn nà hiện thân
Kiều ôi có lẽ một lần
Hồng Sơn thiên lý tử phần tái sinh
Một vùng cỏ mọc nước ngâm
Nghìn năm nhớ mãi cung cầm Nguyễn Du
Các con không gặp Nguyễn Du
Chính ông cũng chẳng gặp Du bao giờ
Nhưng bài thơ ấy còn trơ
Bên nguồn vĩnh phúc bất ngờ tỏa ra
Những là ánh sáng chói lòa
Việt Nam văn hiến băng qua dặm nghìn
Đã hơn bốn nghìn năm văn hiến trôi qua, thi sĩ đi về cố xứ và âm thầm nhập diệu vào cõi miền vĩnh cửu uyên tư:
Về bên cố quận tuyệt trù
Vượt biên giới nhập thiên thu vô lường
Thiên thu vĩnh cửu nằm ngay trong giây phút bây giờ và ở đây. Không còn biên giới phân biệt nhị nguyên đúng sai, phải trái, hết rồi những có không, mộng thực giữa chốn tồn sinh. Người thi sĩ hồn nhiên như trẻ thơ, thở nhẹ nhàng từng điệu thở hài nhi nhẹ vời với tiếng cười nhẹ nhõm reo vui:
Chưa biết nói đã biết cười
Cười như thượng thặng vẹn mười Như Lai
Hồn như Di Lặc dẻo dai
Cười không biết chán chường ai ai người
Quả nhiên nó đúng là người
Mà sao nó khác hẳn người chúng ta
Quả nhiên nó rất là già
Mà sao nó bảo nó là trẻ thơ
Trẻ thơ nào có bao giờ
Biết làm thơ để phượng thờ tình yêu?
Bùi Giáng là thế, vẫn tà tà cách điệu tiếu lâm, riễu cợt hài hước cho “vui thôi mà” chớ có chi đâu mà trầm trọng, nặng nề phê phán đúng sai, trúng trật, dở hay phải không? Thì ra là vậy, trên con đường miên man sáng tạo, trên ngõ về vô sở trú phong quang, thi sĩ thung dung trỗi nhịp cung đàn hoan ca, hòa âm cùng cung bậc Bất nhị như thị như nhiên. Với tinh thần vô sở cầu, vô sở chấp, vô sở đắc, lặng lẽ buông bỏ, cho và cho hết những gì mà thiên hạ đang đấu tranh, giành giật chiếm hữu lẫn nhau, thi nhân tự nguyện sống nghèo nàn hàn sĩ, làm kẻ ăn mày, một tên cuồng sĩ lang thang suốt đời hát bản độc hành ca qua Ngày Tháng Ngao Du làm Rớt Hột Phiêu Bồng giữa mênh mông thông lộ vô cùng bất tận, ngờm ngợp gió ngàn trăng.
Văn hào Mỹ vĩ đại Henry Miller nói: “Từ chút ít sách vở tôi đã đọc, tôi nghiệm ra rằng, những người lặn lội sâu nhất trong cuộc đời, những người nhồi nặn cuộc đời, những người chính là cuộc đời đều ăn ít, ngủ ít, sở hữu ít hay không có gì cả. Họ không có bất kỳ một ảo tưởng nào về bổn phận, hoặc nối dõi tông đường hay duy trì quốc gia. Họ chỉ quan tâm tới chân lý và chân lý mà thôi. Họ chỉ chấp nhận một hình thức hoạt động là sáng tạo. Không một người nào có thể chỉ huy công việc họ, bởi vì họ tự nguyện cho tất cả. Họ cho không, bởi vì đó là cách duy nhất để cho.” (4)
Nhận định trên của Henry Miller rất đúng với trường hợp Bùi Giáng biết bao. Một thi nhân đã tận hiến cho cuộc sống bằng tất cả tinh thành chân thiết nhất, bằng con đường nghệ thuật thi ca.
Nhà thơ Bùi Giáng đã sống trọn vẹn một cuộc đời hạnh phúc viên mãn theo ý nghĩa đạo Phật. Suốt bình sinh cuộc sống, thi sĩ là hình ảnh quá cùng đẹp trong cái nhìn của thiên hạ mọi người, nhất là giới tăng sĩ Phật giáo và giới văn nghệ sĩ, ai ai cũng nhìn ông với niềm ưu ái, quý mến đầy ngưỡng mộ. Ngưỡng mộ sự tự do tự tại, thung dung thoát tục, không dính bụi trần mà “hòa cùng ánh sáng, trộn cùng cát bụi” của thi nhân. Bồng tênh tiêu sái, rong chơi suốt một đời thơ giữa phố thị phù hoa như một hài nhi tóc bạc thơ ngây, nhảy múa hồn nhiên hát ca vi vu vi vút.
Cuộc đời Bùi Giáng vô cùng thi vị, một cuộc đời hoàn toàn sống vì nghệ thuật, dâng hiến tất cả cho nghệ thuật thuần túy, chỉ biết sống hết mình cho thi ca và đệ nhất hy hữu nàng thơ tuyệt cùng chơn mỹ: Em đi hồn nhớ nhung gì
Anh ngồi nhớ cái nhu mì lẻ loi
Trời cho rất mực rạch ròi
Vào trong thục nữ ra ngoài thuyền quyên
Của em toàn thể uy quyền
Của em toàn diện thần tiên dịu dàng
Tư tưởng trong thơ Bùi Giáng mang một ý nghĩa bùng vỡ khai phóng, đầy ắp hào quang sáng tạo. Tư tưởng nhập cuộc chịu chơi vào cõi tồn lưu mà vẫn thanh thản thong dong, không dính mắc, không ràng buộc, không chấp chặt của thi nhân thật chẳng khác gì thái độ vô tâm, vô niệm, vô sự của những bậc thiền sư. Nhà thơ thõng tay vào chợ, tung hoành ngang dọc, nhảy múa quay cuồng đủ thể điệu quàng xiên mà vẫn sáng suốt thông tuệ như như. Tư tưởng phá chấp triệt để của Thiền tông được thi nhân thể hiện suốt bình sinh cuộc sống bằng chính bản thân mình, như ngụ ngầm khai thị một điều gì vi diệu mà mỗi một người trong chúng ta phải tự lãnh hội, tự thấu hiểu ra mà thôi.
Sở dĩ con người đau khổ là vì cố chấp, chấp ngã, chấp pháp, chấp đủ thử lu bù nên cứ mãi khổ đau trầm thống triền miên. Muốn thoát khỏi vòng trầm luân khổ não đó, chỉ còn một cách là hãy trở về lại chính mình, nhận biết cái bản tâm nguyên sơ, sống với thực tại đang là ngay trong từng hơi thở luôn luôn mới lạ và mới lạ.
Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách nhận xét về thi sĩ: “Bùi Giáng cũng như một người điên, cỡ Tế Điên. Cũng như Tế Điên, hình như ông đến cõi đời này để dạo chơi, để đùa rỡn và cũng để giáo hóa cho con người thấy tất cả đều chỉ là trò ảo giác của sắc thân, của chữ nghĩa, của tư tưởng, chúng đều là chuyện đáng để đùa rỡn.”(5)
Thật vậy, cuộc rỡn đùa chơi hay đại hòa điệu chơi giữa cõi người ta, vì tất cả mọi sự trên thế gian này đều chỉ là trò chơi, trò đùa huyễn mộng. Sống là chơi, chết là chơi, điên rồ là chơi, tỉnh táo là chơi, uống rượu khề khà là chơi, mê gái là chơi, làm thơ làm thẩn là chơi, làm văn nghệ là chơi, làm cuồng sĩ túy lúy ca là chơi, làm thiền sư tự do tự tại là chơi, làm bất cứ việc gì cũng là trò chơi, trò đùa du hý tam muội mà thôi:
Mỗi người có một cách chơi
Em vui với gió tôi ngồi nhìn trăng
Em đi năm tháng thường hằng
Tôi nằm nhớ mãi hàm răng em cười
Mở tờ giấy mới ra chơi
Hình như giấy cũng vui cười với em
Bài thơ do đó lem nhem
Lúc vui lúc khổ như em đó mà
Còn tôi vui khổ thật là
Đảo điên rất mực tiên nga giật mình
Trăm năm khó đổi tính tình
Cũng không có thể làm thinh muôn đời
Thôi thì cứ nói cho vui
Nghìn năm chỉ có một đời muôn năm
Làm sao quên được giọng cười ‘‘vui thôi mà’’ của thi nhân? Giọng cười ấy vẫn còn đồng vọng khắp nơi trên mặt đất. Bất cứ ở đâu, nếu ai còn cảm được thi ca và phiêu lãng đều nói về Bùi Giáng với niềm rỡn tếu, bông đùa một cách vui vẻ, thân mật, gần gũi như là anh em chí cốt ruột rà vậy.
Ngày tháng vẫn luân lưu trôi chảy mãi, nói về Bùi Giáng thì bất tuyệt và giọng cười vô sự cũng mở ra bất tuyệt như Ma Ha Ca Diếp niêm hoa vi tiếu trên đỉnh Linh Sơn rờn mây trắng từ nghìn xưa cho mãi đến bây giờ:
Niêm hoa vi tiếu luống từng
Xuân phong bài động thơ mừng vụt dâng
Người thi sĩ thượng thừa đã về đã tới nơi chốn quê nhà, đã qui hồi cố quận, nằm ngắm trăng đón gió cùng mây về hòa điệu khúc cung cầm vô thủy vô chung:
Tâm tình mấy nẻo mông lung
Ta nằm cố quận muôn trùng người đi
Kỳ tuyệt cõi thi ca Bùi Giáng, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng sự sự vô ngại, lý sự viên dung của pháp giới Hoa Nghiêm. Tư tưởng đó được thi sĩ tiêu dung, tiêu hóa và sáng tạo thành một nguồn thơ độc đáo vô song. Hồn thơ như ngọn lửa thiêng ngời tỏa ánh hào quang, cháy bừng lên rực rỡ huy hoàng làm ấm áp khắp mặt đất trần gian, chan chứa nồng nàn trong cõi người ta tha thiết thiên thu.
Giữa thiên thu vạn đại, ngưới viết xin kính tặng thi sĩ một bài thơ: Không chỗ trú chẳng bến bờ
Vẫn bầu rượu với túi thơ dặm dài
Ngút mùa cuồng sĩ lai rai
Nghêu ngao vô sự hát bài Hoa Nghiêm
Có gì đâu phải đi tìm
Ba nghìn thế giới trong tim của mình
Tà tà giữa cuộc phiêu linh
Một hôm bất chợt thấy hình bóng xưa
Nên về cà rỡn bông đùa
Múa ca diệu dụng cùng mưa nắng cười
Miền hoan hỷ địa rong chơi
Khơi nguồn sáng tạo mở trời đất ra
Tâm Nhiên
Chú thích:
(1) Tạp chí Tư Tưởng số 5. Đại học Vạn Hạnh. Sài Gòn 1969
(2) Phạm Công Thiện. Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử, Hoa Kỳ 2009
(3) Tuệ Sỹ. Huyền thoại Duy Ma Cật. Nhà xuất bản Phương Đông, 2007
(4) Nguyễn Hữu Hiệu. Con đường sáng tạo. Nhà xuất bản Hồng Hà, 1973
(5) Nguyễn Tường Bách. Mùi hương trầm. Nhà xuất bản Trẻ, 2001 Thơ văn Bùi Giáng trích trong các tác phẩm: Mưa nguồn, Lá hoa cồn, Sa mạc phát tiết, Sa mạc trường ca, Rong rêu, Như sương, Đêm ngắm trăng, Mùa màng tháng tư, Ký ức, Trúc mai, Mười hai con mắt, Rớt hột phiêu bồng, Bèo mây bờ bến. Thơ vô tận vui, Tuyết băng vô tận xứ, Thúy Vân, Mùa xuân trong thi ca, Tư tưởng hiện đại, Lời cố quận, Lễ hội tháng ba, Ngày tháng ngao du.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét