Thứ Ba, 22 tháng 10, 2019

Bùi Giáng - Thi ca tư tưởng 2

Bùi Giáng - Thi ca tư tưởng 2
Bùi Giáng - Thi ca tư tưởng 
Hoài Thanh 
Nếu cuốn sách của Hoài Thanh (Thi nhân Hiện đại) không ra đời, thì thi ca hiện đại Việt Nam ắt phải tang hoang tinh thể do sức tàn phá của cuốn sách Nhà Văn Hiện Đại Vũ Ngọc Phan. Trong thế hệ trước, ngoài Hoài Thanh ra, không còn một kẻ nào có thể ngờ ra thiên tài Huy Cận. Dẫu có ngờ ra ắt cũng không thể viết được như Hoài Thanh. 
Hoài Thanh am hiểu thi ca Tây Phương, mà vẫn dám coi nhẹ Tây Phương trước thiên tài Huy Cận Nguyễn Du. Đó là điều hy hữu. Hoài Thanh thừa biết rằng những thứ ta quen gọi là “chủ đề” trong thơ Huy Cận - những suy tư về thân phận con người, về cái chết, về tình yêu v.v… - những thứ đó chả có chi tân kỳ. Cũng như Truyện Kiều của Nguyễn Du chả có chi bí ẩn, nhưng thiên tài chính là kẻ làm “mới” lại những chủ đề cũ kỹ trong ngôn ngữ đơn giản của mình. 
Thơ Xuân Diệu tràn lan những chất liệu thi ca Pháp. Nhiều phen ông nói toàn chuyện rỡm. Nhưng thiên tài của ông là ở chỗ: vì quá thâm hậu, nên đùa chơi suốt kiếp với chuyện rỡm. 
Hoài Thanh cũng là kẻ riêng biệt âm thầm cảm thấy sự đó. 
Huy Cận 
A thân thể! một cái bình tội lỗi 
Đất sơ sinh đã hóa lại bùn lầy 
Một ý tưởng chẳng có chi mới lạ. Nhưng câu thơ của Huy Cận lại tươi mát như bầu trời. 
Và cổ đứng như mình cây vững chãi 
Và vai ngang như mặt nước xuôi dài 
Viết câu thơ lai rai như thế mới đích thật là thiên tài. (Còn như bài “Tràng Giang” của ông chính ông cũng lấy làm đắc ý lắm, thật ra còn vướng vướng, không có chi huyền ảo cả.) 
Và cái câu: 
Tôi đội tang đen và mũ trắng 
Ra đi không hẹn ở trên đường 
Ông viết hai câu thơ kỳ tuyệt như thế, thì thử hỏi: còn chi đáng kể nữa? Ông thừa sức xô ùa Đường Thi chạy mất hút. Toàn khối thi ca Trung Quốc, toàn khối thi ca Tây Phương, hầu như bị nổ bung lông lốc, vì trái lựu đạn đơn giản đó của ông tung ra. 
Và đôi mắt ấy biết nhìn xa 
Khi ngoảnh gần bên biết đậm đà 
Nhưng cũng biết gieo buồn khía cạnh 
Lạnh đồng tê giá nét thu ba 
Tại hạ mấy mươi năm nay đọc cũng nhiều loại thi ca ngoại quốc, mà tuyệt nhiên chẳng thấy một vần nào dám ngang nhiên đứng vững trước mấy vần thất ngôn của Việt Nam nọ. 
Ấy bởi vì? Bởi vì thơ Huy Cận vốn là sầu, nhưng đó là loại sầu thượng đẳng Như Lai, nên chi trong cái nỗi sầu có pha chất gay cấn chịu chơi. Thơ Homère, Sophocle, Shakespeare, Nietzsche cũng thường có chất đó. Trái lại, thơ hoằng viễn như không của Nerval, Hoelderlin, Eluard, lại dường như không có. (Ấy bởi vì họ chịu chơi theo lối từ bi khác). 
Dù sao ta cũng có thể nói rằng thơ Huy Cận quả có như là cõi miền huyền bí nhất của tinh thể Đông Phương 
Martin Heidegger 
Ông nằm giữa mê cung triết học Âu Châu, ông rỡn rỡn đùa đùa với mọi con Minotaure trong đó. Ông độ lượng bao dong, dù biết nó ngoan cố ông vẫn chậm rãi dạy dỗ nó, kiên nhẫn với nụ cười của ông nội, ông ngoại. Ông biết rằng mình thừa thãi công lực thâm hậu, không bao giờ có thể bị nó ám hại đến nỗi phải lâm vào tình trạng tẩu hỏa nhập ma và bị nó vồ nuốt, nên ông thong dong đi sát bên nó mà gùn ghè, ông đú đỡn nhảy lui nhảy tới, thỉnh thoảng ông giả vờ như mình bị bế tắc đầu hàng, để có thể ngấm ngầm bày vẽ cho nó những thế võ mới để nó có thể kéo dài cuộc tranh chấp với ông, nhiếp dẫn nó tới cõi đốn ngộ cuối cùng. Cổ kim, Tây Phương chỉ có một mình ông thượng đạt tới tót vời như Khổng Tử. 
Thượng Đế 
Nếu Thượng Đế quả thật yêu thương loài người, thì Thượng Đế nên tạo ra nhiều nương tử khổng lồ. Ấy là cốt để làm gì? Ấy là cốt phòng khi nào bọn chán đời muốn lọt vào lòng mẹ trở lại thì có chỗ để lọt đầu chui vào. Và như vậy sẽ còn cơ hội được sinh ra đời lần khác, khởi sự làm trở lại một thằng bé sơ sinh tuyệt nhiên không biết sao gọi là chán đời. 
Tuy nhiên vì trái đất nhỏ hẹp quá, nếu tạo ra Nương Tử khổng lồ thì các nàng sẽ không có chỗ trú. Vậy trước tiên, Thượng Đế nên thổi phồng trái đất to ra gấp mười lần, thì sự tình sẽ được dàn xếp viên mãn về sau. 
Ông Trời xanh 
Ông trời xanh đã bắt đầu có địa vị trong nền thi ca Việt Nam, kể từ ngày cái chất bê bối của ông đượn thiên tài Nguyễn Du dựng lên sừng sững khắp chốn trong Truyện Kiều. 
Gẫm hay muôn sự tại trời 
Mọi biến cố xảy ra trong tác phẩm huyền diệu nhất nhân gian, đều do ông Trời Xanh bài bố. 
Gauguin 
Gauguin bỏ Âu Châu, dứt khoát với mọi trường trại lố nhố Tây Phương, thẳng tới một hải đảo Thái Bình Dương dựng lên một trận hỏa hoạn vô tiền khoáng hậu. Ông dựng toàn khối thảm kịch nhân gian trong con mắt thơ ngây người gái đảo. Thảm họa chạy tràn lan, ngập khắp mùi hương cây cỏ giữa sa mạc đại dương. 
René Crayssac 
René Crayssac dịch Truyện Kiều ra Pháp Ngữ, vướng vào những lối sống sượng không thể tránh được. 
Nhưng với tất cả những khuyết điểm khổng lồ kia, vì lẽ gì bản dịch của ông vẫn sừng sững nằm trong văn học Tây Phương như một tòa lâu đài Hy Lạp? 
Qua cuốn sách của ông, người Tây Phương có thể nhìn thấy toàn khối văn minh Đông Phương lấp lánh trong sương mù. 
Và người Đông Phương ngày mai sẽ nằm trong định mệnh: chỉ còn có thể nhìn ra thiên tài Nguyễn Du là qua bản dịch của Crayssac mà thôi.
Hồ Dzếnh 
Phải quên mấy bài lục bát của ông Hồ Dzếnh thì mới còn can đảm làm thơ. Hoặc còn chịu khó đọc thơ Tây thơ Tàu. 
Nhưng mỗi phen đang giữa cơn chịu khó liên trì mà chợt sực nhớ cái bài “Phút Linh Cầu” của Hồ Dzếnh, thì ối thôi! ối thôi! Chẳng còn thể nào tiếp tục công việc gì nữa cả. Linh hồn bỗng nhiên xô ùa máu me chạy tuột đi hướng khác, vô phương nắm cầm lại… 
Khói trầm bén giấc mơ tiên 
Bâng khuâng trăng rải qua miền quạnh hiu 
Tô Châu lớp lớp phù kiều 
Trăng đêm Dương Tử mây chiều Giang Nam 
Không còn một loại thơ kim cổ nào đứng nổi trước cái trận chiêm bao kỳ ảo kia. Tôi thách các bạn tìm bất cứ trong thi ca cổ kim một bài thơ nào đứng vững nổi trước mấy vần lục bát của ông bạn Minh Hương kia. 
Hễ thong dong tự tại thả mình theo thơ đó, thì cảm thấy như mình biến làm thiên thần. Mà hễ hì hục cố bàn giải vào, thì bỗng nhiên tức thở, ngột hơi, cảm thấy mình là một con đười ươi lếu láo trơ trẽn, không biết xấu hổ là gì. 
Lỡ viết ra đôi lời giải thích thì về sau sẽ ân hận, sẽ mòn mỏi máu me kịch liệt. 
Cũng may cho ông Nguyễn Du sinh ra ở thế kỷ trước. Nếu sinh ra đồng thời với Hồ Dzếnh, ắt ông Nguyễn Du không còn chịu viết Đoạn Trường Tân Thanh làm gì. 
Mọi thi sĩ ngày nay đều là kẻ bất hạnh. Bị đọa đày làm thi sĩ, trong khi cõi thơ không còn lối để bước. Mấy chục bài lục bát của Hồ Dzếnh là đại dương thi ca. Ta còn đem vài giọt nước rót vào đại dương làm gì? 
Có lẽ Hồ Dzếnh cũng rõ điều ấy, và vì lòng từ bi, ông bèn làm thêm nhiều bài thất ngôn xoàng xoàng in xen lẩn vào. Cốt để che bớt cõi bao la của đại dương. Nếu không làm thế, thì mặc nhiên lên án tử hình hết mọi thi sĩ năm châu. 
Ấy có nghĩa rằng: tập thơ Quê Ngoại của ông cho người đọc nhìn ra ẩn ngữ thơ mộng của mặt đất chỗ này: một tâm hồn nhỏ dại, quanh quẩn với những nhớ nhung nhõng nhẽo tâm tình bê tha, mỗi phút xuất thần kỳ ảo bỗng nhiên nhảy vọt một bước lên tột đỉnh thiên tài, không có gì giải thích được. 
Tiêu Quỳnh 
Lần này gặp lại tâm hồn của hai non nước Thừa Thiên Hà Tịnh giao thoa sương bóng. 
Sương Bóng 
Ngày qua tháng đưa năm về nguyệt 
Tuyết rung rinh cự tuyệt thời gian 
Đi qua hàng xóm xin hàng 
Chữ trong nét bút đầu trang khuynh thành 
Hẹn với nước màu xanh nguyên thủy 
Góp chùm bông hương dị dị phai 
Lời theo đẫm gió xuân dài 
Đầu hôm cá biển cuối ngày chim non. 
Mai Vân Thu 
Tôi đọc lại nhiều lần mấy chục bài thơ của Mai Vân Thu, vẫn hồn hộn ngạc ngạc như lần đầu. Tuyệt nhiên không thể xác định được tinh thể điệu thơ của cô. Gắng hồi tưởng xem mình đã từng gặp điệu thơ ấy ở chân trời nào chưa, vẫn quả như là chưa hề gặp. Thơ của cô có vẻ như màu xanh nước biển quanh một vùng hải đảo nào tôi chưa có dịp tới. Hoặc như màu mây gió ở một hành tinh nào không giống như ở trái đất chúng ta. Xin trích ra đây một vài bài. 
Chiêu hoa 
Chiêu hoa mạch mạch hai dòng 
Trổ xum xuê ngọn ngoài trong như vàng 
Lục thành tam nguyệt vừa toan 
Tấm thanh sam cũ chìm tan sương đồng 
Tiểu nhi ý nguyện như hồn 
Còn trong ý tứ khuôn tròn đong đưa 
Một rằng thốt một rằng thưa 
Bình minh trăng mọc ngọn dừa ngủ say 
Tỳ tử hát 
Tỳ tử hát tiếng ngang lời dọc 
Cho yên vui màu tóc nữ vương 
Một mai má đỏ môi hường 
Rẽ sang bến khác còn mường tượng nghe 
Chấm ngòi bút sắt se vào mực 
Viết ra câu thúc giục sương mù 
Tô son điểm phấn hư phù 
Bước ra bờ cõi đất trù hoạch chi 
Vui nhất và buồn nhất 
Có lẽ thơ nói được cái buồn nhất. Nhưng làm sao nói được nỗi vui nhất? Nó như mây như khói, hay là như cái gì?
Long lanh đáy nước in trời 
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng 
Nhưng sao gọi là vui nhất? Có cái vui rộn ràng nhất. Nô nức nhất. Hồi hộp nhất. Xao xuyến nhất. Cuống quýt nhất. Thanh bình tự tại nhất. 
Nhưng sao gọi là nhất? 
Ví đem vào sổ nhất trường? 
Thì treo giải một mà nhường cho hai? 
Cực độ của vui nhất, rất có thể khiến người ta vỡ toang linh hồn, rồi chết mất. Thế thì trong bình sinh con người ta, không bao giờ có cái gì gọi là nhất hết cả? Có lẽ… 
Hölderlin 
Cây trong rừng lớn mạnh mỗi cây 
Cọp trong hang mỗi hang mỗi cọp 
Tỳ tử ngậm bóng sương huếch hoác 
Nữ vương đùa toe toét miệng môi 
Ra đi hết đứng lại ngồi 
Khung trăng lữ thứ trong đời cõi ma 
Tam bành nhị bội tăng gia 
Hàng chân chữ bát bước qua giậu rào 
Chùm nộ phóng lũy hào phồn thịnh 
Lam phù dung núng nính lưng tôm 
Môi son miệng mở đỏ lòm 
Diotima ạ, ngó dòm cái chi? 
Sinh đã biệt thì ly luôn tử 
Rượu hư vô nốc thử ly này
Hai hàng tay chắp trong tay 
Mnemosyne ạ sau này gặp nhau. 
(“Thơ Vịnh”) 
Hàn Mạc Tử 
Làm sao nói gì về Hàn Mạc Tử? Ông gào kêu trong thơ thảm họa của đời ông. Mà đời ông là chỗ về tụ tập của mọi thảm họa nhân sinh. 
Thơ ông là một tiếng thét và một lời than.
Tiếng thét đầy máu, tiếng than tràn ngập hư vô. Lúc hãi hùng khiếp đảm, lúc quạnh quẽ lạc phách xiêu hồn. 
Tôi không đọc thơ ông. Tôi đứng xa xa, người ta hỏi tôi về thơ ông thì tôi xin đánh trống lãng. 
Thơ tôi làm, một lần tôi tặng ông trong Mưa Nguồn - ngoài ra mọi làn sóng bành bái trong mấy cuốn thơ của tôi chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm bão giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian mang trên hai cánh mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Clavaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng khoai sắn,thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dong phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao, thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao: 
Một hôm đếm một ra hai 
Lộn là lạ lắm lai rai bốn lần 
Trăng Châu Thổ rất mực gần 
Mà ra tại hạ vô ngần chiêm bao 
Đinh Hùng 
Chúng ta khóc như một bầy thú dữ 
Lòng dã man nghe trái đất tan tành 
Câu thơ như thế đủ giúp mọi người bước vào cung cấm Mê Hồn Ca, chậm rãi đón nghe cái lời gì trong linh hồn vân thạch. 
Tặng ông Đinh Hùng vài vần cảm khái: 
Bị thường bách tân toan dự khổ 
Ngọc vẫn hương tiêu tộ thử thân 
Vẳng nghe hàng xóm lối gần 
Chân đi gót bước cơ trần đa đoan 
Hoàng hậu luống muộn màng công chúa 
Nảy hoa xuân cùng múa lộn vòng 
Ba thu càng lắc càng đong 
Càng đầy tâm sự nỗi lòng càng vơi 
Ngày ông còn sống, tôi gặp ông mấy lần. Câu chuyện cứ lạc lõng âm thanh. Ông đánh mất ông, tôi đánh mất tôi. Không hề gì, không hề gì. 
Tặng ông một bài nữa: 
Tam thiên thủ lạc thiên trường đoản 
Tiểu viên hương vũ loạn mông lung 
Cuồng ca túy hậu điệp trùng 
Diệu từ tiền diện bách tùng tiểu tiên 
Hà xứ khán minh niên minh nguyệt 
Thử sinh hòa thử tuyết thử sương 
Vô thanh ngân hán đoạn trường 
Mộ vân thu tận vô thường vân tiêu. 
Phổ Đức 
Đọc thơ Phổ Đức nghe hân hoan như vào vườn cây đủ mọi thứ trái. Trái nào cũng muốn ăn chơi. 
Đúng là như thế. Đọc thơ Tạ Ký, Hoài Khanh có cảm giác như uống rượu. Mà đọc thơ Phổ Đức thì quả thật là như ăn trái cây, như leo cây bẻ trái. Hoặc leo cây rồi nằm ngủ trên cây, không muốn tuột xuống đất. 
Sài Gòn thành phố thân yêu 
tặng Nga 
Hỡi em yêu dấu! 
mỗi lần về anh ghé thăm em 
Sàigòn thành phố thân yêu 
em ở đó làm sao xa được 
Sàigòn là hơi thở của cơ thể anh 
thành phố của áp phe 
môi trường của văn học 
anh ước ao được thất nghiệp ở Sàigòn 
hơn làm có tiền ra tỉnh lẻ 
tiền có làm gì khi thiếu em 
và bạn bè thân thuộc 
thiếu em là hồn anh mất điểm tựa 
xa bạn bè là hết văn nghệ rồi em! 
Sàigòn Quán Chùa có Toàn, có Mậu 
Kim Sơn có Ly, Bô Đa có Sơn, có Ngọc, có An 
và biết bao nhiêu người nữa 
ở Đêm màu Hồng ở Mác-Xim 
ở Quán Gió, Thằng Bờm, Bão, Thơ, Mai, Lú 
Phấn Thông Vàng, Mai Hương, Thanh Bạch… 
đang chờ anh từng phút từng ngày 
gặp nhau dù chỉ để bắt tay 
hay hỏi vay tiền cũng đều cần thiết 
ngày vào lính anh xa thành phố 
Sàigòn thân yêu nhìn rõ lòng người 
bộ mặt đời đã tầm thường càng tầm thường hơn nữa 
danh liệt rồi chỉ còn em hiểu anh thôi 
anh từng xuôi ngược khắp Miền Nam 
Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt 
Vũng Tàu, Cần Thơ, Vĩnh Long, Cà Mau, Long Xuyên 
đâu cũng chẳng bằng Sàigòn thành phố thân yêu 
quê hương mưa nắng hai mùa 
anh đã trưởng thành ở đó 
nên xa Sàigòn anh vô cùng khổ sở 
bảy tháng rồi em 
(hơn 210 ngày và hơn 5.040 giờ đúng 302.400 phút đúng 18.144.000 giây) 
anh trờ lại Sàigòn 
với bạn bè, thơ văn, sách báo 
với những ngày lang thang 
cơm bình dân, mì, bò kho, đầu đường, xó chợ 
rồi chui vào rạp Rex ngủ trưa 
đợi chiều đi dạy giết thời giờ 
với những đêm thức trắng làm thơ 
hay xoa mà chược 
bảy tháng rồi em 
ai đưa em đi xoa? 
ai đón em đi ăn bánh cuốn Phan Đình Phùng 
hẻm Casino Sàigòn, ngã tư Quốc tế cầu Tân Thuận 
đợi Rex, Đại Nam, Eden, Vĩnh Lợi đổi phim 
truyện Kim Dung đã xem hết chưa em? 
đọc để an ủi cái bất hạnh của từng nhân vật 
bè bạn mình chắc cũng có người cưới nhau 
nhưng tin vui chỉ bằng 1/10 tin buồn, cáo phó 
bây giờ xem báo 
anh lật trang chót trước 
đọc để chau mày, nhăn mặt, cúi đầu 
lệ chảy nhiều nên khô cả thương đau 
thân làm đĩ chai đá mòn ân ái 
quê hương rách như đời mình hiện tại 
dù muốn dù không em hãy tin định mệnh an bài 
em yêu ơi! 
anh sẽ về dù gió, mưa, bão, đạn 
dù hết tiền xe, dù nhảy rào, dù bị cạo trọc đầu 
anh quyết về với thành phố thân yêu 
để nhìn thấy mặt em và bè bạn 
để hơi thở được tự do 
và nụ cười được cởi mở 
cho những cuộc hẹn hò còn tiếp nối 
để dựng lại đời trong đổ vỡ chông chênh 
và nguyện sẽ chẳng bao giờ xa Sàigòn 
như chẳng bao giờ anh xa em 
Tuổi đời ba mốt 
vào tuổi ba mươi mốt để thấy phần đời còn lại 
để nhận rõ mình và hiểu người nhiều hơn tuổi cay nghiệt nếu không muốn nói là định mệnh 
đay nghiến hồn gần vỡ mặt - nát thân 
ba mươi tuổi lẻ tôi biến thành chong chóng 
xoay đủ chiều trong vũng cạn tối tăm 
mặt đã lem tôi cố chùi thêm loang lổ 
nên xua tay như chiếc lá giữa dòng 
tôi rong ruổi đó đây từ năm 18 tuổi 
13 năm sau người ta trói chân tôi 
con số 13 - con số bất hạnh dù lật ngược nó 
như tóc cạo nhẵn rồi - râu mọc dài thêm 
tôi đã đổi dạng thay hình khi nhận tuổi 31 
nên mọi người đều nhìn với dửng dưng 
đời tôi lao như xe tuột dốc 
phanh đứt lìa - bánh chạy mãi không dừng 
em đã hiểu - tôi thầm cảm ơn Phật, Chúa 
cho niềm tin đủ soi sáng đời mình 
tâm hồn em là dòng sông lớn 
tôi là thuyền chở mộng nổi lênh đênh 
đúng mùa xuân em đầy hai mươi 
tuổi của gần nhau hiểu chuyện đời 
chiến tranh đã làm chúng mình xa cách 
dù góc biển, chân trời - hãy nguyện cầu còn đủ chân tay 
tôi chờ đây với những ngày dài nhất 
nỗi chết không rời ám ảnh quanh tôi 
buồn trùng điệp đến vây gần nghẹt thở 
tôi như ếch giam đáy giếng trông trời 
sáng đến chiều qua đêm đã hết 
tôi đếm ngày tháng từng phút từng giây 
niềm tin héo như cuộc tình đánh mất 
sau mỗi lần yêu như canh bạc đen hoài 
tôi treo võng đời trên dây kẽm gai 
móc hồn gần rơi gió lay đưa mỏi 
tôi muốn nhảy sợ thọt chân mù mắt 
nên lờ im nằm thoi thóp đợi chờ 
ba mươi mốt tuổi - nửa đời thất bại 
những ngày về sau lại tối tăm thêm 
tôi ngồi đây như thằng gù chờ mở số 
vé bị cắp rồi cứ tưởng còn nguyên. 
Phổ Đức (Giấu mặt) 
Hoàng Trúc Ly 
Một thứ rượu chua chát nhất ở thành phố. 
Ở Sài Gòn 
Soi gương lạ mặt bao giờ 
Nửa đêm lãng đãng tôi mờ bóng tôi 
Ở đây vụng dại với người 
Nghiến răng nhai mãi nửa lời vô duyên 
Cõi dấn thân 
Tôi còn yêu cho biển còn xanh 
Mây còn bay cho chim chắp cánh 
Ngựa què rồi em cởi lưng anh 
Tôi cứ yêu khốn nạn cứ cười 
Chim cứ bay cho mây gãy cánh 
Em chết rồi ai ám sát tôi? 
Tạ Ký nói chuyện cay đắng, Tạ Ký còn can đảm kiên nhẫn viết ra một trang năm ba chục câu thơ. Đến như Hoàng Trúc Ly, ông chỉ viết bốn câu, sáu câu. Ấy bởi vì cái thứ rượu ông dọn ra là cái loại rượu quá chát. Kẻ tửu lượng thượng thừa, cũng chỉ nhấm vài giọt là choáng váng tối tăm mày mặt. 
Nằm mộng thấy nữ sinh 
Ta từ giấc mộng bước gần em 
Đường phố đầy trăng hay mặt trời chìm 
Ô hay con gái bay nhiều thế 
Hai cánh tay mềm như hai cánh chim! 
Như cuống của hoa như cội của cành 
Em đến bao giờ là em của anh 
Thôi đã vô cùng cô liêu bóng cả 
Như chim xa rừng tội nghiệp rừng xanh 
Tuyệt mù giấc mộng mỏng như sương 
Vai áo hào hoa tê tê bụi đường 
Ra đi ta đắp thêm sông núi 
Trời rộng sông dài nỗi nhớ thương 
Cõi dấn thân 
Tôi còn yêu cho biển còn xanh 
Mây còn bay cho chim chắp cánh 
Ngựa què rồi em cởi lưng anh 
Tôi cứ yêu khốn nạn cứ cười 
Chim cứ bay cho mây gẫy cánh 
Em chết rồi ai ám sát tôi? 
Vĩnh biệt 
Rồi mai khởi sự ra đời 
Chuyến xe trăm tuổi đưa người nghìn năm 
Trăng sao bốc cháy chỗ nằm 
Áo xanh mây lá vết bầm núi non 
Ca sĩ 
Từ em tiếng hát lên trời 
Tay xao dòng tóc tay mời âm thanh 
Sợi buồn chẻ xuống lòng anh 
Lắng nghe da thịt tan tành xưa sau 
Trời em tiếng hát lên từ 
Âm ba tóc rối lững lờ vòng tay 
Áo dài lùa nắng vào mây 
Dấu chân hồng nhạn rụng đầy gió sương 
Ở Sài Gòn 
Soi gương lạ mặt bao giờ 
Nửa đêm lãng đãng tôi mờ bóng tôi 
Ở đây vụng dại với đời 
Nghiến răng nhai mãi nửa lời vô duyên 
Bích Yên 
Cô nữ sị này làm thơ chân thành. 
Nếu cô đi tu, ắt sớm thành quan âm bồ tát. 
Mưa tháng bảy mưa trôi vào quá khứ 
Đứng che hồn nghe lạnh khắp châu thân 
Vòng ân ái khép em vào tăm tối 
Vì yêu anh em khổ biết bao lần 
Khổ như thế, thì phí đi. Cô nên đem tình yêu kia trao gửi cho Như Lai ắt là hết khổ. Nói như J. Leiba: 
Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá 
Lệ lòng xin cạn chốn am Không 
Cửa thiền một đóng duyên trần dứt 
Quên hết người quen chốn bụi hồng. 
Đi tu chơi vài năm, lúc bấy giờ cô sẽ nghĩ sao khi đọc lại những vần thơ trầm trọng ngày trước: 
Niềm tin vỡ như nắng tan mặt biển 
Kỷ niệm buồn chĩu nhánh khắp thân em 
Đời con gái được mấy lần hò hẹn 
Dĩ vãng còn đau xót làm sao quên! 
Cô làm thơ như thế, đi tu chơi một trận, ắt sớm đắc quả A Na Hàm hơn cô Thúy Kiều. 
Tại hạ nhân tiện chép tặng cô một câu kinh: “Như thị đại nguyện, thế giới vô tận, chúng sinh vô tận, nghiệp cập phiền não nhứt thiết vô tận, ngã nguyện vô tận”. 
Bùi Giáng - Thi ca tư tưởng 
Hồ Xuân Dzếnh 
Tôi thêm chữ Xuân vào tên ông, ấy chẳng phải là hoàn toàn làm điều phi lý. Chính ông đã có tập thơ Hoa Xuân Đất Việt. Tôi không thể tự ban thêm cho mình một tiếng xuân vào trong tên tuổi. Nhưng riêng biệt với Hồ Dzếnh, chúng ta được quyền gọi ông là Hồ Xuân Dzếnh. Chính ông cũng đã ngang nhiên tuyên bố: 
Ý thiêng người thiếu ta thừa 
Nghìn kho ân lộc trăm mùa mạnh xuân 
Một loại xuân kỳ lạ cứ về kêu gào làm nứt rạn những vần lục bát của ông. Nứt rạn không phải là vỡ toang. Nứt rạn là cái vùng ẩn mật để cho mọi thứ mùa xuân có chỗ len lấn đi về trong một mùa xuân. Chất thơ xuân của ông từ đó mang tính chất hàm hỗn bát ngát. Xuân vui mà nghe như buồn. Xuân buồn mà nghe như vui.
Ý thiêng choán hết linh hồn 
Còn đâu gió nhớ cung hồn buồn mà ca 
Ông vừa dứt câu, quyết liệt như thế, thì mọi người bỗng nhiên tê lạnh cả máu me, vì biết rằng cái cung buồn kỳ ảo đang lù lù thị hiện trong câu thơ đòi xóa sạch cung vui. Và quả thật người ta không lầm. Trong Hoa Xuân Đất Việt bốn câu này vẫn nằm sừng sững đó: 
Ngoài kia niên thiếu ca xuân mới 
Trong lũy tre xanh đời vẫn buồn 
Ai biết để lòng yêu một buổi 
Bay về thăm viếng mái cô thôn 
Bài “Mái Lều Tranh” ghi lại hình ảnh đối kháng nhau; đi sát bên nhau, vẫn không làm sao hòa vào nhau cho được. Hai hình ảnh thăm thẳm riêng biệt trong lịch sử người ta: 
Mẹ tôi sống lặng trong làng nhỏ 
Đâu biết thời gian đổi mới rồi 
Lòng vẫn đau buồn thiên vạn cổ 
Nào hay Non nước hãy reo vui 
Cái tiếng “hãy” đơn sơ kia lại đang làm nứt rạn câu thơ một lần nữa. Cung như tiếng “đâu biết, đổi mới rồi”. Còn tê buốt hơn tiếng “Đau buồn thiên vạn cổ”. 
Vú mẹ đã khô nguồn sữa cũ 
Tình con còn lại bấy nhiêu thôi 
(“Trang sách xưa”) 
Trở lại với Quê Ngoại, chép bài “Phong Châu”: 
Giếng vàng ánh ngọc nghìn xưa 
Giở trang sách cũ hương thừa còn bay 
Mà sao người đó ta đây 
Tình duyên phảng phất như ngày đã xa 
Người về ta mới nhớ ra 
Yêu là thế ấy mơ là thế thôi. 
Đinh Hùng 
Con người nguyên thủy, ta không thể rõ tâm tình họ như thế nào. Đứng trước những quyền lực thiên nhiên, những bão giông sấm chớp, nhìn lại phận thân mình, họ khủng khiếp kinh hoàng, hay là hồn nhiên chấp thuận? Nhìn xác đồng loại bị rắn độc cắn, hoặc bị cọp beo vồ nát, họ rú lên nhưng âm thanh hãi hùng như thế nào, ta không hình dung nổi. Nhưng đêm đông mưa bão rét buốt, ẩn thân trong những hang đá lạnh lẽo, họ suy gẫm những gì về kiếp sống phù du của mình? Họ không được che chở trước trời đất. Đời sống vật chất cũng như tinh thần, đều hoàn toàn phó thác cho hiểm họa diêu mang. Không một đức lý, triết lý nhân sinh vũ trụ nào che chở linh hồn họ. Không một thánh hiền nào thiết lập một Hình Nhi Hạ để họ chui vào nằm yên ổn giữa cương thường. 
Ngày nay, con người có được nhiều chốn “nương tựa”. Rượu đế, la de, cà phê, khiêu vũ, xi nê… Nếu những thứ đó không còn chi cám dỗ nữa, thì còn người chạy đi đào sâu những hang hố siêu hình, tồn thể, hết đào hang xuống tận ruột rà trái đất, lại đào hang lên khắp cõi thanh thiên. Hoặc chạy ra đại hải đuổi theo con cá vô hình của trùng khơi. Hoặc chạy vào sa mạc, đuổi theo con chim vô dạng của hư vô. Rồi vẽ vời bao nhiêu luyến tiếc, chờ mong, hoài vọng, thiên hình vạn trạng để che lấp khoảng trống vắng dị thường của phù sinh hư huyễn. Rốt cuộc vẫn đối diện với cái khối lù lù bất khả tư nghị do Tử Thần dựng lên ở giữa đường. Cái khối dị dạng nọ quả thật gay cấn khôn hàn. Xua đuổi nó không được. Trừ khử nó không tan. Thôi đành ôm chầm lấy nó ve vuốt mà bảo rằng: - Tử Thần ôi! Em chính là lẽ sống của ta. Ta sống bao nhiêu tuế nguyệt lao đao lận đận, là chỉ cốt để thành tựu đời mình trong cái Chết Thơ Ngây Man Mác. Ta ôm lấy em và cảm thấy ấm cúng vô song. - Tử Thần ạ, lại gần đây đối mặt! Trao bàn tay cho ta nắm bên miền… 
Đó là một lối tự dối mình vậy. Tô son phết phấn vào khuôn mặt Tử Thần, kể cũng đà thiểu não lòng người bấy nay. Mà kể ra, suốt bình sinh, con người ta đeo bám vào những thứ gọi là văn minh tiến bộ, gây dựng nên những thứ gọi là công nghiệp lưu tồn, chẳng qua cũng chỉ là một cách tự dối mình đấy thôi. 
Đinh Hùng Mê Hồn Ca muốn nhảy vọt một trận, trút bỏ hết mọi thứ “quà” của văn minh gạt gẫm, đi giữa thế kỷ hai mươi, ông muốn sống lại tâm tình người nguyên thủy về đối diện với xã hội văn minh. Ông muốn khước từ hết mọi thứ xây dựng êm ấm của xã hội văn minh, muốn trơn trụi gào kêu giữa lạnh lùng vạn vật. 
Chúng ta khóc như một bầy thú dữ 
Lòng dã man nghe trái đất tan tành 

Trái đất chưa tan tành, nhưng liên miên như đang tan tành, vì kể từ nguyên thủy, linh hồn con người và thể xác con người đã nối đuôi nhau tan tành giữa vạn vật. Và mọi cuộc xây dựng chân chính nào của con người, rốt cuộc vẫn như oái oăm góp phần thêm vào mọi thứ tàn phá ở mọi bình diện. 
Người thi sĩ thâm cảm sự tình éo le đó trong tuổi xuân xanh, và nỗi phẫn nộ không sao giập tắt được. Không còn tìm đâu ra con đường “phục vụ”. Mọi cố gắng giữa nhân gian, dường như phó thác hết cho diêu mang hỗn độn “giữa chợ đời vất vưởng bóng sầu nhân…” Thì văn minh, thì đức lý, thì thì thì? Phân biệt thị phi, hư thực thế nào? - “phù dung bên phù thể, cõi nào thực cõi tiêu tao? Hồng phấn lẫn hồng trần, đâu đã vì đâu ô trọc?” 
Thì tiếng gào thét của con người nguyên thủy trở thành tuyệt đối trắng trợn dã man cho vừa tầm diêu mang của cõi đời hỗn độn: 
Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất 
Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly 
Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ 
Bên thành quách ta ra tay tàn phá 
Giữa hoang loạn của lâu đài đình tạ 
Ta thản nhiên đi trở lại núi rừng 
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng 
Nhưng chỉ có thể thét lời ấy trong thơ, và thét một lần. Rồi ân hận tới. Trong cơn đoạn trường, vị “bạo chúa” kia đã nằm thiêm thiếp khóc. Vì cuộc tàn phá kia, chẳng giải tỏa được gì. “- Giết đi hồn nguyệt hoa chiều? Giết đi cả dáng diễm kiều của xuân?” Tàn phá trong tưởng tượng xong một trận, lại tha thiết nguyện cầu cho nguôi lãng. 
Đi vào mộng những Sơn Thần yên ngủ 
Em! kìa em! đừng gọi thức hư không 
Hãy quỳ xuống đọc bài kinh ái mộ 
Hồn ta đây thành tượng giữa Vô Cùng 
Toàn tập Mê Hồn Ca, vẳng lên một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét của bạo động, của phản kháng, và lời than của ân hận nguyện cầu. Tiếng thét đạt tới chỗ cuồng loạn thống thiết nhất. Lời than cũng thê thảm sâu xa nhất. 
Tiếng thét và lời than trầm thống của Đinh Hùng “Sầu trong tà dục, vui ngoài hiện tâm” dội lên song song với Hàn Mạc Tử, mở ra cuốn sổ đoạn trường của con người thế kỷ hai mươi, không còn nơi cu trú. Cuốn sổ đoạn trường mở ra như thế để làm gì? Không biết. Không biết. Nhưng cuộc mở ra nào cũng đi tới một trận khép lại. Đinh Hùng trong Đường Vào Tình Sử, vốn đã có một lối khép lại của riêng ông sau cái trận Mê Hồn Ca, một lối “dùng độc dược thử lòng thế tục”. Chúng ta còn có nhiều lối “tịnh hạp” khác. Xin để tùy mỗi người tìm lối riêng của mình. 
Ngôn ngữ thơ trong vài thế kỷ này đã nẩy nở xum xuê, thiên hình vạn trạng. Hoặc ẩn mật thần bí, hoặc đơn giản như một lời ca dao, thi ca vẫn có sức đưa dẫn người ta vào giữa huyền nhiệm của cuộc sống. Cuộc sống vừa khủng khiếp vừa nên thơ, cuộc sống không thể nào đem ra lý luận một cách máy móc. Luận lý học đã gạt gẫm người ta, người ta thi đua nhau tán dóc. Thằng thi sĩ không thể nào nhảy vào vòng luận lý đú đởn để hơn thua. Nó cảm thấy chán chường khi phải cùng người luận lý bàn luận thị phi. Tha hồ để cho bọn họ mặc sức tán hươu tán vượn, ngấm ngầm dùng mọi thủ đoạn để sát hại thi ca và thằng thi sĩ. 
Nhưng thằng thi sĩ có tội lỗi gì đâu. Nó chỉ ghi lại một đường trăng tê dại, vẻ lại một màu tuyết lạnh, ngắt một chùm bông ở trên núi chiêm bao đem về làm tặng vật cho con người được rồ dại chịu chơi giữa chốn phù vân hoặc bụi hồng lông lốc. Mở ra những cuộc tình yêu rờn rợn vô thủy vô chung, o bế những cơn mơ tuyệt vọng, thì kể cũng hơn o bồng hôn hít mãi những con vợ già cục mịch cằn nhằn. Đêm tân hôn chỉ có một lần, buổi ly dị cũng chỉ ra tòa một bận, uống rượu ly bì cũng tới lúc tỉnh ra, chém giết nhau cũng mất công đào huyệt… Chi bằng vớ lấy bài ca mê hồn, thì lúc nào cũng có thể mở trận đảo tứ điên tam, ngang tầm với tứ khuynh ngũ phúc của cuộc thế dâu biển ngục tù. Tuyệt vọng? Thì thà rằng tuyệt vọng với những Kỳ Nữ Chiêm Bao, những Nữ Chúa Thái Cổ, những màu mắt nâu vô ngần của Gái Hải Đảo sơ khai, cũng hơn là tuyệt vọng vì những thiếu phụ đẩy đà ngồi trước quày hàng đếm những đồng tiền dị dạng… Một tay đếm tiền, một tay gãi vào chùm lông nách… thì như vậy còn chi là khói trầm bén giấc mơ tiên? Còn chi là bâng khuâng giải qua miền quạnh hiu? Ôi ông Hồ Dzếnh! 
Thơ về nắng sáng lừng lay 
Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra 
Cõi trần vẳng tiếng Thiên Nga 
Thơ không tuổi, ý không già: muôn năm 
Gối lên Bắc Đẩu ta nằm 
Nghe rung chân lạ, thơ thần mười phương. 
(Hoa Xuân Đất Việt) 
Vũ Hoàng Chương 
Đá đâu lên tiếng thay vàng 
Gỗ đâu mở mắt hai hàng bạch dương. 
Nhiều người đã nói tới ông Vũ Hoàng Chương. Tại hạ còn biết nói thêm được lời gì bây giờ 
Hàn Mạc Tử 
Thưa, tôi không dám si mê 
Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền 
Bây giờ tôi dại tôi điên 
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian 
Ông nói lời như thế mặc nhiên xóa sạch hết mọi nguồn thơ thế gian. Còn ai có thể làm thơ được nữa. 
Thưa, tôi không dám si mê 
Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền 
Bây giờ tôi dại tôi điên 
Chấp tay tôi lạy cả miền không gian 
Tôi lạy cả miền không gian? Hãy để yên cho tôi điên tôi dại. Đừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có bàn đến thơ tôi. Tôi không dám si mê, cũng không dám hoài vọng. Một mai tôi chết. Nghĩa là bây giờ tôi không còn sống. Tôi sống trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ trong cơn điên cơn dại. Nghĩa là tôi chết hai ba lần trong trận sống. Tôi lạy cả miền không gian đừng có bắt tôi chết thêm một trận thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, chủ nhật…
Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền 
Còn bây giờ không có ngọc tuyền đâu để tôi đến một bên tôi chết. 
Bây giờ tôi dại tôi điên 
Chấp tay tôi lạy cả miền không gian 
Người yêu đừng bén mảng tới. Bạn bè hãy đi xa. Để tôi một mình tha hồ tôi điên tôi dại. Ai có đến gần thì hãy thử điên dại như tôi. 
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu 
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu 
Người đi một nửa hồn tôi mất 
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ 
Ông xua đuổi người đi vì ông không thể kêu gào người ở lại. Bởi vì nếu người ở lại, thì ông sẽ giết chết mất người. Ông giết chết mất người vì ông không thể đấm cho vỡ toang vũ trụ. 
Bao giờ mặt nhật tan thành máu 
Và khối lòng tôi cứng tợ si? 
Nhưng vì sao ông muốn mặt nhật tan thành máu? Tan thành máu để cùng nhân gian chìm ngập trong đoạn trường? Mặt nhật chưa tan thành máu, thì chỉ riêng con người chịu đau khổ mà thôi. Hàng triệu triệu con người bị dìm trong máu. Trong oan nghiệt không cùng. Hàng triệu con người cũng đang cầu nguyện cho lòng mình cứng tợ si. 
Cả thế giới này đang cùng Hàn Mạc Tử chia một thảm họa. 
Em cố nghĩ ra một chiều vàng úa 
Ngày nay người ta không cần cố gắng cũng thấy rõ sờ sờ một chiều vàng úa kia. 
Em cố nghĩ ra một chiều vàng úa 
Lá trên cành héo hắt gió ngừng ru 
Một khối tình nức nở giữa âm u 
Một hồn đau rã lần theo hương khói 
Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi 
Một lời run hoi hóp giữa không trung 
Cả niềm yêu ý nhớ cả một vùng 
Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn 
Hàn Mạc Tử biết rằng trừ ông ra, ngàn thế kỷ sau không còn ai có thể nói tới tận cùng thảm họa nhân gian. Nên ông phải dốc hết tim phổi nói một lần. Đó cũng là lời cầu nguyện cho nhân gian. Lời cầu nguyện sẽ phát khởi từ thảm họa dâng lên tới trời xanh. Lời cầu nguyện vang dội song song với lời nguyền rủa, vì có lẽ đó là chỗ bất khả tư nghị của từ tâm. Chúng ta có thể đọc ẩn ngữ kia trong mấy câu: 
Ánh trăng mỏng quá không che nổi 
Những vẻ xanh xao của mặt hồ 
Những nét buồn buồn tơ liễu rũ 
Những lời năn nỉ của hư vô… 
Ánh trăng mỏng quá không che nổi, thì lời năn nỉ của hư vô đã khiến Hàn Mạc Tử dốc hết bồ đề tâm của mình ra trong tiếng gào thét hỗn độn của Caligula… 
Hồ Dzếnh 
Bài “Giang Tây”, và bài “Phút Linh Cầu” khiến tôi bải hoải tay chân. Không còn can đảm đọc thơ Nguyễn Du Huy Cận Hàn Mạc Tử Nguyễn Bính gì được nữa. Hồ Dzếnh cũng không thể nào làm thơ tiếp được nữa. 
Gauguin bỏ chạy trốn Âu Châu, tìm tới một hải đảo vô biên vô tế, suốt bình sinh ngồi vẻ lại màu mắt gái trùng khơi trong những buổi hoàng hôn đại hải, ấy cũng là một lối đi tìm cái dư vang nào trong thơ Hồ Dzếnh. 
Biển chiều vang tiếng nhân ngư 
Non xanh thao thiết trời thu rượu sầu 
Nhớ thương bạc nửa mái đầu 
Lòng nương quán khách nghe màu tà huân 
Thơ 
Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn gì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng lời thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào, hoặc một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là: muốn bàn tới một bài thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác. Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ, chớ không bao giờ điên rồ gì mà luận bàn về thơ. Người đời này trái lại. Họ buộc phải luận thơ cho có mạch lạc luận lý, không được “bốc đồng” (!) vịnh lăng nhăng. Cái chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghị vậy. 
Sự ngu si đã tràn lan khắp chốn, thì kẻ hiểu thơ đành phải tuân theo khắp chốn để mở trận ngu si. 
Từ đó nảy ra không biết bao nhiêu trận luận về thơ theo lối bửa củi, dịch thơ theo lối gặm xương gà (gặm được chút da, nhưng không hút được cái tủy). 
Muốn hút được chút tủy, đảnh phải liều nhắm mắt cắn mạnh một cái. Cắn mạnh một cái, thì gãy mất hai cái răng. Thì còn bù vào đâu mà hút tủy được nữa. Kể đà thiểu não lòng người bấy nay. 
Ông Crayssac dịch Kiều, ông có hút được nhiều chút tủy, và đã chịu gãy bao nhiêu cái răng của ngôn ngữ Pháp. Sau đây là một thí dụ của hút tủy và gãy răng. 
Sinh rằng lân lý ra vào 
Gần đây nào phải người nào xa xôi 
Được rày nhờ chút thơm rơi 
Kể đà thiểu não lòng người bấy nay 
Bấy lâu mới được một ngày 
Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là 
Cái chất tủy trong thơ Nguyễn Du là: dừng chân gạn chút, được rày nhờ chút, người nào xa xôi, gần đây nào phải, lân lý ra vào, kể đà thiểu não, bấy lâu mới được, lòng người bấy nay, mới được một ngày, dừng chân gạn chút… vân vân. 
Hãy xem Crayssac dịch: 
Et le jeune homme alors à Thuy Kiéou répondit: 
“Je suis votre voisin; j’habite près d’ici… 
Ne voyez pas en moi quelque étranger, ma chère 
Arrivant, impromptu, d’une lointaine terre… 
Grâce à cet incident, j’ai respiré, très doux, 
Quelque peu du parfum qui rayonne de vous, 
Mais, hélas! de combien et de combien d’angoisses 
Mon coeur dut-il subir les étreintes tenaces, 
Et combien dut attendre, ô Ciel, mon triste amour 
Avant de recevoir l’ivresse de ce jour! 
De grâce, arrêtez-vous; que je puisse, de suite, 
Montrer les sentiments intimes qui m’agitent…”
Ông dịch thơ Việt ra thơ Pháp như thế, kể còn trúng cách điệu hơn người Âu Châu dịch thơ người Âu Châu. 
Henri Michaux có bốn câu vịnh “Băng Sơn” (Icebergs) đơn sơ bát ngát, mà bản dịch ra Đức ngữ đã chịu gãy mấy cái răng? Icebergs, Icebergs, dos du Nord-Atlantique, augustes Boudhas, Gelés sur des mers incontemplées, 
Phares scintillants de la Mort 
Sans issue, le cri éperdu du silence dure de siècles 
Bản dịch: 
Eisberge, Eisberge, Rücken des Nord-Atlantik, großartige 
Gefrorene Buddhas auf den unruhigen Meeren. 
Blitzende Leuchtfeuer des Todes ohne Ende wilder 
Schrei des zähen Schweigens der Jahrhunderte. 
Tiếng incontemplé (vô quan chiêm) lại dịch ra làm bất an, dao động… Le cri éperdu du Silence dure des siècles, trong bản dịch biến ra làm: le cri sauvage du dur silence des siècles. 
Thế là nghĩa lý gì? Không biết. Không biết. 
Duy có điều: dù sai lệch bao nhiêu chăng nữa, thì tinh thể ngôn ngữ Âu Châu vẫn nhiều điểm tương đồng, khiến dịch giả không đến nỗi phải chịu phận gãy răng lang bối bất kham. 
Trái lại, giữa ngôn ngữ Âu Châu và ngôn ngữ Á Đông, có quá nhiều hang hố. Và những kẻ tự phụ cho mình đạt, công kích kẻ khác dịch là diệt, những kẻ đó hãy thư thả gẫm lại xem. Nếu những kẻ đó chịu bỏ ra vài chục năm suy gẫm vấn đề, ắt chẳng còn bao giờ dám tự phụ nữa. 
Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử 
Trang Tử vốn thường dùng phép ngụ ngôn. Vậy thì cái việc Trang Tử nói về sự vụ Khổng Tử tìm tới Lão Tử để “vấn Lễ”, sự đó thật là có hay là không có? 
Nếu không có, mà Trang Tử dựng lên làm có, thì ý Trang Tử muốn gì? Trang Tử thật có ý muốn dìm Khổng Tử, hay đó chỉ là một phép lập ngôn cưỡng bức của ông để đẩy lùi bọn nho hương nguyện? Lời đáp hiển thị một cách quá hiển nhiên. 
Còn nếu sự vụ vấn lễ kia quả là có thật, thì ta nghĩ sao về Khổng Tử? Nếu quả thật ngài có nói với môn đệ rằng “con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội, còn con rồng thì ta chẳng thể rõ nó lội lúc nào, nó bay lúc nào. Ta nay gặp Lão Tử như thấy rồng vậy”. Nếu quả thật ngài trở về với môn đệ như thế, thì chúng ta nghĩ sao? Lời đáp cũng lại quá hiển nhiên. 
Đừng nói chi tới Lão Tử là một bậc đại hiền (mà Khổng Tử biết rằng bọn môn đệ mình không đứa nào bì kịp), ngay đối với những nhân vật thường thường mà có được vài đức tính, ngài cũng không tiếc lời khen ngợi. 
Vào thái miếu, việc gì sự gì ngài cũng hỏi. (Tử nhập thái miếu, mỗi sự vấn…) Ấy chẳng phải là vì không hiểu mà hỏi, ấy chỉ vì - thị Lễ giã. 
Cái lời đơn sơ “vô khả, vô bất khả” của ngài, còn bàng bạc bao trùm hết mọi tư tưởng Trung Hoa - nó cho phép Lão Tử đưa cái đạo vô tri ra đời, nó cũng lại mở đường cho Trang Tử được phép cà gật đú đởn với lối lập ngôn “triêu tam nhi mộ tứ, triệu tứ nhi mộ tam”. 
Đọc lại Khổng Tử, Trang Tử, Lão Tử, ta còn nhận ra một điều dị thường bất khả tư nghị này: Trang Tử cà gật, nhưng Trang Tử quán xuyến cái lẽ đương nhiên, và cái lẽ sở dĩ nhiên nào đã quyết định cái đạo của Khổng Tử. Trái lại Lão Tử có thể là đại hiền, nhưng không phải đại thánh hoặc thượng trí, thái tiên. Có thể rằng Lão Tử còn chấp trước. Có thể rằng Lão Tử còn khư khư bo bo với cái đạo vô vi của ngài. Có thể rằng ngài không rõ cái “sở dĩ nhiên” nào đã quyết định Khổng học. Có thể rằng Lão Tử không ngờ gì hết, không đủ tế mật để nghe ra cái lời đạm nhiên của Khổng: “thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an. Nhân yên sưu tai, nhân yên sưu tai!” 
Ngôn ngữ Lão Tử có tính cách bộc trực, cực đoan, một chiều. Trang Tử đã lợi dụng Lão Tử để tấn công môn đệ Khổng Học, nhưng trong thâm tâm, Trang Tử có thể xem thường Lão Tử, mà kính phục Khổng Tử một cách không bến không bờ. 
Trang Tử lập ngôn luôn luôn theo thể thái song trùng nhị bội, ông chừa những khoảng trống, những khe hở miên man, để cho cái duplicité de l’Être (tính chất nhị bội của Tồn lưu) có thể luôn luôn thong dong còn cơ hội đi về. Đó là điều thiếu hẳn trong ngôn ngữ Lão Tử… (Thật ư? Không hẳn…) 
Trang Tử gần Khổng Tử trong lối lập ngôn song trùng nhị bội. Nhưng khác Khổng Tử ở điểm Khổng Tử đạm nhiên, ẩn mật, hoằng đại bao dong; Trang Tử du côn ăn nói toe toét, có pha chất quỷ quyệt. Những thiên tài tư tưởng hiện đại của Trung Hoa, ngày nay lao mình vào cuộc viết truyện vũ hiệp, bỏ lại trận đồ triết học cho bọn học giả ru rú. Bàn luận thị phi với bọn học giả đó, người tư tưởng cảm thấy chán chường. Đó có lẽ là nguyên do sâu xa đã khiến tư tưởng Trung Hoa chìm đắm mấy ngàn năm. - Khổng Tử ngày xưa cũng đã thâm cảm sự đó. “Bất đắc trung hành nhi dữ chi, tất dã cuồng quyến hồ! Cuồng giả tiến thủ; quyến giả hữu sở bất vi dã”. 
(Ta chẳng được hạng người theo đúng đạo trung để truyền đạo, ắt hẳn phải tìm đến bọn cuồng, bọn quyến vậy! Bọn cuồng có chí tiến thủ, bọn quyến có điều chẳng chịu làm). Người Trung Hoa ngày nay chỉ có thể bắt đầu học tập tư tưởng là khi họ dám thử liều bước suy nghĩ rằng: đối với Khổng Tử quá cao viễn, tìm không được bọn người trung hành, thì thà ngài tìm đến bọn người cuồng - là Trang Tử, tìm đến bọn người quyến - là Lão Tử. 
Người Trung Hoa hãy nên gột rửa sạch sẽ tinh thần mình, trừ khử khỏi đầu óc mình cái ý tưởng bo bo đem xếp Trang Tử, Lão Tử ngang hàng với Khổng Tử, rồi lăng nhăng sun soe mãi với những tiếng tam đạo, tam giáo, tam lý, tam ngu, tam hiền, tam thánh, v.v… Xuân Diệu 
Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ 
Giữa đáy trưa trong lòng mẹ vô cùng 
Con là sáo, Mẹ là ngàn vạn gió 
Mẹ là trời, con là hạt sương rung 
Sương uống mãi chẳng bao giờ hết sáng 
Của trời cao chói lói mỗi chiều ngày 
Sáo ca mãi, lòng mẹ run choáng váng 
Gió vẫn đầy ngàn nội bốn phương bay 
(“Mẹ Việt Nam”) 
Thơ Xuân Diệu thường có chất bát ngát hồn nhiên như thế. Tây Phương Đông Phương cổ kim không có nguồn thơ nào sánh kịp. Chúng ta quen thói chạy theo đuôi phong trào sùng phụng những Nerval, Hoelderlin, Rilke, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Tagore, chúng ta không còn cách gì ngờ ra rằng nguồn thơ Xuân Diệu có thể bao la hơn bất cứ một nguồn thơ thi sỹ nào. Việt Nam đã có một Nguyễn Du đi khắp cung bậc đoạn trường gay cấn, về sau có một Huy Cận tiếp hậu ngậm ngùi, một Phạm Hầu cô tịch, một Nguyễn Bính man mác ca dao. Thử hỏi: chúng ta còn cần chi tới bất cứ một nguồn thơ Tây Phương nào? Dù là Nerval hay Rilke, dù là Whitman hay Henri Michaux? 
Chúng ta cần Xuân Diệu. Cần một vài vần lục bát của Hồ Dzếnh. Chúng ta đứng xa xa, nguyện cầu cho Hàn Mạc Tử, Chúng ta phải để cho thơ Xuân Diệu rúc vào tủy xương mình. Vì y đủ thói bông lông thắm thiết của con người thượng đạt. Y trẻ dại, y lăng nhăng, y nói tới nỗi đời rồi y xóa đa đoan dâu biển. Y hồn nhiên giũ áo, nắm lây cung cầm Tăng Điền đánh lên giữa mùa Xuân… 
Có một suối thơ chảy từ gần gũi 
Ra xa xôi và chảy đến gần quanh 
Một suối thơ lá ngọt với hoa lành 
Nói trong xóm và rỡn cười dưới phố 
Nguồn thơ mới tuôn ra từ vũ trụ 
Có lẽ là hơi là gió cũng nên… 
(“Suối”) 
“Thiên hạ xuôi xuôi ngược ngược, khệnh khạng kềnh càng, còn ta, ta hồn hồn ngạc ngạc ca hát như trẻ thơ… Hãy để cho trẻ thơ tới bên ta… Chim chóc tới bên ta… Các ngươi hãy gột rửa cái thói học đòi bác học đi. Các ngươi hãy mù lòa đi, và các ngươi sẽ không còn tội lỗi…” 
Chân nhân đời xưa nói gì? Nói rằng: các người đừng dùng thủ đoạn, đừng lợi dụng những ông Nietzsche để sát hại trẻ con. Thảm họa của Nietzsche không phải là ở chỗ bị công kích, cũng không phải bị mấy ông linh mục lên án. Thảm họa của Nietzsche là ở chỗ: bị bọn hãnh tiến lôi về phe cánh mình để tiện bề gây rối loạn. 
Nguyễn Bính 
Mẹ cha thì nhớ thương mình 
Mình đi thương nhớ người tình xa xôi 
Đó cũng là tâm sự Đức Khổng Phu Tử vậy. Quê hương nước Lỗ thì nhớ ông. Mà ông thì cứ giũ áo ra đi lang thang chu du lữ thứ tìm kiếm khắp nước Tàu cái vong hồn tồn lưu nào chẳng rõ. Rồi san định bao nhiêu cuốn kinh, ghi chép cái ngấn tích phiêu bồng đã trôi tuột từ bao…  
Huy Cận, Xuân Diệu 
Huy Cận đi từ Lửa Thiêng tới Hội Hoa Đăng, Tặng Em Mười Sáu, tức là ông đi cái bước tối hậu, tại bách xích can đầu. Cũng như Nguyễn Du đã dẫn cung cầm bạc mệnh Thúy Kiều tới giai đoạn “đầm ấm dương hòa”. Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy? Xuân Diệu già trước tuổi, nên ngay từ đầu, ông đã xóa tiếng đoạn trường bạc mệnh bằng cái thể điệu ngấm ngầm niêm hoa vi tiếu bàng bạc trong thơ ông. Già trước tuổi? Nghĩa là phản lão hoàn đồng? Nghĩa là quá già nên hóa ra trẻ nít trở lại? Quá già kể từ đâu? Kể từ cõi Nguyễn Du vậy. Kẻ nào chưa hiểu rõ chỗ tận cùng tàn sơn thặng thủy trong cung bậc Nguyễn Du, kẻ đó không thể nào hiểu Huy Cận Xuân Diệu đã vì đâu mà già, do đâu mà trẻ. 
(Xét lại xem Shakespeare đã đánh cung bậc nhị bội như thế nào kể từ Hamlet Macbeth Othello sang những vở hài kịch bát ngát của ông. Xét lại Sophocle: bên bi kịch Oedipe, còn có vở kịch Philoctète) 
Bùi Giáng - Thi ca tư tưởng 
Nguyễn Du 
Bấy giờ ai lại biết ai 
Dù lòng biển rộng sông dài thênh thênh 
Câu thơ hàm hỗn bát ngát dị thường đó, mọi bản dịch đều dịch một chiều. Không ai ngờ gì cả về cõi lập ngôn tủng bạt ráo riết của Nguyễn Du niêm hoa vi tiếu. 
Phương Tâm 
Thơ bà Phương Tâm mang nhiều màu sắc hải ngoại. 
Mặt biển 
Mặt biển xanh 
Con tàu trắng 
Con chim biển 
Ôi 
Con 
Chim 
Biển 
Người bạn 
Người bạn chết rồi 
Một hôm ra khơi 
Xa xôi nhỏ bé 
Nhỏ bé 
Xa 
Xôi 
Mùa xuân đã rụng mất rồi 
Con cá 
Con cá hôm qua ấy 
Gặp con cá hôm nay 
Hôm qua ấy hôm nay 
Hôm nay ấy chính hôm qua 
Kể từ cuống ruột tới rà 
Kéo lê lếch giữa mù sa biển vàng 
Con cá hôm nào thế 
Một hôm con cá đi về 
Từ khơi biển mặn cát đè lên tim 
Từ trùng dương rộng đi tìm 
Hội kim châu rụng trong miền phù du 
Thích Thiên Thư 
Nguồn thơ vị sư này chảy về từ cõi uyên nguyên Phật Giáo tràn ngập vào lục bát Việt Nam, trở thành một dòng riêng biệt bát ngát. Đọc thơ ông và nghe ông ngâm thơ, tưởng chừng như chết lặng mất linh hồn và trùng sinh trong cõi khác. 
Lời thơ như gột rửa máu me thể phách và vương vấn tâm thần như khói chiên đàn tụ về ngưng bích phủ sương mây Lãm Thúy. 
Lời thơ giục giã lên đường Thái Hư, lại như thôi thúc yêu đương hoàng hậu Ai Cập. Lại như xóa bỏ mất cung thành để ngồi nghe âm thanh sa mạc. Lại như… Lại như… Lại như… Lại như… Lại như... Lại như... Lại như... Tôi muốn viết luôn một ngàn tiếng lại như để cuối cùng có thể nào biến lại như ra làm như lại và mất dấu nặng để trở thành Như Lai? 
Cỗ xe mặt trời 
Cỗ xe phía mặt trời chiều 
Một con ngựa xoải về theo mặt trời 
Cờ trên ải núi chơi vơi 
Đứng buồn muôn dặm xa khơi còn tìm 
Xe về dưới núi nằm im 
Chim kêu rời rạc trên miền đất xa 
Nghĩ mình cũng thủa thăng hoa 
Chân đi viễn tượng đường xa khói mù 
Lá cờ đen vọng muôn thu 
Nghìn tâm sự để cho dù biển xanh 
Chiều lên thác bạc sương ghềnh 
Dưới khe khói núi cũng dầu nhớ nhau 
Đá rừng vai tượng thiên thâu 
Về em thêm một lần câu tình hoài 
Sớm mây phố chợ tên người 
Cỗ xe gác ngựa nuôi lời lớn khôn 
Mù sương trên vai 
Trên cao phố lẻ mặt trời 
Cây nghiêng hàng dựng rã rời chim bay 
Nghe chừng gió cuộn đâu đây 
Bãi xa tiếng quạ dâng đầy nước sông 
Ta về người đi buồn không 
Mùa thu hoa trắng cho lòng nhớ em 
Con tàu than hú ga thâu 
Cây cao loáng lẻ buồn trên hồ cầm 
Anh còn bạo động thâm tâm 
Sương trên Vai tượng buồn câm nín chiều 
Gửi đóa hoa về người yêu 
Nhớ em đau đớn cho nhiều tầm tay 
Anh ngồi qua một đêm nay 
Đêm trên hầm rượu với cây kèn đồng 
Vào thu 
Với dung nhan cỏ hoa này 
Chim di cũng lại từ ngày sang thu 
Áo ai mây trắng bên hồ 
Nghe như gió cũng gieo mùa phiêu bay 
Nghe rừng xao xác trăm cây 
Chim nao tiếng rụng bên ngoài nội hoa 
Từ em cồn giấy mai hoa 
Thơ trăm chữ đọng ý sa giọt buồn 
Từ em ngơ ngác mùa sương 
Nghiêng nghiêng nắng đổ còn vương ít nhiều 
Từ em ngọn bút mai kiều 
Anh mang dáng vóc mây chiều trên vai 
Từ em đôi búp tay dài 
Mười con chim nhạn bay ngoài cồn trăng 
Từ em cài nụ hoa vàng 
Từ em suối tóc bên hàng giậu bay 
Lạnh mùa chim đi 
Xao xác chừ mấy hàng cây 
Mà trăng tĩnh mặc bên ngoài hàng hoa 
Chim đôi tiếng rụng trong mù 
Nghiêng nghiêng cõi núi vi vu gió mùa 
Về từ hàng ngọn cờ xưa 
Mây du đãng nhớ tang Vua nội thành 
Nao nao một giọng cầm tranh 
Mười hai ải khói trên thành gỗ thơm 
Tay em hạc nội mây cồn 
Chừ nghe tóc rũ nao hồn gió thu 
Cơn mưa đáp bụi bay vù 
Còn anh thân lạnh với mùa chim di 
Thích Trung Tử 
Vị sư này có giọng thơ phóng dật như thơ Đỗ Mục. Người rất điềm tĩnh, ai ngờ đâu thơ lại nồng nàn đắm đuối hơn kẻ si tình. 
Xác thân 
Xác thân này một cung say 
Độ vui này một tháng ngày mộng du 
Trí không này một ngục tù 
Tóc em này một rừng thu quên về 
Chiều lên thú vật lạ lùng 
Lửa chân trời đỗ vỡ tung miên trường 
Ta cười cuồng ngất khói sương 
Rồi nghe biển động con đường thụy du 
Trầm ca 
Trầm ca heo hút với rừng 
Tiếng lên trăm giọng tắt vừng Thái Hư 
Bay rồi sương khói mùa thu 
Còn đâu ải bắc lạnh từ dòng chim 
Mẫu Thân Phùng Khánh 
Nhiều người hỏi tôi có quả thật Phùng Khánh đã có đẻ tôi ra đời chăng. Bà đẻ ra tôi lúc nào? 
Sự thật là Phùng Khánh chẳng hề có đẻ ra tôi một phen nào cả. Tôi nay bốn mươi bốn tuổi đầu. Phùng Khánh chỉ mới hai mươi sáu tuổi. Làm sao một thiếu nữ hai mươi sáu tuổi lại có thể đẻ ra được một ông cụ luống tuổi bốn mươi bốn, bốn mươi lăm? Nếu muốn đẻ ra được tôi, thì ít ra Phùng Khánh cũng phải lớn hơn tôi một vài tuổi mới được. Chẳng thể nào kẻ nhỏ tuổi lại đẻ ra một người lớn tuổi. Như vậy là trái đạo trời. Đạo trời không cho phép một con người mang nặng đẻ đau lúc người ấy chưa ra đời. Trường hợp hy hữu cũng có vài kẻ đẻ đau mang nặng ngay từ thuở sơ sinh. Thì mẹ và con có thể bằng tuổi nhau được lắm. Tuyệt nhiên không thể nào xảy ra trường hợp con lớn hơn tuổi mẹ được. 
Thế thì bởi đâu Phùng Khánh lại là mẫu thân của tôi, mặc dù bà không đẻ ra tôi? Ấy là bởi vì cái đường tơ luận lý học như thế này: Phùng Khánh vốn là bà mẹ Việt Nam. Tôi lại là con dân Việt Nam. Vậy thì tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy. Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ, thì chẳng ra tôi là người Lào? Hoặc người Cao Miên? Hoặc con dân Âu Mỹ ư? 
Huống nữa là: Phùng Khánh là bà mẹ loài người. Tôi là con người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi.
Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải con người? Chẳng ra tôi là con vật? 
Phân tích nghiêm mật luận lý học ra như thế, rành rành Phùng Khánh là mẹ của tôi. 
Huống nữa là: trong cõi mộng mơ chiêm bao tại bình diện thi nhạc phiêu bồng, Phùng Khánh đích nhiên cũng lại là mẹ của tôi nốt. Tôi vốn là Trung Niên Thi Sĩ. Ai đâu có ngờ rằng những bài thơ bất tử tôi làm ra là do Phùng Khánh cả đấy? Mỗi phen tôi mơ màng nghĩ tới dung nhan diễm lệ Phùng Khánh thì giòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên như nhiên thiên tài của tôi là do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy. 
Tôi suy ngẫm suốt bao nhiêu năm trời, nhận ra sự tình cố kỳ nhiên đó, mới dám mạo muội mạnh bạo gọi Phùng Khánh bằng một tiếng Mẫu Thân. Há đâu dám bốc đồng mà gọi bướng! 
Đặng Tấn Tới 
Nguồn thơ ông rất đặc biệt. Đọc mấy thi phẩm ông, tôi còn giữ lại một cảm tưởng hiu hắt. Rủi sao, tập thơ ông, tôi bỏ lạc đâu mất, nên không thể dám mạo muội viết nhận định ra đây. Xin một dịp khác. 
Trí Hải Ni Cô 
Ni cô vừa rời bỏ Vạn Hạnh đi tu tiên ở trên núi. Nguyên nhân là: các vị sư ở Vạn Hạnh chế ni cô đã đẻ ra Bùi Giáng già nua, ni cô bẽn lẽn bèn giũ áo ra đi. Sự tình nông nỗi ấy, Thích Minh Châu phải chịu trách nhiệm một phần lớn. 
Sách Vũ Hiệp 
Mỗi bộ sách Vũ Hiệp dài mấy ngàn trang. Đọc vài ba chục bộ, ắt mòn mõi mắt môi miệng. Đó là một hiểm họa lớn. Si mê rượu chè còn khá. Si mê sách Vũ Hiệp thì sự tình là bất khả vãn hồi. Mấy năm nay, tại hạ chẳng còn tâm hồn đâu làm văn nghệ hoặc thong dong thưởng thức những thi phẩm mới của những nhà thơ trẻ trung tài tử, ấy chẳng qua vì linh hồn tại hạ toàn thể bị sách Vũ Hiệp xâm chiếm. Nhiều kẻ làm văn nghệ chuyên môn tở mở phè phỡn bảo rằng tại hạ có thái độ cô đơn cách biệt đối với hàng ngũ văn nghệ hôm nay. Nghĩ mà bượch cười vỡ bụng! 
Cô đơn cách biệt cái khỉ khô xơ mốc gì. Ơn ích gì đâu mà cô độc! Bảnh bao gì đâu mà đứng riêng một mình đối thoại với hư vô! Thà chui đầu vào tà xiêm Marilyn Monroe nằm ngủ mà liên miên thầm gọi Phùng Khánh mẫu thân, có phải là thơ mộng hơn không! 
Ôi mẫu thân ôi! Mẫu Thân nỡ nào giũ áo đi tu tiên ở trên ngọn núi quai nhai như thế! Bỏ con ở lại Sàigòn tắt nghẽn trong từng tiếng kêu than! 
Giải thích 
Có kẻ hỏi tôi: - Các hạ đọc sách Vũ Hiệp lu bù như thế, tại sao bàn về sách Vũ Hiệp, các hạ lại bàn lai rai, thua xa ông Đỗ Long Vân? Đáp rằng: - Ấy chính bởi tại hạ đọc lu bù mà ra nông nỗi ấy. Đọc lu bù thì đâm ra mù quáng. 
Cũng tỷ như bọn mê gái lu bù quàng xiên. Mê một gái thì sáng suốt nói về hồng nhan, còn mê trăm ngàn gái, thì tất nhiên điên tam đảo tứ, còn đâu bình tĩnh sáng suốt mà nhận định tố chất thiên hương? Cũng tỷ như bọn mê đàn cầm. Nếu chuyên đánh dương cầm thì chỉ nên đánh dương cầm. Trái lại, một tay đánh dương cầm, một tay lại đèo bồng vĩ cầm, môi miệng lại đa mang ống tiêu, ống sáo, thì làm sao có thể cung thương làu bậc ngũ âm? Cũng tỷ như bọn mê chuồn chuồn. Mê một con đã đủ. Hà tất phải mê hàng ngàn con! Làm sao theo dõi hàng ngàn cánh chuồn chuồn bay khắp không gian thiên thu vạn đại cho được? Ắt lâm vào tình trạng Tẩu Hỏa Nhập Ma. 
(Tản Đà xưa bị Tẩu Hỏa Nhập Ma, ấy cũng tại ông ham uống rượu quá mức. Uống một lu đã đủ. Hà tất phải uống cho đủ bốn lu?) 
Cũng tỷ như bọn ham đánh giặc. Đánh chơi một năm đã đủ, hà tất phải đánh tới hai ba mươi năm! 
Cũng tỷ như bọn ham có mẫu thân. Có một Phùng Khánh mẫu thân đã đủ bát ngát lắm rồi. Hà tất phải tham lam có luôn cả Brigitte mẫu thân, Marilyn mẫu thân, Kim Cương Thái Thanh mẫu thân, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca mẫu thân. 
Cũng tỷ như bọn ham có đồ đệ. Có một thằng đủ rồi. Hà tất phải lọm cọm đa mang như ông Khổng Tử có tới ba ngàn môn đồ như vua nhà Tần có tới ba nghìn cung nữ. Té ra ông Khổng Tử cũng lại là một loại bạo chúa ru. 
Lại cũng như ông Nguyễn Du ham có hơn ba trăm năm có kẻ khóc mình. Có một mẫu thân Phùng Khánh cho con bú trong hiện tại đã đủ rồi, và dỗ cho nín bây giờ đã đủ rồi, hà tất phải dỗ con nín khóc ba trăm năm sau. 
Ponce Pilate 
Ponce Pilate muốn cứu Jésus, nhưng không cứu được. Một mặt đám đông la ó tràn lan.
Một mặt Jésus không chịu nói. Hoặc có nói, thì nói lờ lững đâu đâu. 
“Bọn chúng lên án Ngài tùm lum như thế, Ngài nghĩ sao?” 
Ponce Pilate cố khơi ý cho Jésus, để ông có thể dựa vào lời đáp của Jésus mà tìm cách biện hộ. Nhưng Jésus không đáp. 
Cuối cùng quẫn bách quá, Ponce Pilate phải sai người lấy roi quất túi bụi cho rách áo quần Jésus, quàng lên đầu Jésus một vòng gai nhọn, dẫn tới trước mặt đám đông bảo: - “Ecce Homo!” 
(Đó, là người ấy đó!) 
Nghĩa là: người ấy tội lỗi thế nào, chưa rõ, nhưng đã chịu trừng phạt như vậy, thế đã vừa lòng bọn các ngươi chưa? 
Người ta có thể hỏi: Nếu quả thật Ponce Pilate có ý ủng hộ Jésus, thì tại sao ông lại bắt chẹt Jésus một cách gay cấn? Lúc Jésus nói “Kẻ nào đi theo chân lý, kẻ đó bước theo ta”, thì Pilate lại chơi khăm hỏi vặn: “Chân lý là gì?” 
Ấy mới là chỗ thống thiết. Lời hỏi kia của Pilate biểu hiện nội tâm Pilate lúc bấy giờ. Chân lý là cái gì khó xác định, thị phi là cái gì khó phân biệt, ngài có tội lỗi hay không, tại hạ không thể quyết đoán… Tại hạ lóng cóng. Mà bọn chúng thì cứ la ó nhốn nháo cả lên… Ngài thì im lặng. 
Vậy chỉ còn một phương sách dung hòa. Tại hạ xin đắc tội với Ngài vậy. Ngài hãy chịu qua loa một trận đòn, thử xem có giập tắt bớt cơn cuồng nộ của bọn chúng hay không… 
“Ecce Homo” từ đó được Nietzsche chọn làm nhan đề một tập sách của mình. Ấy là một cách nêu trở lại ẩn ngữ Phúc Âm. 
Đốn tre 
“Khó nhất là đốn tre, khó nhì là ve gái.” Người thường dân thường khuyên bảo dạy dỗ con cái như thế. Thấy thằng con sỗ sàng ve gái, họ không trực tiếp ngầy ngà. Họ không nói: "Ve gái khó lắm lắm. Con phải chậm rãi từ từ…" 
Họ nói quanh: "Khó nhất là đốn tre, khó nhì là ve gái". 
Lời nói ấy về sau sẽ khiến đứa con suy nghĩ. Nó tự nhủ: Bố bảo khó nhất đốn tre? Nhưng mỗi ngày ta có thể đốn được năm mươi gốc tre một cách dễ dàng. Khó nhì là ve gái? Sao suốt mấy tuần lễ nay ta ve con Mận mà nó vẫn dửng dưng chưa có bề nào ngã ngũ? 
Từ đó cái câu “khó nhất đốn tre, khó nhì ve gái” đã giúp đứa con thể hội chân lý ngược lại. Ấy là: khó nhất ve gái, khó nhì đốn tre. 
Đi vào cõi tư tưởng, chúng ta luôn luôn phải lưu ý tới cái lối ăn nói nghịch lý của người tư tưởng. Họ nói một đường để ta suy ra một ngả. 
“Ngựa trắng không phải là ngựa”. Đó là lời Công Tôn Long. 
Ông này là nhà tư tưởng Trung Hoa bị đam ngộ nhiều nhất. 
Viết lại Nam Hoa Kinh 
Nếu Trang Tử trùng sinh trong thời đại này ắt ông sẽ viết Nam Hoa Kinh như sau: 
1. Nhe răng cười trong bóng tối, ấy là đạo vậy. 
2. Không bao giờ bắt chuồn chuồn mà cứ bảo rằng mình luôn luôn bắt chuồn chuồn, ấy là đạo vậy. 
3. Ngồi làm quan ở triều Nguyễn mà tự xưng mình là Nam Hải Điếu Đồ, ấy là đạo vậy. 
4. Leo lên máy bay đi ra giữa biển Thái Bình Dương thả bom xuống cho bọt sóng tung lên chơi, ấy là đạo vậy. 
5. Không thiết chi đọc sách, mà vẫn cặm cụi đọc hoài, ấy là đạo vậy. 6. Đi ngắm phong cành Bà Rịa và bảo rằng đây là phong cảnh Thừa Thiên, ấy là đạo vậy. 
7. Suốt năm khắc khoải loay hoay mà tự cho mình thanh thoát phiêu bồng, ấy là đạo vậy. 
8. Gọi Phùng Khánh bằng mẫu thân, ấy là đạo vậy. 
9. Chiêm bao thấy Nam Phương Hoàng Hậu tỉnh dậy làm thơ tặng Gái Núi, ấy là đạo vậy. 
10. Trong lòng khâm phục Khổng Tử mà mở miệng ra là công kích ông ta, ấy là đạo vậy. 
11. Sống ngược hẳn giáo lý ông Khổng, mà cứ ca ngợi ông ta mãi, ấy là đạo vậy. 
12. Thích Minh Châu không hề tương tư Thúy Kiều, mà cứ bảo bừa rằng ông ấy tương tư Thúy Kiều, ấy là đạo vậy. 
13. Chán chường thi ca, mà cứ làm thơ hoài, ấy là đạo vậy. 
14. Đêm tối ở trần gian đau đớn vô cùng mà vẫn bảo rằng trần gian lộng lẫy, ấy là đạo vậy. 
15. Thấy người da trắng cũng đẹp bằng người da đen, ấy là đạo vậy. 16. Thấy đạo lù lù hiện ra khắp nơi, thì bảo rằng đạo rất mực vô hình vô ảnh, ấy là đạo vậy. 
17. Đọc xong một bộ tiểu thuyết Vũ Hiệp, bỏ ăn năm ngày, ấy là đạo vậy. 
18. Bỏ ăn năm ngày, lại bảo rằng bỏ ăn năm ngày rưỡi, ấy là đạo vậy. 
19. Không bỏ ăn, mà bảo có bỏ ăn, ấy là đạo vậy. 
20. Viết cuốn Tân Thanh, chuốc sầu vạn đại thì bảo rằng mua vui cũng được một vài trống canh, ấy là đạo vậy. 
Tư Tưởng và Thi Ca 
Chân nhân đời xưa đưa ra một “chủ thuyết” nào, đều có như là tình phi đắc dĩ. Chẳng đừng được mà phải nói. Nói ra, mà vẫn có chỗ như là chẳng có muốn nói ra. 
Chẳng đừng được mà phải nói tới nhân nghĩa lễ nghĩa, như Khổng Tử. Chẳng đừng được mà phải nói bỏ nhân nghĩa lễ nghĩa đi, như Lão Tử. Chẳng đừng được mà viết tề vật luận, như Trang Tử. 
Trang Tử thường dùng phép “chi ngôn”, ấy là bởi ông đứng ngay giữa cơn lốc của sự tình bất đắc dĩ: muốn gát bỏ chuyện thị phi, mà vẫn cứ bị bó buộc phải nêu mãi chuyện thị phi. 
Ta thường đem tư tưởng Khổng Lão Trang ra đối kháng nhau (kẻ chủ trương vô vi, kẻ hữu vi, kẻ xuất thế, kẻ nhập thế …) nhưng nếu xét tới cái lẽ “sở dĩ nhiên” của những chủ trương “trái ngược” kia, ắt mọi lời phân biệt phải dừng lại. Mọi lời biện bác bỗng có tính cách phù phiếm. 
Và dường như không còn ai còn có thể đưa ra được một “tổng hợp” dưới hình thức một học thuyết. 
Sau ba cái khối Khổng Lão Trang, tư tưởng Trung Hoa đã đi vào phiêu nhiên trong cung bậc Đường Thi. Rồi nó kết tinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện Kiều là chỗ dung hợp của Khổng Lão Trang Phật. 
Người tư tưởng không còn dám viết gì về tư tưởng nữa. Trang Tử tái sinh sẽ nghĩ sao về cuốn Nam Hoa Kinh của ông? Ông sẽ viết một bộ Tân Nam Hoa Kinh, hay là ông hồn nhiên ngâm câu thơ Hồ Dzếnh? 
Thơ về nắng sớm lừng lay 
Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra 
Hoặc câu thơ Xuân Diệu? 
Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ 
Giữa đáy trưa trong lòng mẹ vô cùng 
Con là sáo mẹ là ngàn vạn gió 
Mẹ là trời con là hạt sương rung 
Sương uống mãi chẳng bao giờ hết sáng 
Của trời cao chói lọi mỗi chiều ngày 
Sáo ca mãi, lòng tre run choáng váng 
Gió vẫn đầy ngàn nội bốn phương bay 
Thơ như thế là cái chốn của “tâm vô thố hồ thị phi, hưu hồ thiên quân”. 
Hồ Dzếnh 
Thơ về nắng sớm lừng bay 
Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra
Trần Xuân Kiêm 
Ôi má người từ nay thôi hồng! 
Thật là khủng khiếp! Ông Trần Xuân Kiêm còn trẻ hết sức mà đã khám phá ra cái chân lý khổng lồ như thế! 
Ôi má người từ nay thôi hồng! 
Trong chiêm bao thấy má người hồng. Môi người càng hồng hơn nữa. Tỉnh ra thấy…? Thấy gì? Có lẽ tỉnh ra thấy như cái điều ông Trang Tử đã thấy. 
Thuở xa người 
Một sớm người đi theo mây bay 
Ta say nằm lạnh buốt đêm dài 
Tỉnh ra thấy cụm hoa đầu ngõ 
Ta vẫn còn, hay nỗi tàn phai? 
Nửa đêm tỉnh dậy thấy sao rơi 
Ta nghĩ người đang ở cuối trời 
Ơi những đám mây còn lãng tử 
Xin để hồn chùng trong đêm khơi 
Ôi má người từ nay thôi hồng 
Gió cũng trầm thương tóc thôi hong 
Mai sau thoảng nhớ mây vườn cũ 
Ta yêu người bằng mối tình không 
(1-11-1969) 

Nguồn: Bùi Giáng, Thi Ca Tư Tưởng (Sổ đoạn trường - Tức Đi Vào Cõi Thơ cuốn II), Ca Dao xuất bản lần thứ nhất 12/69, Sài Gòn - Việt Nam. Bản điện tử do talawas thực hiện.   
Bùi Giáng
Theo http://vancong.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mái tóc người vợ

Mái tóc người vợ HỘI LÀNG MẤT VUI Thuở ấy, giặc Minh đang xâm chiếm nước ta. Ở một vùng khuất nẻo, hội vật làng Liễu đang vào ngày cuố...