La Sainte Chapelle - Một kỳ công
Tọa lạc giữa Paris, trên đảo La Cité, trong cung điện nhà
vua, nép mình bên cạnh Tòa thượng thẩm, từ ngoài đường chỉ thấy vươn lên cao
vút chóp tháp nhà thờ, Nhà thờ Thánh La Sainte Chapelle được xem như
một bảo vật. Thật ra không phải hoàn toàn là một nhà thờ mà là một hộp đựng
thánh tích được vua Louis IX, tức là Saint Louis, cho xây để chứa Vòng Gai tượng
trưng Nổi khổ hình của chúa Giêsu, một mảnh của Thập giá Thật theo
một truyện thánh thịnh hành từ thế kỷ IV. Vua Saint Louis đặt Vòng Gai vào
đấy cùng với một số thánh tích Nổi khổ hình của chúa Giêsu đạt được từ
năm 1239. Một hộp đựng tứ phía hầu hết bằng kính, ngay nhiều bức cửa sổ tầng nhất
cũng không có tường, góp phần với kiến trúc mạnh dạn vươn lên bộc lộ vẻ duyên
dáng của ngôi nhà. Tuy xây dựng mau chóng, không quá ba năm, công trình không
có chút khuyết điểm, ngay cả trang trí cũng được thực hiện rất tươm tất. Nhiều
ngành nghề sơn, chạm nhất là kỹ thuật làm kính ghép màu được sử dụng tối đa cho
nên ngày nay, tuy sang đi sửa lại nhà thờ luôn vẫn còn là một kiệt tác nhờ những
bức kính khổng lồ. Nhà thờ được một đoàn linh mục phụ trách chăm lo cho đến
1787 thì bị đóng cửa và qua 1790 mất tất cả đồ đạt. Từ năm 1787, ngôi nhà đã trở
thành kho lưu trữ cho tòa án (làm tôi nghĩ đến chùa Thiên Mụ thời Tây Sơn được
dùng làm chuồng ngựa), suýt bị húy phá khi tòa án mở rộng. Nhờ áp lực dư luận
quần chúng, nhà thờ được cứu vớt năm 1836 và một năm sau bắt đầu được trùng tu.
Thuộc phong cách gôtic tỏa tia, Nhà thờ Thánh trùng tu toàn vẹn được
xếp vào các công trình lịch sử năm 1862 và được Trung tâm những công trình quốc
gia quản lý. Năm 2011, La Sainte Chapelle đã đón tiếp 900.000 khách, trong nước
Pháp chỉ đứng sau Mont Saint-Michel và Khài hoàn môn giữa quảng trường Etoile ở
Paris.
Bên ngoài nhà thờ
Trong thời kỳ Viễn chinh chữ thập, cuộc cướp phá
Constantinople năm 1204 có lẽ là sự kiện ít huy hoàng nhất mà lại là phi lý nhất
vỉ những tín đồ Ki tô giành giật nhau trong đức tin và đánh lạc hướng ý nghĩa
cuộc viễn chinh. Hành động như những kẻ thô lỗ, dã man, những hiệp sĩ tây
phương và những quân chữ thập đội Viễn chinh thứ Tư phát xuất từ Venezia cướp
phá không những điện đài mà còn cả những nhà thờ. Chiến lợi phẩm đem ra bán
ngoài chợ, mạnh ai nấy được, không có chuyện chia sẻ. Vòng gai và Thập
Giá Thật ở điện Boucoléon rơi vào tay bá tước Baudouin VI de Hainaut trước
khi thuộc quyền sở hửu của con là bá tước Baudouin II de Courtenay. Cần tiền
cung cấp nhu cầu giang san mình, vị vua cuối cùng Constantinople nầy đem cầm những
bảo vật tại một nhà buôn Venizia, Nicolo Quirino. Sau một thời gian thương lượng,
nhất là để kiểm tra tính xác thực các thánh tích, vua Saint Louis chịu mua lại
với giá rất đắc 135.000 đồng bảng tournois (tiền thay thế đồng bảng parisis sử
dụng từ thế kỷ XIII và trước đồng franc thiết lập năm 1795), lớn hơn
một nửa tiền thu nhập quốc gia hằng năm. Hai vị tu sĩ dòng Dominicain Jacques
và André Longumeau lãnh nhiệm vụ hộ tống những thánh tích về Pháp năm 1239, đến
Villeneuve l’Archevêque (vùng Champagne) ngày 10 tháng tám, hôm sau ghé ngang
Sens. Vua Saint Louis, người em Robert I d’Artois, Giám mục thành Puy, bà mẹ
Blanche de Castille và đức Tổng giám mục thành Sens Guillaume Cornut thân hành
đến đón rước về Paris bằng đường thủy. Ngày 18 tháng tám, Vòng gai đến
Paris trong một biển người và toàn thể giới tăng lữ kinh đô. Hôm sau, một buổi
lễ long trọng được tổ chức nhân đặt thánh tích vào nhà thờ Saint-Nicolas trong
cung điện. Năm 1241, vua tậu thêm một mảnh của Thập Giá Thật và bảy
thánh tích khác thuộc Nổi khổ hình của chúa Giêsu như Máu Thánh, mẫu
Đá Mộ phần Thánh, sau đó ngọn Giáo Thánh và mảnh Bọt biển Thánh đóng
góp vào bộ Sưu tầm Thánh.
Chỗ xây nhà thờ chọn lựa giữa cung điện nhà vua không phải ngẫu
nhiên mà chính để tỏ liên quan mật thiết giữa những thánh tích và hoàng triều
như đã thấy trước đây qua những vua Bizance với nhà thờ điện Boucoléon, những
vua Germanie với nhà thờ ở điện Aachen. Nhà thờ còn chọn lựa gần tòa án còn có
ý nghĩa pháp lý vì mọi thủ tục giữa nhà vua và chư hầu đều phải ký kết sau
tuyên thệ trên các thánh tích. Nói chung nhà thờ có bốn nghĩa vụ: nhà thờ cung
đình, báo quản thánh tích, trụ sở đoàn linh mục, nơi thờ cúng của những nhân
viên cung đình. Nhưng nhà thờ không có thang trực tiếp lên tầng trên là nơi
trình bày thánh tich, không có hành lang quanh điện để khách hành hương lại viếng
có chỗ nối nhau xem. Nhà thờ cũng không có một diễn đàn tribune cho
nhà vua hay các tăng lữ. Ðấy có lẽ là ý chí của vua Saint Louis không phải xây
dựng phòng trưng bày các thánh tích mà là một nơi thanh tịnh để mặc niệm, cầu
nguyện. Vì vậy ờ gian thứ tư phía nam có một cải hốc oratoire xây
trong tường dành cho nhà vua. Nhà thờ cũng không có ghế ngăn stalle dành
cho các giáo sĩ, họ phải ngồi trên các ghế dài bằng đá dọc tường. Một công
trình jubé (hành lang phân cách điện chœur và gian giữa nef trong
vài nhà thờ xưa) sau nầy mới được dựng thêm giữa hai gian thứ hai và thứ ba. Để
tiện việc đi lại, một hành lang mang tên Merciers vòng quanh phía tây sân điện
Mai, nối liền nhà thờ với tư thất của nhà vua. Tên sân Mai là theo tục truyền một
ngày tháng năm, một cây sồi được bứng từ rừng Vincennes đem trồng trong sân điện.
Cây sồi tượng trưng cho sự hòa hợp Trời và Đất, công lý của Chúa và của loài
người, công lý của nhà vua, cho nên tương truyền những quyết định của pháp viện
được công bố và thi hành trong sân này.
Nhà thờ Thánh được bắt đẩu xây mùa thu 1241, khi các thánh
tích vừa rước về, và xong mùa xuân 1244. Hai năm sau, một đoàn năm linh mục được
sáng lập để bảo quản các thánh tích, bảo dưởng những bức kính ghép màu, hệ thống
đèn đuốc và làm lễ trong nhà thờ. Ngày 26 tháng tư 1248, đức Khâm sai Giáo
hoàng Eudes de Châteauroux làm phép dâng nhà thờ cho Thập Giá. Cùng ngày ấy, đức
Tổng Giám mục giáo phận Bourges Philippe Berruyer làm lễ cung hiến nhà thờ cho
Đức mẹ Ðồng trinh. Vua Saint Louis là một nhà xây dựng tương đối giàu có nên chỉ
trong vài năm thu nhập được đủ chi phí là 40.000 đồng bảng tournois. Nhà
vua thân hành đi xem công trường nhiều lần và làm việc chặt chẽ với những đốc
công, thợ cả, góp phần vào quá trình thực hiện các bộ phận nhà thờ. Người ta
không biết chắc kiến trúc sư là ai nhưng tương truyền phong cách của Pierre de
Montreuil (nhà thờ Đức mẹ Ðồng trinh tu viện Saint-Germain-des-Prés, cánh ngang
Nhà thờ Ðức Bà Paris) rất tương tự, tuy vài tên khác cũng được đưa ra: Thomas
de Cormont (Nhà thờ Amiens), Robert de Luzarches (Nhà thờ Đức mẹ Ðồng trinh ở
Amiens). Vua Saint Louis rất chú trọng về mặt đạo lý, tín điều. Tượng trưng sự
hủy bỏ không gian là nhưng bức kính thế tường, tượng trưng tính hài hòa là màu
sắc linh động, tượng trưng niềm lạc quan của nhà thờ là chóp tháp cao vút hình
dung Tháp Babel, trong truyền thống Cơ đốc Do thái không bao giờ đổ. Trên những
cột gian phòng Mười hai Tông đồ qua những lời thuyết giáo là nền tảng của Giáo
hội. Những bức kính màu là tập sử ký của cả một cộng đồng tự gọi là dân tộc chọn
lựa của Chúa, bắt đầu với những Tông đồ. Nói chung Nhà thờ Thánh là một phối hợp
những nghệ thuật thế kỷ XIII: kỹ thuật kính màu, sơn màu, kim hoàn, trang trí,
chạm trổ, kiến trúc,… để thành công cụ thể hóa điều mộng tưởng xây dựng một ngôi
nhà vách tường rạng rỡ, hình ảnh đất Jérusalem thiên đường, thế giới lý tưởng,
nơi những người ân sủng sống đời đời kiếp kiếp với đức Chúa Trời.
Tầng trên nhà thờ
Hộp đựng thánh tích là một loại tủ sắt kim hoàn rộng 2,70m có
hai cánh cửa ngoài và hai cánh cửa trong bằng lưới mắt cáo. Nhà vua mang luôn
trong mình 10 cái chìa khóa, chỉ giao cho ai khác sau khi ký giấy ủy nhiệm. Bên
trong, ngoài Vòng gai, Máu Thánh còn có một mẫu gỗ lớn, những mẫu sắt
giáo nhỏ, một cái áo tơi màu tía, một mẫu bọt biển, một mẫu đá Mộ thánh, một mẫu
vải liệm Giêsu, vài mảnh vải Chúa đã dùng để rửa chân tín đồ, vài sợi tóc của Đức
mẹ Ðồng trinh,… Còn có nhiều thánh tích khác ít quan trọng hơn được bảo quản
trong hai tủ lớn bên cạnh. Trang trí hộp đưng thánh tích là một tác phẩm: phía
tây là cảnh đóng đinh Giêsu vào thánh giá, phía bắc cuộc đánh roi Giêsu và phía
nam cảnh phục sinh của Giêsu. Khó bảo vệ một thánh tích có giá trị vô biên vì lần
lượt các vị vua trích từng mảnh để cung hiến hoặc các cộng đồng tu sĩ, hoặc các
đức giám mục ở Pháp hay ở nước ngoài. Chính ngay Saint Louis thiết lập thói
quen ấy khi dâng tặng một vài mảnh cho đức Giám mục Tolède. Rút cuộc thánh tích
tản mát khắp nơi, chẳng hạn như Thập Giá san sẻ ở tám nhà thờ các tỉnh. Nếu những
nơi được biếu tặng là những cơ sở tôn giáo thì là chuyện đáng kính nhưng khi
Hoàng hậu Marie-Thẻrèse d’Autriche năm 1672 lấy một mảnh Thập Giá đem biếu con
là Louis-François de France thì có nhiều lời bất bình. Tệ hơn là trong những
năm 1534, 1555 nhiều mảnh Thập Giá Thật bị mất cắp và không tìm ra lại
được. Vì số người có quyền mở hộp có hạn nên chỉ hai người bị nghi ngờ là vua
Henri III và bà mẹ Catherine de Médicis. Vua Henri III còn lấy ra năm hòn ngọc
đỏ trong Vòng Gai ước giá 250.000 êcu đem qua cầm bên Ý. Năm 1567 vua
Charles IX thì rút nhiều vật trang trí giao cho sở đúc tiền sử dụng. Trong thời
kỳ Cách Mạng, nếu những hộp đụng thánh tích bị nấu chảy để thu hồi kim loại
quý, Vòng Gai được trao cho đức Hồng y Jean-Baptiste de Belloy năm
1802, hiện đươc bảo quản ở ngân khố nhà thờ Đức Bà Paris. Những thánh tích khác
được trang trải trong nhiều viện bảo tàng.
Kiệt tác một nghệ thuật kiến trúc gôtic tỏa tia, Nhà thờ Thánh là một công trình khá giản dị không vòm cung, không có cánh bên, không có cánh ngang, không có hành lang gác, không có hành lang quanh chánh điện. Một nhà thờ hai tầng, xem ra như nhà thờ dưới và nhà thờ trên xếp chồng nhau. Một cửa chính phía tây mở vào bốn gian và điện, một hậu cung bảy mặt, vòm gân cung. Những cầu thang tháp con ở hai góc tây bắc và tây nam nối liền hai nhà thờ. Bên ngoài, Nhà thờ Thánh dài 36,0m, rộng 17m, cao 42,5m không kể chóp tháp. Chóp nầy dài 33,25m nên độ cao nhà thờ từ đất là 75,75m. Bên trong dưới vòm nhà thờ dưới chỉ cao 6,6m, nhà thờ trên 20,5m. Diện tích bên trong tương đối nhỏ, cở một nhà thờ nhỏ trong làng nhưng bề rộng tương đương với một nhà thờ lớn cở Nhà thờ Laon, còn độ cao thì có thể so sánh với những nhà thờ gôtic đâu tiên loại Nhà thờ Noyon. Nhà thờ dưới có kích thước một cái hầm mộ nhưng trang trí tinh vi không kém nhà thờ trên: tỷ lệ cột nhà, chạm trổ mũ cột, mâm đỉnh cột, thanh chống vòm chính, lỗ cửa gian giữa. Đáng để ý là màu sắc sực sỡ để làm nổi trội những tường kính bị tháo gỡ năm 1691 và cho thế vào những kính trắng. Năm 1690 một cơn lũ phá hoại nhiều và phải sơn lại. Khi trùng tu, kiến trúc sư Emile Boeswillwald sử dụng các màu xanh, đỏ rực rỡ, sơn vàng để dậy màu các đường chỉ, những mũ cột, đá đỉnh vòm. Trang trí trên vòm là những hoa huệ biểu hiệu hoàng gia, lâu đài Castille nhắc nhở Blanche de Castille, nhiều hoa lá trên góc tường vòm. Những kính ghép màu ngày nay là tác phẩm của Adolf Steinheil theo kỷ thuật sơn một màu grisaille. Ông cũng là nghệ nhân đã khôi phục những bức chạm đầu người nguyên đặt giữa các dãy trang trí vòm. Rất ít còn tồn tại từ những bức tranh thế kỷ XIII, ngoại trừ một bức Lễ truyền tin (Annonciation) và một bức Đức mẹ Đồng trinh giữa hai thiên thần. Những bức chạm đầu người ở gian giữa hình dung những vị Tông đồ thay cho Thánh giá cung hiến, tranh vẽ lấy từ cuốn sách kinh lễ của vua Saint Louis. Nhà thờ dưới ít được thắp sáng như trong hầm mộ ngày nay được dùng làm nhà hàng bản đồ kỷ niệm.
Cao gần gấp đôi bề ngang, nhà thờ trên lịch sự muôn sắc muôn
màu tuy sáng sủa nhưng không tràn ngập ánh sáng vì cửa gương thế kỷ XIII là nửa
sáng nửa mờ. Hai mặt phải hậu cung hẹp hơn những mặt khác, hai cửa sổ hậu cũng
thấp hơn, 13,45m thay vì 15,35m, mánh lới để trông lòng nhà như dài hơn, từ đấy
mặt ngoài gian giữa trông cũng như xa hơn. Trang trí có phần phức tạp hơn nhà
thờ dưới, phần lớn là nguyên bản. Tượng những vị Tông đồ, tuy cách cách cấu tạo
mang dấu năm 1240, bị những nhà cách mạng cho là đem vào sau nên lấy đi, hiện
được bảo quản ở viện Bảo tàng Cluny. Những ô trán ba vòm cung do họa sĩ
Steinheil thực hiện, hình dung ba thời kỳ hy sinh trong kinh Cựu ước, một đấng
Giêsu đang ban phúc lành giữa hai nhà tiên tri Isaie và Jérémie, ba cảnh hy
sinh trên thập giá: hiến sinh con cừu non chúa Giêsu, vết máu trên nhà nhưng
người Hêbrơ (để tránh thần Chết bắt các con đầu lòng) và con rắn Moise trong sa
mạc. Trong gian giữa, những cành lá lượn xen lẫn chim chóc, thú bốn chân, nhưng
tượng trưng hiệu học. Trong hậu cung, bốn con sông thiên đường tượng trưng ân
huệ của chúa và bảy thánh lễ tuôn ra từ hóc đá như bảy ngọn suối. Giữa hậu
cung, khán đài những thánh tích bị tháo gỡ đưa đi nhà thờ Saint Denis hay tu viện
Petits- Augustins trong thời kỳ Cách mạng nhưng tản đá trên hộp thánh tích, một
thang gỗ và nhiều mảnh trên dãy trang trí vòm được hai kiến trúc sư Félix Duban
và Jean-Baptiste Lassus khó khăn phục hồi vì thiếu nhiều bản gốc. Sáu thiên thần
trên bệ góc tường vòm cung là những tác phẩm có giá trị nhưng chưa chắc tương ứng
với những mẫu xưa. Vì thiếu ngân quỹ nên không thể làm lại chấn song bức tường,
bàn thờ chính và hòm thánh tích. Cũng như tán che, tượng trưng hoàng gia, không
được đem trở lại chức vụ, những bức kính ghép màu trình trong chương trình tượng
trưng trang trí, những Tông đồ và những cảnh Đóng đinh Chúa, Đánh roi Giêsu, Phục
sinh đấng Kitô,… không được hoàn toàn phục hồi. Thậm chí bàn thờ để làm lễ bồ
nhiệm chức quan tòa cũng bị tháo ra đưa vào dưới hầm…
Rút cuộc, xây Nhà thờ Thánh đựng hộp kỉnh thánh tích Vòng gai, Thập giá Thật,… vua Saint Louis không chỉ tỏ lòng sùng đạo mà còn thi hành một cử chỉ chính trị. Không những ông đã kiếm cách bảo quản cho các thánh tích khỏi bị rải rác khắp nơi mà còn thành công gìn giữ chúng trong vòng tay hoàng gia. Nhà thờ Thánh có hai tầng, tầng dưới dùng để làm lễ cúng giáo khu, tầng trên dành cho các thánh tích. Sau hai lần bị hỏa hoạn (1630, 1777), một lần bị lụt lội (1690), nhà thờ còn bị phá hoại trong thời kỳ Cách Mạng. Những trang trí bên ngoài bị tan hủy, kể cả chóp tháp, những cửa kính ghép màu phân tán, tầng trên dùng làm kho lưu trữ hồ sơ tòa án,… Cuộc trùng tu chỉ bắt đầu cuối thế kỷ XIX. Ba kiến trúc sư tiếp tục nhau chỉ đạo: Félix Duban, Jean-Baptiste Lasus, Emile Boeswillwald. Nhà kiến trúc Viollet-le-Duc thỉnh thoảng có lại giúp sức cũng như nhiều nhà Trung đại học. Nhiều đề tài đã phải bàn cãi gay go vì thiếu chứng từ. Ngay chóp tháp bị hư gảy cũng không biết là có phải là nguyên bản không. Rút cuộc hai mẫu 1383 (Duban, Viollet-le-Duc) và 1630 (mẫu đánh gảy thời kỳ Cách Mạng) bị bỏ và trùng tu theo mẫu 1460… Một vấn đề khác ít được đồng ý với nhau là trang trí bên trong vì không tìm ra được tất cả các mảnh vở, lắm khi phải sáng tạo. Trường hợp những kính ghép màu đặt một khó khăn khác: chương trình do François de Guilhermy soạn theo những thánh kinh đạo đức thế kỷ XIII mà thực hiện lại giao cho nhiều nghệ nhân đặc biệt Louis Steinheil và Antoine Luson, còn chạm trổ thì lại thuộc phần xưởng Geofroy Devchaume chuyên môn về Trung Đại. Cơn bảo năm 1999 lại còn phá hư nhiều nữa cửa kính tầng trên và hiện một thiết kế kỹ thuật sửa chữa đang tiến hành. Dù sao, La Chapelle toàn bộ luôn đứng vững nhờ một sườn kim loại bên trong bền chắc chống chỏi mọi sự kiện bên ngoài.
Rút cuộc, xây Nhà thờ Thánh đựng hộp kỉnh thánh tích Vòng gai, Thập giá Thật,… vua Saint Louis không chỉ tỏ lòng sùng đạo mà còn thi hành một cử chỉ chính trị. Không những ông đã kiếm cách bảo quản cho các thánh tích khỏi bị rải rác khắp nơi mà còn thành công gìn giữ chúng trong vòng tay hoàng gia. Nhà thờ Thánh có hai tầng, tầng dưới dùng để làm lễ cúng giáo khu, tầng trên dành cho các thánh tích. Sau hai lần bị hỏa hoạn (1630, 1777), một lần bị lụt lội (1690), nhà thờ còn bị phá hoại trong thời kỳ Cách Mạng. Những trang trí bên ngoài bị tan hủy, kể cả chóp tháp, những cửa kính ghép màu phân tán, tầng trên dùng làm kho lưu trữ hồ sơ tòa án,… Cuộc trùng tu chỉ bắt đầu cuối thế kỷ XIX. Ba kiến trúc sư tiếp tục nhau chỉ đạo: Félix Duban, Jean-Baptiste Lasus, Emile Boeswillwald. Nhà kiến trúc Viollet-le-Duc thỉnh thoảng có lại giúp sức cũng như nhiều nhà Trung đại học. Nhiều đề tài đã phải bàn cãi gay go vì thiếu chứng từ. Ngay chóp tháp bị hư gảy cũng không biết là có phải là nguyên bản không. Rút cuộc hai mẫu 1383 (Duban, Viollet-le-Duc) và 1630 (mẫu đánh gảy thời kỳ Cách Mạng) bị bỏ và trùng tu theo mẫu 1460… Một vấn đề khác ít được đồng ý với nhau là trang trí bên trong vì không tìm ra được tất cả các mảnh vở, lắm khi phải sáng tạo. Trường hợp những kính ghép màu đặt một khó khăn khác: chương trình do François de Guilhermy soạn theo những thánh kinh đạo đức thế kỷ XIII mà thực hiện lại giao cho nhiều nghệ nhân đặc biệt Louis Steinheil và Antoine Luson, còn chạm trổ thì lại thuộc phần xưởng Geofroy Devchaume chuyên môn về Trung Đại. Cơn bảo năm 1999 lại còn phá hư nhiều nữa cửa kính tầng trên và hiện một thiết kế kỹ thuật sửa chữa đang tiến hành. Dù sao, La Chapelle toàn bộ luôn đứng vững nhờ một sườn kim loại bên trong bền chắc chống chỏi mọi sự kiện bên ngoài.
Phụ chú: Vua Louis IX tức Saint Louis
Con vua Louis VIII (1187-1226) và hoàng hậu Blanche de
Castille, vua Louis IX sinh ngày 25 tháng tư 1214. Người anh cả chết năm 1218,
đang còn là vị thành niên khi vua cha băng hà, ông được mẹ thừa nhận thành niên
để chống bất bình của những vị nam tước không đồng ý thấy bà làm nhiếp chính.
Ông cưới cô Marguerite de Provence năm 1234, cũng là năm ông bắt đẩu tự cầm quyền
lấy. Vợ ông đẻ cho ông 11 đứa con. Ông phải đương đầu với nhiểu cuộc xung đột,
nhất là sau vụ vận động chống những người Albigeois (1208-1229) tức là Giáo hội
Công giáo chống tà thuyết. Năm 1244, sau một trận đau nặng, ông quyết định tham
dự cuộc viễn chinh chữ thập, hầu như độc nhất trong số các vị đế vương. Khởi
hành từ Aigues-mortes năm 1248, ông đổ bộ ở Ai Cập, thành công đánh chiếm Damiette
rồi bị cầm chân ở đẩy. Quân đội mất tinh thần, vua đau yếu rồi bị bắt ngày 6
tháng tư 1249. Trả xong tiền chuộc cho mình và quân binh, ông chần chừ không chịu
rời Đông phương ngay trước khi về lại Pháp. Ông ký nhiều hiệp định hòa bình với
vài nước láng giềng và thanh toán nhiều vấn đề với những nam tước. Qua ảnh hưởng
của một vài nhà luật học, ông muốn thực hiện nhiều cải cách luân lý, hành chánh
và tiền tệ. Rất mộ đạo, ông đấu tranh chống những người cho vay nặng lãi, những
người theo tà thuyết, những phong tục xấu xa. Không bao dung đối với những kẻ
báng bổ, ông tổ chức cứu trợ và trợ lực hội những kẻ ăn xin, chăm lo cuộc chữa
bệnh phong. Thực hiện nhiều buổi sám hối, ông biết bắt tôn trọng nhà vua và những
chỉ thị cho các giáo sĩ. Sau cuộc phản công của vua Ai Cập Baibars, ông lại muốn
nhập cuộc Viễn chinh chữ thập năm 1267. Lần nầy ông được hưởng ứng nhiều hơn lần
trước. Ông lên đường năm 1270, nhắm hướng Tunidi. Ông băng hà ở đấy ngày 25
tháng tám 1270. Nhiều việc thần diệu xảy ra quanh di hài khi ông hồi hương về
Pháp. Thủ tục phong thánh ông bắt đầu từ 1272 đến 1297 mới kết thúc.
Vòng gai
Tài liệu:
- Annette Weber, Francoise Monfrin (traducteur), Les
grandes et les petites statues d'apôtres de la Sainte-Chapelle de Paris.
Hypothèses de datation et d'interprétation, Bulletin Monumental Année
(1997) 155 2 pp.
81-101
- Xavier Dectot, La Sainte-Chapelle du Palais de la Cité
à Paris, Musée
de Cluny Réunion des musées nationaux-Grand Palais, 2011; mise à jour: mai 2016 musee-moyenage.fr/ressources
- Cécile Dufour,La Sainte-Chapelle: un édifice
parisien, Narthex Art Sacre,
Patrimoine, Creation, publié le 28 mai 2012 getyourguide.com
- Stéphanie Bertoncelli, Les apôtres de la Sainte
Chapelle, artsdumoyenage.overblog.com 30.03.2014
- 26 avril 1248, Consécration de la Sainte-Chapelle,
publié ou mis à jour: 23.10.2015 herodote.net.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét