Bức tường quanh điện ở
Trước kia, trong nhà thờ thường có một bức hành lang bằng gỗ
hay bằng đá chắn ngang giữa điện thờ nghi lễ (choeur) dành cho các linh mục và
gian giữa chính (nef) là chỗ của tín đồ, tương tự như bức ambon trong
các nhà thờ Hy Lạp và La Tinh. Trước kia cũng chỉ có một xà ngang mang một cái
thánh giá giữa hai tượng đức Mẹ Đồng Trinh và Thánh Jean (hiện còn thấy ở
vùng Savoie, ở nhà thờ Aussois chẳng hạn). Qua giữa thế kỷ XII hành lang lắm
lúc chạm trổ công phu mới được thêm vào. Dưới hành lang, trước những bàn
thờ nhỏ, qùy hay ngồi những tín đồ dự lễ mà không thấy được ở bên trong ; như vậy
ở bên trong thầm kín những vị linh mục yên tĩnh làm lễ vì như tuồng ở thời
Trung cổ, tín đồ tuy ít hơn bây giờ nhưng rất ồn ào. Bên trên hành lang là một
diễn đàn để đọc tuyên cáo, thuyết giáo hay đọc thánh kinh. Trước khi đọc thánh
kinh người trợ tế thường xin phép vị chủ lễ với mấy chữ La Tinh: Jube,
Domine, Benedicere (ra lệnh, đức Chúa, ban ơn) có thể hiểu là Lạy
Chúa ban ơn cho chúng con. Chính chữ Jube (jubé) được dùng ngày
nay để chỉ định cái hành lang kia. Bắt đầu từ các thế kỷ XVII-XVIII, nhất
là sau Hội nghị các giám mục Trente, hành lang nầy dần được phá đổ
vì bị cho là che mất điện thờ và cũng để cho tín đồ gần gũi hơn với
giới tăng lữ. Ngày nay rất ít nhà thờ còn giữ hành lang nầy trừ ở vùng
Bretagne, những nhà thờ Nga và những nhà thờ chính giáo. Trong Paris còn thấy ở
nhà thờ Saint-Etienne du Mont, quận 5, còn khắp nước Pháp chỉ còn vài cái ở các
nhà thờ Albi, Faouet, Rodez, Troyes, Chartres,... Có nhiều nơi, jubé cũ được
lượm lặt sắp lại sau điện thờ như ở Bourget-du-Lac cạnh Aix-les-Bains. Jubé ở
nhà thờ Đức Bà Paris cũng phải chịu cùng số phận, nay chỉ còn lại hai bức
tường quanh điện thờ (clôture du choeur).
Chưa hiểu biết nhiều, tín đồ Trung cổ sống trong viễn tượng
ám ảnh cái chết của mình và trong nỗi băng khoăng trước sự hy sinh của Chúa cứu
thế. Ở Pháp, dưới thời Philippe le Bel (1268-1314), cuộc viễn chinh chữ thập
đã chấm dứt, nhà vua triệt hạ tận gốc quyền lực dòng Đền, trực tiếp đương
đầu với đức Giáo hoàng Boniface VIII. Vua cho triệu tập năm 1302, ngay ở nhà thờ
Đức Bà Paris, một "Quốc hội" (Etats-Généraux) đầu tiên trong quốc
vương nhắm chuẩn y chính trị độc lập của nhà vua đối với Giáo hội. Giữa thế
kỷ XIV, bệnh dịch hạch hoành hành khắp nước, nghe đâu giết hại đến một nửa dân
số Pháp, khoảng 10 triệu người. Công trình điêu khắc nghệ thuật jubé nhà thờ Đức
Bà Paris tiến hành trong một bầu không khí sôi nổi và bi thảm, chi phí một phần
nhờ linh mục Pierre de Fayel trang trải. Ngày nay trên hai tường còn lại, một
bên cuộc đời mê hồn của chúa Giêsu, bên kia những hoạt cảnh trình bày đấng
Christ phục sinh được trình bày sát theo bốn Phúc âm. Màu sắc lúc đầu có
Caudron tìm lại, Maillol sang sửa, đến thế kỷ XIX mới được Viollet-le-Duc cho
sơn mới, sặc sỡ như thường thấy ở thời Trung cổ. Phong cách hai tường khác
nhau. Những bức chạm tường bắc xưa và đẹp hơn : bố cục sáng sủa rõ ràng
hơn, cử chỉ điệu bộ các nhân vật bình thản trong y phục có phần lụng thụng,...
tiếp nối truyền thống nghệ thuật kiến trúc các nhà thờ lớn thế kỷ XIII. Trong bức
tuờng nam, trừ hai hoạt cảnh đầu, bố cục ít hài hòa hơn, điệu bộ cứng cỏi, mặc
dầu nhiều chi tiết ý nhị áo quần ít mềm mại nên tổng thể ít mỹ lệ. Hai tường
không được thực hiện cùng lúc: tường bắc thuật lại đời sống của Giêsu từ 1300
đến 1318 dưới quyền điều khiển của Pierre de Chelles ; tường nam lược kể những
lần tái hiện của đấng Christ là tác phẩm của Jean Ravy từ 1318 đến 1344 và của
Jean de Bouteiller từ 1344 đến 1351.
Bắt đầu từ trái, bức tường phía bắc trình bày cảnh
tượng thời niên thiếu của đấng Christ cùng những màn sống động đánh nhịp cuộc sống
khổ đau của Ngài, lặp lại bức chạm trổ ô trán cửa tu viện thực hiện thế kỷ trước
với những chi tiết rầt linh hoạt: lễ Thăm, lễ Báo tin, lễ Giáng sinh. Lễ
Thăm (Visitation), trong sách Phúc âm của Thánh Luc, kể chuyện Marie có
mang Giêsu lại viếng Elisabeth có bầu Jean Baptiste là người sau nầy sẽ rửa tội
cho Giêsu. Khi nghe tiếng Marie chào, đứa con trong bụng Elisabeth cựa mình và
Elisabeth thốt ra: "Bà được ban phúc lành giữa tất cả các bà, và đứa con
trong lòng bà cũng đuợc ban phúc lành!" Marie trả lời bằng một bài tụng
ca Chúa (Magnificat). Có nhiều lễ Báo tin (Annonciation) phép mầu,
nhưng ở đây thiên thần Gabriel được Chúa gởi lại Nazareth: "Chào bà, người
được Chúa ban ơn." Marie hoảng hốt hỏi sao có cách chào lạ, thiên thần gỉải
thích bà đã được Chúa gia ơn và bà sẽ có một đứa con. Càng ngạc nhiên hơn,
Marie lại hỏi: "Làm sao được khi tôi còn trinh?" Thiên thần trả lời
: "Thánh thần sẽ lại đến với bà và đấng Tối cao sẽ chăm lo cho bà. Bà đặt
tên con là Giêsu, khi lớn lên bà gọi nó là Con đấng Tối cao, Chúa sẽ ban cho nó
ngôi David và triều đại của nó sẽ tồn tại đời đời." Trong bức Giáng
sinh (Nativité), Marie nằm dài ngẫm nghĩ trước nôi Giêsu có hai con bò thổi
hơi sưởi nóng. Bên cạnh, Joseph với bộ râu dài, tay đặt trên gậy, có vẻ đăm
chiêu như đang tự hỏi vai trò của mình trong gia đình thần thánh nầy. Bức
tranh giản dị với những nhân vật trầm ngâm về bí truyền mầu nhiệm đang xảy ra,
trong một tư thế nhập định sâu kín và cảm động, được đánh giá là một trong
những bức có ý nghĩa nhất trong tường.
Hoạt cảnh tiếp theo là Cảnh tôn thờ của các pháp sư (Adoration
des mages) thể hiện ba người đàn ông đến dâng quà cho Marie và Giêsu. Theo
Phúc âm Thánh Matthieu, ba pháp sư nầy đã được một ngôi sao báo cho biết một
tân vương giáng sinh và dẫn đường cho họ đến Judée. Họ là những đạo sĩ, tiếng
La Tinh gọi magus, tiếng Hy Lạp magos, những nhà bác học uyên thâm về
thiên văn, khoa học huyền bí. Lúc đầu không biết họ là bao nhiêu người, chỉ
biết họ từ phương Đông lại. Truyền thống dân gian xếp họ giữa hai con số 2 và
12. Bức tranh ở nghĩa địa Saint-Pierre và Marcellin ở Roma chỉ vẽ hai người.
Sau đó, những hình trang trí ghép mảnh ở Sainte-Marie-Majeure, Roma, cũng như ở
Saint-Apollinaire Nuovo, Ravenne, trình bày ba vị mặc áo quần giáo sĩ Mithra, đội
mũ Phrygie. Mãi đến thế kỷ VI mới thấy phân biệt ba người mang biểu biệu
nhà vua mang ba tên : Gaspard thường hình dung là một chàng trẻ không râu,
Balthazar một ông đứng tuổi và Melchior một cụ già sói tóc, râu xồm. Truyền thống
còn gán ba vua pháp nầy biểu hiện cho ba lứa tuổi trong đời hay đại diện
cho ba châu Âu, Phi, Á, dòng dõi con cháu Noé. Trong bình bằng kim loại qu›,
Gaspard và Balthazar dâng tặng nhựa hương tiêu biểu quyền lực tôn giáo, một dược
quyền lực tiên tri. Melchior quỳ xuống trước dâng bình đựng vàng thay mặt quyền
lực thế tục. Marie và Giêsu ngồi trên ngai vàng, mặc áo quần ông hoàng, bà chúa,
mặt mày nghiêm nghị.
Cuộc đời đau khổ của Giêsu bắt đầu từ hai cảnh tượng sau: Cuộc
tàn sát kẻ vô tội và Trốn tránh qua Ai Cập theo Phúc âm của Thánh Matthieu. Sự
tích trong Cuộc tàn sát kẻ vô tội (Massacre des Innnocents) là
khi nghe tin các vua pháp lại dâng quà cho Marie và Giêsu, vua Hérode sợ Giêsu
sẽ dành ngôi của mình, nổi giận ra lệnh giết chết mọi con trai dưới hai tuổi
trong vùng Bethléem. Tác giả Augustin d’Hippone đã tả cảnh tuợng: Các bà mẹ nhổ
tóc mình; các bà muốn dấu các con nhưng bọn nó chưa học sợ nên không biết ngồi
im và vô tình tự tố giác. Thế là một cuộc xâu xé giữa bà mẹ và tên đao phủ;
người dành cho được con mồi, người kia cố níu lại đứa con thân thích. Một
bà bảo: "Hoặc mày tha cho con tao, hoặc mày giết luôn cả tao."
Một bà khác phân trần: "Các ông giết một số đông con trẻ để loại bỏ một đứa
thôi mà đứa ấy đã chạy xa rồi!" Cuộc hy sinh những con trẻ được Trời
chuẩn y trong tiếng kêu than khóc lóc của các bà, trước mặt Hérode ngồi trên
ngai vàng nghiễm nhiên nhìn hai tên đao phủ đang đâm chết hai đứa con trong tay
hai bà mẹ. Những nghệ nhân đã tỏ ra nhiều nhiệt huyết và cảm giác hiếm có
trong nghệ thuật thế kỷ XIV. Không có khả năng chống đở, Marie vâng lời thiên
thần chạy trốn. Trong cảnh tượng Trốn tránh qua Ai Cập (Fuite en
Egypte), Marie ngồi bồng Giêsu trên lưng con lừa, trước có Joseph dẫn đường,
khăn gói trên vai. Trong lúc Marie âu yếm nhìn con, tay quàng qua cổ như để bảo
vệ con, Joseph rảo bước, mặt luôn ngoảnh lại chăm chú trông nom cuộc hành trình
đầy gian nan nguy hiểm.
Khi cơn hoạn nạn đã qua, đến lúc Marie và Joseph phải
làm lễ cho Giêsu theo giới luật Do Thái "Mọi con trai đầu lòng sẽ phải
dângChúa" trình bày trong hai hoạt cảnh gọi là Buổi trình bày vào đền
(Présentation au temple), kể lại trong Phúc âm của Thánh Luc, và Giêsu giữa các
nhà thần học (Jésus au milieu des docteurs). Trong Buổi trình bày vào
đền, theo tục truyền, cha mẹ đứa con đầu, xem là của Chúa, phải làm tròn lễ
nghi tôn giáo Do thái hiến sinh súc vật (hai con bồ câu) để chuộc tội khi
nó đạt một tháng. Trong nghi lễ Giáo hội Jérusalem, truyền thống cho đây
là cuộc gặp gỡ với Siméon và Anne. Siméon là một người công bằng và sùng đạo,
được Thần linh báo cho biết sẽ gặp Chúa cứu thế trước khi từ trần. Khi Giêsu được
tám ngày, nhân ngày lễ cắt bao quy đầu (circoncision) ở Đền
Jérusalem, ông lại bồng Giêsu trong tay: Bây giờ Chúa có thể cho con ra đi như
đã nói vì con đã thấy vị cứu tinh, một ngọn đèn tỏa sáng khắp các nước tà
giáo và vinh dự thay dân tộc Do Thái của Chúa. Bên cạnh ông có bà tiên tri
Anne, bộ lạc Aser. 84 tuổi, luôn sống cạnh Đền, phục vụ Chúa qua nhịn ăn
và cầu nguyện, không ngớt ca ngợi Chúa, kể chuyện Giêsu cho những ai chờ đợi
cuộc giải phóng thành Jérusalem. Giêsu sẽ lớn lên tràn đầy đạo lý, chan hòa ân
huệ của Chúa. Như mọi tín đồ Do Thái, Marie và Joseph ngày lễ Pâque thường
đem Giêsu đến Đền Jérusalem. Năm lên 12 tuổi, tuổi có trách nhiệm, Giêsu không
theo cha mẹ về nhà mà ở lại Đền đàm đạo với các vị thần học Do Thái theo Phúc
âm Thánh Luc: Giêsu giữa các nhà thần học. Tuy còn quá trẻ
để ngồi cùng bàn, Giêsu tỏ ra thông minh trong cuộc bàn cải cũng như trong các
câu hỏi, làm ngạc nhiên cử tọa trước một vị thiếu niên uyuên bác và tò mò.
Rửa tội là một nghi lễ hay một thánh lễ tượng trưng một cuộc
sống mới cho người theo đạo Cơ đốc. Chết đầy tội lỗi trong cuộc sống cũ, người
công giáo sống lại trong một cuộc đời mới và vĩnh viễn với đấng Christ. Lắm khi
nghi lễ này là một bằng chứng công khai sự quy theo đạo mới. Đối với
người công giáo, quy chế là cuộc Rửa tội Giêsu (Baptême de
Jésus) trong dòng sông Jourdain theo Phúc âm của Thánh Matthieu. Nơi này có một
ý nghĩa đặc biệt: trong kinh Cựu ước, sông Jourdain là giới hạn miền Đất
Hứa Chanaan cho dân Hébreux mà Moise không có quyền đặt chân vào, buộc phải
dừng chân ở bờ sông. Thường lệ, Jean-Baptiste dìm người Hébreux xuống nước rửa
tội để họ ăn năn xá tội trước khi vượt sông Jourdan.Vậy Giêsu cũng lại sông
Jourdan xin Jean rửa tội cho mình. Jean không chịu, bảo trái lại chính Giêsu phải
rửa tội cho mình. Jean đã từng nói: "Tôi chỉ rửa tội bằng nước, Giêsu cao
siêu hơn tôi rửa tội trong lửa nóng và thần linh." Nhưng Giêsu bảo là phải
thực hành theo công bằng và Jean chịu rửa tội cho Giêsu. Ra khỏi nước Giêsu nhận
thần linh qua một con bồ câu và Jean kêu gọi đồ đệ của mình theo Giêsu.
Ngày chủ nhật lễ Cành (Dimanche des Rameaux) một tuần
trước lễ Pâque Do Thái, Giêsu quyết định vào thành Jérusalem một cách long trọng.
Giêsu sai hai đệ tử đi Bethphagé kiếm một con lừa con (theo Phúc âm Thánh Marc,
Giêsu chỉ định một con lừa con đang đứng với con lừa mẹ) để cưỡi vì Ngài
muốn biểu lộ công khai ngài là Chúa cứu thế mà dân Do Thái đang chờ đợi. Giêsu
chọn con lừa là một vật cưỡi khiêm tốn như nhà tiên tri đã báo trước để chỉ rõ
tính cách khiêm nhường và thanh bình thời ngự trị của mình. Một số đông dân
chúng lại dự lễ, phấn khởi ca hát vang lừng, quay qua rải áo quần lên đường, phất
các cành cây cọ và cây ô liu chào đón Ngài. Ngày nay ngày chủ nhật Cành đồng thời
với chuyến vào thành Jerusalem của Giêsu, kỷ niệm nỗi khổ hình của đấng
Christ (la Passion du Christ), nằm đúng trong Tuần lễ Thánh (Semaine
Sainte). Giêsu còn biết làm phép lạ. Sự tích nầy chỉ thấy trong Phúc âm của Thánh
Jean. Đây là tín hiệu đầu tiên Giêsu dành cho những đệ tử đã tin ở đấng
Christ. Một hôm Giêsu và mẹ được mời dự một Đám cưới ở Cana (Noces de
Cana) vùng Galilée. Giữa buổi thiếu rượu, Marie bảo những người giúp việc hỏi
Giêsu. Giêsu khiến họ đổ đầy nước sáu chum đá thường dùng trong lễ tẩy uế và
khiêng vào. Mọi người khám phá ra chum đầy rượu. Tín hiệu này được
xem như là một phép lạ mang nặng tầm quan trọng tượng trưng và mức
tinh thần, đánh dấu bước tiến của Giêsu vào đời sống công khai. Qua phép lạ nầy
Giêsu tỏ ra đã hiến thân để cứu nhân loại, để lộ ra tính hào hiệp của Chúa, chỉ
rõ tín điều liên minh giữa Chúa và con người. Cuộc biến đổi nước thành rượu báo
hiệu bước chuyển từ Cổ Luật người Hébreux tẩy uế với nước trong Đền, qua Tân Luật
theo tình thương và hi sinh với máu của đấng Christ khi bị đóng đinh trên thánh
giá.
Tất cả các Phúc âm đều có nói đến bửa ăn biệt ly giữa Giêsu
và 12 tông đồ (tiếng La Tinh Cena có nghĩa bửa ăn tối) tối thứ năm
trước lễ Pâque Do Thái (Pâsakh) là ngày Giêsu bị bắt. Người Do Thái giữ tục
kỷ niệm ngày giải phóng ra khỏi Ai Cập qua lễ Pâque ở gia đình. Họ thường ăn một
con cừu non mà máu trước kia đã được dùng bôi cửa để đuổi xa những quân binh gởi
đi giết mọi con trưởng ở mỗi gia đình Ai Cập. Trong kinh Tân Ước, đấng Christ
được nhận dạng như con cừu non kia: nhờ máu của Chúa cứu thế mà tránh khỏi
chết, nhân dân bước vào một cuộc sống mới. Họ ăn bánh không bột men (azyme) như
hồi phải hấp tấp nấu ăn trước khi chạy, hiến sinh súc vật thực hiện trong Đền,
Hầu hết các Phúc âm đều kể lại: Trong khi mọi người ăn, Giêsu cầm bánh, ban
phép lành rồi bẻ ra chia cho các tông đồ: Ăn đi, đây là cơ thể của
tôi. Xong Giêsu cầm bình ruợu, tạ ơn rồi rót cho các tông đồ: Uống
đi, đây là máu của tôi, máu của liên minh, rải tỏa để xá vô số tội lỗi (Phúc
âm của Thánh Matthieu). Chuyện Juda phản bội được bàn tán rộng rãi nhưng những
lời kể lại có phần khác nhau.Theo Phúc âm của Thánh Jean sau này được lặp lại
là Giêsu có tuyên bố: Hẳn là có một người sẽ nộp tôi! Pierre thúc Simon ngồi
cạnh Giêsu hỏi người ấy là ai. Giêsu trả lời: Tôi sẽ nhúng một miếng bánh và
trao cho người ấy. Người ấy là Juda, con của Simon Iscariot. Trong đạo công
giáo, Bữa ăn Cena có ý nghĩa tượng trưng sự thiết lập thánh lễ
ban thánh thể Eucharistie (nguồn gốc Hy Lạp, có nghĩa cử chỉ ban ơn). Từ thời
Trung cổ, trên tường phòng ăn ở tu viện thường có treo tranh Cena để
các tu sĩ luôn có trước mắt hình ảnh người đã chia sẻ bữa ăn cuối cùng.
Ngày nay, nhờ những bức tranh, ta biết được những tông đồ trong Cena là
từ trái sang mặt: Barthélemy, Jacques le Mineur, André, Judas, Pierre, Jean,
Giêsu, Thomas, Jacques le Majeur, Philippe, Matthieu, Thaddée và Simon.
Lễ Rửa chân trong vườn cây ô liu
Một hoạt cảnh quan trọng và khó hiểu là Lễ Rửa chân (Lavement
du Pied) trước bửa ăn cuối cùng Cena: Giêsu rửa chân cho những tông
đồ. Bắt đầu từ thời Giáo hội cổ sơ (thời ấy gọi là mandatum), lễ truyền thống
nầy tiếp tục đến kỳ đạo Cơ đốc, trừ một vài phái Tin lành. Sách chép là
Giêsu rất ý thức số phận của mình, biết mình là người Chúa gởi đến, nay sắp trở
về lại với Chúa, bèn đứng dậy, cổi áo quần, thắt một khăn ngang lưng, đổ nước
vào một cái thau, đi rửa chân cho mỗi tông đồ rồi lau với chiếc khăn. Thường
công việc nầy là của những người nô lệ. Giêsu đứng vào thân phận một người
nô lệ trước khi lên chết trên thánh giá để chuôc tội cho con người. Giêsu chỉ
hiến một mẫu gương nhún nhường, tự hạ mình như đã thường dạy. Giêsu quỳ xuống
trước những con người trở thành anh em, bạn bè chứ không còn là người phục vụ
và Giêsu trở thành người phục vụ đau khổ: mặc dầu ở địa vị Chúa,
Giêsu không hám tự cho ngang hàng với Chúa mà tự triệt hạ mình vào thân phận
người nô lệ, giống như con người... Lễ rửa chân là một cử chỉ đầy tượng trưng
rất khó hiếu, khó chấp nhận nên khó thi hành như Giêsu đã dạy. Tuy nhiên lễ nầy
long trọng đưa vào sách đặt trong khung tình thương, tăng cường ý nghĩa sự nghiệp
của Giêsu, đặc biệt vào nổi khổ hình.
Trước ngày chết, Giêsu sống một đêm kinh khủng trong vườn
cây ô liu (Au jardin des oliviers) Gecthsémani ở Jérusalem với ba tông đồ
thân thích nhất: Pierre, Jean và Jacques. Giêsu cảm thấy cô đơn, tưởng
như mọi người đều bỏ quên mình, có thể ngay cả đức Cha. Quỳ trên đất, hai tay
chắp lại với nhau, Giêsu nhìn một vị thiên thần đang đưa một binh rượu lễ calice tượng
trưng đau khổ mà Giêsu cảm thấy phải uống cho hết mà uống bình rượu nầy tức
là chấp nhận số phận. (Sau này Pháp có câu: boire le calice jusqu’à la lie, chịu
đắng cay cho đến cùng). Trong lúc Giêsu đau khổ trong lương tâm, ba tông đồ nằm
ngủ, nói lên sự đối lập giữa giấc ngủ yên lành và nỗi đau đớn triền miên. Trong
vườn cây ô liu, còn được gọi Hấp hối trong vườn (Agonie dans le
jardin) là một hoạt cảnh được biết nhiều trong các kinh thánh, bắt đầu cho nỗi
khổ hình của Giêsu. Ngày nay, cảnh tượng nầy là một đề tài hấp dẩn cho những
nhà triết lý, thi sĩ, nghệ sĩ đễ ngẫm nghĩ về thái độ của con người trước cái
chết cũng như về sự chấp nhận số phận. Còn những người theo đạo Cơ đốc, trong
suốt Tuần lễ thánh, đồng thời đau khổ với chúa Giêsu, có dịp suy nghĩ về sự cô
độc cùng sự hy sinh của đấng Christ.
Đấng Christ tái hiện trước Marie-Madeleine và các Bà Thánh
Bức tường nam là một loạt 9 bức hoạt cảnh thể hiện
những cuộc Tái hiện của đấng Christ: (Apparitons du Christ
ressuscité) hiếm có đầy đủ trong khoa tranh ảnh thời Trung cổ. Trái với tường bắc
các màn dính nhau, trong tường nam mỗi hoạt cảnh nằm trong một khung riêng biệt.
Các cuộc tái hiện này đuơc biểu dương trong những buổi lễ tuần Pâques, ngày chủ
nhật Pâques. Những hoạt cảnh rút từ bốn Phúc âm, thêm vào những màn trong các
Phúc âm không được công nhận (apocryphe), đặc biệt Phúc âm của Nicodème, một
thân hào Do Thái đã theo dõi và bênh vực Giêsu. Bức thứ nhất trình bày đấng Christ
tái hiện trước Marie-Madeleine, người phụ nữ đã tháp tùng Giêsu từ
Galilée, có mặt dưới thánh giá khi Giêsu bị đóng đinh và theo về đến hầm mộ.
Tay chống lên một cái mai, lần đầu tiên Giêsu được trình bày như vậy, làm cho
Marie-Madeleine lầm là một người làm vườn, mãi khi Giêsu gọi tên bà mới nhận
ra. Có phải Marie-Madeleine đã thật lầm không vì trong sử đấng Christ đã từng
trồng cây cực lạc? Marie-Madeleine chỉ là một trong những phụ nữ luôn có mặt cạnh
Giêsu những giờ phút cuối cùng. Trong hoạt cảnh đấng Christ tái hiện
trước các Bà Thánh (Saintes Femmes) chỉ thấy có trình bày ba bà, có thể là
Marie-Madeleine, Marie Salomé, Marie de Magdala, một bà đứng, hai bà quỳ, hai
tay chấp lại trước Giêsu cầm cờ có thánh giá tượng trưng cho chiến thắng và tập
hợp.
Đấng Christ tái hiện trước Pierre, Jean và các tông đồ Emmaüs
Hoạt cảnh tiếp theo trình bày đấng Christ tái hiện
trước Pierre và Jean. Hoạt cảnh thấy có hai phần, bê trái hai người, bên mặt
cũng có hai người, một người đứng sau lưng, một người quỳ trước mặt Giêsu. Theo
Phúc âm của Thánh Luc, khi Pierre và Jean đến mộ thì mộ trống rỗng. Như tuồng
sau đó, Giêsu chỉ hiện ra trước Pierre, người tối hôm qua, thứ Năm Thánh,
đã từ Giêsu ba lần trước khi gà gáy như Giêsu đã tiên đoán. Hoạt cảnh đấng
Christ tái hiện trước các tông đồ Emmaüs cũng gồm có hai phần: bên mặt
là khi Giêsu theo kịp hai tông đồ chạy trốn trên đường Emmaüs, bên trái Giêsu
ngồi với họ trong quán. Giêsu không mang dày, không mang cờ, giải thích cho hai
tông đồ biết mình là ai vì thấy họ còn nghi hoặc và thất vọng. Họ không nhìn thẳng
nhưng Giêsu biết họ đang tìm mình mà không biết. Ở trong quán, hai tông đồ nhận
ra Giêsu khi thấy bẻ bánh chia sẻ như trong màn Cena hôm thứ năm. Trong
buổi lễ, Lời nói trở thành thức ăn, chiếc bánh bẻ gảy hội tụ những người
chia sẻ. Trên bàn, con cá nhắc nhở Giêsu hy sinh để giải hòa con người. Cho đến
thế kỷ XIV, con cá thế bình rượu lễ calice vì trong tiếng Hy Lạp chữ
cái con cá có nghĩa là Giêsu con Chúa Cứu khổ. Thánh Augustin giải thích lối
chơi chữ này so sánh cơ thể đấng Christ hiến thân với con cá làm thức ăn.
Đấng Christ tái hiện ở Cénacle và trước Thánh Thomas
Đến lúc đấng Christ tái hiện ở Cénacle (nơi họp Cena) để
chỉ rõcho các tông đồ thấy rõ sự phục sinh của mình Phòng Cenacle là nơi
các tông đồ trốn, giữa hai lễ Thăng thiên (Ascension) và Hạ trần (Pentecôte),
thời gian chờ đợi và nhập định, cũng là nơi hội họp đầu tiên của Giáo hội đang
chớm nở. Không có gì hơn là cùng nhau ăn vì Giêsu đã có nói:
"Tôi là Bánh từ trên Trời xuống." Thật ra trong tay Giêsu không phải
Bánh mà là một cuốn Sách vì con ngưòi không chỉ sống với bánh mà còn với những
lời từ miệng Chúa. Các tông đồ ngồi ăn với đấng Christ chứng minh Giêsu không
phải là một bóng ma. Tối hôm đó thiếu mặt Thánh Thomas. Ông không chịu tin
Giêsu đã sống lại khi các tông đồ kể cho ông nghe đấng Christ tái hiện trước
Thánh Thomas. Trong hoạt cảnh nầy, nhà điêu khắc thể hiện sự kiện một cách
chính xác : Thánh Thomas sờ vào vết thương trên ngực do một mũi giáo của tên
lính La Mã đâm vào để biết chắc là cơ thể Giêsu. Cử chỉ nầy cũng còn có nghĩa
ân huệ tha lỗi là từ vết thương mà ra. Thánh Thomas kẻ hoài nghi đuợc tha lỗi
trên ngón tay qua mấy giọt và nước vết thương. Ngày nay tiếng Pháp có câu: Tôi
giống Thánh Thomas, có nghĩa là tôi chỉ tin cái gì tôi thấy.
Đấng Christ tái hiện ở Galilée và trên bờ hồ Tibériade
Giêsu còn có dịp tái hiện trên bờ hồ Tibériade trước
Thánh Pierre và nhiều tông đồ khác. Pierre và nhóm bạn bè của ông trở nên những
vị linh mục mang Tin Lành khắp thế gian nhưng nhiệm vụ rất nặng nề nên Giêsu
luôn ở cạnh họ : Ta sẽ ở với các ngươi cho đến cuối các thế kỷ (Matthieu).
Pierre làm nghề đánh cá, hôm thả lưới với các bạn ở hồ Thibériade, Giêsu hiện
lên và bổng nhiên lưới đầy cá, tượng trưng cho những tín đồ sau này. Trong bửa
ăn Pierre, đã từng từ Giêsu trong buổi Cena, bây giờ thú nhận luôn
yêu thưong Giêsu. Giêsu phó thác Giáo hội cho Pierre, nhắn nhủ Pierre
chăm sóc những con cừu nên sau nầy danh từ con chiên được dùng để chỉ những tín
dồ. Đây là lần thứ ba Giêsu tái hiện trước các tông đồ nhưng không phải lần
chót. Trong tường quanh điện thờ Giêsu còn hai lần nữa : đấng Christ tái
hiện ở Galilée và đấng Christ tái hiện ngày lễ Thăng thiên.
Giêsu gặp gỡ các tông đồ ở Galilée trong vườn ô liu để phái họ đi truyền giáo.
Như trong mấy hoạt cảnh trước, Giêsu cùng đứng với họ, tay cầm cuốn sách vi
chính Giêsu là Lời nói tức là Thánh kinh. Những tông đồ đều mặt mặt mày hớn hở
của kẻ sắp lên đường làm việc lớn. Hoạt cảnh sau rất quan trọng không những là
vì là lần tái hiện cuối cùng của Giêsu mà còn là bửa ăn các tông đồ thông cảm với
Giêsu khai trương các thánh lễ. Một số các tông đồ đã đứng sẵn trên đường nhiệm
vụ.
Đấng Christ tái hiện lần cuối cùng ngày lễ Thăng thiên
|
Cuôc sống của Giêsu chạm trổ quanh tường điện ở nhà thờ Đức
Bà Paris từ ngày mới được thực hiện cho đến ngày nay luôn được nổi tiếng và ham
chuộng. Sự tích ảnh hưởng sâu đậm vào nghệ thuật sân khấu nên ngay năm 1420, một
vở kịch được dựng lên trên một sân khán đài 100 bước ở đường Calende. Đến nay,
nhiều cuốn phim đã trình bày đời sống của Chúa cứu thế nhưng xem phim dù rất
linh động trên màn ảnh cũng không làm rung động như khi đứng trầm ngâm trước những
bức chạm trổ điêu luyện, màu sắc rực rỡ. Không khó hiểu khi thấy vào giờ nào
cũng có đông khách trước các tường điện ở nhà thờ Đức Bà Paris.
Thành Xô Lễ Giáng sinh 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét