Mở đầu
Ngút ngàn ở giữa rừng xanh
Hiện lên ngọn tháp một mình cô đơn
Người xưa đã chọn mặt tường
Để lưu giữ lấy tâm hồn thiêng liêng
Hiện lên ngọn tháp một mình cô đơn
Người xưa đã chọn mặt tường
Để lưu giữ lấy tâm hồn thiêng liêng
Văn Lê
Tổ tiên gia đình Võ tộc làng Nam Phổ
ngoài Bắc nối gót Nguyễn Hoàng vào Đàng Trong theo phong trào Nam tiến đầu thế
kỷ XVII. Cách đây hơn mười thế hệ, họ sớm tách rời ra thành Cánh nhỏ lập gia
phả riêng để dễ gần gũi, thân mật nhau hơn trong những ngày tảo mộ, hiệp kỵ.
Chỉ ghi chép sơ lược để nhớ ngày mất, ít người được ghi rõ tên họ vợ, ngày giờ
sinh và quê quán. Trong số các Cánh ấy có họ Võ Quang. Như trai trẻ thời ấy, họ
là hai anh em còn trẻ cùng nhau đi phiêu lưu, lúc đầu làm nhà nông - binh sĩ khai
phá đất hoang, tự lực bảo vệ cho đến lúc khai khẩn đủ đất đai để thiết lập thôn
xã và được gia nhập vào lãnh thổ chúa Nguyễn. Năm 1949 đến lượt tôi có dịp đi
du học ở Pháp. Trong gia đình tôi ở mỗi thế hệ thường có một người đi hoang,
tôi tưởng tôi là người thế hệ ấy. Không ngở chính biến bùng nổ, vào khỏang
1975, gia đình nào cũng có người ra đi, đua nhau chạy tán loạn...Không gia
đình, không vợ con, tôi thông cảm hai vị tổ tiên của tôi tìm ngưởi bạn đường
bản xứ, lập gia thất với phụ nữ địa phương, chắc chắn không cùng văn hóa, ngôn
ngữ, ở một môi trường phong tục, thủy thổ, tập quán, dù sao khác hơn thời buổi
bây giờ. Hồi ấy, miền Trung Việt Nam là nơi định cư của nhiều nhóm Đông Nam
Á, đặc biệt Môn Khơ Me, trong ấy có Chăm, Bru Van Kiêu, Cô Tu, Ê Đê... và
Ta Oi. Gần đây, về Huế tôi được đưa viếng những trại trồng cây ở A Lưới và gặp
được dân làng Van Kieu, Ta Oi, ít người Kinh. Nghe nói họ vừa mới bị buộc định
cư, nhà cửa sạch sẽ, con cái đông đúc... Tôi tưởng tượng trong cơ thể tôi cũng
như biết bao đồng bào miền Trung, có thể có máu Chăm, Vân Kiều hay máu Ta Oi, Ê
Đê... từ dạo ấy đã hoà lẫn mà không biết, có người cũng không muốn biết nữa.
Về làng, xem gia phả dòng họ, tôi nhận
thấy không có tên con gái các cụ bà trong số những cặp ông bà đẩu tiên: phải
chăng các cụ không phải là người Kinh? Như vậy thì như nhiểu đồng bào khác, máu
người dân tộc trong cơ thể người Việt có đã từ lâu, sau mấy trăm năm đã bị
loãng dần đến nỗi người dân không xác định đươc mình là ai. Hôm ở phòng thí
nghiệm tại Paris, tôi có dịp tiếp một cô sinh viên tuổi đôi mươi, người Pháp,
dong dỏng cao, tóc vàng, mắt xanh, xưng tên Huon. Tôi đánh bạo hỏi như một
người rành biết dân cư Pháp: Cô là người vùng Bretagne? Cô cau mặt nhìn thẳng
tôi, trả lời bằng tiếng Pháp trôi chảy như người Pháp, lẽ tất nhiên cô là công
dân Pháp đã mấy đời: Dạ không, thưa ông, tôi là nguời Việt Nam! Tôi ngã người,
sửng sốt, không dè mình đến tuổi nầy chưa phân biệt được người đồng hương, đồng
xứ. Hỏi thêm cặn kẻ thì tôi mới biết và giải thích cho cô hay ông cố của cô,
dân Breton tùng chinh qua Việt Nam trước thế chiến, có con với một bà tên
Hường, con gái một ông Chánh tổng, nhưng không cưới, có lẽ đã có vợ ở Pháp. Tuy
vậy tôi có biết chuyện thân phụ ông Harter, giáo sư toán của tôi ở trường Trung
học Khải Định, có bà mẹ cưới hỏi đàng hoàng, có tên ghi trong sổ bạ. Như nhiều
người thời ấy (và ngay cả bây giờ) vì chỗ đứng trước sau, lầm lần tên với họ và
khi làm giấy tờ, ông không muốn (hay không thể) để họ Pháp của mình và, trong
trường hợp này, khai Hường là họ của vợ. Sau này về Pháp, họ Hường dần dần mất
chữ g, dấu huyền, râu ư ơ vốn gốc Bồ, và còn lại Huon trần trụi. Sau bốn đời,
tóc đen, răng nhuộm, nhường chỗ cho tóc vàng mắt xanh, thường được xem là không
phải gen trội, thấy rõ trong một cô gái chỉ còn một phần tám máu dân tộc Kinh.
Cô không nói tiếng Việt nhưng tự hào là người Việt! Cô Dominique Rolland, nhà
dân tộc học, cháu ngoại ông Harter mấy đời, vẫn còn nhạy cảm với những vấn đề
người Việt, chú ý đến thời sự ở Việt Nam.
Giờ đây, các cháu tôi, bà và mẹ người
Pháp, đều có tóc vàng, mắt xanh, ít nhất khi mới sinh. Tôi có đứa cháu nội dáng
dấp hoàn toàn người Âu, lúc còn nhỏ ở trường tiểu học, trước mặt bạn bè trong
lớp ngạc nhiên, bảo một cậu bạn cùng lớp họ hoàng phái: gia đình mày có nợ với
gia đình tao, nhân nói đến chuyện cụ Hồ Oai bị Đoàn Trung chém đứt lỗ tai khi
đóng cửa thành nội để cứu sống vua Tự Đức! Ngay sau đó, vua Tự Đức ban cho
ông cố ngoại tôi một chiếc tai vàng để tạ ơn và trong sử triều Nguyễn có sự
tích Lỗ Tai Vàng. Tôi không biết người Chăm hay người Ta Oi có những đặc tính
gì nên tôi không biết tôi có gì giống họ. Dù sao, tôi có dáng đấp người Đông
Nam Á, thân thấp, tóc đen như bao bạn bè, thành thử khi qua Nam Dương tôi
không lấy làm lạ khi anh bạn hướng dẫn Bali gọi đùa tôi cậu bà con phương xa.
Một hôm, từ Katmandou, chúng tôi được đem xem mặt trời mọc ở chân Hy Mã Lạp
Sơn. Thấy ông sĩ quan biên giới Nepal chăm chăm nhìn tôi, tôi nhờ anh hướng dẫn
hỏi thì được giải thích: tôi giống người bản xứ Newa, những nghệ nhân chạm trổ
đồ gỗ trong vùng, mà suốt buổi sáng chẳng nghe tôi nói một tiếng Newa! Thật vậy
rất hiếm người Newa biết nói tiếng nước ngoài. Thành thử, khi về Việt Nam, đi
viếng các tháp Chăm, bọn cháu khó hiểu khi tôi giảng máu chúng có thể hòa tan,
tuy một phần nhỏ, máu Chăm của các nghệ sĩ đã xây dựng lên những kiệt
tác nầy và những bà răng nhuộm đen, hút thuốc lá là hậu duệ tổ tiên bên ngoại.
Định cư trên đất Pháp hơn một nửa thế kỷ, vào lúc gần đất xa trời, tôi cảm thấy
đất nước Việt xa xăm mà sao lại gần gũi trái tim mình thế! Và di tích đền đài
Cham Pa là di sản đang còn tồn tại trong lòng người miền Trung...
Ôi Cham Pa ngàn năm còn di hận.
Mảnh lụa đào phảng phất gái Cham Pa.
Rầm rập phương nam một dải sơn hà.
Nhớ những lúc phất cờ Chiêm bắc tiến
Vân Trang (Nỗi buồn Cham Pa)
Mảnh lụa đào phảng phất gái Cham Pa.
Rầm rập phương nam một dải sơn hà.
Nhớ những lúc phất cờ Chiêm bắc tiến
Vân Trang (Nỗi buồn Cham Pa)
Sau những buổi đi học lớp nghệ thuật
Cham Pa do hội AFAO tổ chức ở Viện bảo tàng Guimet, nhà tôi và tôi quyết định
đi xem tận nơi những ngôi tháp Chăm ở Việt Nam thường đuợc xem là có tiếng nhất
trong số những di tích độc đáo ở Đông Nam Á như Borobodur ở Nam Dương, Pagan ở
Miến Điện hay Angkor ở Cao Mên. Thế là trong hai năm liền (1998-99), mỗi lần về
nước là chúng tôi thuê xe đi từ Sài Gòn ra Đà Nẵng, ghé lại viếng thăm những
ngôi tháp nằm dọc bờ biển hay xích vào trong một chút trừ những di tích trên
Tây Nguyên hơi trái ngã đường. Những cuộc tìm biết nầy đã giúp chúng tôi sao
tầm được một số hình ảnh mơi mẻ, hiếm trong số các ngôi tháp. Thường xe chạy
đến chân mỗi tháp, trừ vài cái thì phải leo đồi như Pô Romé, Pô Klong Garai, vượt
đồng án như Bình Lâm, còn Pô Đam thì phải cuốc bộ dọc đường rầy, cẩn thận nhảy
xuống cạnh bên trong bụi rậm khi có tàu chạy ngang và nghe trước nhìn sau tránh
qua cầu vào lúc tàu gần đến. Sau mấy tiếng đồng hồ lặn lội dưới ánh nắng gắt
gao tháng tám, nuớc dừa mấy trái được dân làng hái xuống cho uống thật là ngon
ngọt, mát dịu, xóa bỏ mọi nhọc nhằn...
Tháp Chăm nằm rải rác khắp miền Trung, từ
Đèo Ngang vào đến Đèo Cả, được lần lượt xây dựng từ thế kỷ VII trong luôn mười
thế kỷ. Chỗ chọn xây thay đổi từ nơi: trên đồi như Pô Klaung Garai, Thốc Lốc,
Pô đam, Pô Romé; trên đồi gần cửa biển như Pô Nagar,
Phú Hải; trên đồi ven sông như Bánh Ít - Tháp Bạc, Tháp Nhạn; ngay giữa đồng
bằng gần sông như Bằng An, Thủ Thiện, Khương Mỹ, Bình Lâm; hay trong thung lũng
dưới một chân núi - thường đuợc gọi "Núi thiêng" -, dưới chân một
ngọn núi quanh một con suối như tổng thể Mỹ Sơn... Những nhà khảo cứu tin
trước kia những đền tháp đều được dựng bằng gỗ, đến thế kỷ VII mới xây bằng
gạch nhưng chỉ các điện thờ còn nhà trú thì vẫn còn bằng gỗ. Vật liêu này không
chịu đựng được sức tàn phá của thời tiết, chiến tranh nên nay không còn tồn
tại. Độc đáo của nghệ thuật Chăm là chế tạo một thứ gạch nung nhẹ lửa (khoảng
850°), không cứng để có thể chạm trổ hoa văn nhưng lại vô cùng bền chắt. Họ ít
dùng sa thạch là vật liệu khan hiếm chỉ để trang trí ở các lanh tô, tym pan,
khung cửa, trụ cửa, chóp tháp, đỉnh tháp,... Để kết dính các viên gạch, họ
không dùng thạch cao, xi măng mà có sáng kiến dùng một loại hồ nhựa cây, có thể
là dầu nước Dipterocarpus alatus Roxb. còn gọi dầu rái là một
cây mọc nhiều ở miền Trung, rẻ tiền, thường dùng để trát ghe thuyền chống nước,
trộn với gạch vụn hay đất sét, khi khô trùng hợp trở nên rất cứng. Nhiều thế kỷ
sau, không còn dấu vết nhựa cây, chất kết dính nầy là một vấn đề nan giải cho
các nhà khảo cổ, một bài toán bận đầu cho các nhà khảo cứu. Khi tường dựng
xong, hoa văn đã chạm trổ, dầu trong suốt còn được phết lên một lớp trên gạch
bên ngoài. Phối hợp gạch nung nhựa cây nầy đã bảo vệ được vách tường mọi sức ăn
mòn, tác động của mưa nắng gió sương nhiều trăm năm sau.
Ở những thánh đô, kinh đô, đền tháp thường
được xây dựng để thờ phụng tổ tiên, Phật-vua, chư thần hay vương quyền. Những
đền tháp Chăm không to lớn như những di tích khác ở Đông Nam Á nhưng nhờ
không đồ sộ, chúng có một tính chất duyên dáng như một vật trang sức hơn là một
thành trì kiên cố. Kiến trúc chịu ảnh hưởng nghệ thuật Ấn Độ, quần thể gồm có
phần chính là một ngôi đền kalan tượng trưng cho ngọn núi
Meru, trung tâm vũ trụ, bao quanh là những đền thờ nhỏ, các thiên thể, những bờ
tường thấp, các đại dương. Thường các kalan, nơi trú ngụ của thần
linh, hướng về phía đông, phía mặt trời mọc, có khi về phía tây như ở Mỹ Sơn,
vì địa thế riêng biệt, hay phía nam như ở Po Dam trên sườn núi. Bên trong kalan chứa
đựng trên chánh điện gharbarha hoặc bộ linh vật yoni-linga,
hoặc tượng hình một vị thần Ấn Độ, Phật giáo hay một ông vua Cham Pa. Dưới
chánh điện có một hầm vuông để rút nước thánh tẩy hay một lỗ soma-sutra thoát
nước thánh ra ngoài. Quanh chánh điện một lối hẹp để tín đồ đi vòng theo chiều
kim đồng hồ khi hành lễ pradakshina-patha. Ở chánh điện
nhiều kalan như ở Po Klaung Garai, Po Rômé, Po Nagar, còn tồn
tại một cánh cửa bằng gỗ quý che kín bên trong luôn bao trùm một lớp bóng tối,
thành tường lởm chởm như một hang động. Chánh điện thông với bên ngoài qua một
tiền điện hẹp, dài, u tối, có thần Nandin canh giữ như ở các kalan Pô
Klong Garai, Pô Rômê. Trước cửa tiền điện, hai trụ bằng sa thạch hình tứ giác,
bát giác hay tròn chạm trổ hoa văn, có khi ghi khắc văn bia như ở Po Nagar, Pô
Klaung Garai. Trên hai trụ có lanh tô cũng chạm trổ hoa văn, ngay dưới một tym
pan thể hiện hình tượng vị thần được thờ, thường là Siva múa điệu vũ trụ tandawa.
Những phần này lúc trước được sơn đỏ nay chỉ còn thấy chút ít ở Mỹ Sơn. Trước
bậc cấp bằng đá vào cửa, một phiến đá mỏng có chạm trổ những cánh sen.
Kalan hình vuông, có mái
tháp hình chóp ba tầng, đỉnh nhọn bằng sa thạch, được chia làm ba phần tượng
trưng cho thiên giới (đế tháp), thế giới tâm linh (thân tháp), thế giới thần
linh (mái tháp). Đế tháp chạm trổ hình tượng hoa lá, động vật như voi, sư
tử, kala-makara, vũ nữ, nhạc công, những hoạt cảnh thiên
giới. Thân tháp có bốn cột trụ tường pilastre đứng hai bên một
cái cửa giả lớn trang trí tinh vi, mang ở giữa hình tượng vị thần hộ trì lokapala ngôi
tháp, hai tay chắp ngực, cầm đóa hoa sen. Trên các cửa giả nhỏ có ba tấm tym
pan thường thể hiện hình tượng Laksmi, vợ thần Visnu. Các cột trụ tường vượt
quá đế tháp xuống đến chân tháp cũng như coc nich tiếp giáp mái tháp đều chạm
trổ hoa lá. Ở góc coc nich thể hiện hình tượng thiên nữ apsara,
thủy quái makara hoăc ngọn lửa thiêng liêng. Mái tháp ba tầng,
càng lên cao càng thu hẹp như một ngọn núi, trang trí ngẫu tượng và vật cưỡi
của các vị thần Ấn Độ: chim thần Garuda, ngỗng thần Hamsa, bò thần Nandin, voi,
sư tử,... Tầng thứ ba là chóp tháp amalaka, gồm có một phiến đá hình
tứ giác, bát giác hay tròn chạm trổ mặt nạ thần Thời gian Kala, rắn thần Naga,
bò thần Nandin hoặc tám vị thần hộ trì tám phương Astadikpalakas. Trên cao chóp
tháp là đỉnh tháp, phần dưới trang trí những cánh sen, phần trên là khối đá
nhọn bốn cạnh, tượng trưng núi thiêng Kailasa, nơi ngự trị thần Siva.
Mỗi đền tháp gồm có lúc đầu một kalan ở
trung tâm, đối diện với một tháp cổng gopura có hai cửa hướng
đông-tây. Trước tháp cổng là một nhà dài mái ngói mandapa có
nhiều cửa sổ, hai cửa chính hướng đông-tây, nơi chuẩn bị lễ vật, múa hát cũng
là nơi cầu nguyện, tĩnh tâm trước làm lễ thánh tẩy trong kalan. Bên
mặt tháp nầy là kho lễ vật kosagrha bằng gạch, mái cong hình
thuyền, cửa chính luôn hướng bắc, tượng trưng kho báu và sự trù phú cho vương
quốc. Kho lễ vật, người địa phương gọi "Tháp lửa", còn là nơi nấu
nướng thức ăn dâng cúng chư thần. Ngoại trừ những nhóm riêng biệt Po Klaung
Garai, Po Rômé, Tháp Bạc, Cánh Tiên hay những quần thể lớn Po Nagar, Mỹ Sơn, có
những nhóm gồm có ba kalan xây sát nhau như Hòa Lai, Khương
Mỹ, Chiên Đàn, Dương Long, hay hai kalan như Hưng Thạnh. Hai,
ba tháp những nhóm nầy thường được xây dựng trên những gò đất thấp, không đồng
thời, trừ hai nhóm Hưng Thạnh (cuối thế kỷ XII) và Dương Long (giữa hai thế kỷ
XII và XIII), nhưng kéo dài nhiều thập kỷ: nhóm Hòa Lai giữa hai thế kỷ VIII
và IX, nhóm Khương Mỹ trong thế kỷ X, nhóm Chiên Đàn giũa hai thế kỷ XI và XII.
Lúc đầu, những ngôi đền nhỏ, phụ, được xây cạnh kalan lớn, dần
dần mới trở thành nhóm hai hay ba kalan. Chương trình cách thức xây
dụng nầy do ảnh hưởng nghệ thuật Khmer giải thích vì sao ba ngôi tháp thường
không có kích thước giống nhau, đằng khác ngôi giữa không nhất thiết phải lớn
hơn hai ngôi kế cạnh.
Nhóm Pô Klong Garai
Trái: tòa nam, mặt cắt dọc và mặt hướng bắc.
Sau đây xin trình bày những bài đã đăng
trong Chim Việt Cành Nam sắp thành 4 phần về những nhóm tháp chúng tôi đã thăm
viếng theo thứ tự niên đại, phỏng theo cách xếp đặt của Philippe Stern, thiếu
những đền đài thuộc các phong cách Mỹ Sơn A, E, Đồng Dương, Trà Kiệu, Chánh Lộ,
Tháp Mắm, Yang Mum.
A: Từ phong cách Hòa
Lai qua phong cách Mỹ Sơn A1
- Phú Hài, Po Dam, Hòa Lai: phong cách Hòa
Lai (thế kỷ VIII-IX)
- Khương Mỹ: phong cách Mỹ Sơn A (đầu thế
kỷ X)
B: Từ phong
cách Mỹ Sơn A1 qua phong cách chuyển tiếp Mỹ Sơn - Bình Định
- Bằng An, Po Nagar, Chiên Đàn, Bánh Ít,
Bình Lâm, Thủ Thiện: phong cách chuyển tiếp Mỹ Sơn - Bình Định (thế kỷ XI-XII)
C: Từ phong cách
chuyển tiếp Bình Định - Mỹ Sơn qua phong cách muộn
- Tháp Nhạn, Hưng Thạnh, Cánh Tiên, Dương
Long, Phú Lốc: phong cách Bình Định (thế kỷ XII-XIV)
D: Những
phong cách Mỹ Sơn và Bình Định
- Po Klong Garai, Po Romé: phong cách muộn
(thế kỷ XIV-XVI)
- Thánh địa Mỹ Sơn
VIẾNG THÁP CHĂM TRONG TẦM TAY
A-Từ phong cách Hòa Lai qua phong cách Mỹ Sơn A1
- Phú Hài, Po Dam, Hòa Lai: phong
cách Hòa Lai (thế kỷ VIII-IX)
- Khương Mỹ: phong cách Mỹ Sơn A (đầu thế kỷ X)
- Khương Mỹ: phong cách Mỹ Sơn A (đầu thế kỷ X)
I- Tháp Phú Hài
Phú Hài phát xuất từ danh từ
Chăm Pajai. Còn mang tên tháp Pô Sah Inư, hay gọi tắt Sanư, khu
tháp nằm trên đồi Bà Nài, cách thị trấn Phan Thiết 7km, phía đông bắc. Gồm có
hai kalan và một điện thờ nhỏ, nhóm tháp nhỏ tương đối còn
nguyên vẹn nầy bắt đầu được xây dựng khoảng cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX,
trong mục đích thờ cúng vị thần Siva, có phong cách kiến trúc Hòa Lai thuộc
nghệ thuật cổ truyền Cham Pa. Qua thế kỷ XV, một số nhà thờ nhỏ được xây dựng
tiếp để thờ phụng công chúa Pô Sah Nư, con một nhà vua có tài đức được yêu quý
là vua Para Chanh. Kalan lớn chính gọi là đền Thiên Mẫu, thờ
công tử Po Sah Anaih, bên trong có một linga tượng trưng Sah
Anaih, nằm phía nam, hướng về đông, có hình vuông, khá cao nhưng chân cửa và
cửa giả thì tròn, bị hư, sửa lại bằng xi măng. Chỉ còn hai tầng trên có một cửa
giả ở mỗi tầng, những cột trụ đều tròn. Kalan phía nam nhỏ
hơn, trang trí tựa tháp kia. Điện thờ phía đông bắc, được nói là để thờ nữ
hoàng Pô Bia Tikul, hướng về đông, mất hết trang trí, của hình vòm dính liền
với mái. Toàn thể khu tháp thoát ra một ảnh hưởng khá đậm nghệ thuật khmer, có
thể xem như một công trình trung gian giữa hai phong cách khmer và chăm. Ngày
nay, khu tháp được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Hằng
năm, người Chăm tổ chức ở đây những lễ hội Rija Nưga, Pô Mbang Yang cầu mưa,
cầu an…
II- Tháp Pô Đam
Pô Đam hay Pô Tằm, còn gọi Pô Khathit (Bàn
La Trà Duyệt), là nhóm tháp trên sườn núi Ông Xiêm, cạnh sông Lòng Sông, ở
huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận (Ninh Thuận). So sánh phong cách nghệ thuật,
niên đại của tháp được xác định vào cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX, thuộc phong
cách Hòa Lai. Tục truyền khu tháp được xây dựng để thờ vua Pô Đam mặc
dầu vua Pô Đam trị vì giữa 1433 và 1460. Gồm có sáu tháp nhỏ (tháp chính, tháp
tây bắc, đông bắc, nam, tây nam, đông nam), khu tháp nằm trên một trục hướng về
nam là phía các đồng ruộng phì nhiêu chứ không phải hướng về đông như thường
thấy. Kalan tháp chính hướng về nam được trang trí theo phong
cách Hòa Lai. Tường được những cột trụ trang hoàng phong phú cũng cố nhưng giữa
những cột trụ thì trơn tru. Tiền sảnh nhỏ và hẹp. Tháp tây nam cũng hướng về
nam, trang trí sơ sài với các đường vành. Không có cửa giả. Tiền sảnh còn
nguyên vẹn cũng ít có trang trí. Tháp đông bắc đổ nát gần hết. Tháp nam độc
nhất hướng về đông. Hai tháp phía bắc cũng khá điêu tàn, chứ mỗi bên trong
một linga. Không có đường tốt, muốn lại Pô Đam phải đi bộ từ ga
Sông Lòng Sông dọc đuờng rầy 2km, vượt qua cầu sắt, khu tháp nằm trên sườn núi
bên mặt.
Khu Hòa Lai xây dựng thế kỷ IX, theo phong
cách Hòa Lai, nghĩa là một trong những di tích Cham Pa cổ nhất ở phiá bắc thành
phố Phan Rang. Khu di tích (125x200m) hướng đông-tây, ngoài ba ngôi tháp chiều
cao khác nhau, còn có vết tích nhiều kiến trúc phụ, tường gạch, tháp cổng,
nhiều công trình nhỏ. Tháp trung tâm tương đối nhỏ nhất nhưng được xây dựng cẩn
thận nhất và còn giữ lại nhiều trang trí, tuy các tầng bị sụp đổ nhiều, chỉ còn
lại phần nền. Tháp phía bắc cao hơn tháp trung tâm và phần nền cũng còn giữ
nhiều trang trí. Tháp phía nam cao nhất và còn nguyên vẹn nhất, có phần khác
hai tháp kia về mặt bố cục: cửa giả rộng, không có hình người, trụ ốp gần
nhau, mặt giữa các trụ ốp hẹp, phần lớn các trang trí chưa xong. Cả ba ngôi
tháp được xem là thành công nhất trong kiến trúc Champa với một hệ thống các
tầng dựng lên trên một bệ vuông. Trên cửa ra vào, những hoa văn phủ kín những
vành cửa tò vò, luồng ra từ miệng các quái vật Kala. Những hình chạm khắc hoa
lá chiếm khoảng tường giữa hai trụ ốp. Một hoa văn chạy dài trên bộ diềm mái
cạnh hình các thần điểu Garuda xòe cánh. Trang trí tuy chỉ giới hạn ở vòm cửa,
giữa các trụ ốp, trên các diềm mái đã làm bật nỗi những nét tinh vi của hoa
văn.
IV- Tháp Khương Mỹ
IV- Tháp Khương Mỹ
Khu tháp Khương Mỹ ở xã Tam Xuân,
huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam, gồm có ba tháp kề nhau xếp theo trục Bắc Nam.
Được xây dựng đầu thế kỷ X, cả ba tháp có kiến trúc giống nhau, mặt bằng vuông,
mái ba tầng, càng lên cao càng nhỏ lại, chóp tháp bằng sa thạch. Tháp Nam được
xây trước nhất, cao nhất và cũng được bảo tồn tốt nhất. Hoa văn trên các trụ ốp
tường là các dải hoa văn thảo mộc xen kẻ với những hình thoi. Tháp Giữa xây
sau, thấp hơn, có một cửa ra vào và năm cửa giả. Năm trụ ốp tường cũng có hoa
văn thảo mộc cách điệu, trên đỉnh uốn thành hình lá đề hay hoa sen. Tháp Bắc
xây sau cùng, thấp nhất, cũng có một cửa ra vào và năm cửa giả, năm trụ ốp
tường. Hoa văn là những hình thoi xen kẻ với thảo mộc xếp thành nhiều tầng với
một tổ hợp cành lá uốn thành dạng lá đề. Phần lớn các hiện vật Khương Mỹ được
trưng bày ở Bảo tàng Điêu khác Cham Pa Đà Nẵng. Bộ ria rậm người điều khiển xe
ngựa cũng như gương mặt dữ tợn Dvarapala chỉ định phong cách Đồng Dương. Những
hiện vật khám phá trong đợt khai quật 2007-2008 như các tượng người, tượng
động vật, khỉ, ngựa, voi, rắn cùng các loại trang trí góc tháp, chóp
tháp,... cho thấy một đền thờ Visnu. Các tác phẩm điêu khắc thể hiện từ những
nét mạnh mẽ, dữ dội phong cách Đồng Dương qua những nét nhẹ nhàng, trang nhã
phong cách Trà Kiệu xếp tháp này trong phong cách Mỹ Sơn A1, đầu thế kỷ X.
B- Từ phong cách Mỹ
Sơn A1 qua phong cách chuyển tiếp Mỹ Sơn - Bình Định
- Bằng An, Pô Nagar, Chiêng Đàn,
Bánh Ít, Bình Lâm,: phong cách chuyển tiếp Mỹ Sơn - Bình Định (thế kỷ XI-XII)
V- Tháp Bằng An
Được xây dựng vào khoảng hai thế kỷ
IX và XII, Bằng An là một trong những tháp Chăm cổ còn lại ở tỉnh Quảng Nam.
Tọa lạc gần Quốc lộ 1A, thuộc huyện Điện Bàn, khu Bằng An gồm có một tháp độc
nhất hình linga thẳng đứng trong số ba tháp song song trước
kia. Trước tháp có hai tượng sư tử và voi. Hình bát giác, mỗi cạnh 4m, tháp có
chiều cao 21,5m kể cả thân tháp và mái hinh chóp. Riêng thân tháp 12,7m bọc
kín, không có các cột ốp tường, không có cửa giả và rất ít hoa văn. Cấu trúc
gồm có tiền sảnh hình vuông giữ vai trò cổng tháp và điện thờ hình dáng linga cùng
với toàn bộ tháp thể hiện bộ ngẫu tượng sinh thực khí Linga-Yoni. Người ta đã
tìm thấy trong tháp một tấm bia có niên đại cuối thế kỷ 9 đầu thế kỷ 10 mang
nội dung tôn kính sức mạnh vĩ đại của Thần Siva, có dạng hậu thần. Trước kia
H.Parmentier, gần đây Ngô Văn Doanh cho niên đại của bia là niên đại của tháp.
Nhưng P.Stern thì xếp Bằng An vào phong cách chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn
A1 và phong cách Bình Định (đầu thế kỷ 11- giữa thế kỷ XII), Theo Trần Kỳ
Phương thì Bằng An thuộc phong cách Bình Định (giữa thế kỷ XII). Dù sao, các
thủ pháp kiến trúc sử dụng ở thân tháp (hình bát giác gần với tiết diện trụ tròn
chịu lực tốt nhất) vừa tăng vẻ đẹp vừa giúp cho ngôi tháp có khả năng chịu lực
cao hơn.
VI- Tháp Pô Nagar
Quần thể Tháp Bà hay Pô Nagar, thế kỷ VIII
bằng gỗ, được xây lại bằng gạch, ở phia bắc sông Cái, thuộc phường Vĩnh Phước,
thành phố Nha Trang, trên một quả đồi đá kim cương. Quần thể xưa gồm có, ngoài
các công trình phù trợ, sáu ngôi tháp thờ, nay chỉ còn bốn và hai hàng cột lớn
ở dưới chân đồi, phân bối thành ba tầng kiến trúc. Trên cùng là hai dãy tháp
gồm có ngôi tháp chính đỉnh nhọn cao 23m thờ bà Pô Nagar, ngôi tháp dài hình
cong như yên ngựa thờ hai người con Bà. Tầng hai là hai dãy 10 cột đường kính hơn
1m, hai hành cột nhỏ thấp hơn, bằng gạch hình bát giác, trên một nền gạch hình
chữ nhật cao hơn 1m. Một dãy cầu thang dẫn đến tầng dưới cùng, có một tháp cổng
nay đã mất. Tháp chính thờ nữ vương Pô Nagar (hay Yan Pu Nagara, Pô Ino Nagar
hay Bà Đen tức Thiên Y Thánh Mẫu Ana), vị nữ thần của Ấn Độ giáo. Tượng nữ thần
cao 2,6m tạc bằng đá hoa cương màu đen (đầu bị mất, lắp vào một cái đầu Việt),
ngồi trên đài sen, tựa phiến đá hình lá bồ đề. Nguyên là tượng thờ nữ vương
Jagadharma tức công chúa Tchou Koti, được Prithi Indravarman cho tạc lại để thờ
nữ thần Bhagavati, không có quần áo. Trang phục hiện nay là của người
Việt Các tháp nhỏ thờ những thần Siva, Sankhara, Ganesa. Năm 774, đền Pô
Nagar bị quân Java phá hủy, Satvavarman cho dựng lại bằng gạch, mười năm sau
hoàn thành. Sau nầy, đền còn bị hủy hoại nữa, được quốc vương Harivarman I và
con trai Vikrantavarman III sửa sang và xây dựng thêm tháp. Theo một tấm bia,
những tháp nhỏ có thể có niên đại thế kỷ X, tháp chính muộn hơn, thế kỷ XI.
Chiên Đàn là một nhóm tháp được xây dưới
thời Yan Pu Ku Vijava ở làng Chiên Đàn, xã Tam An, thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng
Nam. Trong số ba tháp sát cạnh nhau song song theo trục nam-bắc, lớn nhỏ theo
thứ tự Nam, Giữa, Bắc, chỉ ngôi Giữa còn tương đối toàn vẹn thân và tầng trên.
Cả ba tháp có đế vuông, dong dỏng cao, có tầng mái cân đối, giống nhau về hình
dáng, cấu trúc, trang trí: các cộp ốp nhô ra, các vòm cửa giả co lại và vuốt
nhọn lên như các mũi giáo. Mỗi tháp có 3 cửa giả và một cửa ra vào, phía trên
các cửa có vòm uốn cong và nhọn lên trên thành hình lá đề. Cuộc đánh giá niên
đại ngôi tháp rất phức tạp. Trong cuộc khai quật năm 1989, bên cạnh tympan sa
thạch thể hiện đề tài Mahisasuramardini (Nữ thần giết quỷ đầu trâu), những
tượng động vật voi, sư tử, nai, rắn Naga, ngỗng Hamsa, chim Garuda,… cho thấy
các tác phẩm điêu khắc không thuần túy thuộc phong cách Chánh Lộ như đã tin từ
trước vì lẽ tháp được xây dựng trong một thời gian dài, từ cuối thế kỷ XI đến
đầu thế kỷ XII. Năm 2000 lại được phát hiện bức chạm nổi liên tưởng đến Đản
sinh Brahma, một nữ thần trên một tympan sa thạch có điệu bộ tựa Lakmi, tượng
một nam thần mặt mày và vật cầm tay giống Visnu, một tượng nam thần hơi có
phong cách Trà Kiệu,… Nói chung, phần lớn các tác phẩm điêu khắc thể xếp vào
phong cách Chánh Lộ, tuy vậy vẫn có những tác phẩm mang tính tiếp nối phong
cách Trà Kiệu, và có những bức chạm thể hiện sự chuyển tiếp từ phong cách Chánh
Lộ sang Tháp Mẫm. Một phái khác lại xếp Chiên Đàn vào nhóm tháp thuộc phong
cách chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn và phong cách Bình Định!.
VIII-Tháp Bánh Ít
Còn gọi Tháp Bạc, cụm tháp Bánh Ít
tọa lạc trên ngọn đồi thuộc thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước,
tỉnh Bình Định. Soi bóng sông Tân An, một nhánh của sông Côn, ba tháp còn lại
trong số bốn ngôi được xây vào thế kỷ X, cạnh quốc lộ số 1, nhìn từ xa trông
như nhưng chiếc bánh ít miền Bình Định. Ngôi tháp chính cao nhất, 22m, nổi trội
trên đỉnh đồi, đồ sộ, chỉnh chạc với những cột ốp, những đường gồ dọc các mặt
tường, thanh tú, lịch sự với những cảnh vũ nữ trên các vòm, các mái. Trên đỉnh
tháp nầy có hình tượng thần Siva bằng đá như trên đỉnh hai tháp nhỏ kia. Từ
chân đồi muốn đạt đến tháp chính phải đi ngang qua tháp cổng phía đông bằng
gạch đá ong, mở ra hai cửa thông nhau theo hướng đông-tây, hai cửa giả chiếm
hai mặt kia, bao quanh là những cột ốp cao vút, nhẹ nhàng. Phía nam là tháp mái
cong hình yên ngựa, rất linh động với hình hoa lá, chim chóc, thú vật, đặc biệt
những hình người ở chân tháp uỡn ngực, khuỳnh chân như ra sức nâng cao tòa
tháp. Hai tháp nầy có thể xem như là di tích một vòng đai bao quanh khu tháp,
hiện chỉ còn những đống gạch vô hình. Nhờ được xây trên đồi cao, khu tháp được
thấy từ xa, uy nghi, hoành tráng hơn các tháp khác. Cụm tháp được kê vào phong
cách chuyển tiếp phong cách Mỹ Sơn qua phong cách Bình Định.
IX- Tháp Bình Lâm
Không tọa lạc trên đồi cao như những tháp
Chăm khác, tháp Bình Lâm nằm ngay ở đồng bằng, giữa vườn tược như một ngôi chùa
trong làng, tại thôn Bình Lâm, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Như vậy, khách đến xem không cần phải trèo núi, nhưng trái lại vì tháp không
nằm gần đường cái nên khách phải vượt đồng ruộng, xuyên làng xóm... Ngôi tháp độc
nhất bình đồ vuông, cao đẹp khoảng 20m, gồm có ba tầng bằng gạch, mỗi tầng điều
đặn thu nhỏ hơn tầng dưới. Tuy rất điêu tàn, tháp còn giữ dáng cân đối và có vẻ
mảnh dẻ. Tháp chỉ có một của chính phía đông, ba phía kia là ba cửa giả nhô ra
ngoài mặt tường. Mỗi cửa giả gồm có ba thân nhỏ dần từ trong ra ngoài, mọc lên
từ một mặt bằng vuông. Mỗi thân lại có hai phần, cột ốp bên dưới, hòm hình mũi
giáo phía trên, trang điểm với những hình sư tử và hoa lá. Hoa văn không còn
thấy trên mặt tường bên ngoài, trên các cột ốp, trên đài bao quanh khung trang
trí giữa các cột ốp. Cảnh tượng xơ xác ngày nay là do tháp bị quên bỏ từ lâu.
Tháp được xây làm kinh đô tạm thời cuối thế kỷ XI đầu thế kỷ XII, vào lúc các
vua Chăm rời bỏ Quảng Nam vào Bình Định, thành Đồ Bàn được xây dựng, Bình Lâm
hết còn là trung tâm hành chính. Như nhiều tháp khác trong vùng, tháp Bình Lâm
được xếp vào phong cảnh chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn A1 và phong cách
Bình Định.
- Tháp Nhạn, Hưng Thạnh, Cánh Tiên,
Dương Long, Phú Lốc: phong cách Bình Định (thế kỷ XII-XIV)
XI- Tháp Nhạn
Xây dựng vào khoảng thế kỷ XI trên
núi Nhạn, một thắng cảnh của thị trấn Tuy Hòa, tỉnh lỵ Phú Yên, soi bóng sông
Đà Rằng, tháp Nhạn là một kalan hướng phía đông, hình dáng cao
mảnh trông rất thanh nhã. Bốn tầng phong cách giống nhau chồng chất, mỗi tầng
trên nhỏ hơn tầng dưới, mỗi tầng có một tháp con ở góc nhưng phần lớn đều rơi
mất. Tiền sảnh không còn, trang trí hầu hết bị xói mòn trên các cửa giả mang
bên trên một cái vòm dựa lên hai cột nhỏ. Nồng cốt của các bức tường là những
cột trụ xen lẫn với các phần nổi trơn tru. Chóp tháp nguyên là một phiến đá
hình tháp, dưới vuông có chạm cánh sen, trên nhỏ dần thành hình nón, cao 1m30,
cạnh rộng 0m90, nay rơi xuống đất, một phần bị chôn khó thấy nên người ta có
thể tưởng là một linga hay một cái bia. Trong tháp không biết
lúc trước thờ ai, ngày nay có một bàn thờ đặt trên một yoni với một hình tượng
được Việt hóa. Tuy nhiên các miếu xung quanh tháp và miếu lớn trước tháp thờ
Thiên Y A Na Diên Ngọc Phi được truyền tụng là vị thần đã phù hộ dân cư làm ăn
sinh sống, ghe thuyền ngư dân vượt qua sóng to gió lớn mà các tân sắc các vị
vua triều Nguyễn có ghi rõ công lao. Ngay trong thời kỳ chiến tranh, tháp đã
được trùng tu, sửa chữa những chỗ nứt lở, đúc móng xi măng để cũng cố cho khỏi
bị lún xuống,… Ngày nay, tháp rất sạch sẽ cả trong lẫn ngoài, chứng tỏ dân cư
luôn chăm lo chuyện thờ phụng.
XI- Tháp Thủ Thiện
Thủ Thiện là một ngôi tháp độc nhất ở làng
Thủ Thiện, xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, sách Đại Nam nhất thống
chí gọi Thủ Hương cổ tháp (Thủ Hương là tên cũ Thủ Thiện), người Pháp có
tên Tour de Bronze (Tháp Thau). Xa quốc lộ, không nằm trên đồi cao, mà là giữa
ruộng nương, vườn tược, xa sông Kôn khoảng 1km, nên tháp được thấy từ xa. Kiến
trúc bình đồ hình vuông mỗi cạnh 8m5, thân cao, hơi thóp ở giữa. Các cột ốp
trơn, phẳng, không có hoa văn trang trí, ô dọc trên tường giữa các cột không
có chạm khắc nhô ra thành gờ. Cửa tháp mở về phía đông, vòm cửa bị sập nhiều,
nhưng ba cửa giả ở các hướng tây, nam, bắc còn tương đối nguyên vẹn với những
mũi lao cao vút xếp thành nhiều lớp. Trên của có ô khám thờ nhưng không còn
hình tượng hoặc phù điêu. Giữa thân và mái, bộ diềm nhô khá hư hại nhô ra bốn
phía nâng đỡ ba tầng nóc đồng dạng, nhỏ dần lên trên, có các tháp nhỏ nhiều
tầng trang trí bốn góc. Bên trong tháp có nhiều bết gắn phù điêu, nơi đặt tượng
thờ. Tháp Thủ Thiện khác những ngôi tháp xây dựng cùng thời cuối thế kỷ XI đầu
thế kỷ XII ở điểm giản lược trang trí. Nó được kê vào phong cách chuyển tiếp Mỹ
Sơn A1 và phong cách Binh Định tuy đậm nét phong cách Bình Định.
XII-Tháp Hưng Thạnh
Hưng Thạnh là một khu tháp ở phường Đống
Đa thành phố Qui Nhơn tỉnh Bình Định. Khu có hai tháp (thay vi ba) nên còn được
gọi là Tháp Đôi. Tuy bị hư hại nhiều, nhưng được trùng tu năm 1990, cả hai tháp
trông rất sạch sẽ, trang trí, cấu trúc giống nhau, thân khối vuông, mái hình
tháp mặt cong, mất chóp, quay mặt về hướng đông. Tháp phía bắc cao hơn tháp
phía nam, ngày nay còn có bốn thanh đá đánh dấu một khung cửa hình chữ nhật.
Toàn bộ chân tháp được đặt lên những tảng đá khổng lồ tượng trưng một đài sen.
Trang trí những cánh sen là hình tượng vũ nữ, voi, sư tử. Còn trên bộ diềm mái
bằng đá bên trên thì có hình tượng khỉ nhảy múa, những con vật đầu voi, mình sư
tử, những ngưòi ngồi sáu và tám tay, đặc biệt những thần điểu Garuda ở bốn góc.
Với hai tay dương cao, hình tượng các thần điểu nầy chịu ành hưởng phong cách
Khơ Me thời Angkor Vat. Tuy nhiên, thân tháp giữ kiến trúc Cham Pa với các của
giả, cột ốp, mặt nổi giữa các cột ốp, vòm trên cửa giả hướng lên cao thành mũi
lao. Tháp phía bắc nhỏ hơn tháp kia, bị hư hại nhiều hơn nhưng những vết tích
còn lại cho thấy củng kiến trúc, trang trí. Hưng Thạnh được xây dựng thời phong
cách Bình Định, cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII, vào lúc giao lưu giữa Cham Pa
và vương quốc Khơ Me lên cao.
XIV- Tháp Dương
Long
Cụm di tích Dương Long gồm có ba tháp tọa
lạc trên một đồi cao thuộc hai thôn Vân Tương xã Bình Hòa và An Chánh xã Tây
Bình, huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định, phía nam núi Trà Sơn, cạnh thành dân sự phế
tích Phú Phong. Người Pháp có tên Tour d’Ivoire (Tháp Ngà). Nằm theo trục
bắc-nam, bình đồ hình vuông, mỗi cạnh 12m gấp khúc nên trông như hình đa giác,
các tháp được xây bằng gạch, các góc và mái bằng đá lớn. Tháp giữa (30m) cao
hơn hai tháp kia cũng là tháp còn lại cao nhất trong các tháp Chăm. Thân tháp
cao vút, các trụ ốp trơn tru nâng toàn bộ mái tháp. Các cửa chính hình mũi lao
mở ra hướng đông. Tượng thần Garuda chân quắp đầu rắn trang trí hai trụ cửa
bằng đá. Các cửa giả có hình lá nhĩ, thân rắn uốn quanh bên ngoài, mặt Kala dữ
tợn khạc rắn bảy đầu bên trong. Diềm đá ngăn cách thân và mái chạm khắc tinh vi
những hình voi và sư tử kết thành dải chạy quanh rất linh động. Bốn mái gốm có
bốn tầng nhỏ dần với một búp sen trên chóp. Hai tháp kia trang trí có phần khác: ngoài các hình voi, sư tử Kala, còn có rắn Naga, bò Nadin, những con, vật kì
dị cùng những hình người, các đạo sĩ ngồi thiền,… Chịu nhiều ảnh hưởng nghệ
thuật Khmer, tháp Dương Long có thể được xây trong thời gian Khmer đô hộ, xếp
vào phong cách Bình Định, khoảng hai thế kỷ XII-XIII.
XV- Tháp Phú Lốc
Phú Lốc là một ngôi tháp đơn tại thôn
Châu Thành, phường Nhơn Thành, làng Phú Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định,
còn mang tên Phú Lộc, Phước Lộc, Thốc Lốc, Phốc Lốc, người Pháp gọi Tour d’Or
(Tháp Vàng). Tháp bằng gạch bình đồ hình vuông, mỗi chiều 9,7m, chỉ cao 15m
nhưng với nền đá cao lại được xây trên một đỉnh đồi nên trơ trọi nổi bật trên
bầu trời. Từ tháp tầm mắt phóng bốn hướng bao quát cà miền đồng bằng An Nhơn,
Phù Cát. Đặc biệt, các chân cột ốp, diềm mái cho thân và các tầng của tháp đều
bằng đá, điêu khắc chỉ định thờ thần Siva. Các cột ốp ở góc, các ô dọc giữa các
cột ốp trơn tru nhô mạnh ra. Cửa chính hướng về đông, ba của giả ba tầng nhỏ
dần lên trên tựa ba lưỡi mác nhọn vút lên sát diềm mái, trang trí hoa văn xoắn
kết dài. Các vòm trên cửa giả được trang trí với các phù điêu. Cửa trên mái
tháp trông như những khám thờ, bao quanh trên vòm cửa nhọn có hoa văn lá lật
xoắn đối xứng trang trí. Tháp thuộc phong cách Bình Định, được xây dựng vào đầu
thế kỷ 12, có lẽ trong thời kỳ quân Khmer chiếm đóng kinh đô Vijava, vì vậy có
nhiều ảnh hưởng kiến trúc và nghệ thuật Angkor. Tháp Phú Lộc được Bộ Văn hóa -
Thông tin xếp hạng di tích Kiến trúc nghệ thuật năm 1995.
D- Những phong cách Mỹ
Sơn
và Bình Định
và Bình Định
- Pô Klong Garai, Pô Romé: phong cách
muộn (thế kỷ XIV-XVI)
- Thánh Địa Mỹ Sơn
- Thánh Địa Mỹ Sơn
XVI- Tháp Pô Klong
Garai
Cụm tháp Pô Klong Garai nằm trên đồi Trầu,
phường Đô Vinh, phía tây-bắc thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, trên quốc lộ đi
Đà Lạt, là di tích Chăm còn lại đẹp nhất. Tồng thể gốm có ba tháp : tháp Chính
(20,5m) nơi thờ phụng và hành lễ, tháp Lửa (9,31m) nơi bếp núc, tháp Cổng
(8,56m) nơi tiếp khách, được vua Shihavaman (Chế Mân) xây dựng cuối thế kỷ 13
đầu thế kỷ 14 để thờ vua Pô Klong Garai (1151-1205). Tháp Chính có nhiều tầng
giả thu nhỏ dần. Trong tháp có tượng vua Pô Klong Garai được tạc vào phiên đa
linga. Trên cửa chính có một pho tượng đẹp thần Siva. Hai bên cửa là bia chữ
Chăm cổ ghi lại những lần trùng tu tháp. Tháp Lừa nằm phía đông tháp Chính có
hai mái cong hình thuyền biểu tượng thuyền chở người chết về phía mặt trời lặn,
theo tín ngưỡng Bà La Môn. Tháp Lửa cũng là nơi chứa long bào, đại mão, xiêm y,
vật quý tế lễ. Tháp Cổng có hai cửa thông nhau để ra vào khi hành lễ, cúng tế.
Các tháp đều xây bằng gạch nung đỏ, hình vòm, hình chóp nhọn, phù điêu trang
trí kết hợp hai văn hóa Chăm cỗ và Việt. Kiến trúc, nghệ thuật toàn cụm tháp
đạt đỉnh cao với những chạm khắc, đẽo gọt công phu hình hoa lá, chim muôn, thần
thánh. Tháp thuộc một phong cách muộn, được bộ Văn hóa xếp hạng di tích kiến
trúc nghệ thuật năm 1979. Ngày nay, dồng bào Chăm còn đến dự đông đảo những
ngày lễ hội lớn nhỏ Kabul, Katê (năm mới), khai mương, đắp đê,…
XVII - Tháp Pô Romé
Pô Romé là một ngôi tháp nằm trên một ngọn
núi nhỏ ở làng Hậu Sanh tỉnh Ninh Thuận. Tháp không thờ thần mà thờ vua Pô Romé
được hoá thần, có tượng ở phía trong cùng với tượng bán thân hoàng hậu Pô Bia
Thang Chan, người sắc tộc Ê Đê, còn tượng hoàng hậu Sucih thi đặt ngoài tháp.
Tháp vuông ba tầng bố cục giống nhau, cao khoảng 8m, rộng gần 8m, có tiền sảnh
hướng về phía đông. Xây dựng muộn vào giữa các thế kỷ 15-16, một bản sao vụng
về tháp Pô Khong Garai, đây là ngôi tháp cuối cùng bằng gạch và của vương quốc
Cham Pa. Sau Pô Romé, các tháp đều bằng vật liệu nhẹ: sườn gỗ, lợp ngói và
ngày nay chẳng còn tồn tại. Tiền sảnh nhỏ hẹp, trên cửa chính có vòm trang trí
những ngọn lữa như ở góc các cửa sổ giả, trán tường đã bị mất, không có cột
trụ. Trên các cửa giả có tượng các vị thần hay người cầu nguyện. Đỉnh nóc là
một phiến đá lớn hình tháp mang nhiều hình vạch. Bên trong tháp, hình tượng vua
Pô Romé trình bày một người Chăm lông mày, râu rậm, hai tay đặt trên bụng, sáu
tay kia mang những đồ lề của các thần Cham Pa. Hai bên vua có tượng hai con bò
Nandin. Như vậy Pô Romé là hoá thân của Siva. Phía tây kalan có
dựng tấm bia như trên bàn thờ gọi là kút. Tục truyền chính nhà vua
đã tự mình chọn chỗ. Hằng năm, đến kỳ lễ Katê, người Chăm đến đây đông đúc như
ở tháp Pô Klong Garai.
XVIII- Thánh Địa Mỹ
Sơn
Thánh địa Mỹ Sơn là một tổ hợp nhiều đền
đài nằm trong một thung lũng dài 2km thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam, không xa thành phố cũ Trà Kiệu. Núp bóng Hòn Đền tức Đại Sơn Thần
Mahaparvata, lăng mộ các vị vua Chăm, nơi thờ cúng thần Siva, thánh địa là một
trong những trung tâm đền đài chính Ấn Độ giáo ở Đông Nam Á. Tuy không phải là
một kinh đô, thường được so sánh với các thánh địa Borobodur (Java), Angkor Vat
(Campuchia), Pagan (Myanma), Ayutthaya (Thái Lan), Mỹ Sơn đã được bầu làm di
sản thế giới năm 1999. Bắt đầu từ thế kỷ 4, đền thờ đầu tiên làm bằng gỗ, dần
dần nhiều tháp lớn nhỏ, đền đài, lăng mộ được xây dựng bằng gạch, nhất là giữa
hai thế kỷ 8 và 14, biến hóa một nơi hành lễ thành một trung tâm văn hóa và tín
ngưỡng các triều đại Cham Pa lớn nhất Việt Nam. Tổng số công trình kiến trúc là
trên 70 chiếc, có mặt trong hầu nết các phong cách nghệ thuật theo quá trình
tiến triển, trong đó có 2 xuất hiện từ Mỹ Sơn. Các nhà khảo cổ Pháp Louis de
Finot, Launet de Lajonquere, Henri Parmentier, Olrpeaus đầu tiên khai quật đã
dùng chữ cái và số đặt tên cho 10 nhóm chính A, A’, B, C, D, E, F, G, H K: Mỹ
Sơn E1 và F1 thế kỷ VIII, phong cách Mỹ Sơn E1; Mỹ Sơn A2, C7, F3, cuối
thể VIII đầu thế kỷ IX, phong cách Hòa Lai; Mỹ Sơn A10, A11-13, B4, B12, cuối
thế kỷ Ĩ đầu thế kỷ X, phong cách Đồng Dương; Mỹ Sơn B5, B6, B7, B9, C1, C2,
C5, D1, D2, D4, thế kỷ X, phong cách Mỹ Sơn A1; Mỹ Sơn A4, F2,K, đầu thế kỷ XI
giữa thế kỷ XII, phong cách chuyển tiếp Mỹ Sơn A1 - Bình Định; Mỹ Sơn B1, G, H,
cuối thế kỷ XI đầu thế kỷ XIV, phong cách Bình Định. Nghệ thuật và kiến trúc
qua bố cục đền tháp mang ảnh hưởng lớn của phong cách Ấn Ðộ. Cụm tháp A thờ một
bộ linga, gồm có 6 ngôi đền nhỏ A2-A7 đối xứng nhau thờ các vị thần phương
hướng. Bao phía ngoài là các tháp phụ A8-A12 phân bố trên một mặt bằng vuông.
Đối diện với cụm nầy là cụm tháp B, trung tâm thánh địa. Đền A1 độc nhất bằng
đá thuộc phong cách Mỹ Sơn A1 được xem là kiệt tác kiến trúc di tích Chăm. Thời
Pháp tháp nầy còn đang vững nhưng đã bị trúng bom sụp đổ trong thời kỳ kháng
chiến. Phần lớn những đền đài khác đều bị hư hại với thời gian. Nói chung, tuy
chứa đựng nhiều biểu tuợng Phật giáo, cụm tháp Mỹ Sơn đuợc xem là quan trọng
nhất trong thể loại kiến trúc Ấn Độ giáo ở Việt Nam.
Để chiều nay trước mắt tôi
Một người múa với một người đứng xem
Vô tư như một ngọn đèn
Tháp Chàm lặng lẽ sáng lên giữa rừng
Một người múa với một người đứng xem
Vô tư như một ngọn đèn
Tháp Chàm lặng lẽ sáng lên giữa rừng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét