Ngưỡng cửa vào thiên đường
Mũi nhọn du
lịch quần đảo Nam Dương
Chiếm một khoảng rộng 2000 km bề ngang, hơn 5000 km chiều dọc
ở vùng Đông Nam Á, Nam Dương Indonesia là quần đảo lớn nhất thế giới. Kể cả mặt
biển, diện tích nước nầy lên đến 30 triệu km2, chỉ riêng đất liền cũng đã 2 triệu,
phân phối trên 14.000 hòn đẩo. Trong số nầy chỉ có khoảng 6.000 hòn có người ở,
có những hòn lớn như Sumatra, Java,... có những hòn nhỏ như Lambok, Sumba,... Trước
kia, thưở mặt biển còn thấp, Nam Dương chưa là quần đảo, Bali và Java dính vào
nhau và là một bán đảo của châu Á, còn Lombok thì hợp với châu Úc. Ngày nay, eo
biển giữa Bali và Lombok là nơi nước sâu nhất. Sau nầy, khi Bali và Java tách
khỏi lục địa châu Á thì đồng thời Bali và Java cũng rời nhau. Huyền thoại kể
lúc ấy một ông giáo sĩ có một đứa con chơi bời lêu lổng, muốn đày nó đi xa. Hai
cha con đi bộ thật lâu, đến một chỗ vắng, ông giáo sĩ lấy ngón tay vạch một đường
trên cát giữa hai cha con, niệm một câu thần chú tức thì nước biển chảy vào
tách rời Bali ra khỏi Java.
Tuy trước kia thuộc cùng một lục địa, mỗi hòn đẩo có một tính
chất riêng biệt, vẻ đẹp đặc thù của mình, nhưng Bali đặc biệt được đưa ra làm
mũi nhọn du lịch cho cả quần đảo. Từ tk XVI, trong khi các nước châu Âu đang mịt
mù khói lửa với những cuộc chiến tranh tôn giáo thảm khốc, châu Á được xem như
là một vùng xa xăm, mọi rợ vì không có tín ngưỡng, khó lòng giao du, nhưng cũng
là nơi núi sông hiểm trở, phong tục lạ lùng, dễ bề hấp dẫn kẻ giang hồ mạo hiểm.
Chính những người thích phiêu lưu đầu tiên đã đem về châu Âu những nhận xét về
phong cảnh cùng như những phân tích về đời sống ở châu Á. Dần dần những thương
thuyền châu Âu vượt đại dương, lân la lại gần các bờ biển phương đông, can đảm
đi tìm nơi buôn bán. Từ Bali, phong cảnh những hàng dừa chạy dọc các bải biển
cát vàng êm dịu, những điệu nhạc lạ tai nhưng trầm bổng, hình ảnh nhưng cô gái
da ngăm, mắt đen lánh, tóc xỏa dài, lắm lúc ở trần không mặc áo,... đã được đưa
về, biểu tượng một cảnh tượng thiên đường ở thế gian. Người bản xứ kể cho khách
nghe huyền thoại nguyên thủy của họ. Thuở mặt đất mới sẵn sàng đón nhận nhân loại,
hai vị thần Batana Guru và Brahma đua nhau nặng tượng hình người nhưng nặng mãi
chẳng ra hình thù thích muốn. Nghĩ phải cần cho thêm một chút màu sắc gì, họ bỏ
vào lò nung đốt, mong ngọn lửa biến hóa tượng hình. Lần đàu tiên nung không đủ
lâu, các tượng vẫn còn trắng. Lần thứ hai, nung quá lâu, tương trở thành đen
thui. Qua lần thứ ba, thời gian nung đúng mức, các tượng nhuốm một màu da ngăm,
thích họp cho cả hai vị thần. Họ liển niệm thần chú thổi sinh khí vào hình tượng
làm thành dân tộc khởi nguyên Bali. Thật ra không ai biết con người đã lại định
cư ở Bali thuở nào. Nếu người Homo erectus đă được khám phá ở đảo
Java kế cạnh, ngành khảo cổ cũng phát hiện ra được ở Bali những dụng cụ thời đại
đồ đá. Vào lúc hiện ra những trống đồng loại Đông Sơn, khoảng 500 năm trước
Công nguyên, Bali đã đông đúc dân cư. Ảnh hưởng trực tiếp văn minh Ấn Độ đã
thấm nhuần tư tưởng họ. Vào tk IX, nhiều chứng tích Phật giáo thấy được ghi khắc
vào đá.
Nhà cửa, chợ búa ở Kusamba và Bedugul
Qua tk XI, Bali bị vương triều Majapahit ở Java qua thôn
tính, từ đó Ấn giáo bắt đầu phát triển, nhất là ở kinh đô Gelgel, miền nam đảo.
Cuối tk XV, vương quốc Hồi giáo Demak miền bắc Java lần chiếm toàn đảo, đánh đổ
đế quốc Majapahit, Bali nhân đó thoát khỏi nền đô hộ Java. Trong khi Hồi giáo
ngày càng lan rộng khắp quần đảo Nam Dương, Bali thành công chống cự và trở nên
nơi bảo tổn Ấn giáo. Nhiều trí thức, vương hầu, nhiều nghệ sĩ, thợ giỏi, nhiều
nhà quyền quý, thế lực rời bỏ Java, vượt biên qua lánh nạn ở Gelgel, giúp Bali
mở mang một nền văn hóa đặc thù. Một số lớn văn bản về di tích cổ truyền, tục lệ
tập quán, căn bản ngôn ngữ Java được bảo tồn ở Gelgel. Nhưng cũng từ đó Bali và
Java trở nên thù địch. Cuối tk XVII, nhiều rắc rối lủng củng nội bộ buộc triều
chính phải dời kinh đô Gelgel lên Klungkung. Tuy kinh đô mới không cách xa bao
lăm, hậu quả là vương quốc tan rả, nhiều tiểu quốc ra đời. Mặc dầu chính thức
phục tùng Klungkung, các tiểu quốc thật ra tranh dành quyền lực với nhau. Bắt đẩu
từ tk XIX, lịch sử Bali đi đôi với cuộc xâm lăng Hòa Lan. Thương thuyền Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Anh Cát Lợi rạch biển ngòai khơi Bali từ đầu thế kỷ XVI mà
mãi đến năm 1597 mới có một hạm đội Hòa Lan chính thức cập bến, lâu dài hơn những
lần ghé mua thức ăn hay tìm nước uống. Lúc ban đầu chỉ là hợp tác thương mãi,
trao đổi ngoại giao và, nếu cần, thám hiểm rừng biển. Những báo cáo đầu tiên
đưa về châu Âu trình bày Bali như là một miền đất phì nhiêu sản xuất lúa, bông,
hương liệu đủ thứ, triều đình lại là nơi xa hoa, lộng lẫy, vàng bạc sáng chói ở
mọi đồ trang sức, dụng cụ. Thêm vào, đó, Bali có thể lập thành tiền đồn để đi
xâm chiếm các đảo khác. Vương triều Bali tuy không hùng mạnh, cũng có khả năng
tức khắc "động viên 30 vạn bộ binh, 10 vạn kỵ binh" thể hiện một đồng
minh đắc lực trong tương lai để chống chỏi những vương triều Hồi giáo các đảo kế
cạnh.
Cùng đi với những thương gia là các nhà học giả. Họ tin Bali
là nơi sống sót một hệ thống tôn giáo Ấn Độ đã từng chế ngự miền Đông Nam
Á nghĩa là một viện bảo tàng sống của nền văn minh Java xưa. Tuy nhiên, họ
cũng trách người Bali thiếu văn minh đã làm thoái hóa nền Ấn giáo cao cả trước
kia, mặc dầu đồng thời làm tan rã chế độ phong kiến của những vị quân chủ tàn bạo
đã duy trì một sự phục tùng quá đáng của dân cư. Từ thương mãi qua văn hóa, từ
văn hóa qua chính trị, một bước dễ vượt qua. Dần dần người Hòa Lan muốn trực tiếp
điều khiển, nhất là họ cho Bali không có chính phủ, các tiểu vương chỉ biết lợi
dụng sự tùng phục của người dân để trị vì: vua chúa xem dân như kẻ nô tỳ, đụng
đâu xử chém đấy, bắt các bà góa bụa nhảy vào đống lửa tự thiêu theo chồng,... Họ
cho người Bali còn dã man, cần phài được cai trị, cần phải dược khai hóa. Luận
điệu nầy sao nghe quen quá, mặc dầu ở một xứ khác thỉ có những lý do khác. Để bắt đầu,
Hòa Lan chỉ buộc các tiểu vương thừa nhận chủ quyền của mình qua các hiệp ước
thương mãi. Không thành công, họ dùng quân lực chiếm đóng các tiểu quốc
Buleleng, Jembrana ở miền bắc, rồi Karangasem ở phía đông. Đầu tk XX, bị
Klungkung đe dọa, Gianyan không biết làm gì hơn là chạy lại cầu cứu quân
Hòa Lan. Cỏng rẳn cắn gà nhà đã từng thấy trong lịch sử. Năm 1904, một chiếc
ghe của người Hòa Lan bị mắc cạn ở Sanur, miền nam đảo, bị dân Bali cướp mất mọi
đồ đạt. Người Hòa Lan buộc tiểu vương Badung chịu trách nhiệm và phải bồi thường
một số tiền lớn. Được Tabanan và Klungkung ủng hộ, Badung mạnh dạn từ chối.
Thương thuyết mãi không thành, quân Hòa Lan đổ bộ lên Sanur và tiến về kinh đô
Denpasar. Mặc dầu nhiều can đảm và đầy khí khái, người Bali không sao đương đầu
nổi với súng ống Hòa Lan. Và đây diễn ra một biến cố vô tiền khoáng hậu trong lịch
sử thế giới.
Phong cảnh vùng Ubud
Để tránh một cuộc đầu hàng nhục nhã, trọn vẹn triểu đình
Badung, từ vua chúa, vọ con, họ hàng cho đến giáo sĩ, quân binh, quan chức cùng
các nghệ sĩ, nô tỳ, dân quê không cùng đẳng cấp nhưng thuộc quyền nhà vua, tổ
chức một cuộc quyên sinh tập thể ngày nay còn truyền tụng qua danh từ puputan trong
ngày Tận số. Toàn mặc áo quần trắng tinh, cài hoa và mang đủ đồ trang sức tráng
lệ, đàn ông đặc biệt mang thanh kiếm tượng trưng kriss lóng lánh ngọc
bích, giữa tiếng trống, tiếng mõ, giữa khói lửa mịt mù, tiếng nổ rầm trời tạc đạn
đại phá, họ tuần tự, thản nhiên tiến lại quân địch như diễn viên trên sân khấu
ra chào cảm ơn khán giả. Lẽ tất nhiên, họ tiếp tục nhau ngã gục dưới làn đạn của
quân Hòa Lan. Để cho chắc chắn là tất cả cùng nhau hiến thân, nhiểu ông đã lầy
liếm đâm vợ, nhiều bà đâm con trước khi chính mình bị bắn chết. Cảnh tượng vô
cùng khủng khiếp dễ sợ nầy được Vichi Baum miêu tả trong cuốn truyện Liebe
and Tod in Bali (bản dịch tiếng Pháp Sang et Volupté à Bali) rùng rợn, có
phần bi thảm hơn cả những câu vè Thất thủ Kinh đô kể lại biến cố năm 1885 ở Huế
tương đương với biến cố Mậu Thân... Cuộc tàn sát tiểu vương Badung mở cửa rộng
cho quân Hòa Lan vào Bali. Ngay sau đó đến lượt vương tộc Pemacutan cũng bỏ
mình trong một cuộc quyên sinh tương tự, còn gia đình tiểu vương Tebanan thì tự
sát khi bị bắt. Sau đó, quân Hòa Lan tấn công Klungkung, lại diễn ra một puputan khác.
Tiếp sau tiểu vương Bangli đầu hàng, quân Hòa Lan làm chủ toàn đảo rồi từ đấy
đi chiếm cứ các đảo kế cạnh và qua năm 1910 thì thống nhất tất cả quần đảo Nam
Dương thành một thuộc địa chạy dài từ Borneo đến Irian Jaya.
Bắt đầu từ đây, quá trình phát triển Bali đi đôi với lịch sử
Nam Dương và lịch sử Nam Dương diễn biến song song với lịch sử Việt Nam, ít nhất
cũng cho đến ngày hai nước tuyên bố độc lập. Những bạn đọc cùng tuổi tôi chắc
còn nhớ những ngày xuống đường năm 1945 ủng hộ Nam Dương đòi độc lập. Hòa Lan dựa
lên Nam Dương để xây dựng nền kinh tế của mình cũng như để thực hiện kỹ nghệ của
"mẫu quốc". Đầu tk XX, Nam Dương là một nước sản xuất tiêu và
quinin lớn nhất thế giới, cung cấp một phần ba cao su, một phần năm trà, cà
phê, đường, dầu tổng lượng thế giới. Nhưng Nam Dương vẫn luôn nghèo khổ. Nhiều
tổ chức chính trị ra đời tranh đấu cho một cuộc sống đầy đủ hơn. Quan trọng nhất
là phong trào Hồi giáo (từ 1909) và đảng Cộng sản (từ 1920). Năm 1927, một kỷ
sư trẻ tuổi, Sokarno, thành lập một đảng quốc gia nhưng ông sớm bị bắt và đưa
đi đày. Ngày 9 tháng ba năm 1945 (không phải tình cờ) Nhật Bản đảo chính Hòa
Lan và ngày 17 tháng tám năm đó nước Nam Dương Cộng hòa ra đời với Sokarno làm
tổng thống. Như Pháp ở Đông Dương, Hòa Lan khư khư muốn dành lại thuộc địa và
năm 1946 tái chiếm Bali. Mãi đến ngày 17 tháng tám năm 1950, đúng 5 năm sau lần
thứ nhất, được Liên hiệp quốc dàn xếp, nước Cộng hòa Nam Dương thống nhất thật
sự độc lập ra đời luôn với Sokarno làm tổng thống. Khó khăn rất nhiểu cho một
nước thế giới thứ ba muốn vươn lên nhất là Sokarno theo đuổi một con đường
chính trị quá chống đối tây phương. Thêm vào đó, Hòa Lan vẫn còn lăm le muốn
chiếm lại đảo Irian Jaya.
Dân cư ở Bedugul và Singaradja
Nền kinh tế Nam Dương trở nên vô cùng khủng khoảng với một cuộc
lạm phát lên đến 680% năm 1965. Một nhóm sĩ quan trẻ tuổi, mà chính quyền cho
là được đảng Cộng sản khuyến khích, tìm bắt và xử tử sáu vị đại tướng. Một ông
may tránh khỏi là Suharto lập tức được đưa lên làm tổng tư lệnh quân đội để đối
phó với tình hình cấp bách. Mặc dầu trách nhiệm của đảng Cộng sản Nam Dương
trong cuộc đảo chính nầy không được chứng minh rõ ràng, đảng bị chụp mũ là thân
chính quyền Bắc Kinh đồng thời Hoa kiều ở Jakarta bị ghen ghét vì làm ăn phát đạt,
được đưa ra làm dê tế thàn: một cuộc lùng bắt diễn ra trước ở Sumatra, sau qua
Java, Lambok, Bali,...giết hại hàng chục ngàn người. Đây là biến cố đau buồn nhất
của Nam Dương từ ngày độc lập. Sau đó, cuộc tranh dành quyền lực giữa hai nhà
lãnh tụ kéo dài đến 1965 là năm Suharto được chính thức bầu làm tổng thổng thứ
nhì Nam Dương. Công việc ưu tiên của ông tân tổng thống là tu bổ nền kinh tế
đang kiệt quệ, ngăn chận lạm phát đang leo thang. Nhiều cố vấn Hoa Kỳ được mời
giúp sức, nhiều nhà tư bản bắt đầu lại đầu tư, khai thác gỗ rừng, các mỏ đồng,
thiếc và nhất là dầu khí. Tuy khám phá ra từ năm 1883, gần đây Nam Dương mới đạt
đến mức độ các nước sản xuất dầu khí lớn nhất thế giới. Lợi tức quốc gia vọt nhảy
nhưng chính quyền luôn cần rất nhiều tiền vì ngoài công việc củng cố quân đội,
cảnh sát, còn phải mở mang công vụ, chỉnh đốn từ hạ tầng cơ sở, đương sá cầu cống,
đến các ngành giao thông giáo dục cũng như nhân khẩu, chức nghiệp,...Từ đây, nảy
ra ý kiến tu bổ, cải thiện một nguồn thu nhập mới là ngành du lịch. Ở Bali, thật
ra không phải đợi đến độc lập văn đề du lịch mới được đề cập đến. Sau những biến
cố puputan khủng khiếp, chính quyền Hòa Lan có phần bối rối và như muốn
người ta quên đi cuộc giết chóc tàn bạo tuy không phải lỗi hoàn toàn tại họ. Họ
tuyên dương Bali là nơi mang nặng giá trị văn hóa cần phải giữ gìn và đưa hình
thức "du lịch văn hóa". Vì đã xem Bali như là một viện bảo tàng sống
nền văn minh Ấn Độ - Java, họ muốn không những bảo vệ Bali chống mọi tiếp xúc với đời
mới tối tân có thể đem lại ảnh hưởng tệ hại, mà còn muốn dạy cho người Bali biết
bảo tồn bản chất thuần túy của mình trong một chương trình "Bali hóa
Bali". Qua giáo dục ngôn ngữ, văn chương, nghệ thuật, họ thúc đẩy thanh
nhiên Bali ý thức rõ ràng tài sản phong phú của dân tộc mình.
Ngay sau đấy, nghĩa là từ 1908, sở du lịch bắt đầu tiến hành.
Tuy nhiên, cũng phải đợi đến đầu thập niên 20 mới thấy khách bắt đầu lại viếng
Bali và khách sạn lớn đầu tiên, Bali Hotel, chỉ được xây lên ở Denpasar năm
1928. Đến lượt những du khách quảng cáo cho Bali. Trong số nầy phải kể tác giả
người Đức Gregor Krause cho ra một cuốn sách tái bản nhiểu lần, trình bày
thiên nhiên và con người, từ rừng rậm cây ngàn, hội hè đình đám qua hình tượng
chạm trổ nhân thể trần trụi. Đợt khách thứ nhì đến Bali là các nghê sĩ. Trong
những năm đầu thập niên 1930, họa sĩ cũng người Đức Walter Spies mở xưởng ở
Ubud, miền trung hòn đảo, và thành lập "làng nghệ sĩ" với những nhà cộng
sự có tên tuổi như Margarel Mead, Gregory Bateson. Một họa sĩ khác, Miquel
Covarrubias, người Mễ Tây Cơ, cũng là một nhà dân tộc học, cùng với phu nhân
Rose, người Hoa Kỳ, soạn thảo một cuốn sách đầy thú vị về văn hóa, Island of
Bali. Bắt đầu từ đây, khách du lịch ngày càng đông đến nỗi có người kêu la: Coi
chừng, Bali đang bị du lịch đe dọa, Bali rồi sẽ hết còn Bali. Một cuộc tranh luận
sôi nổi trên đề tài du lịch bắt đầu từ hồi ấy. Người lạc quan không tin Bali sẽ
mất nhân cách vì con người Bali có khả năng đồng hóa, họ không chịu nhượng bộ
dù chút nhỏ cốt yếu bản chất mình. Được vậy là nhờ họ không phải đồ vật thụ động
để ngắm nhìn mà là cá nhân năng động có khả năng xây dựng chẳng hạn những cụộc
biểu diễn theo thị hiếu của khách nhưng vẫn giữ nguyên lễ nghi cổ truyên của
mình. Khách thích, xem đông thì tài chánh trở nên dồi dào, nghệ sĩ có thêm điều
kiện để hoàn hảo cuộc trình diễn, từ đó khách lại càng nhiều thêm. Luận pháp
nây như tuồng được nhà cầm quyền chấp nhận và ủng hộ vì năm 1978, Suharto bổ nhậm
làm thống đốc đảo, giáo sư Bagus Mantra, một người rất am tường văn hóa, thay
thế một viên đại tá người Java thiều kiến thức mà Bali phải chịu đựng từ ngày
Sokarno xuống chức.
Bắt đẩu từ đây, Bali đóng góp rất lớn vào ngân quỹ quốc gia,
đồng thời củng cố đia vị của đảo trong tập thể Nam Dương. Thành thử câu hỏi
không phải là văn hóa Bali có sống còn được không sau cuộc tiếp xúc vói du lịch
ngoại quốc mà bản chất văn hóa Bali là gì?.
Bản chất và văn hóa Bali
Ngày nay, đi dạo quanh Bali, đặc biệt ở vùng nam đảo, trong
khu tam giác Denpasar-Sanur-Kuta, nơi tập trung các khách sạn du lịch, theo luật
lệ hiện hành, khách thấy nhà cửa không được xây cao quá ngọn cây dừa, từ ngày
Bali Beach Hotel cao đến 10 tầng làm dân cư hoảng sợ. Dù chung đụng với du lịch
tây phương, người Bali biết sống trong một khuôn khổ nặng đầy thủ tục, tôn
giáo. Đời sống hằng ngày của họ phân chia giữa nhiệm vụ xã hội và bổn phận đạo
giáo. Ngay nghệ thuật cũng phản ảnh môi trường của cộng đồng. Từ thuở ấu thơ, đứa
trẻ Bali nhờ đang còn thanh khiết nên được xem như một vật thiêng liêng, không
được đánh đập, la mắng quá độ. Lớn lên, tục lệ mài răng không chỉ để cho mọc thẳng
đẹp mà còn có nghĩa để hạn chế những tật xấu của con người: tham lam, giận dữ,
ghen tuông, dục vọng,... Nếu là con gái, nhất là thuộc đẳng cấp cao, thì có lễ mừng
tuổi dậy thì, ra mắt phụ nữ. Tôi may măn gặp được những cô cở tuổi nầy, trẻ đẹp,
da ngăm, quần jean, áo cụt, mang một rỗ đầy hoa sắp thành mâm nhỏ, thoăn thoắt
bước qua đường, chạy từ cổng này qua cửa khác, đặt các mâm hoa lên lên thành đá
hay ngưỡng cửa, có khi ngay cả trên vỉa hè, vệ đường, bất chấp người xe qua lại,
để tạ ơn một thần linh nào hay để cầu khấn ma quỷ đừng lại quấy nhiễu. Bất cứ
trai hay gái, phải lập gia đình mới là trưởng thành. Ở Bali có hai cách lấy
nhau: hoặc nhà trai lại xin cưới, quà cáp tốn kém lại phải viếng thăm mất nhiểu
thì giờ, hoặc phấn khích hơn là anh chàng lại bắt cóc ngay cô nàng. Lúc trước
chàng trai phải trèo tường, leo thang, vượt qua biết bao chướng ngại, tưởng
mình như ông hoàng Ạrjuna, người hùng của truyện Mahabharata. Ngày nay, thời đại
mới cho phép chàng trai đem xe hơi lại phổng, có khi được bạn bè phụ giúp. Tuy
vậy, tối hôm ấy cặp trai trẻ phải ra làm lễ ở miếu thờ thần Đất Pertini và sau
đó vài hôm phải tổ chức một lễ cưới chính thức có giáo sĩ lại cầu chúc trước
bàn thờ tổ tiên đòng thời cũng phải đi cúng lạy ở các miếu đền khác trong xóm,
trong làng.
Pura Taman Ayun ở Mengwi
Pura Besakih dưới chân núi Agun
|
Đền Ulu Danu trên bờ hồ Bratan
Miếu Tanah Lot
trên bờ Ân Độ Dương
Tục lệ còn giữ như vậy vì người Bali tuy sống theo cách thức
hiện đại vẫn còn tin ở đời sống thần linh. Đối với họ, mọi vât trong thiên
nhiên đều có một ý nghĩa mầu nhiệm cao quý. Núi, như ngọn núi lửa Gunung Agung,
mặc dầu khi phun lửa thì tàn phá không ít nhưng cũng đem lại màu mỡ cho đất
đai, là cao cả, tượng trưng cho tất cả những gì thiêng liêng.Trái lại, cái gì xấu
xa, tối tăm thì thuộc về biển sâu, địa ngục. Người Bali tuy ở đảo lại hướng nhiểu
về núi. Đời sống của họ diễn biến trên đồng bằng giữa núi và biển. Thiên nhiên
từ đó hiện hình dưới hai mặt như núi và biển: trên và dưới, trái và mặt, ngày
và đêm, mạnh và yếu, thiện và ác,... Nghi thức đời sống là làm sao giữ được
thăng bằng giữa hai mặt đó. Hướng dẫn người dân là Agama Hindu Bali tức là Ấn giáo
thích nghi cho Bali. Có tổ chức gọi ngược tên đạo là Agama Bali Hindu để nhấn mạnh
đặc trung Bali. Cuộc bàn cải về giáo lý nầy kéo dài đã từ lâu cho đến 1945 thì
theo hiến pháp của nước Cộng hòa Nam Dương, mỗi đạo phải có một vị Thượng đế độc
nhất. Nếu Hồi giáo và Thiên chúa gíáo có mặt ở bộ Tế tự, người Bali bị liệt vào
loai không có tôn giáo và nghi thức cúng lễ của họ được cho là thuộc phong tục.
Người Bali phải kiên trì tranh thủ mãi đến 20 năm sau mới được chính phủ công
nhận Ấn giáo Bali ngang hành với 5 tôn giáo khác: Hồi giáo, Phật giáo, Khổng
giáo, Gia tô và Tin lành. Đồng thời hội Parisada Hindu Dharma ra đời, khẳng định
đại diện cho toàn thể Bali.
Thang lên Pura Besakik dưới chân núi Agun
Lễ hội ở Goa Lawah (Hang Dơi) tại Rendang
Họ mở viện Hindu Dharma để truyền bá Ấn giáo. Một vấn đề nan
giải cho các nhà trí thức: muốn được công nhận là một tôn giáo (agama), cần phải
loại bỏ mọi nghi thức thường được cho thuộc về phong tục (adat). Ở Bali, trên
thực tế, adat là agama, đôi bên sống chung đụng từ thuở nào, tương tự
như bên Việt Nam ta. Tuy vậy, họ thành công tổ chức lại các lễ tiết, đình đám,
thờ tự, đền miếu,...Parisada ra đời đúng lúc chính quyền đang rượt bắt những
người được cho là vô thần đồng nghĩa với "cộng sản"! Để được yên
thân, rất nhiều trí thức ghi tên vào hội, hậu quả bất ngờ là hội được phồng lớn
thêm. Mặt trái của hiện tượng nầy là Parisada hết còn thuần túy Bali: ngày
nay, nếu trụ sở hội còn ở Bali, văn phòng được đặt ở Jakarta... Ông thần vạn
năng của đạo là Sanghyang Widi nhưng ông thần nầy không được trực tiếp thờ
cúng. Xung quanh ông có nhiều vị thần khác là Tam nhất Trísakti từ Độ đưa qua:
thần sáng tạo Brahma, thần bảo trì Vishnu và thần phá hoại Shiva. Sau đó là một
loạt thần dewa nhỏ hơn: thần Gió, thần Bảo, thần Núi, thần Biển,... Họ
thờ cúng các thần này trong đền khởi nguyên Pura Puseh tức là ngôi đền được dựng
lên đầu tiên trong làng. Bên cạnh các thần có yêu quỷ leyah mà chúa tể
là rangda dược thờ trong các đền hoàng tuyền Pura Dalem dành cho người
chết. Để cho trọn vẹn bộ ba, còn có đền Hội đồng (các thần thánh) Pura Bale
Agung để cầu khấn phù hộ mùa màng, thu hoạch,... Ngoài ra còn có các đền đẳng cấp,
đền hội đoàn, đền thị tộc,... và các miếu thờ các thần linh ao, hồ, sông, lạch,... Thành
thử khi đi dạo ở ngoại ô thành phố hay ở đồng quê thì thấy nhà cửa lẫn lộn với
miếu đền. Một cảnh tượng đẹp mất là khi các cô, các bà ăn mặc đẹp đẽ mang đồ
cúng trên đầu, hoa quả sắp trên khay có khi cao đến một thước, yểu điệu nối
nhau trên đường làng hay nhanh nhẹn leo thang lên đền.
Lối lên đền Goa Lawah
Nhà ở thì trước mặt bao giờ cũng có bình phong ngăn chận ma
quỷ, sau có vườn trồng cây quả, nuôi heo gà như loại nhà vườn ở Huế. Quanh nhà
và vườn là một vách đất như để bảo vệ ấm cúng gia đình. Trong mỗi khoảnh đât có
một hay nhiểu gia đình cùng ông cha ở chung với nhau. Nhiều nhà họp lại thành
xóm banjar hoạc độc lập hoặc nằm trong phạm vi một làng desa.
Xóm là đơn vị đời sống công cộng. Họ tự bênh vực nhau, bảo vệ văn hóa, phong tục,
lo liệu mọi chuyện cưới hỏi, ly dị, đám tang, gia tài, tu bổ đền miếu,...Nhiều
xóm có nhà hàng tổ hợp, xe hơi, xe hàng, dàn nhạc gamelan, nhà họp mở cửa
suốt ngày cũng là nơi họp hội đồng xóm. Lên đến mức làng mới có chợ, nhà chọi
gà, chòi mỏ hulhul, miếu làng pura, xung quanh một công trường thường
trồng ở giữa một cây đa. Đi xa trung tâm mới có nhà giặt, nhà tắm, nghĩa địa,
miếu thờ người chết,...Tất cả nhà cửa, đền miếu đều theo một kiến trúc, sắp đặt
chính xác, hòa hợp với vũ trụ điều hòa. Ra khỏi làng là đồng ruộng, ở miền đồi
núi thường sắp đặt thành tầng cống hiến một quanh cảnh vô cùng đẹp. Tôi tìm mãi
chẳng thầy các loại gàu tát nước, xe đạp nước hay máy bơm nước. Hỏi ra mới biết
ở đây nước không phải từ sông ngòi đem lên ruộng mà là từ trên núi chảy về. Vậy
chỉ có đào nương trổ nước thẳng xuống ruộng. Người Bali vốn có kỹ luật, họp
nhau lại thành hội đoàn subak cùng nhau xây mương, quản lý mương,
phân chia nước, chỉ định ngày gieo, cấy, gặt, tổ chức những buổi lễ hội ở các
miếu thờ Nước, Hồ,... Subak không có không có quyền gì về lợi tức thâu nhận.
Đồng ruộng là tài sản của dân, nước thuộc quyền sở hữu của subak. Những hội
viên không nhất thiết phải ở cùng xóm cùng làng, vị trí đồng ruộng chỉ định họ
thuộc subak nào. Vì vậy, người nông dân Bali thường bảo họ có hai
làng: "làng khô" banjar và "làng ẩm" subak.
Đồng ruộng vùng Ubud
Ngoài subak, người Bali còn có nhiều hội đoàn khác, nhỏ
hơn, gọi là seka, tùy lúc, tùy chỗ, tập hợp các nhạc sĩ, trí thức cũng như
thợ gặt hay người đi săn,...nhưng tương đối ít bền chặt lâu dài vì không có
lãnh thổ, không có đền miếu. Nhưng cũng không sao, hội đoàn lập ra rồi giải tán
rồi lại mọc lên...theo nhịp của đời sống và tuân theo phong tục adat mà
họ rất hảnh diện. Đến nay, trải qua các thời kỳ ảnh hưởng Ấn Độ, thuộc địa Hòa
Lan rồi sáp nhập vào cộng đồng Nam Dương đồng thời mở cửa du lịch, Bali tỏ ra
có tài chọn lựa và chỉ đồng hóa cái gì thích hợp cho mình. Họ luôn biết giữ gìn
phong tục từ thuở ông cha. Thời thuộc dịa, Hòa Lan muốn duy trì tục lệ để giữ
Bali trong vị trí những người trung thuận, như vậy dễ bề cai trị. Khi Công hòa
Nam Dương thành lập, chính phủ lại muốn trưng dụng phng tục ấy vào chương trình
quốc gia để phát triển kinh tế. Đồng thời du lịch đem lại tiền bạc, dù không trực
tiếp cũng góp phần vào cuộc phá hoại một số phong tục kia. Ai cũng thấy Thái
Lan chẳng hạn đã bị du lịch làm hư hỏng như thế nào. Người Bali đã biết chống lại
những sức mạnh bên ngoài, biết dùng khí giới của địch để chống lại địch như
trong môn nhu đạo. Họ thường biểu tượng đất nước như một cái cây mà rễ là đạo
giáo (agama), thân là phong tục (adat) và hoa trái biểu thị nghệ thuật (seni
budaya). Dù thân có bị dày vò, có khi bên ngoài có vẻ hư hỏng, nhưng nếu rễ bám
cứng vào đất và tìm ra nguồn sống thì rồi thân cũng nảy nở lại, trái sẽ nhô mọc
lên dồi dào, phong phú. Người Bali biết phân biệt và tách rời phong tục, chính
trị, đạo giáo, nghệ thuật. Họ biết dung hòa cũ và mới, biết hỗn hợp hài hòa di
sản quý báu của ông cha với những phẩm vật ngoại lai nhập cảng. Đây có lẽ là
giá phải trả, việc phải làm để một nước nghèo muốn vươn lên mà không mất bản
tính của mình.
Ruộng bậc thang ở Singaraja
Thường trước một cuộc biểu diễn Vũ tuồng Barong khách
được thưởng thức một Vũ Điệu Legong. Bắt gốc từ đầu thế kỷ XVIII, được
xem như điệu múa duyên dáng, yêu kiều nhất ở Bali, vũ khúc gồm có hai vũ nữ lúc
trước 8-12 tuổi, ngày nay lớn tuổi hơn, nhất là khi phục vụ khách du lịch. Các
cô gái nhỏ 5-6 tuổi thường mơ đại diện cho làng mình đi múa nhưng đến 12-14 tuổi
các cô nầy thường cũng thôi múa. Những tư thế, điệu bộ, liên kết khó khăn, chặt
chẽ đòi hỏi một cuộc huấn luyện lâu dài, vì vậy cần bắt đầu từ trẻ để cơ thể thấm
nhuần điệu múa. Quy tắc nghiêm ngặt áp đặt những điệu bộ chính xác, xác định cử
động của bộ mặt, vị trí các bàn tay, động tác các ngón tay. Vũ nữ đội một cái
mũ vàng trang trí hoa sứ, áo quần thanh tao sặc sỡ màu sắc, có khi cầm quạt.
Trong các điệu nầy, có tiếng nhất là điệu Legong kraton hay Legong
cung điện vì lúc trước được biểu diễn trong cung vua, trước mặt các hoàng
tử, với ba vũ nữ: hai cô ăn mặt giống nhau đại diện cho vương tộc và một cô
tùy tùng ngày nay không còn nữa. Để bắt đầu cô tùy tùng múa một mình, sau mới đến
hai cô tôn nữ múa đối xứng. Đề cương được rút ra từ một sự tích xảy ra ở
Java thế ky XII. Nhà vua Lasem bắt gặp cô tôn nữ Rangkesari đi lạc trong rừng,
đem về giam giữ trong một ngôi nhà bằng đá. Cô có người anh, hoàng tử Daha, biết
đuợc em mình bị giam, liền đòi thả và dọa sẽ đến đánh nếu không thả về.
Rangkesari năn nỉ nhà vua vâng theo để tránh một cuộc ẩu đả. Nhà vua không chịu
nghe. Trên đường đi chiến đấu, một con chim chắn đường báo hung tin. Ông cũng cốc
cần và bị giết trong cuộc giáp chiến.
Vũ tuồng kịch múa Bali
Bali là một nơi ít có trên hoàn cầu được gọi là hòn đảo nghệ
thuật. Thật vậy, nhạc điệu, nhảy múa hòa nhịp với đời sống hằng ngày và mỗi người
dân là một nghệ sĩ. Sau một ngày dài làm lụng mệt nhọc trong đồng ruộng, họ trở
thành họa sĩ, thợ chạm hay nghệ sĩ cùng nhau nhảy múa trong một vở tuồng để cảm
ơn hay tỏ lòng kính phục thần thánh vì Bali cũng còn được xem là một hòn đảo thần
thánh. Thường xuyên hằng ngày họ cúng bái các vị thần linh, dâng cúng hoa quả,
bánh trái, lắm khi cống hiến một điệu múa nhịp nhàng, uyển chuyển. Thần thánh ở
đây thuộc về Hindu giáo. Số là giữa hai thế kỷ VII và XV ở Nam Dương lẫn lộn Phật
giáo và Indu giáo. Bắt đầu từ thế kỷ XV, Hồi giáo tràn qua áp đặt Java, trong
lúc Phật giáo lùi bước tàn lụi, người Hindu giáo chạy trốn qua Bali và giữ gìn
tôn giáo ấy cho đến bây giờ. Tuy nhiên, những tuồng hát như Mahabaratha,
Ramayana,... tuy dựa lên sử thi Hindu giáo gốc Ấn Độ, khi biểu diễn ở Bali
thì mang một màu sắc khác, có lúc pha lẫn với những huyền thoại địa
phương. Bắt đầu từ thế kỷ XX, những điệu múa được phóng thích ra khỏi phong tục
cổ truyền, biến thành một biểu hiện mỹ cảm uyển chuyển, tinh vi. Sở dĩ được vậy
là nhờ một phần lớn những người Hindu giáo chạy qua đây thuộc dòng quý phái, mặc
dầu không ít tiểu vương, ngay cả vương triều, bị quân Hòa Lan sát hại trong biến
cố puputan. Nền văn hóa Bali nhuốm đậm vào tâm hồn người Bali nên trải qua
bao biến cố nào chiến tranh, xâm lược, nào thuộc địa rồi cuộc sống mới, không hề
mất mát dù chút nhỏ. Ai cũng nhận thấy trẻ en Bali được khai tâm, hướng dẵn từ
thời tuổi thơ. Các em có thể trở nên họa sĩ, nhạc sĩ, nhà điêu khắc hay nhà nghệ
nhân kể chuyện luôn trong tinh thần Bali. Khi nhập vào một hội đoàn văn hóa,
người Bali vừa đóng kịch, kể chuyên, vừa đàn hát và lẽ tất nhiên nhảy múa nên tuồng
kịch thường được gọi lẫn lộn với điệu múa. Một điểm chung là mọi điệu múa đều
do những nhà nghiệp dư tài tử thực hiện không lương, không lấy tiền, lúc trước
trong các buổi lễ, bây giờ trước khách du lịch.
VŨ TUỒNG BARONG
Một trong những điệu múa thường được trình bày cho khách du lịch
vì dễ hiểu lại thêm các nhân vật ăn mặc lạ lùng nên rất hấp dẫn. Vũ
tuồng kiếm kriss còn gọi Vũ tuồng Barong thể hiện cuộc đấu
tranh bất phân thắng bại giữa hai cực thiện và ác mà động lực chủ yếu là giữ
thăng bằng giữa hai vũ lực của vũ trụ như trong thuyết âm dương. Đối với
người bản xứ, tuồng kịch thiêng liêng nầy nhắm mục đích trừ tà vì Barong được
ví như vị thần thành hoàng, thường được tả là nhát gan nhưng rất can đảm và
sùng đạo. Đại diện cho phe thiện, Barong là một nhân vật kỳ quái, có vẻ hung dữ: mình to, đầu nhỏ, miệng nhe hai chiếc răng nanh nhọn hoắc; trên đầu một đống
vẩy đủ màu sắc mang nhiều mảnh gương lóng lánh và trên mình một số lục lạc kêu
lẻng kẻng mỗi khi cử động, nhất là khi nó dặm chân và mở đóng cầm cập hai hàm
răng bằng gỗ; bộ lông làm bằng những sợi lông dài, mưọt, điểm tô toàn vật liệu
bằng vàng, râu ria trang sức đầy hoa. Địch thủ của Barong là Rangda, đồ đệ của
Batari Durga, chúa tể một đàn quỷ sứ, đại diện cho phe ác, mặt mày gớm ghiếc, một
cái lưỡi khổng lồ thắm đỏ lòng thòng dưới miệng, mái tóc bờm xờm rủ dài xuống tận
đầu gối, vừa chuyển động vừa kêu the thé thật ghê rợn cho khán giả lạ. Để phục
vụ khách du lịch xem mau một buổi sáng trong sân làng, trước một ngôi miếu, một
kịch bản khá giản dị, ít nhiều mất tính cách siêu thiên nhiên nguyên thủy:
thanh niên trong làng, tượng trưng cho cộng đồng, mang kiếm kriss lại
đả kích, nhưng Rangda chỉ dơ tay là dân làng mất hết hồn phách, quay cuồng như
lên đồng, có người dùng kiếm tự sát, có kẻ ngã gục xuống đất. May nhờ Barong ra
tay cứu độ, dân làng mới trở lại bình tỉnh nhưng rồi Barong và Rangda vẫn lại
tiếp tục đánh nhau trong một cuộc xung đột không ngừng như cuộc chiến muôn thuở
trong đời sống giữa thiện và ác theo tư tưởng người Bali.
Thật ra sự tích phức tạp hơn. Theo tục lệ, đến ngày lễ Tử thần,
hoàng tử Sahadewa phải được hiến thân. Sự có mặt một quỷ sứ, tay sai của
Rangda, làm hai người hầu hoảng sợ, vội chạy kiếm cận thần Pathit và hoàng hậu
Dewi Kunti. Bà nầy rất lo lắng phải giữ lời hứa cống dân đứa con thương mến.
Rangda sợ hoàng hậu rút lại lời hứa liền lại phát lên một câu yểm biến bà hoàng
hậu hiền lành thành một phụ nữ hung dữ dan tay đánh con và ra lệnh cho cận thận
dẫn hoàng tử ra nghĩa địa, nơi lưu trú của Rangda. Viên cận thần yêu hoàng tử
như con mình nên không nở dắt đi, Rangda liền biến cận thần thành tay độc ác
kéo hoàng tử ra cột trước miếu Tử thần. Nhưng trước khi Rangda ra tay hành
hình, thần Shiva, qua hình dáng một đạo sĩ, thương hại hoàng tử và ban cho
hoàng tử phép bất tử. Biết không thể làm gì được hoàng tử, Rangda đành chịu
thua và xin hoàng tử ân huệ được giết để chịu tôi. Hoàng tử đồng ý và, chết đi,
Rangda được lên Trời. Đến lượt Kakela, nữ giáo chủ của Rangda cũng xin được giết
nhưng hoàng tử từ chối. Tức giận, bà tự hóa ra con gầu để đánh phá hoàng tử
nhưng chẳng đuợc gì, bà liền biến thành con chim khổng lồ nhưng cũng thất bại.
Cuối cùng bà hiện ra qua hình dáng Rangda. Sức mạnh của Rangda là vô biên, nên
để địch lại hoàng tử chỉ còn lấy lốt Barong. Bây giờ hai đối thủ đồng sức nên
cuộc đấu chỉ có thể bất phân thắng bại. Thấy vậy dân làng mới dùng kiếm kriss lại
giúp sức Barong. Rangda liền hóa phép bắt dân làng quay lại tử đâm kiếm vào
mình. Để cứu dân làng, Barong cho họ nhập đồng, như vậy họ không bị thương khi
kiếm đâm vào mình và tránh khỏi chết. Sau đó, một tu sĩ cho rải nước thánh để
dân làng tỉnh giấc, trở lại đời sống bình thường, tạm thời chấm dứt ác mộng cho
đến cuộc đấu sau.
Bên cạnh Vũ tuồng Barong, Vũ điệu Legong thường
thẩy, môt tuồng kịch khá đặc biệt gọi là Vũ kịch Kecak, từ tượng
thanh CAK. Tương tự như trong vở tuồng Wayang Wong (**), cốt truyện lấy
từ Kỳ tích Rama tức Ramayana, huyền thoại lớn nhất sau Mahabharata, kể theo
phong cách Bali. Được cho là do nhà thơ Valmiki - hẳn nhiên hoang đường
- sáng tác, Ramayana xuất phát từ những yếu tố lịch sử liên quan đến các bất đồng
dữ dội trong thời cổ đại, có khi đi đến đánh giết nhau, giữa một quốc vương
trên bờ sông Hằng Hà và những bộ tộc trên đảo Tích Lan tức là Sri Lanka ngày
nay. Bài trường thi dài 48.000 câu thơ nầy kể lại thành tích của hoàng tử dũng
khí Rama (Ramawijaya) vương quốc Ayodya được phú thêm quyền thế ma lực, chồng của
công chúa Sita, con vua Janata láng diềng. Đôi vợ chồng mới cưới cùng với hoàng
tử Lakshmana, em Rama, vâng lệnh vua cha Dasarata, để giải quyết bất bình
gia đình, phải đi sống lưu vong mười bốn năm. Họ vào ở trong một ngôi rừng tình
cờ là nơi ngự trị của một đoàn quỷ sứ ăn thịt người Raksasas đứng đầu là vua quỷ
hung ác Rawana. Vua quỷ nấy thừa cơ bắt cóc Sita. Để cứu nàng, Rama phải nhờ tướng
khỉ Hanuman giúp sức và thành công sum họp vợ chồng.
Nguyên là một điệu múa trong vở Sang Hyang Dedari thường được
các cô gái nhỏ biểu diễn. Trong một trạng thái nửa thức nửa tỉnh, các cô nầy
(có thể chỉ hai cô) làm trung gian giữa người và tổ tiên hay thần thánh, như vậy
có khả năng chuyển giao và tiếp nhận những điều ước mong. Ngày nay, thay thế
các cô gái nhỏ là những thanh niên trên ở trần, dưới quấn sarong, hình
dung đoàn khỉ của Hanuman trong vũ điệu Kecak. Dưới ánh sáng mờ nhạt một
ngọn lửa Damar kecak, họ ngồi quanh vòng tròn vừa đánh nhịp vừa kêu hô kê
xat, kê xat, trong một đội hợp xướng pengecak, tưởng như đoàn khỉ trên đường
đi cứu Sita. Chính họa sĩ Walter Spies, một người Đức rất sành nghệ thuật và âm
nhạc Bali, hợp tác với nhà nghệ sĩ nhảy múa Nam Dương Wayan Limbak cùng dân cư
làng Bedulu khoảng 1930 đã đặt móng cho vũ điệu trên nền tản vở Sang Hyang
Dedari. Trong vũ điệu Kecak sáu màn, như trong truyện Ramayana, Parih
Marica, cận thần của vua quỷ Rawana, tự biến thành con nai sừng vàng để cho
Rama chạy theo săn, cậy em là Laksamana bảo vệ Sita. Marica giả giọng Rama kêu
than, Sita bảo Laksamana chạy đi cứu để nàng ở lại một mình. Rawana tiện lúc lại
bắt Sita đưa về sào huyệt ở Lengkapura, bay giờ là Tích Lan. Vua khỉ Hanumana
được Rama cậy đem lại cho Sita chiếc nhẫn của mình làm tin, nàng nhờ Hanumana
đem về Rama một chiếc hoa trắng có nghĩa nàng còn sống và trinh bạch. Trong lúc
ẩy, Rama và Laksamana chạy kiếm Sita, gặp con quỷ Meganada biến mũi tên thành
con rồng quấn lầy Rama, may nhờ chim Garuda của Víshnu phái đến cứu. Cùng với
Hanumana và đoàn khỉ, Rama đi cứu Sita. Màn cuối là cuộc giao chiến giữa đội quỷ
sứ rakshasas và đoàn khỉ. Trừ được Rawana, Sita đưa Sita về Ayodya lên nối ngôi
cha.
Những điệu múa truyền thống Bali thưòng được biểu diễn đệm
theo nhịp một dàn nhạc gọi là gamelan. Dàn nhạc nầy cốt yếu là một bộ nhạc
khí gõ: cồng (ageng, kenong, bonang), đàn kim loại (saron, peking, demung,
slentem, gender), đàn phiến gỗ (gambang), trống (ciblon, kendang), có khi đàn
dây (rebab, lacapi), sáo (suling) và hát hai giọng nam nữ. Thường nhạc công
đánh trống kendang được xem như là nhạc trưởng và một cuộc đối thoại
diễn ra giữa ông và nghệ sĩ múa tương tự như trong tuồng bóng wayang kulit.
Cả bản nhạc gamelan chơi theo chu kỳ: bắt đầu với cồng ageng và cũng
chấm dứt với ageng xem như là nhạc khí chính. Có nhiều chuyên gia xem
toàn thể gamelan như một nhạc cụ độc nhất. Thật vậy, sau cuộc biểu diễn,
nhạc công không đem nhạc khí về nhà tập dượt như trong các dàng nhạc khác. Nhạc
khí được xem là thiêng liêng và không ai dám bước qua vì chân được cho là không
trong sạch. Cũng vì vậy mà gamelan có mặt trong mọi tế lễ, đám cưới.
Về mặt nhạc học, Nam Dương gồm có hai phần: nhạc sunda ơ miền tây
Java, nhạc java ở hai miền trung, đông Java và Bali. Cả hai phần đều
có chung hai nhạc điệu prelog thất cung (heptatonique) như đàn đá Tây
Nguyên của ta và slendro ngủ cung (pentatonique); riêng nhạc sunda có
thêm nhạc điệu sorog. Ở Java, thường đàn kim loại saron bắt đầu
giai điệu, tiếp theo sau là các nhạc khí kenong, bonang đánh nhịp. Ở
Bali, nhạc khí chính gangsa bắt đầu, tiếp theo là những jejogan và
cồng đánh nhịp. Nhạc gamelan rất có tiếng trên quốc tế và nhiều nhạc
sĩ thế giới đã ghép gamelan vào nhạc của mình. Ở Pháp, ban nhạc Orfeo
ở Grenoble đã tậu một cái cồng keybar Bali, toàn một bộ gender đệm
tuồng wayang kuli và nhữngđàn tre rondik. Ở Aix-en-Provence,
hội Adémuse có mua một bộ gamelan Java và ban nhạc Gamelan Kancil thực
hiện những buổi hòa nhạc với các bài hiện đại đặc biệt sáng tác cho loại nhạc ấy.
Đầu tháng mười 2012, cả một đoàn múa lớn Bali gồm có nghệ sĩ ba làng Sebatu,
Telepud và Kedisan qua biểu diễn nhiều nơi ở Pháp, nhưng hôm tôi đi xem ở
Sceaux rất tiếc không có Vũ tuồng Barong đã có dịp thưởng thức ở
Bali. Theo tôi thấy tại chỗ, các điệu múa truyền thống Bali loại nầy có khả
năng tồn tại lâu dài.
Ngày chủ nhật 02.02,2014, Paris hân hạnh đón tiếp đoàn múa
hát nghi lễ Telepud đảo Bali (Indonesia) ở rạp Pleyel. Với 32 diễn viên và nhạc
công, dưới quyền điểu khiển của ông bầu Gde Adhi (cải biên Jacques Brunet, Jean
Luc Larguier), đoàn chọn lựa biểu diễn đặc biệt hai xuất một đoạn tuồng cổ nhất
Bali là Wayang Wong mang tên ‘’Bắt cóc Sita’’ (Enlèvement de Sita). Đối
với khán giả người Âu, đây là một món quà quš báu vì những đoàn nghị lễ như
đoàn nầy rất hiếm có ở đảo, chỉ tìm ra được ở những làng Bà la môn hẻo lánh.
Đây là những nơi còn bảo quản cẩn thận những bản thảo xưa, gọi là lontars,
về các huyền thoại, một việc cực kỳ khó khăn ngày nay trước cạnh tranh của du lịch
và internet. Các buổi trình diễn rất ngoạn mục, thuần khiết, nhưng đối với những
người ở đảo thì đây là cuộc bố trí nghiêm nghị những trang sách được các vị tu
sĩ kín đáo giữ gìn, nền tảng của mọi tuồng hát trên đảo. Các cuộc diễn xuất dù
là tuồng hát trước công chúng được xem như là những nghi lễ cúng bái các vị thần
thánh trong đền thờ. Như vậy, trước mỗi buổi diễn phải có hương đèn cầu khấn,
những diễn viên cùng những nhạc công phải theo đúng truyền thống để khỏi làm phật
lòng thần thánh là những vị trông nom sự sống còn của làng xóm. Di sản nghệ thuật
nầy dính liền với những hành vi, những tin tưởng đạo giáo chủ yếu có chức năng
dâng cúng nhưng tín đồ không buộc luôn phải gò bó trong môi trường thiêng liêng
để thoát ra thành một nghệ thuật ly kỳ, lộng lẫy. Vì đồ cúng thần thánh cần phải
hoàn hảo, tuồng hát, điệu múa, sáng tác bản nhạc luôn được cải tiến cho đến
hoàn thiện, nhưng đồng thời cũng cần phải đáp ứng mỹ quan những nhà sáng tác
Vì vậy, nói chung mỗi làng, mỗi phường trong thành phố có kiểu
cách của riêng mình từ đấy thường được tổ chức hằng năm những cuộc thi điệu
múa, bản nhạc. Trong một xứ gần như độc nhất trên thế giới thời nay hằng ngày sống
theo nhịp múa và tính nhạc, không có gì lạ khi nghe khắp làng những tiếng gõ,
nhạc cồng, tiếng trống, xập xỏa đệm theo những điệu múa bố trí thanh lịch minh
họa bầu trời đầy dẫy thần thánh từ thiện cũng như ma quỷ hung ác. Nhạc điệu
chính là phương cách để chinh phục những nhân vật hoang đường nầy. Dàn nhạc
chính thức có tên gamelan cốt yếu là một bộ nhạc khí gõ: cồng (ageng,
kenong, bonang), đàn kim loại (saron, peking, demung, slentem, gender),
đàn phiến gỗ (gambang), trống (ciblon, kendang), có khi đàn dây (rebab, lacapi),
sáo (suling) và hát hai giọng nam nữ. Thường nhạc công đánh trống kendang được
xem như là nhạc trưởng. Có nhiều chuyên gia xem toàn thể gamelan như
một nhạc cụ độc nhất. Nhạc khí được xem là thiêng liêng và không ai dám bước
qua vì chân được cho là không trong sạch. Cũng vì vậy mà gamelan có mặt
trong mọi tế lễ, đám cưới. Vai trò dàn nhạc rất quan trọng, không chỉ đệm theo
tuồng hát. Khởi phát từ những động tác nhẹ nhàng nhịp điệu của các nhạc công,
tiếng nhạc gô, tiếng cồng kim loại thôi thúc liên hồi một nghị lực vừa bản
thân, vừa tập thể, có khả năng đưa khán giả vào một trạng thái xúc cảm đồng cốt,
từ đó dẫn họ đến một miền vô định, lạc thú. Gamelan làngTelepud đặc
biệt thần diệu, có tiếng tăm, có thể xem như là dàn nhạc lịch sử của đảo.
Cùng với Gambuth, tuồng cổ Wayang Wong là mẫu
căn bản để phát triển mọi sáng tác về bố trí điệu múa và về dàn cảnh tuồng kịch
truyền thống Bali. Cả hai tuồng nầy có thể xem như là sườn cốt nghệ thuật và lš
thuyết nhưng không chỉ là một mô hình thẩm mỹ mà còn là một kịch trường trọn vẹn
trong ấy tham dự vừa nhạc hát, múa nhại, vừa khúc hát nói, đối thoại nói. Chính
trong khuôn khổ những phương cách sum sê dồi dào ấy mà lẫn lộn các màn tình ái
mộng mị, các hồi đoạn chiến đấu, các màn xen khôi hài, các cuộc đuổi bắt sống động,... trong lúc huyền thoại tuần tự diễn biến, tiếp nối nhau những cảnh tượng
sôi sục và những phong cảnh nên thơ yên tĩnh. Có những nhân vật tuy không cốt yếu
nhưng rÃt có ích là các chú hề : một bên Tuelen, Merdah hai người phục
vụ hoàng tử Rama, bên kia Delem, Sangut hai tay sai của vua
quỷ Ravana. Nếu những nhân vật chính diễn đạt với một ngôn ngữ chải chuốt
trong triều ngày xưa, loại văn chương khó hiểu, ngay cho cả người bản xứ, những
vai hề đùa nghịch với nhau, bình phẩm chế nhạo các nhân vật qua lối nói bình
dân để cho mọi khán giả có thể theo dõi các cuộc tranh luận. Trong ngành nhạc,
họ được xem như là phần đối âm để có thể thấu hiểu diễn biến sự tích. Nghệ thuật
kịch câm của họ lên cao đến nổi năm 1936, tay nghề hài kịch nổi tiếng thế giới
Charlie Chaplin lại xin cùng ở vài tháng để thấm nhuần tâm tính.
Dasarata
Subali
|
Tuồng ‘’Bắt cóc Sita’’ trích từ sử thi Ramayana Ấn
Độ, qua cải biên thuật sọạn điệu múa ‘’tuồng hát bóng không bóng’’, là thành
công lớn nhất vở Wayang Wong của Bali. Những diễn viên nhảy múa đều
mang mặt nạ mà cử chỉ điệu bộ cũng như quần áo trang phục đều phỏng theo những
con rối bằng da Wayang kulit. Mặt nạ xác định đẳng cấp của nhân vật: trắng,
vàng hay lục cho hàng quý phái, nhăn nhó dễ sợ cho quỷ sứ. Những nhân vật ít có
biết diễn đạt tinh tế: người xấu thì thật xấu, người tốt thì thật tốt, nhưng
những sự kiện đều là điển hình phong tục tập quán cả vùng. Bản kịch sân khấu
luân phiên bài múa, bài ca quanh nhạc điệu gõ gamelan. Hai người thuyết
minh, một trai, một gái, diễn mọi vai trò, trực tiếp giải thích sự tích. Ở rạp
Pleyel, những lời bình còn được dịch ra tiếng Pháp chiếu cao trên sân khấu. Một
tờ chương trình chi tiết từng màn kịch bản được phát cho khán giả. Ramayana, còn
gọi Kỳ tích Rama, là huyền thoại lớn nhất sau Mahabharata. Được cho
là do nhà thơ Valmiki - hẳn nhiên hoang đường - sáng tác, Ramayana xuất
phát từ những yếu tố lịch sử liên quan đến các bất đồng dữ dội trong thời cổ đại,
có khi đi đến đánh giết nhau, giữa một quốc vương trên bờ sông Hằng Hà và những
bộ tộc trên đảo Tích Lan tức là Sri Lanka ngày nay. Bài trường thi dài 48.000
câu thơ nầy kể lại thành tích của hoàng tử dũng khí Rama (Ramawijaya)
vương quốc Ayodya được phú thêm quyền thế ma lực, chồng của công
chúa Sita, con vua Janata láng diềng. Đôi vợ chồng mới cưới cùng
với hoàng tử Lakshmana, em Rama, vâng lệnh vua cha Dasarata, để
giải quyết bất bình gia đình, phải đi sống lưu vong mười bốn năm. Họ vào ở
trong một ngôi rừng tình cờ là nơi ngự trị của một đoàn quỷ sứ ăn thịt người Raksasas
đứng đầu là vua quỷ hung ác Ravana. Vua quỷ nấy thừa cơ bắt cóc Sita.
Để cứu nàng, Rama phải nhờ tướng khỉ Hanuman giúp sức và
thành công sum họp vợ chồng.
Sự tích rất dài, kể hết chi tiết phải cần một cuốn sách dày,
diễn xuất trọn vẹn cần hơn một trăm giờ. Thường chỉ một đoạn đuợc chọn lưa, tùy
theo hoàn cảnh. Ví dụ khi có khô hạn, đoạn được diễn xuất là màn ‘’thoát nước‘’: một người em của Ravana làm nghẽn nguồn suối để cho địch quân
thiếu nước, phải bỏ chạy khi đoàn khỉ lại đánh, và nước đuợc tháo ra…Có những
màn khác bị cấm không thì cả làng mang vạ bị cháy ! Chỉ các trận đánh nhau giữa
hai đội quân khỉ và đội quân quỷ với những đòn ma quái khủng khiếp qua lại
không ngừng đã là một cảnh tượng khá dài. Đoạn diễn xuất ở Paris điễn hình những
màn trình bày trong các đền miếu nhân các buổi tế lễ tôn giáo hay ruộng đất. Trận
giao chiến cuối cùng thường dành cho hai thủ lĩnh Rama và Ravana.
Nếu Ravana mặt mày dữ tợn, Rama trong trẻo luôn có mặt
trong nhà thờ chư thần như là hóa thân của Vishnu. Ramayana trở
nên truyền thuyết phổ biến nhất ở Ấn Độ cũng như ở các nước Đông Nam Á. khi văn
hóa Ấn Độ trở thành nền tảng những đế quốc Hindu tương lai. Không biết rõ vào
thời gian nào văn hoá nầy đã được đem vào quần đảo Nam Dương, người ta đoán khoảng
chừng vào thế kỷ IV những sử thi Ramayana và Mahabharata được
chuyển qua trộn lẫn với những truyền thuyết địa phương làm thành một di sản
riêng biệt Indonesia. Nếu cốt lõi sử thi Ấn Độ vẫn được giữ nguyên, những nhân
vật được địa phương hóa: Rama, Sita trở thành một hoàng tử, một cô
công chúa Java, trong tuồng nầy thì là Bali.
Kịch bản từ lâu không có thay đổi bao lăm. Ở màn đầu, Tuelen và Merdah, hai
người phục vụ hoàng tử Rama chuyện trò ở lâu đài Mantila của
vua Janaka. Rama và tùy tùng sắp sửa lên đường về Ayodya sau lễ
cưới với Sita. Nàng khóc vì Rama ra đi mà không thức nàng dậy.
Vua Dasarata và Lakshmana, thân phụ và thân huynh Rama, lại
dỗ dành Sita, bảo anh chỉ đi chào vua Janaka. Cả đoàn lên đường, qua
rừng gặp ẩn sĩ Ramaprasu, thách thức thi đấu với Rama. Ông đưa ra một
cái cung nặng, thách Rama nhất lên. Rama dễ dàng nâng cung
rồi hướng mũi tên về Ramaprasu. Sợ quá, ông xin chịu tội và hiến Rama thiên
đàng mà Rama trước đã được thần Indra ban cho. Về đến
Ayodya, vua Dasarata báo cho Rama biết ông nhường ngôi cho
chàng. Màn sau, hai tay sai Delem và Sangut hộ tống vua quỷ Ravana. Ông
ra lệnh cho bộ hạ Trisirah, Kara và Dursana giết hết các tu sĩ trong
rừng. Trong lúc ấy, vì lỡ hứa với vợ nhưòng ngôi cho Bharata, anh của Rama,
vua Dasarata khuyên Rama đem cô vợ Sita và người
em Lakshmana lánh vào rừng để tránh xích mích. Gặp con quỹ dữ ăn thịt
người Wirada đặc biệt đi với hai tay, hai anh em bắt và xé nó ra. Người
gặp sau là Surpanaka, em gái Ravana, đem lòng yêu hai chàng trai trẻ
đẹp và muốn quyến dũ, Lakshmana tức giận cắt lỗ tai, cô ta gào thét
vì đau, chạy đi mách Ravana. Bên phần ông vua quỷ nấy thì lại muốn chiếm
đoạt Sita bèn sai bộ hạ Marica biến thành con nai có sừng
vàng lại quyến dũ. Nàng muốn bắt nhưng không được, con nai lại chạy xa, Rama chạy đuổi
theo.
Ra xa, Marica giả giọng Rama kêu cứu, Lakshmana chạy
đuổi tiếp. Khi thấy Sita ở lại một mình, Rovana liền giả dạng
ẩn sĩ già Peranda đến bắt cóc Sita đem về vương quốc Lanka.
Dọc đường, có con chim huyền thoại Garuda Jatayu, bạn của vua Dasarata,
muốn cứu nhưng không nổi, lại bị cắt hai cánh rơi nằm xuống đất. Hai anh
em Rama và Laksmana không bắt đuợc con nai, trở về thì gặp Jatayu kể
cho biết Sita đã bị bắt cóc. Vào lúc ấy đại tướng quân khỉ Hanuman lại
cầu cứu giúp vua khỉ Surgriva đang bị anh là Subali tiếm
ngôi. Rama giết Subali và Hanuman vâng lời Surgriva cùng
đi cứu Sita. Trong lúc ấy, Ravana muốn quyến rũ Sita mà
không được. Rama gởi Hanuman mang chiệc nhẫn cưới của mình
đi Lanka dò xem Sita ở đâu. Trong rừng, ngồi hóng mát trong một cái động,
một phụ nữ đẹp, Swayampraba, mời Hanuman ăn đồ trái và đề nghị
hiến tặng quyền lực mầu nhiệm để đi mau tới Lanka với điều kiện là nhắm mắt lại.
Bất ngờ cô biến Hanuman thành quỷ Celuluk và bầy khỉ thành
bầy quỷ sứ ăn thịt người. May nhờ chim thần Sempati, em của Jatayu, hoá
pháp cho phục hồi lại thành khỉ. Sau đó, cả đội quân khỉ tiến đến đảo Lanka
nhưng chỉ có Hanuman có phép bay vào gặp Sita bị Rovana giam
trong cung điện. Sita rất vui mừng nhận ra chiếc nhẫn cưới và cậy Hanuman mang
về Rama một cái hoa. Lập tức, Rama, Lakshmana, Hanuman cũng
đội quân khỉ tiến vào tấn công Lanka, đánh bại đoàn quân quỷ sứ và Ravana chịu
thua….
Huyền thoại nầy, cũng như nhiều truyền thuyết khác, được xem
như là cuộc đấu giữa Thiên và Ác, bất phân thắng bại và luôn lặp lại giữa ông
hoàng đức hạnh và con quỷ dã man. Kết quả là các đòn ma quái long trời vỡ đất
gây ra bảo táp, lụt lội, hạn hán, động đất, .... đủ thứ thiên tai tác hại lớn đến
sản xuất và đời sống thường xảy ra hằng năm. Sự tích không khác gì chuyện cổ
Sơn Tinh Thủy Tinh bên ta. Tuồng Wayang Wong đã từng được ra mắt lần
đầu ở Festival d’Avignon năm 1992. Năm 2012, dàn nhạc gamelan Telepud
lại cùng đoàn Sebatu qua Phàp biểu diễn ở La quinzaine Biennale de Lyon. Vì là
một đoàn hiếm có ở Á Đông đang còn biểu diễn một nghệ thuật xưa xác thực, Bali
lại là pháo đài cuối cùng của Hindu giáo ở Indonesia, tôi mừng thầm thấy những
chuyên gia nghệ thuật không quên ghi giữ làm tài liệu bản thể một kho tàng văn
hóa, một thời đại văn minh. Một cuốn phim vidéo đã được đã được quây hôm biểu
diễn 02.02.2014 ở rạp Pleyel, đăng ba tháng trên mạng Cité de la Musique (citedelamusiquelive.tv).
Những ảnh minh họa trong bài này rút từ phim ấy và lấy trên internet.
Thành Xô cuối năm 2017
Bài và ảnh Võ Quang Yến
Theo http://chimvie3.free.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét