Thánh địa Mỹ Sơn
Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và gần thành cổ Trà Kiệu, bao gồm nhiều
đền đài Chăm Pa, trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi
núi. Đây từng là nơi tổ chức cúng tế của vương triều Chăm pa cũng như là lăng mộ
của các vị vua Chăm pa hay hoàng thân, quốc thích. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là
một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và
là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam. Thông thường người ta hay so
sánh Thánh địa này với các tổ hợp đền đài chính khác ở Đông Nam Á như Borobudur
(Java, Indonesia), Pagan (Myanma), Angkor Wat (Campuchia) và Ayutthaya (Thái
Lan). Từ năm 1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản
thế giới tân thời và hiện đại tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản thế giới
theo tiêu chuẩn C (II) như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hóa và theo
tiêu chuẩn C (III) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến mất.
Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng
23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng.
Lịch sử
Mỹ Sơn có lẽ được bắt đầu xây dựng vào thế kỷ IV. Trong nhiều
thế kỷ, Thánh địa này được bổ sung thêm các ngọn tháp lớn nhỏ và đã trở thành
khu di tích chính của văn hóa Chămpa tại Việt Nam. Ngoài chức năng hành lễ,
giúp các vương triều tiếp cận với các Thánh thần, Mỹ Sơn còn là trung tâm văn
hóa và tín ngưỡng của các triều đại Chămpa và là nơi chôn
cất các vị vua, thầy tu nhiều quyền lực. Những di vật đầu tiên được
tìm thấy ghi dấu thời đại vua Bhadravarman I (Phạm Hồ
Đạt) (trị vì từ năm 381 đến 413), vị vua đã xây dựng
một Thánh đường để thờ cúng linga và Shiva. Mỹ Sơn chịu ảnh
hưởng rất lớn của Ấn
Độ cả về kiến trúc - thể hiện ở các đền tháp đang chìm đắm trong huy
hoàng quá khứ, và về văn hóa - thể hiện ở các dòng bia ký bằng chữ Phạn cổ trên các tấm
bia.
Dựa trên các tấm bia văn tự khác, người ta biết nơi đây đã từng
có một đền thờ đầu tiên được làm bằng gỗ vào thế kỷ IV. Hơn 2 thế kỷ sau đó,
ngôi đền bị thiêu hủy trong một trận hỏa hoạn lớn. Vào đầu thế kỷ VII, vua Sambhuvarman (Phạm
Phạn Chi) (trị vì từ năm 577 đến năm 629) đã dùng gạch để xây dựng lại ngôi đền còn tồn tại đến ngày
nay (có lẽ sau khi dời đô từ Khu Lật về Trà
Kiệu). Các triều vua sau đó tiếp tục tu sửa lại các đền tháp cũ và xây dựng
các đền tháp mới để thờ các vị thần. Gạch là vật liệu tốt để lưu giữ ký ức của
một dân tộc kỳ bí và kỹ thuật xây dựng tháp của người Chàm cho tới nay vẫn còn
là một điều bí ẩn. Người ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp thích hợp về chất liệu
gắn kết, phương thức nung gạch và xây dựng.
Những ngọn tháp và lăng mộ có niên đại từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIV, nhưng các kết quả khai quật cho thấy các vua
Chăm đã được chôn cất ở đây từ thế kỷ IV. Tổng số công trình kiến
trúc là trên 70 chiếc. Thánh địa Mỹ Sơn có thể là trung tâm tôn giáo và văn hóa
của nhà nước Chăm pa khi thủ đô của quốc gia này là Trà Kiệu hay Đồng Dương.
Thuộc huyện Tịnh Biên (An Giang), Trà Sư lại mang đến cho du
khách cảm giác khoan khoái, dễ chịu khi hòa mình giữa thiên nhiên xanh biếc. Dưới
bóng mát của rừng tràm, chiếc xuồng lướt nhẹ trên thảm bèo xanh ngút ngàn giữa
không gian hoang sơ và trong lành hiếm thấy. Có cảm giác như ta đang rẽ sóng
trên biển nước đẹp như cổ tích.
Đi xuồng trong rừng, tôi nghe thoang thoảng mùi thơm dịu nhẹ của bông tràm, mùi tinh dầu từ lá tràm thật sảng khoái. Đặc biệt, chúng tôi chụp được rất nhiều ảnh về những loài chim quý đậu san sát trên tán tràm cổ thụ. Những chú chích cồ, cò ma, dòng dọc hay giang sen, điêng điểng có trong sách đỏ Việt Nam dường như chẳng mảy may quan tâm đến vị khách lạ, vẫn ung dung mớm mồi cho chim non, rỉa cánh, chuyền cành rồi đập cánh vang động một góc rừng.
Đi xuồng trong rừng, tôi nghe thoang thoảng mùi thơm dịu nhẹ của bông tràm, mùi tinh dầu từ lá tràm thật sảng khoái. Đặc biệt, chúng tôi chụp được rất nhiều ảnh về những loài chim quý đậu san sát trên tán tràm cổ thụ. Những chú chích cồ, cò ma, dòng dọc hay giang sen, điêng điểng có trong sách đỏ Việt Nam dường như chẳng mảy may quan tâm đến vị khách lạ, vẫn ung dung mớm mồi cho chim non, rỉa cánh, chuyền cành rồi đập cánh vang động một góc rừng.
Khảo cổ học
Sau khi vương quốc Chiêm
Thành lụi tàn, Thánh địa Mỹ Sơn đã chìm trong lãng quên hàng thế kỷ, đến
năm 1885, nó mới
được phát hiện. Mười năm sau, các nhà nghiên cứu bắt đầu thực hiện các cuộc
phát quang, nghiên cứu khu di tích này.
Có thể chia việc nghiên cứu của các nhà khoa học Pháp về Mỹ
Sơn thành hai giai đoạn:
Từ năm 1898 đến 1899: Louis de Finot và Launet de Lajonquere nghiên
cứu các văn bia.
Từ năm 1901 đến 1902: Henri
Parmentier nghiên cứu về nghệ thuật, năm 1904 ông
cùng Olrpeaus tổ chức khai quật khảo
cổ học tại đây.
Đến năm 1904, những tài liệu cơ bản nhất về Mỹ Sơn đã được L. Finot và
H. Parmentier công bố. Từ công trình nghiên cứu của H. Parmentier, người ta biết
cách đây hơn 100 năm Mỹ Sơn còn 68 công trình kiến trúc, và ông đã chia chúng
thành các nhóm từ A, A’ đến N.
Nhà nghiên cứu nghệ thuật F.S. Tern chia di tích Chăm
Việt Nam thành 7 phong cách nghệ thuật theo quá trình tiến triển của nó. Mỹ Sơn
có đủ đại biểu các phong cách, trong đó có 2 phong cách xuất phát từ Mỹ Sơn. Đặc
biệt phong cách Mỹ Sơn A1 với xuất phát là đền A1 thường được gọi là kiệt tác
kiến trúc của di tích Chăm.
Các nhà khảo cổ học Pháp chia
các công trình kiến trúc ở Mỹ Sơn ra làm 10 nhóm chính: A, A', B, C, D, E, F,
G, H, K để đặt tên cho mỗi công trình theo kiểu ghép chữ cái và số.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét