Cảm nghĩ về nhạc dân gian
Tôi ra đời ở làng Điền Hộ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Khi
lên 10 tuổi, tôi phải xa gia đình để đi học ở một trường dòng tu Công Giáo tên
là Tiểu Chủng Viện Ba Làng. Trong các môn học thì như duyên tiền định, tôi yêu
mến, thích thú môn âm nhạc. Khi tôi nghe tiếng nhạc hay tiếng đàn, tim tôi mê mẩn
dạt dào. Điều linh tính đó đưa tôi đến gần âm nhạc hơn khi tôi khôn lớn.
Nhạc là một phạm vi bao la, bát ngát trong nếp nhân sinh.
Trong bài viết này tôi chỉ muốn nói về âm nhạc dân gian, mà trong đó nhạc dân
gian Bắc phần có ca trù, hay hát ả đào, và Quan họ Bắc Ninh. Tôi còn nhớ những
năm khi quê hương miền Bắc loạn lạc, toàn dân chống thực dân Pháp, tôi tản cư về
thành lánh bom đạn. Tôi có quen hai chị em thiếu nữ người Bắc Ninh, hai cô có
làn hơi phong phú, hát ả đào, ngân giọng ca trù rất hay. Tôi đã gần gủi với nhạc
dân gian, và từ đó tìm hiểu thêm về một góc đẹp văn hóa quê hương.
Huyện Nga Sơn, cảnh đẹp ven biển.
Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc với một nền văn minh lâu
đời, có một nền âm nhạc dân gian đa dạng như Việt Nam phải nói là thật phong
phú. Những tiết tấu, âm điệu đặc trưng của dân ca phần lớn phát nguồn từ những
câu đồng dao dù bình dị đơn giản, hay những câu ca dao thâm thúy khúc chiết và
loại thơ vần như lục bát, thơ được gạn lọc, bổ sung qua nhiều giai đoạn thời
gian rồi trở nên những thể loại ca hát dân gian khác nhau của từng địa phương,
từng vùng đất nước, từng miền phương ngữ. Ví dụ như hát vi giao duyên của miền
trung du bắc phần. Hát Chầu văn là hình thức hát nhạc thờ cúng, có tính chất
tôn giáo linh thiêng, các thầy cúng chuyên nghiệp đánh đàn nguyệt, có giọng hát
điêu luyện phụ họa thuộc nhiều điệu hát, và pha vào đấy là tiếng trống vỗ. Độc
đáo phải kể về lối hát Quan họ Bắc Ninh, một lối hát rất phong phú về âm nhạc.
Rồi lối hát Ả đào, một hình thức rất đặc biệt của nhạc dân gian Bắc phần. Về
thành phần cho lối hát Ả đào gồm có một người hát hay đào nương, hai tay gõ
phách, một nhạc công đàn đáy, một trống chầu dùng để người nghe hay quan viên
thưởng ngoạn những âm giai, những giọng hát hay.
Mới đây anh bạn Việt Hải ngỏ ý là tôi hãy phổ nhạc một bài
dân ca Quan họ, tôi bảo tôi chỉ phổ theo lối dân ca quê hương mà thôi. Vì dân
ca Quan họ cần những quy tắc về điệu hát và nhạc cụ chuyên môn, nó không phải
phạm trù chuyên môn của tôi. Bài hát Quan họ Việt Hải bàn luận là bài hát nổi
tiếng mà nhiều người biết đến là Người Ở Đừng Về, đây là tên một bài hát dân ca
Quan họ Bắc Ninh do Xuân Tứ cải biên từ bài Quan họ cổ điển Chuông Vàng Gác Cửa
Tam Quan và bài hát được viết xuất xứ từ một bài thơ dân gian. Bài hát thường
được cất lên vào lúc hội tàn, nhất là khi từ giã nhau. Trong ý thơ chan chứa lời
hò hẹn, nhằn nhủ khi ta nghe câu ca "Người ơi! Người ở đừng về".
Người ơi người ở đừng về
Người về em vẫn khóc thầm
Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa
Người ơi người ở đừng về
Người về em vẫn trông theo,
Trông nước nước chảy, trông bèo bèo trôi
Người ơi người ở đừng về
Người về em nhắn tái hồi
Yêu em xin chớ đứng ngồi với ai
Người về em vẫn khóc thầm
Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa
Người ơi người ở đừng về
Người về em vẫn trông theo,
Trông nước nước chảy, trông bèo bèo trôi
Người ơi người ở đừng về
Người về em nhắn tái hồi
Yêu em xin chớ đứng ngồi với ai
Việt Nam là quốc gia mà nền kinh tế và xã hội được phát triển
từ nông thôn, do đó nếp dân sinh ở các xóm làng miền quê, tình yêu trai gái được
ghi nhận qua nhiều trong vần thơ hay các câu đồng dao. Sự lãng mạn của trai gái
bị nếp lễ giáo nho phong ràng buộc, hãy nghe tiếp đoạn cuối:
Mình về, ta chẳng cho về,
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ
Câu thơ ba chữ rành rành:
Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình là ba.
Chữ Trung thì để phần cha,
Chữ Hiếu phần mẹ, đôi ta chữ Tình.
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ
Câu thơ ba chữ rành rành:
Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình là ba.
Chữ Trung thì để phần cha,
Chữ Hiếu phần mẹ, đôi ta chữ Tình.
Những bài dân ca Quan họ khác thịnh hành là: Ngồi tựa song
đào, Tương phùng tương ngộ, Bèo dạt mây trôi, Ngồi tựa mạn thuyền, Đêm qua nhớ
bạn,...
Sau đây xin đính kèm bản nhạc mà bài Người Ở Đừng Về mà tôi
phổ thành nhạc như sau, dẫn ý lời trìch từ bài thơ nêu trên.
Mình Ơi Em Chẳng Cho Về
Người ơi người ở đừng về
Người về em vẫn tỉ tê (mà) khóc thầm
Người về em đứng em nằm
Đôi bên vạt áo ướt đầm (mà) như mưa
Người ơi người ở đừng về
Người về em vẫn kè kè (mà) trông theo
Người ơi em vẫn trông theo
Trong nước nước chảy trông bèo (mà) bèo trôi
Mình ơi!
Mình ơi đừng ở đừng có về nghe
Mình về em nhắc lời thề (mà) nhớ thương
Nhớ thương nhớ thương em vẫn nhớ thương
Yêu em xin chớ chung giường (mà) với ai
Mình ơi em chẳng cho về
Em níu vạt áo em đề (mà) bài thơ
Chữ Trung xin để phần cha
Chữ Hiếu phần mẹ, đôi ta (là) chữ Tình
Tình tình tình ơi hỡi tình ơi
Tình tình tình ơi hỡi là tình
Tình tình tình ơi hỡi tình ơi
Tình tình tình ơi hỡi là tình
(Anh Bằng).
Người về em vẫn tỉ tê (mà) khóc thầm
Người về em đứng em nằm
Đôi bên vạt áo ướt đầm (mà) như mưa
Người ơi người ở đừng về
Người về em vẫn kè kè (mà) trông theo
Người ơi em vẫn trông theo
Trong nước nước chảy trông bèo (mà) bèo trôi
Mình ơi!
Mình ơi đừng ở đừng có về nghe
Mình về em nhắc lời thề (mà) nhớ thương
Nhớ thương nhớ thương em vẫn nhớ thương
Yêu em xin chớ chung giường (mà) với ai
Mình ơi em chẳng cho về
Em níu vạt áo em đề (mà) bài thơ
Chữ Trung xin để phần cha
Chữ Hiếu phần mẹ, đôi ta (là) chữ Tình
Tình tình tình ơi hỡi tình ơi
Tình tình tình ơi hỡi là tình
Tình tình tình ơi hỡi tình ơi
Tình tình tình ơi hỡi là tình
(Anh Bằng).
Nhạc sĩ Lê Dinh và Anh Bằng
Như lời giao kết viết chung với nhạc sĩ Anh Bằng, tôi (Hoàng
Nam) sẽ nối tiếp bài viết này.
Qua phần trình bày trên của nhạc sĩ Anh Bằng đi sơ qua một số
bài thơ mà lời dùng cho các bài hát dân ca Quan họ thịnh hành mà quần chúng
quen biết, ông cũng rất vui khi bàn bạc với nhạc sĩ Lê Dinh và tôi về chủ đề
này, ông rất thích bài thơ lãng mạn "Người ở đừng về". Tôi vốn biết
ông có tài phổ nhạc từ thơ rất nhanh, một khi nguồn cảm hứng đến ông ghi nhận ý
nhạc trong nhấp nhấy. Ông cho biết khi làm bài hát Chuyện Hoa Sim, khi viết
xong được mấy câu bỗng ông lăn đùng ra ngủ, sáng sớm hôm sau thức dậy ông hý
hoáy vội tiếp ra giấy khi ý nhạc tuôn ra như suối. Tôi đồng ý khi nguồn cảm tác
đến hay có hứng khởi sẽ rất quan trọng cho giới văn nghệ sĩ trong lãnh vực
chuyên môn của họ.
Với bài Người Ở Đừng Về khi chúng tôi bàn bạc về nhạc dân ca,
và dùng nó như một mẫu mực khi nhìn vào kho tàng nhạc Quan họ, nó mang nét tình
yêu trai gái trao ước lời lãng mạn, dễ thương trong nỗi dịu dàng nào đó. Bài
Mình Ơi Em Chẳng Cho Về của Anh Bằng theo dòng suối chảy mượt mà trong ý thơ và
duyên dáng theo tiếng nhạc quê hương. Đây là mộ kỷ niệm vui giữa hai nhạc sĩ
Anh Bằng và Lê Dinh, và tôi được may mắn đóng góp nét tổng quát về nét thơ dân
ca qua bài viết này.
Được biết trước năm 75, khi nhạc sĩ Anh Bằng phục vụ tại hai
Đài Phát Thanh Sài Gòn hoặc Đài Phái Thanh Quân Đội, ông nhận lãnh viết gấp, mà
trong từ ngữ chúng tôi dùng là viết marathon với thời gian, những ca khúc đáp ứng
cho nhu cầu của những chiến dịch đặc biệt, như Phượng Hoàng, ông ngồi trong xe
và nắn nót vỗ về ý nghĩ trong ba mươi phút phù du có xong bài hát cho nhu cầu
thời chiến, nhạc phải hay để ca sĩ vui mà hát. Đó là cái tài năng của nhạc sĩ
Anh Bằng.
Nhạc phổ từ thơ là một phạm vi Anh Bằng có sở trường từ thiên
khiếu. Bài Mình Ơi Em Chẳng Cho Về dùng lời lục bát, ông khéo léo đưa vào âm điệu
đặc thù của quê hương Việt Nam, chắc hẵn trong trái tim của ông theo ý tôi, xuất
từ vùng Thanh Hóa, cái nôi của văn hóa thi ca âm nhạc, và quê hương của ông đã
tạo ra người nhạc sĩ thủy chung với dòng nhạc đậm đà với thi vị quê hương đất
nước, trong cái chất tình tự bàng bạc với dân tộc không kém.
Đó là phần Anh Bằng trích thơ dân gian dể phổ nhạc. Bây giờ
tôi xin tiếp tục đề tài Quan họ mà Anh Bằng đã đề xướng trong phần ông viết.
Theo Bách khoa Tự điển Wikipedia thí nguồn gốc "Quan họ"
được diễn nghĩa đen về mặt từ nguyên ngữ của "quan" và của "họ".
Điều này dẫn đến những ý kiến giải thích về Quan họ xuất phát từ "âm nhạc
cung đình" (nhạc của tầng lớp quan lại trong triều đình), hay gắn liền với
sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền
anh liền chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức "họ" vui ca. Tuy
nhiên, cách giải thích này đã vô tình bỏ qua những yếu tố của không gian sinh
hoạt văn hóa Quan họ như hình thức sinh hoạt xã hội, những nghi thức các phường
kết họ khiến anh hai, chị hai để rồi suốt đời chỉ là bạn, không thể kết duyên vợ
chồng, cách diễn xướng, hay lối sử dụng từ ngữ đối đáp với nhau về ý nghĩa và
thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian.
Lại có một số quan điểm cho rằng Quan họ bắt nguồn từ những
nghi lễ tôn giáo dân gian, chứ không phải Quan họ có nguồn gốc từ âm nhạc cung
đình, hoặc có quan điểm nhận định diễn tiến của hình thức sinh hoạt văn hóa
"chơi Quan họ" bắt nguồn từ nghi lễ tôn giáo dân gian qua cung đình rồi
trở lại với dân gian.
Một nhận định khác dựa trên phân tích theo nghĩa từ ngữ,
trong các làn điệu và không gian diễn xướng lại cho rằng Quan họ là "sự
liên quan" đến một nhóm những người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc.
Hát Quan họ
Xét về yếu tố nhân văn, "hát Quan họ" là một lãnh vực
văn hóa truyền thống có giá trị cao quý của người Việt. Quan họ truyền thống đã
phát triển và được lưu truyền tại ở 49 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc. Vùng
bình nguyên rộng lớn của hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, mà gồm nhiều làng quan
họ quy tụ trên phạm vi đất Bắc Ninh, và chỉ có vài làng nằm trên đất Bắc Giang.
Do đó, người ta vẫn thường ví đó là vùng Kinh Bắc, hoặc giả cho là Bắc Ninh là
quê hương của các làng Quan họ truyền thống, là chiếc nôi sinh ra và nuôi dưỡng
các làng Quan họ. Người dân Kinh Bắc hãnh diện về nguồn gốc văn hóa Quan họ
truyền thống, như là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa âm nhạc dân gian tiêu
biểu của Bắc phần nói chung, với những quy luật nghiêm khắt khi đòi hỏi liền
anh liền chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ âm nhạc Quan họ. Vì vậy
cho nên người dân Kinh Bắc thích thú khi thưởng lãm thú vui về luật Quan họ.
Trong luật Quan họ gồm lối người trình diễn nam hay nữ mặc
trang phục Quan họ đúng cách như nét đẹp của văn hóa Kinh Bắc. Trang phục Quan
họ còn gọi là trang phục liền anh liền chị. Trang phục nam dành cho các liền
anh Quan họ thường mặc áo dài vải màu tươi sáng, may năm thân, cổ đứng, viền
tà, gấu to, dài quá đầu gối, và bên trong mặc áo cánh. Còn áo dài bên ngoài được
may bằng lương, the, đoạn, màu đen. Theo lối cũ trước đây, người nam thường vấn
tóc búi tó bằng khăn nhiễu. Sau này họ cãi biến đi khi cắt tóc ngắn, rẽ ngôi
nên dùng loại khăn xếp may sẵn bán ở các cửa tiệm cho thuận tiện.
Về trang phục nữ Quan họ còn gọi là trang phục liền chị chung
quy gồm các thành phần như trong cùng là một chiếc yếm có màu "mạnh"
dễ bắt mắt, xậm như đỏ (xưa gọi là yếm thắm),vàng thư (hoa hiên), xanh da trời
(thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen),... Có hai loại yếm như yếm cổ xẻ (dùng cho
trung niên) và yếm cổ viền (dùng cho thiếu nữ). Bên ngoài yếm là một chiếc áo
cánh màu trắng, vàng, ngà,... là những màu nhẹ, hay nhạt. Bên ngoài cùng là những
lượt áo dài năm thân, cách phối trí màu cũng tương tự như ở bộ trang phục nam
nhưng màu sắc tươi hơn.
Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu là hát đôi
giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Trong
quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội,
hát canh, hay hát nhóm, hay hát rủ bọn. Cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm
liền chị được gọi là Hát đối đáp. Có nhiều lối hát như: Hát đối đáp, Hát canh,
Hát hội, Hát thờ, Hát cầu đảo, Hát chúc mừng,...
Hát ả đào
Bây giờ chúng ta xét qua một loại hát khác là Hát ả đào, hay
còn gọi là Ca trù.
Nếu như Kinh Bắc là đất của văn hóa Quan họ, thì xứ Đoài là một
trong những cái nôi của văn hóa Ả đào, hay Ca trù cửa đình. Nơi có nhiều nhà
hát cô đầu nhất là ở Xứ Đoài, và Xứ Đoài gồm có Phú Thọ, Vĩnh Phúc ở phía bắc,
Hà Tây ở phía nam, tiếp giáp Thăng Long (Hà Nội). Phú Thọ - Vĩnh Phúc là vùng
trung du, nơi quy tụ của ba dòng sông lớn tại Bắc phần là sông Hồng, sông Lô và
sông Đà chụm về đây, nơi có kinh đô Phong Châu của vua thủy tổ Hùng Vương, nơi
có nguồn gốc tổ tiên của Việt tộc. Do đó nền văn hóa xứ Đoài trải dài từ vùng
trung du đến đồng bằng Bắc bộ.
Lịch sử phát triển của nghệ thuật ca trù đã trải qua các thời
kỳ rất phức tạp, thuở ban sơ của buổi khai mở ngành này, nó là ban nữ nhạc
trong cung đình của nhà vua với tính cách giúp vui cho hoàng gia thưởng lãm,
nên được xem như một loại nghệ thuật "cung đình". Với lối hát tiêu
khiển, vui chơi để phục vụ cho nhu cầu thưởng ngoạn của một số quan lại, cùng
nho sĩ thì nó là một hình thức nhạc thính phòng. Với lối hát cửa đình hay hát
trước hương án của các vị thành hoàng ở bên trong nhà và hát bên ngoài sân hội
với đông đảo quần chúng tham dự, do dó nghệ thuật ca trù được xem như vừa mang
tính chất thính phòng, lại vừa mang tính chất đại chúng. Ca trù được ghi nhận
ra đời vào thề kỷ 15, trải qua nhiều giai đoạn đổi thay và cãi tiến, đến giai
đoạn phát triển hưng thịnh nhất lên hàng nghệ thuật của nó là vào thế kỷ 19.
Các quan lại trí thức, các nho sĩ thường mời ả đào về tư dinh của mình để hát
những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng hoặc thơ của chính mình sáng tác. Nghệ
thuật ca trù cần 3 người: một ả đào vừa hát vừa gõ phách, một kép đánh đàn đáy
và chính chủ nhân vừa làm khán giả, vừa là người cầm chầu tức đánh trống. Người
cầm chầu vừa điểm trống theo câu hát vừa là người thưởng, phạt, khen, chê,
thông qua hiệu lệnh của tiếng trống. Chỉ cần 3 người cũng đã tạo nên một buổi
trình diễn ca trù tiêu biểu.
Thể thức ca trù là một nghệ thuật phối hợp giữa âm nhạc và
thi ca, mỗi buổi hát ca trù là một cuộc trình diễn nghệ thuật mà trong đó cả diễn
viên và khán giả đều là nghệ sĩ thưởng ngoạn cái nghệ thuật do chính mình đóng
góp. Khi cả hai bên diễn viên và khán giả đều tích cực tham gia vào cuộc trình
diễn, thì họ tìm được một sự đồng điệu trong nghệ thuật. Ca trù đã trở thành
thú chơi tao nhã của các bậc phong lưu, nho sĩ vào thời hưng thịnh xưa và chính
nó tiêu biểu cho hình thức âm nhạc thính phòng độc đáo của người thưởng ngoạn
Việt Nam. Một khi ca trù thoát ra khỏi những vương cung hoàng phủ thì nó nghiễm
nhiên trở nên một nghệ thuật tiêu khiển cho đa số quần chúng, để nó phục vụ khối
lượng lớn của đám đông rồi trở thành loại âm nhạc dân gian của dân tộc. Chính sự
phổ biến sâu rộng ra ngoài môi trường quảng đại quần chúng, nên ca trù được các
danh sĩ tài hoa rành âm luật thi ca đa dạng hóa, cãi tiến để bổ sung nhiều lối
hát, làm cho ca trù ngày càng thêm phong phú.
Luận bàn về tên gọi thì "Ca trù" bắt nguồn từ cái
"trù", tức là cái thỏi bằng tre ghi chữ nho. Mỗi trù tương ứng với một
số tiền nhất định nào đó. Mỗi khi ca đoạn nào hay, đào hát lại được khán giả tưởng
thưởng cho một vài cái trù.
Còn với tên "Ả đào", được hiểu chữ "ả" có
nghĩa là một cô nương, và chữ "đào" có nghĩa là một cành đào biểu tượng
cho nét đẹp của người nữ, danh từ "Hát ả đào" cũng có thể hiểu là
ngành ca hát của cô gái sống bằng nghề này. Sau nữa, nói về danh từ "Cô đầu"
thì có người cho rằng nguyên thủy là "Cô đào", dần dà người ta quen
nói trại đi thành "Cô đầu". Theo sách biên khảo về ca trù của các tác
giả Đỗ Trọng Đoàn và Đỗ Trọng Huề thì hai ông cho là chữ "đầu" ám chỉ
tiền hoa hồng hay tiền đầu mà đào nương phải trả cho người thầy dạy. "Cô đầu"
lại cũng được dùng để ám chỉ những người hát chuyên nghiệp thâm niên dẫn đầu có
nhiều học viên.
Do vậy, dù là "Ca trù" hay "Hát ả đào",
hoặc "Hát Cô đầu" vẫn chỉ là một ý tưởng mà thôi. Nó là lối hát nói,
là một lối hát quan trọng của thú vui chơi, thưởng ngoạn âm nhạc ngày trước, vì
nó đánh dấu giai đoạn đưa thi ca vào âm nhạc, nó khuyến khích sự ra đời một thể
thơ mới, đặc biệt trong văn học Việt Nam. Nhiều bài hát nói nổi tiếng của các
thi nhân danh tiếng như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương
Khuê, Tản Đà,... những tác giả cho nhiều bài thơ mẫu mực cho thế hệ sau lấy làm
tài liệu học tập. Thơ của họ là những tác phẩm có giá trị cao quý đóng góp cho
nghệ thuật ca trù và cho văn học Việt Nam vào thế kỷ 19, cũng là mầm mống cho
thể loại thơ mới, hay thơ tự do về sau này.
Những bài tuyệt tác của ca trù được biết như: Hồng hồng tuyết
tuyết (thơ Dương Khuê), Tự tình (thơ Cao Bá Quát), Bắc phản (thơ Nguyễn Du), Tỳ
bà hành (thơ Bạch Cư Dị), Kể chuyện (thơ Bà Huyện Thanh Quan), Hương Sơn phong
cảnh (thơ Chu Mạnh Trinh), Hỏi gió, Gặp xuân (thơ Tản Đà), Hồ Tây (thơ Nguyễn
Khuyến),...
Khi tôi nghe nữ sĩ Bạch Hạc bên Houston trình bày bài ca trù
nổi tiếng của nhà thơ Dương Khuê qua tác phẩm "Hồng Hồng Tuyết Tuyết",
tôi cảm nhận một sự say mê thích thú. GS Doãn Quốc Sỹ và nhà thơ Vũ Hối đều
chia sẻ một quan điểm tương đồng về thú thưởng ngoạn ca trù.
Sau đây chúng ta hãy xét về bài ca trù "Hồng Hồng Tuyết
Tuyết",
(Phần mưỡu)
"Ngày xưa Tuyết muốn lấy ông
Ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết gì
Bây giờ Tuyết đã đến thì
Ông muốn lấy Tuyết, Tuyết chê ông già.
Nước nước biếc, non non xanh
Sớm tình tình sớm, trưa tình tình trưa
Nhớ ai tháng đợi năm chờ
Nhớ người độ ấy bây giờ là đây.
Ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết gì
Bây giờ Tuyết đã đến thì
Ông muốn lấy Tuyết, Tuyết chê ông già.
Nước nước biếc, non non xanh
Sớm tình tình sớm, trưa tình tình trưa
Nhớ ai tháng đợi năm chờ
Nhớ người độ ấy bây giờ là đây.
(Phần Nói)
Hồng Hồng, Tuyết Tuyết
Mới ngày nào còn chưa biết chi chi
Mười lăm năm thấm thoát có xa gì
Ngoảnh mặt lại đã đến kỳ tơ liễu.
Ngã lãng du thời quân thượng thiếu
Quân kim hứa giá ngã thành ông.
Cười cười nói nói sượng sùng
Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại
Riêng một thú Thanh sơn đi lại
Khéo ngây ngây dại dại với tình
Đàn ai một tiếng Dương tranh".
Mới ngày nào còn chưa biết chi chi
Mười lăm năm thấm thoát có xa gì
Ngoảnh mặt lại đã đến kỳ tơ liễu.
Ngã lãng du thời quân thượng thiếu
Quân kim hứa giá ngã thành ông.
Cười cười nói nói sượng sùng
Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại
Riêng một thú Thanh sơn đi lại
Khéo ngây ngây dại dại với tình
Đàn ai một tiếng Dương tranh".
Bài hát trên tác giả ngụ ý nói ả đào Hồng Tuyết không ngoài ý
nghĩa là mượn tên ám chỉ tên một cô gái trong nghề ca trù, mà còn muốn nói lên
một đào nương ngay từ khi còn bé tí như một bông hoa xinh đẹp, ngây thơ và
trong trắng. Đào nương được quý trọng từ thuở tấm bé đó đã được học đánh phách.
Đứa bé còn vô tư, chưa biết gì về ý niệm ái tình. Nhưng 15 năm sau bé gái ấy đã
đến giai đoạn dậy thì khách lãng du thuở xưa ngỏ lời tự sự của một ông già ham
vui là người vốn ăn chơi ái tình lãng mạn từ khi em còn bé tí, nay khách đã già
nhưng vẫn còn tính ăn chơi ong bướm như xưa. Từ ngữ được xử dụng trong bài hát
"Bạch phát" mang ý nghĩa là tóc bạc, ám chỉ khách nay đã già nua rồi.
Ý thơ cho biết khách ăn chơi nay gặp lại cô bé, nàng đã khôn lớn xinh đẹp, tuổi
tác quá chênh lệch nên gặp nhau vẫn cười nói ngượng ngùng. Còn "Thú Thanh
sơn đi lại", ám chỉ nơi hồng lâu tập trung nhiều cô đầu thuộc khu vực Hà
Đông - Hà Tây ngày nay. Các câu mưỡu tức câu tóm tắt đại ý trong bài.
Như phần trên đã đề cập, nguồn gốc ngành ca trù cho thấy rằng
nó có xuất xứ từ nơi cung đình, vì vậy cái gốc là hát cửa đình thường gồm 3 phần
tế tự, thơ ca và múa biểu diễn. Ca trù được biến thiên, phổ cập hóa cho mọi người
trong quần chúng thưởng ngoạn. Qua bài hát dẫn dụ tiêu biểu trên của nhà thơ
Dương Khuê, bài ca được soạn từ lời thơ thật uyên thâm, trữ tình và ý tưởng
phong phú. Điều đó đã nói lên nét đẹp của ca trù.
Nguyên Vũ, Thúy Anh, Anh Bằng,
Lệ Hoa và Hoàng Nam.
Bài viết "Cảm Nghĩ Về Nhạc Dân Gian" của Anh Bằng
và Hoàng Nam chỉ lướt phớt qua hai loại nhạc dân gian Bắc phần mà chúng tôi lấy
làm thích thú. Qua loại dân ca Quan họ Bắc Ninh được dẫn chứng từ bài hát thịnh
hành "Người ở đừng về", rồi nhạc sĩ Anh Bằng lấy ý phổ ra thành bài
tình ca quê hương, vói tên Mình Ơi Em Chẳng Cho Về. Với loại nhạc dân ca Bắc phần
khác là về hát ả đào hay ca trù được trình bày về nguồn gốc và dẫn dụ bài ca
tiêu biểu "Hồng Hồng Tuyết Tuyết", cho thấy nét độc đáo của ca trù về
sự phối hợp đa dạng, nhịp nhàng giữa thi ca và âm nhạc, và nhiều khi kèm theo
hoạt cảnh vũ nữa.
Những điệu nhạc dân gian này phản ảnh những tình tự văn hoá
đáng yêu của dân tộc Việt Nam. Tiếng ca Quan họ hay tiếng hát ả đào đi vào nhạc
dân gian, đi vào vào nhạc của quần chúng, có vườn hoa âm nhạc của lịch sử đất
nước, bởi vì một dân tộc có bề dầy về văn hóa không thể thiếu khía cạnh âm nhạc
tiêu biểu cho dân tộc đó. Chúng tôi xin chấm tài liệu tham khảo:
- Tự điển Bách khoa Wikipedia
- Chim Việt Cành Nam Online
- Trần Quang Hải Website
dứt ở đây với điều hiển
nhiên này.
Phụ lục: Xin mời nghe các bài hát
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét