Tú Mỡ thơ phở
Phở dĩ nhiên đã đi vào văn xuôi lâu rồi. Hóa ra phở cũng đã
đi vào thơ lâu rồi, mà nay mình mới biết. Cảo thơm lần giở, rành rành:
"Trong các món ăn quân tử vị
Phở là quà đáng quý trên đời ".
Phở là quà đáng quý trên đời ".
Món ăn của người quân tử có "nước dùng sao nhánh mỡ"
và có "khói nghi ngút đưa lên thơm điếc mũi", nên "xơi một bát,
thường khi chưa thích miệng". Miệng chưa đủ thích, thì miệng cứ vô tư xơi
thêm bát nữa, vì thứ "quà đáng quý" lại "đại bổ, tốt bằng mười
thuốc bắc (...) bổ âm dương phế thận can tì (...) bổ cả ngũ tạng tứ chi bát mạch"!
Ngon và bổ rùng rợn như thế, e trên đời chỉ có dồi chó là may
ra bì kịp (1), trách nào thiên hạ ai cũng muốn được khôn: "Sống trên đời,
phở không ăn cũng dại"!
Châu ngọc ba mươi chín hàng, thơ Phở đức tụng của
Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu đấy. Ðem cái "đức" của phở viết nên thơ phở mỡ
màng khiến người đọc mới "tụng" sơ sơ đã thấy nhờn môi, "phở
thi" mà xuất sắc như ông Tú chắc thi sĩ Tản Ðà bạn ông cũng phải chịu ngay
là làm thứ thơ "có ích".(2)
Vũ Bằng, Nguyễn Tuân tùy bút phở
Người quân tử khó gặp, của quý thường đắt. Phở vừa quân tử vừa
quý nhưng lại rất dễ tìm mà giá thì chỉ "một vài xu, nào đắt đỏ mấy
mươi", cho nên từ "kẻ phú quý cho chí người bần tiện" đều có thể
phở (tất nhiên phú tha hồ sơi ngày ba bữa nếu thích còn bần ba ngày được một bữa
đã mừng).
"Ca" cái tính "đại đồng" của phở, nào chỉ
có mình ông Tú... Phở.
Ðây Vũ Bằng: "phở (...) quà căn bản (...) người Việt Nam
(...) chắc chắn (...) ai cũng đã từng ăn phở".(3)
Ðây Nguyễn Tuân: "phở (...) món ăn rất nhiều quần chúng
tính (...) món ăn bình dân (...) các tầng lớp nhân dân (...) không mấy ai là
không biết ăn phở".(4)
Ba miệng một lời: phở đã đi vào lòng dân tộc. Về chuyện ấy,
chả lẽ bây giờ còn có điều ngờ vực hay sao?
Ba miệng một lời vẫn chưa đúng!
Ở trần gian, không có cái gì vừa đi đã đến. Nhất là đi vào
lòng dân thì đường sá lắm khi ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, bao giờ đến được hẵng mừng.
Cũng như mọi thứ khác, phở đầu tiên là lọt lòng, rồi mới nằm
nôi, rồi mới lẫm chẫm tập đi, rồi mới bắt đầu chạy... để té. Trông bé phở lớn
mãi chán mắt, quay đi, lúc nào đó trông lại thì bé đã thành người lớn và đã xin
được hộ khẩu thường trú tận trong đáy lòng ta rồi! Nhưng lúc đó là cái lúc nào?
Tú Mỡ thơ phở có lẽ vào khoảng năm 1937, 1938 gì đó. Còn Vũ Bằng
và Nguyễn Tuân ngẫu nhiên cùng văn phở vào năm 1957.(5)
Ðừng nói năm 1957, đến năm 1997, ta hoàn toàn vẫn còn có thể
đặt vấn đề về tính quần chúng thực sự của phở!
Khoảng năm ấy, có dịp về thăm một làng quê ở huyện Nghĩa
Hưng, tỉnh Nam Ðịnh, có dịp hỏi chuyện một số thanh niên. Thì đã cô cậu nào dùng
đến thứ phở bò chính hiệu đâu, chỉ thỉnh thoảng, lúc ốm, mới nếm tí "phở lợn"
nhà đạp xe đi mua. Bốn mươi năm sau ngày được Nguyễn Tuân phong danh hiệu
"thực tế vĩ đại của dân tộc", phở vẫn chưa chịu thực về đến nông thôn
miền Bắc, nói chi nông thôn miền Trung, miền Nam!
Người Việt Nam năm 1997 đại đa số sống ở quê. Một món ăn chưa
về đến quê, sao gọi là "quà căn bản" của nhân dân được!
Hà Nội không phải là tất cả Việt Nam
Tại sao xảy ra chuyện thơ, văn phản ánh không chính xác thực
tế đời sống?
Thiết nghĩ phần lớn là do ở cái lý lịch của người làm thơ, viết
văn. Tú Mỡ, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân khi bàn về phở đều đang cư ngụ tại Hà Nội, là
nơi phở đang mạnh mẽ trưởng thành. Khi các văn nhân ấy nói "kẻ phú quý cho
chí người bần tiện", nói "người Việt Nam", nói "các tầng lớp
nhân dân", thực ra họ đều nói riêng về người Hà Nội mà thôi!
Vũ Bằng và Nguyễn Tuân có thấy phở ở ngoài Hà Nội, khi tản cư
hay tham gia kháng chiến sau ngày toàn quốc kháng chiến. Này phở ở chợ nọ chợ
kia, này phở do các anh nuôi nấu để bồi dưỡng bộ đội. Nhưng những bát phở chợ
quê hay phở dã chiến kia không có liên hệ gì với lúa với ngô với khoai cả, mà
chính đã do những nỗi lòng Hà Nội tản cư ấp ủ đem theo. Khói lửa kinh thành đưa
phở về quê, nhưng phở về mà không thực bén rễ ở quê, không mọc lan tỏa khắp
làng khắp xóm. Sau những năm đánh giặc xôn xao, trông lại thì quà quê điển hình
vẫn là bún riêu, bún ốc, chứ không phải phở.
Hà Nội là thủ đô ngàn năm văn vật, nhưng Hà Nội không phải là
tất cả miền Bắc. Dù có cộng thêm vài thành phố khác như Nam Ðịnh, Hải Phòng
v.v..., thì tình hình phổ biến của phở ở Bắc vẫn thế, vẫn rất là hạn chế.
Nói chi đến tình hình phổ biến ở Trung, ở Nam!
Quê: nay có thịt bò, vẫn chưa có phở
Năm 2008...
"Có thực mới vực được đạo". Có ngưu nhục mới nấu được
phở bò.
Việc thịt bò đang mỗi ngày mỗi dễ mua dĩ nhiên có giúp vực
cái đạo phở.
Tuy vậy, việc ấy tự nó chưa đủ sức đưa phở "qua cầu" (6)
để thành "món ăn nhân dân" đâu.
Vì nhân dân hiện nay đa số vẫn đang sống ở thôn quê. Mà dân
quê tuy nay ăn thịt bò nhiều hơn trước, nhưng vẫn chưa ăn phở.
Tại sao dân quê không ăn phở?
Vì ở quê phở đâu có mà ăn.
Muốn có, thì hoặc mình tự nấu, hoặc có người khác nấu cho mình
đi mua.
Ở quê, cả hai cái "hoặc" đều bất khả.
Nói chung, món nấu để bán thường tương đối cầu kỳ. Có cầu kỳ
thì người ta mới bỏ nhà chạy ra... nhà hàng, chứ không ai dại tốn tiền tốn cẳng!
Phở bò chắc chắn là món cầu kỳ. Không thế, sao Vũ Bằng sau
khi "đã tìm tòi suy nghĩ rất cẩn thận" về "những giả thuyết về
phương pháp làm nước dùng phở" lại chịu "thú thực, tôi vẫn chưa biết
(...) giả thuyết nào là đúng". Nấu thế nào cho nước dùng thật hấp dẫn là một
"bí quyết" mà "tất cả những hàng phở ngon đều giữ (...) rất kín
đáo, y như người Tàu giữ của".(7)
Hàng phở giấu nghề kỹ thế, người Hà Nội không là hàng phở còn
không biết nấu, vậy người dân quê ở Hà Tây, chẳng hạn, lẽ nào lại nắm được bí
quyết của phở để tự nấu lấy mà ăn?
Cùng không biết nấu, nhưng người Hà Nội muốn ăn phở thì chỉ
việc xách xe máy phóng ra "nhà hàng" Phở Thìn. Quê, đúng nghĩa, làm
gì có nhà hàng, dù chỉ là nhà hàng phở. Do đó, người quê muốn ăn phở đành chịu
bó... miệng, đành phải đợi dịp lên tỉnh, không Hà Nội thì ít ra cũng là một thị
xã, thị trấn nào đó.
Nghe đâu cái "tỉnh" Hà Nội nó đang há miệng chực nuốt
cái "quê" Hà Tây.
Riêng gì nó. Cả nước, nơi nơi tỉnh đang phình to, đang nuốt lấy
nuốt để quê.
Quê đang hóa tỉnh, nhân dân rồi tha hồ có phở mà ăn.
Phở "khởi" đi khoảng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, vừa đi vừa mỗi lúc mỗi thêm đậm đà mùi vị quê hương. Khoảng sáu, bảy chục năm trước, phở đã Việt hóa hoàn toàn và đã đi vào lòng người Hà Nội. Giờ, phở đang trên chặng đường uối, đang sắp vào đến lòng người Việt Nam...
Các cụ Tú Mỡ, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, nghĩ cũng tài: chỉ nắn qua loa nơi trái tim, đã đoán trúng phóc tiền đồ của phở trên cả thân thể nước!
Phở "khởi" đi khoảng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, vừa đi vừa mỗi lúc mỗi thêm đậm đà mùi vị quê hương. Khoảng sáu, bảy chục năm trước, phở đã Việt hóa hoàn toàn và đã đi vào lòng người Hà Nội. Giờ, phở đang trên chặng đường uối, đang sắp vào đến lòng người Việt Nam...
Các cụ Tú Mỡ, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, nghĩ cũng tài: chỉ nắn qua loa nơi trái tim, đã đoán trúng phóc tiền đồ của phở trên cả thân thể nước!
Cụ Tú "tức phở sinh tình", làm thơ phở
văn vần. Cụ Vũ, cụ Nguyễn cũng "tức", nhưng làm thơ phở văn xuôi.
Văn chương ẩm thực ngẫu hứng, hay đâu thiêng như sấm Trạng
Trình!
2008
(Trong Tìm tòi và suy nghĩ, quyển II, sắp xuất bản)
(Trong Tìm tòi và suy nghĩ, quyển II, sắp xuất bản)
Chú thích:
(1) Có thơ "Sống trên đời ăn miếng dồi chó/ Chết xuống âm phủ biết có hay không", không nhớ của ai.
(2) Tản Ðà có câu thơ: "Có văn có ích, có văn chơi" (trong bài "Lo văn ế").
(3) Vũ Bằng, "Phở bò, món quà căn bản", trong Miếng ngon Hà Nội.
(4) Nguyễn Tuân, "Phở", trong Cảnh sắc và hương vị đất nước, nxb. Tác Phẩm Mới, VN, 1988, tr. 232.
(5) Vũ Bằng in sách Miếng ngon Hà Nội năm 1957, Nguyễn Tuân đăng báo bài "Phở" cũng trong năm 1957 (báo Văn số 1 và số 2, ngày 10-5 và ngày 17-5).
(6) Người Nam bộ hay nói "dư sức qua cầu".
(7) Vũ Bằng, sđd.
(1) Có thơ "Sống trên đời ăn miếng dồi chó/ Chết xuống âm phủ biết có hay không", không nhớ của ai.
(2) Tản Ðà có câu thơ: "Có văn có ích, có văn chơi" (trong bài "Lo văn ế").
(3) Vũ Bằng, "Phở bò, món quà căn bản", trong Miếng ngon Hà Nội.
(4) Nguyễn Tuân, "Phở", trong Cảnh sắc và hương vị đất nước, nxb. Tác Phẩm Mới, VN, 1988, tr. 232.
(5) Vũ Bằng in sách Miếng ngon Hà Nội năm 1957, Nguyễn Tuân đăng báo bài "Phở" cũng trong năm 1957 (báo Văn số 1 và số 2, ngày 10-5 và ngày 17-5).
(6) Người Nam bộ hay nói "dư sức qua cầu".
(7) Vũ Bằng, sđd.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét