Con người - Linh hồn - Vũ trụ
Sự bất tử của con người: Từ nhiều cách tiếp cận khác
nhau.
Nguyễn Tấn Hùng, Đại học Đà Nẵng

Cơ thể con người không bất tử; nhiều tôn giáo và
chủ nghĩa duy vật đều khẳng định như vậy; vì đó là một thực tế không ai chối
cải được. Trước đây đã từng có nhiều người trong đó có những vị hoàng đế (như Tần
thủy hoàng) đã uổng công vô ích trong việc tìm kiếm một loại thuốc trường snh bất
tử cho cơ thể của mình. Ngày nay, nếu có ai nói đến một phương thuốc như vậy
thì chắc chắn sẽ bị coi là một kẻ lừa đảo hoặc là một người đầu óc
có vấn đề cần phải đưa vào nhà thương điên.
Vậy vấn đề còn lại được đặt ra là: ý thức, tinh thần con người
có bất tử hay không? đó là một câu hỏi muôn thuở. ở đây có những cách giải
đáp khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Ngay từ thời cổ đại, Kinh Upanishad ở ấn Độ đã lý
giải vấn đề này như sau: Brahman (linh hồn vũ trụ) được coi là thần thánh sáng
tạo tất cả. Atman (linh hồn của mỗi con người, mỗi cá thể súc vật, cây cỏ,
v.v...) là một bộ phận của linh hồn vũ trụ, nên về nguyên tắc nó cũng bất tử như
linh hồn vũ trụ. Khi cơ thể sinh vật chết đi, atman sẽ tách khỏi cơ thể và đầu
thai sang một cơ thể khác mới sinh ra, tiếp tục cuộc sống ở một kiếp khác. Kiếp
sau có thể là người, là súc vật hay cây cỏ. Linh hồn cứ đầu thai hết kiếp này
sang kiếp khác trong một cái vòng tròn lẩn quẩn như vậy gọi là sự luân hồi
(samsara: bánh xe quay tròn). Con người chịu hậu quả của hành vi của chính mình
gọi là “nghiệp” (karma: hành động). Chính cái nghiệp của kiếp này quy định cuộc
sống ở kiếp sau. Để giải thoát cho con người khỏi cái vòng luân hồi, nghiệp
báo, con người phải dốc lòng tu luyện, từ bỏ ham muốn dục vọng để linh hồn
thoát khỏi sự ràng buộc của có thể và trở về với linh hồn vũ trụ tối cao, đạt đến
hạnh phúc và sự bất tử vĩnh hằng.
Phật giáo ra đời trong phong trào đấu tranh chống đạo
Bàlamôn, chống lại sự phân biệt đẳng cấp, đòi bình đẳng xã hội, nên không thể
không bác bỏ những luận điểm cơ bản của Kinh Vêda và Kinh Upanishad (những bộ
kinh này là cơ sở giáo lý của Đạo Bàlamôn, tiền thân của ấn giáo ngày nay). Đạo
Phật không thừa nhận linh hồn vũ trụ Brahman và linh hồn cá thể bất tử atmam.
Theo Đạo Phật, cơ thể của chúng sinh được cấu tạo từ những yếu tố vật chất và
tinh thần gọi là ngũ uẩn gồm sắc (các yếu tố vật chất: đất, nước, lửa, gió) và
các yếu tố tinh thần là thụ, tưởng, hành, thức. Khi chết, những yếu tố này phân
hủy, nên không còn cái atman bất tử. Tuy nhiên, Đạo Phật lại thừa nhận sự tái
sinh ở kiếp sau và tiếp thu một số yếu tố của Đạo Bàlamôn, như sự luân hồi,
nghiệp báo, sự tu luyện để đạt đến sự giải thoát ở cõi vĩnh hằng. Dù sao Đạo Phật
cuối cùng cũng cho rằng khi con người tu luyện đắc đạo sẽ đạt tới sự giác ngộ
và thoát khỏi luân hồi, nghiệp báo, lúc đó linh hồn cá thể sẽ hòa nhập vào cõi
Niết bàn và trở thành bất tử, vĩnh cữu. Niết bàn là cái gì, cho đến nay cũng chưa
ai biết được, có chăng cũng chỉ là sự tranh cãi về lý thuyết mà thôi.
Các tôn giáo như Thiên chúa giáo (Kitô giáo hay Cơ đốc giáo,
do phiên âm từ tiếng latin Kristo: Chúa Kito hay Chúa Giêxu, người sáng lập ra
tôn giáo này) và Hồi giáo đều tin vào sự bất tử của linh hồn con người. Theo
Thiên chúa giáo, khi chết cơ thể trở về cát bụi nhưng linh hồn vẫn tiếp tục tồn
tại. Linh hồn của những người tốt thì được lên Thiên đường. Đến ngày cuối cùng,
được gọi là ngày tận thế hay ngày phán xử cuối cùng, Thượng đế sẽ phán xét tất
cả, cho những người trong lúc sinh thời đã có lòng tin ở Thượng đế và làm nhiều
điều tốt lành sẽ được phục sinh, nghĩa là được sống lại với cả thể xác và linh
hồn giống như sự phục sinh của Chúa Kitô trước đây, và được lên Thiên đường. Những
người khác sẽ bị đày xuống địa ngục.
Những người theo Thiên chúa giáo thật ra họ cũng không biết
chắc có Thiên đường, địa ngục hay không. Nhà triết học Pháp Blaise Pascal
(1623-1662) đã từng coi niềm tin vào Thượng đế như là một canh bạc, trong đó chỉ
có được chứ không có mất: “Nếu được thì bạn được tất cả, nếu không được thì bạn
không mất gì cả”. Nếu bạn tin vào Thượng đế và điều này không đúng (có nghĩa là
không có Thượng đế) thì bạn chẳng mất gì cả. Nếu bạn không tin vào Thượng đế và
điều này không đúng (nghĩa là có Thượng đế nhưng bạn lại không tin) thì bạn sẽ
bị trừng phạt và đưa xuống điạ ngục vĩnh viễn.
Lập luận này của Pascal trước đây đã từng được coi là chân lý
thì ngày nay đã bị những người vô thần phân tích và phê phán. Một là, theo sự
tranh luận của Internet Infidels (tổ chức của những người vô thần trên
internet) thì có vô số thượng đế được tôn thờ bởi mỗi tôn giáo và mỗi dân
tộc khác nhau, biết tin vào vị thượng đế nào cho đúng. Cho nên nếu niềm tin của
bạn mà không đúng, thì bạn cũng không được an toàn như Pascal khẳng định (1).
Cũng vì niềm tin không đúng mà nhiều người thậm chí đã
tự nguyện hoặc bị lừa bịp đánh mất cả cuộc đời của họ và còn làm hại cuộc đời của
vô số người khác nữa. Niềm tin vào Thượng đế và sự mong mỏi được lên Thiên đường trong
ngày thận thế của những tín đồ cuồng tín đã dẫn đến những điều buồn cười đã xảy
ra, thậm chí còn là nguyên nhân của những thảm cảnh đau lòng. Theo Bách khoa
toàn thư 2001 của Microsoft, việc tin vào ngày tận thế cuối những năm của thiên
niên kỷ vừa qua là nguyên nhân của những vụ tội phạm và tự sát lớn xảy ra ở
nhiều nước.
Chẳng hạn, năm 1997, có 39 người thuộc giáo phải Cổng Thiên đường
(The Heaven’s Gate) đã tự sát tập thể gần San Diego, California vì họ tin rằng
có một con tàu vũ trụ khổng lồ sẽ đón họ lên một vương quốc cao hơn trước khi
quả đất bị tiêu diệt hoàn toàn.
Sự tin vào ngày tận thế diễn ra vào năm 1999 của
giáo phái Aum Shinrikyo (Chân lý tối cao) là nguyên nhân những vụ đầu độc đường
tàu điện ngầm bằng hơi ngạt ở Nhật làm hàng ngàn người trúng độc.
Sự kiện đau lòng lớn nhất diễn ra trong năm 2000 khi hơn 900
người thuộc giáo phái MRTC (The Movement for Restoration of The Ten
Commandments of God: Phong trào Phục hồi 10 điều răn dạy của Chúa trời) bị giết
chết ở Tây nam Uganda. Họ được thông báo ngày 31 tháng 12 năm 1999 là ngày tận
thế, nhưng Chúa trời và Đức Mẹ sẽ xuống cứu họ. Họ tụ tập trong một nhà thờ.
Qua ngày hôm sau, 500 người bị thiêu sống. Cảnh sát sau khi điều tra
đã đi đến kết luận rằng những nạn nhân này đã dưa tiền và tài sản cho những người
cầm đầu để tổ được lên Thiên đường, nhưng sau khi thấy ngày tận thế không diễn
ra như đã được thông báo, họ liền đòi tiền và tài sản lại và vì thế tất cả bị
thiêu sống (2).
Hai là, luận điểm của Pascal cho rằng nếu không tin vào Thượng
đế thì sẽ bị Thượng đế cho xuống địa ngục. Theo Jan Garrett, một nhà Phiếm thần
luận hiện đại, thì những người theo Thiên chúa giáo đã rơi vào sai lầm của thuyết
nhân hình (anthropomorphism), là thuyết đem gán những thuộc tính quen thuộc
của con người cho những đối tượng bên ngoài chúng ta khi không có đủ bằng
chứng rằng chúng có những thuộc tính như vậy. Chẳng hạn, Kinh Cựu ước đem gán
những thuộc tính của con người cho Thượng đế, như sẵn sàng làm điều ám muội
(Ngươi tôn thờ ta thì ta sẽ cho ngươi vào danh sách những người được ta
tuyển chọn) và sự nổi giận (thí dụ, sự nổi giận của Chúa trời đối với người Do
Thái) (3).
Đối với những nhà khoa học, mặc dù họ rất mong muốn sự bất tử,
nhưng lý trí khoa học không chứng minh được có sự bất tử theo quan điểm của các
tôn giáo truyền thống. Carl Sagan (1934-1996), nhà thiên văn học nổi tiếng Mỹ
đã từng là giáo sư thiên văn học ở Đại học Harvard và Đại học Cornell ở Ithaca,
New York viết:
“Nếu có bằng chứng tốt về cuộc sống ở kiếp sau được công bố,
tôi sẽ là người sốt sắng trong việc xem xét vấn đề này; nhưng đó phải là những
cứ liệu khoa học, không phải là chuyện huyền thoại ... Tôi nói, thà rằng sự thật
cay nghiệt còn hơn sự tưởng tượng dùng để an ủi”... “Tôi cũng thích tin rằng
sau khi tôi chết tôi sẽ sống lại, rằng một phần tư duy, tình cảm, ký ức của tôi
sẽ tiếp tục tồn tại. Nhưng càng muốn tin vào điều đó, và mặc dù những truyền thống
văn hóa lâu đời khắp thế giới khẳng định có kiếp sau, tôi càng không thấy có gì
hơn rằng đó chỉ là điều suy nghĩ mong ước (a wishful thinking) mà thôi” (4).
Nhà bác học Albert Eintein (1879-1955) viết: “Tôi không thể
hình dung một Thượng đế lại đi ban thưởng hay trừng phạt những sản vật của
chính sự sáng tạo của mình”, “Tôi cũng không tin rằng một cá nhân có thể tồn tại sau
cái chết của cơ thể, mặc dù những linh hồn yếu đuối ấp ủ những tư tưởng như vậy
vì sự sợ hãi hay do tính duy ngã đến buồn cười”. Về sự bất tử, ông
nói: “Sự bất tử ư? Có hai loại. Loại thứ nhất nằm trong trí tương tượng của
con người và do vậy chỉ là một ảo tưởng. Có một sự bất tử tương đối đó là sự
duy trì ký ức về một cá nhân qua một số thế hệ. Tuy nhiên, chỉ có một sự bất tử
thật sự duy nhất, ở phạm vi vũ trụ, đó là sự bất tử của chính vũ trụ. Không có
một sự bất tử nào khác” (5).
Những nhà triết học duy vật dựa trên luận điểm về sự phụ thuộc
của ý thức vào cơ thể vật chất để chứng minh rằng sự bất tử của linh hồn là vô
lý. Denis Diderot (1713-1784), người sáng lập và chủ biên Bách khoa toàn thư
Pháp, coi linh hồn là tổng thể các hiện tượng tâm lý gắn liền với cơ thể vật chất.
“Không có có cơ thể con người thì nó (linh hồn) không là gì cả”. Theo ông quan
niệm về thiên đường, địa ngục, v.v.., cũng vô lý tựa như quan niệm cho rằng “có
thể nhìn mà không cần mắt, có thể nghe mà không cần tai, có thể suy nghĩ mà
không cần cái đầu, có thể cảm giác mà không cần đến cơ quan cảm giác vậy” (6).
Ngày nay, những nhà vô thần hiện đại đã dựa trên những thành
tựu khoa học mới nhất về sự phụ thuộc của ý thức vào bộ não người để phủ nhận sự
bất tử của linh hồn. Các nhà duy vật không còn dùng thuật ngữ linh hồn nữa mà
thay vào đó bằng thuật ngữ tinh thần, ý thức. Trả lời câu hỏi của một độc giả:
Quan điểm vô thần về kiếp sau như thế nào? Cliff Walker, người sáng lập và chủ
biên Tạp chí “Chủ nghĩa Vô thần tích cực” ở Mỹ, khẳng định: “Không một ai có thể
chứng minh được những luận điệu về sự tồn tại của một cuộc sống ở kiếp sau là
có thật. Không ai có thể phát hiện ra cái gọi là linh hồn và mô tả được sự
tương tác của nó với cơ thể như thế nào. Descartes là người cuối cùng làm việc
đó trong một nổ lực có chủ định, còn tất cả khoa học từ đó đến nay đã tránh xa
khái niệm đó ... Kinh Phúc âm, kinh Côran, và tất cả những kinh khác nói cho
chúng ta về cuộc sống ở kiếp sau, nhưng đồng thời cũng nói cho chúng
ta về những chuyện trên trái đất. Khi chúng ta so sánh những điều đã nói trong
Kinh Phúc âm về những sự việc mà chúng ta có thể kiểm tra được, chúng ta tìm ra
rất nhiều những sai lầm và không thể tin được. Nếu nó đã có những sai lầm mà
chúng ta có thể kiểm tra được, thì tại sao chúng ta phải tin vào những điều nó
nói về những sự việc mà chúng ta không thể kiểm tra được. Tôi không trách những
ai nghĩ rằng có một kiếp sau. Nhưng tôi thì không có lý do gì để tin rằng có
chuyện cuộc sống ở kiếp sau” (7)
Bên cạnh những người vô thần còn những người theo Phiếm thần
luận (là trào lưu triết học tôn giáo cho rằng Thượng đế và tự nhiên là một)
cũng không tin vào sự bất tử, vào kiếp sau. Cùng với những tổ chức vô thần, các
tổ chức phiếm thần cũng tranh luận với tôn giáo một cách tích cực trên mạng
internt.
Paul Harrison viết: “Chúng ta không căm ghét cái chết. Cái chết
là tất yếu đối với giới tự nhiên. Nếu không có cái chết thì cũng không có sự sống”.
“Nếu không có sự chết thì nguy cơ nạn nhân mãn sẽ có nghĩa là không một ai
trong chúng ta có thể được quyền sinh con đẻ cái... Tất nhiên, có một sự bất tử
hiểu theo nghĩa là những thành phần vật chất của cơ thể chúng ta sẽ trở về với
vòng tuần hoàn tự nhiên”... và “được chế biến lại thành sự sống mới”.

Như vậy, theo Albert Einstein và những nhà triết học duy vật,
không có sự bất tử tuyệt đối như quan niệm của các tôn giáo truyền thống,
mà chỉ có sự bất tử tương đối được thực hiện một cách hiện thực bằng những con
đường như sau:
+ Thông qua con cháu của chúng ta. Về mặt sinh học, thế hệ
sau thông qua sự di truyền mà kế thừa có chọn lọc và phát triển tất cả những gì
mà cơ thể chúng ta đã đạt được. Về mặt ý thức, thế hệ sau sẽ kế thừa những tri
thức khoa học, kinh nghiệm sống và chuẩn mực đạo đức, v.v..., của thế hệ đi trước.
Như vậy theo quan điểm duy vật, chỉ xét về mặt thể xác thôi thì cũng đã thấy chết không
phải là hết. Loài người là một dây chuyền vô tận của vô số những thế hệ nối
tiếp nhau, mỗi thế hệ là sự phủ định và kế thừa những thành quả phát triển của
cơ thể và ý thức của tất cả những thế hệ đi trước. Thế hệ trước để lại mầm sống
cho thế hệ sau; thế hệ sau là sự nối tiếp sự sống của thế hệ trước. Cho nên, việc
chuẩn bị và chăm lo về mọi mặt cho thế hệ sau cũng chính là vì sự bất tử của
con người.
+ Sự bất tử tương đối của con người còn được thực hiện thông
qua những việc làm tốt, những tấm gương hy sinh, bằng những sự nghiệp và
công trình đóng góp vào sự giải phóng con người, vào sự phát triển văn
hóa và văn minh nhân loại. ở đây “có cái chết hóa thành bất tử”.

Tóm lại, quan niệm của khoa học và chủ nghĩa duy vật về sự bất
tử tương đối của con người như đã nói trên vừa có tính hiện thực và mang một ý
nghĩa đạo đức rất cao so với quan niệm các tôn giáo truyền thống. Bởi vì,
như Albert Einstein khẳng định: “Hành vi đạo đức của một người phải dựa một
cách có hiệu quả trên tình cảm, giáo dục, những mối liên hệ và nhu cầu
xã hội; không cần một cơ sở tôn giáo nào cả. Con người quả thực sẽ cư xử một
cách tồi tệ nếu anh ta phải bị kiềm chế bởi mối lo sợ bị trừng phạt hay bởi hy
vọng được ban thưởng ở kiếp sau” (9).
Chú thích:
(1) The Atheism Web Common Arguments, infidels.org/
(2) Microsoft Encarta Encyclopeia 2001, Millenium,
Recent Millennialist Movements.
(3) Jan Garrett, Giới thiệu về Phiếm thần luận (An
Introduction to Pantheism), http://www.wku.edu/
(4) Carl Sagan, The Demon-Haunted World, 1996, trích theo
Danh sách lớn những trích dẫn về chủ nghĩa vô thần tích cực,
http://www.infidels.org/
(5) Albert Einstein, trích theo:
http://www.infidels.org/
(6) Trích theo Lịch sử triết học tập II, Nxb Tư tưởng Văn
hóa, Hà Nội, 1992, tr. 131-132
(7) Tạp chí Positive Atheism (Chủ nghĩa Vô thần tích cực),
31-5-2001
(8) Paul Harrison, Những nguyên lý cơ bản của Phiếm thần luận
khoa học (Scientific pantheism: basic principles), members.aol.com/
(9) Albert Einstein, địa chỉ đã dẫn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét