Cá biệt đôi người xem hết thảy những gì cha ông để lại cho con cháu đều là
truyền thống. Phần đông thì nghĩ khác, truyền thống chỉ là những tinh hoa còn
lại sau sự sàng lọc khắc nghiệt dài lâu của thời gian. Và nếu thế, thì truyền
thống kết tinh ở những tác phẩm và tác giả trong quá khứ được coi là cổ điển.
Truyền thống vốn đa dạng, bao gồm nhiều bộ phận khác nhau. Có sáng tác và
lý luận, có phê bình và tiếp nhận. Riêng sáng tác, có dân gian và thành văn, có
văn chương chữ Nôm, chữ Hán, chữ Quốc ngữ. Chớ nên xem nhẹ một bộ phận nào cho
dầu bộ phận này trên thực tế tỏ ra non yếu hơn bộ phận khác. Cũng chớ nên nhìn
từng bộ phận trong sự tách biệt, cô lập với các bộ phận khác. Và với cái toàn
thể. Truyền thống là nhất quán, mọi yếu tố đều liên hệ, tác động qua lại hết
sức tinh vi, phức tạp. Cái chung bao giờ cũng chi phối cái riêng; cái quan yếu
bao giờ cũng chi phối cái thứ yếu.
Tuy vậy, truyền thống không thể và không phải là một khối nguyên chất. Các
yếu tố cấu thành, về tính chất có thể khác nhau, kể cả đối lập nhau. Lời
nói đọi máu là truyền thống, và Lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau cũng là truyền thống; Lấy chí nhân để thay cường bạo là
truyền thống, và Phải có danh gì với núi sông cũng là truyền thống.
Thái độ biện biệt, tinh thần lọc lựa không chỉ là một yêu cầu mà là một đòi
hỏi, hơn thế một nguyên tắc bắt buộc trong việc tiếp thu truyền thống.
Cũng còn vì một nguyên do khác: nhu cầu hiện tại. Rất thấu đáo cái phương
châm quen thuộc Học xưa vì nay. Nói thì dễ, quán triệt trong suy nghĩ,
trong việc làm thì rất khó. Sức mạnh truyền thống bao giờ cũng tiềm ẩn trong
thế khả năng. Việc tiếp thu cái gì, hiệu quả đến đâu, tất thảy tùy thuộc vào
từng cá nhân người tiếp nhận. Truyền thống chỉ thành báu vật trong tay những
người biết quý trọng và biết làm chủ nó. Nếu không, như người đời thường dạy,
thuốc bổ cũng trở nên có hại. Người đắm mình trong truyền thống, tôi thích.
Người vẫy vùng trong truyền thống, tôi còn thích hơn. Không chỉ thích mà còn
phục - phục cái bản lĩnh cao cường của một tài năng.
Tôi không thật ưa cách nói tiếp thu truyền thống. Từ thấm
nhuần có lẽ đắc dụng hơn. Thấm nhuần trọng hồn cốt hơn chất
liệu. Hòa nhập một cách tự nhiên mới được gọi là thấm nhuần. Nói như người
thơ mới quá cố Trinh Đường: Thơ chảy tự nguồn. Nương theo truyền
thống không gò ép, không cố ý là nghệ thuật đích thực, nghệ thuật cao cường. Và
bao giờ cũng là yêu cầu tối thượng, không dễ một sớm một chiều mà làm nổi.
Thêm nhiều lần trở ngại nếu đó là những truyền thống mới. Sẽ có người ngạc
nhiên: sao lại thêm định ngữ mới liền kề truyền thống? Câu trả
lời: truyền thống không nhất thành bất biến. Chẳng có gì trên đời này không
biến đổi, không thể biến đổi cả. Truyền thống không phải là thứ ao tù nước đọng
chỉ độc rong rêu lưu cữu. Nước ao thường xuyên lưu chuyển. Những giá trị mới
liên tiếp gia nhập truyền thống. Có lẽ, truyền thống mới được tạo dựng thường
năng động hơn những gì muôn năm cũ. Đặc biệt là trong việc loại bỏ, đẩy
lùi dần những cái đã rỏ ra lỗi thời, ngáng trở sự nảy sinh những cái mới.
Truyền thống có thêm sức sống mới và năng lượng mới phần chính là vì thế.
Ở nhà văn - nghệ sĩ ngôn từ, lối ứng xử với truyền thống đặc biệt rõ qua
lối ứng xử với ngôn ngữ dân tộc. L.Tôlxtôi nói: Ngôn ngữ là linh hồn của
dân tộc. Bởi vậy Nằm trong tiếng nói yêu thương/ Nằm trong tiếng
Việt vấn vương một đời không còn là ý nguyện của riêng ai. Song, chớ nên
chỉ biết có hưởng thụ. Đóng góp, dẫu là chút ít, làm cho tiếng Việt ngày một
giàu có hơn, mà trước hết là ngày một trong sáng hơn luôn là một ước nguyện
chung của cả đội ngũ những người cầm bút chúng ta, già cũng như trẻ. Ở đây,
Nguyễn Tuân, Tô Hoài là những tấm gương sáng.
Người cầm bút ai cũng muốn là đứa con ruột rà của dân tộc mình. Thực tế
không phải người nào cũng được toại nguyện. Thành ra mới có bi kịch của sự
ruồng bỏ. Với người nghệ sĩ, sự dửng dưng, ghẻ lạnh của dân tộc cũng là một bi
kịch. Ăn năn thôi là chưa đủ. Tuy hối cải không bao giờ là muộn màng. Dân tộc
bao giờ cũng bao dung. Mọi đúng sai, phải trái rồi sẽ được phân minh. Mọi oan
uổng, mập mờ rồi sẽ được giải định. Hỡi những người oan khuất, cứ yên lòng nhắm
mắt ra đi.
Cuối cùng, tôi muốn nói, mọi truyền thống, không có ngoại biệt, đều có
những giới hạn. Rất có thể, truyền thống biến thành tảng đá nặng kìm chân ta đi
về phía trước. Trong khi thời đại luôn đổi thay, văn chương lại không được phép
bắt chước và nhai lại, nguy cơ này càng cần được cảnh báo. Vậy có nên chỉ
xem di sản văn chương dân tộc là truyền thống? Tôi xin đưa ra câu trả lời
qua bài học của các nhà văn Mỹ Latinh. Với nhà văn bậc thầy Achentina
J.L.Borges thì truyền thống văn chương là toàn bộ Châu Âu. Hơn thế, nhà thơ lừng
danh Mexico Ô.Paz lại coi toàn bộ nền văn chương nhân loại là truyền thống.
Theo ý của nhà nghiên cứu uy tín Nguyễn Trung Đức thì: Nhờ tinh thần hội
nhập ấy mà Mỹ Latinh đã trở thành người đồng thời của nhân loại hôm
nay. (Văn nghệ, số 16/2000).
Chớ nên sa vào vũng bùn của chủ nghĩa hình thức
Văn chương nước ta đang chuyển mạnh theo xu thế đổi mới được khởi phát từ
gần mười năm nay. Nhiều tìm tòi, nhiều sáng tạo đáng trân trọng đã thật sự góp
phần làm nên sự đổi thay, đem lại sự sinh động và tươi mới trong đời sống văn
chương. Phải thấy đó là những dấu hiệu đáng mừng, chứng tỏ tính cấp thiết và sự
đúng đắn của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, như bất cứ cuộc cách tân nào từng
xuất hiện trong lịch sử, có không ít khuynh hướng lệch lạc, kể cả lầm lạc, đã
xuất hiện. Đáng chú ý là chủ nghĩa hình thức đang có nguy cơ khuyếch đại ảnh
hưởng của mình trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là thơ và lý luận phê bình.
Mọi thứ phát sinh đều có căn nguyên trực tiếp và sâu xa. Vậy vì lẽ gì mà
chủ nghĩa hình thức có đất sinh sôi ở nước ta trong những năm sau cuộc kháng
chiến? Có thể thấy một thời gian khá dài, do hoàn cảnh đặc biệt, ta quá chú
trọng tới nội dung, nhất là nội dung hiện thực, nội dung xã hội của tác phẩm
văn chương.
Thắng thế của khuynh hướng xã hội học dung tục ở nơi này nơi kia, lúc này lúc khác, là có thật. Không phải chúng ta coi thường các yếu tố hình thức. Đòi hỏi 100% nội dung 100% hình thức mà một thời Phạm Văn Đồng đề xuất thực sự đã là định hướng sáng tác của nhiều nhà văn, nhiều nghệ sĩ. Song, do điều kiện khắc nghiệt của cuộc kháng chiến, tính thời sự có phần lấn át tính vĩnh cửu của văn chương. Thành công của nhiều tác phẩm được lý giải chủ yếu bằng nhiệt tình và ý thức công dân, chất sống và khả năng rung cảm của người cầm bút. Việc trau chuốt câu chữ, đắn đo kết cấu, gia công hình tượng... có nhưng chưa nhiều và cũng có thể nói là chưa đủ. Trong khi sự sáng tạo là vô cùng. Những trang viết để đời vẫn còn nằm xa ở phía trước, vời gọi và thách thức người viết. Giờ đây, thời gian chuyên dành cho sáng tác nhiều hơn. Nhà văn hơn lúc nào hết có điều kiện nghĩ tới tầm xa, tầm cao, tầm sâu của sản phẩm tinh thần đang thai nghén. Cố nhiên, ta đang nói tới thứ lao động nghệ thuật chân chính. Còn thứ "văn chương thị trường" ăn xổi ở thì lại là chuyện khác. Vì vậy, vấn đề hình thức được đặt ra một cách có ý thức hơn, da diết hơn là chuyện dễ hiểu.
Thắng thế của khuynh hướng xã hội học dung tục ở nơi này nơi kia, lúc này lúc khác, là có thật. Không phải chúng ta coi thường các yếu tố hình thức. Đòi hỏi 100% nội dung 100% hình thức mà một thời Phạm Văn Đồng đề xuất thực sự đã là định hướng sáng tác của nhiều nhà văn, nhiều nghệ sĩ. Song, do điều kiện khắc nghiệt của cuộc kháng chiến, tính thời sự có phần lấn át tính vĩnh cửu của văn chương. Thành công của nhiều tác phẩm được lý giải chủ yếu bằng nhiệt tình và ý thức công dân, chất sống và khả năng rung cảm của người cầm bút. Việc trau chuốt câu chữ, đắn đo kết cấu, gia công hình tượng... có nhưng chưa nhiều và cũng có thể nói là chưa đủ. Trong khi sự sáng tạo là vô cùng. Những trang viết để đời vẫn còn nằm xa ở phía trước, vời gọi và thách thức người viết. Giờ đây, thời gian chuyên dành cho sáng tác nhiều hơn. Nhà văn hơn lúc nào hết có điều kiện nghĩ tới tầm xa, tầm cao, tầm sâu của sản phẩm tinh thần đang thai nghén. Cố nhiên, ta đang nói tới thứ lao động nghệ thuật chân chính. Còn thứ "văn chương thị trường" ăn xổi ở thì lại là chuyện khác. Vì vậy, vấn đề hình thức được đặt ra một cách có ý thức hơn, da diết hơn là chuyện dễ hiểu.
Cũng cần nói tới ảnh hưởng khác nhau của văn chương nước ngoài và văn
chương thời trước do không khí đổi mới có điều kiện mở rộng. Bình tâm mà nhìn
nhận, thì chưa bao giờ, ngay cả thời chiến tranh ác liệt nhất, chúng ta chủ
trương "bế quan tỏa cảng". Ta sớm ý thức được rằng giao lưu, trong đó
có giao lưu văn hóa, giao lưu văn chương là điều kiện thiết yếu nếu không muốn
nói là điều kiện sống còn để một dân tộc phục hưng trong thời đại ngày nay.
Song phải thừa nhận là giờ đây cánh cửa hướng ra phía ngoài rộng mở hơn trước.
Đấy là chưa kể kho sách cũ phần nhiều là sách dịch ở miền Nam trước đây được
khai thác phục vụ khá rộng rãi cho hầu như mọi đối tượng bạn đọc. Nhiều cây
bút, đặc biệt là các cây bút trẻ, "ngấu nghiến" đọc để thỏa sự thèm
khát hiểu biết của mình. Mỗi người, tùy khẩu khiếu và sức vóc, đã xử sự không
giống nhau đối với những gì bản thân được đọc. Tất nhiên, đó là những chân trời
mới lạ. Có người trầm trồ mà không lóa mắt. Lại có người chìm đắm đến ngây ngất
không đủ tỉnh táo để phân biệt đâu là hay, đâu là dở, đâu là thật, đâu là giả.
Họ không hay biết rằng cũng như ở nhiều lĩnh vực khác, văn chương phương Tây
đều ẩn chứa hai mặt cùng một lúc: "Có đêm và có ngày, có vàng và gót
sắt, có máu và nước mắt, có sói lang và có những anh hùng" (Tố Hữu).
Trong những cái dễ làm hoa mắt người khác có sắc màu kỳ dị của chủ nghĩa hiện đại phương Tây. Hiển nhiên đó là trào lưu vô cùng đa tạp, trong nhiều cái sai, cái xấu có không ít cái đúng, cái đẹp. Không nên đánh đồng, vơ đũa cả nắm. Với từng nhà văn, từng tác phẩm cũng vậy. Có điều, quan niệm coi kỹ thuật, hình thức là cứu cánh của sự khám phá trong sáng tác được xem là một trong những đặc điểm nổi trội của chủ nghĩa hiện đại thì lại rất cần được chỉ ra và phê phán. Vì đó là nguyên do chính khiến nhiều nhà văn danh tiếng một thời dần dần đi vào ngõ cụt. Phải sáng suốt và bản lĩnh lắm mới mong trưởng thành trong học hỏi người ngoài. Tiếc là trong đội ngũ chúng ta không phải ai cũng có được những phẩm chất tối cần đó để tránh bệnh aids về tinh thần.
Trong những cái dễ làm hoa mắt người khác có sắc màu kỳ dị của chủ nghĩa hiện đại phương Tây. Hiển nhiên đó là trào lưu vô cùng đa tạp, trong nhiều cái sai, cái xấu có không ít cái đúng, cái đẹp. Không nên đánh đồng, vơ đũa cả nắm. Với từng nhà văn, từng tác phẩm cũng vậy. Có điều, quan niệm coi kỹ thuật, hình thức là cứu cánh của sự khám phá trong sáng tác được xem là một trong những đặc điểm nổi trội của chủ nghĩa hiện đại thì lại rất cần được chỉ ra và phê phán. Vì đó là nguyên do chính khiến nhiều nhà văn danh tiếng một thời dần dần đi vào ngõ cụt. Phải sáng suốt và bản lĩnh lắm mới mong trưởng thành trong học hỏi người ngoài. Tiếc là trong đội ngũ chúng ta không phải ai cũng có được những phẩm chất tối cần đó để tránh bệnh aids về tinh thần.
Có lẽ sẽ là không thừa khi cùng nhau nhắc lại cái điều hiển nhiên này: Ta
đang xây dựng nền văn chương của ta. Học người chủ yếu để làm sáng rõ cái ta,
cái bản sắc dân tộc Việt Nam thời nay - thời mở cửa, thời đổi mới, nhằm đưa
nước ta đến bến bờ văn minh, hiện đại. Ở đây, đụng chạm phải một thiên hướng
khác: Tôn vinh các tác phẩm và các tác giả từng "có vấn đề" trong quá
khứ, nhất là văn chương lãng mạn 30 - 45, văn chương thời nhân văn và thời miền
Nam bị chiếm đóng. Đúng là có một thời kỳ, có thể nói là khá dài, chúng ta có
phần hẹp hòi thậm chí biệt phái khi đánh giá và tiếp nhận các tác phẩm văn
chương loại này. Xin nói là đã có đủ lý do, hơn thế, những lý do
đầy sức thuyết phục để biện minh cho những gì ta đã làm. Và bây giờ cũng vậy,
ta có đủ điều kiện để nhìn nhận lại những hiện tượng văn chương từng "có
vấn đề", trả chúng về đúng với vị trí và giá trị vốn có của chúng. Thật
ra, đây là công việc không mấy dễ dàng. Đã có và sẽ còn có những thiệt thòi,
những ngộ nhận không đáng có. Nhưng đánh giá lại không có nghĩa là những tác
phẩm và nhà văn này chỉ toàn cái hay, lại càng không có nghĩa đó là những mẫu
mực, hơn thế những chuẩn mực cho sự tìm tòi, khám phá hiện nay. Tôi từng nghe
một bạn viết văn trẻ tán dương một nhà thơ thời miền Nam trước 1975 là
"tân kỳ" là "hiện đại" rất mực! Riêng với những tác phẩm có
khuynh hướng hình thức chủ nghĩa, trước sau, nói gì thì nói, ta không thể chấp
nhận. Cần phân biệt hai thái độ: Khuyến khích tìm tòi về hình thức và ngăn ngừa
chủ nghĩa hình thức. Cũng cần phân biệt hai loại người: Những người thành tâm
mong muốn đổi mới mà bị lầm lạc với những ai cố ý dẫn dắt sáng tác theo những
quan điểm mỹ học sai lạc.
Nhìn lại diễn biến của thực tiễn văn chương trong vài năm trở lại đây, bên
cạnh cái hay khiến ta vui lòng, vẫn còn nhiều cái dở không thể làm ta yên lòng,
thậm chí đau lòng. Chủ nghĩa hình thức đang có nguy cơ hoành hành đặc biệt
trong thi ca và lý luận phê bình. Đôi lúc người đọc không khỏi sững sờ vì kinh
ngạc bởi có người lên tiếng bênh vực và trong số đó, buồn thay, lại có cả những
nhà văn, nhà lý luận phê bình có uy tín. Đã đến lúc nên chấm dứt quan niệm có
thể coi là lỗi thời này: Viết gì thì viết trừ phản quốc, phản động và phạm
pháp. Cái bệnh hình thức chủ nghĩa tai hại lắm, không kém các "trọng
tội" kia đâu. Xin chớ xem thường nó.
Giá trị văn chương xưa nay thật đa dạng và độc đáo. Quy luật sáng tạo là
vậy: Không được lặp lại người và lặp lại mình. Tuy nhiên, tôi nghĩ, cái đích
sáng tạo thì không đổi và không bao giờ đổi. Đó là những tác phẩm văn chương
độc đáo giàu khả năng khám phá hiện thực, mang tầm tư tưởng cao và sức chấn
động lớn. Để đạt được mục đích đó, sự tìm tòi hình thức và phương tiện
biểu hiện bao giờ cũng cần, và có thể nói là bao nhiêu cũng không đủ, không
thừa. Nghệ thuật không chỉ đòi hỏi nói cho đúng, cho sâu mà còn phải nói cho
hay, cho hấp dẫn, cho mới lạ. Song tất thẩy là nhằm đạt cho bằng được cái đích
chung kia. Nhất là cần lay động, cần truyền cảm. Bởi tình cảm là đặc trưng chủ
yếu nổi bật của nghệ thuật. Chất lượng và tầm cao của sáng tạo chủ yếu tùy
thuộc ở đây. Nghệ thuật sẽ không tồn tại trong giá băng của nghệ sĩ và công
chúng. Cũng không thể nói tới tầm cao của giá trị nếu người thưởng thức phần
nào lạnh nhạt, thờ ơ. Trong khi càng quá chú tâm tới chải chuốt hình thức thì
càng dễ rơi vào giả tạo. Những tác phẩm loại ấy tồn tại sẽ chẳng được bao lâu.
Vài năm lại đây đã xuất hiện những bài thơ, những tập thơ ưa đổi giọng cho
lạ, cho điệu và cho kêu. Họ lầm tưởng đó là "cách tân" là "sáng
tạo". Cũng có đôi bài lý luận lên tiếng đề cao chủ nghĩa cấu trúc trong
nghiên cứu, phê bình văn chương. Tôi nghĩ, trong từng trường hợp cụ thể ta có
thể vận dụng có giới hạn chủ nghĩa cấu trúc để phân tích tác phẩm. Nhưng coi là
chìa khóa vạn năng thì không thể. Ngay xu hướng tuyệt đối hóa vai trò của thi
pháp học cũng không đúng. Ngoài cái "ưu", thi pháp học cũng có cái
"nhược". Nên kết hợp thi pháp học với các cách tiếp cận khác kể cả
những cách tiếp cận truyền thống mới mong cảm hiểu được tác phẩm văn chương -
một đối tượng vốn có sinh mệnh, và sự sống riêng. Có như vậy, ta mới không sa
vào vũng bùn của chủ nghĩa hình thức. Đó có lẽ là mong mỏi của tất thảy những
ai đang dồn tâm dồn sức cho công cuộc phục hưng dân tộc trên lĩnh vực văn
chương, nghệ thuật.
Đà Lạt, 10/7/1994
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét