Sức tỏa sáng sâu rộng là một trong những đặc điểm nổi bật của các tài năng
văn chương lớn xưa nay. Hầu như vào mỗi thời đại, các tài năng này lại lấp lánh
một thứ ánh sáng mới say cuốn lòng người. Các kiệt tác của họ luôn sống lại, và
vì vậy luôn sống mãi cùng thời gian. Ghi đơ Môpatxăng, nhà văn hiện thực xuất
sắc của nước Pháp và thế giới ở thế kỷ XIX là một tài năng như thế.
Ông
sinh năm 1850 tại Noocmăngđi trong một gia đình qúy tộc bị sa sút. Vì cha mẹ
bất hòa rồi thỏa thuận bỏ nhau, trong thời gian dài ông và em trai ông là Hecvê
sống cùng với mẹ tại trang trại Vecghi thuộc Êtrơta, một thị trấn nhỏ ven biển.
Quãng đời đẹp nhất này của Môpatxăng sẽ để lại dấu ấn sâu đậm trong
nhiều sáng tác của ông về sau. Mẹ ông, bà Lôrơ lơ Poatơvanh, nổi tiếng là người
phụ nữ tận tụy và nghiêm khắc với con cái. Bà dồn hết sức lực và thời gian vào
việc dạy dỗ hai con trai nên người. Vốn là người ưa thích và am hiểu văn
chương, bà sớm có ý hướng tạo lập cho Môpatxăng về mặt đó. Song dẫu sao trước
hết cũng cần phải học tập một cách toàn diện và có hệ thống. Năm 1863, bà gởi
con trai mình tới học tại trường dòng Yvơtô. Môpatxăng vốn quen sống tự do, vì
thế không chịu phục tùng những tín điều tôn giáo cũng như những kỷ luật nghiệt
ngã của chủng viện. Ông đã làm nhiều bài thơ tình và nhiều bài thơ nhạo báng
các giáo sĩ trong trường. Rất nhiều lần ông bị bề trên khiển trách. Có một lần
vào năm 1866 do tự tiện lấy rượu ngon chỉ dành cho những người có chức vị trong
trường, Môpatxăng bị trả hẳn về nhà. Năm sau, ông lại tiếp tục theo học tại
trường trung học Ruăng. Trong số thầy dạy Môpatxăng ở đây có nhà thơ theo
trường phái Parnasse tên là Lui Buiê. Nhờ sự thuyết phục của văn hào Flôbe, bạn
thân thuở nhỏ của mẹ ông, nhà thơ này đã nhận lời giúp Môpatxăng trau dồi thêm
về văn chương. Môpatxăng thuộc lòng nhiều bài thơ của Lui Buiê. Do ảnh hưởng
của các bài thơ này ông đã chú trọng hơn tới hình thức nghệ thuật trong sáng
tạo văn chương.
Năm
1870, chiến tranh Pháp - Phổ bùng nổ. Chàng thanh niên vừa tốt nghiệp trung học
mới theo học trường Luật đã khoác áo lính, tham gia vào cuộc chiến tranh nhiều
cay đắng và mất mát đối với nhân dân và đất nước mình. Ông cũng được chứng kiến
nhiều tấm gương yêu nước bình dị mà cao cả của những người lao động nghèo khổ ở
khắp mọi nơi. Mảng sáng tác quý giá viết về đề tài chiến tranh là kết quả trực
tiếp của sự từng trải và suy ngẫm trong những ngày tháng gian nan nhiều khi
tuyệt vọng này của ông. Tám tháng sau khi Hiệp định đình chiến được ký kết,
Môpatxăng trở về với đời sống dân sự. Ở Pari, trong khi quyết định có nên tiếp
tục theo học luật hay không, ông thường hay lui tới nhà Flôbe. Tại đây, ông may
mắn được gặp gỡ và nói chuyện với các nhà văn danh tiếng đương thời như
Tuôcghêniép, Đôđê, Dôla... Ông cũng được nghe nhiều cuộc thảo luận văn chương,
nghe những lời chỉ trích gay gắt đối với các nhà văn lãng mạn cuối mùa.
Môpatxăng đi đến quyết định gắn bó với văn chương và sẽ trở thành nhà thơ theo
lời khuyên của Flôbe. Tình hình kinh tế của đất nước sau chiến tranh đã ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống hàng ngày của ông và gia đình ông. Thêm vào đó,
Flôbe yêu cầu ông hãy tìm một nghề nghiệp ổn định làm cơ sở vững chắc và lâu
dài cho sự nghiệp sáng tạo văn chương của mình. Bởi vậy, đầu năm 1873, ông xin
làm viên chức ở Bộ Hàng hải và cuối năm 1873 chuyển sang Bộ Giáo dục. Điều này
góp phần lý giải vì sao cuộc đời mòn mỏi và khốn khó của người viên chức trong các
sáng tác của ông lại được mô tả sinh động và xúc động đến như vậy!
Bảy
năm phục vụ cho chính quyền đồng thời là bảy năm tập sự văn
chương của Môpatxăng dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Flôbe. Phải nói
rằng kỷ luật của Flôbe đối với ông thật vô cùng khe khắt. Flôbe thường bảo ông:
“Anh bạn trẻ ơi, chớ bao giờ quên rằng tài năng chỉ là một sự kiên nhẫn kéo
dài, hãy làm việc đi!”. Ông làm thơ, viết truyện và sáng tác kịch bản văn
chương nhưng chưa được phép đăng bất cứ tác phẩm nào để phòng ngừa
mọi sự thất bại. Trong thời gian này, ông có lén lút đăng một vài bài thơ và
truyện ngắn dưới bút danh khác: Ghi đơ Vanmông. Biết chuyện đó,
Flôbe có tỏ ra bực bội, tuy vậy cũng tôn trọng ông vì phần nào đã nhận thấy tài
năng của ông. Ngoài hoạt động văn chương, Môpatxăng đồng thời rất ham mê thể
thao. Ông là tay bơi và tay thuyền cừ khôi. Những sở thích ngoài văn chương của
Môpatxăng không được Flôbe khuyến khích. Flôbe yêu cầu:
“Với nghệ sĩ chỉ có một nguyên lý: Hy sinh
hết thảy cho nghệ thuật. Ngay cả cuộc đời anh cũng chỉ được coi như một phương
tiện, không có gì khác”. Tháng 4 năm 1880, tập truyện Những buổi tối ở Mê
đăng của nhóm văn chương do Dôla đứng đầu có in truyện ngắn Viên mỡ
bò của Môpatxăng. Tác phẩm đã gây một tiếng vang rộng lớn. Nhiều nhà văn
có tên tuổi, nhiều nhà phê bình có uy tín đã đánh giá cao truyện ngắn xuất sắc
này. Dôla cho rằng với Viên mỡ bò, Môpatxăng lập tức “tự xếp vào hàng các
bậc thầy”. Còn Flôbe tuy hơi thất vọng vẫn tuyên bố không chút lưỡng lự rằng tác
phẩm là một viên ngọc, “một kiệt tác về kết cấu, về tính hài hước và tài quan
sát”. Với thành công lớn này, Môpatxăng đã từ bỏ cuộc đời viên chức để hiến
thân hoàn toàn cho nghề viết văn.
Tiếc
rằng Flôbe không sống lâu hơn để chứng kiến tài năng của Môpatxăng với tư cách
là người kể chuyện. Tháng 5 năm 1880, người thầy đột ngột qua đời. Môpatxăng vô
cùng đau xót và thương tiếc. Có điều, từ đây ông được thoát khỏi những kỷ luật
khe khắt ràng buộc mình. Năng lực sáng tạo của ông trào ra mãnh liệt. Thời kỳ
tập sự của ông đã chấm dứt. Ông cần không gian và tự do để giải phóng tài năng
của mình. Từ khi truyện ngắn Cuộc du ngoạn của bà Tenơ Liê được xuất
bản, yêu cầu thưởng thức truyện ngắn của Môpatxăng trong công chúng độc giả
càng ngày càng tăng thêm. Các tập truyện ngắn, truyện dài của ông liên tiếp ra
đời. Danh vọng và tiền tài nhanh chóng đến với ông.
Giữa
lúc năng lực sáng tạo của Môpatxăng đang đồi dào nhất thì vào năm 1885 căn bệnh
thần kinh bắt đầu hành hạ ông. Những năm sau đó bệnh tình không hề thuyên giảm
mà ngày càng trầm trọng hơn. Ông buộc phải đi du lịch và an dưỡng thường xuyên
tại châu Phi, Anh, Italia... Ông cũng hay sống ở các thành phố ven biển miền
Nam nước Pháp. Sau các cuộc chạy trốn bệnh tật, Môpatxăng lại trở về biết thự
tại Êtrơ tự đắm mình trong sáng tạo. Nhiều tập du ký, truyện ngắn ghi lại những
ấn tượng sâu đậm của các chuyến đi lần lượt xuất hiện. Chạy trốn bệnh tật hoài,
ông đồng thời bắt đầu có nhu cầu chạy trốn ngay chính bản thân mình. Những ảo
giác luôn dày vò ông, các bóng ma luôn theo đuổi ông. Chỉ có cái chết mới chấm
dứt được tình trạng hoảng loạn này. Nhiều lần ông có ý định tự vẫn. Mặc dầu lần
nào cũng được cứu chữa kịp thời nhưng cuối cùng Môpatxăng chìm hẳn trong “áng
mây mù dầy đặc của sự rồ dại”. Ông qua đời vào ngày mồng 6 tháng 7 năm 1893 tại
một nhà thương điên ở Paris. Thi hài ông được chôn cất tại nghĩa trang
Môngpacnax.
Vào
cuối đời, nhìn lại con đường viết văn của mình, Môpatxăng có nói: “Tôi bước
vào văn nghiệp như một mảnh sao băng và ra khỏi nó như một tia chớp”. Thời gian
tập trung cho sáng tác của ông quả không dài, vỏn vẹn chỉ 10 năm trời. Thế
nhưng, ông đã để lại một sự nghiệp văn chương đồ sồ bao gồm chừng 300 truyện
ngắn, 6 truyện dài, 3 tập du ký, nhiều bài thơ, vở kịch và một số công trình
phê bình văn chương có giá trị theo xu hướng hiện thực.
Vậy
là, Môpatxăng không chỉ viết truyện ngắn. Nhưng, nói tời ông thì trước hết và
chủ yếu là nói tới các truyện ngắn của ông. Môpatxăng cùng với Tsêkhôv ở Nga
được coi là những bậc thầy của thể tài văn chương có vị trí hiển nhiên không gì
thay thế được này. Đúng như nhà văn tiến bộ Pháp A.Phơrăngxơ đã nhận định:
“G.Môpatxăng rõ ràng là một trong những người viết truyện ngắn tuyệt vời nhất,
ở một nước người ta đã viết rất nhiều truyện ngắn, mà toàn là truyện viết tốt
nữa”.
Môpatxăng
là một hiện tượng văn chương phức tạp. Hít thở không khí của thời đại mình, ông
không thể không ít nhiều chịu ảnh hưởng những khuynh hướng văn chương nảy sinh
vào cuối thế kỷ trước. Tuy nhiên, Môpatxăng chủ yếu là một nhà văn hiện thực.
Ông tiếp nối truyền thống hiện thực trong văn chương Pháp của các bậc tiền bối
như Xtăngđan, Banzắc, Flôbe... Ngay từ khi mới cầm bút viết văn, ông đã từng
tuyên bố: “Chúng ta chỉ có một mục tiêu duy nhất : Con người và cuộc sống mà
chúng ta phải phô diễn một cách có nghệ thuật”. Về cơ bản, toàn bộ sự nghiệp
văn chương của ông đã thể hiện rõ ý hướng ấy.
Đi
vào thế giới nghệ thuật của Môpatxăng, chúng ta ít khi chứng kiến những hiện
tượng xã hội đột xuất khác thường. Phần nhiều đó là những câu chuyện phổ biến
hàng ngày, những câu chuyện người ta hay kể cho nhau nghe vào cuối bữa tiệc
(Người đàn bà làm nghề độn ghế), sau bữa ăn tối (Chờ đợi) hoặc vào giờ uống trà
(Hạnh phúc). Sức hấp dẫn đặc biệt của truyện ngắn Môpatxăng một phần ở chỗ đó.
Dường như, ông muốn nói rằng: Hãy đừng tìm những điều hệ trọng đâu xa. Quanh
ta, ẩn dưới những chuyện thường ngày, quen thuộc nhất là những tấn bi kịch đau
lòng, những tấm lòng vàng qúy giá, những nhân cách bị xói mòn... Dễ hiểu tại
sao Môpatxăng lại nhạy cảm với “những thảm kịch đơn sơ và khốc liệt của đời
sống xã hội” (Chờ đợi) với “Những sự việc giản dị nhất và bình thường nhất” mà
“lại khiến cho lòng ta xúc động nhất”. (Cô Côcôttơ). Điển hình hoá nghệ thuật
được tiến hành trên cơ sở đó. Trong truyện Du lịch, Môpatxăng từng yêu cầu
phải “lục lọi trong trí nhớ để tìm ra một vài giai thoại ngắn” “một câu chuyện
ngắn” nhưng như “cái chìa khoá để mở ra một vùng đất nào đó”, “có thể phát hiện
ra đặc trưng của một miền xứ” nào đó. Công việc không dễ, đòi hỏi tài năng thực
sự của người nghệ sĩ chân chính.
Kết
thúc chuyện kể về một trong những tấm thảm kịch của sự Chờ đợi, mượn lời
một nhân vật, Môpatxăng viết: “Xung quanh ta ngày nào cũng xảy ra những thảm
kịch như thế”. Đó là sự thật hiển nhiên nếu chúng ta nghĩ tới cái xã hội đầy
rẫy sự thù hằn, độc ác, bất công và vị kỷ, cái xã hội “những kẻ ngây thơ thường
bị lừa bịp, những kẻ chân thật bị bỡn cợt và những kẻ lương thiện bị đối xử bất
công” (Tha thứ). Người nghèo khó thường không có chỗ đứng trong xã hội ấy. Họ
bị sỉ nhục, bị ngược đãi. Những kẻ tàn tật bị hất ra bên rìa đường của cuộc đời
thì còn có thể hiểu được (Thằng ăn mày). Ngay cả những người lành lặn với “đôi
cánh tay cường tráng” đầy sức mạnh mà bụng vẫn trống rỗng, lòng vẫn chán nản vì
không sao tìm thấy nơi “trú thân trên đường đời” (Kẻ lang thang).
Tình cảnh cùng đường tất sẽ đẩy họ tới những hành vi tội lỗi với những mức độ khác nhau tùy thuộc vào sức chống chọi của mỗi người. Nhà tù tư sản là nơi giải thoát duy nhất cho cuộc đời bi đát của họ. Và đối với họ “chỉ có cái chết mới hoàn toàn hạnh phúc” mà thôi (Bố của Ximông). Có nhiều tấn bi kịch phát sinh từ định kiến tàn nhẫn của xã hội (Bà Baptixtơ), từ dư luận tai ác của những kẻ lòng chất chứa thù hằn, ghen ghét (Sợi dây). Một phút bất hạnh thời niên thiếu có thể tạo nên mối đe dọa thường xuyên mà chỉ có cái chết mới chấm dứt nổi. Một sự vô tình cũng có thể là nguyên nhân của những lời đơm đặt đưa đến cái chết u uẩn, nhục nhã. Cũng cần phải kể tới tấn thảm kịch do nghèo hèn, túng quẫn của những viên chức nhỏ trong các truyện Món nữ trang, Đi ngựa. Ở đây, Môpatxăng có cười, nhưng sau tiếng cười là những giọt nước mắt xót xa, thương cảm.
Tình cảnh cùng đường tất sẽ đẩy họ tới những hành vi tội lỗi với những mức độ khác nhau tùy thuộc vào sức chống chọi của mỗi người. Nhà tù tư sản là nơi giải thoát duy nhất cho cuộc đời bi đát của họ. Và đối với họ “chỉ có cái chết mới hoàn toàn hạnh phúc” mà thôi (Bố của Ximông). Có nhiều tấn bi kịch phát sinh từ định kiến tàn nhẫn của xã hội (Bà Baptixtơ), từ dư luận tai ác của những kẻ lòng chất chứa thù hằn, ghen ghét (Sợi dây). Một phút bất hạnh thời niên thiếu có thể tạo nên mối đe dọa thường xuyên mà chỉ có cái chết mới chấm dứt nổi. Một sự vô tình cũng có thể là nguyên nhân của những lời đơm đặt đưa đến cái chết u uẩn, nhục nhã. Cũng cần phải kể tới tấn thảm kịch do nghèo hèn, túng quẫn của những viên chức nhỏ trong các truyện Món nữ trang, Đi ngựa. Ở đây, Môpatxăng có cười, nhưng sau tiếng cười là những giọt nước mắt xót xa, thương cảm.
Chế
độ tư bản khi đến chỗ suy tàn đã tự mình xé rách ngọn cờ “Tự do, Bình đẳng, Bác
ái” mà những nhà cách mạng tư sản tiến bộ từng dương cao. Tự do yêu đương làm
sao có thể đứng chân trên một mảnh đất có quá nhiều mối ràng buộc trong đó sự
ràng buộc của miếng cơm, manh áo là quan trọng hơn hết thẩy (Bà Clôsetơ). Xã
hội ấy cũng không bao dung nổi những thứ tình cảm cao qúy chính đáng khác như
tình cảm đối với loài vật (Cô Côcôttơ). Người đánh xe ngựa Frăngxoa hỏi có tội
lỗi gì khi sự gắn bó với con chó khôn ngoan, trung thành và giàu tình nghĩa kia
đã trở thành mối ràng buộc tự nhiên, không thể thiếu được đối với cuộc đời của
bác? Tình thế đặt bác trước một sự chọn lựa: Hoặc là mất chỗ làm, mất phương
tiện kiếm sống, hoặc là rời bỏ con chó, tiêu hủy đi nguồn an ủi qúy giá của
cuộc đời mình. Bác phải buộc lòng chọn con đường thứ hai. Ngỡ mình được sống,
nào ngờ bác lại rơi vào một thảm kịch khác, đau xót hơn nhiều: Bị điên loạn
suốt đời.
Môpatxăng
có dụng ý phanh phui nhiều sắc thái bi kịch khác nhau: Có khi cay đắng, chua
xót, cũng có khi nhẹ nhàng, thoáng qua. Song trường hợp nào cũng đều bi đát,
tuyệt vọng như nhau. Truyện Tuyết đầu mùa mình, một người sống
mà lại có những ước mơ khác anh, những thú vui khác anh, mặc dầu tất cả những
ước mơ và thú vui ấy lại là cuộc đời của cô. Trong giây phút buồn bã và thất
vọng, người vợ đã tự hủy hoại sức khỏe của mình. Cô ta bình thản, thậm chí sung
sướng đón chờ cái chết đến gần. Có gì khó hiểu đâu! Sống một cuộc sống không
phải của mình thì tốt hơn hết là hãy mau chóng chấm dứt nó đi. Tiếng nói vọng
lên từ tác phẩm cho tới bây giờ và mãi mãi về sau này còn có sức cảnh tỉnh biết
bao người! đặt ra một vấn đề sâu xa và bức thiết : Lòng vị kỷ của con
người đôi khi dẫn tới những hậu quả thật không ngờ. Anh chồng Hăngri khỏe mạnh,
ít suy nghĩ, không mong ước một cuộc sống nào khác ngoài cuộc sống đơn giản,
quen thuộc của mình. Anh ta không sao hiểu được vợ.
Trong
số các thảm kịch xảy ra hàng ngày và nhan nhản khắp nơi, Môpatxăng đặc biệt chú
trọng tới những tấm thảm kịch do đồng tiền và lòng hám lợi gây ra. Hàng loạt
truyện ngắn tập trung thể hiện chủ đề này: Cái thùng tô nô nhỏ, Con
quỷ, Ngoài khơi, Trong rừng... Đồng tiền đẩy con người tới những hành
động tội lỗi, biến con người thành những con vật đích thực. Hơn thế, đồng tiền
còn hủy hoại những tình cảm ruột thịt mà ngay cả loài vật cũng không hoàn toàn
mất hẳn. Truyện Trong rừng phê phán sức mạnh đảo điên của đồng tiền
vàng ở khía cạnh thật đặc biệt. Tác giả lên án những kẻ “nghĩ về két tiền hơn
là bông hoa nhỏ”. Họ không sao hiểu nổi những nhu cầu tình cảm bình thường và
chính đáng. Đối với họ, sự xúc động ngoài phạm vi đồng tiền đều là biểu hiện
của chứng điên khùng. Nhà văn như muốn thẳng thắn đặt ra một câu hỏi: Nếu con
người sống chỉ để săn lùng tiền bạc cho thật nhiều thì ý nghĩa của cuộc đời là
ở chỗ nào?
Xã
hội xấu xa, đen bạc như vậy cố nhiên là một xã hội vô nhân tính. Môpatxăng đã
khắc họa thành công nhiều hạng người bị chi phối bởi những dục vọng thấp hèn,
nhơ nhuốc. Họ coi thường nhân cách. Thú tính ngang nhiên hoành hành trong họ.
Đồng tiền trong Món tư trang đã thành kẻ khốn nạn một cách trơ tráo
không cần che đậy. Lúc người vợ mới chết, đức ông chồng đau khổ đến nỗi “một
tháng sau tóc ông bạc trắng” hết. Vậy mà, khi trong tay có một khoản tiền lớn
nhờ những đồ nữ trang của người vợ để lại thì “lần đầu tiên trong đời ông ta
xem hát không thấy chán. Và đêm đó ông chui vào nhà gái điếm. Sáu tháng sau ông
tái giá”. Lời kết thúc có vẻ bình thản. Thế nhưng ngọn lửa đã một lần nhen lên
trong lòng người đọc lại cháy mãi không nguôi. Thói đạo đức giả của bà qủa phụ
Bôngđơxoa “thánh thiện”, “khả kính” được Môpatxăng bóc trần rất khéo léo trong
truyện ngắn Kẻ thế chân. Cũng như, mối quan hệ giả tạo vốn là đặc điểm dễ
nhận thấy của xã hội thượng lưu được nhà văn dựng lại một cách tài tình trong
các truyện Báo thù, Một cuộc gặp gỡ. Song thú vị và thành công hơn cả
có lẽ là truyện Trường hợp bà Luynô. Câu chuyện xoay quanh một phiên tòa.
Có điều, khác với phần nhiều các phiên tòa thực ngoài đời, phiên tòa được mô tả
trong tác phẩm lại kết tội tất cả, không loại trừ một ai. Nhà văn thẳng thừng
kết án lòng hám lợi của bà Luynô, thói tham tiền của lão Ipôlitơ và cả sự trác
táng, lợi dụng của những kẻ làm chứng. Bao trùm lên tất cả là sự mai mỉa vai
trò của quan tòa. Sức mạnh của ngòi bút Môpatxăng chưa lần nào được phát huy
cao độ như ở đây. Dung lượng của một truyện ngắn nhờ vậy tăng lên gấp nhiều
lần.
Có
nhà nghiên cứu cho rằng thái độ của Môpatxăng khi thể hiện cuộc sống có phần
lãnh đạm bàng quan. Thật ra không đúng như vậy. Quả là ông viết “một cách khách
quan”. Như nhiều nhà văn hiện thực khác, Môpatxăng chủ trương người nghệ sĩ
không nên thuyết giáo trực tiếp mà cần “kết cấu tác phẩm thật khéo léo với vẻ
ngoài hết sức tự nhiên”. Khuynh hướng tác phẩm phải rõ, nhưng lại được toát ra
từ tình huống, hành động và tính cách nhân vật. Chỉ bằng con đường ấy hiệu quả
nghệ thuật mới thật sự bền lâu. Sự thản nhiên của Môpatxăng nói như văn hào
A.Phơrăngxơ “giống như tạo hóa làm chúng ta ngạc nhiên, khiến chúng ta rung động”.
Điều này rất đúng trong các trường hợp nói trên, cũng rất đúng khi ông phát
hiện ra những vẻ đẹp giản dị mà cao cả của người nghèo khổ trong nhiều tác phẩm
của mình.
Trong Bà
Clôsetơ, qua lời của người kể chuyện, Môpatxăng không ngần gại dùng những lời
đẹp nhất để ngợi ca “tâm hồn quảng đại” của người đàn bà nghèo khổ. Tình yêu
đối với bà là sự hy sinh suốt đời, không chút đắn đo, không hề tính toán. Đó là
“một tâm hồn vĩ đại, một kẻ hy sinh thanh cao”, “một nữ anh hùng
trong số những anh hùng đã thực hiện những hành vi anh hùng nhất”. Tiếp nối
quan niệm tình yêu chân chính, tình yêu chân thực gắn liền với sự hy sinh cao
qúy là truyện ngắn nổi tiếng Người đàn bà làm nghề độn ghế. Ít có câu
chuyện nào độc đáo và cảm động hơn. Tình yêu thì một phía, sự hy sinh lại diễn
ra hàng ngày trong suốt một đời người. Lời kết thúc thể hiện lòng thán phục sâu
xa của nhà văn: “Quả thật chỉ có người phụ nữ mới biết cách yêu thương”.
Truyện Du lịch biểu dương vẻ đẹp tự nhiên của tình cảm anh đối với
em, con cái đối với cha mẹ. Người anh trong phút chót của cuộc đời chỉ nghĩ về
những người ruột thịt của mình. Anh trao cho người em chiếc đồng hồ, quà tặng
qúy giá mà anh từng nâng niu, trân trọng. Qua người em, anh còn kịp chuyển tới
cha mẹ những cái hôn vĩnh biệt cuối cùng. Mọi chi tiết đều đơn giản mà xúc động
lạ thường! Lòng tin của Môpatxăng vào cuộc đời tưởng chỉ một màu đen của tội
lỗi và điều ác còn được biểu lộ trong truyện ngắn Đứa con.
Điều ngang trái xảy ra ngay trong đêm tân hôn và vì thế mà việc chấp nhận đứa trẻ vô tội kia càng đáng ca ngợi gấp ngàn lần. Nhà văn không hề thần thánh hóa con người và cuộc đời. Berơ lúc trông thấy chồng đứng giữa phòng, mặt mày tái mét trong tay ôm một đứa trẻ, thì đã bằng linh cảm để hiểu ra tất cả. Trái tim cô thắt lại vì đau đớn. Nhưng rồi cô vẫn đưa tay ra nhận đứa bé, áp sát vào ngực mình. Và cuối cùng khi biết người mẹ của đứa trẻ đã qua đời thì lòng cô trào lên một nỗi thương cảm sâu xa. Cô chấp nhận đứa con riêng của chồng mình với đầy đủ trách nhiệm của người vợ, người mẹ. Câu chuyện còn góp phần khẳng định quan niệm thẩm mỹ đúng đắn của Môpatxăng. Rõ ràng cái “nét duyên dáng”, cái “nết dịu dàng” của người phụ nữ đặc biệt hấp dẫn ông hơn cả. Đối lập với vẻ đẹp của Berơ là vẻ lôi cuốn phù hoa, đỏm dáng, điệu nghệ mà thiếu chân thực của không ít thiếu nữ qúy tộc trong nhiều tác phẩm khác của ông.
Điều ngang trái xảy ra ngay trong đêm tân hôn và vì thế mà việc chấp nhận đứa trẻ vô tội kia càng đáng ca ngợi gấp ngàn lần. Nhà văn không hề thần thánh hóa con người và cuộc đời. Berơ lúc trông thấy chồng đứng giữa phòng, mặt mày tái mét trong tay ôm một đứa trẻ, thì đã bằng linh cảm để hiểu ra tất cả. Trái tim cô thắt lại vì đau đớn. Nhưng rồi cô vẫn đưa tay ra nhận đứa bé, áp sát vào ngực mình. Và cuối cùng khi biết người mẹ của đứa trẻ đã qua đời thì lòng cô trào lên một nỗi thương cảm sâu xa. Cô chấp nhận đứa con riêng của chồng mình với đầy đủ trách nhiệm của người vợ, người mẹ. Câu chuyện còn góp phần khẳng định quan niệm thẩm mỹ đúng đắn của Môpatxăng. Rõ ràng cái “nét duyên dáng”, cái “nết dịu dàng” của người phụ nữ đặc biệt hấp dẫn ông hơn cả. Đối lập với vẻ đẹp của Berơ là vẻ lôi cuốn phù hoa, đỏm dáng, điệu nghệ mà thiếu chân thực của không ít thiếu nữ qúy tộc trong nhiều tác phẩm khác của ông.
Lòng
nhân ái, tư tưởng dân chủ của Môpatxăng đạt tới đỉnh cao trong tác phẩm Bố
của Ximông. Từ tấm lòng cảm thông sâu xa đối với đứa trẻ mồ côi cha, bác thợ Philíp
Rơmy đã vượt qua những ngáng trở của định kiến xã hội bao quanh người phụ nữ,
chủ động đến với hạnh phúc của mình. Tác giả không chút ngần ngại khi khẳng
định rằng bác là “một ông bố mà đứa con nào cũng có quyền tự hào”. Con người
trong lao động sáng tạo có vẻ đẹp của thánh thần. Môpatxăng mô tả những người
thợ rèn làm việc “khỏe mạnh, đầy sức lực, vui sướng như những vị hỏa
thần thỏa mãn”. Cũng cần lưu ý tới quan điểm giai cấp khá rạch ròi ở nhà văn.
Theo tác giả, bọn trẻ con xỉa xói Ximông vốn “nhiều thú tính hơn nhân tính”.
Bởi vì “cha chúng hầu hết là những kẻ bạc ác”, những tên nghiện rượu, những kẻ
trộm cắp, những người chồng vũ phu. Chỗ đứng và cách nhìn của Môpatxăng trong
tác phẩm này có nhiều điểm gần gũi với lập trường và quan niệm tiên tiến nhất
của thời đại bấy giờ. Đó cũng chính là chỗ xuất phát để ông vươn tới tư tưởng
tự do khoáng đạt chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tư tưởng của các nhà khai sáng ở
thế kỷ XVIII. Ông tán đồng với những “triết lý dẫn đến việc lật đổ những thói
tục cũ kỹ, những định kiến, những luật lệ cổ lỗ” ăn sâu vào nếp nghĩ, nếp sống
của mỗi người. Tác giả chấp nhận bản di chúc có một không hai trong truyện vì
tình yêu tự do ở ông thật lớn lao. Tác phẩm là “tiếng kêu đòi tự do vang lên từ
đáy mộ”, còn nhân vật Matinđơ mãi mãi là biểu tượng cao đẹp của lòng dũng cảm
của con người quyết vươn lên làm chủ tình yêu, hạnh phúc và cuộc đời của mình.
Sẽ
là khiếm khuyết lớn nếu không nhắc đến mảng truyện ngắn viết về đề tài chiến
tranh của Môpatxăng. Kể từ khi các tác phẩm này ra đời nhiều cuộc chiến tranh
đã xảy ra. Biết bao người đã tìm đến nhà văn như tìm đến tiếng nói da diết, sâu
lắng của chính lòng mình. Bởi vì, về cơ bản, quan điểm của Môpatxăng khi mô tả
chiến tranh là đúng đắn. Xuất phát từ lòng thiết tha yêu hòa bình, ông đã khẳng
khái kết án thứ chiến tranh “làm tan nát những gia đình”, “giã nát sự sống, chà
đạp những con người, kết liễu bao giấc mộng, bao niềm hy vọng về hạnh phúc”,
“khoét sâu trong trái tim những người vợ, những người mẹ, những cô thiếu nữ những
vết thương không bao giờ lành” (Hai người bạn). Đây cố nhiên là thứ chiến tranh
phi nghĩa mà nhà văn có ý thức phân biệt nó với các cuộc chiến tranh chính
nghĩa bảo vệ Tổ quốc. Một nhân vật trong truyện ngắn nổi tiếng Viên mỡ
bò đã nói lên ý nghĩ của tác giả: “Chiến tranh là một sự dã man khi người
ta đánh một người láng giềng đang sống yên lành, nhưng khi ta bảo vệ Tổ quốc
thì đó lại là một bổn phận thiêng liêng”. Dẫu thế nào ước muốn sống trong hòa
bình và hữu nghị giữa các dân tộc vẫn là nguyện vọng cháy bỏng trong trái tim
những con người chân chính. Và vì thế, lời cầu nguyện “mong sao cho con cái
chúng ta đừng bao giờ nhìn thấy chiến tranh” (Người đàn bà điên) vẫn luôn là
lời thỉnh cầu của các thế hệ kế tiếp nhau.
Nhất
quán với khuynh hướng chung, bên cạnh việc kết án chiến tranh, Môpatxăng còn
phát hiện những tấm gương hy sinh bình dị và cao cả xuất hiện khắp nơi trên đất
nước thân yêu của ông trong cuộc kháng chiến chống quân Phổ. Ông chú ý hơn cả
tới những tính cách đặc biệt. Đó là những cô gái điếm mà lòng tự trọng dân tộc
thấm vào tận xương tủy (Viên mỡ bò, Cô FiFi). Đó là các cụ già có những lý do
riêng để căm thù giặc và có những phương pháp riêng để biểu lộ lòng căm thù ấy
(Ông cụ Milông, Xanh Angtoan). Đó còn là đôi bạn thân từng gắn bó với nhau
trong những giờ phút yên ả của hòa bình đã biết cùng chọn một cái chết xứng
đáng trước kẻ thù xâm lược tàn bạo (Hai người bạn).
Trong
chiến tranh thế giới lần thứ hai, khi chiếm đóng nước Pháp, bọn phát xít Đức đã
ra lệnh đốt hết tác phẩm của Môpatxăng. Ngược lại, những người kháng chiến nhất
là các đảng viên cộng sản Pháp lại càng qúy trọng ông hơn lúc nào. Các truyện
viết về chiến tranh của ông đã thật sự tạo ra sức mạnh to lớn trong họ. điều này
đã làm vinh dự cho nhà văn.
Giá
trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Môpatxăng thật lớn lao và sâu sắc.
Người đọc hàng trăm năm nay vẫn say mê với các tác phẩm của ông còn bởi tài
nghệ viết truyện độc đáo và điêu luyện của ông nữa. Truyện của ông mang sắc
thái riêng “không ai bắt chước nổi” (M. Gorki). Ông viết ngắn, sắc, giản dị và
trong sáng.
Truyện
ngắn của Môpatxăng, đúng như tên gọi của thể tài, thường rất ngắn. Viết ngắn mà
nội dung phong phú, hấp dẫn quả không dễ. Muốn thành công, ngôn ngữ phải được
giản ước đến mức tối đa. Ý đồ nghệ thuật phải thấm tới từng chi tiết. Hãy
nghe nhà văn mô tả ông bà Sukê: “Họ vừa ăn điểm tâm xong, ngồi đối
diện nhau, cả hai đều mập mạp và hồng hào, sặc mùi thuốc men, nom có vẻ quan
trọng và mãn nguyện” (Người đàn bà làm nghề độn ghế). Mỗi chi tiết đều nổi bật
và đầy dụng ý. Để làm nổi rõ tính các nhân vật, Môpatxăng còn khéo chọn những
tình huống điển hình. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn hay chọn giờ phút lâm
chung làm điểm xuất phát cho mọi sự kiện khác trong truyện của mình. Đọc các
truyện Chờ đợi, Người đàn bà làm nghề độn ghế, Hoàng hậu
Ortăngxơ, chúng ta có điều kiện hiểu rõ vai trò của tình huống trong
truyện ngắn quan trọng tới mức nào. Cũng phải nói tới ý nghĩa của nghệ thuật tương
phản trong việc thực hiện ý đồ sáng tạo của Môpatxăng. Ví như, sự đối lập giữa
tình và cảnh (Hạnh phúc), sự đối lập giữa hai quan niệm về đạo đức (Trong vùng
quê)...
Tính
sáng tạo, luôn đổi mới về thủ pháp và bút pháp là một biểu hiện khác của tài
năng Môpatxăng. Cuộc sống luôn biến đổi, nghệ thuật gắn liền với cuộc sống lẽ
nào lại không cần thường xuyên cách tân. Môpatxăng rất coi trọng kết cấu. Đọc
ông, ta dễ nhận ra sự biến hóa không cùng của kết cấu tác phẩm. Có truyện là
những trang ghi chép (Tình yêu); Có truyện chỉ gồm hai bức thư trao đổi (Những
lời yêu thương); Lại có truyện chấp nhận cả những đoạn đối thoại kế tiếp nhau
như trong kịch (Trường hợp của bà Luynô). Sự sáng tạo còn được biểu hiện qua
bút pháp tác phẩm. Môpatxăng thường sử dụng bút pháp hiện thực. Điều này không
có nghĩa các bút pháp nghệ thuật khác lại xa lạ với ông. Có thể xem
truyện Hạnh phúc là một dẫn chứng. Hạnh phúc là một chủ đề vĩnh cữu.
Tác giả lấy hòn đảo Corxơ làm nền cho sự thể hiện của mình. Mở đầu câu chuyện,
đảo Corxơ mờ mờ hiện ra trên mặt biển. Và khi câu chuyện kết thúc thì “ở đằng
xa cuối chân trời, đảo Corxơ chìm vào đêm tối, chầm chậm lặn xuống biển”. Hòn
đảo như hiện lên để kể về một câu chuyện hạnh phúc có ý nghĩa muôn đời, và khi
kể xong rồi thì lại tự biến mất. Yếu tố huyền ảo, bút pháp lãng mạn
tạo ra sức truyền cảm kỳ lạ của tác phẩm này.
Nhiều
nhà phê bình đánh giá cao tài phân tích tâm lý của Môpatxăng. Dưới ngòi bút
tinh tế của ông, tâm lý nhân vật có vận động có biến đổi, nhưng hoàn toàn theo
quy luật nội tại mà người ta thường gọi là “biện chứng pháp tâm hồn”. Điều này
bộc lộ rõ rệt qua kiệt tác Trăng sáng. Kể ra, một vài trang truyện mà lại
muốn diễn tả sự thay đổi trong suy nghĩ của một vị linh mục già thì dường như
không thể làm nổi. Thế mà Môpatxăng đã làm và làm thành công. Sự thể hiện của
ông vô cùng sống động và hấp dẫn. Trong truyện có nhiều đoạn mô tả tâm lý trực
tiếp mà không rơi vào tư biện, khô khan. Thường thì ông ưa thể hiện sự biến
chuyển của tâm trạng con người qua cử chỉ và hành vi bên ngoài. Sự chuyển biến
của bà La Blăngsôtơ từ dáng đứng nghiêm nghị ở cửa lớn như để phòng ngừa sự
phản bội của một người đàn ông khác tới việc tiếp chuyện một cách lịch sự, điềm
tĩnh chỉ có “đôi má bà hồng hơn lúc bình thường” và cuối cùng vào buổi tối trời
đầy sao nọ bà xúc động ngã vật xuống sàn nhà trước hạnh phúc không thể ngờ tới
của mình đã được tác giả lý giải hợp lý, giàu sức thuyết phục (Bố của Ximông).
Truyện
ngắn của Môpatxăng đặc sắc và phong phú là thế. Tuy nhiên cũng như toàn bộ sự
nghiệp của ông, truyện ngắn của ông không tránh khỏi những hạn chế tất yếu của
thời đại và giai cấp. Ông nhận chân ra mọi điều độc ác bất công ở đời. Thế mà
khi cần tìm căn nguyên của chúng thì hoặc ông lúng túng hoặc ông lầm lạc. Ông
quy cho số mệnh vạn năng chi phối và quyết định hết thảy. Rồi từ đó, ông oán
trách tạo hóa chỉ gieo tai họa xuống đầu những người lương thiện, nghèo khó.
Môpatxăng viết: “Anh phẫn nộ với sự bất công của số mệnh và anh oán trách loài
người, tất cả mọi người, anh phẫn nộ với tạo hóa, với bà mẹ lớn lao, mù quáng,
bất công, ác độc và thâm hiểm”. Đây đó, nhà văn không tránh khỏi cái nhìn bi
quan trước tương lai ảm đạm của con người là vì vậy. Ông để cho một nhân vật
thốt lên trong một tác phẩm: “Cuộc đời tự nó vốn đã tàn nhẫn và hung bạo rồi!”
(Chờ đợi). Trong một truyện khác, ông lại để cho các nhân vật lập luận và giải
đáp các vấn đề chính trị hệ trọng để rồi đi tới thống nhất một điều là: “Nhân
loại sẽ không bao giờ được tự do” (Hai người bạn). Cái nhìn của Môpatxăng đối
với người lao động cũng không được nhất quán. Đôi lúc ông quá cường điệu và đi
tới tuyệt đối hóa cái xấu nhất thời và cá biệt của họ. Xã hội đẩy Răng đen
trong Kẻ lang thang tới bước đường cùng bi đát. Anh ta bị bắt trong
khi chưa hề gây ra một tội ác nào cả. Vậy mà khi bị giải qua làng, những người
“nông dân nam cũng như nữ nhìn con người bị bắt đó đi giữa hai tên sen đầm với
một ánh mắt hằn thù lóe lên trong khóe mắt, chỉ muốn ném đá vào anh, lấy móng
tay lột da anh, giẫm nát người anh”. Ở đây chủ nghĩa tự nhiên đã ảnh hưởng tới
ông. Dấu vết của chủ nghĩa tự nhiên còn in đậm trên một số trang mà yếu tố sinh
lý lấn át yếu tố tâm lý, mối quan hệ trai gái được chú trọng hơn những mối quan
hệ xã hội khác. Có điều, rất cần phân biệt việc miêu tả sinh lý như là phương
tiện phản ánh của phần lớn truyện ngắn Môpatxăng với việc coi miêu tả sinh lý
là mục đích là cứu cánh trong tác phẩm của các nhà văn tự nhiên chủ nghĩa tiêu
biểu. Ngày nay, với phương pháp luận khoa học, chúng ta có điều kiện để đánh
giá đúng đắn toàn bộ di sản của Môpatxăng cũng như của các nhà văn khác trong
quá khứ là như thế. Và cuối cùng, cũng nên chỉ ra những truyện bông phèng vô
vị, những truyện viết tình cờ, ít giá trị trong hàng loạt truyện ngắn đặc sắc
và qúy giá của ông. Thái độ của chúng ta là không quá khe khắt mà
cũng không quá dễ dãi trước bất cứ một hiện tượng văn chương nào xưa nay.
Thời
gian trôi đi, bao tên tuổi từng nổi danh một thời đã lần lượt bị lu mờ. Thế mà
sự nghiệp của Ghi đơ Môpatxăng lại ngày một chói sáng, nhất là dưới con mắt của
chúng ta ngày hôm nay. Giờ đây, chúng ta đọc Môpatxăng càng say sưa hơn, càng ý
thức hơn bất cứ lúc nào. Ấy là bởi tác phẩm của Môpatxăng không chỉ có ý nghĩa
lịch sử, giúp ta nhìn lại một thời đã qua, mà còn có ý nghĩa thời đại, giúp ta
nhìn nhận con đường mình đang đi và sẽ tới. Sinh thời, Môpatxăng đã từng nghĩ
về “cái đất nước huyền diệu đâu đâu thợ thuyền cũng đều có công ăn việc làm”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét