Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2019

Con đường bao dung - Trong văn hóa và huyền sử Việt Nam 1

Con đường bao dung
Trong văn hóa và huyền sử Việt Nam 1
Bài 1
Bao dung trong Văn Hóa và Huyền Sử 
Việt Nam
Tôi rất hân hạnh và cảm động được Ban Tổ chức của Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ (*) gọi về tham dự ngày họp mặt, vào mùa hè năm 2008 này. Thêm vào đó, Trung Tâm còn giao phó cho tôi trách nhiệm trình bày và chia sẻ về đề tài “Bao Dung trong Văn Hóa và Huyền Sử Việt Nam”.
Trước tiên, tôi xin thú thật với tất cả quý vị: tôi đang phân vân và lo ngại làm sao tôi có thể trao đổi và điều hợp buổi hội luận một cách nghiêm chỉnh về đề tài nầy, chỉ trong vòng trên dưới một hai tiếng đồng hồ mà thôi. Nói khác đi, làm sao tát cạn được một vấn đề, mà tôi đã học hỏi và nghiên cứu, trong bao nhiêu tháng tháng và năm năm, từ lứa tuổi mới lớn lên cho đến ngày hôm nay?
- Trước hết, từ khi đi vào lứa tuổi “tam thập nhi lập” (khả năng tự lập của tuổi 30), 
- Cho đến giai đoạn tiếp theo là “tứ thập nhi bất hoặc”(không còn bị mê hoặc và sai lầm, vào tuổi lên 40)
- Ngang qua giai đoạn thứ ba là “ngũ thập nhi nhĩ thuận” (biết lắng nghe tiếng kêu đau thương của bà con xa gần, sống hai bên cạnh, từ khi tôi đi vào lứa tuổi 50),
- Sau đó, trong giai đoạn thứ tư là “lục thập nhi tri thiên mệnh” (khả năng nhận ra ý định nhiệm mầu của Trời Đất, vào lứa tuổi 60),
- Bây giờ là giai đoạn thứ năm “thất thập nhi tùng tâm” (đi theo tiếng gọi của Con Tim hay là con đường Tình Yêu, từ tuổi 70 trở lên),
- Cho đến một hôm không còn xa bao lăm, tôi sẽ trở thành “cổ lai hy” (con người thiên cổ, hòa mình với cát bụi và phân bón, nhằm tưới tẩm và nuôi sống những mùa màng đang từ từ lớn lên trong lòng của Quê Hương)…
Thay vì trình bày nhiều chi tiết rất quan trọng có mặt trong những giai đoạn hoặc lứa tuổi khác nhau, vừa được đề xuất, bài chia sẻ này chỉ muốn kêu mời quý vị và các bạn hãy cùng tôi khảo sát 3 câu hỏi chính yếu sau đây:
- Câu hỏi thứ nhất: BAO DUNG có nghĩa là gì? Lý tưởng mà chúng ta hướng đến hay là viễn ảnh Bao Dung mà chúng ta khát khao, tìm kiếm và cố quyết thực hiện cho đời mình cũng như cho Anh Chị Em Đồng bào, bao gồm những giá trị then chốt nào?
- Câu hỏi thứ hai: Trong hiện trạng của bản thân và cuộc đời, cũng như trong hiện tình của Quê Hương và Đất Nước Việt Nam, con đường bao dung ấy đang gặp những khó khăn và trắc trở như thế nào? Vì lý do gì?
- Câu hỏi thứ ba: Trên con đường trải dài từ khởi điểm đến tận điểm, chúng ta cần ngày ngày tiến lên những giai đoạn cụ thể như thế nào? Đâu là những động tác cần thiết, mà chúng ta cố quyết thực hiện, ngay bây giờ, với tất cả con tim cũng như trí óc, để trở thành con người có bản sắc bao dung. Nói khác đi, chúng ta không những CHỈ bao dung  ở đầu môi chót lưỡi, hay là với những câu nói tuyên truyền láo khoét. Trái lại, con đường Bao Dung cần có mặt,trong từng quan hệ tiếp xúc và trao đổi của chúng ta với anh chị em đồng bào, ở đây và bây giờ, trong giây phút hiện tại của cuộc đời.              
Phần thứ nhất
Con đường Bao dung
trong cuộc đời làm người của chúng ta
Muốn tìm hiểu ý nghĩa thâm sâu của con đường Bao Dung, trong nền Văn Hóa Việt Nam, theo ý kiến của tôi, nhân vật lịch sử cần được chúng ta quy chiếu một cách đặc biệt, là NGUYỄN TRÃI.
Hẳn thực, vào mùa thu năm 1427, sau gần 10 năm kháng chiến chống ngoại xâm, nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi - sau này sẽ trở thành Vua Lê Thái Tổ (1428-1433) - đã từ từ lớn mạnh và thu gặt nhiều thắng lợi vẻ vang. Viện quân bao gồm hơn 10 nghìn binh sĩ thiện nghệ, do Minh Triều từ phương Bắc gửi qua, bị phục kích và đánh tan tơi bời, phải rút về khỏi biên giới Đại Việt. Tàn quân còn đóng lại tại Đông Quan hay là Thủ đô Thăng Long (Hà Nội), bị bao vây tứ phía. Rốt cùng, viên tướng chỉ huy quân Minh là Vương Thông phải viết thư cho Lê Lợi xin nghị hòa.
Nghe tin ấy loan ra, toàn thể tướng lãnh, binh sĩ của Đại Việt, cũng như đoàn lũ bô lão, phụ nữ… từ khắp nơi tấp nập kéo nhau về yêu cầu Lê Lợi hãy tàn sát, tận diệt quân Minh, để báo thù cho Tổ Tiên và các Vong Linh đã hy sinh cho Đất Nước, trong vòng suốt 20 năm.
Toàn quân và toàn dân có mặt, đều vái lạy và kêu van: “Xin hãy giết sạch lũ giặc Tàu”.
Trong tình huống ấy, duy một mình NGUYỄN TRÃI, đơn thân độc mã, đã đứng lên đối diện với quần chúng đầy thù hận, can đảm trình bày và đề nghị Con Đường BAO DUNG, với những lời lẽ như sau:
“Trong hoàn cảnh hiện nay, tấn công quân thù và uống máu chúng… thì chả khó khăn gì đối với chúng ta.
Nhưng dự phóng lớn lao phải được xây dựng trên NHÂN NGHĨACÔNG CHÍNH.
Nhân đức đầu tiên và cuối cùng của chúng ta là ở chỗ biết bảo toàn các sinh mệnh, để dành cho những viễn cảnh lâu dài và to lớn hơn”. Nói khác đi, một cách dễ hiểu hơn, là mỗi người trong chúng ta - tuyệt đối không một ai bị loại trừ - có trách nhiệm trối lại cho các thế hệ con em của chúng ta sau này, một gia sản hay là một bài học về Lòng Từ Tâm và Bao la, Đại Lượng và Dung Thứ”.
Sau lời phát biểu đầy nhân đạo và rộng lượng ấy, NGUYỄN TRÃI đã thinh lặng và LẮNG NGHE, ghi nhận nhiều vấn nạn nổi lên từ mọi phía. Trong số đó, có nhiều lời chỉ trích rất tàn ác và xiên xẹo… Nhiều lời mạ lị rất hèn hạ, lợi dụng cơ hội để bùng nổ và xuất hiện…
Trong cách trả lời của NGUYỄN TRÃI, chúng ta cần ghi nhận những bước đi lên sau đây:
Thứ nhất, một cách thành tâm, thanh thản và đầy thân ái, Nguyễn Trãi không từ chối hay là phản bác những lý luận của bà con đã được phát biểu. Trái lại, Nguyễn Trãi đã coi trọng và nhìn nhận xúc động của họ. Lòng ước muốn báo thù là một tình cảm tự nhiên và chính đáng, nhất là sau gần 20 năm bị quân Minh tấn công, đàn áp và ức hiếp.
Thứ hai, bên cạnh nhu cầu báo thù, Nguyễn Trãi đã GÂY Ý THỨC cho mọi người nhìn thấy rằng họ còn có những nhu cầu làm người cao cả, trọng đại và lâu bền hơn. Nhu cầu báo thù sẽ bùng lên và vụt tắt như ngọn lửa rơm. Trái lại, chúng ta cần phát huy lòng nhân từ và khoan hậu, để xây dựng một Đất Nước trường tồn, trọng đại và cao cả. Một Đất Nước Vạn Xuân. Một Đất Nước Đại Việt, ngày ngày biết vươn mình lên thấu tận Bầu Trời là quê hương đích thực của Mẹ Âu Cơ.
Thứ ba, Nguyễn Trãi kêu mời mỗi người con của đất nước Đại Việt hãy ngày ngày tưới tẩm hạt mầm hòa bình và nhân đạo trong quả tim, để từ ngay bây giờ có thể trối lại cho các thế hệ tương lai một bài học “làm người” được cô động một cách tuyệt diệu, trong hai vần thơ sau đây:
“Lấy ĐẠI NGHĨA mà thắng hung tàn,
“Đem CHÍ NHÂN mà thay cường bạo”.                         
Phần Thứ Hai: 
Những chướng ngại lớn lao trên con đường Bao Dung
(Bốn loại tinh yêu ma quái trong lòng Đất Nước)
Qua vài ba câu nói vắn gọn của bài Bình Ngô Đại Cáo vừa được trình bày trên đây, Nguyễn Trãi đã nhắc lại cho mỗi người trong chúng ta bài học “BAO DUNG, ĐỒNG CẢM, CHIA SẺ”, đã có mặt trong Huyền Sử và Văn Hóa Việt Nam, từ ngày Lập Nước, cách đây hơn 4000 năm. Bài họcLÀM NGƯỜI ấy đặt nền móng trên những giá trị như Đại Nghĩa và Chí Nhân, Từ Tâm và Thứ Tha, Cao Thượng và Bất Bạo Động, Tôn Trọng Sự Sống của muôn loài muôn vật và muôn người trong Trời Đất.
Phải chăng từ ngày môi miệng còn thơm mùi sữa của Mẹ, mỗi người trong chúng ta đã biết líu lo và bập bẹ những bài ca dao nói về lòng Bao Dung:
- “Nhiễu điều phủ lấy gia gương,
“Người trong một Nước hãy thương nhau cùng”.
- “Bầu ơi thương lấy Bí cùng,
“Tuy rằng khác giống, cùng chung một giàn”.
- “Một miếng khi đói bằng một đọi khi no”. 
Hẳn thực, Bao dung là con đường tất yếu của những ai mang danh hiệu là con Rồng cháu Tiên. Mẹ của chúng ta là Bà Âu Cơ. Quê Hương của Mẹ là Bầu Trời Cao Cả và Đại Lượng. Cha của chúng ta là Lạc Long Quân. Quê Hương của Ngài là Biển Cả Mênh Mông, là Đại Dương Bao La và Bát Ngát. Nhờ Tình Thương âu yếm của hai người Cha Mẹ đầu tiên ấy, chúng ta đã được cưu mang cùng một lúc, trong một bào thai duy nhất. Cho nên từ ngày ấy cho đến nay, chúng ta có tập tục gọi nhau là Anh Chị Em Đồng Bào.
Trong tinh thần và lăng kính ấy, con đường hay là quan hệ Bao Dung bao gồm ba chiều kích quan trọng, trong BẢN SẮC “Làm Người” của người Việt Nam:
Chiều kích thứ nhất là Trời, Quê Hương của Mẹ chúng ta. Trời ở đây không phải chỉ là một ý niệm hoàn toàn lý thuyết, trừu tượng và duy tâm. Trời là Nguồn Gốc, là nơi xuất phát của chúng ta. Hẳn thực, khi Mẹ Âu Cơ cưu mang chúng ta trong cung dạ, Mẹ đã rót vào trong quả tim của chúng ta, dòng máu của Trời. Trời có mặt trong các bài ca dao và tục ngữ, mà mẹ đã hát lên, để ru chúng ta ngủ lúc chiều tối. Trời là Ngôi Nhà để chúng ta trở về, sau một cuộc đời lam lũ, chân lấm tay bùn, lên đồng cạn xuống đồng sâu. Mẹ đã ôm ấp chúng ta thế nào trong những ngày tấm bé, thì chúng ta cũng bắt chước Mẹ, mở rộng hai cánh tay, để sẵn sàng đón nhận mọi người anh chị em xa gần, tản mác khắp năm châu bốn bể, nhất là những ai đói rách, một ngày chưa có một loong gạo để lót lòng. Bài học đầu tiên của chúng ta phải chăng là “tứ hải giai huynh đệ”, bốn biển một nhà?
Chiều kích thứ hai là Đất, Quê Hương của Người Cha chúng ta. Đất ở đây là Nước Non, Núi Rừng, Biển Cả mênh mông. Đất ở đây có nghĩa là “Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế cư”, trong bài Hịch Tướng Quân của Lý Thường Kiệt, trước khi lên đường đánh tan quân Nguyên. Đất được coi trọng, trong lời nhắn nhủ “bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu”. Cho nên chúng ta sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ và gìn giữ. Không ý thức về chiều kích thứ hai này, chúng ta sẽ là những tên phản bội “rước voi về dày mả tổ”. Phải chăng Lời của Tổ Tiên còn vang vọng rõ nét trong đáy lòng sâu thẳm của chúng ta “Con không Cha là Nhà vô phúc”? Con không Cha ở đây có nghĩa là: con không tiếp tục con đường đi của Người Cha, hay là con không “Minh Minh Đức”, không ngày ngày đánh sáng Đức Sáng của Cha Ông và Tổ Tiên, trong chính bản thân mình...
Chiều kích thứ ba là Người, là Nhân, có nghĩa là Anh Chi Em Đồng Bào, cùng có mặt với nhau trong một Bào Thai của Mẹ. Nói cách khác, chiều kích thứ ba là những quan hệ qua lại hai chiều – yêu thương, đùm bọc, tha thứ - giữa Anh Chị Em Đồng Bào với nhau, cũng như giũa chúng ta và những người khách nước ngoài đến thăm viếng, làm việc và cư ngụ trên Quê Hương của chúng ta:“Mở rộng Cửa NHÂN, mời khách đến,/ “Vun trồng cây ĐỨC, nuôi con ăn”.
Nói tóm lại, Bao Dung bao gồm 3 gíá trị và ý nghĩa làm người sau đây:
Thứ nhất là Nhân Đạo, Đạo Làm Người,
Thứ hai là Tình Nghĩa keo sơn gắn bó giữa Anh Chị Em Đồng Bào,
Thứ ba là  Nhân Đức và Đức Độ, Đại Lượng và Thứ Tha, khi một người Anh Chị Em có những lỗi lầm, sai trái lớn hay là nhỏ… đối với chúng ta.
Thiếu một trong 3 chiều kích ấy, Bao Dung sẽ nhường bước cho Vô Thần, Vô Tổ Quốc, Vô Đạo và Vô Nhân.
Thiếu một trong 3 chiều kích ấy, Bao Dung chỉ là tuyên truyền, láo khoét,
Thiếu một trong 3 chiều kích ấy, Bao Dung chỉ là huynh đệ tương tàn, bạo động, chiến tranh, mồ chôn tập thể và Đại lộ Kinh Hoàng…
Thiếu một trong 3 chiều kích ấy, Bao Dung sẽ bị tiêu diệt. Thay vào đó, chỉ còn lại một thứ luật rừng man rợ như: “Cá lớn nuốt cá bé”, hay là “gà một nhà bôi mặt đá nhau”…
Trong những ngày đầu tiên, trên những nẻo đường của Quê Hương, khi đi thăm viếng con cái tản mác khắp đó đây, Lạc Long Quân đã phải đối đầu với ba loại “tinh yêu ma quái” mà tôi vừa phác họa. Yêu Tinh là những quái vật, mang mặt người bên ngoài. Nhưng bên trong, với một tâm hồn tàn bạo, chúng nó tìm mọi cách để gieo tang tóc và đau thương. Chúng nó hủy diệt mọi loại quan hệ Bao Dung giũa Anh Chị Em Đồng Bào ruột thịt:
Loại Yêu Tinh thứ nhất là Mộc Tinh. Đây là một loại cây chiên đàn không gốc, không rễ, không lá, không hoa và không có trái. Chúng nó có mặt trên những nẻo đường quanh co và hoang vắng, để đe dọa khách qua đường và đòi hỏi những người “yếu vía” phải sụp lạy, dâng cúng tiền của, vàng bạc. Theo cách thuyên giải của tôi, đó là những người lạm dụng quyền lục và chức tước, để thực thi những hành động bất chính như hối lộ, mua bán bằng cấp, địa vị… Sau cùng, những con Mộc Tinh nầy tìm mọi mánh khóe chính trị, để bán đứng Quê Hương cho ngoại bang, cho đế quốc thực dân, từ Âu Tây như Mỹ và Pháp, cũng như từ phía Bắc như Nga Sô và Trung Cộng…
Loại Yêu Tinh thứ hai mang tên là Ngư Tinh, có nghĩa là “con Cá ăn thịt người”. Thay vì nuôi sống Anh Chị Em Đồng Bào, loại Ngư Tinh nầy chỉ nhả ra trong môi trường sinh thái của Quê Hương, nhiều loại độc tố, làm ô nhiễm những quan hệ giữa người với người, như chia rẽ hận thù giữa ba Miền Nam, Bắc Trung, giữa tôn giáo nầy với tôn giáo khác, giữa miền núi và vùng đồng bằng…
Loại Yêu Tinh thứ ba có danh hiệu là Hồ Tinh. Đây là những con chồn lưu manh hay là những con cáo độc ác. Ban ngày, chúng nó ẩn núp trong những hang động u tối và quanh co. Ban đêm, mang mặt nạ người, chúng nó đi vào trong các khu phố hoặc thôn xóm đông dân cư, để bắt cóc đàn bá và con nít, đem về hãm hiếp hay là lạm dụng, dưới nhiều hình thức khác nhau.
Loại Yêu Tinh thứ tư đã từ từ xuất hiện trên những nẻo đường của Quê Hương, sau khi Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ từ giã Cõi Đời nầy. Đó là hai con Yêu Tinh  “Sơn Tinh và Thủy Tinh”. Thực ra, trước khi trở thành Tinh Yêu, Sơn và Thủy là Anh Em ruột thịt. Cả hai đều có tài năng xuất chúng. Tuy nhiên, theo lời nhận xét của Thi Sĩ Nguyễn Du, “Chữ Tài liền với chữ Tai một vần”, bởi vì trong tâm hồn, không có Thiện Căn, không có Ánh Sáng và Hơi Ấm của Trời. Khi hai con Yêu Tinh nầy đối đầu với nhau, chỗ ấy nảy sinh ra xung đột và hận thù, bạo động và chiến tranh, chết chóc và lầm than. Trong Lịch Sử của Nước Nhà, hai con Yêu Tinh nầy đã một thời gây ra tai nạn Nam Bắc phân tranh, biên giới Sông Gianh, Vĩ Tuyến 17.
Sau hơn bốn nghìn năm văn hiến, kể từ ngày Lạc Long Quân lập Nước và dựng Nước, bốn hiểm họa trên đây không bao giờ nhạt nhòa và tàn phai. Bốn con Yêu Tinh trên đây càng ngày càng lớn mạnh. Vào Thời Đại Nghìn Năm Thứ Ba, bốn con Yêu Tinh ấy đã len lõi nằm vùng, trong đáy sâu quả tim của tất cả mọi người chúng ta, không trừ sót một ai, đối với người Việt Nam ở trong Nước cũng như đối với người Việt Nam sinh sống ở Nước Ngoài. Chúng ta đã tiếp thu, hội nhập và phát huy thế nào bài học Bao Dung của Cha Ông và Tổ Tiên? Quý vị và quý bạn đã và đang giải quyết thế nào vấn nạn ấy, cho chính mình, cho người khác và nhất là cho con cháu và các thế hệ giới trẻ trong tương lai?.
Phần Thứ Ba
Biến những Chướng Ngại lớn lao
trên con đường BAO DUNG của chúng ta?
Trong phần vừa rồi, tôi đã cố gắng liệt kê một cách can đảm và vắn gọn, nhưng khá đầy đủ và trung thực, những vấn đề xảy ra, khi hai người Việt Nam sống chung và làm việc với nhau. Một cách đặc biệt trong môi trường chính tri và xã hội.
Trong phần thứ ba còn lại nầy, tôi không có tham vọng hảo huyền là đề nghị từ ngoài hay là trình bày từ trên, phương thức hóa giải những vấn đề bế tắc của chúng ta. Mỗi người ở trong cũng như ngoài Nước có trách nhiệm khám phá Con Đường Bao Dung cho bản thân và cuộc đời trưởng thành của mình. Phần tôi, trong khuôn khổ của một bài chia sẻ, tôi chỉ muốn bập bẹ và cưu mang một Giấc Mơ Luyện Vàng, trong đáy sâu của tâm hồn.
Trong giấc mơ ấy, tôi thấy trước mặt tôi, hai người Việt Nam như hai hình tròn không đồng tâm, đứng tách rời và biệt lìa  ra khỏi nhau, không có một vùng giao tiếp với nhau, cho dù nho nhỏ, rất nhỏ, nhỏ như một chấm hay là một phết.
Nhìn xong, tôi ngồi xuống khóc nức nở, khóc lớn tiếng, khóc như một trẻ thơ và không biết phải làm gì, để cho hai vòng tròn có thể gặp nhau.
Chính lúc ấy, Mẹ Âu Cơ hiện hình, dạy tôi đưa ra hai tay, cầm hai vòng tròn, từ từ đem lại gần nhau và tạo ra một vùng tiếp cận hay là tiếp giáp. Theo lời giải thích của Mẹ, bao lâu hai anh chị em, cho dù ruột thịt đến độ nào chăng nữa, chưa có một vùng tiếp cận còn gọi là vùng trung gian hay là vùng học tập ở giữa, hai người không thể cùng nhau thực hiện từng bước Con Đường Bao Dung Với Nhau, Nhờ Nhau và Cho Nhau.
Sau đó, Mẹ Âu Cơ cứ nhấn mạnh lui tới một nhận xét: Hai người Anh Chị Em Đồng Bào, tự bản chất làm người, phải KHÁC BIỆT đối với nhau, giống như TRỜIBIỂN. Nhờ những nét khác biệt ấy, hai người mới có cơ may BỔ TÚC, ĐÓNG GÓPKIỆN TOÀN cho nhau, làm nên những ĐẠI SỰ cho bản thân và cuộc đời, cho Quê Hương và cho Nhân Loại.
“Ánh mắt con là cả một Bấu Trời,
“Bàn tay con huyền nhiệm thấu tầng mây,
“Bước chân con gieo Hạnh Phúc cho Đời,
“Quả tim con là nguồn suối không bao giờ cạn vơi”.
Cho nên, hỡi con, để sáng tạo Con Đường Bao Dung, con hãy lắng nghe Trời, lắng nghe Đất, lắng nghe Biển Cả, lắng nghe Núi Sông. Tất cả là Bài Học Vô Tận. Tất Cả là Tiếng Nói của Tình Thương. Tất cả là GIA SẢN của Cha Ông và Tổ Tiên…      
Bí Chú (*): Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ, 13 g rue de l’Ill 
F.67116 Reichstett, France.
Thời gian họp mặt: từ chiều thứ 6, ngày 29 tháng 08 năm 2008 đến tối, Chủ nhật ngày 31 tháng 08 năm 2008. Địa điểm: Maison Notre Dame du Chant d’Oiseau. 150 - Bruxelles, Belgique
Bài 2
Con Đường BAO DUNG bắt đầu từ…
Thái độ biết Lắng Nghe
Nhằm giải quyết những vấn đề đang xảy ra đó đây trong lòng Quê Hương, chúng ta cần can đảm ngồi lại với nhau và đặt ra cho nhau một cách trung thực câu hỏi cơ bản trong cuộc sống Làm Người:
«Phải chăng chúng ta biết lắng nghe và chấp nhận nhau?»
Để giúp mỗi người tìm ra câu trả lời cho bản thân và cuộc đời, bài chia sẻ nầy sẽ lần lượt khảo sát những vấn nạn sau đây:
- Lắng nghe có nghĩa là gi?
- Lắng nghe để làm gì?
- Chúng ta sẽ gặp những cạm bẫy nào, khi lắng nghe?
- Ai là người anh chị em thực sự cần được chúng ta lắng nghe?
1. Ý NGHĨA CỦA LẮNG NGHE
Sách vở và tài liệu đề cập vấn đề lắng nghe, thường nhấn mạnh một số động tác cụ thể có ý nghĩa sau đây:
1.1- Lắng nghe không phải chỉ là nghe. Hẳn thực, trong cuộc sống, vô số nhiễu động ngày ngày bao vây chúng ta. Chúng cưỡng bức chúng ta nghe. Nhưng không ai tìm cách lắng nghe những nhiễu loạn ấy. Chúng ta còn tìm cách lánh xa, chạy trốn.
1.2- Để có thể lắng nghe người anh chị em, thái độ và tác phong của chúng ta là im lặng, ngồi xuống, trân quí con người của họ.
Nói cách khác, khi chấp nhận ngồi vào bàn với nhau, lắng nghe nhau một cách trân trọng, chúng ta đã bắt đầu coi nhau như anh chị em ruột thịt, cho dù khoảnh khắc ấy chỉ mong manh, thoáng qua, nhạt nhòa.
1.3- Càng yêu quí một người, chúng ta càng dễ dàng lắng nghe những lời trao đổi, chia sẽ, trình bày của người ây.
1.4- Trái lại, khi quan hệ giữa chúng ta và người ấy bắt đầu giảm sút, suy đồi, đi vào ngõ cụt... khả năng lắng nghe của chúng ta tự khắc bắt đầu biến chất và thoái hóa.
Cũng vậy khi một người không gây được thiện cảm nơi chúng ta, vì bất cứ lý do gì, điều họ nói ra có thể là những điều chướng tai, nhức óc cho chúng ta.
Về phần chúng ta, trong những hoàn cảnh tương tự, chúng ta dễ dàng bóp méo, xuyên tạc nội dung phát biểu của họ.
1.5- Trước một người có thái độ và diện mạo thiện cảm, tự nhiên chúng ta có xu thế lắng nghe họ một cách dễ dàng.
1.6- Khi tâm hồn chúng ta nặng trĩu những lo âu, trầm cảm, bực bội, tức giận... khả năng lắng nghe của chúng ta mất chất lượng bén nhạy.
Thái độ tiếp nhận của chúng ta cũng giảm suy, mai một, cùn mòn rất nhiều. Khi có những trường hợp khổ đau tràn ngập, lý trí bị suy sụp, con người chúng ta không còn sáng suốt, minh mẫn. Các giác quan cũng do đó bị hạn chế và tê liệt.
Trong những tình huống như thế, thay vì lắng nghe, chúng ta trở nên lơ là, lảng trí, "mầt hồn, lạc vía". Theo ngôn ngữ của Thiền học, chúng ta không còn có mặt trong hiện tại, ở đây và bây giờ. Chúng ta đánh mất chính mình. Tình trạng loạn động này rất thường xảy ra trong cuộc sống náo nhiệt của thế giới ngày hôm nay.
1.7- Khi lắng nghe ai một cách thích thú thực sự, chúng ta dễ dàng thiết lập những quan hệ hài hòa, tích cực, xây dựng với người ấy. Ngược lại, vì chúng ta thiếu chăm nom, nuôi dưỡng khả năng này, bao nhiêu quan hệ giữa người với người, cho dù tốt đẹp trước đây trong quá khứ gần và xa... có thể gãy đổ tan tành…cơ hồ một cánh đồng lúa mùa, sau một trận bão lụt tàn phá, hủy hoại.
Vì lý do này, không gì có thể thay thế tác phong và thái độ lắng nghe, nếu chúng ta có kỳ vọng kiên định xây dựng, vun đắp, khai triển những quan hệ tiếp xúc, trao đổi giữa chúng ta và người khác.
Trong tinh thần này, lắng nghe là một của ăn tâm linh khả dĩ nuôi sống con người. Đó cũng là một quà tặng vô giá, mà con người có trách nhiệm dâng hiến cho nhau, để giúp nhau làm người, trong cuộc sống hằng ngày.
2. LẮNG NGHE VÀ CHIỀU KÍCH LÀM NGƯỜI
Cũng trong chiều hướng này, khi tôi lắng nghe ai với trọn con người, một đàng tôi vươn tới chiều kích làm người. Đàng khác, tôi đãi ngộ, cư xử con người được tôi lắng nghe, như một con người giống như tôi, ngang hàng tôi, có quyền làm chủ thể phát biểu, diễn tả, bộc lộ mình ra ngoài.
Lề lối giáo dục ngày nay đang nhấn mạnh và phát huy cách thức đãi ngộ ấy. Thậm chí một đứa bé mới sinh ra, khi chưa sử dụng ngôn ngữ "có lời" của môi trường, đã "mặc khải mình" dưới nhiều hình thức khác nhau như tiếng khóc, nụ cười, liếc nhìn, chân tay vận động... Hơn ai hết, nếu người mẹ không lắng nghe đứa con của mình trong địa hạt này, từ những ngày đầu tiên, em đã bị hụt hững một phần nào trên cơ sở làm người. Không được lắng nghe, ở đây trong quan hệ mẹ con, em sẽ không học được bài học lắng nghe một cách nhuần nhuyễn, thành thục, trong quan hệ giữa người với người sau này.
Bác sĩ tâm thần René Spitz đã đưa ra ví dụ về "nụ cười sinh lý", để minh họa những điều vừa được trình bày.  Một đứa bé mới lọt lòng mẹ, một tuần hay vài ba ngày sau, đã mĩm cười trong giấc ngủ. Đó là nụ cười sinh lý, một phản ứng tự phát, bộc lộ tình trạng của đứa trẻ được thỏa mãn về mọi mặt như lương thực, y phục, nhiệt độ, tiêu hóa, không khí... Theo cách giải thích bình dân của bà mẹ Việt Nam, đứa trẻ mĩm cười với "Bà Mụ, Bà Tiên" đang hiện về dạy dỗ, trao đổi, tiếp xúc.
Phải đợi đến ít nhất ba bốn tháng sau, bà mẹ hay là một thành viên khác trong gia đình có phận sự chăm sóc thường xuyên, liên tục cho đứa bé, mới có khả năng trao đổi nụ cười với em ấy khi tiếp xúc, bồng ẵm, vui đùa, xoa bóp, vuốt ve...Thiếu những quan hệ tiếp xúc liên tục "mặt nhìn mặt", "da chạm da", đứa bé sẽ thiếu nụ cười. Hay là nụ cười của em sẽ xuất hiện rất chậm trễ, sau bảy hoặc tám tháng, như chúng ta có thể quan sát nơi những đứa trẻ trong các cô nhi viện quá đông, quá lớn, thiếu công nhân viên có khả năng và chất lượng chăm sóc và nuôi nấng.
Nụ cười như hạt lúa đã có mặt từ những ngày đầu tiên trong ruộng đồng da thịt, cơ thể của đứa bé. Nụ cười sinh lý ấy chỉ lớn lên, nở hoa, sinh hạt, trở thành "nụ cười xã hội", để hai mẹ con có khả năng tiếp xúc, trao đổi, cùng nhau sung sướng, hân hoan, hạnh phúc... chỉ khi nào bà mẹ biết chăm sóc, vun trồng, tưới tẩm, nuôi dưõng hạt giống ấy.
Nói một cách vắn gọn, nếu người mẹ không lắng nghe con, bà không hái được bông hoa "nụ cười xã hội" trên khuôn mặt của con.
Cũng vậy, trong địa hạt ngôn ngữ, nếu bà mẹ không biết lắng nghe con chuyện trò, líu lo, ca hát, để hưởng nhận hạnh phúc đang trào dâng trong cõi lòng làm mẹ của mình, đứa bé sẽ chậm nói và có khi không học nói.
Cái gì xảy ra giữa hai mẹ con trong hai năm đầu đời, cũng đang xảy ra trong quan hệ giữa người với người. Người mẹ không chờ đợi, đòi hỏi đứa con phải cười phải nói. Bà chỉ đơn phương lắng nghe như bà ăn, bà thở. Nhờ vậy, con bà sẽ cười, sẽ nói, theo nhu cầu và tốc độ tự nhiên của mình.
Trong quan hệ giữa người với người, cũng có những định luật tương tự: khi trong môi trường, cộng đoàn, quê hương và nhân loại, có những tâm hồn biết lắng nghe không chờ đợi, đòi hỏi, đặt điều kiện, phê phán, tố cáo... tự khắc ở phía bên kia, đằng trước, sẽ có những con người đang cố quyết trở thành người.
Bà mẹ vun trồng trong bốn, năm tháng, mới có thể gặt hái đóa hoa nụ cười trên khuôn mặt của đứa con. Có lẽ chúng ta phải vun trồng mảnh đất lắng nghe một cách liên tục trong vòng 100 năm, họa may mới gặt hái được "Đức Bụt", hay là "Một Con Người Công Chính" đang tái lâm trên Quê Hương, Đất Nước. Nếu chính bản thân tôi không làm bà mẹ lắng nghe, tôi thắp hương chờ đợi ai? Trên cơ sở nào, tôi đòi hỏi kẻ khác, phía bên kia phải làm... đang khi đó chính tôi đang ù lì, bị động, vô cảm?
3. LẮNG NGHE ĐỂ CHIA SẺ VÀ ĐỒNG HÀNH
Thái độ hay tác phong lắng nghe đòi hỏi chính chúng ta hãy im lặng, nghĩa là tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng, để người đối diện có thể nói ra tất cả những điều họ cần bộc lộ, chia sẽ.
Thế nhưng, im lặng trong nhiều trường hợp có liên hệ đến đời sống xã hội, có thể mang sắc thái và ý nghĩa tiêu cực như "khinh thị, không coi trọng, tự cao, đóng kín cửa lòng...". Phải chăng nhiều bà vợ đã than trách chồng mình "tránh né, thiếu trao đổi, trốn mình trong bốn bức tường im lặng cao ngạo hay là lãnh đạm"?
Nhằm giải tỏa một số vấn đề căng thẳng trong quan hệ vợ chồng, người nữ thường được yêu cầu "nâng cao chất lượng lắng nghe và giảm hạ liều lượng phát biểu. Vượt quá ba ý tưởng, những câu nói của các bà đã bắt đầu bị sàng lọc, xuyên tạc, bóp méo, biến chất". Bà mẹ nào cũng đã hiểu rõ: khi dọn cho ai ăn quá nhiều, người ấy sẽ có nguy cơ "trúng thực".
Cũng trong chiều hướng tạo hòa khí và phát huy quan hệ tốt đẹp, người chồng được yêu cầu "có mặt, đóng góp, tham dự".
Im lặng chỉ biến thành "vàng“, khi họ biết lưu tâm, đặt trọng tâm vào người phát biểu.
Im lặng chỉ trở thành lắng nghe; và lắng nghe chỉ mang bộ mặt và tâm hồn im lặng, khi chúng ta đón nhận và chấp nhận người trước mặt. Chúng ta trân trọng, tìm hiểu, ghi nhận từng lời họ nói ra. Còn hơn thế nữa, chính con người toàn diện của họ trở thành quan trọng cho chúng ta.
Theo cách giải thích của tâm lý ngày nay, lắng nghe ai một cách thực sự, là "đi vào bên trong nội tâm" của người ấy, chia sẽ, đồng hành, đồng cảm với họ. Sở hữu hóa nghĩa là biến thành của mình "cái khung quy chiếu" của họ.
Thuật ngữ này có vẽ kiểu cách, phiền toái, phức tạp. Nhưng thực chất và ý nghĩa của nó rất đơn giản. Khám phá khung qui chiếu của một người là lắng nghe họ, một cách rất thành tâm và cố quyết trả lời cho chính mình, những câu hỏi sau đây:
· Trong những điều họ phát biểu, cái gì là sự kiện hoàn toàn khách quan có thể được kiểm chứng?
· Khi họ phát biểu, họ trình bày cho tôi những cảm xúc và xúc động nào? Họ đau nhói ở đâu? Họ phập phồng, ngột ngạt ở chỗ nào?
· Từ địa hạt xúc động có liên hệ đến cơ thể và các hiện tượng sinh lý hóa, tôi bước qua lãnh vực tình cảm: để được lắng nghe, họ kêu tên và đặt tên cho tâm tình của mình như thế nào? Buồn, sợ, bực bội, bất mãn, tức giận, tuyệt vọng... đó là những loại ”thời tiết, khí hậu“, tạo nên nắng mưa trong tâm hồn của họ.
· Sau đó tôi vươn lên bình diện thuyên giải, nhằm tìm hiểu: Qua những điều họ nói, họ có ý kiến gì về chính mình, về người khác, về cuộc sống...
Những ý kiến ấy mới xuất hiện hay là đã đóng lớp rêu rong từ bao nhiêu đời, từ những ngày thơ ấu? Phải chăng đó là những thành kiến, những kiến lập họ tiếp thu từ người khác, ở nơi khác, nhưng chưa bao giờ được khảo sát hay là cập nhật hóa một cách nghiêm chỉnh?
Nói cách khác, cái gì là dư luận, tiếng đồn? Cái gì là xác tín đặt cơ sở trên lý luận vững chãi? Cái gì là năng động do họ sáng tạo? Cái gì là bị động do người khác áp đặt cho họ? Và người khác ấy là ai, mang tên tuổi gì?
Ý kiến của họ là một kết luận dựa trên cơ sở khách quan vững vàng, đã được kiểm chứng? Hay ngược lại, đó còn là một giả thuyết mong manh tạm bợ? Phải chăng đó chỉ là một lời phán quyết hoàn toàn đơn phương, độc lộ, thiếu nền tảng?
Cuối cùng, khi lắng nghe người đối diện phát biểu về người khác, bất kể là người thân hay kẻ xa lạ, tôi cần tìm hiểu họ có những loại quan hệ nào với tha nhân: Hài hòa tích cực, hay là căng thẳng, xung đột? Họ đang nuôi dưỡng lập trường nào trong bốn loại lập trường tâm lý sau đây?
Một: Tao thắng mầy thua,
Hai: Tao thua mầy thắng,
Ba: Tao thua mầy thua,
Bốn: Tôi thắng, bạn thắng, chúng ta cùng thắng với nhau và nhờ vào nhau.
Nói tóm lại, "khung qui chiếu" của họ bao gồm những gì, trên năm bình diện khác nhau như: sự kiện khách quan, cảm xúc, tâm tình, kiến giải và quan hệ?
Để có thể khám phá bao nhiêu dữ kiện và tin tức cần thiết như vậy, chúng ta không thể không tìm hiểu, học tập và tôi luyện. Nhờ đó, chúng ta có thể đóng góp, xây dựng cuộc đời cho người khác.
Đi một buổi chợ còn học được một mớ khôn! Huống hồ, nếu chúng ta biết lắng nghe, một cách thành tâm và có tính khoa học, chúng ta sẽ nhận rất nhiều điều, trên bước đường làm người. Và sau khi biết nhận như vậy, chúng ta sẽ là những người biết cho.
4. NHẬN VÀ CHO TRONG ĐỘNG TÁC LẮNG NGHE
Trong những ý nghĩa vừa được trình bày và quảng khai trên đây, phải chăng thái độ Lắng Nghe làm nên bản chất đích thực của tất cả những ai cố quyết làm người trong trời đất này? Và khi lắng nghe một người - cho dù người ấy nói hay hoặc nói dở, nói đúng hoặc nói sai, cao thượng hoặc tầm thường - chúng ta làm công việc gây ý thức cho họ nhận thức được rằng: cuộc đời đang CHO họ rất nhiều. Đến phiên họ, nếu họ tìm một người để cho; tìm một điều để cho; tìm một cơ hội để cho... lập tức họ trở nên giàu có. Họ đang làm một bà mẹ với hai bàn tay êm ái. Với nụ cười xinh đẹp. Với một liếc nhìn bao la, rộng lượng. Với một lời nói ấm áp, khích lệ. Với một tia ánh sáng nho nhỏ trong đôi mắt...
Khi lắng nghe với một thái độ nhận và cho như vậy, chúng ta không cần phải khẳng định lập trường "đồng ý" hay là "không đồng ý". Chúng ta đang ở trên bình diện Thương Yêu.
Thương yêu như vậy gồm có hai hơi thở ra vào là TỪ và BI.
· TỪ là mang lại niềm hân hoan, phấn khởi.
· BI là đồng cảm, chia sẽ những đắng cay, chua xót trong cuộc đời.
Đó là ý nghĩa sâu xa, mục đích cuối cùng, và đó cũng là giá trị cần được chúng ta thực thi và đeo đuổi, mỗi lần chúng ta lắng nghe một người anh chị em.
5. NHỮNG Ý NGHĨA CHỦ YẾU CỦA LẮNG NGHE
Trong bản tóm lược sau đây, tôi liệt kê lại sáu ý nghĩa chủ chốt của tác phong lắng nghe:
Động tác thứ nhất: Khi lắng nghe, tôi giữ im lặng.
Động tác thứ hai: Tôi giữ im lặng là vì tôi đặt trọng tâm vào người đang nói và chia sẻ. Không những điều họ nói, chính toàn diện con người của họ là một giá trị quan trọng đối với tôi.
Động tác thứ ba: Khi lắng nghe, tôi không nhắm bày tỏ ý kiến đồng ý hay không đồng ý. Tôi học tập, tìm hiểu khung qui chiếu của người phát biểu. Đặc biệt tôi phân định một cách rành mạch rõ ràng đâu là sự kiện, đâu là tình cảm xúc động, đâu là kiến giải, đâu là lời phê phán.
Động tác thứ bốn: Khi lắng nghe và tìm hiểu như vậy, tôi giúp người phát biểu ý thức về bản chất đích thực và sâu xa của họ là cho và thương yêu, vì họ đang được thương yêu.
Động tác thứ năm: Để đánh giá chất lượng của tác phong lắng nghe, tôi dựa vào ba tiêu chuẩn: Một là sống trong hiện tại, để chú ý và lưu tâm người đang hiện diện với tôi. Hai là học tập, tìm hiểu. Ba là có mặt một cách vui thích và hứng thú, thay vì bày tỏ những xúc động nhàm chán và bực bội.
Động tác thứ sáu: Để có thể duy trì chất lượng của lắng nghe, mục đích cuối cùng mà tôi đeo đuổi là thương yêu. Thiếu động cơ này thúc đẩy, tôi không còn sống trung thực. Tôi đi vào con đường phê phán nhị nguyên.
6. NHỮNG CẠM BẪY CỦA LẮNG NGHE
Lắng nghe với sáu động tác vừa được liệt kê, không phải là một công việc dễ dàng và tự nhiên. Một đàng, tôi phải thường xuyên tôi luyện. Đàng khác, tôi phải đánh giá một cách khoa học và sáng suốt, bằng cách đề phòng bốn cạm bẫy đang có mặt ở khắp nơi:
Cạm bẫy thứ nhất: Tôi cắt ngang, giành nói. Tôi vi phạm qui luật im lặng.
Cạm bẫy thứ hai: Tôi kết luận quá sớm. Tôi chưa nắm vững toàn bộ khung qui chiếu của người phát biểu. Lối nhìn của tôi còn quá phiến diện. Cho nên người đối diện cảm thấy mình bị hiểu lầm, không được lắng nghe một cách đích thực và trọn vẹn.
Cạm bẫy thứ ba: Tôi mơ mộng, nghĩ đến chuyện đã qua hay là chuyện chưa tới. Tôi không sống trong hiện tại.
Cạm bẫy thứ bốn: Thay vì im lặng, học hỏi, tìm hiểu đến nơi đến chốn, tôi lèo lái câu chuyện qua một hướng khác. Tôi đề nghị lề lối giải quyết, tôi phóng ngoại, giải thích, tôi phê phán, khen chê, lên mặt mô phạm, tôi bùng nổ, giận hờn, bực bội, la lối...
Nói tóm lại, vì tôi thiếu kỹ năng lắng nghe, tôi không biết giữ im lặng một cách thanh thản, hồn nhiên, dễ dàng và khéo léo. Từ đó, người phát biểu không có khả năng "mặc khải mình" như lòng họ chờ đợi, khao khát. Cũng vì vậy, họ chưa nhận ra bản chất đích thực sâu xa của mình là làm sứ giả của Tình Thương trong cuộc đời này.
Trái lại, khi cảm thấy mình được lắng nghe, nghĩa là được tiếp nhận và yêu thương, họ đã bắt đầu mở rộng con mắt tâm linh, và từ từ ý thức đến sứ mệnh làm người của mình là "Cho".
Hẳn thực, tôi đang CHO, chỉ vì tôi đã nhận lãnh rất nhiều, trong cuộc sống.
                                         
SÁCH THAM KHẢO:
1- Cameron L - Solutions - Future Pace U.S.A. 1985,
2- Goleman D - Emotional Intelligence -Bantam U.S.A. 1995.
3- Gordon T - Être Parent, ça s’apprend - Marabout 1995.
4- Nguyễn văn Thành - Phát Huy Nhân Lực - T.N. Lausanne 1998.
5- Nguyễn văn Thành - Đường vào Nội tâm - T.N.  Lausanne 1997.
6- Nguyễn Văn Thành - Phát Huy Quan Hệ Xã Hội - T. N.    Lausanne Hè, 2007.
Bài 3
Ý thức đến Ba nhân vật với bốn bộ mặt
trong con người của chúng ta
Thể theo Phương pháp «Phân Tích những quan hệ đối tác» (Transactional Analysis) của Eric BERNE, mỗi lần chúng ta tiếp xúc và trao đổi với kẻ khác, trong bất kỳ hoàn cảnh và sinh hoạt nào, chúng ta có thể khoác vào mình một trong 3 nhân vật sau đây:
* Nhân vật thứ nhất được gọi tên là người Cha Mẹ (Viết tắt bằng chữ hoa là CM),
* Nhân vật thứ hai: người Trưởng Thành (TT).
* Nhân vật thứ ba là người Trẻ Em (TE).
Mỗi nhân vật trên đây, tùy vào những nhu cầu khác nhau của sinh hoạt hiện tại, xuất đầu lộ diện dưới 4 bộ mặt khác nhau. Hai bộ mặt đầu được Eric BERNE đánh giá là tích cực, năng động (+). Hai bộ mặt sau có tính cách tiêu cực và tê liệt (-), khả dĩ tạo ra mọi vấn đề phiền toái, trong quan hệ giữa người với người.
I.- Sau đây là 4 bộ mặt của người làm Cha Mẹ 
1) CM+: Người Cha Mẹ sáng soi và hướng dẫn,
2) CM+: Người Cha Mẹ nâng đỡ, tạo an toàn,
3) CM-: Người Cha Mẹ độc tài, điều khiển tất cả,
4) CM-: Người Cha Mẹ bao che từ đầu chí cuối, hay là làm thay, làm thế tất cả.
II.- Người Trưởng Thành cũng có 4 bộ mặt khác nhau 
1) TT+: Người Trưởng Thành đồng cảm, có khả năng chia sẻ qua lại, lối nhìn và xúc động của mình với những người sống hai bên cạnh,
2) TT+: Người Trưởng Thành đồng hành, không những có khả năng phát biểu, đóng góp ý kiến của mình về một vấn đề, còn dấn thân nhập cuộc, bắt tay vào công việc với bạn bè, để thực hiện những chương trình đã được phác họa với nhau.
3) TT-: Người Trưởng Thành với những lối nhìn và thái độ lưỡng năng:
- Tao Hơn, Mày Thua,
- Tao Đúng, Mày Sai,
- Tao Tốt, Mày Xấu,
- Tao Chính, Mày Ngụy…
4) TT-: Người Trưởng Thành thu mình trong nếp sống bít kín và xé lẻ
III.- Tùy vào những năm tháng được cha mẹ nuôi nấng và giáo dục, người Trẻ Em cũng có thể trình bày 4 bộ mặt khác nhau:
1)   TE+: Người Trẻ Em hiếu kỳ, thích học hỏi, sau bao nhiêu năm được cha mẹ, thầy cô sáng soi và hướng dẫn đúng lúc, đúng liều lượng, đúng giai đoạn phát triển, đúng nhu cầu và sở thích.
2) TE+: Người Trẻ Em hồn nhiên, yêu đời, hạnh phúc, biết vui đùa và hòa mình với bạn bè cùng lứa tuổi, sau bao nhiêu năm được cha mẹ lắng nghe, tôn trọng, khích lệ, tạo điều kiện thuận lợi, và nhất là có mặt và biết đồng cảm, vui đùa với con.
3) TE-: Người Trẻ em Phản Động, nếu cha mẹ quá độc tài, điều khiển từ A đến Z.
4) TE-: Người Trẻ Em Bị Động và Lệ Thuộc, nếu được cha mẹ phục vụ tối đa và nương chìu quá đáng, bằng cách làm thay và làm thế, trong tất cả mọi vấn đề và lãnh vực.
Xuyên qua lối nhìn của Eric BERNE vừa được trình bày, để có thể nhận định và đánh giá những quan hệ tương tác đang được kết dệt giữa hai người, chúng ta cần khảo sát hai chiều hướng:
Trong chiều hướng thứ nhất, người đưa tin đang đóng vai trò của nhân vật nào: CM, TT hay là TE? Ngược lại, nhân vật nào xuất hiện để phản ứng hay là sáng tạo câu trả lời, sau khi tiếp nhận tin tức? 
Trong chiều hướng thứ hai, mục đích cuối cùng mà chúng ta nhắm tới, để thực hiện, trong những quan hệ qua lại hai chiều, phải chăng là đồng hành và đồng cảm, xây dựng và đóng góp cho nhau? Hay là chúng ta đang khoác vào mình những vai trò đàn áp, ức chế, thậm chí với con cái và những người thân yêu của chúng ta? Có bao giờ chúng ta biết giật mình, thức tỉnh, để nhận chân được rằng: chính chúng ta đang biến con cái hay là những kẻ đang sống hai bên cạnh, thành những nhân vật phản lọan, chống đối hay là hoàn toàn bị động và lệ thuộc, trong cuộc đời làm người?
Nhằm bổ túc và kiện toàn lối nhìn của Eric BERNE, trong thể thức đánh giá những quan hệ xã hội, tác giả KARPMAN đề nghị hai loại tam giác:
Tam giác thứ nhất dẫn đưa chúng ta vào vùng tranh chấp, xung đột, hận thù, vong thân và vong bản. Tam giác nầy ở giữa 3 con đường đan chéo vào nhau:
· Trên con đường số một, tôi hành động như một tên thực dân, luôn luôn mang ý đồ chiếm đất, giành dân, đàn áp và bốc lột, đương khi miệng lưỡi không ngừng hô hào nào là nhân nghĩa, đại đồng, nào là công bình, bác ái…
· Trên con đường số hai, tôi phàn nàn và ta thán, tưởng tượng mình là nạn nhân và mang tâm trạng đầu hàng, buông xuôi, bỏ cuộc, lệ thuộc và bị động.
· Trên con đường số ba, tôi là chiếc loa phóng thanh, khoác vào mình phần vụ «nói thay, nói thế». Một cách vô tình hay hữu ý, tôi lấn át tiếng nói của mọi người khác, đang chung sống trong môi trường xã hội và Quê Hương. Rốt cuộc, tôi chỉ mang mặt nạ để phát ra một tiếng nói quảng cáo và tuyên truyền, hoàn toàn rỗng tuếch và vô ý thức
Tam giác thứ hai bao gồm 3 thái độ làm người biết đồng cảm và đầy lòng bao dung:
· Thái độ thứ nhất là khám phá giá trị và khả năng của những người đang có những quan hệ tương tác với chúng ta.
· Thái độ thứ hai là lắng nghe và trôn trọng tiếng nói của kẻ khác, cho phép họ có ý kiến KHÁC và cách làm KHÁC, khả dĩ bổ túc và kiện toàn chúng ta…
· Thái độ thứ ba là tha thứ và bao dung, khi kẻ khác sai lầm,  đồng thời giúp họ biến sai lầm thành một bài học cao quý cho chính bản thân mình và cho những người đang chung sống. Nói khác đi, sai lầm có thể tạo điều kiện và cơ hội để chúng ta ý thức đến con người của mình và tìm cách vươn lên… trên con đường thành người và phục vụ Đất Nước.
Vậy, dựa vào những phân tích và lối nhìn trên đây, bạn đang là Nhân Vật nào, với Bộ Mặt nào, trong mỗi quan hệ tiếp xúc và trao đổi qua lại với từng người Anh Chị Em Đồng Bào?
Xin lắng nghe bài hát «Tin Mừng của Em» trong CD «Người Em Việt Nam», để ý thức được rằng chúng ta có thể mang đến cho Anh Chị Em Đồng Bào sáu loại Tin Mừng khác nhau, trong mỗi quan hệ tiếp xúc và trao đổi của chúng ta.
Bài 4
Tìm cách hóa giải những xúc động
trong những quan hệ của chúng ta
Bằng cách nầy hay cách khác, dưới nhiều hình thức trá ngụy, xúc động luôn luôn có mặt, khi hai người bắt đầu thiết lập những quan hệ tiếp xúc và trao đổi với nhau.
Xúc động thường được so sánh như một bản «dự báo thời tiết» của nội tâm : Thời tiết cần được hiểu ở đây là những tâm trạng lo sợ hay buồn phiền, tức giận, bực bội hay là hứng khởi, vui tươi và hạnh phúc…
Theo lối nhìn của tác giả John GRAY, nếu chúng ta biết lắng nghe và coi trọng những «tiếng nói không lời» ấy, chúng ta sẽ dần dần khám phá 5 sứ điệp hay là 5 tầng lớp khác nhau của nội tâm, đang giao thoa chằng chịt và nuôi sống lẫn nhau: 
* Tầng lớp thứ nhất bao gồm những xúc động bực bội, tức giận. Những xúc động nầy có phần vụ nhắn gởi cho những người đang sống chung quanh, một sứ điệp cầu cứu: «Tôi từ chối, phản đối, vì tôi không được lưu tâm và coi trọng. Có người đang xâm lấn vào lãnh vực sở hữu, cũng như quyền quyết định và chọn lựa của tôi».
* Tầng lớp thứ hai bao gồm những xúc động cô đơn, buồn bực, chán nản, thất vọng. Lời kêu cứu ở đây gồm có: «Tôi quá lẻ loi, đơn chiếc… trong cuộc đời. Tôi cần những bàn tay nâng đỡ, những lời nói ủi an, những khuôn mặt hiện diện».
* Tầng lớp thứ ba: «Tôi đang lo sợ, bất an và bất ổn, khiếp đảm và kinh hoàng. Ai sẽ nâng đỡ, chỡ che, đùm bọc, bênh vực tôi, trước những hiểm nguy, tai họa đang có mặt ở khắp nơi?»
* Tầng lớp thứ bốn: «Tôi đã làm những điều sai trái. Tôi hối hận. Mặc cảm tội lỗi đang đè nặng và nghiền nát tôi. Ai có thể giải thoát tôi khỏi những tù ngục ngột ngạt nầy?»
* Tầng lớp thứ năm: «Tôi cần có người lại gần, hiện diện với tôi… để tạo quan hệ yêu thương qua lại hai chiều. Ai có thể mang đến cho tôi hạnh phúc và thứ tha, hiểu biết và đồng cảm?»
Nếu một trong năm tầng lớp trên đây bị tổn thương, ức chế, cấm cản, hay là không được đáp ứng và thỏa mãn, toàn bộ đời sống xúc động sẽ dần dần bị khô héo và tê liệt. Hẳn thực, nếu tôi không biết giận, chẳng hạn vì cha mẹ, thầy cô cấm cản hoặc trừng phạt, tôi cũng sẽ chẳng bao giờ biết được thế nào là yêu, là ghét. Nếu không cảm nghiệm được lo sợ là gì, làm sao tôi hiểu được thế nào là an bình, sung sướng và hạnh phúc?
Và cứ như vậy, nếu toàn bộ năm tầng lớp xúc động bị tàn lụi và héo úa,  chắc chắn khả năng tư duy của tôi cũng nghèo nàn, cằn cỗi, tàn tạ. Tiếp theo sau, toàn thể thực chất con người của tôi cũng bi suy thoái một cách trầm trọng.
Hẳn thực, không có những xúc động thúc đẩy, tạo hứng khởi, đốt lên ngọn lửa quyết tâm và nhiệt tình, tôi tìm ở đâu đầy đủ nghị lực và năng động, để xác định những hoài bảo hay là chuyển biến mộng mơ thành hiện thực trong cuộc đời?
Những nhận xét trên đây cũng có thể áp dụng cho mỗi triệu chứng đang có mặt nơi trẻ em có nguy cơ tự kỷ. Sở dĩ em đang sống bít kín, không dám tiếp xúc với một ai, phải chăng vì em đang lo sợ, kinh hoàng? Nếu chúng ta xô đẩy, ép buộc em phải đi ra, tiếp xúc, học tập… chúng ta chỉ gia trọng những phản ứng khép kín của em. Thay vào đó, với kinh nghiệm nghề nghiệp và khả năng chuyên môn, chúng ta có thể sáng tạo những bài học nào, khả dĩ mang đến cho em, những cảm nghiệm an toàn và tự tin?
Em đang thét la, bùng nổ, tấn công những bạn bè hai bên cạnh hay là có những hành vi tự hủy, như cắn mạnh vào tay, hay là đập đầu vào vách tường. Thay vì cấm cản, tại sao chúng ta không tổ chức những trò chơi sư phạm «cho phép em ấy giận một cách khác»? Làm như vậy là chuyển biến tức giận thành một bài học hữu ích cho cuộc đời.
Khi giam hãm mình suốt ngày trong những trò chơi «lắp ráp, lặp đi lặp lại», phải chăng em đang tìm cách trở lui với những chu kỳ vui thích, an toàn và thoải mái, khi còn sống trong tử cung của mẹ. Chính lúc ấy, chúng ta có thể mang ra nhiều hình ảnh khác nhau của mẹ, cho em sắp xếp. Hay là chúng ta mở ra một bản nhạc êm dịu và thao tác một vũ điệu, với em, bên cạnh em. Nếu em chấp nhận «nhún nhảy», như chúng ta và với chúng ta, em đã bắt đầu kiến tạo quan hệ qua lại hai chiều. Nói khác đi, em đã NHÌN và bắt chước chúng ta.
Nói tóm lại, ở bên dưới mỗi triệu chúng, chúng ta sẽ tìm gặp một xúc động. Mỗi xúc động ẩn giấu ở dưới tầng sâu của ội tâm, một nhu cầu. Sau khi khám phá nhu cầu, chúng ta sáng tạo những thể thức đáp ứng. Qua những cách làm ấy, chúng ta đang phát huy những quan hệ đồng cảm với trẻ em, và sáng tạo cho em con đường đi ra với thế giới bên ngoài.
Tiến trình dồn nén, ức chế…
Thay vào những bước đi nhón nhén, từ tốn và kiên nhẫn, như vừa được mô tả và phác họa, chúng ta có thể nôn nóng, muốn «ăn nhanh, ăn vội, ăn liền», như trong các tiệm « Mác đô nan kiểu Mỹ». Cho nên, chúng ta không ngần ngại sử dụng những «phương pháp» ức chế, nhồi nhét, áp đặt. Bằng cách nầy hay cách khác, chúng ta ép buộc trẻ em «phải tiến bộ một cách nhanh chóng». Phải biết nói. Phải tẩy xóa những «rối lọan hành vi». Phải trở về với «nếp sống bình thường».
Với bao nhiêu mệnh lệnh «Phải, Cần, Cấm…», chúng ta đã vô tình sản xuất những trẻ em «bị ức chế và dồn nén».
Theo cách giải thích của tác giả John GRAY, tâm trạng bị dồn nén là kết quả cuối cùng, trong đời sống tương tác xã hội, sau khi chúng ta bị cấm cản, trừng phạt, không có phép làm những gì chúng ta quyết định và chọn lựa.
- Trong công đoạn thứ nhất, chúng ta không có phép từ chối, nói KHÔNG, không có phép bộc lộ quan điểm bất đồng (Resistance).
- Trong công đoạn thứ hai, chúng ta không có phép bày tỏ ra ngoài nỗi niềm oán hờn, tức giận (Resentment).
- Trong công đoạn thứ ba, chúng ta không có phép loại trừ, bỏ đi, cắt đứt (Rejection).
- Trong công đoạn thứ tư, chúng ta mất hết khả năng khẳng định con người đích thực của chúng ta.
Chúng ta trở thành «gỗ đá» hay là «hình thì còn, bụng chết đòi nao». Lúc bấy giờ, giá trị làm người, lý tưởng, tinh thần trách nhiệm, lòng vị tha… chỉ là những nhãn hiệu hoàn toàn thiếu nội dung (Repression, Inhibition).
Chính vì bao nhiêu lý do vừa được trình bày, giáo dục có nghĩa là gì, khi chúng ta ép buộc và áp đặt tất cả từ trên và từ ngoài cho trẻ em? Làm người phải chăng là ngày ngày trở nên một chủ thể có khả năng chọn lựa và quyết định một giá trị, một hướng đi, một lý tưởng? Tuy nhiên, bài học chọn lựa và quyết định nầy được ai dạy và được dạy làm sao, trong môi trường giáo dục và văn hóa của Quê Hương?  
Diễn tả xúc động là một bài học cần học đi học lại
Để có thể dạy trẻ em thành người, người có trách nhiệm - như cha mẹ trong môi trường gia đình - hãy bắt đầu học cách diễn tả những xúc động của chính mình, một cách hồn nhiên và thanh thản, bình tỉnh và trực tiếp.
Từ ngày sinh ra đến lúc lên 5 tuổi, trẻ em học tập bằng cách bắt chước, lặp lại, vọng lại hay là phản ảnh những gì đang có mặt trong thái độ, tác phong và ngôn ngữ của cha mẹ, xuyên qua những trò chơi vui nhộn, những câu chuyện bập bẹ và líu lo. Một cách đặc biệt, hai mẹ con là «hai chiếc bình thông đáy». Cho nên mẹ đầy, thì tự nhiên con đầy. Mẹ vui tươi, hạnh phúc, năng động, thì đứa con  phản ảnh nụ cười của mẹ, nét mặt của mẹ, tâm hồn của mẹ, tính tình dễ thương của mẹ.
Chính vì những lý do vừa được trình bày, sau đây tôi mạo muội giới thiệu một số kỹ thuật nhằm giúp cha mẹ và người giáo viên diễn tả và bộc lộ ra bên ngoài, giữa vùng ánh sáng, tất cả nội tâm của mình, với bao nhiêu thời tiết thay dổi thường xuyên «mai mưa, trưa tạnh, chiều dông…». Làm được như vậy, quí vị sẽ có khả năng chuyển hóa những tâm trạng u buồn, trầm cảm, kiệt quệ… thành những quà tặng cho con cái và trẻ em. Phải chăng đó là bài học cao trọng và quí giá, trên tất cả mọi bài học khác?
Kỹ thuật phản ảnh, khi xúc động vừa chớm nở 
Khi hai vợ chồng hay bạn bè thiết thân đang chuyện trò với nhau, bỗng nhiên một người cảm thấy những phản ứng khó chịu, bất đồng và bất mãn hiện hình trong nội tâm. Chính lúc ấy, kỹ thuật phản ảnh là phương tiện tốt hảo, để hai người trực diện với những quan hệ của mình, một cách thành tâm và can đảm.
Trong thực tế, qua bao nhiêu đời, chúng ta thường đề xuất câu tục ngữ đã được nằm lòng:
«Một câu nhịn, chín câu lành». Kỳ thực, thái độ nhịn nhục ấy đang nung nấu, chờ đợi một nơi khác, một lúc khác, hay là một người khác… để bùng nổ. Một xúc động bị kiểm duyệt và dồn nén như thế, sẽ không bao giờ tan biến, Trái lại, khi nội tâm bị ô nhiễm, thể theo định luật của «bình thông đáy», quan hệ giữa hai người sẽ từ từ suy thoái.
Với kỹ thuật phản ảnh, chính thành viên đang cảm nghiệm xúc động, hãy thú nhận và yêu cầu:
«Nghe em nói điều ấy, anh thú thật với em là anh bắt đầu bực bội. Anh xin em hãy lắng nghe và phản ảnh, để giúp cho anh nghe lại chính mình».
Phần Một: Người A dùng sứ điệp Ngôi Thứ Nhất, để diễn tả xúc động của mình. Mỗi lần, lời phát biểu chỉ thu hẹp trong một câu vắn gọn mà thôi.
Người B chỉ phản ảnh, nghĩa là làm tiếng vọng, bằng cách lặp lại y nguyên câu nói của A, thậm chí đại danh từ ngôi thứ nhất, như tôi, em, mình…
Ví dụ:
Lời người A: Nghe cô phàn nàn, tôi bực bội, chán nản.
Lời người B phản ảnh : Nghe cô phàn nàn, tôi bực bội, chán nản.
A: Nhiều lúc tôi muốn bỏ nhà, ra đi.
B: Nhiều lúc tôi muốn bỏ nhà ra đi.
Phần Hai: Sau độ 5 phút, người A tự nguyện dừng lại, khi cảm thấy tâm linh của mình đã được nuôi dưỡng, tâm hồn của mình đã trở về tình trạng yên nguôi…
Lúc bấy giờ, B nhận làm của mình tất cả nỗi lòng mà A đã diễn tả.
Sau đó, B tóm lược trong vòng 1 phút những tâm tình của A. Và lúc ấy A thành khẩn lắng nghe, không thêm, không bớt, không điều chỉnh.
Sơ đồ tóm lược và phản ảnh của B về A, bao gồm 3 điểm chính yếu sau đây:
«Tôi cảm thấy….» trình bày xúc động của A.
«Tôi muốn… Tôi cần…» trình bày nhu cầu và ước vọng của A.
«Tôi thương… tôi thích… tôi khen ngợi…» trình bày quan hệ thân thương, tích cực và năng động của A đối với B, trong giây phút ở đây và bây giờ. Tuyết đối không nhắc lại quá khứ. Không áp đặt với những mệnh lệnh có các từ như «Phải, Nên, Cần, Cấm, Không được…». 
Phần Ba: B diễn tả xúc động của mình. A bây giờ làm công việc phản ảnh và vọng lại, để cho B nghe lại chính mình.
Phần Bốn: A sở hữu hóa và tóm lược xúc động của B.
Kỹ thuật này được so sánh như một món ăn lạ. Lúc ban đầu, nó không mang lại những kết quả tức khắc. Nhưng dần dần, nó sẽ trở nên một món ăn có khả năng bồi dưỡng và đổi mới những quan hệ đối tác xã hội của chúng ta.
Thực ra, điều quan trọng không phải là hình thức, nhưng là tinh thần và ý hướng của kỹ thuật. Tuy nhiên, trong điều kiện và thân phận làm người, phải có hình thức mới có tinh thần. Trí Thông Minh Xã Hội và cơ sở Não Bộ quyện sát vào nhau, cần nhau và phát huy nhau.
Kỹ thuật «Tức giận với chính mình»
Trong cuộc sống, rất nhiều lúc, chúng ta tức giận với chính mình. Thậm chí, sau khi đã tức giận với người khác, chúng ta quay lại tức giận với chính mình. Từ đó, chúng ta trở nên trầm cảm, kiệt quệ, vì nhiều mặc cảm tội lỗi đang từ từ xói mòn mọi sức sống vươn lên của chúng ta.
Sở dĩ như vậy, vì theo lối nhìn của tâm lý đương đại, chúng ta khởi đầu một tiến trình, và rồi không có khả năng hay là không biết phải kết thúc bằng cách nào.
Hẳn thực, phần vụ tích cực và năng động của tức giận, là yêu cầu những người đang chung sống hãy tôn trọng giá trị và lãnh thổ «tâm linh» của chúng ta. Tuy nhiên, nhiều lúc chính chúng ta chưa ý thức rõ ràng về giá trị đích thực và cơ bản của mình. Và khi có ý thức, chúng ta lại không biết tìm cách trình bày ra ngoài, cho kẻ khác hiểu được con người đích thực của chúng ta.
Với kỹ thuật «tức giận với chính mình», chúng ta học tập về thể thức kết thúc một cách trọn vẹn, tiến trình tức giận của chúng ta. 
Trong phần Một, với sứ điệp ngôi thứ nhất, chúng ta diễn tả xúc động tức giận của mình, với tất cả đoàn tùy tùng:
«Tôi tức giận bạn về việc…»
«Tôi ghét bạn, KHI…»
«Tôi khó chịu, bực bội, vì lý do…»
Trong phần Hai, chúng ta trình bày những nguyện vọng có liên hệ mật thiết với những giá trị hiện tại của chúng ta:
«Tôi muốn từ đây bạn hãy nói… và làm…»
«Tôi muốn được cư xử, đãi ngộ…»
«Tôi thiết tha yêu cầu bạn làm…»
«Ước vọng quan trọng số một của tôi là…»
Trong phần Ba: Dựa vào kinh nghiệm cụ thể và khách quan, có mặt trong quá khứ, chúng ta trình bày khả năng và đức tính thực sự của chúng ta:
«Bạn có thể làm…»
«Bạn có những khả năng…»
«Bạn xứng đáng với thành tích như…»
«Bạn rất tài tình về…»
«Bạn dễ thương, khi…» 
Trong phần bốn: Diễn tả quan hệ năng động và tích cực với chính mình:
«Tôi thương bạn, khi…»
«Tôi sung sướng, khi bạn làm…»
«Tôi hạnh phúc được thấy bạn…».
Khi chúng ta biết tức giận với chính mình như vậy, chúng ta sẽ có khả năng diễn tả nỗi tức giận của mình đối với kẻ khác trong gia đình, cũng như ngoài xã hội, một cách bình tỉnh, ôn hòa và xây dựng. Tức giận lúc bấy giờ không còn và không phải là con đường dẫn đến bạo động, hay là phá hủy những quan hệ mà chúng ta đã xây dựng và nuôi dưỡng. Chính vì lý do nầy, sau khi tức giận, bùng nổ, bạo động, chúng ta ngụp lặn trong những trạng thái trầm cảm, mặc cảm tội lỗi…
Gốc rễ của tâm trạng trầm cảm và kiệt quệ
Nguyên nhân của tình trạng trầm cảm không do môi trường bên ngoài mang đến. Chính lối nhìn của chúng ta làm cho chúng ta đánh mất nhiệt tình và nhiệt lực đã và đang có mặt trong chúng ta. Theo quan điểm của Bác sĩ David D.BURNS, chỉ cần chuyển hóa, một cách ý thức và can trường, những cơ chế xuyên tạc và bóp méo của tư duy, chúng ta sẽ tìm lại nội lực đang có mặt trong con người của chúng ta.
Sau đây là mười hình thức xuyên tạc, thường có mặt trong tư duy của người đang mang tâm trạng trầm cảm:
1) Tư duy «hoặc có tất cả hoặc không có gì cả». Loại tư duy này có tính lưỡng năng, thiếu trung dung (All-or-Nothing Thinking).
2) Tư duy tổng quát hóa quá khích (Overgeneralization). Theo loại tư duy nầy, cái gì chỉ xảy ra một lần, sẽ luôn luôn xảy ra như vậy suốt đời.
3) Tư duy sàng lọc (Mental filter). Ông A có rất nhiều đức tính. Chỉ cần một lần ông nói dối, từ đó tư duy của tôi chỉ giữ lại tin tức: ông là người nói dối. tôi khước từ những ý kiến khác.
4) Tư duy tiêu cực (Disqualifying the positive). Cơ hồ một người loạn thị, con mắt tư duy của tôi chỉ ghi nhận khía cạnh tiêu cực, và không nhìn nhận bao nhiêu yếu tố tích cực cùng có mặt.
5) Kết luận vội vã (Jumping to conclusions). Dựa vào một hoặc hai dữ kiện cụ thể, tôi đã khẳng định một cách chắc nịch như đinh đóng về giá trị hoặc bản chất của một con người. Chỉ cần mẹ la mắng tôi một lần, tôi đã kết luận: mẹ là bà phù thủy, đối với tôi.
6) Bi kịch hay là quan trọng hóa (Catastrophizing): Tư duy của tôi có xu thế phóng lớn ra một chi tiết nhỏ nhặt, hay là giảm khinh một tin tức đang quấy rầy tôi.
7) Biến xúc động thành thực tế (Emotional reasoning). Thể theo loại tư duy nầy, tôi cảm nhận thế nào, thì thực tế khách quan bên ngoài phải như vậy.
8) Biến lối nhìn thành qui luật, với những mệnh đề có động từ Phải, Nên, Cần… (Should Statements).
9) Gắn nhãn hiệu (Labeling). Trong loại tư duy nầy, tôi có xu thế biến một hành vi thành một tính chất, một tính tình, một thể loại. Tôi có một kinh nghiệm khó chịu, một lần, với một người miền trung. Từ đó, mỗi khi có cơ hội phát biểu, tôi luôn luôn khẳng định một cách chắc nịch: người Trung khó chịu.
10) Tư duy chủ quan hóa (Personalization). Với loại tư duy nầy, bạn xem mình là nguyên nhân độc nhất gây ra mọi tai họa, khi đứa con bạn có nguy cơ tự kỷ. Theo bạn, chính bạn đã mang căn tính ác độc, trong nhiều đời nhiều kiếp. Bây giờ con bạn phải gặt hái những hậu họa.
Để có thể chuyển biến loại tư duy xuyên tạc và bóp méo nầy, bạn hãy học tập quan sát và ghi nhận những sự kiện cụ thể, khách quan, bên ngoài. Hãy tôi luyện khả năng đặt ra cho mình câu hỏi: Tôi đang thấy gì, tôi đang nghe gì? Từ những điều mắt thấy, tai nghe như vậy, tôi rút tỉa những kết luận nào? Bạn bè của tôi, những người xa lạ… kết luận như thế nào, khác tôi ở chỗ nào, giống tôi ở chỗ nào? Nói cách khác, cách hành xử mà tôi cần học tập và tôi luyện hằng ngày, là lắng nghe kẻ khác, coi trọng lối nhìn của bao nhiêu người đang cùng chung sống trong môi trường. Hãy nhìn với con mắt của kẻ khác. Hãy lắng nghe, với lỗ tai của những người khác phái, khác miền, khác lập trường, khác chính kiến, khác tôn giáo, khác thế hệ... Người khác, nhờ nét khác biệt của họ, có thể bổ túc và kiện toàn những gì đang thiếu vắng trong con người của tôi.
Sách tham khảo:
1) David D. BURNS - Feeling Good: The new mood therapy - Avon Books, HarperCollins N.Y. 1999.
2) P. WATZLAWICK - Une logique de la communication - Seuil Paris 1972.
3) John GRAY - What you feel, you can heal - Heart Publishing, Mill Valley CA 1984.
4) NGUYỄN Văn Thành - Em là Quê Hương - Tình Người, Lausanne 1997.
5) Eric BERNE - Transactional Analysis in Psychotherapy - New York, Grove Press, 1961.
6) Thomas A, HARRIS - D’accord avec soi et les autres - Epi, Paris 1984.
7) JAMES - JONGEWARD - Naître gagnant - InterEditions, Paris 1978.
Hè 2008
Nguyễn Văn Thành
Theo https://www.vanchuongviet.org/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Rót lòng mình vào chập chùng sương khói Nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều vừa được bầu chọn làm hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Chị si...