Ý hướng chủ yếu mà chương nầy muốn trình bày là không có thù hận
và bạo động trong sách lược Tâm Công của Nguyễn Trãi. Trái lại, chỉ có tình
thương, mặc dù người đối diện thuộc quân Minh đang xâm lăng Đại Việt và tàn sát
anh chị em đồng bào.
Khi khẳng định như vậy, phải chăng Nguyễn Trãi đang phản bội đoàn
đoàn lũ lũ những vong linh đã can đảm hy sinh mình, để bảo vệ đất nước, qua bao
nhiêu thời đại, từ đời các vua Hùng đến ngày hôm nay?
Để có thể khai quật chiều sâu thăm thẳm của Tâm Công, chúng ta sẽ lần
lượt khảo sát những vấn đề sau đây:
• Nội tâm mang nhiều tầng lớp ý nghĩa và sinh hoạt khác nhau.
• Nội tâm giống như một dòng nước, một con sông. Bao lâu nó
được khai thông và lưu nhuận, mọi vấn đề xảy ra trong cuộc đời sẽ từ từ được
hóa giải. Ngược lại, khi chúng ta thiếu khả năng biến chế, tiêu hóa hay là chuyển
biến tất cả những hiện tượng đang xảy ra trong nội tâm, chúng ta đánh mất quyền
làm chủ. Chúng ta trở thành nạn nhân hay là đối vật trong tầm tay sử dụng của
người khác.
Thể theo lăng kính nầy, tất cả vấn đề của chúng ta được cô động
trong một khả lực: Biết hay là thấy. Nếu chúng ta biết chúng ta là ai, đang ở
đâu, cần làm gì, cách nào, chúng ta sẽ tìm ra đòn bẫy và điểm tựa, để dời núi
lấp sông, trong kế hoạch Tâm Công.
• Một cách đặc biệt, khi có một xúc động đang gây chấn động mạnh
cho nội tâm, chúng ta có những chọn lựa nào, thay vì "nhắm mắt đưa chân,
chờ xem con tạo xoay vần nơi nao?" Chúng ta chủ động, thay vì phản ứng,
nghĩa là bị kích động từ bên ngoài.
Tác giả St. Cover thường kể câu chuyện sau đây cho độc giả trong
nhiều tác phẩm của mình 41:
Hôm ấy trên chuyến tàu ra ngoại ô, tác giả ngồi bên cạnh một người
đàn ông trạc 40 tuổi, với 4 đứa con 2 nam, 2 nữ. Vào lúc độ 5 giờ chiều, sau
một ngày làm việc, ai ai cũng mệt nhọc, ngồi nhắm mắt nghỉ ngơi. Vài người khác
thinh lặng đọc báo. Duy chỉ 4 đứa bé kia gây náo động cho cả toa xe lửa. Chúng
nó thét la, quấy rầy, đánh lộn. Một chốc sau đó, chúng nó làm phiền người nầy,
giật tờ báo của người kia hay là bước lên chân của người nọ. Ai ai cũng tỏ ra
bực bội, nhưng không làm điều gì để cải tiến hoàn cảnh.
Sau 10 phút, một số người bỏ đi, qua ngồi ở toa xe khác. Những
người còn lại nhìn ra cảnh vật bên ngoài, cố tình tránh tiếp xúc.
Cơn bực bội càng lúc càng gia tăng. Trong nội tâm, tác giả lặp đi
lặp lại những câu chưởi thề, những lời phê phán tố cáo... Cuối cùng,
không còn chịu nỗi, tác giả quay qua người đàn ông với giọng điệu mất bình
tỉnh:
- Chắc hẳn ông là cha của 4 đứa bé nầy. Chúng nó quấy rầy mọi
người ở đây, sao ông ngồi yên, không làm gì cả?
- Cha con chúng tôi vừa ở bệnh viện ra, người đàn ông trả lời. Mẹ
chúng nó vừa qua đời vì bệnh ung thư. Lòng tôi rối tơi bời không biết phải làm
gì. Chắc chúng nó cũng bấn loạn như tôi. Xin ông miễn lỗi cho chúng tôi.
Sau khi nghe lời thú nhận ấy của người đàn ông, tác giả và những
người chung quanh đã thay đổi hẳn thái độ. Họ không còn trách móc, phàn nàn. Ai
ai cũng cố gắng làm một cử chỉ yêu thương, nhất là đối với 4 đứa bé. Có người
yêu cầu người cha cho phép mình mang một đứa bé về nhà một vài hôm. Câu chuyện
cho thấy: khi yêu thương, chúng ta sáng tạo, chủ động, chúng ta thay đổi lối
nhìn.
Theo khoa tâm lý đương đại, chúng ta có thể nhìn một người - bất
kỳ người nào, thậm chí một tên lính thuộc quân Minh - vào những năm ở giữa 1407
và 1427 - từ 3 vị trí khác nhau 42:
Vị trí thứ 1: Đó là vị trí hiện tại của chúng ta với bao
nhiêu hạn chế tự nhiên, ắt có, tất yếu. Đóng kín mình ở đây, chúng ta phản ứng
nhiều hơn là sáng tạo, chủ động.
Vị trí thứ 2: Vị trí của người đang được nhìn với bao
nhiêu khổ đau và vấn đề trong cuộc sống. Chúng ta cố gắng mang tất cả tâm trạng
hiện tại của họ. Khắc khoải cũng có, ước mơ cũng nhiều. Khuyết điểm cũng không
thiếu.
Vị trí thứ 3: Đây là vị trí của một người đang yêu
thương chúng ta một cách tha thiết. Hoài bảo của người đó là chúng ta trở thành
một con người "bao la và cao thượng" như Âu Cơ và Lạc Long Quân.
Đồng thời người này cũng biết rất tường tận về cuộc đời của người
đang được chúng ta nhìn.
Chúng ta có thể tưởng tượng người thứ ba nầy là Nguyễn Trãi hay là
nữ văn sĩ Y. Feray, đang mang sẵn trong mình một tấm lòng nhân ái mênh mông như
đại dương, bao la như bầu trời.
Người thứ ba nầy cũng có thể là Đức Bụt, Đức Kitô hay là "Ông
Trời" của người Việt Nam.
Trong rất nhiều vấn đề, chúng ta chỉ "biết một" mà không
"biết mười". Những người thuộc loại thứ ba nầy vừa biết một, vừa biết
mười. Lối nhìn họ bao trùm tất cả.
Thông thường những người "biết mười" là những tâm hồn
vừa khôn ngoan và hạnh phúc. Trong 10 điều có cả xấu lẩn tốt. Họ không dại gì
chỉ thấy điều xấu. Họ biết tận hưởng điều tốt đang có mặt. Thêm vào đó, có gì
hoàn toàn tốt và có gì xấu nguyên chất, bao lâu chúng ta còn có mặt trong lòng
cuộc đời?
Hôm đó con ngựa của nhà nông phu lạc vào rừng và biến mất. Có
người bạn hay biết, tìm đến chia buồn. Người nông dân trả lời: chuyện đâu sẽ
vào đấy!
Sau mười ngày, con ngựa đi lạc trở về, rủ theo nó mười con ngựa
hoang trong rừng rất béo tốt và khỏe mạnh. Bạn bè trầm tro: Nhà có phước! Nghe
vậy, người nông phu bình tỉnh trả lời: Chuyện đâu sẽ có đó.
Đứa con trai lên 20, thấy ngựa quá tốt đẹp, chọn một con để thuần
hóa. Sau chưa đầy một tiếng đồng hồ, nó bị té ngã, gãy một chân. Bà mẹ khóc
lóc, la lối om sòm. Người chồng vỗ về, an ủi : chuyện đâu sẽ vào đó.
Một tháng sau đất nước có biến loạn. Con trai trong thôn làng phải
lên đường nhập ngũ. Đứa con của người nông dân được miễn dịch, vì không có khả
năng di chuyển bình thường! Hẳn thực, chuyện đâu sẽ vào đó.
Theo câu chuyện nầy, trong cái tốt có cái xấu. Và trong cái xấu, hạt mầm của điều
lành vẫn có mặt.
Đặt mình vào vị trí thứ 3, chúng ta sẽ có một lối nhìn càng lúc
càng rộng rãi, bao quát toàn diện và lạc quan.
Nội tâm với 4 phần vu:
Để vun trồng cho mình khả năng thấy nhiều bộ mặt khác nhau của
thực tại, chúng ta hãy khảo sát 4 phần vụ chính yếu của Nội tâm.
Phần vụ thứ nhất là tiếp thu, ghi nhận những tin tức khách quan
bên ngoài, do thực tại hoặc môi trường cung cấp.
Đó là những hình ảnh tôi thấy, những âm thanh tôi nghe.
Từ một vị trí quan sát hoàn toàn giống nhau, hai người có thể ghi
nhận hai loại tin tức hoàn toàn khác nhau, tùy vào tâm trạng hiện tại cũng như
những điều kiện tâm sinh lý như đau đầu, khó tiêu, đói bụng, áp huyết cao...
Trong một tai nạn xe hơi, hai chứng nhân có thể kể ra những dữ
kiện trái ngược nhau. Để bổ túc những thiếu sót trong một tin tức, chúng ta có
thể sử dụng kỹ thuật môi trường hóa, bằng cách nêu ra những câu hỏi như: ai, ở
đâu, khi nào, cách nào, bao lâu...
Phần vụ thứ hai là thuyên giải, nghĩa là rút ra những ý nghĩa,
những kết luận, từ những tin tức khách quan đã thu nhận, hay là từ những
sự kiện do nhiều người cung cấp.
Trước một số sự kiện giống nhau, hai người có thể đề xuất hai cách
thuyên giải khác nhau, có khi mâu thuẫn với nhau.
Để hạn chế tối đa những xu thế gạn lọc, xuyên tạc hay là tổng quát
hóa quá khích, còn mang tên là vơ đũa cả nắm, chúng ta cần thức tỉnh và sáng
suốt trước hai hiện tượng thường xảy ra, khi chúng ta thuyên giải:
Hiện tượng thứ nhất là sự có mặt của những thiên kiến và thành
kiến. Có lẽ trong một hoàn cảnh rất xa xưa, chúng nó là những tin tức
rất xác thực, có nền tảng vững chắc trong thực tế. Nhưng bao nhiêu ngày tháng
đã trôi qua, những dữ kiện mới đã thay thế những dữ kiện lỗi thời, lạc hậu.
Không kiểm chứng, làm mới lại những tin tức, chúng ta có nguy cơ trở thành cố
chấp, bảo thủ, bám sát vào một yếu tố không còn mang tính thời sự hay là giá
trị khách quan.
Thiên kiến và thành kiến là những hệ thống tin tưởng (croyance
trong tiếng Pháp và belief trong tiếng Anh) đã được thiết lập, vun trồng trong
suốt thời kỳ thơ ấu, từ ngày chúng ta bắt đầu học nói tiếng mẹ đẻ. Cho nên,
chúng nó luôn luôn có áp lực rất mạnh mẽ trên chúng ta. Chúng ta có thể so sánh
những hệ thống tin tưởng ấy như những chương trình được chúng ta đưa vào hay có
sẵn trong máy vi tính. Có chương trình đã lỗi thời. Nhưng nó vẫn còn nằm đâu đó
ở bên trong. Chúng nó cản trở chúng ta sử dụng những chương trình mới mẻ và hữu
hiệu hơn.
Hiện tượng thứ hai cản trở chúng ta thuyên giải một cách đứng đắn
và không cho phép kẻ khác hiểu được chúng ta. Hẳn thực, thay vì đi lên một cách
có thứ tự và hệ thống rõ ràng:
Bước 1: sự kiện,
Bước 2: giả thuyết
Bước 3: kiểm
chứng
Bước 4: kết luận
cuối cùng
Bước 5: hành động
Bước 6: đánh giá.
Chúng ta thường nhảy vọt lộn xộn, không theo tiến trình tự nhiên.
Thêm vào đó, từ bước 2 lên bước 5, mọi thể thức sinh hoạt đều xảy
ra bên trong nội tâm. Từ ngoài, kẻ khác không thấy, không biết về cách thức suy
luận của chúng ta. Chúng ta cũng không trình bày một cách rõ ràng và minh bạch,
dùng ngôn ngữ để gọi ra ánh sáng tất cả những gì đang xảy ra trong nội tâm.
Không cố gắng bộc lộ mình ra ngoài, mặc khải những đường đi nước bước của chúng
ta khi thuyên giải cuộc sống và thực tại, chúng ta sẽ là người bí hiểm, bí
nhiệm, bí mật, khó hiểu, bít kín ... trước con mắt của kẻ khác.
Thế nhưng, mặc dù cởi mở tối đa, sống trong giờ phút hiện tại, mở
mắt mở tai để đón nhận tiếp thu mọi tin tức khách quan từ mọi phía, cố gắng
kiểm chứng mọi nguồn tin... Chúng ta mỗi người vẫn còn mang đầy tính chủ quan,
khi phát biểu, diễn tả. ễ đâu có một trăm người (bá nhân); ở đó có một trăm
cách thuyên giải khác nhau (bá tánh). Không cách nào giống cách nào.
Trong lăng kính ấy, mỗi lần thuyên giải, chúng ta có 5 lối hành xử
cần luôn luôn phát huy, kiện toàn và bổ túc:
Thứ nhất là đảm nhiệm một cách sáng suốt, can trường và trung thực
tính chủ quan của mình. Không bao giờ chúng ta khách quan
hoàn toàn 100 phần trăm, khi thuyên giải.
Thứ hai là tôn trọng lề lối thuyên giải khác biệt và độc đáo của
kẻ khác. Họ có quyền khác chúng ta.
Thứ ba là lắng nghe, tìm hiểu cách
thuyên giải của kẻ khác. Yêu cầu họ phân biệt thật rõ ràng đâu là sự kiện, đâu
là giả thuyết, đâu là kết luận, sau khi rà soát, kiểm chứng mọi tin tức, dữ
kiện.
Thứ bốn là trình bày một cách rõ ràng, thứ
tự, có hệ thống những bước đi tới của chúng ta, khi thuyên giải. Gọi ra ánh
sáng những gì có mặt trong nội tâm, thậm chí còn ở thể trạng mơ tưởng hay là
tin tưởng đã đóng lớp rêu phong từ bao nhiêu đời.
Thứ năm là không bao giờ áp đặt một cách đơn phương, độc tài cho kẻ
khác cách thuyên giải của chúng ta, bởi tưởng lầm rằng đó là sự thật, đó là
chân lý.
Không tôn trọng 5 qui luật trên đây, giữa chúng ta và người khác
không thể có đồng hành, chia sẻ. Trái lại, chúng ta đi từ xung đột nầy đến xung
đột khác, vì não trạng nhị nguyên nghĩa là phân biệt hơn thua, xấu tốt, có lý
và phi lý đang trấn áp tâm tư và cõi lòng chúng ta.
Trong tác phẩm Vạn Xuân, Nguyễn Trãi, Thái Phúc và Trương Phụ, cả
ba người đều nói đến Nhân và Nghĩa (Yen-Yi). Nhưng mỗi người thuyên giải Nhân
Nghĩa một cách khác nhau, theo quan điểm riêng tư của mình 43. Mỗi nền văn hóa trình bày một cách
thuyên giải riêng biệt độc đáo, làm cho dân tộc nầy không thể đồng hóa với dân
tộc kia. Từ ngày lập quốc cho tới hôm nay, người Việt Nam luôn luôn khẳng định
một cách kiên cường về bản sắc của mình, trước mọi hiểm họa đồng hóa của xâm
lăng và thực dân, từ phương Bắc, phương Tây hay là Bắc Mỹ. Lề lối khẳng định ấy
thể hiện ở nhiều bình diện khác nhau:
Tiếng Việt luôn luôn sinh động và phát triển thường xuyên. Có một
thời, những giáo sư triết học, người Nước ngoài đã đặt nghi vấn về khả năng của
tiếng Việt trong chiều hướng diễn tả các phạm trù triết học của Âu Tây. Từ năm
1960, các Đại học Việt Nam đã thành hình trong nhiều thành phố lớn. Sau mười
năm sáng tạo, các Đại học Việt Nam đã sử dụng tiếng Việt trong tất cả mọi địa
hạt hoạt động của mình, để tiếp thu, đón nhận và tiêu hóa những chiều kích vĩ
đại trong cuộc sống con người.
Cùng với ngôn ngữ, người Việt phát huy theo chiều hướng văn hóa
riêng biệt của mình, mọi hình thức sinh hoạt khác như phong tục, kinh tế, cách
ăn mặc, thể thức tổ chức làng xóm, đời sống nghệ thuật và triết lý nhân sinh...
Hình thức tuyệt vời hơn tất cả có khả năng diễn tả sắc thái đặc
biệt của nền văn hóa Việt Nam là rừng tre xanh bảo vệ xóm làng từ địa phương
nầy lan qua địa phương khác. Đồng lúa Việt Nam là hình tượng thứ hai có mặt từ
Bắc vô Nam, từ các đồng bằng lên tới các vùng cao nguyên, từ miền khô đến những
vùng ẩm ướt.
Trong tất cả mọi địa hạt, Đất Nước và Con Người quyện sát vào
nhau. Người làm cho đất nước sinh sản lương thực. Đất nước làm cho con người có
quê hương và gốc rễ tình cảm, nghĩa là có khả năng nhớ và thương, hàn gắn và
bồi dưỡng chính mình.
Văn hóa chính là cách thức làm người và giúp kẻ khác làm người.
Qua con đường văn hóa, người Việt Nam thuyên giải sự có mặt của
mình trong trời đất, quan hệ giữa mình và người khác. Cách thức tổ chức núi
sông, đất nước.
Một cách đặc biệt, trong cách thuyên giải đất nước của mình, người
Việt Nam biết nhìn ra Đại Dương mở rộng lòng đón mọi người. Và biết nhìn lên,
chấp nhận, nhìn nhận và đón nhận chiều kích Trời, chiều kích Thần Phật và chiều
kích Tâm linh. Tâm linh của người Việt Nam không phải chỉ gồm có bên trong.
Nhưng còn là bên trên cao vời sáng chói, chiều ngang bao la, bát ngát và chiều
sâu phong phú, giàu mạnh.
Thiếu chiều rộng, văn hóa sẽ dẫn chúng ta vào con đường "bế
quan tỏa cảng". Hiểm họa khác cũng trầm trọng là con đường "rước voi
đạp mồ mã", khi chúng ta bán đứng quê hương để củng cố địa vị cá nhân hay
là quyền lực của gia đình, giòng họ, phe nhóm, thậm chí tôn giáo của mình.
Nghĩa vụ quốc tế, tình anh em bốn bể một nhà, chỉ là huyền thoại
vu vơ, quảng cáo tuyên truyền, một giáo điều lý thuyết khô cằn... bao lâu người
anh chị em đồng bào của chúng ta chưa được tôn trọng, phục vụ. Chưa có điều
kiện thành người. Chưa được cư xử như một thành viên toàn phần, có lời ăn tiếng
nói, có quyền lợi làm người trong lòng đất nước.
Cũng trong chiều hướng và ý nghĩa nầy, tôn giáo chỉ có giá trị,
khi tôn giáo có khả năng hộ sinh: giúp con người trở thành người. Giúp người
Việt Nam ngày ngày trở nên Việt Nam hơn ngày hôm qua. Chính vì vậy,
khi một tôn giáo không tạo điều kiện cho người Việt Nam ý thức và khẳng định về
bản sắc văn hóa của mình, liệu tôn giáo ấy có lý do tồn tại nữa không?
Theo ngôn ngữ và lối nhìn của Lão Tử, mỗi tôn giáo trong lòng đất
nước phải học làm theo cách "vi vô vi" của mặt trời! 44
- Không có mặt trời cung cấp ánh sáng và năng lượng, sẽ không có
sự sống trong trời đất này.
- Tuy nhiên, mặt trời làm cho cây nào thành cây ấy. Cây hồng
không nở hoa mai. Lúa mạ không ép buộc sắn khoai phải rập khuôn theo lối sinh
hoạt của mình.
- Mặt trời tôn trọng vai trò của không khí, đất màu, sương trời
và nước tưới.
- Chỗ nào có quá nhiều mặt trời, cỏ cây bị khô cháy. Thiếu mặt
trời, cỏ cây cũng không thể đâm chồi nẩy lộc.
Trong chiều hướng ấy, bao lâu một tôn giáo chưa đi vào lòng dân tộc,
để chia sẻ "niềm ưu tư và hy vọng" của anh chị em đồng bào, tôn giáo ấy
còn ở bên ngoài, bên lề xã hội. Còn là ngoại lai, có nguy cơ thực dân, giống
như bao nhiêu cường quốc có ý đồ xâm lăng xâm lược.
Ngược lại, khi được hội nhập một cách hài hòa trong lòng dân tộc,
tôn giáo sẽ trở thành xương da, máu thịt... nuôi sống anh chị em đồng bào. Tạo
mọi điều kiện trong khả năng của mình, để ai ai cũng có khả năng thành người,
làm người; nhất là những người không có những "Cơ May" làm người tối
thiểu.
Và khi làm công việc nuôi sống, bồi dưỡng như một lương thực, tôn
giáo đảm nhiệm cùng một lúc hai phần vu:
- Loại trừ những độc chất trong cơ thể của đất nước như hận thù,
bạo động, chia rẽ, xung đột, đàn áp...
- Phát huy sự sống thuộc mọi địa hạt làm người, nhất là lòng
thương, tình liên đới và quan hệ hài hòa giữa mọi người... Làm như vậy là
"gieo vãi", vun tưới, bồi đắp "một tấm lòng".
Qua bao nhiêu nhận định về phần vụ thuyên giải của nội tâm, chúng
ta ghi nhận những kết luận hay là những bài học sau đây:
1. Chúng ta không thể không thuyên giải, nghĩa là tìm ra cho
mình ý nghĩa về cuộc sống, khả dĩ sáng soi và điều hướng mọi quyết định hành động.
2. Chúng ta có quyền thuyên giải cuộc sống. Nhưng kẻ khác
cũng có những quyền lợi giống như chúng ta.
3. Khi hai người tiếp xúc trao đổi, nói chuyện với nhau, dù
muốn hay không, ý thức hay vô thức... mỗi người đều thuyên giải cuộc sống. Lối
nói bình thường là cho biết ý kiến, nói ra lập trường...
4. Nếu có người muốn áp đặt ý kiến hay là cách thuyên giải, thế
nào cũng có hiện tượng xung đột, tranh chấp.
5. Thay vì xung đột, để rốt cùng có thể kết thúc bằng bạo động,
những ai có tư cách làm người sẽ tìm cách lắng nghe, đồng hành, chia sẻ để bổ
túc, kiện toàn nhau. Công việc vừa cho vừa nhận ấy mang tên là thương lượng,
nhìn nhận nhau, tôn trọng nhau và đóng góp cho nhau trong vấn đề thành người.
6. Khi chúng ta áp đặt ý kiến của mình hay là đàn áp kẻ khác,
chúng ta làm cho họ trở nên phản động hay là ấu trỉ, lệ thuộc. Trong một quan hệ
như vậy, cả hai bên đều thoái hóa, từ chối làm người với nhau. Mỗi người trở
nên hỏa ngục cho người kia, theo lối nói của J.P. Sartre.
Giữa hai dân tộc, cũng có những hiện tượng tương tự:
1. Mỗi dân tộc, mỗi đất nước thuyên giải cuộc sống của mình,
qua quá trình dựng nước và giữ nước, từ giai đoạn thành hình cho đến hôm nay.
2. Cách thuyên giải của cả
một dân tộc mang tên là nền văn hóa.
3. Một dân tộc trở nên
xâm lăng, thực dân, khi họ muốn áp đặt nền văn hóa của mình trên một dân tộc
khác. Họ có ý đồ đồng hóa, nhất là khi họ xua quân lấn chiếm và áp đặt nền đô hộ
trên một xứ sở khác.
4. Khi làm công việc chiếm
đất và giành dân như vậy, luôn luôn họ khua chuông gõ mỏ về một nền văn hóa đại
đồng, về ngọn cờ nhân nghĩa toàn cầu. Họ hỏ hào "mang ánh sáng cho dân man
rợ".
5. Suốt quá trình lịch sử,
dân tộc Đại Việt luôn luôn sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ con đường văn hóa
độc đáo của mình. Trước lực lượng xâm lược, họ khẳng định bản sắc của mình một
cách hào hùng, liên tục, từ thế hệ nầy qua thế hệ khác.
6. Nếu cần, họ sử dụng
khí giới, bom đạn để tự vệ và xua đuổi quân thù ra khỏi biên giới. Làm như vậy,
họ khẳng quyết bản sắc của mình. Đó là cách làm người.
7. Với kế hoạch Tâm
Công, Nguyễn Trãi là người đầu tiên đã muốn loại trừ khỏi nền văn hóa của Đại
Việt mọi độc tố bạo động, bằng ba cách khác nhau:
• Thứ
nhất là kết hợp lòng người và mọi người. Cứu nước và cứu dân là một, thay
vì đặt nặng vấn đề dòng họ, triều đại của một cá nhân, hay là phe phái, ý thức
hệ.
• Thứ
hai là vừa đàm vừa đánh: Ngôn ngữ trao đổi cũng quan trọng bằng vũ khí.
Tâm Công - là đánh vào lòng người - còn có giá trị hơn "Thành công",
nghĩa là bao vây thành lũy của địch quân và tận diệt mọi lực lượng đối kháng.
• Thứ
ba là tức khắc biết dừng lại, tôn trọng sinh mạng của quân binh phía ta cũng
như phía địch, khi bạo động không còn cần thiết để khẳng định bản sắc riêng biệt
của mình. Nói khác đi, chúng ta sử dụng khí giới để bảo vệ từng tất đất, từng
người dân. Nhưng chúng ta không làm nạn nhân của hận thù, bạo động và chiến
tranh.
Đây là điểm vàng son của sách lược Tâm Công: Nguyễn Trãi
vận dụng Tấm lòng để
hóa giải mọi vấn đề trong lòng quê hương và đất nước.
Tấm lòng là nước có khả năng nâng đỡ thuyền. Đồng thời nước cũng
lật đổ thuyền, nếu thuyền không có một tấm lòng đối với nước.
Nếu ai ai cũng có một tấm lòng như vậy, kết quả là hòa hợp, là
đồng tâm, là Huyền đồng theo lối nhìn của Lão Tử. Đồng ở đây không có nghĩa là
đồng nhất, đồng ý, nhất trí về mặt thuyên giải. Nhưng là hòa đồng, chấp nhận
người khác cũng là người, có một tấm lòng như mình. Chúng ta đồng hành, chia
sẻ. Chúng ta hiến tặng một tấm lòng.
Phần vụ thứ ba của nội tâm là diễn tả thực trạng và thực tại của
mình bằng xúc động và tình cảm.
Nói được đây là một loại hàn thử biểu cho chúng ta biết khí hậu,
độ nóng lạnh của tâm hồn. Đối với một số người, xúc động là một lời nhắn bảo
rất thân thương, cơ hồ một tiếng nói của bạn bè tri kỷ cho chúng ta hay biết về
hoàn cảnh hiện tại của mình.
Tâm lý học đương đại phân biệt bốn thành tố hay là bốn giai đoạn
trong mỗi xúc động như buồn, khổ, lo, giận, chán nản, tuyệt vọng, sợ hãi ...
Thành tố thứ nhất: "Tôi thấy, tôi nghe". Đây là
những sự kiện khách quan đưa vào hay là dẫn khởi, tạo cơ hội hay là điều
kiện... để một xúc động xuất phát, hiện hình.
Thành tố thứ hai: "Tôi cảm".
Đây là một phản ứng hoàn toàn chủ quan. Để diễn tả cách đúng đắn
một xúc động, chúng ta phải sử dụng chủ từ, ngôi thứ nhất, số ít "
Tôi".
Dùng một chủ từ khác, ngoài "Tôi" ra, chúng ta sẽ có
thái độ tránh né, xuyên tạc, hay là đánh trống lãng. Một cách xuyên tạc rất
thường xảy ra là tố cáo kẻ khác, qui chụp, gắn nhản hiệu ...
Ví dụ, thay vì nói "tôi buồn", chúng ta có thể xuyên tạc
: "Nó không hiểu tôi".
Thành tố thứ ba: "Tôi cần".
Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp của xúc động là nhu cầu hiện tại
của tác giả hay là chủ thể hiện đang có những phản ứng. Cho nên bao lâu chúng
ta không sáng suốt đảm nhiệm tính chủ động và chủ quan của mình, chúng ta không
tìm phương thức hóa giải, chuyển biến, bằng cách đặt tên hay gọi tên nhu cầu
của mình.
Thành tố thứ bốn: "Tôi xin, tôi muốn, tôi yêu
cầu..." Sau khi điểm mặt, đặt tên, gọi ra ánh sáng
nhu cầu cơ bản của mình, chúng ta vận dụng mọi khả năng đáp ứng có sẵn nơi
mình. Nếu không có, tôi dựa vào quan hệ nối kết tôi và kẻ khác, để xin họ giúp
tôi giải quyết vấn đề một cách thỏa đáng.
Bao lâu chúng ta chưa đi hết 4 giai đoạn trên đây, tình cảm hay
xúc động của chúng ta đang còn bị bế tắc, ngăn chận, ức chế. Cho nên chưa hóa
giải được một cách hài hòa.
Trong mọi quan hệ giao tiếp với các tướng lãnh quân Minh, Nguyễn
Trãi đã vận dụng tối đa phương pháp diễn tả những xúc động của mình. Qua mọi
thư từ, Ông nói lên nỗi bất bình của toàn dân Đại Việt. Ông đi qua 4 giai đoạn.
Và luôn luôn Ông kết thúc bức thư, bằng cách đề nghị một quan hệ hài hòa giữa
Đại Việt và Trung Hoa, giữa binh lính của Minh Triều và Nghĩa Quân Lam Sơn,
dưới quyền lãnh đạo của Lê Lợi 45.
Tâm Công ấy là một sách lược nghĩa là một quyết định và chọn lựa
sáng suốt, từ lúc khởi đầu đến hồi kết thúc. Đó là một sách lược có chiều sâu
tâm linh và chiều rộng của hành động. Không bao giờ Tâm Công là một mưu mô
lường gạt : Nói một đàng làm một nẽo, miễn là mình "hơn"!
Vào giây phút cuối cùng, khi Vương Thông viết thư xin nghị hòa,
chính Nguyễn Trãi đã tỏ ra trung tín. Một mình giữa đoàn lũ, có cả dân chúng,
binh sĩ, tướng lãnh đầy căm thù, đòi nợ máu, Nguyễn Trãi khẳng định tấm lòng
bao la và vĩ đại của dân tộc Đại Việt:
"Lấy đại nghĩa thắng hung tàn,
Lấy chí nhân thay cường bạo".
(Lược đồ tr. 97)
Phần vụ thứ bốn của nội tâm là thiết lập quan hệ.
Bao lâu giữa chúng ta và người khác, bất kể là ai, thậm chí những
người đang cưu mang ý đồ đàn áp, bốc lột, sát hại chúng ta như quân Minh, chúng
ta vẫn chủ động chọn lựa quan hệ chia sẻ và đồng hành.
Tâm Công là một quan hệ khí khái, can trường. Can đảm làm người,
khi kẻ khác chưa có tư cách làm người. Đơn phương làm người. Đơn phương nhìn
nhận bản sắc làm người của người khác.
Tâm Công trong lăng kính ấy còn mang tên là vô úy, không sợ chết,
vì khẳng định bản sắc của mình là tâm linh, bất diệt. Súng ống, bom đạn, gươm
giáo có thể đụng đến thân. Nhưng hoàn toàn bất lực, vô hiệu trước Tâm. Trước
một tấm lòng yêu thương. Và như tôi đã nhấn mạnh ở đầu chương, tấm lòng ấy có
một lối nhìn của con mắt thứ ba. Lối nhìn Cao thượng và vĩ đại của Trời, của
Đại dương. Của Rồng và Tiên, Cha mẹ của dân tộc và đất nước Đại Việt.
Trong tất cả những điều được trình bày, vấn đề nhìn nhận nhau, khi
tiếp xúc và trao đổi là điều đáng chúng ta lưu tâm và áp dụng trong cuộc sống
hằng ngày.
Khi biết nhìn nhận nhau, chúng ta sẽ hóa giải được rất nhiều vấn
đề đang bủa vây và làm suy đồi bao nhiêu quan hệ giữa người với người. Một cách
đặc biệt nhờ nhìn nhận nhau, chúng ta sẽ có khả năng chuyển biến những quan hệ
xung đột, hận thù và bạo động đang có mặt ở khắp nơi, trong mọi hang cùng ngỏ
hẻm của nhân loại.
Nhìn nhận nhau cũng là phương thức để làm người và sống tình người
với nhau.
Để nhìn nhận kẻ khác, chúng ta hãy bắt đầu nhìn nhận chính mình
bằng cách diễn tả một cách rõ ràng nhu cầu và yêu cầu của chúng ta, đang ẩn
giấu ở dưới mỗi xúc động. Lề lối diễn tả được thu gọn như sau:
- Tôi đang cảm thấy... (gọi tên xúc động như buồn, lo, sợ ...)
- Tôi cần...
- Vậy tôi muốn... tôi xin
Khi nhìn nhận kẻ khác, chúng ta cũng cần khám phá và gọi tên xúc
động của họ. Đồng thời, chúng ta cũng bộc lộ hay là giúp họ bộc lộ nhu cầu và
lời yêu cầu có liên hệ với xúc động.
- Qua lời bạn nói, bạn đang (buồn)
- Bạn đang cần (có người hiểu bạn)
- Vậy bây giờ bạn ước muốn gì? Tôi có thể làm gì cho bạn ?
Thay vì diễn tả một cách rõ ràng xúc động của mình, nhiều người có
xu thế sử dụng hình thức trá ngụy, xuyên tạc, tấn công, đổ lỗi, tố cáo ...
Trong hoàn cảnh nầy, chúng ta hãy bắt đầu nhìn nhận họ, bằng cách gọi tên xúc
động và lột tẩy nhu cầu cũng như ước vọng đang ẩn núp ở bên dưới.
- Bạn đang phê bình và tố cáo thái độ của tôi trong buổi họp vừa
rồi.
- Như vậy là bạn đang tức giận vì tôi không đồng ý với bạn
- Chúng ta có thể bình tỉnh trình bày lại ý kiến, để hiểu nhau
hơn!
Sở dĩ chúng ta tôi luyện những kỹ thuật diễn tả như vậy, là vì
chúng ta muốn trang trãi cho nhau một tấm lòng. Duy tấm lòng mới quí giá và
thiết yếu. Cho nên chúng ta hãy lắng nghe Nguyễn Trãi: Kết hợp nhau lại, cùng
nhau đứng trên một mãnh đất, một địa bàn chung. Đó là tấm lòng bất diệt và cao
cả đang hội tụ mọi người.
Ở đâu có một tấm lòng, ở đó khí giới, bạo động, hận thù nhường
bước, nhường lời cho tình thương.
Chú thích:
Chú thích:
41. Les spts habittudes, tr. 30.
42. Nguyễn Văn
Thành - Đối
Thoại, tr. 37-39.
43. Vạn Xuân, tr.
682-683.
44. Lão Tử, Đạo Đức Kinh, ch. 37
(Bản dịch của Nguyễn
Duy Cần) Khai
Trí, Sàigòn 1974, tr. 189.
45. Vạn Xuân, tr.
891-906.
Chương bốn
Con rắn trả thù ba đời
Chỉ có một tấm lòng trọng đại mới có khả năng vượt lên trên mọi
xung đột, hận thù, bạo động và chiến tranh. Phải chăng đó là ý nghĩa sâu xa của
sách lược Tâm Công có mặt trong tất cả mọi công trình và cuộc sống của Nguyễn
Trãi?
Phải chăng chỉ có một tấm lòng mênh mông cao cả như bầu trời và
đại dương mới làm cho đất nước và quê hương trở thành Vạn Xuân, nghĩa là trường
tồn, bất diệt, mang trong mình hạt mầm yêu thương và tha thứ? Hẳn thực, từ ngày
lập quốc và trải qua bao giai đoạn, bập bềnh, chìm nổi... đất nước phải thường
xuyên đối đầu với hai hiểm họa trầm trọng. Hiểm họa thứ nhất là nạn xâm
lăng và thực dân tràn đến từ mọi chân trời xa gần thuộc phương Bắc cũng như
phương Tây. Trong lịch sử của Đất nước, từ trước cho tới nay, người dân Đại
Việt đã tỏ ra bất khuất, không bao giờ chịu đồng hóa trước những lực lượng rất
hùng hậu, nham hiểm và được vũ trang một cách tối tân về mọi mặt.
Với sách lược Tâm Công của Nguyễn Trãi, dân tộc Đại Việt đã bước
thêm một bước khổng lồ: dùng nhu để bẽ gãy cương, lấy tình người để thắng cường
bạo. Nhân đạo thay thế hận thù. Thay vì luồn cúi, đứng thẳng mình, khẳng
định bản sắc làm người với tất cả tấm lòng ân thứ và bao dung.
Thế nhưng, với hiểm họa từ bên trong mang tên là chia rẽ hay là
"nồi da xáo thịt", lịch sử đã ghi lại những vết thương nhức nhối rướm
máu. Từ đời nầy qua đời nọ, vết thương ấy lại tiếp tục lở lói và tái diễn theo
chu kỳ của vô minh và dục vọng. Phải chăng đó là nghiệp quả luân hồi thúc giục
người Việt Nam tôi luyện lòng thứ tha? Hạt mầm giải thoát nẩy nở và lớn lên
trong lòng đất khổ đau.
Kế hoạch Tâm Công đã mang lại nhiều thành quả to lớn trong lãnh
vực chống xâm lăng. Nhưng Nguyễn Trãi đã tỏ ra bất lực hoàn toàn, trong địa hạt
kiến dựng hòa bình và phát huy công lý. Rốt cuộc, vào tuổi 63 sau một đời cống
hiến trọn vẹn cho nước cho dân, Nguyễn Trãi đã ngã quÿ trong vũng máu, bên cạnh
người vợ thiếp của mình là Thị Lộ, với một án lệnh tận cùng ác độc là bị tận
diệt ba đời "tru di tam tộc". Cả hai vợ chồng bị kết tội "sát
hại nhà vua" tại vườn Lệ Chi.
Làm sao một "Thiền sư" có thể bị vướng vào một vụ án
"đồng tình đồng lõa ám sát" một vị vua mà chính ông đã dạy dỗ! Tôi
muốn hỏi Võ Văn Ái như vậy.
Làm sao một "người tài đức trọn vẹn" lại làm nạn nhân
cho những ghen tương nhỏ nhen, bần tiện ở triều đình! Tôi hỏi Trần Huy Liệu như
vậy.
Làm sao "ánh sao Khuê" lại thiếu hơi ấm cho gia đình vợ
con của mình? Tôi muốn hỏi Bùi Văn Nguyên như vậy.
Làm sao một người lãnh đạo, một vị quan luôn luôn "lo cái lo
của toàn dân", lại quyết định chết một cách thảm thương, tủi nhục, để
chứng minh tấm lòng với người vợ thiếp ... đương khi việc nước đang còn rối ren
như tơ vò ? Đang khi các đồ đệ, giới trẻ chưa tiêu hóa trọn vẹn bài học về Tâm
Công, và tập hợp mọi cõi lòng ? Tôi muốn đặt lên câu hỏi ấy cho những ai đang
lãnh đạo đất nước, ở mọi lãnh vực và giai tầng khác nhau .
Khi nhìn lại thảm trạng của Nguyễn Trãi, nhiều người muốn thêm dầu
vào lửa, như vua Tự Đức, với những lời lẽ tố cáo. Chê thì quá dễ. Ai lại không
có điều để chê. Thương mới là chân trời mời gọi mỗi người vươn lên!
"Trãi, nếu là người hiền, thì nên sớm liệu rút lui (...). Thế
mà lại đi đón rước ngự giá, thả lỏng cho vợ làm việc hoang dâm, vô liêm
sỉ" 46.
Nhiều người khác muốn "coi như không có" hay là
"biến đen thành trắng", tẩy xóa hết mọi tiếng đồn xuôi ngược chung
quanh Thị Lộ.
Có người ngoảnh mặt làm ngơ, cố tình xem vụ "Thị Lộ" như
một chi tiết nhỏ nhặt, không làm khô héo một cây đại thụ. Cho nên Phạm Công
Thiện đã lên tiếng đề kháng:
"Nếu không có Thị Lộ thì Nguyễn Trãi có ra là Nguyễn Trãi nữa
không? " 47.
Khác với những người đàn anh còn mang xu thế khen hoặc chê, nghĩa
là muốn "thu hồi" Nguyễn Trãi về phe mình hay là xô đẩy Nguyễn Trãi
về phía bên kia, tôi chỉ muốn làm nổi bật một vài điểm có liên hệ đến cuộc đời:
1. Tâm Công thuộc tiến
trình làm người. Khi dừng lại, cho là đủ, dù là ai, người ấy bắt đầu thoái hóa.
Hơn tất cả, quyền lực, chức vị làm cho chúng ta dễ thoái trào, một cách nhanh
chóng.
2. NguyễnTrãi là một con
người Việt Nam như anh, như em, như tôi. Chúng ta mang dòng máu vạn xuân. Tuy
thế, chúng ta còn ở trên một tiến trình.Còn sống ngày nào, chúng ta còn phải học:
loại trừ độc tố và hội nhập sức sống vươn lên. Với bao nhiêu hạn chế và tồn tại,
nếu chúng ta biết dâng hiến một tấm lòng giống Nguyễn Trãi, chúng ta đã cống hiến
một đóng góp rất lớn lao cho đất nước và anh chị em đồng bào. Nếu đòi hỏi nhiều
hơn, chúng ta chỉ nuôi dưỡng "ý chí toàn năng".
3. Theo lối tin tưởng
bình dân được lưu truyền đó đây, khắp đất nước, Thị Lộ có dính líu với chuyện một
con rắn trả thù ba đời.
Với lối thuyên giải của Phân tâm học, mọi điều sẽ trở nên trong
sáng và đơn sơ: Phải chăng Thị Lộ là hình tượng, trong đó chúng ta sẽ thấy
được chính mình. Nhìn vào Thị Lộ, người Việt Nam sẽ biết rõ: con đường nào
"đầy hoa", và con đường nào "đầy ma quái, cạm bẫy".
Trên đây, nhân dịp bàn đến nghệ thuật và kỹ thuật tạo hình
hay là cách kết cấu tiểu thuyết của nử văn sĩ Ỵ Feray, tôi đã nêu rõ : Tiểu
thuyết Vạn Xuân kết hợp một cách hài hòa khéo léo những sự kiện lịch sử được
sưu tầm rất công phu và khoa học. Đồng thời Vạn Xuân cũng có khả năng thuyên
giải những khoảng trống, những dấu hỏi trong cuộc đời của Nguyễn Trãi. Ỵ Feray
vận dụng kinh nghiệm làm người, làm phụ nữ, làm mẹ, làm người tình, làm một đồ
đệ, làm nhà trinh thám, làm bác sĩ chuyên môn theo đường hướng phân tâm học của
Freud... Hơn tất cả, Ỵ Feray đi vào lòng văn hóa của đất nước Đại Việt với một
tấm lòng, để vừa khám phá những độc tố đang làm tê liệt hay là bẽ gãy những mầm
sống vươn lên. Đồng thời, người phụ nữ nầy cũng biết trân trọng những hạt ngọc
quí giá cao thượng có khả năng tô điểm, làm mới, đánh sáng đất nước Đại Việt.
Hơn thế nữa, với tuyệt tác Vạn Xuân, Nguyễn Trãi được nhìn nhận là một gia bảo
của toàn thể Nhân loại.
Nhờ tuyệt tác Vạn Xuân, nhân loại từ từ nhận ra Nguyễn Trãi cũng
là một tuyệt tác. Tuyệt tác không có nghĩa là toàn vẹn, hoàn hảo. Nguyễn Trãi
là một sứ điệp, một giá trị trên bình diện làm người, tôn trọng sự sống và gieo
vãi tình thương. Cho nên Nguyễn Trãi cần được lắng nghe.
Chính lúc Nguyễn Trãi ngã quÿ trên vũng máu, lan tràn, lai láng
khắp Đại Việt, hình ảnh Nguyễn Trãi lại sáng rực lên như Ánh sao Khuê : gọi mời
hận thù "dừng lại":
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương!"
Máu Nguyễn Trãi làm cho chính mình chúng ta trở thành tuyệt
tác, nếu chính chúng ta ngăn chận được những lưỡi gươm hận thù, bạo động đang
còn xẩn vẩn trong cõi lòng thâm sâu của từng người dân Việt. Của chính chúng
ta!
Trở thành tuyệt tác trong tinh thần và ý nghĩa của Tâm Công do
Nguyễn Trãi đề xướng, là trở thành người. Điều nầy không phát sinh một cách bộc
phát tự nhiên. Đó là một bài học cần được thu hóa. Nguyễn Trãi đã học, suốt
cuộc đời. Đến lượt chúng ta, chúng ta tiếp tục học, cho đến ngày nào chúng ta
trở thành một tấm lòng thấm nhuần và nhuần nhuyễn tình thương, tình người theo
như lối nhìn của Nguyễn Trãi.
Để quãng diễn ý hướng cơ bản này:
• Trong
phần một, tôi nêu lên những "trắc trở" sau ngày Lê Lợi lên ngôi Hoàng
Đế, đúng như tầm nhìn viễn thấu của nhân vật Vô Kỹ.
• Trong
phần hai, tôi nhấn mạnh rằng: Trong vụ án vườn Lê Chi, Nguyễn Trãi đã chết "Cho" Thị
Lộ và trối lại cho các thế hệ tương lai một tấm lòng vạn xuân. Một Sứ Điệp làm
người.
Nói khác đi, trong giai đoạn kháng chiến chống xâm lăng, vô số
người dân Đại Việt đã can trường chịu đổ máu, trên mỗi nẽo đường của quê hương.
Chính Nguyễn Trãi, cũng ít nhất ba lần suýt chết dưới lưỡi gươm "cứu
nước" của Lê Lợi. Nhờ máu của dân lành đổ ra, trong đó có máu của Tiểu Mai
và Hương Thầm... hòa bình đã trở lại. Đại Việt đã sạch bóng quân thù thực dân
và xâm lược.
Trong giai đoạn xây dựng, để chuyển biến đất nước thành bất diệt -
Vạn xuân và cao cả - Đại Việt, phải chăng chúng ta cũng còn cần đổ máu, tàn sát
anh chị em đồng bào, do con rắn muốn báo thù ba đời, đòi lại "nợ máu"? Nếu thực sự hiện hữu, con rắn ấy đang ở trong quả tim của mỗi người Đại Việt.
Vì hiểu lầm lời thuyên giải của Thiền sư người Ấn Độ mang danh
hiệu là Atangana, Ông Ngoại của Nguyễn Trãi đã xây một ngôi đền bằng gỗ đá, để
cúng hương khói cho Thần Rắn. Chưa đầy 60 năm, ngôi đền ấy đã mục nát, sụp đổ
tan tành.
Cái chết của Nguyễn Trãi mang đến cho chúng ta một chiều hướng
thuyên giải hoàn toàn mới lạ: để đất nước có thể trở thành Vạn Xuân và Đại
Việt, chúng ta - con cháu của Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ - đang cần một ngôi đền
Tâm linh, một tấm lòng vạn xuân và đại việt. Hai chất liệu hoặc vật tư làm nên
ngôi đền ấy là Tình Thương và lòng tha thứ. Kế hoạch Tâm Công lúc bấy giờ mới
có cơ may hoàn thành viên mãn.
Nói một cách hình tượng, máu của con linh vật kỳ lân - Nguyễn Trãi
có khả năng làm cho dân tộc Việt Nam trở nên trường sinh bất tử, nếu máu ấy
được đón nhận với cả một tấm lòng "Vô Kỹ".
1.- Nhân Vật Vô Kỹ trong tác phẩm Vạn Xuân
Theo thiển ý của tôi, nghệ thuật sáng tạo của tác giả Vạn Xuân đạt
cao điểm với nhân vật có tên gọi là Vô Kỹ.
Với hình thù và tác phong quê mùa - một cách vô tình hay hữu ý,
không ai biết được - nhân vật nầy dễ gây ác cảm cho những người vừa tiếp xúc.
Ông có tập quán khạc nhổ lung tung 48. Ông thèm và uống rượu như một con trâu cày khát
nước, giữa trưa hè đứng ngọ. Ông đến đột xuất không biết từ đâu. Ông lại lặng
lẽ biến mất khi nào không ai hay 49. Suốt thời gian 63 tuổi của Nguyễn Trãi, Vô Kỹ
hiện hình nhiều lần, khi có một khúc quanh rất quan trọng trong đời Ông, đòi
hỏi ở Ông một quyết định sống mái, vào thời kỳ trước cũng như sau khi gặp Lê
Lợi.
Qua một vài ngày tiếp xúc, làm quen, chúng ta tự nhiên và từ từ
khám phá nơi con người ngộ nghỉnh này rất nhiều khả năng đạt mức độ "tài
tình tự nhiên" không gượng ép hoặc dò dẫm kiểu rủi may 50:
- "Chỉ chỏ Bác Phan cách làm vườn",
- "Đứng cạnh bếp lò kể câu chuyện cảm động về con voi của
Trần Hưng Đạo",
- "Leo lên mái nhà để sửa lại các tấm ngói",
- "Dạy bà Hoàng cách sắp xếp các cụm hoa, một vài công thức
để chăm lo chậu cảnh ..".
Và cái lạ lùng nhất là "mặc dù ông đạo sĩ là người mang đến
những tin buồn, hoàng thân Trần Nguyên Hản vẫn giữ được một kỷ niệm đầy hứng
thú, vì lão là biểu tượng cho một thời kỳ yên ổn " 51.
Còn đối với bà hoàng, "cái bề ngoài của một đạo sĩ chỉ là một
trong vô số bộ mặt mà các thần linh khoác vào. Mà thần linh thì ở khắp nơi,
thấy mọi sự, nghe mọi sự, đùa giởn với những người sống vẫn cả tin như hai ông
bà mà thôi" 52.
Một đặc điểm khác của Vô Kỹ là ông thường trích dẫn vô số câu nói
của Lão Tử, trong cuốn Đạo Đức Kinh. Chính cái tên Vô Kỹ của ông cũng nói lên
cho chúng ta biết về bản sắc đích thực của con người ông. Qua những lần tiếp
xúc với Nguyễn Trãi, nhất là khi ông nầy đang ở vào một giai đoạn chuyển tiếp,
Vô Kỹ cứ nhắc lui nhắc tới những sứ điệp của Lão Tử:
Thứ nhất là "Tri Chỉ", biết dừng lại khi cần 53. Nhất cử nhất động, ai ấp ủ "Con
đường" trong nội tâm, người ấy biết tự chủ, tự quyết. Thay vì phản
ứng, lệ thuộc vào những sức ép, những động cơ vô hình, vô tướng đang trấn áp,
lèo lái, điều khiển từ bóng tối, còn được gọi là Vô minh trong Phật giáo, hay
là vô thức theo thuật ngữ của Phân tâm học.
Thứ hai, khi làm hãy làm theo cách "Vi Vô Vi" 54.
Theo lời thuyên giải của Thu Giang Nguyễn Duy Cần, "Vi Vô Vi
" của Lão Tử bao gồm ít nhất là ba ý nghĩa giao thoa chằng chịt và bổ túc
lẫn nhau:
1. Làm nhưng không xen
vào việc kẻ khác, không dùng tư tâm, tư lợi mà can thiệp vào việc của người
ngoài.
2. Làm mà như không làm
gì cả, làm một cách hết sức tự nhiên và kín đáo. Không cố cưỡng. Không dụng
tâm. Làm mà như không có làm gì cả, như mặt Trời sáng soi muôn vật. Giúp muôn
hoa cùng nhau đua nở. Nhưng mỗi loài hoa không hay biết mình nhờ ánh sáng mặt
Trời mà lớn lên, nở hoa từ mùa nầy sang mùa khác.
3. Làm mà không bận vướng,
lệ thuộc vào cái làm của mình. Ngược lại, là cách làm cuồng tín, chấp nhất, chấp
thủ bằng cách cho cái làm của mình là tốt nhất, đúng nhất, hữu hiệu nhất. Và
luôn luôn có giá trị cho mọi người, ở mọi nơi!
V. Frankl gọi cái làm nhị nguyên nầy là
"siêu ý chí, siêu ý định". Siêu ở đây có nghĩa là quá khích, quá độ,
loại trừ mọi phương thức và ý kiến khác. Do đó, hậu quả có khi phản ngược lại
với ý định ban đầu. Chẳng hạn, để chuẩn bị cho một công việc quan trọng ngày
mai, tôi muốn ngủ thật ngon đêm nay. Và càng muốn ngủ, tôi càng trắn trọc, mất
ngủ.
Theo Phân tâm học, cái làm vừa có tình vừa có lý đáp ứng ba tiêu
chuẩn cùng một lúc 55:
Thứ nhất là yêu thích.
Từ Hy lạp là Eros. Yêu
thích phải là nhân tố thúc đẩy cái làm. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể làm vì
Bắt Buộc và Sợ. Nhưng hai yếu tố nầy không phát huy tâm trạng hạnh phúc và sung
mãn của con người muốn sáng tạo mình và vũ trụ, bằng chính lao động của bàn tay
và khối óc.
Thứ hai là từ bỏ Thanatos.
Khi làm cái nầy chúng ta sáng suốt quyết định từ bỏ những cái
khác. Con người không toàn năng. Khi chọn lựa, chúng ta phải sắp xếp những ưu
tiên và từng bước một đi lên, bắt đầu từ ưu tiên số một. Làm khác đi, chúng ta
chỉ chập chờn như loài bướm bay lượn, bỏ cuộc nửa chừng, hay là hẹn rày, hẹn
mai ...
Thứ ba là tất yếu Ananké.
Cây thọ nở hoa thọ. Đó là cái làm tất yếu nhằm phát huy bản sắc có
sẵn ở thể hạt mầm trong chính con người và cuộc đời của mình. Nếu người
Việt Nam không chấp nhận bản sắc Rồng Tiên của mình, như một tất yếu họ sát hại
lẫn nhau như muông thú theo định luật "mạnh được yếu thua". Họ thoái
hóa, phản bội chính mình. Họ khước từ dòng máu bao dung và thứ tha đang lưu nhuận
trong quả tim của mình, từ nguyên thủy.
Giữa Đạo học của Lão Tử và Phân tâm học của Freud, mấy nghìn năm
tạo nên khoảng cách. Nhưng quan hệ huyền đồng - nghĩa là hòa hợp, kiện toàn bổ
túc lẫn nhau - đang là nhịp cầu nối kết Đông và Tây, xưa và nay, tạo điều kiện
cho con người vừa khác nhau nhưng vừa gặp nhau. Từ chối cái khác ấy, nhân loại
sẽ nghèo nàn. Phủ nhận tính và tình người đang nối kết mọi người, chúng ta tự
khắc biến con người thành một đoàn chó sói nuốt sống nhau. Mors tua vita mea, mày phải chết để
cho tao sống. Trong các cung đình của vua chúa, vì miếng cơm
manh áo, nhiều vị quan phải bị thiến hoạn. Từ đó do tự ti mặc cảm, họ phải
cương phồng cái tôi bé nhỏ hẹp hòi của mình, để đàn áp, bôi nhọ, hạ bệ người
này... và nịnh hót, khen ngợi, ca tụng phe kia... Sở dĩ như vậy, vì họ bị
thiến hoạn cái tất yếu của mình. Họ không còn là con người
"toàn vẹn", thậm chí trên bình diện tâm linh, làm
người...
Dựa vào những tiêu chuẩn hành động, do Vô Kỹ rút tỉa từ Đạo học,
Nguyễn Trãi đã thành tựu mục tiêu của mình: Giúp Lê Lợi tổ chức kháng chiến
nhằm khẳng quyết bản sắc văn hóa của Đại Việt và lập lại nền hòa bình
trên toàn lãnh thổ của đất nước.
Đỉnh cao của giai đoạn nầy, là toàn dân Đại Việt đã biết "Tri
Chỉ", dừng lại, chọn lựa một cách sáng suốt con đường bất bạo động
và hòa bình.
Phải chăng sau mười năm nằm gai, nếm mật trong chiến khu Chí Linh,
Lê Lợi đã hoàn toàn thu hóa và hội nhập kế hoạch Tâm Công, nhờ ngày ngày tiếp
xúc và chung sống với Nguyễn Trãi?
Hơn ai hết, Trần Nguyên Hản, Thống tướng phục vụ Lê Lợi và cũng là
người anh em bà con của Nguyễn Trãi, đã rút ra những kết luận đánh giá như
sau 56:
1.- Không có "Chiến lược Bình ngô" của Nguyễn Trãi, Lê
Lợi có thể chỉ là thủ lĩnh của một băng nhóm nổi loạn vô danh mà thôi.
2.- Sở dĩ Lê Lợi đã thành công trong việc tiến hành công cuộc
kháng chiến chống quân Minh, là vì nhờ Nguyễn Trãi đã làm cho ông hiểu rằng:
sức mạnh thần kỳ nằm ở nơi nhân dân. Hàng trăm ngàn nam nhân, phụ nữ đã
trở thành đòn bẩy kỳ diệu làm lệch cán cân lực lượng. Họ là những chiến sĩ
không mang đồng phục. Cuộc chiến thuộc về họ. Họ dốc toàn lực để chiến đấu, vì
sự sống còn của họ.
Hơn ai hết, Nguyễn Trãi đã thấu hiểu nhân dân.
3.- Vì sứ mệnh phục vụ nhân dân, Nguyễn Trãi đã nhiều lần dám liều
mạng mình, không sợ chết, khi phải cản ngăn, chống đối Lê Lợi.
4.- Nguyễn Trãi đã đem cả tấm lòng của mình để thuyết phục các
tướng lãnh của quân Minh về sự vô ích của một cuộc chiến không tôn trọng tính
người và tình người. Dù có "man rợ" vì thói ăn trầu, để răng đen,
người Đại Việt trẻ già, nam nữ đều là "con người toàn diện, toàn
phần", có quyền làm người, nhất là trên quê hương, xứ sở của mình, với tập
tục của mình.
5.- Mối liên kết giữa Nguyễn Trãi và Lê Lợi có một phần nào miễn
cưỡng, do sự thúc bách của tình thế kháng chiến. Tuy nhiên, sau khi hòa bình
được vãn hồi, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, quan hệ giữa hai người sẽ ra thế nào?
Đứng trên bình diện đánh giá, tôi không so sánh người nầy với
người kia. Trước đây và sau này, Lê Lợi vẫn là Lê Lợi. Chúng ta không thể đòi
hỏi Lê Lợi thay đổi bản sắc của mình. Lão Tử đã nói: Cây hoa hồng không thể nở
hoa mai hay là hoa bìm bìm...
Tôi đứng trên địa bàn khoa học, khi đánh giá, bằng cách so sánh
Nguyễn Trãi trước và sau điểm mốc là năm 1428, năm hòa bình trở lại. Năm Lê Lợi
trở thành hoàng đế Lê Thái Tổ.
Câu hỏi 1: Nguyễn Trãi có biết "Tri
Chỉ", dừng lại hay không?
Dừng lại, theo Lão Tử, không có nghĩa là chấm dứt, hay là "nửa chừng thoắt gãy cành thiên hương"! Nhưng là nhìn lại mình. Nếu cần
ra đi thì ra đi. Nếu ở lại, thay đổi mình vì điều kiện đã thay đổi. Đó là
Thanatos.
Câu hỏi 2: Nguyễn Trãi vẫn còn kiên
định trong chiều hướng "Vi Vô Vi", nữa hay không? Nói cách khác, rõ
ràng hơn, Nguyễn Trãi có sẵn sàng nói những điều phải nói, và không sợ lưỡi
gươm chém cổ mình. Nguyễn Trãi có đi con đường "tất yếu" Ananké
không? Thấy mình bất diệt, bất tử, cho dù phải mất mạng, mất đặc ân, đặc huệ,
mất nồi cơm hằng ngày! Vô trước hoàn toàn, không lệ thuộc, không bám víu! Sáng
suốt, hiên ngang ra đi, khi thấy mình bị "vắt chanh bỏ vỏ".
Câu hỏi 3: Cái gì là "first things first" trong
giai đoạn mới nầy? Điều
nào cần được đưa lên hàng đầu?
Trước đây, ưu tiên một là việc nước. Vợ con, gia đình, nhà cửa đã
bị bỏ bê, vì con đường tất yếu lúc ấy là "cứu nước". Và ai ai cũng đã
sẵn sàng "từ bo" như vậy. Nhưng bây giờ con ai dạy, vợ ai thương, bàn
thờ tổ tiên có ai hương đèn hôm sớm? Eros, tình thương chăn gối, vợ chồng...
có tiếng nói và vị trí trong cuộc đời hay là bị thiến hoạn?
Tại tháp Bồ Đề ở Đông Quan, Nguyễn Trãi là "Ánh sao
Khuê" đạt đỉnh cao sáng chói của mình, sau khi khẳng quyết con đường bất
bạo động cho đất nước và nhân dân Đại Việt. Chính lúc ấy, Vô Kỹ lại xuất hiện,
đặt 3 câu hỏi trên đây cho Nguyễn Trãi, dưới hình thức một công án Thiền
học 57:
"Này con ta, con đã đi xa đủ rồi, hãy trở về lại thôi. Đừng
buồn vì số phận của một người bạn phải ra đi. Con người chỉ là khách lữ hành,
người nầy nối tiếp người kia (...)
"Ta đến vào đầu năm Mậu Thân nầy để mang sứ điệp của đạo sĩ
Atangana (một sứ điệp đã cách đây hơn cả 10 năm) :
"Giờ đây, con có toàn quyền tùy ý rời bỏ bể hoạn gian nguy
đầy bão táp và theo lời khuyên của vị ẩn sĩ".
Để chuẩn bị ngày gặp Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã mất 10 năm, đã soạn
thảo "Bình Ngô Sách", đã mất nhiều thời giờ quan sát hành vi,
cử điệu, cách ăn nói của vị minh chủ.
Giờ đây, để chuẩn bị một giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng đất
nước, Nguyễn Trãi đã không trãi qua 10 năm. Đã không soạn thảo một kế hoạch
vững chắc với nhiều mồ hôi và nước mắt của lao động.
Chỉ trong khoảng mấy giây đồng hồ, Nguyễn Trãi đã quyết định:
- "Con rút lui khi nhiệm vụ tái thiết Đại Việt vẫn còn sờ ra
đó à? (...). Treo áo từ quan vào tuổi 47? (...)
Con không thể nào chịu nỗi sự từ bỏ công việc mà con đã chờ đợi
từ bao năm trời nay".
Lời từ chối xuất phát từ lý hay tình? Từ Vô minh?
Trong cuộc diện kiến giữa Nguyễn Trãi và Vô Kỹ lần nầy, có rất
nhiều yếu tố đang có mặt một cách rất tế vi và đáng chúng ta lưu tâm.
- Vô Kỹ dùng tiếng "Con" để gợi lại cho Nguyễn Trãi,
Ông đang đai diện tiếng nói của cha mẹ, Ông bà Ngoại Trần Nguyên Đán, những
người rất thân thương.
- Vô Kỹ mang đến một sứ điệp của thiền sư Atangana, người bạn chí
thân ngày xưa của Ông Ngoại, một vị A la hán. Một vị đã chứng ngộ ý nghĩa của
cuộc đời trôi nổi.
- Vô Kỹ tự giới thiệu đã 800 năm tu luyện, đi theo Đạo Trời.
- Một cách nào đó Vô Kỹ là hiện thân, là biểu tượng của nền văn
hóa Đại Việt, đã được từ từ thành hình, từ đời Lạc Long Quân, với bao nhiêu
đóng góp của Lão Tử, Khổng Tử và Đức Bụt ...
- Vô Kỹ cũng là tiếng nói lương tri của Nguyễn Trãi. Không nghe Vô
Kỹ, Nguyễn Trãi đã không nghe tiếng nói nghìn đời, thâm sâu của lòng mình.
Tiếng nói ấy vọng lại lời thề nguyền giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Khi nhận thấy không được lắng nghe, Vô Kỹ muốn vớt vát:
"Kẻ thông minh và kẻ thường quan sát sâu sắc người khác, thì
rất dễ thiệt mạng, bởi vì kẻ ấy chỉ trích người ta một cách chính xác, đúng
đắn. Kẻ nào minh mẫn, tinh nhuệ thì dễ mang họa cho bản thân mình, bởi vì kẻ ấy
phơi bày khuyết điểm của kẻ khác ra " 58.
Bạn bè của Nguyễn Trãi như Mộng Tuân cũng có những nhận xét tương
tự :
"Con người nho sĩ này thực là hết chịu nỗi" 59.
Thực ra trong số các tướng lãnh của Lê Lợi, đa số khâm phục Nguyễn
Trãi, nhưng không cảm thấy mến yêu 61. Chính Lê Lợi cũng thường xuyên cảm thấy một sự
bức tức ngấm ngầm nào đó xâm chiếm mình. Ông ngẫm nghĩ: Cần phải tận dụng con
người nầy tối đa, rồi ngày mai lại sẽ tính sau 62.
Và ngày ấy đã đến, sau khi Lê Lợi trở thành Lê Thái Tổ. Ngài đã sử
dụng cách xử thế "Vắt chanh bỏ vỏ" đối với Nguyễn Trãi. Tuy nhiên,
tôi muốn nhấn mạnh lại một lần nữa, sau 1428 Nguyễn Trãi đã thất bại, vì Nguyễn
Trãi đã không sống cái đạo " Vô công, Vô tư " của Lão Tử, để dừng
lại, rút lui vào đúng thời điểm của mình.
"Làm mà không cậy công;
"Thành công mà không ở lại
"Bởi vì không ở lại,
"Nên không bị bỏ đi" 63.
Thêm vào đó, vì quá "lên lớp", Nguyễn Trãi đã quá
"BÁC" mà không tôi luyện "TRí", cho nên số lượng kẻ thù
trong triều đình, càng lúc càng gia tăng. Và khi kẻ thù càng nhiều, Nguyễn Trãi
càng bị tê liệt, cô lập và cô đơn. Rốt cuộc đèo bòng vô số chuyện, nhưng không
làm được chuyện gì .
"Người trí không học rộng,
Người học rộng không trí" 64 .
"Trí" ở đây có nghĩa là biết
mình và biết người; "Bác" là thấy nhiều điều, biết nhiều
chuyện, nhất là chỉ những điều bê bối nơi kẻ khác. Con người "Trí" có
khả năng nhìn với "con mắt thứ ba", từ vị trí thứ ba. Con người "Trí"
sống và hiến dâng một tấm lòng. Sứ mệnh của họ là "luyện vàng", biến
không thành có. Giúp đỡ từng người, bất kể xấu hay tốt, ngày ngày trở thành
người.
2.- Hình tượng "con rắn".
Từ vị trí thứ ba, với con mắt thứ ba, chúng ta có khả năng
"thấy" Thị Lộ với nhiều bộ mặt khác nhau.
Cũng vậy, khi nhìn mình, chúng ta cũng có khả năng nhận ra
"con rắn muốn báo thù ba đời, đòi nợ máu" đang đóng sào huyệt trong
chính quả tim của chúng ta.
Thực ra, trước khi khoa Phân tâm học của Freud ra đời, trong mọi
nền văn hóa, tôn giáo, xứ sở ... 65, những câu chuyện về rắn hóa thành người, hay là
biến thân, mang lốt rắn được kể đi kể lại từ người nầy qua người khác và lưu
truyền bằng miệng, từ thế hệ nầy qua thế hệ sau.
Trong văn học, những câu chuyện ấy được sắp xếp vào mục văn chương
bình dân và được mang những nhản hiệu như Chuyện thần thoại, hoang đường, dị
đoan, cổ tích, huyền sử ...
Khi nghe những câu chuyện như vậy, trẻ em thường rất chăm chú, và
lưu tâm một cách tự nhiên. Chúng nó vừa thích thú muốn nghe, vừa run sợ nên
ngồi sát lại gần nhau...
Rắn cũng thường hiện hình trong các giấc mơ về đêm của chúng ta.
Khoa thuyên giải của Phân tâm học, từ đầu thế kỷ 20, đã cho chúng
ta một số chìa khóa, để khai mở bức màn mờ mờ ảo ảo, vừa úp vừa mở trộn lẫn với
nhau.
Những hình ảnh được ghi nhận như "con rắn bị đứt đuôi chảy
máu" mang nhiều ý nghĩa cùng một lúc, cho nên được gọi là hình tượng hay
là biểu tượng đa năng, đa diện, đa phương. Đa có nghĩa là nhiều. Hẳn thực, rất
nhiều ý nghĩa cô đúc lại với nhau, chồng chéo trên nhau. Đó là chìa khóa thứ
nhất. Chìa khóa thứ hai mang tên là dời chỗ có phần vụ đánh lạc hướng, cho nên
trong mỗi hình tượng có vấn đề bắt râu ông nọ, đặt cằm bà kia. Giống như con kỳ
nhông, mỗi hình tượng thay đổi màu sắc, ý hướng tùy mạch văn, tùy bầu khí, tùy
hoàn cảnh, môi trường và bình diện khảo sát. Mỗi hình tượng không nằm ù lì một
chỗ. Chẳng hạn con rắn làm gì, ở đâu, nói gì, đi một mình hay là có tháp tùng.
Bên ngoài làm sao và tâm tình bên trong thế nào: giận dữ, khẩn khoản hay là đau
đớn. Đứng trước cảnh tượng ấy, chứng kiến mọi điều xảy ra, người nằm mơ, người
trong cuộc mang tâm trạng, xúc động thế nào. Đó là chìa khóa thứ ba mang tên là
tiến trình của màn kịch, cách kết thúc.
Trở về với tất cả những gì có liên hệ đến đời sống xúc động và
tình cảm, chúng ta sẽ nhận thấy cách dễ dàng: mỗi giấc mơ, mỗi câu chuyện
hoang đường... khi được kể, khi được nghe cũng như khi được thuyên giải, đều
vén màn, mặc khải cho người trong cuộc nhận diện và đối diện những nhu cầu thâm
hiểm của chính mình. Ai là người trong cuộc ? Khi đi xem kịch - bi kịch, hài
kịch hay bất kể loại kịch nào - chúng ta có thể đứng ở ngoài nhìn vào. Đó là
thái độ khán giả. Hay là chúng ta đi vào bên trong: cùng khóc, cùng run, cùng
sợ, cùng ghét, cùng tức tối giận hờn hay là bối rối lo âu.
Chẳng hạn khi đọc Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, phải chăng
tôi đồng hóa với nàng Kiều hay là chỉ làm khán giả lạnh lùng, không có quan hệ
tình cảm sâu xa, không muốn đồng hành và chia sẻ.
Nhà phân tâm trị liệu, trong những tình huống chữa bệnh, tạo điều
kiện tin tưởng, đặt ra những câu hỏi "hộ sinh", giúp người thân chủ
từ vị trí chủ quan chuyển qua vị trí khách quan. Để kết thúc, người thân chủ
sáng tạo cho mình vị trí liên chủ quan. Khi có tình người, tình thương và lòng
kính trọng ở trong nội tâm, người ấy sẽ tìm thấy con đường giải quyết những vấn
đề hiện sinh. Khi thương rồi, thì không còn khổ đau "sinh, lão, bệnh,
tử". Nếu vẫn còn khổ đau, thì chính khổ đau ấy trở lại nuôi dưỡng tình
thương. Khổ đau lúc bấy giờ là con đường cho phép tôi làm Bụt, làm Chúa...
"No matter what the problem, love is the answer". Trong hiện tại,
bất kể vấn đề gì đang đến với bạn, bạn hãy đem tình thương vào trong mọi cách
giải quyết.
Trở về với con rắn, nó là ai? Là gì? 66.
Bất kỳ một đứa bé nào ở thôn quê, ngày ngày tiếp xúc với thực tế
của cuộc sống, đều hiểu rằng:
• Rắn là loài bò sát.
• Rắn ở trong những hang động và lùm cây. Chỉ khi nào bị quấy
rầy, mất chỗ ở và sinh sống, chúng nó mới hoảng hốt bò ra, đi tìm chỗ ở nơi
khác.
• Rắn rất có ích cho người nông dân. Lương thực của nó là
chim chóc, côn trùng, chuột bọ. Nhờ rắn, người nông dân giải quyết được vấn đề
sâu rầy, chuột bọ phá hại mùa màng, hoa quả...
• Khi mất
chỗ ở, bị phá phách quấy rầy, rắn có thể vào nhà, leo lên mái tranh, trốn núp
trong gối chăn, giường chiếu, bàn thờ tổ tiên...
• Rắn
có thể làm món ăn "cao lương mỹ vị" hay là biến chế thành vị thuốc
trường sinh, bồi dưỡng nhiều cơ phận.
• Có những
loài rắn như rắn mai, rắn hổ... có mang nọc độc giết người ở dưới răng của
mình.
• Rắn
chỉ cắn, để tự vệ, vì sợ, khi bị quấy rầy, tấn công, hay là bị chà đạp, dẫm
nát.
• Thông
thường, thấy người thì rắn rút lui, đi chỗ khác. Nếu chúng ta thấy và tránh đi
chỗ khác, không đe dọa chúng nó, thì chúng nó không bao giờ tìm đến cắn chúng
ta một cách vô duyên cớ.
• Nói
tóm lại, trong thiên nhiên rắn là bạn hơn là thù đối với con người.
Môi trường sinh thái được điều chỉnh, điều hợp, nhờ vào sự kiện là
rắn tiêu thụ những loài vật phá hại mùa màng. Nhờ hang động của rắn, khí và
nước có thể vào trong đất, làm cho đất trở nên màu mỡ. Rắn giúp con người giải
trừ nhiều độc tố xuất hiện trong môi trường sinh sống.
Trên bình diện tâm lý, rắn là hình tượng, mang hai ý nghĩa cơ bản
là đời sống tình cảm và nhu cầu sinh lý.
Nếu hai con rắn nầy không có chỗ ở, không được nuôi dưỡng, bị quấy
rầy, khinh thị hay là bị thương tích, chúng nó từ bạn biến thành thù cho con
người.
Hai triệu chứng bệnh hoạn xảy ra, khi hai con rắn nầy bị thương
tích, như đứt đuôi chảy máu, một cách đặc biệt, khi cơ quan sinh lý bị thiến
hoạn vì nhiều lý do, trong đó có lý do nghề nghiệp như con đường hoạn quan...
Triệu chứng thứ nhất là vì lý do bù trừ quá khích, họ cương phồng cái tôi của
mình để đàn áp, thủ tiêu kẻ khác. Lý do thứ hai là thái độ luồn cúi, nịnh bợ,
thích hào nhoáng, vị thế chức quyền. Các hoạn quan thường là những tay sai
trung tín của các bà hoàng hậu và cung nữ trong triều đình. Họ huênh hoang,
hãnh diện vì việc làm ấy.
Vì những "Con rắn bị đứt đuôi, có khả năng báo thù ba đời
này", cái điềm "hai không, tứ họa" 67 cứ đè nặng lên số phận của Nguyễn Trãi và của
mỗi người Việt Nam. Cứ mỗi lần đuổi được hai quân Minh, thì bốn người Việt Nam
phải mất đầu, do chính bàn tay sát hại của người anh chị em đồng bào!
Phương thức hóa giải, như tôi đã trình bày trong các chương trước
đây, là nhìn nhận chúng ta có những nhu cầu cơ bản, chính đáng. Khi chúng ta
săn sóc, coi trọng những con rắn ấy, cho chúng nó chỗ ăn, chỗ ở, chỗ sinh hoạt... chúng nó là những người bạn tri kỷ quí hóa.
Trái lại, khi chúng ta cắt chặt nghĩa là kiểm duyệt, dồn nén, gây
thương tích, đánh đuổi... những con rắn tình cảm và sinh lý ấy sẽ "báo
thù ba đời" bằng cách nầy hay cách khác, làm cho chúng ta băng hoại.
Khi chúng ta thiến hoạn chúng nó, chúng ta thiến hoạn chính bản
sắc, căn cước, gốc bản của chúng ta. Của Đồng bào. Của Đất Nước.
Theo lời của thánh Âu cơ tinh, hãy yêu, hãy xây dựng Đền thờ cho
Tình yêu trong tâm hồn, rồi bạn hãy làm gì thì làm: phục vụ đồng bào, xây dựng
đất nước, xua đuổi xâm lăng và thực dân. Khi chưa có tình yêu, mọi điều chúng
ta làm là "xây nhà trên cát". Là "hai không , tứ họa".
Âu cơ tinh ở bên Tây, Atangana ở bên Đông, cả hai đều đồng
tâm, đều chia sẻ một lối nhìn giống nhau!
3.- Thị Lộ và cái chết của Nguyễn Trãi
Phải có tầm cỡ 800 kinh nghiệm về cuộc sống làm người 68,
- Phải có 800 năm hiểu biết về lịch sử và văn hóa của Đại
Việt,
- Phải có 800 tu luyện trong con đường "Tỉnh Thức và
Tình Thương" được chắt lọc từ nhiều tôn giáo khác nhau như Phật giáo, Lão
giáo và Khổng giáo...
- Phải có 800 năm học tập bắt mạch những nhu cầu cơ bản cũng
như khám phá căn bệnh trầm kha của người Việt Nam, do tai họa của chiến tranh
gây nên,
- Phải có những kiến thức tinh nhuệ về số tử vi, nhất là về ý
nghĩa của "hai không bốn họa,"
- Phải luôn luôn hiện diện bên cạnh Nguyễn Trãi, vào những
lúc trọng yếu, do một sợi dây liên kết định mệnh...
Vô Kỹ mới thúc giục Nguyễn Trãi: "... hãy chia sẻ
niềm vui với gia đình con mà con đã phục hồi lại trong vinh quang" 69.
Chiến tranh đã "thiến hoạn" sự có mặt của người Cha
trong đời sống gia đình. Con rắn gia đình bị đứt đuôi chảy máu ...
Từ đời nầy qua đời nọ, người Cha Việt Nam phải luôn bị tống ra
ngoài chiến địa:
"Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao".
Thái sơn ở đây phải được hiểu: "Công cha như núi Thái
Sơn". Và vì chiến tranh, cái công ấy đã bị coi nhẹ, khinh thường, chưa
được " phục hồi lại trong vinh quang", giống như ý nguyện của đạo sĩ
Vô Kỹ. "Vô Kỹ" là gì theo Lão Tử? Là những con người "Vô công,
vô danh", không đèo bòng, duổi bắt trên con đường công thành, danh toại và
lợi ích cá nhân 70.
Thế nhưng, từng từng thế hệ như Nguyễn Trãi đều bị đầu độc và ám ảnh:
"Phải có công gì với núi sông!".
Kết quả trước mắt là trên cả ba miền Việt Nam, người mẹ đồng hóa
với hòn núi Vọng Phu, suốt năm, suốt tháng bồng con, đợi chờ chồng từ chiến
trận trở về. Nhưng không bao giờ về.
Lớn lên, những đứa con bỏ nhà ra đi tìm cha. Không có cha. Chỉ có
những roi đòn, chưởi bới, la mắng. Cho nên chúng nó họp lại thành băng đảng,
cướp giựt, cao bồi, hút xách, lang thang, phiêu bạt.
Chiến tranh chống thực dân xâm lăng đã chấm dứt. Những "kẻ
thù ngày xưa" đã trở lại thăm viếng đất nước Đại Việt như F.
Mitterand, J. Chirac và B. Clinton. Nhưng hậu họa chiến tranh vẫn còn tiếp diễn
mấy đời, mấy thế hệ nữa? Người Việt Nam chưa trở về. Chưa "nhất tâm"
với nhau.
Và chính trong cuộc đời từ 47 tuổi trở lên, Nguyễn Trãi có "ngó ngàng" đến vợ con hay không?
Hồi tôi còn là đứa bé, tôi được nghe thầy dạy: "Gia huấn
ca" do Nguyễn Trãi sáng tác để giáo dục con cái. Các nhà nghiên cứu về
Nguyễn Trãi, như Nguyễn Thạch Giang đang đặt lại vấn đề " ai là tác giả
đích thực của tác phẩm ấy..."? 71
Trong vòng 20 năm, Trần Thị Thanh, vợ của Nguyễn Trãi đã sống thế
nào. Ngày hòa bình trở lại, nàng còn sống hay không? 72.
Có bao giờ Nguyễn Trãi nhớ lại lời từ biệt đầy nước mắt và nhức nhối tận hồn
sâu, trước lúc vì đất nước ông theo cha ra đi:
"Anh yêu dấu, trái tim em xót xa vì sắp phải chia tay anh
bao nhiêu, thì nó càng đau đớn hơn gấp bội, nếu nữ tì của anh cản trở anh trong
việc thi hành bổn phận.
Anh hãy yên tâm ra đi!
Lúc vắng anh, ngày và đêm em sẽ luôn luôn ở trên núi Vọng phu" 73.
Và ngày Nguyễn Trãi trở lại, sau 20 năm xa cách biền biệt, Thị
Thanh còn sống hay không?
Theo Bùi Văn Nguyên 74,
Bà đã có mặt và cùng chia sẻ số phận với chồng, trong vụ án vườn Lệ Chi. Tuy
nhiên, tác giả nầy khẳng định nhiều tin tức, mà không bao giờ cho biết tài liệu
tham khảo hay là nguồn xuất xứ có được kiểm chứng một cách nghiêm chỉnh hay
không. Đó là một điều rất đáng tiếc về mặt khoa học sử liệu.
Trong tác phẩm Vạn Xuân, Thị Thanh không còn xuất đầu lộ diện, sau
năm 1428. Duy người đầy tớ Nụ Lài, đã được bà sai đến Đông Quan phục vụ chồng
và lo cho chồng vấn đề chăn gối, thường gợi lại hình ảnh "bà chủ"
với bộ đồ tang phục khoác trên mình suốt ngày đêm75.
Đó cũng là một cách thuyên giải đầy tế nhị của Y. Feray không muốn quá bôi đen
thực trạng vợ con gia đình của Nguyễn Trãi.
Phần Thị Lộ cũng không hạnh phúc, bởi vì Nguyễn Trãi không có tâm
hồn bình an và thoải mái để khám phá nhiều bộ mặt khác nhau của người vợ thiếp
nầy 76.
Thị Lộ vừa là người học trò ngưỡng mộ thầy, ngày đêm canh phòng từng nguồn cảm
hứng, từng sáng tác nhỏ nhặt của Thầy. Thị Lộ cũng là đồng chí kháng chiến,
ngày đêm làm chị nuôi và mẹ nuôi cho hoàng tử Long, con của Lê Lợi, mồ côi mẹ,
từ hồi còn bé thơ. Thị Lộ không có con với Nguyễn Trãi, cho nên đổ dồn tình mẹ
cho hoàng tử Long. Cậu bé nầy sẽ trở thành vua Lê Thái Tông sau khi vua cha qua
đời. Giữa yêu thương dịu dàng đối với Thị Lộ như người mẹ hay như người tình
duyên dáng, mặn mà, Vua Lê Thái Tông không phân biệt một cách rõ ràng và sáng
suốt trong mỗi phong độ hằng ngày.
Thay vì trao đổi, gây ý thức, giúp đỡ Thị Lộ trong vấn đề xử thế,
Nguyễn Trãi nghe theo dư luận, tiếng đồn thổi, dị nghị và dèm pha của môi
trường hoạn quan và cung nữ.
Khi tình cảm không trắng đen một cách rõ ràng minh bạch, tình cảm
ấy trở thành "con rắn làm hại và trả thù ba đời".
Thêm vào đó, khi được vua Lê Thái Tông (trước kia là hoàng tử
Long) phong làm Lễ nghi học sĩ, giữ công việc dạy dỗ cung nhân trong triều
đình, Thị Lộ lại bước vào một hang động mới của Rắn còn hung bạo và nguy hiểm
hơn 77.
Hai con rắn là hai bà vợ của Lê Thái Tông: Nguyễn Thị Anh và Ngô Thị Ngọc
Dao,làm sao có thể chịu được nhau. Người đầu là mẹ của Băng Cơ, sau nầy là vua
Lê Nhân Tông. Người thứ hai là mẹ của Tư Thành, sau nầy là vua Lê Thánh Tông.
Vì Thị Lộ bênh vực Ngô Thị Ngọc Dao, Nguyễn Thị Anh đã tìm mọi cách và mọi cơ
hội để trả thù.
Giữa tình huống xung đột ấy, trong một chuyến đi kinh lý, vua Lê
Thái Tông đột nhiên chết ở Vườn Lê Chi, do một cơn sốt ác tính hay là bị ngộ
độc do một bàn tay bí mật cố tình, không một ai có thể xác định.
Vì Thị Lộ lúc ấy có mặt bên cạnh nhà vua, Nguyễn Thị Anh chớp lấy
thời cơ, để lập nên vụ án.
Bị tra tấn dã man, Thị Lộ đã chấp nhận trong hôn mê mọi tội lỗi do
bọn hình quan thuộc phe của Nguyễn Thị Anh bày đặt ra.
Thực tế trắng hay đen? Mỗi người có cách thuyên giải riêng tư của
mình. Dù sao trong vụ án Vườn Lệ Chi, Thị Lộ vừa là nạn nhân, vừa là người có
trách nhiệm. Cũng vậy, Nguyễn Trãi vừa là nạn nhân, vừa có trách nhiệm vì đã
không gây ý thức kịp thời cho Thị Lộ. Trong mỗi điều lành hay việc dữ, ai ai cũng góp phần ít
hay nhiều của mình.
Tuy nhiên, "Vườn Lệ Chi" chỉ là giọt nước cuối cùng của
một ly nước từ từ tràn đầy, từ ngày mà tình cảm không được nhận diện và đối
diện. Trên đường về Thăng Long, khi được tin bị kết tội "cùng với vợ giết
vua", Nguyễn Trãi có thể trốn thoát theo lời đề nghị của một đạo sĩ vô
danh. Nhưng Nguyễn Trãi đã lãnh trách nhiệm : đã ở lại, đã chết với Thị Lộ, đã
dâng cho Thị Lộ một tấm lòng trung tín viết ra bằng máu của mình...
Và khi chấp nhận chết như vậy, Nguyễn Trãi muốn nói một cách rõ
ràng minh bạch cho các thế hệ về sau biết rằng: "Tôi chết, vì tôi không
biết hóa giải kịp thời những vấn đề thuộc đời sống xúc động và tình cảm. Con
rắn nầy đã sát hại người Việt Nam từ đời nầy qua đời khác.
Vậy để sống cách tròn đầy và viên mãn, từ đây, các bạn hãy học tập
hóa giải, bằng cách nhận diện và đối diện những xúc động và tình cảm của mình.
Hãy coi trọng nhu cầu yêu đương và ân ái!".
Trối lại bài học ấy, Nguyễn Trãi đã để lại cho quê hương và anh
chị em đồng bào một tấm lòng bao la không bến bờ... Một cơ sở tất yếu, phải có
để xây dựng con người Việt Nam.
Nguyễn Trãi là tác giả của kế hoạch Tâm Công. Nhưng con đường Tâm
Công không bị hạn chế trong lãnh vực kháng chiến chống xâm lăng mà thôi. Tâm
công phải được thu hóa và hòa nhập trong mỗi đường đi và nẽo về của cuộc đời.
Nguyễn Trãi đã thành tựu vẻ vang một chặng đường. Đến lượt, đến thời của chúng
ta là con cháu, chúng ta tiếp tục những gì do các bậc đàn anh đã bắt đầu. Họ
thành công? Chúng ta tiếp nối mở rộng. Họ gặp trắc trở? Chúng ta can đảm
"dừng lại", đánh giá để kiện toàn.
Đó là ý nghĩa thâm trầm của câu ca dao tục ngư:
"Con hơn cha là nhà có phúc".
"Hơn" ở đây không mang ý nghĩa và tâm trạng phân biệt
nhị nguyên. Sở dĩ, hôm nay hơn ngày qua, vì chúng ta thừa kế một gia tài mồ
hôi, nước mắt, xương máu của tổ tiên cha ông từ Lạc Long Quân và bà Âu Cơ.
Chúng ta đang cưu mang Trời và Biển trong tấm lòng Vạn xuân và Đại việt của
mình. Chúng ta, vì tư cách làm người, cần phải "tri chỉ", dừng lại,
không phản bội hai dòng máu ấy đang sôi trào trong chúng ta. Và khi làm, hãy
làm với tinh thần "Vi Vô Vi": làm như "Mặt Trời". Còn hơn
thế nữa, mỗi người Việt Nam là mặt trời sáng soi, sưởi ấm và nuôi sống anh chị
em đồng bào của mình.
Nguyễn Trãi đề nghị một viễn tượng còn kỳ hùng hơn : mặt trời sẽ
mọc lên từ Biển Đông. Sau khi vượt qua những rặng núi Trường Sơn, mặt Trời sẽ
mang Ánh sáng và Hơi Ấm cho toàn Địa Cầu. Một ngày Hòa Bình sẽ là Mùa Xuân bất
tận từ Đông qua Tây. Từ Nam lên Bắc. Từ trong toát ra bên ngoài. Từ "Cái
Tôi" bé nhỏ bần tiện, hẹp hòi, mỗi người con dân Việt Nam sẽ ý thức mình
đang làm nên " Đại Ngã" lớn lao, bao la và cao cả...
Lời kết
Tấm lòng vạn xuân và Đại Việt
Trong những ngày nầy, khi cuốn sách về Nguyễn Trãi sắp được
kết thúc và hoàn thành, thế giới đang bước sang thời đại của Nghìn Năm Thứ Ba,
với bao nhiêu vấn đề còn ngang ngửa, bề bộn, trầm trọng và kinh hoàng. Chính
trong đêm Giao thừa, giới trẻ ở Pháp, tại thành phố xinh đẹp, duyên dáng, trử
tình như Strasbourg, đã tràn ra đường bạo động, châm lửa tưới dầu xăng đốt hằng
trăm chiếc xe ô tô của dân chúng đậu ở hai bên vệ đường. Nhiều người trẻ chưa
"già" hơn 14 tuổi. Trước nhà hữu trách, họ điềm nhiên và lạnh lùng
khai báo: "Đốt cho vui, mừng xuân".
Đương chính lúc ấy, ở miền Nam nước Pháp và miền Bắc nước Ý, mưa
rơi tầm tã, lụt lội, nước tràn vào nhà, khi dân chúng đang ăn mừng liên hoan.
Theo lời giải thích của các nhà khoa học, nhiệt độ trung bình của Trái đất đang
tăng lên hàng năm, gây xáo trộn, đảo ngược những nhịp điệu bình thường của hành
tinh xanh, từ trước cho tới nay. Con người đang làm ô nhiễm địa cầu.
Cũng vào đêm Giao thừa và suốt ngày đầu năm, của năm đầu tiên 2001
thuộc thế kỷ 21, hai dân tộc Do thái và Palestine đã đụng độ nhau. Bạo động lại
tràn ra đường. Ngày đầu năm trở thành ngày hận thù, đổ máu, tang chế... Sáng
mồng hai, chủ tịch Yasser Arafat đã phải bay qua Hoa Thịnh Đốn gặp Tổng Thống
B. Clinton. Liệu hai nhà lãnh đạo ấy còn có một trò ảo thuật nào chưa bao giờ
sử dụng, để làm xuất hiện trở lại những cánh chim bồ câu hòa bình ? Tuy nhiên,
Hòa Bình thực sự chỉ đến từ bên trong một tấm lòng. Hòa Bình là mùa màng gặt
hái, cho những ai đã gieo vãi hòa bình. Hòa Bình chỉ xuất hiện cho hai người,
giữa hai người, khi cả hai nhìn nhận nhau là người, có quyền làm người, có
quyền tạo ra cho mình một quê hương để trở về khi thương nhớ. Một quê hương để
dạy con cái thành người, thay vì gửi chúng nó đi xâm lăng, thực dân, khủng
bố,làm không và hải tặc. Một quê hương để mở tay, mở lòng đón nhận những ai cần
một nơi nương tựa trên hai bình diện vật chất và tinh thần. Càng biết đón nhận
kẻ khác bao nhiêu, chúng ta càng thành người bấy nhiêu.
Kế hoạch của con người, trong nghìn năm thứ ba nầy, theo các nhà
khoa học nghiên cứu vũ trụ, là đổ bộ lên Hỏa Tinh (Mars) thành lập ở đó một
trạm thông tin và một trung tâm nghiên cứu. " Hiện tại " của Hỏa Tinh
sẽ cho chúng ta biết về "tương lai" gần xa của Trái Đất. Thấu
triệt được phương thức Hỏa tinh đang tự hóa giải bao nhiêu vấn đề về đất màu,
nhiệt độ, thời tiết, núi sông... có lẽ con người sẽ "khôn ngoan" hơn
: tránh những điều cần tránh và can đảm bắt tay thực hiện để xây dựng từ bây
giờ một tương lai hài hòa giữa con người và vũ trụ, cũng như giữa con người với
con người. Một cách đặc biệt, hài hòa với chính mình... Đó là phương thức xây
dựng "Trời mới, Đất mới".
Khi trở lại viếng thăm Nguyễn Trãi, sau 600 năm xa cách, tôi cũng
đã làm một công việc tương tự giống như đổ bộ lên Hỏa Tinh.
Nguyễn Trãi là ngôi sao đã dâng hiến cho Đất Nước và anh chị em
đồng bào ánh sáng và hơi ấm của một tấm lòng. Kế hoạch Tâm Công, đã được Nguyễn
Trãi sưu tầm và thực hiện, cũng là nếp sống và chương trình hành động của chúng
ta ngày hôm nay và ngày mai. Để mạnh mẽ, can trường bước vào tương lai, chúng
ta hãy tìm lại điểm tựa và đòn bẩy, như Nguyễn Trãi đã làm, trong Tấm Lòng Trời
và Biển mà Lạc Long Quân và Âu Cơ đã hiến tặng cho nhau ... khi họ yêu nhau.
Hôm ấy, như câu chuyện của văn sĩ M. Waddel kể lại cho trẻ em khắp
năm châu, bốn bể, hai anh em Đại và Tiểu gấu dẫn nhau vào rừng dạo chơi suốt
ngày 78.
Hai anh em mệt nhoài, nhưng vui sướng và hạnh phúc, trở về hang động của mình,
vào lúc hoàng hôn đổ xuống.
Sau bữa cơm chiều thanh đạm, Đại Gấu tắm gội và thay áo quần cho
em. Tiểu Gấu bi bô kể lại cho anh những điều chính mình đã quan sát và ghi nhận: hình ảnh có màu sắc thế nào, âm thanh của rừng núi trầm bổng làm sao. Tâm hồn
của Tiểu Gấu nhẹ nhàng phơi phới như những đám mây bồng bềnh từ ngọn đồi nầy
qua ngọn đồi khác... bao nhiêu kỷ niệm tuôn trào... như dòng suối mát lạnh
đang phun ra từ những tảng đá.
Sau một hồi lắng nghe em trầm trồ, Đại Gấu bồng em đặt vào
giường, tắt đèn, hôn em và qua phòng bên cạnh đọc sách.
Đọc chưa xong mười hàng, Đại Gấu đã thấy em đứng nhìn mình,
đằng sau cánh cửa.
- Sao em không ngu?
- Em ngủ không được.
- Sao em ngủ không được?
- Em sơ!
- Sợ gì hở em?
- Bóng tối tràn lan khắp nơi, trên giường, phía dưới và chung
quanh...
Đại Gấu đến bồng em, đặt lại vào giường, hôn em và đi tìm cây đèn
nho nhỏ, đốt lên, để ở giữa phòng.
- Bây giờ hết bóng tối rồi. Chúc em ngủ thật ngon.
- Cám ơn Anh.
Đại Gấu đi ra, trở về chỗ cũ, cầm sách lên tiếp tục đọc. Đến đoạn
bắt đầu éo le, hấp dẫn, Đại Gấu lại nghe tiếng động trong phòng của em. Thì ra
Tiểu Gấu cứ lăn qua, lăn về, che mặt sụt sùi.
- Em có chuyện gì?
- Em ngủ không được!
- Sao em ngủ không được?
- Em sợ.
- Lần nầy em còn sợ gì?
- Bóng tối còn tràn lan khắp nơi. Hãi hùng quá!
- Anh đã đốt đèn cho em mà!
- Ánh sáng bé tí tiu, mà bóng tối thì dày đặc, tràn lan, to tướng
... nó há to miệng chờ nuốt em..
Đại Gấu lại gần hôn em, thoa đầu cho em và đắp lại tấm mền trên
mình em.
Đại Gấu đốt thêm một cây đèn.
- Anh đốt thêm một cây đèn. Hết bóng tối rồi.
Chúc em ngủ ngon.
- Cám ơn Anh.
Đại Gấu trở về bàn, đọc tiếp đoạn sách quá hấp dẫn. Nhưng tiếng
động ở phòng của Tiểu Gấu lại nổi lên. Đại Gấu gải đầu suy nghĩ, rồi đi vào xem
em có chuyện gì.
Tiểu Gấu ngồi dậy trên giường, đưa hai tay bịt mắt, miệng lẩm bẩm
"mày dễ sợ, mày dễ sơ".
- Sao vậy em, có chuyện gì?
- Em càng lúc càng sợ, Anh ơi!
- Em sợ gì?
- Thì cũng bóng tối cứ lại gần dọa em. Nó còn bay chập chờn,
múa máy tứ tung, nhe hai hàm răng nhọn hoắc...
- Thôi Anh đi đốt cho em cây đèn bự nhất nhà nhé!
Lần nầy hết bóng tối rồi.
Em ngủ ngon nhe.
Nói xong Đại gấu hôn em và đi ra.
- Cám ơn Anh.
Mười phút sau, có tiếng khóc sụt sùi càng lúc càng tăng lên cường
độ. Đại Gấu bỏ sách xuống, bước vào phòng của Tiểu Gấu.
- Anh ơi, em sợ quá. Bóng tối vẫn y nguyên, mặc dù Anh đốt hết đèn
của nhà mình.
- Thôi được rồi, em khoác áo ấm vào, Anh em mình đi ra ngoài sân
một chút.
- Sao ra ngoài đó? Bóng tối còn mênh mông
hơn. Em sợ lắm. Thôi đừng đi, Anh ơi!
- Không can gì, Anh cầm tay em. Đi với Anh.
Có Anh mà!
Hai anh em vừa ra khỏi cầu thang dẫn vào vườn. Tiểu Gấu hét la
lên, ôm chặt lấy Đại Gấu. Đại Gấu cúi xuống bồng em, ôm em tựa sát vào mình.
Vừa đi ra, Đại Gấu vừa đưa tay chỉ trăng và sao cho em. Đại Gấu nói lung tung
và huyên thuyên :
- Tiểu Gấu ơi, em xem kìa. Trên đó có bao nhiêu ngọn đèn. Ngọn kia
ở giữa thật bự, bự hơn cả cây đèn nhà mình. Trong đám sao nầy có tên Em, tên
Anh ở đằng xa kìa...
Không nghe em trả lời, Đại Gấu ngưng nói, nhìn em. Thì ra Tiểu Gấu
đã ngủ say mê trong cánh tay của Đại Gấu ... không còn sợ bóng tối tràn lan
chung quanh ... không thèm nhìn trăng sao gì nữa. Hơi ấm của Đại Gấu đã xóa tan
mọi bóng đêm hãi hùng.
Hỡi người em Việt Nam thân thương!
Có những lúc bóng tối dày đặc bao phủ quê hương, đất nước của mình... Với cả tài đức và trí thông minh, nhiều bậc đàn anh đã lần lượt đốt lên
nhiều ngọn đèn mua về từ phương Bắc, phương Tây, từ Nga, từ Ấn Độ, từ Châu Mỹ... Không ngọn đèn nào có thể xóa tan bóng tối cả ... thậm chí Trăng sao từ
trời cao, từ ngoài kia địa cầu...
Cuối cùng, Nguyễn Trãi đã thắp lên một tấm lòng. Đó là tấm lòng
yêu thương, an bình và tha thứ, mang tên là " Tâm Công". Đến lượt,
đến phiên chúng ta, anh em mình cũng hãy đốt lên một tấm lòng ... Tấm
lòng ấy làm cho đất nước trở thành Vạn xuân và Đại Việt.
- Em là Nước? Anh
xin làm Biển Cả:
Cũng theo Em đến những miền xa lạ,
Gieo vãi Tình Thương, khung trời mở rộng
Hiến cho đời mầm non trào nhựa sống.
- Em là Hoa? Anh
xin làm mãnh đất:
ấp ủ vun trồng, dịu dàng thân mật.
Dưới mỗi bước chân, hương trầm bát ngát,
Trên khắp non sông, nương đồng ngào ngạt.
- Em là Trời? Anh xin làm không khí:
Đón nhận Em trong trái tim bình dị.
Em an bình, tâm hồn Anh diệu vợi.
Em hạnh phúc, cuộc đời Anh phơi phới.
Thổi ân tình vào lòng ai ngột ngạt,
Gieo thái hòa trên vùng đất bạo động,
Nuôi chí khí, đánh thức người tuyệt võng.
- Em là Núi? Anh
nguyện làm rừng xanh,
Động viên Em với tất cả lòng thành:
Luôn đứng thẳng, nhìn Mặt Trời tỏa rạng,
Tay vươn cao tiếp thu nguồn Ánh Sáng.
- Em là Đất? Anh hóa thân thành Nắng:
Sưởi ấm Em, bằng Đức Tin thầm lặng,
Con người cũ chết đi nuôi Em sống,
Con người mới gọi mời Em Hy vọng.
Mùa Xuân 2001
Sách tham khảo:
1. Sách Nguyễn Trãi
1.1. Bùi Văn Nguyên - Nguyễn
Trãi và bản
Hùng Ca Đại cáo - Nxb. KHXH, Hà Nội 1999.
1.2. Bùi Văn Nguyên - Văn
Chương Nguyễn Trãi rực ánh sao Khuê - Nxb. KHXH, Hà Nội 2000.
1.3. Hồ Sĩ Hiệp - Nguyễn Trãi
- Nxb. Văn nghệ Tp. HCM 1997.
1.4. Feray Yv - Vạn Xuân -
Dịch giả Nguyễn
Khắc Dương, Nxb. Văn học và Sudestasie
Hà Nội 1997.
1.5. Feray Yv - Dix mille
Printemps - Ed.
P.Picquier, Arles 1996. Tome 1 và 2.
1.6. Nguyễn Trãi - Quốc Âm Thi tập -
Nguyễn Thạch Giang, Phiên khảo và
chú giải, Nxb. Thuận Hóa, Huế 2000.
1.7. Thiên Thụ - Nguyễn Trãi - Lửa Thiêng,
Sàigòn 1973.
1.8. Trần Huy Liệu - Nguyễn
Trãi : Cuộc đời
và sự nghiệp - Nxb. Vh. Th.tin Hà Nội,
2000 - xb lần đầu 1966.
1.9. Võ Văn Ái - Nguyễn Trãi :
Sinh thức và
hành động - Quê Mẹ, Paris 1981.
2. Về Lão Tử, Khổng giáo và Phật giáo
2.1. Nguyễn Duy Cần - Lão Tử -
Đạo đức Kinh, 2 cuốn, Khai Trí Sàigòn 1962 , 1974.
2.2. Trang Tử - Nam hoa Kinh,
3 cuốn, Khai Trí, 1963
2.3. Trang Tử tinh hoa - Khai
trí, 1970.
2.4. Phật học tinh hoa - Khai
Trí, 1971
2.5. Phan Bội Châu - Khổng học
đăng, 2 cuốn, Nxb. Anh Minh, Huế 1957.
3. Phân tâm học, Thuyết cơ cấu...Tiếp xúc, xúc động...
3.1. Covey St. R - The 7
habits of hig ly effective people - Simon & Schuster LIK 1989.
3.2. Crèvecoeur J.J - Etre
pleinement soi- même - Ed. Jouvence Genève 2000.
3.3. Relations et jeux de
pouvoir - Equinoxe 21, Belgique 1999.
3.4. Jampolsky G.G -
Love is letling go of fear Cel. Arts, CA 1979.
3.5. Love is the answer -
Bantam, U.S.A 1991.
3.6. Change your mind -
Bantam, U.S.A 1983.
3.7. Nguyễn Văn Thành
- Đường vào nội tâm - Tình người, Lausanne 1997.
3.8. Phát huy nhân lực - Tình
người , Lausanne 1998.
3.9. Đối thoại, quê hương Tình
người - Tình Người, Lausanne 1999.
3.10. Khung Trời mở rộng - TN, Lausanne
2000.
3.11. Senge P. - The fifth
discipline - Century B. London 1990
3.12. The 5th discipline : Fieldbook -
Century B. London 1994.
3.13. The dance of Change - Nicholas
Brealey, London 1999.
3.14. Rosenberg. M.B - Les mots sont des
fenêtres Ed. Jouvence, Genève 1999.
3.15. Stone D... - Difficult conversations
- Michael Joseph, London 1999.
46. Trần Huy Liệu, Sđd. tr.43.
47. Võ Văn Ái, Sđd. tr. đề tựa lần Xb
1981. Lá thư của P.c.
Thiện không còn, trong 2 lần xb. tiếp theo.
48. Vạn Xuân, tr.
175
49. Vạn Xuân, tr.
234
50. Vạn Xuân, tr.
232
51. Vạn Xuân, tr.
234-
52. Vạn Xuân, tr.
234.
53. Đạo
Đức Kinh, ch. 44: "Tri
chỉ bất đãi", Sđd.
tr. 232, trong cuốn II.
54. Sđd.
ch. 63, II, tr.322, ch. 2, I, tr. 43-48, ch. 37, I, tr. 189-192.
55. Nguyễn Văn Thành, Khung Trồi Mổ Rộng -
Tình Ngưồi, Lausanne 2000, tr.34-42.
56. Vạn Xuân, tr.
860-863.
57. Vạn Xuân, tr.
990-994.
58. Vạn Xuân, tr.
994.
59. Vạn Xuân, tr.
860.
60. Vạn Xuân, tr.
863.
61. Vạn Xuân, tr.
858.
62. Vạn Xuân, tr.
848.
63. Lão Tử, Đạo Đức Kinh, ch.
2, cuốn I, Sđd. tr. 43-47.
64. Lão Tử, cuốn II, ch. 81, tr.
403-406.
65. Để
biết thêm khoa học nầy, xen Nguyễn Văn
Thành:
1- Nẻo vào phân tâm học, ĐH
Minh Đức, 1973; 2- Đưồng
vào nội tâm, Tình Người, Lausanne, 1997.
66. Vạn Xuân, tr.
185, 187.
67. Vạn Xuân, tr.
142, 190.
68. Vạn Xuân, tr.
992
69. Vạn Xuân, tr.
991.
72. Trần Huy Liệu, Sđd. tr. 30-34.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét