Lời mở đường
Nguyễn Trãi và Lê Lợi
Suốt gần mười năm kháng
chiến chống quân Minh ngoại xâm (1417-1427) hai tên tuổi Nguyễn Trãi và Lê Lợi
đã gắn bó mật thiết với nhau như hình và bóng. Nhờ vậy, hai nhân vật lịch sử có
tầm cỡ nầy đã làm nên đại sự cho Đất Nước Đại Việt, thời ấy: xua đuổi quân Minh
lui về đất nước của mình, thu hồi hòa bình và chủ quyền cho quê hương, sau hai
mươi năm bị chiếm đóng và đô hộ một cách tàn ác và dã man.
Bài Bình Ngô Đại cáo của
Nguyễn Trãi đã ghi lại một vài chiến công oai hùng và oanh liệt ấy:
"Dựng gậy làm cờ, dân
chúng bốn phương tụ họp,
"Hòa rượu cùng uống,
binh sĩ một dạ cha con.
"Lấy yếu chống mạnh,
thường đánh bất ngơ;
"Lấy ít địch nhiều,
hay dùng mai phục.
"Rút cuộc, lấy đại
nghĩa mà thắng hung tàn;
"Lấy chí nhân mà thay
cường bạo.
"Trận Bồ Tất như sấm
vang chớp giật,
"Trận Trà Lân như trúc
chẻ tro bay.
"Sĩ khí lại càng thêm
hăng
"Quân thanh càng lừng
lẫy.
"Bọn Trần Trí, Sơn Thọ
nghe tin bở vía,
"Bọn Phương Chính, Lý
An nín thở mong sống tàn.
"Thừa thắng ruổi dài,
Tây Kinh quân ta chiếm lấy;
"Chọn quân thẳng tiến,
Đông Đô đất cũ thu về. (....)
"Xã tắc do đó được
yên.
"Non sông do đó đổi
mới.
"Càn khôn đã bĩ mà lại
thái.
"Trời trăng đã mờ mà
lại trong.
"Để mở nền thái bình
muôn thuở.
Thế nhưng, từ năm 1428 trở
về sau, khi đất nước đã sạch bóng quân thù và Lê Lợi đã trở thành Vua Lê Thái
Tổ, lòng người bắt đầu thay đổi. Quan hệ giữa người và người bị bế tắc và khủng
hoảng.
Hẳn thực mới ngày nào,
Nguyễn Trãi là vị mưu sĩ số một của Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa chống quân
Minh.
• Chung quanh 1417, Nguyễn Trãi đã tìm đến Lỗi Giang, thuộc tỉnh
Thanh Hóa, dâng Bình Ngô sách cho Lê Lợi, thủ lãnh của Nghĩa quân Lam Sơn. Từ
đó, ông luôn luôn được Lê Lợi giữ lại bênh cạnh mình, để bàn mưu tính kế đánh
quân Minh.
• Nhân danh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã thực thi mọi công việc
giao tiếp với quân Minh. Ông đã viết thư cho Sơn Thọ, Phương Chính, Thái Phúc
và Vương Thông là những tướng lãnh đang ở các vị trí chỉ huy khác nhau về phía
địch.
• Cuối năm 1426, Nghĩa quân Lam Sơn vây thành Đông Quan, còn
gọi là Thủ đô Thăng Long. Tại một chòi cao ở Bến Bồ Đề, Lê Lợi ngồi ở tầng thứ
nhất, để chỉ huy các cuộc hành quân của binh sĩ. Trong khi ấy Nguyễn Trãi có mặt
ở tầng thứ hai, để bàn mưu vạch kế. Ai ai cũng thấy: Chỗ nào có Lê Lợi, chỗ ấy
Nguyễn Trãi luôn luôn có mặt một cách trung tín.
• Vào năm 1427, bị dồn vào thế khốn quẩn, Vương Thông đề nghị
giải hòa. Thay vì tận diệt quân Minh để báo thù theo nguyện vọng bình thường và
tự nhiên của tất cả mọi tướng lãnh đang cầm quân, Lê Lợi đã thực thi ý kiến của
Nguyễn Trãi: Cung cấp cho Vương Thông đầy đủ lương thực và thuyền bè, để ông
rút quân về nước, trong trật tự và an bình, trước sự chứng giám và hộ vệ của
đoàn quân Đại Việt.
Vậy cái gì đã thay đổi
trong quan hệ giữa Lê Lợi và Nguyễn Trãi, để hai người không còn nhất tâm, sát
cánh bên nhau như hình và bóng, trên con đường xây dựng đất nước, sau khi hòa
bình được vãn hồi?
Cái gì đã xảy ra thực sự để
Nguyễn Trãi bị "thất sủng", đương khi những nhân vật kém tài, kém đức
như Lê Sát, Lê Vân lại được trọng dụng, nâng lên các chức vị bậc nhất trong
Triều Đình của Lê Lợi?
Lê Lợi đã tỏ ra có khả năng
đại lượng, can đảm và thứ tha đối với những người địch thù, những người nước
ngoài như Vương Thông và toàn bộ các binh sĩ của Ông! Thế nhưng, cũng Lê Lợi ấy
đã có những hành vi bạo động, hẹp hòi, đầy nghi kÿ, khi đưa tay sát hại Trần
Cảo, Trần Nguyên Hản và Phạm Văn Xảo. Đặc biệt hai vị sau là những tướng lãnh
đã nằm gai, nếm mật với mình suốt thời gian kháng chiến. Họ chỉ ôm ấp một điều
là góp tay xây dựng đất nước bên cạnh Lê Lợi. Chính họ từ lúc đầu, đã có mặt
trong ngày tuyên thệ ở Lũng Nhai:
"Chúng tôi (...) tuy
quê quán, họ hàng khác nhau, nhưng đã kết nghĩa anh em (...) thề chết sống đều
phải được cùng nhau, không dám quên lời thề ước".
Phải chăng Lê Lợi cũng đã
có lần khẳng quyết: "Ta sở dĩ cất quân đánh giặc không phải là có lòng
tham lam phú quý, chỉ là muốn cho người ngàn năm về sau biết ta không chịu làm
tôi giặc tàn ngược thôi" 2.
Vậy trong thực tế, việc gì
đã xảy ra không cho phép Nguyễn Trãi và Lê Lợi tiếp tục Nhất tâm trên con đường
xây dựng đất nước và làm đẹp quê hương? Nhằm khai sáng một phần nào câu hỏi
phức tạp nầy, tôi muốn mở ra lại hồ sơ về quan hệ giữa Nguyễn Trãi và Lê Lợi.
Hiểu được những gì đã xảy ra
giữa hai nhân vật nầy, cách đây hơn năm thế kỷ, chúng ta sẽ hiểu được những gì
đang xảy ra ngày hôm nay trong chúng ta và giữa chúng ta, khi hai người bắt đầu
chung sống, hoặc làm việc với nhau.
Bao lâu chúng ta chưa thực
hiện công cuộc nhận diện và đối diện với chính mình, một cách can trường, chân
thành và sáng suốt; chúng ta còn dò dẫm trong đêm tối. Chúng ta chưa biết mình
là ai! Động lực nào đang chi phối toàn diện cuộc sống của chúng ta trong mạng
lưới quan hệ chằng chịt, ở giữa cộng đồng quê hương và dân tộc. Nói cách khác,
chúng ta đang làm Người hay làm Ngợm, trong bao nhiêu tác phong, ngôn ngữ và dự
án của chúng ta? Anh chị em đồng bào - trong đó có những thành viên thấp cổ bé
miệng - là những "con người" thực sự và trọn vẹn, đáng được chúng ta trân
trọng và phục vụ? Hay ngược lại, họ chỉ là công cụ, đồ vật nhằm thỏa mãn mọi ý
đồ và dục vọng của chúng ta?
Theo khoa học Tâm lý xã hội
đương đại, bao lâu chúng ta không tìm cách đánh sáng ý thức về mình và về người
khác, cuộc sống chung, thuộc bất cứ địa hạt nào, sẽ có nguy cơ trở thành một
trò chơi quyền lực, trong mọi quan hệ tiếp xúc hằng ngày; thậm chí giữa vợ và
chồng, cha mẹ và con cái, hay là giữa những người đã thề nguyền sống chết
"có nhau, vì nhau".
Nhằm khai sáng bao nhiêu
vấn đề phức tạp ấy, đã có mặt trong quan hệ giữa Nguyễn Trãi và Lê Lợi, cũng
như hiện đang xảy ra giữa chúng ta, cuốn sách nầy sẽ trình bày và giới thiệu
một cách chi tiết "Sách Lược Tâm Công của Nguyễn Trãi". Đây là một
cống hiến lớn lao nhằm xây dựng đất nước và con người Việt Nam, đã có mặt vào
đầu thế kỷ 15 và vẫn có giá trị trong thời đại ngày hôm nay.
Chương một: Định
nghĩa kế hoạch "Tâm Công" với bảy động tác cụ thể. Đây là bảy bước đi
lên thuộc tầm tay và khả năng của mỗi người.
Chương hai: Gợi lại
những giai đoạn thành hình của "Tâm Công" trong cuộc đời của Nguyễn
Trãi, ở vào một giai đoạn lịch sử của Đất Nước bị quân Minh đô hộ.
Chương ba: Đề nghị
mang vào cuộc sống hằng ngày "sách lược Tâm Công" của Nguyễn Trãi.
Lúc bấy giờ mỗi người trong chúng ta sẽ tìm ra con đường hóa giải hận thù thành
tình thương, trong quan hệ tiếp xúc, trao đổi với anh chị em đồng bào.
Chương bốn: Nhấn mạnh
thêm rằng trong đời sống cá nhân của mỗi người, cũng như trên bình diện của
toàn thể đất nước, khi một nhu cầu tình cảm bị "thương tổn" hay là
"thiến hoạn", nghĩa là khi tình thương không được vun trồng chăm bón,
khi tâm lòng không có mặt, không phải là động cơ thúc đẩy mọi hoạt động, tai
họa giáng xuống trên cuộc đời bằng cách nầy hay cách khác. Tai họa ấy là
"hai không, bốn họa" có nghĩa là mênh mông, dai dẳng.
Cho nên, trong từng hoàn
cảnh, "Tâm Công" nhắn nhủ mỗi người: Hãy mang đến cho nhau một tấm
lòng. Không có cách xây dựng đất nước nào hữu hiệu và cơ bản cho bằng cách trao
cho nhau một tấm lòng đầy yêu thương và tha thứ.
Hẳn thực, khi có một vấn đề
bế tắc hoặc xung đột, chúng ta đứng ở ngoài nhìn vào thường có xu thế quy lỗi
cho người nầy và bênh vực người kia. Thực ra, cả hai người, hoặc hai phe đều có
những hạn chế trong lề lối nhận thức. Họ đều là nạn nhân. Họ bị lèo lái như con
múa rối. Thay vì ngồi lại, nói chuyện, trao đổi... họ lẫn tránh nhau. Thay vì
tìm hiểu, họ tố cáo nhau.
Đến một lúc họ bị tràn ngập
trong khổ đau, nghi kÿ, bất mãn, giận hờn... Như nước vỡ bờ, họ bị xô đẩy vào
con đường bạo động. Và khi tìm cách hủy diệt người khác, chúng ta tự hủy mình.
Làm sao còn tư cách làm người, khi chúng ta không cho phép kẻ khác làm người?
Bao nhiêu phân tích và nhận
xét ấy, nhất là khi được áp dụng vào cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, sẽ
cho chúng ta thấy rõ: Nguyễn Trãi đã cống hiến cho Đất Nước và anh chị em đồng
bào một tấm lòng. Dù có bao la, trọng đại đến mức độ nào chăng nữa, tấm lòng
của Nguyễn Trãi vẫn có những giới hạn, những tồn tại. Nguyễn Trãi đã thành tựu
với Lê Lợi. Nhưng đã thất bại với Lê Thái Tổ.
Từ đó, chúng ta có thể rút
tỉa và chắt lọc nhiều bài học và kinh nghiệm quí hóa cho bản thân và cuộc đời.
Trong chiều hướng nầy, mọi thất bại hoặc sai lầm, cho dù ở đâu, với ai, thuộc
hoàn cảnh và thời đại nào, đều có thể trở nên cho chúng ta những yếu tố hồi
dưỡng, những của ăn bồi đắp, hàn gắn, điều hợp trên tiến trình làm người.
Một cách đặc biệt, những gì
Nguyễn Trãi đã thất bại, chúng ta sẽ tôi luyện để thành công. Những gì Nguyễn
Trãi đã bắt đầu, chúng ta tiếp nối, bổ túc và kiện toàn. Những gì làm nên bóng
tối trong con người và cuộc đời Nguyễn Trãi, chúng ta sẽ học tập để ngày ngày
thanh luyện và hóa giải. Chúng ta sẽ là những tia nắng báo hiệu một bình minh
huy hoàng.
Trong phần kết luận mang
tựa đề: "Một tấm lòng vạn xuân", tôi muốn ghi nhận bài học hay là lời
nhắn gởi của Nguyễn Trãi: khi chúng ta mở ra một tấm lòng cho con cái và tất cả
những ai tiếp xúc với chúng ta, chúng ta đang mở ra những con đường Vạn xuân,
có nghĩa là bất diệt, bất tử. Với cách làm ấy, chúng ta xây dựng một đất nước
vạn xuân và sống trên Đất Nước Vạn Xuân, trách nhiệm văn hóa của mỗi người là
ngày ngày:
"Mở rộng cửa Nhân, chờ
khách tới;
Mặc dù trong hiện tại, đất
nước vẫn còn la:
"Góc thành Nam lều một
gian,
"No nước uống, thiếu
cơm ăn.
"Con đòi trốn, dễ ai
quyến,
"Bà ngựa già thiếu kẻ
chăn.
"Ao bởi hẹp hòi, khôn
thả cá,
"Nhà quen xuế xóa ngại
nuôi vằn.
"Triều quan chẳng
phải, ẩn chẳng phải,
Chương một
Sách lược
"Tâm Công"
Nhằm tập
hợp lòng người
Từ 1950, nhiều tác giả đã
viết về Nguyễn Trãi. Ai ai cũng đều ca tụng danh nhân nầy như một con người lỗi
lạc, xuất chúng ở mọi mặt: Văn chương cũng như chiến lược, đạo đức cũng như
ngoại giao...
Đối với Võ Văn Ái, Nguyễn
Trãi trước tất cả và trên tất cả là một "Thiền sư chứng ngộ". Cùng
với Lê Lợi, trên chiến trường đánh Quân Minh, ông có khả năng "biến chữ ra
người, ra sóng thần, ra hương, ra mật, nhưng cũng ra gươm, ra lệnh (...). Mỗi
lời, mỗi ý, mỗi câu, mỗi bức thư của Ông là một lần khai thị. Nó xoáy động tâm
tư kẻ đọc. Nó làm cho họ thao thức, khắc khoải, so đo, dao động. Nó làm cho
người đọc tỉnh thức. Họ được khai thị. Họ được vén màn khái niệm đã che mờ thực
tại tự bấy lâu" 5.
Qua tác phẩm của Trần Huy
Liệu, Nguyễn Trãi nổi bật lên như "người có tài cao, chí lớn vào bậc nhất
trong lịch sử Việt Nam". Hơn nữa, Nguyễn Trãi cũng được coi là "người
có đạo đức lớn" 6.
Trước bao nhiêu thử thách và gian khổ, Ông luôn luôn là người "bần tiện
bất năng di, uy vũ bất năng khuất" có nghĩa là: gặp nghèo hèn, vẫn can
trường đứng thẳng, không thay đổi, xoay chiều. Trước sự đe dọa của uy quyền và
vũ khí, Ông không hề chịu khuất phục, chấp nhận làm tay sai cho ngoại nhân xâm
lược.
Với hai tác phẩm 7,
Bùi Văn Nguyên trình bày nhiều tin tức mới lạ, độc đáo làm cho Nguyễn Trãi sáng
rực lên như "Ánh sao Khuê". Trong tất cả sự nghiệp văn chương của Ông
- Chiến đấu kiên cường cũng như trữ tình thâm thúy - người, vật và đất nước
luôn luôn có quan hệ mật thiết, giao thoa thực sự với nhau. Và trong suốt đời,
lúc làm quan ở Triều đình cũng như khi về ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi là
"một người sống bình dị, vui hưởng cuộc đời thanh bạch". Nói đến
Nguyễn Trãi là nói đến "một tấm lòng vì nước, vì dân". Tấm lòng ấy
cần được tiếp nối và kiện toàn để trở nên vạn xuân và đại việt trong cuộc đời
của chúng ta. Vạn xuân, trong lăng kính nầy, có ý nghĩa là bất tử, bất diệt,
trường tồn. Đại việt, trái lại, là khả năng vượt thắng chính mình, để ngày ngày
vươn lên tới một cuộc sống vĩ đại và cao cả, theo chí hướng văn hóa do tổ tiên
cha ông đề ra, từ đời Lạc Long Quân và trối trăn lại cho con cháu và các thế hệ
về sau.
Vượt trên tất cả, theo
thiển ý của tôi, là tác phẩm trường thiên tiểu thuyết về Nguyễn Trãi, mang tên
là Vạn xuân, của nữ văn sĩ người Pháp Y. Feray, do Nguyễn Khắc Dương chuyển
dịch ra tiếng Việt. Thể theo quan điểm của tác giả, Nguyễn Trãi "vừa là
một thi hào, một nhà viết văn cừ khôi, vừa là một chiến lược gia có tầm mắt
viễn thấu, một nhà ngoại giao tài tình, một nhạc sĩ lịch lãm, một nhà địa lý
thông thái và là một nhà sư phạm tuyệt vời" 8.
Tuy nhiên cuộc đời của Nguyễn Trãi cũng là một tấn bi kịch đầy xót xa và thương
đau. Phải chăng đó là tấn bi kịch của một vĩ nhân sinh ra trong một xã hội với
lòng người còn quá hẹp hòi và bé nhỏ?
Nói khác đi, phải chăng
Nguyễn Trãi là người yêu nước vĩ đại bị dày vò ngay trong chính quê hương của
mình, theo cách nhận định của nhà đông học E. Gaspardonne? 9 "Bị
dày vò" có nghĩa là bị bấn nát, điêu đứng, tiêu điều. Tôi sợ rằng: lối nói
nầy có vẻ hơi quá đáng. Tuy nhiên, trong quá trình văn hóa của Cộng đồng và dân
tộc Việt Nam nhiều sự cố đau buồn đã và đang làm cho Nguyễn Trãi và tất cả
chúng ta thao thức, trăn trở. Mỗi triều đại, mỗi chính thể, từ trước cho tới
nay, luôn luôn bắt đầu bằng một vụ tàn sát, thanh trừng, đổ máu. Phải chăng Tể
Tướng Trần Thủ Độ - vị đại công thần khai nguyên Nhà Trần - đã chôn sống tất cả
những anh em bà con họ Lý trong hoàng tộc? Và ra lệnh cho những ai mang danh họ
Lý phải đổi ra họ Nguyễn?
Sau nhà Trần, với Hồ Quí
Ly, vòng luân hồi vẫn tiếp diễn. Sau khi cưỡng bức hoàng đế Trần Thuận Tông
nhường ngôi, Ông đã sai người tới thắt cổ nhà vua. Đồng thời, Ông loại trừ cùng
một lúc 370 vị quan trung thành với triều đại cũ.
Trong quá khứ gần và xa,
thay vì lãnh đạo đất nước, nhiều người trong cha ông chúng ta muốn làm công
việc "Nhổ cỏ". Đối với họ, nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Thà giết lầm
người anh em, hơn là để kẻ thù sống sót! Rốt cuộc, với não trạng
hận thù, thủ tiêu và bạo động, luôn luôn ám ảnh, trong bao nhiêu người trước
kia là anh chị em, cuối cùng không còn ai là anh chị em. Mọi người đã trở thành
kẻ thù. Không ai còn mang tính người, trong lối nhìn và cách thuyên giải của
chúng ta! Họ đã hóa thành một đồ vật. Một loại người bị tước đoạt tính người.
Với sách lược "Tâm
Công", Nguyễn Trãi đi lại, lấy lại, sáng tạo lại con đường văn hóa của Lạc
Long Quân. Mặc dù mang trong mình dòng máu của Rồng và nơi ở của Mình là Nước,
Lạc Long Quân đã kết duyên với Âu Cơ. Bà thuộc dòng máu của Tiên. Quê hương của
Mẹ là Đỉnh núi và Trời cao. Mặc dù khác biệt nhau như trời và nước, hai người
đã tạo thành hôn phối ; sinh ra một trăm đứa con chia sẻ cùng nhau một bọc
trứng duy nhất. Cho nên, họ gọi nhau là anh chị em "đồng bào", ruột
thịt. Quê hương của họ, do Cha Mẹ trối lại, mang tên là Non Nước; Núi Sông.
Vừa cương trực, hướng thượng, hiền trí như Núi. Vừa bao dung linh hoạt, kiên
trì, có khả năng đồng hóa tất cả, như nước. Phải chăng hai tư cách làm người ấy
diễn tả bản sắc, gốc gác của người Việt Nam?
Câu chuyện huyền sử nầy,
theo ngôn ngữ của Thiền học Phật giáo được gọi là một công án, do tổ tiên trối
trăn lại cho con cái , cháu chắt và các thế hệ tương lai. Tháo mở được công án
nầy, phát hiện nhiều tầng lớp ý nghĩa khác nhau đang được cưu mang ấp ủ ở bên
dưới, người Việt Nam sẽ "ngộ" nghĩa là thấy được con đường "làm
người" là gì, thể thức xây dựng đất nước bắt đầu từ đâu... Trong chiều
hướng và ý nghĩa ấy, công án không phải là một bài tính đố, chúng ta có thể
giải quyết bằng lý trí thuần đơn hoặc bằng mưu lược, ý đồ hay là ý thức hệ.
Trái lại, đó là một "tư cách làm người", chúng ta cần đầu tư với tất
cả "tấm lòng" vừa có tình vừa có lý. Vừa sáng tạo trong cô đơn thầm
lặng, vừa không ngừng chia sẻ và đồng hành với tất cả những ai đang làm người,
mặc dù họ đang thuộc phe bên kia, đang đứng ở trên một chiến tuyến thù địch,
xâm lược và thực dân.
Những ý hướng làm người ấy
sẽ được Nguyễn Trãi tô đậm một cách khéo léo trong sách lược Tâm Công của mình.
"Tâm Công" được
thành hình trong hoàn cảnh nào?
Tâm công có nghĩa là đánh
vào lòng người, thu phục nhân tâm.
Theo tác phẩm Vạn Xuân của
Y. Feray, sách lược "Tâm công" được Nguyễn Trãi trình bày lần đầu
tiên cho các quan chức của Triều đình Hồ Quí Ly, khi hiểm họa xâm lược của quân
Minh đã bắt đầu truyền đạt khắp nơi, trong các lớp quần chúng ở Thủ đô Thăng
Long 10.
"Vấn đề tiên quyết mà
tình thế rối ren hiện tại đặt ra là: làm sao để vũ trang cho đất nước, tăng
cường khả năng bảo vệ non sông?
Sự đe dọa bên ngoài càng
khẩn cấp thì càng đòi hỏi phải có sự trị an ở bên trong lãnh thổ của chúng ta.
Nếu toàn dân đoàn kết lại chung quanh Hoàng Thượng, làm thành như chỉ một gia
đình, nếu các tướng sĩ và binh lính hiệp nhất với nhau như cha con thì dẫu quân
thù có đông hơn ta hàng ngàn lần, có vũ trang hơn chúng ta mười lần, chúng ta
cũng không sợ. (...)
Quân đội mạnh hay yếu không
tùy thuộc ở nơi quân số chút nào cả, mà bắt nguồn từ những đức tính cao cả nầy:
đó là hai chữ Nhân, Nghĩa. (...)
Ai có lòng nhân, người đó
có thể dựa trên chính sự yếu đuối của mình để chinh phục sức mạnh. Ai vì đại
nghĩa, người ấy có thể lấy ít chọi nhiều".
Để thực hiện công việc trị
an và xây đắp sức mạnh cho quê hương, thể theo niềm xác tín của Nguyễn Trãi,
ngoài con đường áp dụng công bằng và công lý trong mọi tầng lớp của xã hội,
không có một chọn lựa thứ hai!
Làm sao có công bằng, khi
người dân đen đang còn bị áp bức, bốc lột tận xương tủy của mình?
Làm sao có công bằng, khi
người dân đen chưa kiếm được mỗi ngày một bữa cơm, đang lúc kẻ khác sống thừa
thải trên nhung lụa, gửi vàng và mỹ kim vào ngân hàng ở nước ngoài?
Chúng ta huấn luyện cả một
đạo quân công an hùng hậu, có mặt ở khắp nơi, để truy nả kẻ phản loạn, săn bắt
những trẻ em cướp giật, chặt đầu, chặt tay những người buôn lậu xì ke, ma túy... Nhưng chúng ta đã làm gì thoa dịu nỗi bất hạnh tột cùng của người dân đen?
Nghèo khó, bất công mới là gốc rễ của tai họa đang lan tràn, hoành hành!
Căn bản của vấn đề không phải là giảm trừ hậu quả. Nhưng là đối diện,
nhìn thẳng mặt, không tránh né, đánh trống lãng trước hiện trạng nghèo khổ và
bất công lan tràn khắp mọi nơi trong xã hội, trên đất nước chúng ta. Khi chúng
ta giết xong một Tú Bà, bao nhiêu Tú Bà khác sẽ vùng dậy đàn áp nàng Kiều còn
khắc nghiệt hơn. Lãnh đạo đất nước là xây dựng con người, tạo ra mọi cơ hội
thuận tiện như công ăn, việc làm, để mỗi người có khả năng làm người,
có quyền làm người, hãnh diện về tư cách làm người. Lúc bấy giờ cả một tập đoàn
Mã Giám Sinh, Tú Bà không còn lý do tồn tại, như Đoạn Trường Tân Thanh của
Nguyễn Du đã phát hiện và mô tả.
Xây dựng, tôn trọng và phục
vụ con người trong mỗi người dân, thuộc mọi tầng lớp, nhất là nơi những người
thấp cổ bé miệng, đó là ý nghĩa sâu xa của kế hoạch "Tâm Công" trong
tinh thần và lối nhìn của Nguyễn Trãi. Chỉ với điều kiện nầy, toàn dân mới đứng
lên, nhất tâm, muôn người như một, để đối đầu với quân xâm lăng và bảo vệ đất
nước được kiến dựng bằng máu và nước mắt từ đời Hồng Bàng.
Nói cách khác, theo lời lẽ của
Bình Ngô Đại Cáo, Tâm Công là "lấy Đại nghĩa mà thắng hung tàn; lấy chí
nhân mà thay cường bạo". Khi chưa có đại nghĩa hay là công lý trong lòng
của quê hương, đất nước, tình trạng hung tàn đang ngự trị giữa lòng của người
dân Đại Việt. Khi chưa sống tình người, với từng người trong xã hội cùng mang
một dòng máu Tiên Rồng, chúng ta đang loại trừ và tàn sát lẫn nhau. Trong tình
thế "gà một nhà bôi mặt đá nhau", làm sao chúng ta có thể ngăn chận
làn sóng bạo động của quân Minh, từ phương Bắc, từ người nước ngoài?
Chính vì những lý do đó,
sau 7 năm hoạt động mà "không kết hợp được lòng người", triều đại của
Hồ Quí Ly đã tan vỡ thành mảnh vụn, một cách nhanh chóng, năm 1407, trước làn
sóng xâm lăng ồ ạt của Phương Bắc.
Sau đó, trong vòng 10 năm,
từ 1407 đến 1417, những tàn tích của nhà Trần chỉ lo vớt vát, cứu vãn gia đình,
dòng họ mình. Không một ai có khả năng qui tụ, kết hợp quần chúng thuộc mọi
tầng lớp. Trần Nguyệt Hồ vào cuối thu 1407, Trần Nguyên Khoáng và Trần Ngỗi vào
đầu năm 1408 đã đứng dậy chống quân Minh. Sau một vài chiến công lẻ tẻ, nghĩa
quân vì không được thống nhất, không còn có khả năng đương đầu, chống cự. Chung
quanh 1417, với 5 vạn quân cầu viện, do triều đình Minh Thành Tổ gửi sang,
Trương Phụ đã bắt đầu củng cố và ổn định việc tổ chức, áp đặt chính quyền đô hộ
trên đất nước Đại Việt.
Bảy động tác cụ thể của
"Tâm Công"
Để sách lược "Tâm
Công" của Nguyễn Trãi không phải chỉ là lời nói hoa mỹ, một cấu trúc lý
thuyết thuần đơn hay tệ hơn nữa là một ý thức hệ, một giáo điều khô cằn, chỉ
nhằm tuyên truyền, quảng cáo một chính thể hay một tôn giáo, chúng ta cần tìm
ra những động tác cụ thể và khách quan, những "cách làm" hữu hiệu.
Khoa học tâm công bao gồm cả Tâm liền Tài. Tài suông chỉ đẻ ra tai họa. Tâm
thuần đơn, không nhập thân, nhập thể, đó là duy tâm cực đoan, một hình thức
thực dân do thần phật áp đặt từ bên ngoài. Và con người lúc bấy giờ chỉ là nạn
nhân, đồ vật hay là con múa rối. Con người phải là tác giả của đời mình. Giúp
ai thành người là tạo điều kiện để họ làm chủ cuộc đời của mình.
Trong tinh thần và ý nghĩa
như vậy, tâm công là một tiến trình văn hóa bao gồm những động tác, những qui
luật tất yếu sau đây:
Động tác thứ nhất thuộc
sách lược "Chinh phục lòng người" là không ngừng sáng tạo. Trong một
quê hương đất nước, mọi người, cho dù khác biệt nhau ở nhiều bình diện, đều là
anh chị em đồng bào có những đặc ân, đặc quyền giống nhau. Không một ai là chủ
nhân ông, có quyền đối xử người khác như một tên nô lệ chỉ có bổn phận tùng
phục, thừa hành. Bao lâu chưa có viên đá tảng nầy làm nền móng, trong mọi công
cuộc xây dựng đất nước và phục vụ anh chị em đồng bào; tất cả những điều kiện
còn lại đều là láo khoét, bịp bợp, "treo đầu heo bán thịt chó", như
người bình dân thường bảo nhau. Trái lại, khi nắm vững nguyên tắc "mọi
người có quyền làm người và có quyền được cư xử, đải ngộ như một con người toàn
phần", chúng ta sẽ sáng tạo để chuyển biến lối nhìn ấy thành hành động cụ
thể trong cuộc sống hằng ngày. Khi sáng tạo như vậy, chúng ta thích ứng với
thực tế và thực tại cụ thể.
Động tác thứ hai là kết hợp
một cách hài hòa bên trong và bên ngoài hay là tâm và thân. Khi có
bên trong mà không có bên ngoài, chúng ta chỉ là hồn ma phiêu bạt, lang thang,
vô gia đình, vô tổ quốc. Khi có ngoài mà bên trong trống rỗng, đó là "con
nộm đa ngôn hay là con múa rối."
Là con người thực sự và
trọn vẹn, chúng ta có khả năng quyết định, chọn lựa, động viên chính mình. Khi
"bị chỉ đạo từ bên trên, bên ngoài và bên dưới, chúng ta sẽ biến thân
thành đồ vật, dụng cụ trong bàn tay lèo lái, sai sử của kẻ khác. Nếu người chỉ
đạo từ bên trên là thần phật, người bị chỉ đạo sẽ là tín đồ mê tín, dị đoan.
Nếu chỉ đạo là người ở ngoài, chúng ta sẽ là những bồi bút. Nếu bị chỉ đạo bằng
những năng lực vô thức như dục vọng tham, sân, si... Chúng ta chưa làm người,
chúng ta còn bị ngụp lặn trong ngục tù của khổ đau. Chúng ta đang sống trong
tình trạng làm nạn nhân cho những đối lực mà chúng ta không biết, không dám
nhìn tận mắt và gọi tên. Đó là vô thức, theo thuật ngữ của Phân tâm học.
Động tác thứ ba là khả năng
sắp xếp điều gì là hành động từng ngày, điều gì thuộc mục tiêu ngắn và dài hạn,
điều gì là viễn ảnh, viễn tượng lớn lao và lâu dài còn được gọi là mục đích tối
hậu, lý tưởng của cuộc sống làm người.
Vào những năm 1950, bao
nhiêu thuộc địa của Pháp và Anh, ở Phi và ở Á Châu, gần như đồng loạt nổi dậy
đánh đuổi thực dân xâm lược. Sau khi mục tiêu được thành đạt, với bạo động và
bom đạn; rất nhiều xứ sở không biết phải đi về đâu, ý nghĩa cần đeo đuổi gồm
có những bước đi lên như thế nào. Quen máu bạo động, họ tiếp tục sử dụng bạo
động với người đồng chí, đồng hương. Sau khi đuổi Pháp, họ thanh trừng những
người theo Tôn giáo của các vị thừa sai Pháp. Rốt cục, sau chiến tranh giải
phóng đất nước, họ nhảy qua chiến tranh diệt chủng, hay là chống tôn giáo.
Theo St. Covey, "phải
đặt lên hàng đầu, cái gì là ưu tiên số một" (first things first) 11.
Trong lối nhìn Tâm Công, do Nguyễn Trãi trình bày trước hội nghị Triều đình của
Hồ Quí Ly, thực hiện công bằng và mang lại cho quần chúng dân đen một mức độ ấm
no tối thiểu cần thiết, là hai ưu tiên số một cần thực hiện trong nỗ lực
"đánh vào lòng người" để ngăn chận hữu hiệu làn sóng xâm lăng của
ngoại bang từ Minh triều.
Khi có một thứ tự rõ ràng
trong nội tâm như vậy, theo Nguyễn Trãi, chúng ta sẽ có khả năng "dừng
lại" khi nào cần dừng lại. Ví dụ, khi đã sử dụng bạo động "một cách
chính đáng" để bảo vệ đất nước và chủ quyền của Đại Việt, chúng ta biết
dừng lại (an nhữ chỉ) khi bạo động không còn cần thiết. Dừng lại như vậy không
có nghĩa là bất động, nhưng là trở lui ở vị trí và việc làm xứng hợp nhất với
cương vị và tư cách của mình (theo lối nói "chỉ ư chí thiện" của sách
Đại Học) 12.
Nói khác đi, bạo động chỉ là phương tiện cực chẳng đả, đối với những ai có tư
cách làm người, sống tình người. Bản sắc đích thực của họ là tôn trọng tính
người. Thực hiện nhân đạo, nhân nghĩa là nơi nhắm tới, là cùng đích làm cho họ
phát huy mọi chiều kích tâm linh của mình.
Động tác thứ bốn trong sách
lược Tâm Công là lắng nghe người đối diện, bất kể họ là ai, thuộc thành phần
hoặc giai cấp nào trong xã hội. Lắng nghe để tìm hiểu và
nhìn nhận tính khác biệt và độc đáo của họ. Thay vì áp đặt cho họ ý kiến, lập
trường và thể thức hành động của chúng ta. Khi lắng nghe thực sự và trọn vẹn,
chúng ta tôn trọng chủ quyền của họ : chính họ mới là tác giả đầu tiên và cuối
cùng của cuộc đời họ. Với chức vụ lãnh đạo, dù ở cấp bậc, lớn lao đến độ nào
trong hệ thống tổ chức xã hội, chúng ta chỉ làm công việc "hộ sinh",
nghĩa là tạo điều kiện thuận lợi cho phép họ thành người. Chúng ta không thể
làm người thay thế họ. Bao lâu người dân không đảm nhận trách vụ "yêu
nước, bảo vệ non sông", không ai có thể ép buộc họ. Với những áp lực
"súng ống, chỉ tiêu lương thực, trại cải tạo...." chúng ta càng gia
trọng sức ù lì và phản kháng mà thôi.
Trong địa hạt giáo dục
thuộc xã hội ngày hôm nay, hiện tượng thanh thiếu niên bỏ nhà ra đi lập băng
đảng cướp giật, hút xách càng ngày càng lan tràn. Một trong những lý do chủ yếu
là vì chúng nó không được cha mẹ, thầy cô lắng nghe.
Ý nghĩa thứ nhất của lắng
nghe, như tôi đã trình bày trên đây, là tôn trọng chủ quyền và tính khác biệt
của người mà chúng ta lắng nghe.
Ý nghĩa thứ hai của lắng
nghe là, chấp nhận, đón nhận và nhìn nhận nhu cầu của người phát biểu, diễn
tả. Nhu cầu nói ra những gì được cưu mang ấp ủ trong nội tâm đồng hóa
với nhu cầu làm người.
Để lãnh hội một cách
rốt ráo hai ý nghĩa nầy, chúng ta cần khảo sát hai cách hành xử và đãi ngộ của
chúng ta đối với người mà chúng ta đang tiếp xúc và trao đổi.
Thứ nhất là ghi nhận, nhấn
mạnh những thiếu sót của người ấy trong tình thế hiện tại. Lẽ tất nhiên, càng
quét nhà, chúng ta càng đào ra rác. Khi có ý định tìm ra những khuyết điểm nơi
người khác, thế nào chúng ta cũng sẽ thấy nơi họ điều ấy sẽ xảy ra bằng cách
nầy hay cách khác.
Thứ hai là cử xử và đãi ngộ
người ấy theo tiêu chuẩn dự phóng cho tương lai mong muốn của người ấy. Nếu
người Mẹ cư xử với con như một người có giá trị, nó sẽ thành người "trưởng
thành" theo cấp độ phát triển của nó. Nếu trong lối nhìn của người lãnh
đạo, người dân đen chỉ là nô lệ hay là công cụ; người lãnh đạo trong lời ăn
tiếng nói của mình sẽ tạo ra những lớp người nô lệ, thay vì coi trọng họ như
một thành viên đồng hành và hợp tác với mình, trong cộng đồng đất nước. Theo
tục ngữ của người Việt Nam "Yêu nên tốt, ghét nên xấu". Hẳn thực, khi
ai được thương, người ấy sẽ dần dần trở nên dễ thương. Và khi ai bị ghét, dần
dần họ trở thành con người dễ ghét.
Về mặt kỹ thuật, để hiểu rõ
chúng ta thực thi những động tác nào khi lắng nghe, chúng ta cần phân biệt minh
thị bốn địa hạt của nội tâm sau đây:
Thứ nhất khi kẻ khác ghi
nhận những tin tức hoặc sự kiện khách quan, chúng ta yêu cầu họ hai điều: kiểm
chứng bằng cách xác định những câu hỏi nhằm môi trường hóa tin tức: ai, ở đâu,
khi nào, thế nào, bao lâu... Sau đó bổ túc những tin tức
thiếu sót, bằng cách yêu cầu họ đặt mình vào một vị trí khác và lối nhìn khác... Ví dụ, khi Hoàng Phúc trình bày nhân nghĩa theo quan niệm của Minh Triều,
Nguyễn Trãi đã gây ý thức cho vị tướng lãnh nầy về lũy tre xanh, về đồng lúa,
về núi non của người Đại Việt... Không chấp nhận người Đại Việt có chủ quyền
trên nước non của mình, quân Minh còn nhân nghĩa hay không?
Thứ hai là lề lối thuyên
giải hay là cách trình bày về ý nghĩa của cuộc sống. Trong
lãnh vực nầy, không một ai có thể tranh giành cho mình toàn quyền về chân lý,
sự thật. Và tuyên bố một cách đơn phương rằng: kẻ khác lầm lạc, kẻ khác có ý
đồ đen tối hay là kẻ khác có lỗi, họ là nguyên nhân gây ra mọi tai ương hoạn
nạn, còn tôi là người hoàn toàn trong trắng và vô tội.
Khi nuôi dưỡng ấp ủ những
tư tưởng nhị nguyên nầy trong thâm sâu của nội tâm, vô tình hay hữu ý chúng ta
đang là tên thực dân, xâm lăng, xâm lược quyền làm người của kẻ khác đang sống
hai bên cạnh. Trong lăng kính và ý nghĩa nầy, theo tâm lý học đương đại, nhất
là khoa phân tâm của Freud, đôi khi chính cha mẹ là người "thực dân"
đối với con cái của mình, khi họ quá đàn áp và hạn chế sức sống hồn nhiên và tự
phát của chúng. E. Berne với phương pháp "Phân tích những trao đổi"
(Analyse transactionnelle, thường thường được viết tắt là ẠT.), cũng đưa ra
những kết luận tương tự. Trong quan hệ giáo dục, nếu cha mẹ quá độc tài hay là
quá bao cấp, đứa con sẽ dần dần biến thân thành phản động hay là lệ thuộc 13.
Thứ ba, khi kẻ khác diễn tả
tình cảm và xúc động của mình, như buồn, sợ, tức giận, đau khổ... Phương
pháp Tâm Công của Nguyễn Trãi yêu cầu chúng ta thực thi bốn giai đoạn cụ thể:
1.- Nêu ra sự kiện khách
quan, có phần vụ dẫn khởi khai chuyển hơn là làm nguyên nhân phát sinh xúc động
và tình cảm. Theo ngôn ngữ của tâm lý phật giáo, còn mang tên là Duy thức học,
những yếu tố dẫn khởi ấy chỉ là "duyên" như nước tưới, đất mầu, khí
thở và ánh sáng giúp cho cỏ cây có điều kiện lớn lên, đâm chồi nẩy lộc. Nhưng
đó không phải là "Nhân", nghĩa là hạt mầm sinh ra cây cối. Hẳn thực,
chính chúng ta là tác giả của cuộc đời chúng ta đang sống.
2.- Phản ảnh nghĩa là
nói lại, vọng lại cho chính chủ nhân diễn tả hiểu rõ, có ý thức về những phản
ứng tâm lý đang xảy ra trong nội tâm của họ.
Theo lời thú nhận của bạn, bạn đang buồn và lo. Có đúng như vậy
không?
Cách phản ảnh tài tình và thích ứng sẽ được ghi nhận, khi người
đối diện tỏ ra đồng ý và đồng thuận với chúng ta. Nhờ đó, họ càng diễn tả
nhiều hơn, dễ dàng hơn và thích hợp với thực tế nội tâm của họ.
3.- Tiếp theo đó, chúng ta phát hiện nhu cầu của chủ nhân diễn
tả. "Theo tôi hiểu, sau khi lắng nghe: bạn đang cần..."
4.- Nhiều khi chúng ta có thể khám phá tức thì ước muốn hay
là lời yêu cầu của họ.
"Qua lời phát biểu, bạn cho tôi thấy: bạn đang ước muốn...
yêu cầu cơ bản của bạn là...
Theo phân tâm học, khi
thuyên giải, tôi chỉ có thể lặp lại hay là bắt chước ý kiến của kẻ khác. Tôi
chọn làm của mình bao nhiêu tin tưởng hay lập trường đã được giao lưu trong môi
trường sinh sống, bằng những phương tiện truyền thông xã hội.
Ngược lại, khi diễn tả xúc
động, tôi mặc khải, bày tỏ thực tế, thực tại chủ quan và độc đácủa tôi. Nhờ đó
kẻ khác có khả năng hiểu tôi và thỏa mãn, đáp ứng nhu cầu của tôi.
Thay vì diễn tả một cách
trung thực, nghĩa là có sao nói vậy, một cách đơn sơ, trực tiếp, nhiều người vì
thiếu tôi luyện và học tập, có xu thế đi vòng vo tam quốc, hay là trình bày
cách úp mở, gián tiếp, còn mang tên là xuyên tạc, bóp méo. Và cách xuyên tạc
thông thường có mặt ở khắp nơi là tố cáo, phê phán, đổ lỗi, mạ lị, tấn công
người khác, thay vì nói lên những nhu cầu thâm sâu và những nguyện vọng thiết
tha của chính mình.
Thậm chí trong điều kiện và
trường hợp xuyên tạc như vậy, những ai có khả năng và kỹ thuật lắng nghe (nghĩa
là vừa có tâm, vừa có tài), người ấy vẫn nhận ra những tình cảm và xúc động của
người đối diện.
"Qua cách hoa tay múa
cánh và nét mặt hung hăng của bạn, tôi thấy bạn đang bực tức giận dữ, phải
không?
- "Tôi cảm nhận rằng
bạn đang có những xúc động mạnh, nhưng chưa biết gọi tên là gì. Bạn có thể
chia sẻ nói cho tôi hiểu rõ thêm về nhu cầu hiện tại của bạn..."
Tâm công chính là công việc
nhận ra, đón nhận, nhìn nhận và coi trọng những nhu cầu tình cảm của người
khác.
Khi coi trọng như vậy,
chúng ta lựa chọn vị trí làm đồng minh, đồng bào. Đồng thời chúng ta sáng suốt
khước từ vị trí và thái độ làm thù nghịch, đối phương. Nhìn nhận và coi trọng
như vậy, trong tiếng Pháp là Valider, nghĩa là đánh giá cao. Xúc động và
tình cảm được coi là một giá trị, chứ không phải là điều xấu hổ cần che giấu.
Khi chúng ta dồn nén, kiểm duyệt, ức chế xúc động, bất kỳ xúc động gì, chúng nó
không biến tan, không bị tiêu diệt. Dưới những bộ mặt ngụy trang, chúng nó xuất
hiện ở chỗ khác và khi ấy khả năng tác hại của chúng nó còn lớn lao hơn trước
và rất khó hóa giải.
Nói tóm lại, khi nhìn nhận
và coi trọng tình cảm và xúc động của ai, chúng ta tạo điều kiện thuận lợi và
tốt hảo cho phép người ấy thành người.
Thêm vào đó, khi những xúc
động mãnh liệt như hận thú, ghen ghét, hiềm khích, nghi kÿ được diễn tả bằng
ngôn ngữ chia sẻ, trao đổi, chúng nó không còn mượn con đường bạo động, đấm đá,
sát hại, thủ tiêu... Bao lâu còn có khả năng nói qua nói lại, trao đổi, chia
sẻ và đối thoại, vấn đề cho dù trầm trọng gây cấn đến đâu cũng có con đường hóa
giải. Theo lối nhìn của G.G. Jampolsky 14,
"No matter what the problem, love is the answer", bất kể vấn đề là
gì, trầm trọng đến đâu chăng nữa, tình thương là câu trả lời. Là cách giải đáp.
Và chỗ nào có tình thương, chỗ ấy không có bạo động. Nguyễn Trãi đã khẳng định
cách đây hơn năm thế kỷ:
"Lấy đại nghĩa mà
thắng hung tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường
bạo".
Nhân nghĩa là gì, nếu không
phải là tình thương, tình người, giữa những người nhìn nhận nhau là Người Đãi
ngộ nhau với tư cách "làm người" ngày ngày đổi mới, đánh sáng không
ngừng, theo lời dạy "nhật nhật tân, hựu nhật tân" của người xưa trối
lại cho chúng ta.
Động tác thứ năm trong sách
lược Tâm Công là xây dựng quan hệ hài hòa, đồng hành và chia sẻ. Giữa ta
và người, không có kẻ thắng người thua. Về mặt tư cách và giá trị làm người,
không có kẻ trên người dưới. Mọi người bình đẳng. Khi phải thuyên giải, nghĩa
là tìm ra ý nghĩa và hướng đi cho cuộc sống làm người và thể thức xây dựng đất
nước, mọi người là thành viên toàn phần trong cộng đồng, đất nước. Ai ai cũng
có tiếng nói. Ai ai cũng có quyền phát biểu. Ai ai cũng có quyền khác biệt. Chỗ
nào có "bá nhân" (một trăm người), chỗ ấy có "bá
tánh" (một trăm ý kiến). Đó là lẽ thường tình và tự nhiên. Đó cũng là qui
luật tất yếu, phải có trong cuộc sống.
Tuy nhiên, khác biệt mà
không khai trừ, loại thải nhau, hay là tranh chấp và xung đột.
Xung đột chỉ xảy ra, khi
não trạng nhị nguyên đàn áp, ức chế quan hệ đồng hành và chia sẻ. Lúc bấy giờ
"lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng". Mỗi người tranh giành cho mình phần
thắng, phần hơn, phần có lý; và tìm cách "hạ bệ" kẻ khác về mặt giá
trị và quyền lợi. Một cách đặc biệt, khi có một vấn đề xảy ra, gây khó khăn cho
cuộc sống, hay là ngăn cản bước tiến của toàn thể cộng đồng, đất nước, quê
hương... Nếu chúng ta mang não trạng nhị nguyên, chúng ta sẽ phân chia anh chị
em đồng bào thành hai phe trắng đen rõ rệt: một phe bạn, một phe thù. Phe bạn
bao gồm những người được chúng ta đánh giá là "yêu nước chân chính".
Phe thù bị qui chụp và kết tội là "bán nước, phản bội, đồi trụy...".
Nếu chúng ta có một lối
nhìn "Tâm Công" giống Nguyễn Trãi, chúng ta sẽ thấy trong một cộng
đồng quê hương, mọi thành phần phía bên này cũng như phía bên kia, người làm
dân cũng như người lãnh đạo, mọi người đều liên đới với nhau, cùng chia sẻ một
trách nhiệm. Ai ai cũng đóng góp phần mình, tùy hoàn cảnh, địa vị và thực tế
của mình.
Ai mất nước khi Quân Minh
xâm lăng Đại Việt? - Toàn dân, toàn quân, từ vua, triều đình đến mỗi người dân
đen vô danh tiểu tốt!
Ai có bổn phận chiến đầu để
thu hồi chủ quyền cho Đại Việt? - Cũng toàn dân, toàn quân!
Trong cuốn tiểu thuyết Vạn
Xuân, những cô gái như Tiểu Mai, Hương Thầm 15 bị
quần chúng "khạc nhổ, khinh thị...". Trong bóng tối, chính họ đã
đóng góp phần mình một cách rất hữu hiệu cho công cuộc kháng chiến. Không
có cái chết của Tiểu Mai, chưa hẳn Nguyễn Trãi đã ra đi, tiếp xúc với nghĩa
quân của Lê Lợi. Không có Hương Thầm can thiệp một cách kín đáo, tế nhị bên
cạnh Hoàng Phúc, vị tướng lãnh của Quân Minh, chắc hẳn Nguyễn Trãi đã chết rũ
tù và Bình Ngô Sách không bao giờ ra đời...
Động tác thứ sáu là gieo
vãi và gặt hái thành quả của cuộc hôn phối âm và dương, nước và non, Tiên và
Rồng, thuyền và nước. Nói cách khác, đó là khả
năng chuyển biến từ không ra có, từ yếu thành mạnh, từ ít ra nhiều. Lối nói
chuyên môn trong tiếng Anh, có khả năng diễn tả động tác nầy, là Synergizing.
Theo cách giải thích của St. Covey, khi biết kết hợp một cách hài hòa hai đối
lực khác biệt nhau, kết quả cụ thể không phải là một tổng số, nhưng là một nhân
số. Một cọng với một, trong ý nghĩa và chiều hướng "Tâm Công", không
phải thành hai, nhưng thành "Vạn Xuân". Khi lấy thương trả lời cho
ghét, khi lấy đoàn kết trả lời cho chia rẽ, khi lấy an hòa trả lời cho bạo
động, khi lấy bao dung trả lời cho kỳ thị, khi lấy vô úy nghĩa là tinh thần bất
khuất trả lời cho bom đạn, súng ống... Chúng ta làm cho anh chị em đồng bào trở
thành bất tử. Chúng ta xây dựng đất nước thành Vạn xuân, một mùa Xuân trường
cửu, bất tận.
Nói tóm lại, sách lược
"Tâm Công" của Nguyễn Trãi đánh sáng và làm mới lại gia tài của Lạc
Long Quân và Bà Âu Cơ. Nếu ý thức được rằng mình đang mang hai dòng máu Tiên và
Rồng, mỗi người Việt Nam sẽ cố quyết trở nên con người trọng đại và cao cả,
đúng như lời thơ của thi sĩ Trụ Vũ:
"Bởi vì mắt thấy Trời
Xanh,
"Cho nên mắt cũng long
lanh màu trời.
"Bởi vì mắt thấy Biển
Khơi,
Động tác thứ bảy là ngày
ngày đánh sáng lại Đức Sáng làm người đã có mặt trong mỗi người. Tâm Công
trong lăng kính ấy, không bao giờ là điểm đến, nhưng là một tiến trình không bao
giờ kết thúc chấm dứt. Tâm Công nói được là một lời thề keo sơn gắn bó giữa
những con người mang nặng Nước và Non trong quả tim của mình, theo như lời nhắn
nhủ của thi sĩ Tản Đà 16:
"Non cao tuổi vẫn chưa
già,
"Non thời nhớ nước,
nước mà quên non.
"Dù cho sông cạn đá
mòn,
"Còn non còn nước hãy
còn thề xưa.
"Non cao đã biết hay
chưa:
"Nước đi ra bể lại mưa
về nguồn.
"Nước non hội ngộ còn
luôn,
"Bảo cho non nhớ có
buồn làm chi.
"Nước kia dù hãy còn
đi.
"Ngàn dâu xanh tốt non
thì cứ vui.
"Nghìn năm giao ước
kết đôi,
"Non non nước nước
không nguôi lời thề".
Chú thích:
- Con đòi: Ngưồi
giúp việc.
- Quyến: Thu
hút, cám dỗ, rủ rê, làm lung lạc.
- Xuế xoá: qua
loa, sao cũng được, không ngăn nắp trật tự.
- Vằn: chó
giữ nhà sẵn sàng sủa và cắn.
- Bà ngựa già: con
ngựa cái không được thuần hóa, chế ngự.
7. Bùi Văn Nguyên - 1- Nguyễn
Trãi và bản Hùng ca Đại cao, Nxb. XH, Hà Nội 1999; 2- Nguyễn Trãi
Rực ánh sao khuê, Nxb. KHXH, Hà Nội 2000.
NB. in thiếu 3 ch. 3, 4 và 5 trong tập 7, hôn 100 trang bị cắt
xén!?
Cần tham khảo thêm: Dix mille Printemps, Picquier,
Marseille, 1996.
10. Y. Feray - Vạn
Xuân, Nxb Văn Học, Hà Nội, tr. 408 - Dix mille Printemps, Picquier,
Marseille, 1996.
Chính trong cuộc đời của Nguyễn Trãi, Sách lược Tâm Công không xuất đầu lộ diện một cách bất ngờ và nhanh chóng, cơ hồ một bài thơ hiện hình trong một thoáng chốc linh ứng. Qua bao nhiêu năm tháng, tâm công đã được ấp ủ cưu mang, từ ngày Nguyễn Trãi còn là đứa bé lên năm, sống với Ông Ngoại là Hoàng Thân Trần Nguyên Đán tại Côn Sơn. Suốt thời gian thơ ấu nầy, mãnh đất Côn Sơn đã "gieo trồng, vui tưới và làm lớn lên trong cõi lòng của Nguyễn Trãi ý thức về đất nước và quê hương. Quê hương không phải chỉ là cát sạn vô tâm, vô trí. Quê hương đồng hóa với sự sống và hạnh phúc.
"Côn Sơn Rừng tre rung rinh xa mút mắt, đồi núi chập chùng, chuông chùa gióng dã.
Côn Sơn! tiếng chày giã gạo liên hồi không dứt.
Mùi ngai ngái của thân lúa bị cắt là tất cả cánh đồng. Tiếng cười của các cô thợ dệt xinh đẹp là tất cả xóm làng. Và ngôi nhà của những năm tháng đầu tiên tươi đẹp là tất cả hạnh phúc" 17.
Nhiều ca khúc bình dân như bài "Chùm khế ngọt" đang nhắc nhở cho giới trẻ về những tình tự sâu xa ấy:
Quê hương là con đò nhỏ
"Êm đềm khua nước ven sông.
"Quê hương là cầu tre nhỏ
"Mẹ về nón lá nghiêng che.
"Quê hương là đêm trăng tỏ
"Hoa cau rụng trắng ngoài thềm.
"Quê hương mỗi người chỉ một
"Như là chỉ một mẹ thôi.
"Quê hương nếu ai không nhớ,
"Sẽ không lớn nỗi thành người !"
Thi sĩ Giang Nam cũng diễn tả nỗi lòng tương tư:
"Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
"Có những ngày trốn học, bị đòn, roi ...
"Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
"Có một phần xương thịt của em tôi" 18.
Cũng trong chiều hướng ấy đối với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là quê hương tình thương. Hạt giống "Tâm Công" đã được gieo vãi vào tâm hồn của Ông, tại chính nơi nầy :
"Dù cháu ở đâu, cháu phải giữ đạo Trung dung. Cháu loại bỏ lòng hận thù, tham lam, hung bạo. Cháu hãy vun trồng lòng nhân ái, tính minh mẫn, cao thượng như Ông cháu đã lấy gương sáng mà dạy dỗ cháu điều đó" 19.
Thường được phép có mặt trong những cuộc đàm đạo, trao đổi giữa Ông Ngoại và Thiền sư người Ấn Độ mang tên là Atangana, Nguyễn Trãi dần dần tiếp thu và hội nhập hai bài học về bản sắc văn hóa của đất nước và con người Đại Việt.
Bài học thứ nhất là lòng bao dung 20:
"Tôi là một con người đã trải qua những điều khủng khiếp kinh hoàng, Thiền sư Atangana nói . Trong đất nước nầy tôi đã tìm thấy nơi trú ẩn. ễ đó người ta có thể tùy thích theo tín ngưỡng nào cũng được".
Hoàng Thân trả lời :
"Chùa chiền chúng tôi đưa ra một hình ảnh hùng hồn về sự đa dạng phong phú của các thần linh mà chúng tôi thờ phượng. Có lẽ điều đó là do ở đáy lòng chúng tôi, chúng tôi luôn luôn sẵn sàng tiếp nhận những điều thuộc mọi tôn giáo có thể đem lại hạnh phúc trong cuộc sống đời nay và sự cứu rỗi ở đời sau.
Rốt cuộc, mỗi người chúng tôi thích nghi các tín điều và nghi thức tôn giáo của mình với những xác tín cá nhân và địa vị trong gia đình hay xã hội của mình".
Bài học thứ hai là khả năng đấu tranh chống xâm lược, không chấp nhận bị đồng hóa với bất cứ giá nào, luôn luôn bảo vệ bản sắc khác biệt và độc đáo của mình 21.
"Quả thật, Hoàng Thân nói, nằm giữa Ấn độ mà thầy nói là thần bí và Đế quốc Phương Bắc mà cốt lõi của nó là siêu hình sâu sắc, người Việt chúng tôi khác hẳn. Chúng tôi đã vươn đến chỗ thưởng thức sự chừng mực. Ngay từ đầu, chúng tôi đã gặp được những nhà sư Ấn Độ trên đường sang Trung Hoa và ngược lại gặp những khách hành hương từ Quảng Đông sang Ấn Độ. Và chúng tôi đã chắt lọc lấy những điểm cốt yếu và thích nghi vào bối cảnh đất nước chúng tôi.
Chúng tôi đón tiếp mọi người và mọi ý tưởng đến nhà mình. Chỉ có một điều mà chúng tôi không dung thứ là chúng tôi không thể ngồi yên để cho người ta xâm lấn quê hương chúng tôi. Bài học nầy chúng tôi học được nhờ Đế quốc Phương Bắc. Một bài học dài mười thế kỷ !"
Hẳn thực trong quá trình lịch sử, từ lúc đất nước còn mang tên là Vạn Xuân cho đến năm 1400, Đế quốc thực dân đã bị con dân Đất Việt đẩy lui nhiều lần 22:
Lần thứ nhất, Lý Bôn đánh đuổi bọn thứ sử Tiểu Tư vào cuối thế kỷ thứ VI (544-603).
Năm 939, Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng.
Năm 981, Lê Hoàn phá vỡ quân Tống ở Chi Lăng.
Năm 1076, Lý Thường Kiệt chận đứng quân Tống trên sông Như Nguyệt.
Vào thế kỷ 13, ba lần quân Mông Cổ bị Nhà Trần đánh bại tan tành, mặc dù từ Á qua Âu, họ đã quét sạch mọi lực lượng kháng cự, trên những chặng đường tiến quân ồ ạt và vũ bão.
Hai bài học trên đây cho phép Nguyễn Trãi tìm ra con đường phải đi. Sau khi Hồ Quí Ly và cha mình là Nguyễn Phi Khanh bị bắt đem về Trung Hoa.
Trong những văn phẩm về Nguyễn Trãi, hầu như tác giả nào cũng nêu lên câu hỏi : Sau khi từ biệt cha và em ở biên giới Việt Trung, Nguyễn Trãi đã làm gì, ở đâu, đi đâu từ 1407 đến 1417, năm mà Bình Ngô Sách được dâng lên cho Lê Lợi ở Lũng Nhai? Ngoài thời gian bị câu lưu ở Thăng Long, dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của tướng Hoàng Phúc, Nguyễn Trãi có dịp qua lại Trung Hoa hay không? Nguyễn Thiên Thụ đã chứng minh là có 23.
Xét về câu hỏi "Nguyễn Trãi đã làm gì?" Chúng ta có thể đề xuất những công việc chủ yếu sau đây:
• Thứ
nhất: Khảo sát và khám phá người nào là "Minh chủ" có khả năng tập hợp
toàn dân.
• Thứ
hai: Kiện toàn sách lược tâm công và soạn thảo "Bình ngô sách".
• Thứ
ba: Chia sẻ "Tâm Công" với một số bạn bè, đồ đệ thân tín, để rút
tỉa những ưu khuyết điểm, đặc biệt trả lời vấn nạn "làm sao dung hợp Tâm
Công với ý chí bất bạo động, khi phải đối đầu với quân Minh xâm lược đất nước
và bốc lột đồng bào cách tàn bạo".
Ai là Minh Chu?
Vào thời đại của Nguyễn Trãi, Minh Chủ là Nhà Vua. Theo tin tưởng thông thường của người dân, Nhà Vua thay thế Trời để trị dân. Vị nào thi hành "Mệnh trời" một cách đúng đắn và nghiêm minh, vị ấy lo lắng cho dân, không hề dám lơ là điều gì hết : không tưởng thưởng ai theo ý thích cá nhân và cũng không trừng phạt ai vì hằn thù riêng rẽ chủ quan. Theo lối đánh giá bình dân, dưới triều đại của một vị Vua anh minh, sáng suốt và đạo đức, Trời không cho phép xảy ra lụt lội, mất mùa, đói kém, dịch tể, chiến tranh ... 24.
Theo ngôn ngữ và lề lối tổ chức chính trị của đất nước ngày hôm nay, Vị minh chủ còn được gọi là nhà lãnh đạo.
Ổ vào thời điểm của Nguyễn Trãi, chung quanh 1417, sau mười năm đô hộ của quân Minh, "trong lòng dân chúng ở khắp nơi trong nước Đại Việt, bắt đầu nổi lên hình ảnh mà các thế hệ tương lai sẽ mãi mãi ghi nhớ. Đó là một con người có khả năng liên kết những kẻ dũng cảm, biết mời gọi các bậc hiền tài, đón tiếp những kẻ đào tẩu. Người ấy cũng có khả năng nghiên cứu địa lý, địa hình và nghệ thuật chiến tranh ... nhằm dẹp yên cơn đại loạn" 25.
Lê Lợi, tại chiến khu rừng núi Chí Linh, thuộc tỉnh Nghệ An, là hiện thân cũng là niềm hy vọng của cuộc nổi dậy nầy.
Tuy nhiên, sau khi băng ngàn vượt núi, trải qua mọi hiểm nguy để đến quan sát, tiếp xúc với Lê Lợi "bằng xương bằng thịt" trong cuộc sống cụ thể hằng ngày... Nguyễn Trãi đã thất vọng, không gặp được vị Minh quân lý tưởng theo các tiêu chuẩn mà Ông đã ấp ủ tưởng tượng trong khuôn khổ của sách lược tâm công được nghiên cứu và soạn thảo 26:
Tiêu chuẩn một: Vị Minh quân phải có khả năng tập hợp toàn thể đất nước lại, dưới là cờ Nhân Nghĩa. Chỉ có "toàn dân" mới thắng được quân thực dân xâm lăng.
Tiêu chuẩn hai: Vị Minh quân lo nỗi lo của dân, biết ưu tư đến việc cải thiện số phận nhân dân. Cứu nước phải được đồng hóa với cứu dân.
Tiêu chuẩn ba: Con đường nhân đạo thay thế cho chính sách tàn bạo và man rợ. Bạo lực chỉ được sử dụng một cách chính đáng, khi cần thiết. Vị Minh quân có khả năng "Tri chỉ", dừng lại.
Tiêu chuẩn bốn: Thuyết phục, thương lượng để làm tan rã sức mạnh của quân địch, thúc giục chúng đầu hàng mà chẳng cần giao chiến. Cương và Nhu được kết hợp trong mỗi hành động đối nội cũng như đối ngoại.
Nói tóm lại, theo con đường Tâm Công, chúng ta có chính nghĩa khi chúng ta có sự đồng tình của toàn thể nhân dân. Nhờ chính nghĩa, chúng ta có khả năng nối kết chặt chẽ ba mặt trận : sự tấn công của quân kháng chiến, sự nổi dậy đồng loạt và khắp nơi của nhân dân, hành động thu phục nhân tâm phía ta cũng như phía địch.
Sau khi mục kích với chính đôi mắt của mình, cảnh tượng Lê Lợi đang ngồi ăn ngấu nghiến một miếng thịt vẫn còn dính máu, dùng mã tấu để róc xương, mở to miệng xỉa răng và phun các mãnh vụn thức ăn ra xung quanh ... Nguyễn Trãi đã hãi hùng chạy trốn. Chàng nguyền rũa ý kiến của người anh bà con là Trần Nguyên Hản đã đưa chàng đến tận nơi đây. Chàng thét lên một cách khó chịu và giận dữ bỏ ra đi :
"Con người ấy, không phải là một đấng Minh quân!"
Giữa lúc ấy, lời nhận xét của một đạo sĩ mang tên là Vô Kỹ, đã đánh thức Nguyễn Trãi và giúp chàng đánh giá lại thái độ của mình.
"Có phải anh giống người nông dân nọ than thở mùa màng không chịu mọc; khi mà anh ta không chịu gieo trồng?" 27.
Trong cuốn tiểu thuyết Vạn Xuân, nhân vật Vô Kỹ là một hư cấu, do tài năng và nghệ thuật của văn sĩ Y. Feray sáng tạo, tưởng tượng. Tuy nhiên, đó cũng là tiếng nói lương tri có mặt trong nội tâm của Nguyễn Trãi, đã được Ông Ngoại và cha mình gieo vãi, vun trồng, tưới tẩm, từ ngày Ông học bập bẹ bốn chữ nho đầu tiên là Nhân, dân, Thiên, địa (con người, dân tộc, Trời và đất) 28. Nhờ tiếng nói của Lương Tri, Nguyễn Trãi đã khám phá ra thêm bốn chiều kích và ý nghĩa mới, để bổ túc những gì đang còn thiếu trong sách lược tâm công.
Chiều kích thứ nhất: Vị Minh Quân không phải là mưa sương từ trời rơi xuống. Vị lãnh đạo của đất nước phải do mỗi người dân tạo dựng, giáo dục, nuôi dưỡng. Cơ hồ Thánh Gióng đã nhận lãnh từ tay của anh chị em đồng bào thôn xóm : lương thực, áo sắt, ngựa sắt và gươm sắt 29.
Chiều kích thứ hai: Ý dân là ý trời. Dân phải được hiểu là những người đang bị quân Minh bốc lột và tàn sát. Trên đường đi, trong quán trọ, chung quanh chợ búa, tại bến đò... mọi người đang hướng về Lê Lợi, đang kêu tên Lê Lợi trong những giấc mơ làm người của mình. Thậm chí những xác chết nằm la liệt ở khắp nơi cũng muốn đất trời sáng lại. Người vật sống lại. Tre trúc mọc lại. Thấy được và nghe được người dân lầm than là hiểu được "mệnh trời", tri thiên mệnh.
Bao nhiêu cảnh tượng trước mắt nhắc cho Nguyễn Trãi nhớ lại bài học của Ông Ngoại 30.
"Trong những việc của thế gian, con người thực sự là con người không có một thái độ từ chối hay chấp nhận cứng nhắc. Sự công bằng là qui tắc sáng soi hành động và thái độ của người ấy". Chỉ có tình thương mới cho phép chúng ta thấy những điều vô hình và thứ tha những tồn tại tất yếu thuộc điều kiện và thân phận làm người. Chỉ có tình thương mới khám phá được mối giây kết hợp chúng ta, đằng sau những dị biệt giữa người nầy và người khác.
Chiều kích thứ ba: Không phải duy chỉ Lê Lợi mới là vị Minh Quân của Đại Việt, dưới thời đô hộ của quân Minh. Đất nước là một cơ thể bao gồm nhiều cơ phận. Tay cũng quan trọng giống như Chân, Đầu, Tim, Phổi, Dạ dày, ruột non... Mỗi chi thể có phận vụ riêng biệt. Nhưng về mặt giá trị, mọi cơ phận đều có phần đóng góp năng động, tạo sự sống cho toàn thân.
Trong chiều hướng và ý nghĩa ấy, mỗi người dân ôm nặng Đất nước trong cõi lòng của mình. Từ trên xuống dưới, ai ai cũng thực thi vai trò lãnh đạo của mình, ở vị trí của mình. Trên đây tôi đã nói tới Tiểu Mai và Hương Thầm. Trong cuộc chiến chống quân Minh xâm lăng, về mặt hữu hiệu, tạo nên kết quả cụ thể, đó cũng là hai vị anh hùng hay là hai vị minh quân. Họ đang áp dụng "Tâm Công" của Nguyễn Trãi với hai bàn tay, khối óc, nhất là với trọn tấm lòng của mình, để bảo vệ Đại Việt.
Không có một quan niệm lãnh đạo năng động và tương sinh như vậy, chúng ta không phát huy tinh thần đồng trách nhiệm và liên đới trong công cuộc xây dựng đất nước.
Ba động tác 1, 2, 3 của Tâm Công, được trình bày trong chương Một cho phép chúng ta từ bỏ não trạng lệ thuộc, bị động, để trở nên một công dân tự lập trong một đất nước độc lập. Ba động tác 4, 5 và 6 giúp chúng ta trở thành tương tức, tương tác và tương thành đối với mỗi người anh chị em đồng bào. Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ. Trước khi chờ đợi, đòi hỏi mọi điều từ người đồng bào, chúng ta đã làm được gì cho họ?
Chiều kích thứ bốn: Nước nâng đỡ thuyền. Dựa vào nước, thuyền mới có khả năng xuôi ngược, lên nguồn xuống biển. Làm Trời như Bà Âu Cơ và trở thành mênh mông, rộng lượng như Lạc Long Quân.
Khi đề cập quan hệ giữa Nước và Thuyền, cho đến nay, hình như mọi tác giả đều bỏ quên một tư tưởng rất tiến bộ, đi ngược lại với Khổng học giáo điều, bảo thủ, cứ nhai đi nhai lại Trung hiếu, để làm cho bao nhiêu thế hệ kẹt cứng, không đổi mới được những quan hệ giai cấp, thống trị khi người dân bị áp bức, bốc lột, giam đói, giam tù.
Không những Nước có thể mà còn có trách vụ lật đổ thuyền, nếu thuyền ấy đã mục nát, suy đồi, nhất là về mặt tình người. Khi không còn tôn trọng và phục vụ con người trong mỗi người dân, người lãnh đạo phải bị lật đổ, bị truất phế. Tốt hơn hết là họ tự động ra đi!
Cũng trong tinh thần, ý nghĩa và lăng kính nầy, văn hóa Việt Nam đặt Cộng đồng Đất Nước lên trên Dòng họ, gia đình. Phép Vua thua lệ làng. Một miếng giữa làng bằng một sàng ở xó bếp. Tình nghĩa đồng bào, theo ý nghĩa của Huyền sử Rồng Tiên, phát xuất từ một tấm lòng duy nhất, một bọc trứng, hơn là từ máu huyết về mặt sinh lý. Cơ cấu tổ chức theo triều đại, dòng họ trong văn hóa của Trung Hoa quá đặt nặng Trung hiếu và bỏ quên tình nghĩa đồng bào.
Trái lại, tổ tiên, cha ông chúng ta từ nguyên thủy Rồng Tiên đã coi trọng Tấm Lòng. Tâm Công của Nguyễn Trãi thuộc về truyền thống văn hóa ấy.
Trong câu chuyện Bánh dày bánh chưng, không có vấn đề cha truyền con nối một cách tự động và máy móc. Trái lại, ai có tấm lòng Tròn Vuông như Trời Đất, người ấy có khả năng lãnh đạo đất nước. Truyền ngôi chỉ là một lễ nghi bên ngoài xác nhận một thực tại "Truyền Tâm" ở bên trong.
Đóng góp và lãnh đạo trong phương pháp cấu trúc
Theo lối nhìn của khoa tâm lý đương đại, đất nước, dân tộc... tất cả những tổ chức sinh động thuộc thế giới con người, được xem là một cấu trúc toàn diện hay là một Đại Thể. Nhiều thành tố khác nhau họp lại, cấu thành Đại Thể ấy. Và Đại thể ấy, ở một diện khác lại là thành tố của một Đại Thể to lớn hơn.
Chẳng hạn nước Đại Việt là một Đại thể có bản sắc đặc trưng và độc đáo của mình, không thể bị đồng hóa hoặc giản lược vào một bản sắc khác, cho dù đó là bản sắc của văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên, trên phương diện bảo vệ nhân quyền hay là bảo vệ môi trường sinh thái của Địa cầu, nước Việt Nam chỉ là thành tố của một Đại Thể khác. Cho nên, nước Việt Nam cũng như nước Trung Hoa, hay một cường quốc khác như Anh, Pháp, Nga, Mỹ không có quyền cũng như không có phép làm ô nhiễm môi trường hoàn vũ với những chương trình thử bom nguyên tử của mình. Trong địa hạt nhân quyền cũng vậy, các nhà lãnh đạo của một xứ sở không có quyền và có phép giết ai thì giết, giết bằng cách nào cũng được. Quyền lợi làm người vượt lên trên mọi biên giới của các xứ sở, địa lục. Xu thế "hoàn vũ hóa" (tiếng Pháp Mondialisation) trong nhiều sinh hoạt của con người thuộc thế giới ngày hôm nay, không cho phép một xứ sở, một chính phủ sống lập dị, đứng ra ngoài, không tôn trọng một số qui luật làm người tất yếu.
Ngoài ra, trong giới hạn của một cơ cấu toàn diện, toàn phần hay là một Đại thể, giữa các thành tố với nhau, có những quan hệ nhân quả qua lại hai chiều. Tôi lãnh đạo đất nước, nhưng toàn dân có quyền đánh giá chính sách hoạt động bằng nhiều hình thể khác nhau. Khi Nguyễn Trãi nói về dân, Ông cố tình gây ý thức cho mọi người trên dưới biết rằng: dù ở địa vị nào, họ cũng là dân. Phải biết "làm dân" mới có khả năng lãnh đạo.
Trước đây, tôi đã đề cập về những ảnh hưởng qua lại nầy khi trình bày vai trò của tương tức liên đới, đồng trách nhiệm. Hình tượng Nước nâng đỡ thuyền và nước lật đổ thuyền, thường được Nguyễn Trãi sử dụng, mang nhiều ý nghĩa và giá trị trong quan niệm đượng đại về lãnh đạo, trong thế giới con người. Lật đổ những lãnh đạo áp bức, bốc lột là trách nhiệm của từng người dân.
Chính vì lý do nầy, sau khi chọn lựa chiến tuyến của Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã tức khắc đóng góp phần mình một cách năng động. Nguyễn Trãi chọn lựa, quyết định "thuộc về" Lê Lợi. Chia sẻ trách nhiệm cứu nước, cứu dân với Lê Lợi. Ý thức "thuộc về" không có nghĩa là thoái hóa, trở lui tình trạng ấu trỉ và lệ thuộc, như trường hợp của những thành viên gia nhập những giáo phái cực đoan, bảo căn. Tiếng Pháp phân biệt một cách rõ rệt Appartenance, thuộc về và Inclusion, sát nhập, tan loãng bên trong.
Vì ý thức trách nhiệm đóng góp xây dựng cho Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã nhiều lần "dám chết", suýt chết dưới lưỡi gươm của Lê Lợi. Nếu không có một sức mạnh toát ra từ tâm lòng "vô úy", "vô trước" của Nguyễn Trãi, nghĩa là không sợ, không đòi hỏi đèo bòng ; chắc hẳn Lê Lợi không thể chế ngự xu thế bạo hành tự nhiên của mình. Lúc ban đầu Lê Lợi chưa tiếp thu mọi ý nghĩa của Tâm công.
Nói khác đi, khi "thuộc về", chúng ta vẫn bảo tồn nguyên vẹn bản sắc của mình. Khi "lệ thuộc, bị sát nhập, đồng hóa", chúng ta mất quyền làm chủ. Chúng ta bị biến thân làm đồ vật, đối tượng. Chúng ta khoán trắng cho kẻ khác, để họ làm người thay thế chúng ta. Nói đúng ra, ai tiếm đoạt quyền làm người của người khác, chính người ấy cũng đang thoái hóa làm thú vật tàn sát, đàn áp kẻ khác. Họ không còn là con người. Khi tri hô và chụp mũ ai là "chó dại" nhằm sát hại và thủ tiêu người ấy, chính đương sự đang hóa thân làm "chó dại", đối với người anh chị em.
Những loại đóng góp của Nguyễn Trãi
Sau một đêm suy nghĩ tại quán trọ, bên cạnh bến đò, Nguyễn Trãi đã trở lui với Lê Lợi 31. Với Bình Ngô Sách, Ông đã cống hiến cho Lê Lợi bốn loại đóng góp khác nhau, khả dĩ nâng cấp chất lượng của vị nầy trong chiều hướng hiểu biết luật trời, luật đất, luật biến cố và luật của lòng người.
Dưới hình thức sự cố, Y. Feray đã trình bày những bước diễn tiến trong sự hợp tác và gắn bó của hai nhân vật nầy. Tuy nhiên, như tôi đã nhấn mạnh, dưới hình thức tiểu thuyết, tác giả phác họa chân dung của một nhân vật lịch sử. Với khoảng cách 600 năm, bao nhiêu tài liệu lịch sử đã bị thất lạc. Nhiều tin tức, sự kiện không thể được kiểm chứng theo tinh thần và phương pháp của khoa sử học. Với cách kết cấu tiểu thuyết, tác giả chỉ làm công việc thuyên giải nghĩa là giới thiệu và trình bày một lối nhìn, một chiều hướng nhận thức, một cách tổng hợp ý nghĩa. Khi đảm nhận công việc nầy, tác giả thú nhận một cách sáng suốt tính chủ quan của mình trong cách gạn lọc, xếp đặt, phê bình những tin tức thu lượm từ nhiều phương hướng khác nhau.
Thế nhưng, khi phải đánh giá : cái gì thực, cái gì hữu ích, cái gì nâng cao đức sáng làm người của độc giả, tiểu thuyết Vạn Xuân của Ỵ Feray chưa hẳn kém chất lượng so với tác phẩm của Trần Huy Liệu, Võ Văn Ái, Bùi Văn Nguyên hay là Nguyễn Thiên Thụ... Nhờ có khoảng cách tự nhiên giữa mình và Đại Việt, nữ văn sĩ nầy đã tránh được thái độ "thu hồi", "mẹ hát con khen" hay là "thinh lặng, đồng lõa".
Đóng góp thứ nhất của Nguyễn Trãi là giúp Lê Lợi đọc được luật trời. Với lối nhìn và ngôn ngữ ngày nay, đó là tinh thần khách quan và khoa học, không cho phép chúng ta lượn lẹo, "bịt mắt không nhìn, bịt tai không nghe và bịt miệng không dám nói". Khi nói, thí úp mở, tung hỏa mù, đánh du kích. Nụ cười bên ngoài ẩn giấu vũ khí trong tâm hồn.
"Ngồi xổm trước đống lửa, chính giữa gian nhà, nhiều ngọn đèn to thắp sáng bên cạnh họ. Có hai người đang nhìn vào một cuốn sách và nói thấp giọng.
Qua những lời họ trao đổi, Nguyễn Trãi biết rằng họ đang tra cứu sách bói toán (...)
- Vào năm Kỷ Hợi 1419, giọng nói như tiếng đồng vang lên, chúng ta có thể bắt đầu hành động!
- Thưa Minh Chủ, Ngài đã tính sai rồi! Nguyễn Trãi kêu lên với sự hăng hái có thể có.
Trước khi chàng kịp nhận ra, cánh cửa đã mở đánh rầm. Lê Lợi túm lấy búi tóc chàng vung gươm sắp sửa lấy đầu.
- Tôi đã đi theo Ngài vì điều đó, chàng nói với một giọng bình tỉnh lạ lùng, Ngài không nhận thấy sao? (...).
- Nếu như thế, ngươi ngồi xuống và tính coi (...).
- Chính là năm Mậu Tuất 1418!
Lê Lợi và Lê Thứ nhìn nhau. Và họ quay về phía Nguyễn Trãi. Dáng vẻ oai nghiêm của chàng làm người ta phải kính nể. Khuôn mặt thanh tú của chàng toát ra phẩm giá. Không thể chối cãi được, họ thừa nhận chàng là bậc thầy" 32.
Đóng góp thứ hai của Nguyễn Trãi là giúp Lê Lợi hiểu được Lòng người.
Lời của Nguyễn Trãi:
"Lợi dụng những lỗi lầm của triều đại nhà Hồ, đế quốc Bắc Phương đã xâm chiếm nước ta, bắt dân ta phải chịu những lao lung khủng khiếp.
Quân lính nhà Hồ có một triệu người, nhưng bị xé nhỏ bởi một triệu ý kiến khác nhau. Trước tiên là Trần Ngỗi, sau đó là Trần Quý Khoáng đã dựng cờ khởi nghĩa. Nhưng nội bộ họ chia rẽ: không có kế hoạch hành quân cũng không được dân chúng hỗ trợ, nên họ không tránh khỏi thất bại (...).
Chiến đấu chống nhà Ngô, chính là bảo vệ nền độc lập, chủ quyền sự, toàn vẹn lãnh thổ và nền văn hóa quốc gia.
Và cuộc chiến đấu ấy được liên kết, không thể tách rời với tình yêu thương nhân dân. Tình yêu nầy là một với tình yêu đất nước.
Chỉ khi nào biết dựa vào tình yêu ấy, người ta mới cứu được đất nước, chiến thắng sự mọi rợ và trừ bỏ bạo lực" 33.
Đóng góp thứ ba của Nguyễn Trãi là chứng minh cho Lê Lợi sức mạnh của một tấm lòng bất khuất, vô úy có nghĩa là không sợ chết vì lẽ phải và tình thương.
Hẳn thực, để gài bẫy bắt sống Lê Lợi, tướng Mã Kỳ đã tàn sát dã man tất cả dòng họ xa gần của Ông tại Lam Sơn. Chừng ấy chưa đủ, nhiều toán binh được sai đến ngọn đồi Phật Hoàng đào mồ, quật mã của cha mẹ tổ tiên họ Lê, lấy hài cốt... Trên một con thuyền ngược dòng sông Lệ Thủy, Hài cốt ấy được trưng bày, xúc phạm trước mắt của mọi người... Quân Minh phục kích ở khắp nơi, sẵn sàng bắt sống Lê Lợi.
Trong một cơn khổ đau kinh hoàng tột độ, Lê Lợi không còn khả năng đánh giá hoàn cảnh. Ông mang giáp bào, nhảy lên ngựa muốn ra đi báo thù rửa nhục. Lê Thạch, Lê Lai, Trần Nguyên Hản, đứng nhìn nhau im lìm, thinh lặng. Không một ai dám can ngăn.
Nguyễn Trãi bước ra, đứng trước mặt Lê Lợi, giữ chặt cương ngựa.
Lê Lợi rút kiếm đưa lên, sẵn sàng chém.
Bất động, Nguyễn Trãi, vẫn đứng thẳng, đưa mắt sáng ngời nhìn vào mặt Lê Lợi.
Trong một phút giây cực kỳ căng thẳng, mọi người chứng kiến một cuộc đấu tranh ác liệt giữa lưỡi gươm đã từng thấm máu, và một tấm lòng đại dương thầm lặng... Rốt cuộc Lê Lợi hạ tay, xỏ gươm vào vỏ.
Nguyễn Trãi cúi đầu:
"Thưa Ngài Minh Chủ, xin Ngài đừng bao giờ quên: Trong thắng lợi cũng như trong tai ương hoạn nạn, chúng tôi tất cả luôn luôn sát cánh bên Ngài!"
Lê Lợi xuống ngựa. Hai người ôm nhau đi vào doanh trại. Họ đã ở bên nhau suốt đêm 34.
Từ giây phút ấy, mọi người có mặt tại chiến khu Chí Linh và đã chứng kiến cảnh tượng đối đầu giữa con rồng Lam Sơn và con kỳ lân Côn Sơn, ai ai cũng xác tín rằng: ngày giải phóng của Đất Nước Đại Việt đã ló rạng. Con Rồng đã nhận lãnh chiều cao của con Kỳ Lân! Khi hai con linh vật của thủy cung họp lại, chúng nó làm tan đá, chảy vàng...
Đóng góp thứ bốn của Nguyễn Trãi là gây ý thức cho Lê Lợi về vị trí của tinh thần bất bạo động giữa đoàn lũ có thói quen trả thù, đòi nợ máu, nhất là sau một thời gian bị đàn áp, bốc lột và tàn sát một cách dã man. Tuy nhiên, bao lâu chưa giải phóng mình khỏi những gông cùm và ngục tù... ở trong đáy sâu của tâm hồn, chính chúng ta trở nên ngục tù cho anh chị em đồng bào, ở sát bên cạnh chúng ta. Ngục tù nầy còn ác độc hơn ngục tù của thực dân.
Yếu điểm của "Tâm Công" đã bừng nở ra một cách chói lọi vào mùa thu 1427. Sau gần mười năm chiến đấu, nghĩa quân Lam Sơn đã lớn mạnh, đi từ thắng lợi nầy đến thắng lợi khác. Viện quân hơn 10 nghìn người do Minh Triều gởi qua bị phục kích và đánh tan tơi bời, phải rút về khỏi biên giới Đại Việt. Đông quan hay là Thủ đô Thăng Long bị bao vây tứ phía. Rốt cùng tướng chỉ huy Vương Thông viết thư cho Lê Lợi xin nghị hòa.
Nghe tin, tướng lãnh, binh sĩ của Đại Việt cũng như đoàn lũ bô lão, phụ nữ... từ khắp nơi tấp nập kéo về yêu cầu Lê Lợi tàn sát, tận diệt quân Minh, để báo thù cho tổ tiên và các vong linh đã hy sinh cho đất nước trong suốt 20 năm.
Toàn quân, toàn dân có mặt vái lạy và kêu van:
"Xin hãy giết sạch lũ giặc Tàu!" 35.
Duy một mình Nguyễn Trãi, đơn thân độc mã, đứng lên đối diện với quần chúng đầy thù hận 36:
"Trong hoàn cảnh như hiện nay, tấn công quân thù và uống máu chúng, thì chả khó khăn gì đối với chúng ta (...) Nhưng dự phóng lớn lao phải được xây dựng trên nhân nghĩa và công chính. Và nhân đức chính là ở chỗ biết bảo toàn các sinh mệnh để dành cho những viễn cảnh lâu dài hơn".
Sau đó Nguyễn Trãi lắng nghe, ghi nhận nhiều vấn nạn nổi lên từ mọi phía. Nhiều lời chỉ trích rất tàn ác, xiên xẹo... Nhiều lời mạ lị rất hèn hạ, lợi dụng cơ hội để xuất hiện 37.
Trong cách trả lời của Nguyễn Trãi, theo tinh thần và đường hướng Tâm Công, chúng ta cần ghi nhận những bước tiến như sau:
Thứ nhất: Một cách thành tâm và đầy thiện cảm, Nguyễn Trãi không từ chối hay là phản bác lý luận của người phát biểu. Nguyễn Trãi Nhìn nhận xúc động và tình cảm của họ. Lòng ước muốn báo thù là một tình cảm tự nhiên và chính đáng.
Thứ hai: bên cạnh nhu cầu báo thù, Nguyễn Trãi gây ý thức cho mọi người nhìn thấy rằng họ có những nhu cầu làm người còn cao cả và trọng đại hơn, lâu bền hơn. Nhu cầu báo thù sẽ bùng lên và vụt tắt như ngọn lửa rơm. Trái lại, chúng ta cần lòng nhân từ và khoan hậu, để xây dựng một đất nước trường tồn và cao cả. Một đất nước "Vạn Xuân"! Một đất nước "Đại Việt" nghĩa là vươn mình lên tận Bầu Trời, quê hương của Mẹ Âu Cơ.
Thứ ba: Nguyễn Trãi yêu cầu mỗi người hãy làm người tưới tẩm hạt mầm hòa bình và nhân đạo trong quả tim, để làm bài học cho con cái và các thế hệ tương lai.
"Vun trồng cây Đức để nuôi con!"
Và Lê Lợi đã đồng tâm nhất trí với ý kiến của Nguyễn Trãi:
"Ngàn thế kỷ sau, biên niên sử mãi còn lưu lại hương thơm của sự việc nầy" 38.
Lê Lợi vừa dứt lời thì đoàn lũ đồng loạt la lên:
Chứng kiến những biến đổi tâm linh ấy, một người học trò trẻ trung của Nguyễn Trãi đã hỏi Đạo sĩ Vô Ky:
"Hãy soi sáng cho tôi rõ tại sao đám đông khi nảy hò hét đòi chiến tranh. Giờ đây cũng đám đông ấy, lại reo hò với ngần ấy niềm xác tín "Hòa Bình".
Vô Kỹ trả lời bằng cách trích dẫn lời của Lão Tử:
"Bạn không biết rằng con người mang trọn niềm tin cậy sẽ gây tác động trên vạn vật, làm lay động trời đất, làm xúc cảm quỷ thần. Người ấy đi qua sáu hướng vũ trụ, mà chẳng gì có thể chống lại được sao?" 40.
Chú thích:
17 Vạn Xuân, tr. 297.
18 100 bài thô tình chọn lọc, Nxb. Giáo dục Hà Hội, 1993, tr. 141.
19 Vạn Xuân, tr. 299.
20 Vạn Xuân, tr. 203.
21 Vạn Xuân, tr. 204-205.
22 Trần Huy Liệu, Sđd, tr. 8-9; Y. Feray - Dix mille Printemps, tone.I. p. 21-25: Repères Chronologiques du Vietnam.
23 Nguyễn Thiên Thụ - Nguyễn Trãi, Lửa Thiêng, Sàigòn 1973, tr. 214-230.
24 Vạn Xuân, tr. 689-690.
25 Vạn Xuân, tr. 703.
26 Vạn Xuân, tr. 734-735.
27 Vạn Xuân, tr. 759.
28 Vạn Xuân, tr. 210-213.
29 Vạn Xuân, tr. 760 và 639.
30 Vạn Xuân, tr. 768.
31 Vạn Xuân, tr. 772.
32 Vạn Xuân, tr. 777-778.
33 Vạn Xuân, tr. 779-780.
34 Dix mille Printemps, tone.II. p. 215-217 Livre VII, ch. 4; Con Kỳ Lân, xem Vạn Xuân, tr. 140.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét