Khái quát về âm nhạc truyền thống
ở các nước Đông Nam Á
Cùng khám phá những nét đặc trưng và bản sắc độc đáo trong nền
âm nhạc truyền thống của các quốc gia Đông Nam Á.
Myanmar
Thế giới biết nhiều đến những điệu múa truyền thống và nhà
hát đẹp của đất nước Myanmar, cả đến những nhạc cụ độc đáo như đàn Saung Gauk
(giống như đàn harpe nhưng hình cung) hay các trống đồng cổ của người Karen. Những
nhạc cụ này có mối liên hệ sâu xa trong lịch sử âm nhạc vùng Đông Nam Á.
Âm nhạc truyền thống Myanmar du dương, nhìn chung là không có
hòa âm, và thường ở nhịp 4/4 (na-yi-se) hay 2/4 (wa-let-se) hay 8/16
(wa-let-a-myan). Nền âm nhạc này có nhiều loại khác nhau. Một hình thức nổi bật
là byaw thường được chơi ở các lễ hội tôn giáo và được hát lên trên nền đệm của
loại trống dài và thon, thỉnh thoảng được xen vào bằng tiếng của loại trống to
hơn.
Nhóm nhạc truyền thống dân gian thường biểu diễn trong các
nat pwe, một loại nhà hát, và trong các lễ hội gọi là hsaing waing. Tuy chưa rõ
nguồn gốc, nhưng người ta vẫn cho rằng xuất xứ của nó từ vương triều Ayuthaya của
người Thái hay ít nhất là chịu ảnh hưởng bởi các nhóm trống, cồng chiêng
Ayuthaya trong những năm 1700 qua những cuộc xâm lược không ngừng của triều đại
Konbaung.
Nhóm nhạc truyền thống này gồm trống và các loại cồng chiêng
cùng với những nhạc cụ pha màu sắc khác như hne (một loại kèn dăm kép), và pat
waing hay hsaing wan (một bộ gồm 21 trống định âm được kết tròn lại với nhau).
Ngoài ra có thể có thêm các nhạc cụ khác như kyi waing (các cồng chiêng nhỏ bằng
đồng đặt trong một khung tròn) và maung hsaing (các cồng chiêng đồng lớn hơn được
đặt trong khung chữ nhật) cũng như si và wa (một loại chuông và lục lạc) và gần
đây còn có thêm chauk lone bat (một nhóm 6 trống bắt đầu được dùng từ những năm
1900).
Campuchia
Âm nhạc Campuchia chịu ảnh hưởng nhiều bởi các hình thể âm nhạc
cổ xưa của người Hindu. Vũ điệu tôn giáo rất phổ biến, và chúng thường mô tả những
cốt truyện, huyền thoại cổ xưa. Một vài điệu múa được đệm bởi dàn nhạc pinpeat
gồm có một ching (giống như chũm chọe), roneat (như đàn xylophone bằng tre),
pia au (giống sáo), sralai (tương tự kèn oboe), chapey (giống đàn banjo trầm),
cồng chiêng, tro (tương tự đàn fiddle) và nhiều loại trống khác. Mỗi cử điệu của
vũ công đều mang một ý nghĩa đặc biệt, bao gồm những quan niệm trừu tượng. Nhạc
cụ truyền thống Campuchia bao gồm nhiều loại nhạc cụ hơi, dây, và gõ được cả
dân tộc đa số là Khmer lẫn các dân tộc thiểu số sử dụng.
Ngày nay người ta ít biết về âm nhạc truyền thống Campuchia.
Một trong những nguyên nhân chính là quốc gia này bị chiến tranh tàn phá nặng nề
trong những thập kỷ vừa qua. Chế độ tự phong Khmer Đỏ dưới sự lãnh đạo của Pol
Pot đã tìm cách phá hủy tận gốc những nền tảng văn hóa của Campuchia để bắt đầu
lại từ “Điểm 0”.
Ngày nay chỉ còn một vài tập quán truyền thống còn sót lại,
đôi khi lại pha trộn với những ảnh hưởng đại chúng và của phương Tây. Việc tìm
hiểu truyền thống của dân tộc Khmer cổ là một điểm rất quan trọng cho nhiều
hình thức nghệ thuật và âm nhạc tồn tại ở Đông Nam Á. Kinh đô Angkor Wat đã từng
là nơi hội tụ của các nền văn hóa Á châu trong hơn 500 năm. Đó là trung tâm của
đế chế Khmer và nơi đón tiếp các khách đến thăm, thương nhân, nghệ sĩ từ Trung
Quốc, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Việt Nam, Ấn Độ và Indonesia. Chúng ta có thể
thấy được nhiều ảnh hưởng của Indonesia trên âm nhạc và nhạc cụ Campuchia. Cũng
có nhiều điểm tương đồng với các hình thức âm nhạc, nhạc cụ của Thái Lan, Lào
và Miến Điện.
Indonesia
Nói về âm nhạc Indonesia chúng ta không thể không nhắc đến âm
nhạc Gamelan, một trong những truyền thống âm nhạc lâu đời nhất của thế giới.
Indonesia là đất nước nơi có lượng người Hồi Giáo lớn nhất. Vì vậy chúng ta
cũng cần phải nói về ảnh hưởng của văn hóa đạo Hồi đến sự phát triển văn hóa
Indonesia.
Trong qúa trình lịch sử của mình, quần đảo Indonesia đã được
tiếp xúc với tín ngưỡng Shaman ở miền Bắc với nguồn gốc Trung Á, với đạo Hindu,
Phật giáo Tiểu Thửa và Phật Giáo Đại Thừa. Âm nhạc truyền thống của vùng đảo
Iberian (Tây Nam Âu châu, bao gồm Tây-ban-nha và Bồ -đào-nha) pha trộn với âm
nhạc truyền thống của các quốc gia Trung Đông, cộng thêm ảnh hưởng của phương
Tây đã làm nên âm nhạc Indonesia với hàng trăm hình thức âm nhạc khác nhau thường
được dùng để đệm cho múa và kịch. Trong số đó, âm nhạc của vùng Java, Bali,
Sumatra, Flores và một số đảo khác là được chú ý nhất.
“Karawitan” là thuật ngữ để chỉ loại âm nhạc Gamelan đặc
trưng ở đảo Java. Lịch sử các nhóm nhạc Gamelan ở đây có từ rất lâu đời, ngay từ
thời đại đồ đồng Đông Sơn vào thế kỷ 2 TCN. Khi những Wali (người truyền giáo)
đầu tiên xuất hiện vào đầu thế kỷ XVI, sứ mệnh của họ không chỉ nhằm vào các mục
đích tôn giáo. Chẳng bao lâu sau họ đã chi phối chính trị địa phương và cài được
người trở thành các sultan (vua của Hồi giáo) người Hindu.
Hiểu rõ vai trò quan trọng của âm nhạc trong toàn bộ đời sống
của dân Java, họ đã chấp nhận những tập quán địa phuơng như các vở kịch với
búp-bê wayang kulit, và thậm chí còn hỗ trợ cho sự phát triển của âm nhạc Gamelan.
Phần việc chính của các nhà truyền đạo Hồi giáo không đến từ
các thương nhân Ả Rập mà là Ấn Độ. Điều đó thật hiển nhiên khi chúng ta thấy những
ảnh hưởng của âm nhạc Ả Rập không tác động đến dòng nhạc Karawitan. Ở miền Tây
Sumatra, ngay bên ngoài các thánh đường Hồi giáo, người ta thích hát các ca
khúc theo phong cách Ả Rập gọi là kasidah (tiếng Ả-rập: “quasidah”), học hỏi
các ca khúc này trong trường học và tập chơi loại đàn lute 5 dây mang tên
gambus, trông giống như đàn “Oud” của Ba Tư.
Ngoài Karawitan còn có những loại hình âm nhạc khác như:
– Âm nhạc “Kerongcong” phối hợp cả hai thang âm slendro và
pelog, dùng cả nhạc cụ bản địa lẫn Âu châu. Âm nhạc này được hình thành do các
thương nhân Bồ-đào-nha đến định cư tại Java và Sumatra vào thế kỷ XVI.
– Truyền thống hát đơn gọi là tembang.
Âm nhạc dân gian Java và Sumatra vẫn còn ít được khám phá. Ở
đây chúng ta thấy kho tàng phong phú về giai điệu lagu bao gồm các ca khúc trẻ
em, lagu dolanan, các vũ khúc dukun mang màu sắc kịch và tôn giáo tính của đạo
shaman. Ngoài ra còn có các vũ điệu kotekan rất giống với những vũ điệu của dân
tộc Thái ở miền Bắc Việt Nam.
Lào
Lào đã từng là vương quốc “triệu voi” mạnh mẽ và ngày nay
đang khẳng định một tính đồng nhất văn hóa mới. Nói về âm nhạc Lào người ta
luôn so sánh ngay với âm nhạc Thái và Campuchia. Không phải chỉ có một vài tên
gọi nhạc cụ giống nhau, mà các nền âm nhạc này còn có những sự kiện lịch sử, những
ảnh hưởng và sự phát triển tương đồng.
Nhạc cụ tiêu biểu nhất của Lào là một loại “organ” dùng miệng
thổi, bằng tre, gọi là khene. Nó được cho là do một người phụ nữ sáng tạo ra
khi cố bắt chước tiếng hót của loài chim garawek. Người đàn bà ấy mang nhạc cụ
mới đến dâng cho nhà vua. Vua có lời khen tặng nhưng muốn có nhiều thay đổi
hơn. Nàng cố gắng hoàn thiện nhạc cụ này nhưng nhà vua cứ lập lại: “Tia nee
khaen dee” (Lần này tốt hơn).
Âm nhạc dân gian Lào được gọi là Lam, và thường được đệm một
cách tùy ứng bởi khene. Dàn nhạc cổ của Lào có thể được chia thành 2 loại, Sep
Nyai và Sep Noi. Sep Nyai là nhạc lễ, nghi thức và gồm: 2 bộ cồng (kong vong),
một đàn loại xylophone (lanat), một kèn thuộc loại oboe (pei hay salai), hai bộ
trống lớn và 2 bộ chũm chọe (xing).
Âm nhạc truyền thống Lào có thể được chia thành 3 vùng khác
nhau: Luang Prabang ở phiá Bắc, Vientiane ở miền Trung và Champassak ở miền
Nam. Ở miền cực Bắc của Luang Prabang âm nhạc triều đình cổ điển của Lào phát
triển đến đỉnh cao và lại biến mất. Ở Vientiane, các phong cách âm nhạc địa
phương cho thấy những ảnh hưởng của Thái khá nhiều. Vùng Champassak phía Nam
không chỉ chịu ảnh hưởng của âm nhạc Khmer mà còn có một sự pha trộn với âm nhạc
Thái và âm nhạc bản địa Lào. Người ta biểu diễn âm nhạc theo phong cách Thái
Lan, trên các nhạc cụ Thái Lan nhưng lại gọi tên nhóm nhạc theo tiếng Khmer:
“Pin Peat”. Tuy vậy, sự pha trộn phong cách và kích thích phát triển lại tạo
nên một bản sắc Lào độc đáo không thể so sánh được.
Malaysia
Để tìm hiểu âm nhạc truyền thống Malaysia, chúng ta cần xét đến
hoàn cảnh văn hóa-xã hội và địa lý hình thành nên một vùng của Đông Nam Á gọi
là thế giới Malay cổ xưa. Thế giới này là ngôi nhà mà Malaysia đã chia sẻ các đặc
điểm nghệ thuật và văn hóa.
Âm nhạc Malaysia trước khi chịu ảnh hưởng văn hóa ngoại lai
có thể được chia thành hai nhóm (theo thuyết vật linh) Proto (thuần chủng) và
Deutro (có pha trộn chủng tộc với các giống dân khác). Các nhạc cụ truyền thống
Mã Lai đa phần là bộ Gõ.
Tuy nhiên trong sự phát triển toàn diện của nền âm nhạc truyền
thống Malaysia, các ảnh hưởng văn hóa ngoại lai đã góp phần và có tác động mạnh
giúp phát triển âm nhạc trong khu vực này. Sự tương đồng giữa trống mridangam
và kèn hơi nagasvaram của Ấn Độ với gendang và serunai của dân tộc Malay cho thấy
rõ ảnh hưởng Ấn Độ trên các nhạc cụ Mã Lai.
Mặc dù, có thể cho rằng những nhạc cụ nói trên của Malay có
thể có nguồn gốc từ Trung Đông. Khi người Hồi giáo đến đất nước này, họ đã thay
đổi đời sống văn hóa và tôn giáo của người Hindu. Trong số những thứ mà họ thay
đổi, người Hồi giáo đưa vào vũ điệu zapin được đệm bởi trống kết thành khung cầm
tay gọi là rebana. Có lẽ chính các thương nhân Ả Rập mang vào đây rebab, một loại
đàn kiểu fiddle (như violin) có 3 dây bên cạnh các loại nhạc cụ như ghazal và
naubat.
Philippines
Nói về âm nhạc truyền thống Philippines nhiều người nghĩ đến
dàn cồng Kulintang hay những truyền thống đậm chất Gamelan. Mặt khác, những ảnh
hưởng của cuộc chiếm đóng 300 năm của người Tây Ban Nha và nền âm nhạc của các
sắc tộc khác nhau gọi là Aeta sống trên quần đảo này hay cả những tác động của
âm nhạc Ả Rập thường bị lãng quên.
Du hành qua Philippines chúng ta sẽ nhận ra sự khác biệt với
các quốc gia Đông Nam Á khác. Ngày nay gần hơn 80% dân số Philippines theo đạo
Công giáo, kết quả từ quá trình thuộc địa hóa của người Tây Ban Nha. Chúng ta
có thể thấy rằng âm nhạc chủ yếu sử dụng các thể loại ảnh hưởng bởi âm nhạc
trong phụng vụ Kitô giáo, chẳng hạn các ca khúc Bình ca và những mầm mống đầu tiên
của nhạc đa âm.
Ngày nay chúng ta có thể tìm thấy nhiều loại nhạc múa, nhạc
dân gian có nguồn gốc từ nhạc Trung cổ Âu châu, ví dụ thể loại rondalla với phần
đệm của các nhạc cụ dây gảy đệm cho các ca khúc giống như polka của Ba Lan.
Thái Lan
Lịch sử và địa lý làm cho âm nhạc truyền thống Thái Lan có
liên quan đến âm nhạc Trung quốc, Miến Điện, Lào, Campuchia, Java và Bali ở
Indonesia và Philippines. Các yếu tố trong âm nhạc truyền thống tồn tại đến
ngày nay cho thấy một mối quan hệ mật thiết giữa âm nhạc Thái Lan và âm nhạc miền
Nam Trung Quốc, quê hương nguyên thủy của người Thái.
Vương quốc Nam Chiếu của tổ tiên người Thái, nằm ở tỉnh Vân
Nam của Trung Quốc ngày nay, đã rất phồn thịnh vào khoảng năm 600. Vào những
năm sau đó, khi người Mông Cổ đẩy người Trung Hoa xa về phía Nam, người Thái đã
di dân đi xa hơn nữa đến những vùng đất mà chúng ta biết ngày nay là Thái Lan,
Lào, và Bắc Miến Điện. Khoảng năm 1238, người Thái lấy thành phố Sukkothai để
làm thủ đô đầu tiên của mình và sau đó dời đô về thành phố thứ hai là Ayudhaya.
Trong cả hai thành phố này, nền văn hóa phát triển và âm nhạc vang lên khắp
nơi.
Vào năm 1767, người Miến Điện đột ngột tấn công Ayudhaya và hủy
hoại thành phố này. Cuối cùng người Thái dời đô về Bangkok. Thành phố Bangkok
trở thành nền tảng của triều đại Chakri. Nhiều nhà cầm quyền của thành phố này
yêu thích âm nhạc và đã giúp phát triển loại nghệ thuật này .
Hệ thống âm nhạc truyền thống Thái thường đa phần được kể đến
từ giai đoạn Bangkok. Có nhiều đặc trưng cho thấy có sự khác nhau rõ rệt giữa
âm nhạc thời kỳ đầu Bangkok với nền âm nhạc trong giai đoạn Ayudhaya. Bản thân
âm nhạc Thái về cơ bản, có nguồn gốc từ âm nhạc Trung Quốc, trong khi đó các
nhóm nhạc cồng chiêng là từ Đông Nam Á. Âm nhạc truyền thống Thái được phục hồi
lại dưới sự bảo hộ của triều đình. Âm nhạc phục vụ đắc lực trong các ngày lễ với
thể loại múa và kịch. Mặt khác, âm nhạc dân gian Thái đa phần gồm những ca khúc
đơn giản có phong cách giai điệu không phức tạp với ca từ quan trọng hơn là
cách hát.
Brunei Darussalam
Brunei chia sẻ một số kết văn hóa với các quốc gia Đông Nam Á
như Mã Lai, Singapore, Indonesia, Thái Lan, Philippines. Mặc dù có nhiều điểm
tương đồng với các quốc gia này nhưng Brunei cũng có những khác biệt tiêu biểu
về văn hóa và di sản về âm nhạc dân gian, dân vũ và truyện tích dân gian. Âm nhạc
truyền thống Brunei tồn tại qua nhiều thế kỷ trong các phong tục hoàng gia và
truyền thống dân gian. Trong các dịp này âm nhạc được thể hiện qua nhạc lễ với
các nhạc cụ như trống, kèn diễn vào lúc khai mạc và kết thúc các hoạt động lễ hội.
Người Brunei có nhiều loại nhạc cụ truyền thống khác nhau.
Trong số đó phải kể đến gendang, biola, guilintangan, gambus, gong và rebana là
những nhạc thường được dùng để đệm cho các ca khúc truyền thống dân gian như
anding, dang, mengalai, alus jua di, dang, samalaindang và những loại khác.
Có hai loại hình chính trong âm nhạc truyền thống Brunei là:
nhạc Kedayan và nhạc Malay. Aduk-Aduk là điệu vũ nghi thức được người dân
Kedayan biểu diễn trong các ngày lễ, đặc biệt vào cuối mùa thu hoạch. Điệu vũ
này được đệm bằng các nhạc cụ gõ gồm có trống và vỏ dừa. Dân tộc Malay được biết
đến với điệu vũ Jipin và Zapin được đệm theo bằng các nhạc cụ gồm có gambus dan
biola, dombak và rebana.
Ngoài ra người Malay ở Brunei còn sử dụng một bộ gồm nhiều cồng
chiêng nhỏ gọi là Guling tangan để đệm cho các thể loại nhạc khác. Âm nhạc dân
gian Malay thường được vang lên trong các buổi lễ mừng công và những ngày kỷ niệm.
Việt Nam
Âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đa dạng và dung hợp, kết hợp
những ảnh hưởng ngoại quốc với đặc tính bản xứ. Xét về lịch sử, Việt Nam chịu ảnh
hưởng nhiều bởi âm nhạc truyền thống Trung Quốc, có sự tương đồng với âm nhạc
Nhật Bản, Triều Tiên và Mông Cổ. Vương quốc Champa cổ xưa cũng có ảnh hưởng nhất
định đến âm nhạc truyền thống Việt Nam do các mối quan hệ với triều đình Việt
Nam. Mặc dù có những ảnh hưởng ngoại lai, nhưng Việt Nam vẫn có được truyền thống
âm nhạc đặc thù, độc đáo từ các dân tộc trên lãnh thổ này.
Âm nhạc truyền thống Việt Nam có những loại hình chính: âm nhạc
triều đình, dân ca, nhạc kịch và âm nhạc thính phòng. Nhã nhạc là một hình thức
âm nhạc triều đình phổ biến nhất, đặc biệt được dùng trong triều đại Trần đến
cuối đời Nguyễn, được các vua Nguyễn tổng hợp và phát triển đặc biệt. Loại âm
nhạc này có nền tảng từ âm nhạc triều đình thời kỳ đầu, pha trộn với những ảnh
hưởng từ triều đình nhà Minh và sau này là âm nhạc Champa.
Dân ca Việt Nam được hát trong khi làm việc, tại tư gia hay
các lễ hội. Ở miền Bắc Việt Nam có những hình thức phổ biến nhất là hát quan họ,
hát chầu văn, hát ví dặm, hát ghẹo, và hát cò lả. Ở miền Trung và Nam Việt Nam
có hình thức phổ biến nhất là hò và lý. Nhạc kịch cũng là một loại nghệ thuật
ưu tiên ở Việt Nam. Trong hình thức này có hát chèo hay còn gọi đơn giản là
chèo được coi là hình thức cổ xưa nhất trong các hình thức âm nhạc chính của nền
âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Ba hình thức âm nhạc thính phòng tiêu biểu của âm nhạc truyền
thống Việt Nam là: ca trù hay hát ả đào ở miền Bắc, ca Huế ở miền Trung và nhạc
tài tử ở miền Nam.
Việt Nam còn có nhiều hình thức dàn nhạc đa dạng. Mỗi hình thức
đều có liên hệ gần với một loại nghệ thuật truyền thống đặc biệt, và có những đặc
tính tiêu biểu bởi một loại nhạc cụ chính. Chính nhạc cụ này giúp tạo nên sắc
thái và tiết tấu cơ bản cho dàn nhạc. Ví dụ, phách trong ban nhạc ca trù, sênh
sứa trong ban nhạc xẩm, trống đế trong ban nhạc chèo, trống chiên trong ban nhạc
tuồng, v.v…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét