Hai Bà Trưng là tên gọi chung của hai chị em Trưng Trắc và
Trưng Nhị, hai người phụ nữ được đánh giá là anh hùng dân tộc của người Việt.
Trong sử sách, hai bà được biết đến như những thủ lĩnh khởi binh chống lại
chính quyền đô hộ của Đông Hán, lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và
Trưng Trắc tự phong là Nữ vương. Đại Việt sử ký toàn thư coi Trưng Trắc là một
vị vua trong lịch sử, với tên gọi Trưng Nữ vương.
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận phường tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô ĐỊnh dẹp yên biên thành
Đô kì đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
(Đại Nam Quốc sử diễn ca)
Theo sử cũ ghi lại tên chị là Trắc tên em là Nhị vốn là con
gái Lạc tướng ở Giao Châu, người huyện Mê Linh thuộc Phong Châu. Mẹ là bà Man
Thiện (còn gọi là Trần Thị Doan). Chị lấy Thi Sách người huyện Chu
Diên. Thi Sách là người có dũng lược, chuộng hào khí. Tên của Hai bà có
nguồn gốc từ nghề dệt lụa truyền thống của Việt Nam, tương tự như cách đặt tên
theo các loài cá của các vua nhà Trần sau này vốn xuất thân từ nghề chài lưới. Xưa
kia nuôi tằm, tổ kén tốt gọi là kén chắc, tổ kén kém hơn gọi là kén
nhì; trứng ngài tốt gọi là trứng chắc, trứng ngài kém hơn gọi là trứng
nhì.
Dưới sự cai trị tàn bạo và chính sách Hán hóa gắt gao của nhà
Đông Hán, người Việt ở Giao Chỉ đều phẫn nộ và có ý định chống lại. Vợ chồng bà
Trắc và ông Thi là một trong số những thủ lĩnh người Việt đó. Thái thú Tô Định nhà Đông Hán bèn bắt giết ông Thi để trấn áp
tinh thần người Việt. Trưng Trắc cùng Trưng Nhị mang quân bản bộ về giữ Hát Môn Tháng
3, năm Canh Tý (40), thái thú Tô Định giết chồng Trưng Trắc là Thi
Sách. Bà Trắc cùng với em gái là Nhị tập hợp lực lượng ủng hộ từ các nơi cùng
phát động khởi nghĩa chống nhà Hán. Sách Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ ghi lại lời chép trong dã sử cho biết,
khi bà Trắc xuất quân vẫn chưa hết tang chồng, bà trang điểm rất đẹp. Các tướng
hỏi vì sao, bà đáp rằng:
Việc binh không thể ảnh hưởng. Nếu giữ lễ và làm xấu dung nhan
thì nhuệ khí tự nhiên suy kém. Cho nên ta mặc đẹp để mạnh thêm nhiều màu sắc của
quân, khiến cho bọn giặc trông thấy động lòng, lợi là chí tranh đấu, thì dễ
giành phần thắng.
Mọi người nghe đều thán phục là không bằng bà.
Mọi người nghe đều thán phục là không bằng bà.
Tương truyền, Hai Bà Trưng đã đọc lời thề trước khi xuất
binh:
"Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kêu oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này"
(Thiên Nam ngữ
lục)
Sách Đại Việt Sử ký toàn thư đã ghi lại “Trưng Trắc và Trưng
Nhị là đàn bà mà hô một tiếng các quận Cửu Chân Nhật Nam Hợp Phố cùng 65 thành ở
Lĩnh Ngoại đều nhất tề hưởng ứng. Việc dựng nước xưng vương dễ như trở
bàn tay, xem thế đã đủ biết hình thế nước Việt ta có thể dựng nghiệp bá vương được…”. Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của nhiều đội quân và nhân dân
các nơi thuộc Âu Lạc và Nam Việt cũ. Quân Hai Bà đánh hãm trị sở Luy Lâu. Thái
thú Tô Định bỏ chạy, quân khởi nghĩa giành được hơn 50 thành.
Ngày 30 tháng 1 năm Tân Sửu (41), nhà Hán thấy bà xưng vương dấy quân đánh lấy các
thành ấp, nên hạ lệnh cho Mã Viện đem quân sang đánh
Hai bà thấy thế quân Hán mạnh, không chống nổi, bèn lui quân
về giữ Cấm Khê (sử chép là Kim Khê).
Năm 43,
Trưng Vương cùng Trưng Nhị chống cự với quân nhà Hán ở Cấm Khê. Quân Hai Bà thế
cô không địch nổi quân Hán mạnh hơn nên bị thua. Trưng Vương và Trưng Nhị đều mất
tại đây. Theo tục truyền, hai bà đã nhảy xuống sông Hát (Hát Môn, Hà Tây cũ) tự
vẫn để bảo toàn khí tiết vào ngày mùng tám tháng ba năm Quý Mão. Trưng Vương khởi
nghĩa và ở ngôi được 3 năm.
Để tỏ lòng biết ơn công đức của Hai Bà, nhân dân nhiều địa
phương đã lập đền thờ.
Địa danh Hát Môn - Hát Giang là nơi thánh tích Hai Bà dựng cờ khởi
nghĩa chống quân Đông Hán xâm lược và cũng là nơi Hai Bà hóa thân vào cõi bất diệt. Đền Hát Môn thờ
Hai Bà Trưng là Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt được Thủ tướng Chính phủ công
nhận tại QĐ số 2383/QĐ-TTg ngày 9 tháng 12 năm 2013,
ngôi đền Hát Môn cổ kính với nhiều hàng cây cổ thụ, khung cảnh trang nghiêm yên
tĩnh quanh năm.
Đền thờ Hai Bà Trưng ở thôn Hạ Lôi, Mê Linh. Đền thờ đã qua
nhiều lần trùng tu. Hiện nay đền còn lưu giữ nhiều di vật quý. Đền thờ đã được
công nhận di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia năm 1980.
Nguyễn Thị Thanh Liễu



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét