CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
Miền an trú
Những buổi sáng mùa Xuân tươi mới trong cảnh núi rừng tĩnh mịch
nầy, Trí Hải bắt đầu cảm thấy có một vẻ gì biến hiện như sắc, như không đơn sơ
và hòa điệu với thiên nhiên. Có lá xanh nứt ra từ trong thân cây mùa Đông
khô héo. Có hoa rừng đủ sắc trổ lên từ vẻ ủ rủ xám ngắt vùi trong mưa lạnh. Có lửa lóe lên từ đá sỏi ngỡ như vô tri, khi hai hòn đá chạm nhau xẹt lửa bên
triền núi. Có tiếng chim gọi trăng giữa đêm khuya về sáng. Có cả một sự sống
tưng bừng của tạo vật giữa núi rừng yên ắng muôn năm. Trí Hải thấy rõ “có”
một cảnh trời đất mênh mông, núi rừng biền biệt quanh mình. Nhưng ngày lại ngày
nhìn kỹ, nhìn qua mắt khi mở mắt, nhìn qua tâm khi nhắm mắt, nhìn trong tận
cùng tầm mắt trôi loanh quanh phiêu lãng khi mắt không còn nhắm mà cũng chẳng mở,
Trí Hải chẳng còn thấy gì cả. Cây, đá, khe, suối, núi đồi... hiện ra rõ
ràng như thế giới hiện thực quanh mình. Nhưng qua một đêm gió núi, mưa
ngàn, có khi những cành cây cổ thụ bật gốc và bị mưa bão đánh tan thành mảnh vụn
và gió mang đi tan tác. Hạt bụi gỗ bay đi trong gió, suối đồi đâu có biết
là nó đến từ thân cổ thụ cả nghìn năm. Có những tảng mây cao ngất cuối
chân trời, nhìn hùng vĩ hơn cả lâu đài thành quách, nhưng khi bay ngang qua đỉnh
núi, mây dường không còn là một hạt nước giữa hư không. Nhưng khi trôi về
miền đâu đó, cái hình tướng ngỡ như hư không của mây sẽ trùng trùng ngưng tụ lại
thành mưa nguồn nước lũ.
Thiên nhiên và tâm hồn con người nương nhau mà tồn tại. Trí Hải tưởng tượng
nếu như không có mình, cảnh thiên nhiên chỉ xuất hiện thuần trong đôi mắt của
con nai thì mây núi và cây rừng kia có còn nguyên màu ấy không. Ta không
là nai và nai không là ta thì làm sao chia sẻ điều bí ẩn đầu tiên và cuối cùng
đó được.
Cái có cũng là không; cái không cũng là có biến hiện trong từng
khoảnh khắc của thời gian.
Chiều mùa Xuân trên đỉnh núi Kim Phụng. Sương trắng về
sớm làm cho cả núi đồi trở thành một khối đông đặc. Trí Hải đưa bàn tay ra trước
mắt mà vẫn bị khối sương ngưng tụ chắn ngang không nhìn rõ. Mọi vật như
ngừng trôi. Trí Hải ngồi định tâm im lặng nơi mình vẫn thường ngồi trên đỉnh
núi. Màn sương dày đặc che khuất ánh sáng và tầm nhìn. Mọi vật dường như
không có. Không có nơi đây mà vẫn có đâu đó vì vạn vật vẫn có đó nhưng tất cả đều
ẩn sau màn sương. Cái “không” của vạn vật trước mắt Trí Hải lúc này là một
ý niệm đối nghịch với cái có. Cái có - không; không - có theo khái niệm đối
nghịch như thế là hai cặp nhị trùng thường xuyên chen lấn, xô đẩy, loại trừ
nhau để cho cái tôi độc tôn của mình hiện hữu. Cặp “nhị nguyên” có - không như
hai gã mù và gã sáng hay hai anh què và anh khỏe khập khiểng dìu nhau đi. Hai
trạng thái đối nghịch nhau nhưng lại nương nhau mà tồn tại. Hễ có gã nầy
thì phải có gã kia. Cứ thế mà đi mãi. Cứ thế mà lòng dòng theo bén
gót của cái sinh, già, bệnh, chết rồi... sinh. Và rồi cứ thế đi về, tái qua,
tái lại không bao giờ ngừng nghỉ.
Con thoi, con lắc vì ở đầu nầy cho nên phải chạy qua đầu
kia. Trí Hải suy nghĩ rằng, nếu con thoi và con lắc ở vào vị trí trung
cân đứng giữa thì liệu lực di động qua về giữa hai cực có biến mất hay sẽ như
thế nào. Có thể có một thế tĩnh hoàn toàn như thế hay không? Khi
hoàn toàn không có một lực gì máy động; không có một vật thứ hai tác động lên vật
thứ nhất con người sẽ đạt một trạng thái gì? Có gần với trạng thái “không” hay
chưa?
Có một cái không tuyệt đối; cái không vượt lên trên và vượt
ra ngoài hai khái niệm “có - không” đối nghịch đời thường mà Trí Hải thấp
thoáng cảm nhận được trong những cơn định tâm sâu lắng và lâu dài. Những
phương tiện giới hạn của con người như cảm giác, suy luận, lời nói, im lặng đều
vô phương và bất lực để mô tả hay diễn đạt một cách chân xác về cái Không tuyệt
đối đó. Đấy không phải là một khối lượng, một hình ảnh, một ảo giác hay một
thực thể mà là một trạng thái. Không có phương cách hay quy ước nào để
tìm tới được trạng thái “Không” uyên nguyên, thường hằng, rỗng lặng đó cả.
Chỉ có Tâm Không mới hiểu được cái Không. Nó thường hằng bất biến như một
căn tánh nguyên sơ của vạn vật nên gọi là “tánh Không”. Những hành giả chỉ
có thể đi vào cõi Không bằng công phu rèn luyện, bằng nỗ lực tu chí lâu dài, có
khi là bất tận... tự mình tìm ra con đường chánh định để đi, xây dựng một Tâm
Không. Không ai có thể trao truyền, mặc khải hay ban phát Tâm Không cho
mình ngoài chính mình tự tìm lấy. Ba tạng đại kinh thư của nhà Phật cũng
chỉ là cây gậy trúc, là con thuyền mành, là ngọn gió mát, là niềm tin yêu, là
hy vọng vàng, là ánh trăng thanh, là bó đuốc sáng giúp hành giả đơn độc lên đường.
Hành giả chỉ cần mơ màng mất phương hướng là sẽ dễ dãi
dựa vào một trong tám vạn bốn nghìn phương tiện mà tưởng lầm đã qua bờ bên
kia. Tâm dính mắc, chìm đắm mà ngỡ tìm được Tâm Không là kể như nửa đường
bỏ cuộc, ở lại bờ vô minh bên này. Cho nên, những phương tiện tìm về cửa Không
càng rực rỡ huy, hoàng, chói lọi, hoành tráng, vĩ đại theo bề ngoài chừng nào,
càng dễ đánh lừa và níu kéo hành giả dính mắc vào phương tiện nhất thời trước mắt
chừng ấy.
Cánh cửa Không chợt hé, chợt khép trong sự định tâm cùng tột
của Trí Hải. Niềm hạnh phúc huy hoàng chảy tràn khắp những nẻo đường hoàn
vũ. Nó gần quá trong cái tâm nầy mà nó xa cùng tận đâu đâu. Chỉ một sát
na tâm hoàn toàn rỗng lặng là nắm ngay được nó và chỉ một sát na vọng tưởng khởi
lên là đã xa nó muôn phương.
Trí Hải không ngớt nghĩ về từng đám bụi núi rừng ngày lại
ngày xói mòn và phá vỡ những đỉnh núi cao, chôn vùi những cánh rừng rộng mênh
mông xa thẳm. Những đám bụi tinh vân hội tụ thành trăng, sao, mặt trời và
thế giới này. Chẳng có gì đứng yên một chỗ. Và cũng chẳng có vật gì tự nó
sinh ra mà không cần trợ duyên phối hợp.
Trí Hải càng đi sâu vào sự định tâm tĩnh lặng, càng thấy rõ một
vũ trụ đang sống, đang chuyển động, đang biến tướng và biến tánh không một ly
ngưng nghỉ. Sự chuyển hóa đó xẩy ra khắp mọi nơi. Núi rừng yên lặng thế
nhưng thật sự là đang già. Thiên nhiên đang im lìm thanh thản thế kia nhưng thật
sự là đang quay tít theo chiều quay vũ trụ. Tất cả đều không có một khe hở
tơ hào để dừng lại cho hiện tại. Chạy đuổi, ngừng tay, dừng lại, ngủ
ngáy... chỉ là những cách thế khác nhau của một chuỗi hành động. Và mọi
hành trạng của một đời người, từ khi sinh ra cho đến khi chết, thì cũng chỉ là
một giọt ngắn trong dòng trôi chảy triền miên.
Sự lắng sâu trong tâm thức Trí Hải, càng ngày càng vượt ra
ngoài sự khống chế của những thói quen suy nghĩ và lý luận thông thường. Trí Hải thấy rõ mà không thể chia sẻ và phân tích được rằng: Giữa vòng quay
thành, trụ, hoại, không, có một Suối Nguồn Vũ Trụ không bao giờ cạn mà cũng chẳng
bao giờ đầy; không bao giờ ngừng mà cũng chẳng bao giờ hết. Suối Nguồn Vũ
Trụ có tính Năng để dung chứa tất cả mọi hình thái tinh thần thô và nhuyễn; có
tính Lượng để chứa chấp tất cả mọi khối lượng vật chất của hoàn vũ. Năng
và Lượng tác động lên nhau, hòa quyện vào nhau, rút lại thành một "Điểm
Không tương đối" nhỏ gần bằng không nhưng chưa phải là không. Nhỏ đến
nỗi không có gì chứa được trong đó; nhưng cũng lớn đến nỗi không có gì bao bọc
được ngoài nó. “Điểm Không tương đối” nầy có năng lượng lớn tuyệt đối không thể
nghĩ bàn, không thể diễn tả hay kể ra bằng lời. Trong điểm Không đã có vũ
trụ trong đó. Khi điểm "Không" gặp cơ duyên tác động ăn khớp với
bản chất và sức chứa vô biên thì bung ra thành vũ trụ. Gặp đối tượng
thích hợp thì kết tụ lại thành người, thành vật, thành thiên hình vạn trạng.
Cho nên, mỗi con người vừa là một vũ trụ mà cũng vừa là một hạt bụi của vũ trụ. Tiểu ngã và đại ngã chỉ khác nhau về tên gọi và hình tướng lớn nhỏ, chứ chẳng
khác nhau về bản thể.
Sách vở kinh điển càng lúc càng trở thành xa vời với Trí Hải. Ông tập trung hết tâm trí, cảm xúc, hơi thở để định tâm và định thần. Trí
Hải thấy được rằng, những hạt bụi của thể xác và những hạt giống của tâm linh
không bao giờ mất. Khi thể xác và tâm linh không còn chất keo “duyên hợp” để
níu chặt với nhau nữa là khi “duyên tan”. Khối bụi thể xác biến tướng
trong thế giới mang tính Lượng và những hạt giống tâm linh trở về hòa nhập với
thế giới mang tính Năng trong Suối Nguồn Vũ Trụ. Những hạt giống gần gũi
nhau, mang cùng bản chất lại có khuynh hướng tìm về nhau, kết hợp với nhau
thành một hợp thể mới. Và khi có “duyên” thì hợp thể của những hạt giống
mới nầy lại tác động và hòa quyện với một đơn vị thể chất mới kết tụ nào đó để
sinh ra một sinh thể mới. Dòng hợp tan biến hiện không bao giờ ngừng nghỉ. Đạo Phật gọi vòng chuyển hoá biến hiện đó là luân hồi sinh tử. Luân hồi
sinh tử là vòng quay đời đời kiếp kiếp không ngưng nghỉ một li ti thời khắc nào
cả. Một vật vừa sinh ra cũng có nghĩa là đang tiến dần về cõi chết. Một tia chớp là một tia sáng đang tắt. Một ngày mới là một vòng quay đang
lụi tàn. Không một vật thể, hiện tượng, ý nghĩ, hành động nào có thể đứng
yên dù chỉ trong một đơn vị nhỏ nhất của thời gian để xác định tự tướng, tự
tánh của mình, của nó là gì cả. Cho nên, mọi vật và mọi sự đều không có định
tính, không bao giờ xác định một tự tánh riêng đứng độc lập ra bên ngoài vòng
xoay chuyển. Cái Tánh Không đó là tánh uyên nguyên, thường hằng và tuyệt
đối. Tánh Không hoàn toàn khác hẳn với Vô Tánh. Chữ “Không” của tiếng Tàu
dịch từ chữ Phạn Sun-da-ta có nghĩa là mênh mông, trống trải, vắng lặng. Khác với tiếng Việt “Không” có nghĩa là bất, là vô, là phi… Tánh
Không là có tánh rỗng lặng thường hằng vô định tính. Ông vua đang ngồi
trên ngai kia, không phải là một ông vua (thật, có định tính, ngồi mãi làm vua
muôn đời, không chết, không đổi thay) ấy mới thật là một ông vua. Cái
nhà, không phải là cái nhà (vì nó chỉ là tổng hợp của một khối vật liệu đang
trên đà hư hoại) thì đó mới thật là cái nhà. Sự phủ định toàn triệt trong trường
hợp nầy là một sự khẳng định dứt khoát. Cần phải nhận rõ cái tánh thật của
vạn sự là tánh Không. Một sự xác tín mạnh mẽ như thế là để hành động cho đúng
đường chứ không phải để thủ tiêu hành động. Người nghĩ rằng cái “Không”
trong đạo Phật là tiêu cực, là chối bỏ, là rút lui thì đấy là một cách hiểu và
suy diễn nghịch lại với lý thuyết cơ bản nhất của nhà Phật.
Phải hiểu Tánh Không là một hiện sinh tuyệt đối mới hiểu hết
tính tích cực của Bát Nhã. Bằng không, sẽ hiểu ngược lại rằng nguyên lý
“thấy ngũ uẩn đêu không” là một phủ định luận; trong khi Bát Nhã là một khẳng định
luận về chân tánh của con người, vạn vật và vũ trụ.
Các nhà hiền triết Trung Hoa gọi Suối Nguồn Vũ Trụ là Đạo
hay Thái Cực. Và cái lý chuyển vận tự nhiên của bộ máy tạo hóa là khi “cùng tức
sẽ biến”. Dân gian gọi Suối Nguồn Vũ Trụ đó là Ông Trời. Khi sống là gởi
tạm thân xác này ở trần gian. Khi chết mới thục sự là trở về với Trời Đất.
Các đạo khác gọi Suối Nguồn Vũ Trụ đó là Đấng Toàn Năng hay Thượng Đế. Sống
chết đều do thánh ý của Thượng Đế.
Trên đỉnh núi mùa Xuân đâm lộc non, Trí Hải rùng mình ớn lạnh.
Cảm giác trút bỏ xác thân - một hợp thể của hàng tỷ tỷ hạt bụi mang tính Lượng
sẽ tan rã, thân và tâm chia tay nhau trở về nguồn cội - không biết sẽ ra
sao. Cảm giác vui buồn chỉ là ảo giác của tâm còn bị trói buộc vào thế giới
hình tướng này. Khi vẫn còn ý niệm là vẫn còn khổ đau. Trí Hải nhận
biết có một vùng trời an lạc tuyệt đối nằm trong Suối Nguồn Vũ Trụ. Sẽ
không có một sinh thể đơn lẻ nào mất đi trong Suối Nguồn Vũ Trụ. Sinh thể
mất đi, phần Lượng sẽ chuyển hóa và phần Năng sẽ trở về với Suối Nguồn Vũ Trụ
dưới dạng những hạt giống mà chữ nhà Phật gọi là Chủng Tử. Những hạt giống
mới của một sinh thể vừa chết đi, sẽ hoà nhập với hạt giống cũ đang nằm trong
Suối Nguồn Vũ Trụ của cùng một sinh thể. Tập hợp những hạt giống tích tụ
bao đời của cùng một thân phận con người nào đó hòa thành Một. Cái Một đó
không lớn, không nhỏ, không hình, không sắc. Nó cũng không là ánh sáng,
không là bóng tối. Nó chẳng phải là hai, không là một mà là Tuyệt Đối. Nơi đó không có tâm, không có tình, không có tưởng; không có hình thể và hiện
tướng riêng biệt.
Những hạt giống trầm luân sẽ kết hợp với nhau, tự nhận chìm nhau xuống để chờ đợi
phút đầu tiên sự thành hình một sinh thể mới, có cùng căn cơ để hòa nhập và tạo
ra môt sinh thể tương ứng. Những hạt giống giải thoát, tự chúng
không còn bị nhiễm. Tất cả không còn sự dính mắc để bị níu kéo, bị sự thúc đẩy
của tiến trình tự nhiên phải hòa nhập vào một sinh thể mới. Khi đã mất hết
sự cuốn hút của vòng quay do mọi hạt giống lành hay dữ của nhiều đời tích tụ lại,
mà chữ nhà Phật gọi là Nghiệp, thì sinh thể sẽ chuyển hóa thành tinh thể. Đấy là sự "hoàn lai bản nguyên" - trở về nguồn cội - với một Nhất Thể
Tuyệt Đối nên không sinh, không diệt. Tất cả là một trạng thái thường hằng, như
như bất động.
Mọi sự thông minh, uyên bác, lý luận, gọi tên, định nghĩa...
đều là những giá trị tương đối, những quy ước đóng khung nằm ở bờ bên nầy.
Bên nầy là đáy giếng sâu nên tầm nhìn không thoát ra khỏi giới hạn của
mình. Cái nhìn từ đáy giếng sâu là một cái nhìn chật hẹp nên bị đóng
khung và sai lạc. Trời đất phía trên kia có bao la lồng lộng đến độ nào thì qua
cái nhìn từ đáy giếng ấy, cũng chỉ là khoảng tròn chật hẹp như miệng giếng.
Tuyệt Đối ở bờ Bên Kia. Không có gì mua được, đổi được, sai khiến được một
sự “vượt biên” đến Tuyệt Đối, qua bờ bên kia cả. Bờ bên kia là bờ Giác Ngộ,
Giải Thoát, An Lạc, Niết Bàn… hay muốn gọi là gì cũng được vì không còn sự so
sánh, chính danh, gỉa danh hay bất cứ một khái niệm nào tương đương với bờ bên
nầy. Chỉ có hành giả mới tự độ được mình qua tới bờ bên kia. Không có con đường
nào ngắn nhất mà cũng chẳng có con đường nào dài nhất vì đây không phải là con
đường vật lý mà là con đường của tâm.
Trí Hải nhìn lại mình. Bao năm sống với trí óc mênh
mông kiến thức của học giả và đầu óc dày đặc lý luận của trí giả chỉ đủ làm thỏa
mãn cái tò mò của tri thức. Nhưng dẫu cho tri thức minh triết nhất cũng
chỉ là cuộc xông pha đánh Đông dẹp Bắc trong cái thế giới vô minh của
mình. Con lạc đà tri thức không ra khỏi sa mạc của mình và gục xuống chết
khát vì chở những khối bản đồ, sách vở, mô hình của đại dương, khe suối nặng
trĩu trên lưng. Con lạc đà muốn sống còn ra khỏi sa mạc, phải tìm tới nơi
có nước chứ không phải miệt mài một cách u tối và thỏa mãn một cách ngây thơ để
chở những phương tiện kiếm nước trên lưng. Phương tiện thì nói toàn chuyện
sông biển mà dưới chân thì toàn cát bỏng khô cằn. Bởi vậy, hành giả không
phải là người nghĩ chuyện mây mưa, nói điều sông biển mà là kẻ đi với từng giọt
nước.
Giọt nước là cuộc đời hiện thực. Vịn cuộc đời hiện thực
mà đi. Vừa đi bên cạnh, vừa giúp đời cải hóa từ giả thành chân, từ ác
thành lành, từ gian manh thành thánh thiện là tu đời, tu bụi và giúp đời tu. Với
ý nghĩ đẹp đầy năng nỗ dấy lên trong lòng, từ đỉnh núi cao, Trí Hải cảm thấy
mình thật gần gũi với cuộc đời dưới xa kia. Nguồn sinh lực mới như được
chắt lọc từ lò thuốc trên đồi Vạn Niên, chảy tràn qua đỉnh núi Kim Phụng làm
Trí Hải nhìn thiên nhiên và cuộc đời bằng đôi mắt mới. Ông tin những chân
lý cao viễn nhất cũng phải bắt nguồn từ trần gian tầm thường và đau khổ này. Do đó, những phương thuốc thần diệu nhất của tâm linh cho những con bệnh trần
gian không thể tách rời cuộc sống. Tất cả mọi ý nghĩa tầm thường hay sâu
xa nhất của sự sống phải vừa là chủ thể, vừa là đối tượng. Người mẹ ghét
hành động nghịch ngợm của con vì quá thương con. Hai người yêu nhau ghét lời
nói dối vì quá tin nhau. Hai kẻ thù nhau vì quá để ý tới lời nói, hành động
châm chọc của nhau. Mặt nhám và mặt trơn của chiếc lư đồng cũng chỉ là một mặt
để tạo nên chiếc lư đồng mà không phải là cái tô, cái chén. Hai mặt của đồng
tiền khác nhau mới tạo nên đồng tiền. Hai mặt khác nhau, không cách ly
nhau một sợi tơ hào, như một thiền sư Trung Hoa xuất thân làm đồ tể nhìn thấy:
Tạc nhật Dạ xoa tâm
Kim triêu Bồ tát diện
Bồ tát dữ Dạ xoa
Bất cách nhất điều tuyến.
Nghĩa là:
Hôm qua lòng của Dạ xoa
Hôm nay Bồ tát mặt hoa sáng ngời
Dạ xoa, Bồ tát giữa đời
Mảy may không cách, không rời đường tơ.
Tính thiện, tính ác; tính ác, tính thiện là... một. Người mẹ
ôm đứa con hư vào lòng bằng tình thương. Tình thương của mẹ đã hóa giải
nên, hư. Nên, hư được hóa giải trong tình mẹ. Khi tình thương độc
chiếm lòng mẹ thì nên, hư cũng chỉ là cái bóng bên ngoài vì đã có cái lõi bên
trong làm bảo chứng. Cái bóng nên, hư chỉ là ảo ảnh. Cái tâm làm chủ
tạo tác khiến cho nên, hư chỉ là một. Cái một đó mới là cốt lõi. Nếu nhận
ra và sống theo cái “một” đó thì chẳng còn ai phóng tâm tạo tác “điều hư” hay
mơ màng với cái bóng “điều nên” mà phải đối diện với đời sống cho ra sống. Sống trong tỉnh giác. Chỉ có sự tỉnh thức mới loại bỏ được vọng tưởng của
khái niệm "nên, hư" để sống trung chính trong từng khoảnh khắc, làm
chủ mỗi hành động lớn nhỏ giữa đời này.
Trăng mùa Xuân trên đỉnh núi đẹp lồng lộng. Ánh trăng
chiếu xuống trần gian cũng phải đeo tình. Trăng trên bãi tha ma buồn hơn
là trăng vui trên đồng lúa. Trăng treo trên đỉnh núi thanh thoát hơn là trăng
nơi kẻ chợ. Tâm người đeo trăng như cườm tay đeo vòng nạm ngọc. Trăng và
ngọc bị nhuốm màu hay đẽo gọt theo ý của người. Tìm trăng nguyên sơ hay
tìm ngọc đầu nguồn cũng khó như đi tìm cái tâm gốc, cái mặt thật của mỗi con
người. Cũng chỉ là cảnh núi rừng cũ mà Trí Hải cảm thấy như mình đang đứng
giữa một thế giới mới. Vươn vai đứng thẳng dậy với nguồn suy tư mới, Trí
Hải đi từng bước chậm rãi và an hòa xuống suối Bản Lai. Từ mé đồi cao
lưng núi, người ta có thể nhìn rõ cả con suối quanh co. Trí Hải nhìn con
suối và bắt gặp điệu sống của con người. Dòng nước từ khe núi đá cheo leo đổ dồn
xuống sườn núi thấp. Nước mới ra khỏi khe trong vắt chưa bị bụi rừng, lá
khô làm vẩn đục như tuổi thanh xuân còn trong trắng chưa nhuốm bụi trần. Những
mảng nước trôi chảy không có một đối tượng để va vào, chẳng dựa vào đâu cả, từ
trên cao đổ vào lòng suối nhẹ nhàng. Ngược lại, những mảng nước dính mắc,
va vào bờ đá, quật vào thành khe làm nước tung bên này, tóe bên kia vỡ toang,
gây tiếng động ồn ào và va chạm nghênh ngang giống cảnh gã mù say rượu.
Trí Hải suy diễn ra lòng ham muốn của con người cũng tương tự như thế. Ham muốn
hay dục vọng cũng phát khởi và trôi chảy trong lòng người như dòng nước. Càng tạo đối tượng cho dục vọng tiếp cận, va chạm, tương giao, lòng ham muốn
càng đâm chồi trổ lá. Hướng lòng ham muốn trôi đi nhẹ nhàng, ham muốn sẽ
lắng xuống.
Suối trong tưởng chừng như không có nước. Trí Hải lội
xuống nước và soi mình trên dòng suối. Bóng mình phản chiếu hiện rõ trên
bờ tường nội chiếu. Con dã nhân mất hút. Chỉ còn khuôn mặt Trí Hải
hiện ra. Một khuôn mặt thanh thoát, nhu hòa đầy thiện cảm. Trí Hải mỉm cười. Nụ cười đối bóng. Một mình trong rừng vắng với nước suối mát dịu dưới
chân, Trí Hải trút bỏ hết áo quần và mắc trên ghềnh đá. Trời, đất, nắng,
gió, sinh vật và cây cỏ xung quanh thảy đều xuất hiện trong dáng vẻ tự nhiên
không mảy may che dấu. Chỉ còn Trí Hải đầm mình trong dòng suối, tay chân
duỗi thẳng, đầu kê lên phiến đá rêu mượt như nhung. Trăng mười sáu nấu
vàng trên suối. Thiên nhiên có một nếp sinh hoạt riêng. Trăng trên
cao chiếu xuống làm cho cảnh núi rừng trở nên thâm u và huyền hoặc. Tiếng
suối chỗ róc rách, chỗ lao xao. Nước và đá gặp nhau chưa hội ngộ đã chia
tay trôi về xuôi biền biệt. Cây gió rì rào, lá khô xao xác.
Vài tia chớp nhay nháy và tiếng sấm trời, sấm đất ì ầm vọng âm đâu đó bên trời xa. Bước đi của thiên nhiên là một chuỗi phản ứng và tác động qua lại vô điều kiện. Cái này tương tác với cái kia hoàn toàn vô tư và vắng lặng. Dẫu là tiếng sấm xé trời cũng phát ra và quay về trong cõi im lặng tuyệt đối. Tất cả đều trống không, vô ngã. Chính tính vô ngã đã tạo ra sức mạnh vô biên vì không bị giới hạn giữa chủ và khách. Tính vô ngã làm cho thiên nhiên bao trùm tất cả vì không bị trói buộc “thuộc về”; không có điều kiện “nếu”, không đổ tội cho ai “tại vì”.
Vài tia chớp nhay nháy và tiếng sấm trời, sấm đất ì ầm vọng âm đâu đó bên trời xa. Bước đi của thiên nhiên là một chuỗi phản ứng và tác động qua lại vô điều kiện. Cái này tương tác với cái kia hoàn toàn vô tư và vắng lặng. Dẫu là tiếng sấm xé trời cũng phát ra và quay về trong cõi im lặng tuyệt đối. Tất cả đều trống không, vô ngã. Chính tính vô ngã đã tạo ra sức mạnh vô biên vì không bị giới hạn giữa chủ và khách. Tính vô ngã làm cho thiên nhiên bao trùm tất cả vì không bị trói buộc “thuộc về”; không có điều kiện “nếu”, không đổ tội cho ai “tại vì”.
Giữa thiên nhiên, Trí Hải cảm thấy mảnh thân xác trần trụi của
mình chẳng đáng là hạt bụi giữa vô cùng. Không có gì để bám víu. Quá khứ, hiện tại, vị lai đều không có mặt trong dòng nước trôi đi không trở lại
này. Có lúc Trí Hải bỗng quên mình có thật một thân xác mà tất cả chỉ còn
là một mảnh ý niệm đang kê mình trên phiến đá rêu. Trí Hải chỉ còn một
ham muốn tột cùng là làm sao để đưa được thân và tâm mình đến chỗ “không còn
chi để muốn.” Cái tâm tột cùng ham muốn nhân lên với cái trí không không
rỗng lặng giúp đưa Trí Hải ra ngoài biên giới đời thường. Dòng suối dịu
dàng mang đi tất cả lớp bụi trần đã lớp lớp bám dày một đời tục lụy. Trí
Hải cảm nghe như mình mọc thành cây lá và núi mọc lên mình, rồi gối đá ngủ
say. Bà Mẹ thiên nhiên âu yếm vỗ về một đứa con ngoan đang trở về bên gối
mẹ.
Giữa mơ màng hay từ trong vô thức Trí Hải nghe tiếng đàn bầu.
Tiếng đàn bầu quen thuộc quá. Rõ ràng là bản Kim Phụng Vũ, với những khúc
Nam Giao, Tương Tư, Thuận Vũ qua ngón đàn tuyệt kỹ của Ba Gấm. Tiếng đàn
của Ba Gấm không thể là tiếng đàn lẫn lộn giữa cảnh vàng thau. Tiếng đàn
đã đánh động cảm xúc của Trí Hải đến miên man tê điếng, dại khờ... Nhưng như
dòng suối đã băng băng về xuôi không trở lại, hay có trở lại chăng cũng chỉ là
mây núi, mưa nguồn, Trí Hải không câu chấp tiếng đàn về lại cho mình mà hướng
cái hay về với tất cả. Khi đàn, Ba Gấm sống với đàn.
Đôi mắt đam mê, đôi môi chúm lại như muốn thổi hết cả sức sống
vào giây tơ, dáng mềm mại trang đài và đôi bàn tay đẹp trổ hết vẻ tài hoa ấy bỗng
đâu thật gần.
Trí Hải mỉm cười thân thương với tiếng đàn, với rừng cây, với
con suối. Trí Hải bước ra khỏi suối, mặc lại quần áo và lửng thửng đi về
phía tiếng đàn đã vang lên và lặng im sau quá nửa đêm về sáng. Dưới tàn
cây cổ thụ, Ba Gấm đang dựa vào gốc cây ngồi ngủ. Chiếc đàn bầu Uyển
Thanh đặt nằm trên phiến đá trước mặt. Trí Hải lặng lẽ đứng nhìn Ba Gấm
ngủ ngồi. Sau hơn nửa năm xa cách, Ba Gấm tìm đến nơi này. Dáng ngủ đẹp
và hiền như nàng công chúa trong truyện đời xưa. Những cơn sóng tình cảm
xô dạt vào bờ rất nhẹ vì đại dương tâm hồn ngoài kia đã lặng gió.
Nắng mai vừa lên. Ba Gấm mở mắt. Trí Hải đang đứng
nở nụ cười đầy bao dung trước mặt. Ba Gấm đứng bật dậy dang tay ôm choàng
Trí Hải và kêu lên:
- Anh! Có thật Trí Hải đây không? Thật hay mơ đây anh?
Trí Hải không có một phản ứng nào khác hơn là nhẹ nhàng trả lời:
- Thật mà! Trí Hải đây em.
Ba Gấm gục đầu vào ngực áo Trí Hải, khóc mùi mẫn như trẻ thơ:
- Anh ơi! Anh có thể bỏ tất cả, nhưng sao anh lại nỡ bỏ em mà
đi. Em đi Hàng Châu về thì anh đã đi rồi. Ông cụ Phạm Xảo, thầy Tiều
cũng chẳng biết anh đi đâu. Em và người nhà em phải dọ hỏi hơn cả tháng
trời mới biết là anh đã lên núi nầy tu tiên. Em thương anh, em nhớ anh chết
được. Thôi, thôi bỏ hết, về lại với trần thế này, về lại với em đi anh.
Trí Hải cười vô tư lự, trả lời:
- Đâu cũng là sông núi quê mình, huynh đi quanh cho biết đó
biết đây chứ có đi đâu mà “bỏ”!
Ba Gấm giận dỗi một cách hồn nhiên:
- Coi kìa! Bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ em, bỏ hết đằng sau để đi tu
tiên, tu đạo... mà không phải là “bỏ” đó sao?
Trí Hải lại cười. Vẫn với giọng nhẹ nhàng:
- Hì, hì! Huynh chỉ đi tìm chút yên tĩnh thoải mái nơi chốn
núi rừng ít bụi bặm nầy thôi chứ có tu hành gì đâu.
- Thôi, cứ cho là vậy cũng được đi. Em tin. Nhưng để em
xem thử huynh có gì thay đổi không đã.
Ba Gấm vừa nói vừa dang ra xa nhìn âu yếm Trí Hải từ đầu tới
chân. Cứ mỗi lần quan sát là có kèm theo một câu bình luận:
- May quá! Chưa đổi thật. Đầu vẫn còn tóc nguyên vẹn này.
Áo quần sờn vai sứt chỉ cả rồi, nhưng vẫn là bộ áo quần cũ nầy.
Trí Hải vẫn tươi cười im lặng. Vẻ mặt an nhiên nhìn Ba
Gấm đầy thân thương, nhưng bằng đôi mắt thương nhìn cuộc đời, nhìn vẻ đẹp của
non nước và mây trời.
Ba Gấm nhìn sâu vào đôi mắt Trí Hải, dừng lại rất lâu không
chớp mắt, rồi từ từ nhắm mắt lại. Khi giọt nước mắt long lanh trong khóe
mắt vừa ứa ra, Ba Gấm kêu lên, giọng thương yêu, ngọt ngào mà đau xót:
- Anh ơi! Anh không nhìn thấy em đứng bên anh đây sao? Đôi mắt anh vẫn chứa cả một trời yêu thương nhưng ánh mắt hào hoa lãng mạn đâu
rồi? Ánh mắt yêu đương nóng bỏng và cuốn hút đậu trên mắt em, trên môi
em, trên ngực em, trên thân thể của em đâu rồi? Nhìn sâu trong mắt anh,
em thấy mình đã mất hẳn trong thế giới của anh. Em cần anh, em cần anh thương
em, em muốn anh ôm em như ngày xưa. Em không chịu nổi nữa rồi. Em sắp
ngã đây. Ôm em đi anh. Ôm em vào vòng tay của anh đi.
Trí Hải vừa kịp đỡ khi thân thể Ba Gấm khuỵu xuống. Trí
Hải để yên Ba Gấm nằm trong vòng tay mình rất lâu. Mặt trời lên cao. Ba Gấm
như vừa choàng tỉnh dậy sau một giấc mơ buồn, lên tiếng:
- Vòng tay anh vẫn siết chặt quanh em âu yếm. Nhưng hơi
ấm của đam mê đâu rồi. Em bắt gặp vòng tay anh ấm áp như vòng tay của người
mẹ dành cho đứa con thơ dại. Em khổ quá. Em đã mất hẳn trong anh rồi
sao? Nói đi, nói cho em nghe đi anh. Vì sao? Vì sao anh vẫn
là anh mà lại biến thành một con người khác với em như thế? Em hư hỏng, em vô
duyên, em vụng về nên anh đã nhàm chán và lạnh nhạt tình cảm với em rồi sao?
Trí Hải cầm tay Ba Gấm, mắt vẫn sáng lên niềm yêu thương, miệng
vẫn không tắt nụ cười độ lượng, rồi ôn tồn nói với Ba Gấm:
- Huynh vẫn là Trí Hải chẳng có gì thay đổi. Nếu có
chăng chút thay đổi thì đó là hướng nhìn. Ngày trước, huynh chỉ quen nhìn
ra phía ngoài, nhưng nay lại quen nhìn vào bên trong. Với lối nhìn hướng ra bên
ngoài, anh chỉ thấy vẻ đẹp bên ngoài của đối tượng nhìn nên trước cái đẹp, anh
chỉ tham lam nắm lấy, ôm lấy và nhổ bật gốc cái đẹp để mang về làm của riêng
cho mình. Nhưng ngược lại, với lối nhìn hướng vào bên trong anh thấy được
vẻ đẹp như một đền thánh. Anh cũng trân trọng, ngây ngất, cảm động trước
vẻ đẹp, nhưng chỉ muốn tôn xưng và ca ngợi vẻ đẹp. Anh không còn muốn nhổ
bật gốc vẻ đẹp ra khỏi bản thân của nó để đem về cất giữ, làm thỏa mãn lòng ham
muốn ích kỷ của riêng mình. Cũng vì không có lòng riêng nên cảm xúc cũng
không còn giới hạn trong mối tương quan Ta và Người. Cầm bàn tay búp măng
đẹp tuyệt vời của em trong tay anh, anh muốn quỳ xuống hôn bàn tay em như hôn một
đóa sen vừa mới nhú ra khỏi bùn thơm ngát...
Không chờ cho Trí Hải diễn tả hết lời, Ba Gấm giật đôi bàn
tay của mình ra khỏi tay Trí Hải và chạy như điên dại xuống núi, về phía suối Bản
Lai. Không nói thêm một lời hay kêu giật lại, Trí Hải lửng thửng đi
theo. Khi chạy xuống gần dòng suối, Ba Gấm dừng lại và hét lên thất thanh
khi nhìn thấy con dã nhân gầm gừ nhe nanh, tuốt móng ra đứng chận ngay trước mặt.
Ba Gấm la hét càng lớn, con vượn càng hét lớn hơn. Sự sợ
hãi tột độ làm cho tay chân Ba Gấm cứng lại và nhức buốt như bị đóng
băng. Trời đất tối sầm lại. Gió giật mạnh như muốn cuốn phăng hết cả
khu rừng đem đổ hết dưới vực sâu. Sấm sét kinh động. Ba Gấm nhắm mắt, buông tay
mặc cho thân xác mình bị cuốn trôi phăng phăng trong cơn gió xoáy…
Cơn bão đã gào thét với rừng già không biết bao lâu. Khi
mở mắt, Ba Gấm tìm thấy cả thân mình bị chìm ngập trong lá. Rồi một luồng
gió mạnh từ đỉnh núi cao thổi xuống. Lá bay hết không còn một ngọn. Ba Gấm nhìn xuống thân thể mình và cảm thấy lạnh run vì đầu óc rỗng không và
thân thể trần truồng không có một miếng vải che thân. Ba Gấm mắc cở với
núi, với đá, với rừng cây khi cố đứng dậy trên đôi chân yếu ớt của mình. Không còn bước nổi, Ba Gấm bò lê trên đất. Miệng ú ớ không phát ra được một
tiếng, một lời nào có ý nghĩa. Ba Gấm cảm thấy mình đang chết, nhưng lại
có ý thức rất rõ ràng về sự chết của mình. Ba Gấm cảm thấy mình tái sinh
và cũng có ý thức rất rõ ràng về sự tái sinh của mình. Trí Hải từ
đâu sau bóng núi dày đặc chợt hiện đến. Sau lưng Trí Hải là một nhà sư áo
vàng mà Ba Gấm chưa từng quen biết. Nhà sư đứng lẫn với bóng mây. Áo vàng lộng gió. Mầu kim quang từ chiếc áo nhà như ánh sáng mặt trời ấm
quá làm Ba Gấm tỉnh lại. Ánh sáng ấm che thân thể Ba Gấm giống những vuông vải
lụa dệt bằng tơ tằm ngày xưa nơi quê mẹ. Bóng nhà sư chìm dần và Trí Hải
đến bên cạnh. Ba Gấm bắt đầu nhận biết mình đang ở đâu. Ba Gấm gục mặt tựa
trên vai Trí Hải vừa khóc vừa bày tỏ nỗi lòng:
- Quái vật, quái vật xuất hiện! Rồi lại có thần núi áo
vàng đến cứu. Em sợ quá huynh ơi! Ơ... mà sao huynh lại bỏ em, đối xử với
em lạnh lùng đến như thế?
Trí Hải đỡ nhẹ khuôn mặt sợ hãi đầm đìa nước mắt của Ba Gấm
ra khỏi vai mình, vừa an ủi, vừa giải thích về hiện tượng bức tường “nội chiếu”,
phản chiếu khuôn mặt thật của con người đối diện. Sự tò mò, tình yêu sâu
nặng cùng với lòng kiêu hãnh của một người đàn bà có đầy đủ sự giàu sang, quyền
thế và sắc đẹp đã khiến Ba Gấm chuyển từ tâm lý yếu đuối, nhận chịu sang thái độ
đương đầu. Tâm lý ngang bướng lẫn với niềm đau cùng hiện ra trong lời nói
của Ba Gấm:
- Chính dòng suối và con dã nhân nầy đã hớp hồn, hớp vía của
huynh. Được, em sẽ lấy lại...
Ba Gấm có thừa người, thừa của, thừa quyền lực để chiến thắng
và khuất phục những thế lực hữu hình, chinh phục những đối tượng “có”, chứ
không bao giờ mất công để ý đến “cửa không”! Tất cả sức người và sức của
do Ba Gấm đưa ra để mong đánh bại con dã nhân vào những ngày sau đó đều không
có được một tác dụng nhỏ nào. Con người tự đánh vào mình để tìm một chiến
thắng ngoài mình là một đam mê ảo tưởng.
Con dã nhân vẫn đứng chận ngay lối vào dòng suối. Đoàn
người của Ba Gấm từ đồng bằng ồ ạt tiến lên, họ trang bị đủ cung tên, giáo mác
với sức người, sức của cuồn cuộn. Theo lệnh của Ba Gấm, họ sẽ phá tan bờ
đá, lấp cạn dòng suối, bắt sống con vượn nhốt vào chuồng là yên chuyện. Nhưng
đoàn người dựng lều, đốn cây, phát rừng, trổ lối, cắm trại nơi bìa rừng đã mấy
ngày mà vẫn không có một ai tìm ra dòng suối và thấy được con dã nhân ở
đâu. Trong khi đó, Ba Gấm vẫn chỉ trỏ la hét luôn miệng như một người mất
trí.
Ngày cuối cùng của chuỗi đấu tranh không chiến thắng, Ba Gấm
thất vọng buông tay. Con dã nhân vẫn đứng chận ngay lối vào dòng suối. Ba
Gấm mệt nhoài, đuối sức gục xuống bên sườn đá. Khi ngẩng lên, lại bắt gặp
bóng dáng ẩn hiện của nhà sư áo vàng thấp thoang như mây khói bên sườn
núi. Ba Gấm chấp hai tay, hỏi thành khẩn:
- Tôn ông là thần núi?
- Không.
- Là nhà sư?
- Vâng.
- Dám xin hỏi sư ông tại sao dòng suối ma trơi và con dã nhân
độc ác cứ bám riết lấy tôi, trong khi đoàn người của tôi không ai thấy cả?
- Đoàn người làm theo lệnh sai khiến để sống nên hành động mà
tâm không động. Quý phu nhân không hành động mà tâm động. Suối Bản
Lai là dòng suối nội soi và dã nhân chính là sự phóng chiếu cái tâm ham muốn thầm
kín của phu nhân đó thôi.
- Bạch sư ông, thế thì tôi phải làm sao để cho tâm mình đừng
động?
- Không ham muốn, không mong cầu. Thương yêu nhưng đừng mong
chiếm đoạt lấy riêng cho mình. Hành động nhưng đừng mong làm đấng tối cao
ngồi trên đầu, trên cổ thiên hạ. Khi ấy tâm sẽ rỗng lặng. Dòng suối
dẫu nội soi cũng chỉ là soi bóng chân không nên suối chẳng hiện hình và tâm
cũng không còn bóng dáng để chiếu lên thành con vượn chuyền cành kiểu “tâm
viên, ý mã”.
- Dạ, xin cảm ơn sư ông. Tôi có thể xin được biết pháp
danh và đạo vị của sư ông không ạ?
Không có tiếng trả lời. Ba Gấm nhìn lên. Dáng áo
vàng và đám mây đã bay qua đỉnh núi.
Nhìn Trí Hải lội qua bên kia bờ suối êm thấm và nhẹ
nhàng như đi bằng xe mây, Ba Gấm nhắn với:
- Huynh ơi! Bằng chính tất cả tâm sức của mình để chiến
đấu đến nước nầy em mới hiểu rằng, chỉ có tâm Không mới đi vào được cửa Không.
Bây giờ em mới hiểu được một phần thế giới nội tâm anh. Tâm anh rỗng lặng,
không có gì cả. Không có gì cả, để có tất cả: Có đôi mắt thương
nhìn cuộc đời - từ nhãn thị chúng sanh; có cảm xúc sâu xa không dành riêng cho
em, cho một người nào mà cho tất cả; có tấm lòng nhân hậu và trong sáng không
dính mắc, không chấp ta, chấp người. Anh ơi! Em muốn đánh đổi tất cả
để theo anh về bên kia bờ suối đó.
Sau lớp khói nước dày đặc, Ba Gấm không còn nhìn thấy Trí Hải
ở bờ suối bên kia mà chỉ nghe tiếng vọng:
- Em, Ba Gấm, anh vẫn chờ em bên này. Nhưng trước hết
em phải thắng con dã nhân đang cản đường em đi tìm anh.
- Nghĩa là anh khuyên em phải thắng mình trước đã, phải
không?
- Rất đúng em ạ.
- Nhưng bằng cách nào?
- Phải vượt thắng cho được lòng ham muốn của mình.
- Phải mất chừng bao lâu hả anh?
- Làm sao anh biết được. Tất cả tùy vào em. Có thể
ngay bây giờ, có thể một ngày, một tháng, một năm mà cũng có thể không bao giờ
thắng nổi.
- Em phải bắt đầu từ đâu anh?
- Từ tình yêu của chúng mình.
- Anh lại nỡ đùa với em nữa sao?
- Không, anh nói thật mà. Và anh tin là em thừa thông minh và
nhạy bén để hiểu...
- Em đang bối rối quá chừng. Em có cảm tưởng như tình
yêu của chúng mình chỉ còn là mây khói trong anh.
Tiếng Trí Hải reo vui từ bên kia suối:
- Em giỏi quá. Nếu là mây khói thì nghìn năm vẫn còn
bay mãi trên suối rừng nầy. Chỉ có những cuộc tình nóng lên rồi sẽ nguội
và tắt ngúm khi xác thân nầy đi qua.
Tiếng Ba Gấm bên bờ nầy yếu ớt:
- Em sợ...
- Sợ gì em?
- Sợ ngày tàn qua nhanh. Sợ em đuối sức. Sợ anh bỏ
em. Sợ con dã nhân bên bờ nầy độc ác.
- Em thử đừng nghĩ đến em, đừng nghĩ đến anh, đừng nghĩ đến một
ai đơn lẻ cả.
- Không thể được. Sống mà không nghĩ đến mình, đến người
mình yêu, đến kẻ mình thương thì sống để làm gì nữa?
Tiếng cười hồn nhiên của Trí Hải bên bờ kia lại vẳng đến. Tiếng Trí Hải vọng lại, rắn rỏi, đầy quyết đoán:
- Em ơi! Em muốn đi đâu cũng được nhưng cần phải có đôi
chân, có đôi mắt và có con đường trước mặt.
- Nhưng trước mắt em bây giờ chỉ có con dã nhân hung dữ đang
cản đường và sẵn sàng quật ngã em bất cứ lúc nào.
- Con vượn người ấy chính là phóng ảnh của tâm em. Thử
ráng quên em đi trong một khắc xem con vượn có còn không.
- Em vẫn còn đang sống sờ sờ đây mà làm sao em lại quên em
cho được hở anh?
- Phải bắt đầu bằng sự cố quên thôi em ơi. Quên mắt em
đang nhìn say đắm về cái đẹp của em và của anh. Quên em đang nghe và thổn
thức chờ đợi tiếng nói yêu đương phát ra từ trong em và tiếng vọng lại từ anh. Quên đi ngọn lửa dục tình đang rần rật cháy trong thân xác em và tưởng tượng đợi
chờ ngọn lửa ấy sẽ đáp lại từ nơi anh. Quên đi mùi hương da thịt của cả
em và của anh. Quên đi những nụ hôn say đắm vẫn còn đê mê trên đầu lưỡi. Quên đi sự tan biến thể xác của em và của anh vào trong nhau. Ráng giữ sự rỗng
lặng của tâm hồn.
- Khó quá anh ạ. Em yếu đuối và cô đơn. Em cần anh giúp
em mới được. Huynh ơi, em nhớ anh, em muốn đến với anh, nhưng con dã nhân
đã chặn đường. Ô, kìa! Con dã nhân lại nhe nanh gầm gừ trước mặt em
như muốn ăn tươi nuốt sống em... em sợ quá.
Tiếng vọng từ bên kia:
- Ngoài em ra, không ai có thể giúp em được cả.
Ba Gấm ôm mặt khóc òa. Nước mắt là biển lớn cưu mang những
con sông ốm yếu. Nhưng nước mắt cũng là phép lạ để giúp định tĩnh những dòng chảy
run rẩy lạc đường. Nước mắt đã làm cho nàng cung nữ Ba Gấm chân quê sống
còn trong cung cấm. Nước mắt cũng đã thành suối, thành dòng luyện lòng
kiên nhẫn và kiêu hãnh để cho cô bé “học nô” thành ái thiếp được nể vì của quan
chánh chưởng. Nước mắt không phải là chiếc đũa thần nên nó chẳng giúp được
ai đạt được điều ước, nhưng nó là thuốc an thần giúp người ta quên đi và yên
tâm sống với điều ước không thành. Dường như tuyệt vọng, Ba Gấm buồn bã để
cây đàn bầu trên phiến đá. Với ngón đàn điêu luyện, Ba Gấm mượn tiếng độc
huyền bắt chước tiếng đời. Luyến láy theo ngón đàn tuyệt kỹ, Ba Gấm có thể
khiến âm thanh tiếng đàn diễn tả theo âm thanh rao hàng của người bán chè
khuya, tiếng gọi đò, tiếng mõ cầm canh. Tiếng độc huyền cầm vang lên tấu
khúc tiếng chim kêu, tiếng vượn hú, tiếng hổ gầm, tiếng gió lao xao, tiếng mây
qua núi, tiếng trăng xao động... Cái tôi tài hoa của Ba Gấm trên phím đàn đã
chuyển hóa thành tiếng núi rừng hòa điệu xung quanh. Cái “ngã” nghệ sĩ đã
hóa giải được cái tôi cố chấp. Ý niệm bám víu về cái “ta” mơ hồ đâu đó
thành vô tưởng và không còn nơi an trú trong tâm thức của Ba Gấm. Khi
không còn bị cái tôi ham muốn lôi đi, Ba Gấm mở lớn mắt nhìn trời và thở sâu từng
hơi thở tự do.
Con dã nhân biến mất, nhưng Ba Gấm không còn cảm thấy sự thôi
thúc phải lội qua dòng suối bên kia để gặp Trí Hải. Thì ra, “bên nầy” hay
“bên kia” cũng chỉ là một cách nói đối đãi phân biệt vì thật ra thì chẳng có
bên nầy hay bên kia. Khi cái tâm đã định, con người ta sẽ bước trên đường
Trung Đạo. Và nói như thiền sư Thần Hội, tông phái Tào Khê đời Đường:
“Trung đạo là một bên”! Câu nói có vẻ như nghịch lý nhưng lại gần với
chân lý. Còn hai bên là vẫn còn sự lôi kéo nhị nguyên, còn chao đảo, còn
thiên vị, còn mất quân bình. Trí Hải từ phía bờ bên kia không còn tiếng vọng.
Ba Gấm từ bờ bên này không còn tiếng kêu với. Chung một con đường - hiểu
nhau - là hai bờ liền một trong im lặng, cảm thông.
Dưới lưng đồi dẫn lên núi Kim Phụng, nhóm gia nhân người ngựa
của Ba Gấm phò thân chủ lên núi tìm Trí Hải được lệnh quay về. Bên bờ suối
Bản Lai, Trí Hải và Ba Gấm cũng đang chuẩn bị xuống núi. Sự xôn xao níu
kéo ân tình đã lắng xuống. Đóa hoa sẽ thơm hơn khi không có sự can dự của
gai, nhựa, phân bón, bùn đất bám vào. Khi quan hệ nam nữ nhẹ phần giới
tính, nhu cầu chiếm đoạt và sở hữu lơi dần. Sự đòi hỏi thỏa mãn xác
thịt biến tướng thành một nhu cầu cao hơn. Đó là nhu cầu cảm thông và
chia sẻ những niềm tin, ước mơ và tri thức. Ước mơ càng lớn và lý tưởng vị
tha càng cao thì thình tình riêng của Trí Hải - Ba Gấm càng nhỏ lại và tình
chung lớn dần. Nước suối Bản Lai đã rửa sạch lần cuối nỗi thèm muốn nhầy
nhụa của thể xác.Con vượn người trơ tráo chỉ chịu thua cái tâm thanh tịnh
trong mỗi con người. Cùng đi chung một lối quay về, Ba Gấm và Trí Hải có
thể nhìn sâu vào mắt nhau mà cười trong sáng như nắng mai trên đỉnh núi Kim Phụng
nầy.
Lưu luyến nhìn quanh cảnh núi rừng trãi dài đến cuối tầm mắt,
Trí Hải cảm thấy một nỗi xúc động mơ hồ mà mãnh liệt. Tâm tình trào dâng từ
trong sương khói, không biết vì đâu. Quảy khăn gói nhỏ lên vai, Trí Hải
nhìn về phía chùa Từ Vân còn lặng ngủ trong mây; suối Bản Lai vẫn kỳ bí với Bức
Tường Nội Chiếu và tiếng nước không mõi mệt rơi trên thềm đá núi. Bước ra
khỏi màn sương bao quanh lưng núi, mặt trời chiếu rọi trên cảnh vật tươi mới
mùa Xuân. Ánh nắng mai tràn lan sông núi và đậu rực rỡ trên màu y vàng của
một vị sư đã đứng đó, vẫn mãi là tư thế nửa mình còn khuất sau đồi mây.
Sư Trúc Lâm. Trí Hải chắp tay chào và nhà sư tươi cười đáp lễ. Trí
Hải tiến đến gần nhà sư và mở lời trước:
- Thưa thiền sư, tôi đến đây đã nửa năm, đã nhiều lần đến viếng
chùa và ghé qua thiền thất nhưng chưa lần nào được may mắn diện kiến thiền sư.
Sư Trúc Lâm cười đôn hậu, trả lời mà như hỏi:
- Thiện hữu nửa năm không gặp sơn tăng nầy mặt đối mặt, nhưng
chúng ta vẫn thường gặp nhau, phải không?
Trí Hải nhìn nhà sư cảm động, trả lời:
- Dạ phải, chúng ta gặp nhau hàng ngày. Thân xác thiền
sư là mây khói, nhưng định lực của thiền sư vững như núi Tu Di cho tôi dựa vào
đó khi ngã xuống; tuệ giác của thiền sư sáng vằng vặc. Cám ơn thiền sư đã ở bên
tôi trong từng động tĩnh. Không có định lực cao viễn của thiền sư dẫn dắt,
chắc chắn tôi và Ba Gấm sẽ còn lạc mãi hay tinh thần đã bị thiêu hủy trong cơn
tẩu hỏa nhập ma, không có nẻo quay về.
Nhà sư đặt cả hai tay lên khăn gói của Trí Hải như một cử chỉ
vẫy chào, nói chậm rãi:
- Đức Phật không ở trong chùa, đạo Phật không ở trong kinh
sách, người mến Phật hay theo Phật không ở trong mầu áo. Tất cả đều ở trong tâm
và tâm ở giữa đời thường. Thiện hữu xuống núi xin nhớ một điều: Cái ngã dấy lên
trong tâm như sóng vỗ vào bờ, động và tĩnh trong từng khoảnh khắc. Không bến,
không bờ lấy gì mà sóng vỗ.
Trí Hải và nhà sư cúi mình chào từ biệt.
“Không bến không bờ, lấy gì mà sóng vỗ”. Trí Hải ngẫm
nghĩ lời nói sau cùng của sư Trúc Lâm trên suốt đường về.
Bến bờ là những rào cản, những giới hạn hơn thua, những biên
cương ta và người, những sắc màu đậm nhạt. Hai phần đời mãi mê xây dựng
những bến bờ, làm sao phá đổ. Tiếng chim cu cườm gáy nắng, gọi mùa Xuân ở đâu vọng
tới. “Tiếng chim cu buồn vời vợi”! Trí Hải giật mình. Lại xây bến bờ
cho tiếng chim cu làm tiếng chim vô tư ấy dội vào một cái “ngã” đang man mác buồn. Tiếng chim vô cớ bị đeo sầu. Trí Hải chúm chím cười với nắng, nhè nhẹ gỡ
biên giới chật hẹp của lòng mình lan tới cõi bao la. Cũng là tiếng chim
cu đang gáy ấy, nhưng không bị bến bờ chận lại, tiếng chim vang xa không biên
giới. Tiếng chim đầy một bầu trời thanh âm, mang sự ấm áp và dịu ngọt khởi lên
từ một suối nguồn nhỏ bé về giữa mênh mông.
CHƯƠNG HAI MƯƠI BA
Hành Giả
Trí Hải về lại tòa lâu đài đổ nát. Con chó mun và con mèo tam
thể thường vẫy đuôi mừng chủ cũng không còn. Người cũ về nhà xưa chỉ thấy
vườn hoang nhà trống. Cỏ tranh và cây dại mọc khắp nơi. Trí Hải để
khăn gói trên vai xuống và đi thẳng ra phía mé vườn canh tác phía đông. Trong giới hạn một khoảnh vườn nhỏ, khoai sắn và bắp đậu mọc lên xanh tươi chứng
tỏ vẫn có bàn tay người chăm bón mà có lẽ không ai khác hơn là Phạm Xảo và thầy
Tiều. Đi vòng quanh xa hơn trên cánh đồng phì nhiêu mấy trăm mẫu đất nhất
đẳng điền, đồng hoa rực rỡ năm trước nay chỉ còn là một cánh đồng hoa dại. Trí Hải thở mùi hoa lẫn đất và miên man suy nghĩ đến những việc cần phải làm
trong những ngày sắp tới. Kiếm một gò đất cao có cây đa và cây bàng cổ thụ
đang trổ mầm xanh chi chít dưới trời Xuân, Trí Hải ngồi xuống trên phiến đá dưới
tàn cây xanh, sửa thế hai chân ngồi xếp bàn và định tâm. Một sức sống mới
vừa dậy lên khi Trí Hải nhớ lại nét mặt an lạc, nụ cười nhân hậu và giọng nói
khoan hòa của sư Trúc Lâm. Lời nhà sư vẫn đồng vọng: “Đức Phật không ở
trong chùa, đạo Phật không ở trong kinh sách, người mến Phật hay theo Phật
không ở trong mầu áo. Tất cả đều ở trong tâm và tâm ở giữa đời thường.”
Câu hỏi lớn hiện ra trong ý nghĩ của Trí Hải, “đời thường tìm ở đâu và ta phải
đặt cái tâm của mình ở chỗ nào trong cuộc 'đời thường' đó?”
Dòng suy tưởng kèo dài miên man cho đến khi ý nghĩ của Trí Hải bắt đầu thinh lặng,
tâm thức không còn dấy lên một ý niệm nào cả. Trong trạng thái rỗng lặng
bình an đó, Trí Hải cảm thấy niềm hạnh phúc vô biên ào đến. Sóng hạnh
phúc không đập vào bờ dồn dập mà chỉ mơn man bình thản, rồi tan loãng vào cỏ
hoa đồng nội. Trong trạng thái an tịnh đó, Trí Hải không cần phải dang
tay nắm bắt cuộc đời mà hiện hữu ngay giữa lòng cuộc đời. Trong đó, thánh
nhân và phàm nhân không cách nhau một sợi tơ hào mà lắm khi chỉ là một.
Gió Nồm từ phía sông Hương thổi vào mang theo tiếng bước chân nhè nhẹ. Trí Hải
ngước mắt nhìn lên. Phạm Xảo đang bước thoăn thoắt lên gò, đi về phía Trí
Hải, tay xách hai nồi đất nhỏ quen thuộc thường dùng để bới cơm. Đứng
lên, dang tay hướng về phía Phạm Xảo, Trí Hải mang một cảm giác thật gần gũi và
thân thương với người trước mặt. Tình nghĩa con nhà tướng thủy chung và
thân quý vô cùng. Phạm Xảo cũng tiến tới quàng tay ôm lấy Trí Hải, không
nói gì. Khi nhìn sâu vào mắt nhau, Phạm Xảo tỏ vẻ xúc động, bước lùi lại,
muốn nói một điều gì chưa rõ hết:
- Lạ quá! Chỉ mới nửa năm thôi mà hoàng thân như đã thành một người khác.
Trí Hải hỏi lại, giọng pha một chút bông đùa:
- Phạm huynh ơi! Thế nào? Tóc thành tiêu muối và trông ra dáng đẹp lão hơn phải
không?
Phạm Xảo ra vẻ nghiêm trang và thành thật:
- Thể xác thì cũng như mùa Xuân lá xanh, mùa Đông tuyết trắng chẳng có gì đáng
nói. Nhưng dáng vẻ cùng cách nhìn, cách nói của hoàng thân có vẻ như khác hẳn
ngày trước. Đôi mắt của hoàng thân trong và sáng quá. Mắt nhìn
không chứa mây mờ hay dấu diếm điều gì cả. Nhìn trong mắt của hoàng thân,
người đối diện có thể thấy khuôn mặt mình trong đó. Cung cách của hoàng
thân cũng khác. Nó ấm áp, dễ gần gũi và thanh thoát hơn ngày trước nhiều
lắm.
Trí Hải vui và muốn nói lời cám ơn với Phạm Xảo, nhưng lại tự
chế để những làn sóng khen chê nhất thời không có bến bờ đón lại để vỗ
vào. Cái tâm không bị tác động thuận hay nghịch sẽ tránh được dao động
tình cảm khiến cho người ta hân hoan thỏa mãn hay uất ức giận hờn.
Từ trên gò đất cao, Trí Hải và Phạm Xảo đứng sát bên nhau
trong gió Nồm mát lạnh buổi chiều để nhìn cánh đồng trống trãi dài mênh mông dưới
thấp. Trí Hải nói lên dự tính tương lai cho mấy trăm mẫu đất bỏ hoang mọc
đầy hoa dại đã làm Phạm Xảo ngỡ ngàng không tin là điều có thật:
- Bắt đầu ngày mai, tất cả đất đai trong Thái Ấp nầy sẽ được
khai khẩn trở lại.
Phạm Xảo hỏi lại với giọng hoài nghi:
- Hoàng thân nói đùa hay nói thật? Không phải hoàng thân thường
cho rằng, khai thác tài nguyên để làm nên của cải vật chất là tham vọng, là xa
rời nếp sống đạo hạnh hay sao?
- Sách vở đã từng dạy tôi như thế, và sách vở cũng đã từng dạy
điều ngược lại huynh ạ. Đức Khổng tử dạy đạo nhập thế để cứu đời giúp
mình; Lão Trang thì dạy xuất thế mới là con đường vương đạo. Ai hợp với
đường nào thì theo đường đó.
- Vậy thì nguyên nhân nào đã làm cho hoàng thân thay đổi quan
niệm sống và trở thành “nhập thế” như vậy? Đạo Phật đã chuyển đổi cách nhìn và
cách sống của hoàng thân chăng?
- Nếu nói về ảnh hưởng đạo Phật thì tôi phải thành thật trả lời
vừa “có”, vừa “không”. Nếu chỉ đơn giản nói đạo là con đường đưa đến cái
thật, cái hay, cái đẹp thì đạo thờ cúng ông bà của dân mình, đạo Khổng, đạo
Lão, đạo Chúa... vốn là những con đường khác nhau nhưng thảy đều hướng đến mục
đích xây dựng cái hay, cái đẹp. Sai là do người đi lạc chứ không phải vì
con đường.Tôi kính ngưỡng mọi con đường trung chính, nhưng nếu phải chọn cho
mình một con đường đạo, tôi có khuynh hướng gần gũi đạo Phật; đơn giản chỉ vì
đây là con đường tự do và thoáng đạt. Tôi tâm đắc vô cùng với quan niệm rộng
rãi: “Có tám vạn bốn ngàn cách khác nhau để tự mình tìm đến với Chân Tâm,
với Trí Giác trong chính mình.”
Phạm Xảo nheo mắt như định thần nhớ lại một thời kỳ đã xa khuất:
- Nếu thời thế không tao loạn, đổi thay, có lẽ bây giờ tôi là
một nhà sư.
- Huynh có hối tiếc vì vì sự đổi thay đó không?
- Đối với một người trẻ, khi tiếc thì chỉ có đôi điều để tiếc
vì vẫn còn nhiều cơ hội ở tương lai; nhưng đối với một người già một khi đã tiếc
thì có quá nhiều điều để nuối tiếc vì đã hết cơ hội làm lại cuộc đời.
- Biết đâu nếp sống cô quạnh, lương thiện, giúp người của
huynh trong hơn 30 năm qua cũng là một trong tám vạn bốn ngàn cách hành đạo.
Hình tướng có quan trọng gì đâu giữa biển cả bao la của muôn hạnh tu trì trong
Phật giáo.
- Cám ơn hoàng thân. Ngày xưa, tôi đã từng học nằm lòng Bát
Nhã Tâm Kinh và một thời sống với nghĩa lý Kim Cang. Thời xưa đó, tôi hiểu
lờ mờ lời đức Phật trong câu nói: “Kim Cang tức không phải là Kim Cang, mới
thật là Kim Cang.” Tôi và nhiều chú tiểu ở chùa chỉ học được vế đầu, vế phủ
định của nghĩa lý nhà Phật, rồi dừng lại ở đó. Từ điểm dừng của mình, tôi
trở thành vô minh khi đem cái biết nửa vời của mình ra nhìn đời. Tôi cho
đạo Phật là tiêu cực, là bi quan, là xa lánh cuộc đời. Ngày đó, tôi không hiểu
hết sức mạnh năng động, tích cực vô cùng của nhà Phật về Tâm Không, Vô Ngã. Ra
đời, thực tế đã dạy tôi rằng, trên đường tiến quân, khi mà những sự vướng mắc
đã được quét sạch thì sức mạnh sẽ tăng gấp đôi. Cũng thế, thấu hiểu được
Tâm Không và Vô Ngã là đã có tiền quân dọn đường, quét sạch những ảo tưởng về
cuộc đời và kiếp người để “tiến quân” vào đời chứ không phải dừng lại để ôm và
sống với khối lý thuyết “dọn đường” đó. Nói rốt lại cho gần thì tôi tin
là hoàng thân đã “dọn đường” để bắt tay vào cuộc sống. Vì vậy, tôi đang nóng
lòng muốn biết hoàng thân sẽ làm gì với cánh đồng rộng mênh mông mấy trăm mẫu đất
nầy?
- Ngày rằm tháng tư sắp đến, xin nhờ Phạm huynh chuyển lời mời
của tôi đến thầy Tiều, Ba Gấm, Tâm An và Thiện Giả.
- Thiện Giả là ai vậy?
- Là Hàn Kỳ Vương, là Tử Du và cũng là Thiện Giả bây giờ.
- Hàn Kỳ Vương không về Tàu trở lại và bây giờ đi tu hay sao
mà lại mang tên Thiện Giả? Tên đổi mấy lần và quê hương cũng phải đổi theo nữa
sao?
Trí Hải không trả lời trực tiếp Phạm Xảo, chỉ đưa ra nhận
xét:
- Quê hương có thể là “chùm khế ngọt” rất êm đềm của tuổi thơ
đầu đời mà cũng có thể chỉ còn là một tâm ảnh đã “khuất bóng hoàng hôn” cuối đời
như Thôi Hiệu ngày xưa. Hoàn cảnh không quan trọng bằng những tấm lòng
còn sót lại sau những trôi nổi, vùi dập thăng trầm của cuộc sống. Hoàn cảnh
có thể không thuận lợi nhưng với những tấm lòng trong sáng, nhân ái kết hợp với
nhau thì việc lớn cũng sẽ làm nên. Cho dẫu có cơ hội bằng vàng nhưng nếu
chỉ có những con người kèn cựa, hoài nghi, cố chấp ngồi lại với nhau thì cũng sẽ
chẳng làm nên trò trống gì cho chính mình và xã hội.
Tiếng lành đồn xa. Xa tận kinh Bắc cho tới múi biển Nam
Dương. Dược Viên Thái Ấp nổi tiếng và được loan truyền rất nhanh. Với
trên 300 loại cây thuốc Nam thông dụng và quý hiếm chủ yếu trong ngành y dược
truyền thống Việt Nam đã được trồng trên toàn diện tích mấy trăm mẫu đất phì
nhiêu của Thái Ấp. Đất lành chim đậu. Mấy trăm gia đình nông dân cũ của
Thái Ấp lần lượt rủ nhau về xin Trí Hải dựng lại vườn tược và nhà cửa tại những
khu đất cũ. Trí Hải đã nói đùa nhưng rất thật với mọi người, rằng:
- Thái Ấp là đất chung, không rào không khóa, nên mọi người cứ
thoải mái “đất lành chim đậu; vui ở, buồn đi”.
Canh tác trồng cây thuốc Nam thay vì trồng lúa đã mang lại một
đời sống phồn vinh rất nhanh cho toàn Thái Ấp. “Lục Phú Hường” là cái tên
thân mật mà cũng vừa là để vinh danh cho sáu nhân vật đầu não tổ chức trồng dược
thảo. Người đứng đầu là hoàng thân Trí Hải. Chuyên khoa dược thảo là thầy
Tiều và Thiện Giả, hai đầu óc uyên bác về Đông y Trung Hoa và Việt Nam. Hai nhà doanh thương thành công bậc nhất giàu kinh nghiệm quản lý và tổ chức
kinh doanh là Ba Gấm và Tâm An. Người xuất nhập kho dược thảo điều hòa và
nhanh chóng nhất là Phạm Xảo. Cả sáu người cùng chung một tấm lòng nhân
ái, cùng góp bàn tay và công sức từ thiện cho đời.
Cây thuốc được chọn giống công phu; trồng tỉa và chăm bón cẩn
trọng. Hầu như suốt cả bốn mùa, từng loại, từng giòng và từng bộ các cây
thuốc được thu hoạch và chế biến trong những điều kiện tuyệt hảo đương thời. Các mặt hàng dược thảo Việt Nam không thua kém gì hàng Trung Quốc. Thuốc
Nam vừa nâng cao lòng tự hào dân tộc, vừa giúp người Việt thường bị chê là “nằm
chết trên thuốc” hưởng được tinh hoa của thiên nhiên cây cỏ quanh mình dù ở
trong cảnh thiếu thốn, nghèo nàn.
Khách mua hàng được hội đồng y dược Thái Ấp chẩn đoán bệnh lý
cẩn thận trước khi hốt thuốc. Khách hàng không phải trả tiền mua thuốc mà
hoàn toàn tự nguyện hiến tặng tiền bạc tùy khả năng kinh tế riêng. Quỹ hiến
tặng do thân chủ tự ý bỏ vào thùng “Phước Hải” đặt trong một phòng riêng không
ai nhòm ngó. Tất cả những bệnh nhân nghèo đều được chẩn bệnh và hốt thuốc
miễn phí. Hàng ngày, từng đoàn người khắp nơi lũ lượt dắt díu nhau, bồng
bế hay khiêng cõng nhau về Thái Ấp chữa bệnh. Tác dụng cao nhất của y dược
là chữa lành bệnh chứ không phải dừng lại ở bậc thềm giai cấp sang hèn. Bởi
vậy, giới quý tộc, quan chức và nhà giàu trong nội thành và các tỉnh cũng chen
chân với giới bình dân nghèo khổ đến Thái Ấp chữa bệnh, hốt thuốc không ngớt.
Những tâm hồn cao quý thường gặp nhau hòa điệu như nước với nguồn, như cây với
cội. Tòa dinh thự đổ nát của ông hoàng Trí Hải được trăm nghìn bàn tay
người dân biết ơn tình nguyện vun xới, dẹp dọn, đóng góp công của hằng tâm, hằng
sản, xây dựng lại đẹp đẽ và đồ sộ hơn xưa chỉ trong một thời gian ngắn. Công
tác xây dựng lại dinh ông Hoàng hoàn tất đã lâu mà Trí Hải vẫn chưa có dịp ghé
chân vào đại sảnh đường để xem qua. Nhu cầu sơn phết hình hài và thưởng thức những
giá trị vật chất không còn dấu vết nơi Trí Hải. Người ta ngạc nhiên trước
vẻ bình thản và an lạc của Trí Hải trong khi phải điều động một khối lượng công
việc có quy mô lớn lao và phức tạp hàng ngày như thế.
Sự hiện diện của Ba Gấm trong nhóm sáu người, làm việc khá
thường xuyên bên cạnh Trí Hải gây cảm giác khó chịu cho Phạm Xảo trong thời gian
đầu tiên. Nhưng khi thấy rõ cơn sóng tình giữa hai bên đã lặng, không còn
một biểu hiện riêng tư, thầm kín nào giữa hai người, Phạm Xảo trở thành tâm đắc
và tâm phục Trí Hải một cách âm thầm hơn cả khi xưa. Cầm chân và đổi hướng
một con ngựa đã quen đường cũ thường rất khó. Thay đổi một tâm hồn nghệ
sĩ lãng mạn đầy đam mê trong tình trường lại càng khó hơn. Với Phạm Xảo,
Trí Hải trở thành biểu tượng của nếp sống giản đơn và an lạc trong chính mình.
Vườn Dược Thảo Thái Ấp được người dân tứ xứ tình nguyện cống
hiến, đổ tiền vào như nước nhưng tất cả những người chủ quản vẫn duy trì nếp sống
đơn giản và đạm bạc. Lợi tức thu được dùng để trả công xứng đáng cho cả
nghìn nông dân cùng gia đình canh tác vườn thuốc, đãi ngộ những lương y danh tiếng
và phục vụ nhân đạo. Tin đồn, tiếng khen, lời ca tụng mỗi ngày một chồng chất
và vang xa nhưng những người đầu não trong cuộc vẫn chưa bao giờ lấy làm điều để
trao đổi với nhau mà tự hào, mà hãnh diện với mình, với người. Thầy Tiều
trước sau chỉ có một lời vui vui nhưng đã trở thành “tuyên ngôn Tự Do” cho cả
nhóm:
- Đeo cái Ngã như Tôn Ngộ Không đeo vòng Kim Cô. Ngã chấp,
ngã mạn, ngã tham, ngã ái, ngã dục, ngã sân, ngã si... ngã gì đi nữa thì cũng đều
là thần chú làm cho vòng Kim Cô siết lại.
Đã có lần Ba Gấm hỏi:
- Thưa thầy, vòng “kim cô” của mỗi chúng ta không hình không ảnh
thì làm sao biết được khi nào nó siết và thật sự nó có siết lại hay không?
Thầy Tiều gật đầu đáp lại:
- Còn thân xác nầy là vòng Kim Cô còn siết. Khi tâm trí
bước ra khỏi sự rỗng lặng làm cho mình vui, buồn, giận, hờn, sướng, khổ... là
biết ngay vòng Kim Cô đang siết lại. Muốn khỏi bị siết đến độ đau đớn, đi
đến chỗ kêu la thảm thiết như Tôn Ngộ Không thì khi ngã vừa dấy lên là mình đưa
nó về chỗ cũ rỗng lặng ngay.
Tâm An thắc mắc:
- Thầy ơi! Nếu cái Ngã bị diệt hết rồi thì đâu còn mơ ước,
thương yêu, tình cảm, suy nghĩ... nữa để sống và làm việc đây?
Thầy Tiều vừa cười vừa bắt chước người xưa vác hèo tre ra dọa:
- Cái ngã của Tâm An ở đâu, đem ra đây cho mọi người xem thử.
- Theo thầy học đạo Vô Ngã, nên cái ngã sợ quá, trốn chạy đâu
rồi, tìm không ra thầy ạ.
Thiện Giả cũng tham gia vào trò chơi “vô ngã” bằng cách đứng
thẳng, dang tay, kiểng chân rồi kêu lên:
- Cái “ngã” của tôi đây rồi! Ngã là một mớ xương thịt,
máu huyết, tình cảm, ý nghĩ trộn lẫn vào nhau. Ngã này là “ngã Thiện Giả” chứ
không phải ngã của ai khác.
Phạm Xảo là người đã cứu sống Thiện Giả trong cuộc cờ trên
sông Hương năm xưa, nên hai người vẫn có sự khắng khít dịu dàng và thân thương
nhất trong nhóm. Nghe Thiện Giả lên tiếng, Phạm Xảo, tiếp lời:
- Nầy hiền đệ, nếu quả thật có một cái “ngã Thiện Giả” thì
hãy mau mau chỉ cho ra đâu là Hàn Kỳ Vương, tay đánh cờ vô địch nghênh ngang nhất
thiên hạ năm năm về trước. Đâu là gã Tử Du tuyệt vọng, chán đời bỏ nhà, bỏ
nước đi lang thang sau đó. Đâu là ngài Thiện Giả nửa giác, nửa mê; nửa
tu, nửa lụy trên núi Kim Phụng. Và đâu là thầy Thiện Giả chẩn bệnh hốt thuốc
như thần trong Thái Ấp hôm nay, hả?
Phạm Xảo và mọi người đều cảm thấy lòng chùng xuống và cuộc
vui bị ngưng ngang khi Thiện Giả xuội tay nhìn xuống và mọt giọt nước mắt nhòe
đi trên sống mũi. Thiện Giả nói thì thầm với chính mình:
- Nếu ta chỉ là một sự trôi nổi bèo bọt khi hợp, khi tan
không định hướng thì cuối cùng ta sẽ đi về đâu đây?!
Không nghe ai nói gì, Trí Hải lên tiếng:
- Về với suối nguồn của vũ trụ.
- Ở đâu?
- Đây, kia và tất cả muôn nơi.
- Khi nào?
- Ngày xưa, bây giờ vã mãi mãi.
- Thế cái hạt bụi gọi là “ngã” ấy cứ quay cuồng mãi trong
dòng sinh tử của suối nguồn vũ trụ không bao giờ ngưng nghỉ sao?
Trí Hải ngước mắt nhìn về đỉnh núi Kim Phụng đang khuất trong
mây, nói vời đầy lưu luyến:
- Thiện Giả quý hữu à, chúng ta đã gặp nhau trên ấy hơn nửa
năm trời. Bên suối Bản Lai ngày đó quý hữu và tôi đều chứng kiến một điều,
rằng, khi mình càng xông xáo đi tìm cái ham muốn biết, ham muốn sống, ham muốn
thỏa mãn những cơn đói tình, đói lòng, đói tưởng thì con dã nhân ấy càng xô đẩy
ta về phía sau, phía đời thường của dục vọng. Nhưng khi tâm tánh ta rỗng
lặng thì con dã nhân biến mất. Ta trở nên trong sáng và thấy được ta.
Càng thấy được ta, tất cả đều trở nên trống không lạ thường. Chẳng có một
hình hài có thật; chẳng có một dòng suối, một núi đồi, một thế giới thiên nhiên
quanh ta có thật. Tất cả chỉ là sự kết hợp, tụ hội từng li ti, từng hột,
từng mảnh, từng miếng, từng khối, từng thực thể... lại với nhau mà thành. Có những khoảng thời gian ngồi định tâm lâu dài, tôi có cảm tưởng tất cả đều
không thật, đều tách ra từng mảnh để trở về vị trí của nó. Lúc bấy giờ,
cái gọi là “ta” là “tôi”. là “ngã” là bản chất của mọi sự vật chung quanh không
còn nữa. Tôi chưa có may mắn đi xa hơn, nhưng tôi cảm nhận được rằng, nếu đi đến
cùng tột của chuỗi dài nương nhau và tương tác đó thì sẽ gặp một trạng thái
chân như tuyệt đối mà ai chưa đến thì chưa hiểu được. Đó là một trạng
thái tuyệt đích nên chẳng còn nương nhau, tác động qua lại với nhau mà sinh ra
cái mới hay biến hiện trong dòng sinh diệt nữa.
Thầy Tiều cười sảng khoái:
- Hoàng thân còn nhớ ngày chúng ta gặp nhau khi tôi đốn củi đốt
than trong rừng không?
Trỉ Hải gật đầu trả lời:
- Dạ, nhớ thầy ạ. Hôm đó, thầy cũng đã nói với tôi về ý
niệm “ngã” và “vô ngã” bằng chính việc làm và hành động của thầy. Từ đó
tôi nhận được tín hiệu của thầy và đi tìm thực tại vô ngã bằng chính hành động,
việc làm của mình.
Thầy Tiều hỏi lại:
- Bằng cách nào?
- Bằng sự định tâm để lắng lòng xây dựng cái nhìn nội tại ngày
một sâu xa và tốt đẹp hơn.
- Làm thế nào để biết là tốt đẹp hơn?
- Khi tâm rỗng lặng, trí an nhiên và thân xác ít đòi hỏi hơn.
- Thế từ trước hoàng thân đã bao giờ có ý niệm nầy chưa?
- Có nhưng mơ hồ và hỗn độn lắm! Tất cả chỉ toàn là kiến
thức trong sách vở. Đi tìm cái “ngã” hay “vô ngã” bằng lý luận thuần lý trong
sách vở thì chẳng khác gì nằm đắp chăn học phép thần thông của Tôn Ngộ Không
trong Tây Du Ký.
Nhóm chủ quản của Dược Viên Thái Ấp vẫn có những sinh hoạt
tâm linh và tri thức nhẹ nhàng, thân tình và cởi mở song song với công việc
hàng ngày tất bật như thế. Chất keo gắn chặt suy nghĩ và hành động của họ
lại với nhau là một tinh thần chung: Không tham, không sợ, không chấp. Không
tham vì chỉ cho mà không cầu nhận lại. Không sợ vì họ đang xả bỏ tất cả
những gì vẫn được coi là quý báu trong cuộc đời thường như danh, lợi và địa vị,
nên chẳng có gì để lo được hay mất. Không chấp vì ý thức được rằng mọi hình tướng
chỉ là phương tiện, nên họ không quan tâm phân biệt mình với người là ai.
Khi cả nhóm cùng tự cảm thấy có ít nhu cầu lễ nghi và sự vẽ vời
trang trí nhất thì ngược lại, xã hội lại dành cho họ nhiều vinh dự nhất. Khi được tắm gội trong dòng sống vinh hoa, con người thường rất dễ bị “ngoại
hóa”, nghĩa là quên cái thật bên trong của chính mình để sống cho cái giả bên
ngoài của người khác sơn phết cho.
Vinh dự mà đời thường cho là lớn nhất đến với nhóm Trí Hải. Đó là khi mọi người sinh hoạt trong vườn thuốc Thái Ấp được triều đình ban thưởng,
được vua vời vào Đại Nội dự yến tiệc để nhận lời ban khen do chính hoàng thượng
đăng triều. Ngay cả những triều thần lương đống, lập được nhiều công trạng
cũng ít người dám mơ ước đến vinh dự tột đỉnh này. Thế nhưng không ai
ganh tỵ với nhóm hoạt động vườn thuốc nhân đạo cả, vì tất cả họ đều quá trong sáng
và không màng danh lợi mà mọi người đều thấy được một cách rõ ràng, đen trắng
phân minh.
Trong suốt buổi đại yến linh đình, vẻ an nhiên tự tại hiện rõ
trên khuôn mặt của mỗi người của nhóm Trí Hải tương phản với không khí rộn
ràng, khích động trong Đại nội. Bởi vậy, cả triều thần đều ngạc nhiên khi thấy
Trí Hải thay mặt cho Thái Ấp nhận tặng phẩm ban thưởng trọng hậu và lời ban
khen của nhà vua mà chỉ nói lời tạ ân hết sức đơn giản. Đặc biệt là không
nhắc một tiếng nào về “công trạng” của nhóm mình.
Chiều về lại Thái Ấp, chỉ nghe thầy Tiều bình luận: “Mỗi ngày
thêm một lớp bụi. Bụi đời vinh quang hay tủi nhục cũng đều làm mờ cái tâm
trong sáng, làm động cái trí rỗng lặng của mình. Nên mỗi ngày ráng quét bụi
trong tâm, ráng phủi bụi trong trí, ấy là tu”.
CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN
Đạo Giữa Đời
Sau
lễ ban thưởng được tổ chức trọng thể tại Đại nội, Quan thượng thư bộ Lễ
nhận chiếu chỉ của vua đến tận Thái Ấp tiếp xúc với nhóm Trí Hải. Đây
cũng là lần đầu, kể từ sau ngày dinh ông Hoàng được trùng tu, phòng nghinh tân
ra mắt đón khách và cũng là lần đầu, Trí Hải bước chân vào tòa dinh thự mới được
tu sửa của mình.
Tiền đường rộng lớn được trang hoàng một cách trang nhã và mỹ thuật làm vị đại
thần không ngớt lời khen ngợi. Ông đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên
khác vì không ngờ có thể có một vẻ đẹp siêu thoát bằng một nghệ thuật trang trí
nội thất đan thanh và sáng tạo lạ lùng đến như thế.
Thế giới vàng son của nội phủ không còn bóng dáng nơi đây. Sự quý phái và
trang trọng không biểu hiện bằng giá trị quy ước như vàng bạc, châu báu hay của
lạ, vật quý mà toàn cảnh là một thế giới tinh hoa thu gọn của thiên nhiên. Những
phiến đá màu thời gian ẩn hiện điểm trang cho những cây cổ mộc quý hiếm gây một
cảm giác thanh thoát đầy ngưỡng mộ cho khách.
Quan thượng thư bộ lễ ngõ lời với Trí Hải:
- Thưa hoàng thân và chư vị. Hôm nay, tôi được chiếu chỉ của hoàng thượng đến
đây trước là xin vấn an chư vị và thứ đến là phụng chỉ ngài để thảo luận về hiện
tình tôn giáo của nước ta.
Cả sáu người trong nhóm Trí Hải day mặt nhìn nhau dò hỏi trong im lặng, chưa hiểu
Quan thượng thư của triều đình muốn hướng câu chuyện về đâu.
Dường như hiểu ý, Quan thượng thư nói tiếp:
- Như chư vị đều biết, nước ta có tam giáo là Phật, Nho, Lão được truyền thừa,
thờ phụng trong bá tánh từ lâu đời. Có những triều đại như Lý Trần, đạo
Phật gần như là quốc giáo. Nay giữa thời đương kim Thánh Tổ hoàng đế, đạo Phật
suy yếu, đạo Nho chỉ còn là trò nói chữ trong giới Nho học quan chức, đạo Lão
thành đạo ông đồng bà cốt. Trong lúc người Tây dương sang truyền đạo
Chúa. Họ thay đổi cách thờ phụng ông bà không hợp với truyền thống nước ta. Tuy
đạo Phật có vẻ như đang rầm rộ phát triển, nhưng chỉ là hình thức hời hợt. Chùa
chiền xây dựng đẹp đẽ, việc đúc chuông dựng tượng thịnh hành, người xuất gia và
tại gia theo Phật rất đông, thế nhưng tinh túy của đạo Phật ngày càng mờ nhạt.
Các hình thức ma chay cúng bái càng lúc càng nặng hình thức mê tín dị
đoan. Thánh chỉ của hoàng thượng là muốn chấn hưng đạo Phật, làm cho đạo
Phật mạnh lên để đủ sức đánh bật đạo Chúa đang có cơ phát triển mạnh.
Sau câu nói của Quan thượng thư, tiếng cười nhè nhẹ đượm vẻ vui tươi của
thầy Tiều làm mọi người tươi mát lại. Thầy Tiều lên tiếng trước:
- Bẩm quan lớn, nhận xét của ngài sát với thực tế. Nhưng đạo là con đường. Đường tâm linh mở ra không giới hạn. Làm sao lại có thể đem đường nầy để
đánh bật được đường kia như ngài vừa nói được?
Quan cười khẩy:
- Thưa đại sư, ở đời mạnh được yếu thua. Nguyễn Huệ được thời đắc thế thì
Nguyễn Huệ cầm quyền. Nguyễn Vương mạnh thế thì Nguyễn Vương đánh bật Tây
Sơn để lên làm vua thiên hạ thôi.
- Binh tướng thúc dục con người phải tiến chiếm mục tiêu bên ngoài để chiến thắng;
trong lúc tôn giáo mong ước con người phải tự soi rọi chính mình, hiểu mình,
làm chủ lấy mình hay nói cách khác là phải chiếm “mục tiêu” bên trong để chiến
thắng. Càng cạnh tranh bên ngoài càng có cơ thắng thế; nhưng càng cạnh
tranh bên trong càng có cơ bại thế. Bại vì đời sống tâm linh vắng
bóng. Như Tần Thủy Hoàng, Thành Cát Tư Hãn tuy là những kẻ làm bá chủ
thiên hạ, nhưng riêng mình, đều là những kẻ than van đau khổ cuối đời.
Quan lắc đầu ra vẻ không đồng tình, ngỏ ý kêu gọi đồng minh:
- Hoàng thân, đại sư và chư vị ở đây tuy có vị xuất gia tu hành, có vị thân
phàm mà tâm Phật. Nhưng truy nguyên cho đến ngọn nguồn thì tất cả chư vị đều xuất
thân hay có duyên nợ với cửa thiền. Bởi vậy, vấn đề chấn hưng đạo Phật
trong thời kỳ mạt pháp nầy là trách nhiệm cao cả và thiêng liêng của quý vị. Triều đình sẵn lòng tán trợ chư vị về mọi mặt nhân tài vật lực để biến tất cả cửa
thiền khắp nước thành nơi giải thoát, tế độ chúng sinh. Tôn ý của quý vị
ra sao ạ?
Thoáng yên lặng kéo dài, Trí Hải lên tiếng:
- Thưa Ba Gấmợng, chúng tôi đa tạ hảo ý của triều đình. Tuy cùng nhóm,
sinh hoạt chung với nhau như tình huynh đệ, nhưng mỗi chúng tôi đều tôn trọng nếp
sống và suy nghĩ riêng tư của nhau. Ba Gấmợng nói không sai, chúng tôi
suy nghĩ và sinh hoạt rất gần với tinh thần đạo Phật, nhưng ngoài thầy Tiều là
Phật tử xuất gia ra, chúng tôi chưa phải là Phật tử theo với nếp nghĩ thông thường. Như bản thân tôi chưa quy y, chưa ăn chay niệm Phật, nhưng chỉ mới cố gắng sống
và hành thiện theo tinh thần trí tuệ và từ bi của đạo Phật. Do vậy, tôn ý
của hoàng thượng muốn chúng tôi chấn hưng Phật giáo quả là một ân huệ, song
chúng tôi e rằng việc lớn như thế vừa vượt ra ngoài khả năng, vừa không thích hợp
với hoàn cảnh riêng của chúng tôi. Ý kiến cá nhân của tôi là như thế,
mong quý huynh đệ bàn thêm.
Quan thượng thư hấp tấp lên tiếng:
- Trước khi chư vị bàn thảo, tôi xin được hỏi đôi điều về nội tình Phật giáo mà
tôi tin là quý vị đây biết rõ hơn tôi. Có chăng tin đồn Phật giáo đang
phân hóa trầm trọng là đúng? Từ sau khi đức Thế Tổ đăng quang, nước nhà
thống nhất, đạo Phật phát triển theo chiều rộng mà thiếu chiều sâu nên đang lâm
vào cảnh người nói đạo càng nhiều thì người thực sự hành đạo càng ít. Các
vị cao tăng thạc đức thì mai danh ẩn tích giữa đời thường hay lặng lẽ tu trì
trên núi xanh. Trong khi các phàm tăng thì xuất hiện nhan nhãn quá nhiều,
vàng thau lẫn lộn. Gặp thời điểm nạn đao binh tuy đã chấm dứt mấy chục
năm, nhưng ảnh hưởng còn để lại trong lòng người sâu nặng. Thế hệ cao
niên, đã từng nếm trải sự tang tóc, đổ vỡ của chiến tranh đang ở lứa tuổi về
chiều. Kẻ có tiền bạc, quyền thế thì xây chùa cầu phước, cầu khi chết được
siêu thăng về cõi Phật thánh càng ngày càng đông đảo. Người ít tiền bạc
hay nghèo khổ hơn cũng chen chân cúng quảy không cân nhắc, nên lắm lúc và lắm
nơi đã lôi kéo, làm hư hỏng những người thực lòng muốn đi tu phải rơi vào đường
tục lụy của vật chất tiền bạc hay dục vọng tham ái. Rất đông người chưa hề
biết cúng vái trong thời tuổi trẻ, nay tuổi già bỗng mê chuyện tu hành theo đạo
Phật nhưng đã đi sai đường hay bị các gian tăng lôi kéo vào đường mê tín dị
đoan, bùa chú, lễ nghi màu mè xa xỉ, cầu xin, thờ cúng sai lạc hoàn toàn với
tinh thần Phật giáo dưới danh nghĩa Phật giáo. Với một lịch sử lâu dài và
giáo lý cao siêu chưa được phát huy đúng mức, Phật giáo đang đứng trước thử
thách của thời đại. Nếu quả như vậy thì triều đình phải làm gì để giúp đạo Phật
vượt qua thử thách nầy?
Những câu hỏi của Quan thượng thư có vẻ như đang hướng thẳng về phía thầy
Tiều. Trong không khí chờ đợi, không nghe ai nói gì, Quan thượng
thư phải lên tiếng:
- Thưa đại sư, xin đại sư xá lỗi nếu cách xưng hô của tôi chưa đúng với vị thế
hiện nay của đại sư. Số là gần đây, có dịp tiếp cận với chư vị tăng ni tu
sĩ tại các chùa, chúng tôi được nghe nhiều danh xưng khác nhau đối với các bậc
tôn đức. Có những tước vị rất to tát, những danh xưng rất vĩ đại, màu mè
dành cho các ngài tu sĩ, nhưng vì không quen với nhiều danh từ xa lạ nên tôi
quên mất. Nhưng dẫu có nhớ, thì tôi cũng thành thật thưa rằng, là tôi
không biết áp dụng thế nào cho đúng. Ngày xưa mẹ tôi dẫn tôi đến chùa,
tôi chỉ nghe mẹ xưng “ôn”, “thầy”, “chú” với quý ngài nam tu sĩ hay xưng “sư
bà”, “sư cô” với quý nữ tu sĩ mà thôi. Ngày nay văn minh hơn có khác, nên
tôi rất ngại đến chùa mà vô phép xưng tụng sai danh vị của quý thầy, quý sư
cô. Bởi vậy, tôi mạo muội xưng “đại sư” với quý thầy mà tôi gặp. Lỡ
có sai thì cũng “sai thừa” chứ không đến nỗi “sai thiếu”. Cứ mạnh mồm gọi
ông xã lên thành ông huyện sẽ ít bị rầy rà hơn là làm ngược lại... Phàm phu sống
chết để mua danh; thánh nhân ẩn danh mà sống chết.
Thầy Tiều và mọi người có mặt đều cười trước lời nói và bộ điệu làm ra vẻ ngô
nghê nhưng ẩn chứa cả một sự nhận xét và phê phán sắc bén của phía nhà
quan. Thầy Tiều cả cười khoác tay:
- Quan lớn à, đạo Phật là nhà trống không có cửa; là đường cái thênh thang ai
muốn đi thì đi. Nên dẫu cho đại quan có gọi là gì gì đi nữa thì vẫn không
sai và cũng chẳng có ai cho là đúng.
Quan đáp lại một cách cởi mở:
- Ý thầy muốn nói đến tinh thần phá chấp của tánh không và duyên khởi chăng?
Thầy Tiều xua tay:
- Không dám, không dám! Tôi vốn không sính chữ nghĩa bùa chú
nên chẳng hiểu gì. Tôi nghe thầy tổ nói rằng, bậc thượng trí, thượng căn
thì vác búa mà đập vỡ danh từ. Bậc hạ căn thì đem danh từ làm búa mà đập
vỡ tư tưởng.
Quan cười xòa:
- Thầy cho tôi là kẻ vừa vác chữ làm búa đó chăng?
Thầy Tiều càng cười thoải mái hơn:
- Vậy à. Tôi cứ nghĩ mình không có đủ trọn một chữ để bẻ
hai làm búa nữa kia chứ.
Quan thượng thư cười ấm áp, tay nâng chén trà đảo mắt nhìn quanh, mời:
Quan thượng thư cười ấm áp, tay nâng chén trà đảo mắt nhìn quanh, mời:
- Thật là thú vị! Chúng ta hãy thưởng nhau một chén trà rồi nói tiếp. Phá
chấp ư? Thoải mái vô cùng đại sư ạ. Hay là tôi xin được gọi đại sư bằng
“thầy Tiều”. Tên gọi nầy làm tôi nhớ những ẩn sĩ đắc đạo ngày xưa.
Thầy Tiều ngữa cả hay bàn tay như tiếp nhận:
- Thật là hân hạnh. Thật là vui lòng!
Mọi người cùng nâng chén uống trà. Không khí xa lạ, khách sáo chợt trở
nên ấm áp lạ thường. Sau chung trà, quan lớn cho người hầu và vệ sĩ tả hữu
lui ra. Một mình ngồi đối diện với sáu người trong nhóm Trí Hải. Ông nói
bằng một giọng chân tình:
- Được hoàng thượng cất nhắc giao cho đứng đầu trông coi bộ Lễ trong Lục Bộ của
triều đình, tôi phải tự đặt mình ở thế khách quan, không đứng trong hàng ngũ
tôn giáo nào cả. Tuy nhiên, với hoàng thân, thầy Tiều và chư huynh đệ tôi không
dấu diếm rằng, gia đình nội ngoại tôi đều theo đạo Phật. Mẹ tôi là một Phật
tử thuần thành, nên tôi không khỏi thấy xót xa khi đạo Phật bị phân
hóa. Sự phân hóa nầy bắt nguồn từ các vị cao tăng danh tiếng. Mẹ
tôi và dì tôi đều là Phật tử rất ngoan đạo. Cả hai bà đều đi chùa, ăn
chay, niệm Phật, bố thí, làm việc thiện. Cả hai bà đều nhìn nỗi khổ đau của
chúng sanh, của người khác rất rõ; nhưng hai chị em ruột thịt ấy lại không thể
nhìn được mặt nhau chỉ vì hai người theo hai vị cao tăng thuộc về hai phái chống
nhau. Nhà sư theo Bắc tông, là bổn sư tinh thần của mẹ tôi thì thuộc phái
thân cận với triều đình. Trái lại, nhà sư theo Nam tông, là bổn sư của dì
ruột tôi thì thuộc phái chống đối triều đình vì cho rằng triều đình cấm đoán họ
hành đạo. Sự phân hóa từ “thượng tầng kiến trúc” kéo theo sự phân hóa của
từng đơn vị gia đình hay cá nhân. Hậu quả của sự phân hóa nầy có ảnh hưởng
tiêu cực nghiêm trọng đến nỗi ngày bà ngoại tôi qua đời, không có bóng dáng môt
vị thầy nào đến cúng kính cầu siêu được cả. Mẹ tôi muốn mời quý thầy thuộc
phái Bắc tông đến làm lễ cầu siêu thì dì tôi phản đối. Dì tôi muốn mời
quý thầy thuộc phái Nam tông đến cúng thì mẹ tôi không cho. Ngày đưa đám
bà ngoại tôi, vốn là một Phật tử thuần thành suốt đời, đến huyệt mộ lặng lẽ không
có một tiếng kinh cầu. Nhiều bà con đi đưa đám tang sau quan tài bà tôi lẩm bẩm
nói với nhau: “Hai chị em nhà nầy ngộ thật. Theo Phật mà chống Phật.
Theo pháp mà bỏ pháp. Theo tăng mà trừ tăng. Cả hai đều nhân danh cửa thiền
để làm chỗ trú ẩn cho lòng sân hận mỗi ngày một lớn của loài ma quỷ”! Không biết thực tế hiện nay có bao nhiêu người theo đạo Phật, nhưng hết lòng
trung thành với thầy, tổ của mình để ở vào một trong hai thế chống báng nhau
như vậy. Thưa thầy Tiều, thầy là bậc chân tu, thầy có cao kiến nào để hóa
giải sự phân hóa của đạo Phật không ạ?
Thầy Tiều chẳng lộ vẻ gì bối rối trước câu hỏi liên quan đến một vấn đề bao gồm
nhiều mặt, nhiều nguyên nhân như vậy, nên trả lời ngay:
- Phật giáo là một biển khơi thái hòa và an lạc. Làm gì có biển khơi phân hóa. Làm gì có Phật giáo phân hóa. Có chăng sự phân hóa là giữa những người
theo đạo Phật với nhau. Những người theo đạo Phật ít nhiều cũng có mang bản
chất của đạo Phật, nhưng họ không phải là đạo Phật. Cũng như những khe suối
và dòng sông có dòng nước mang bản chất của biển khơi nhưng không phải là biển
khơi. Khi những dòng suối róc rách, những con sông lững lờ hay vạm vỡ
đang tranh nhau trôi về biển mẹ, nếu có chăng hiện tượng nhập nguồn, phân dòng,
chia cửa, tranh ô... thì đấy là sự phân hóa của những dòng sông và suối nguồn,
không phải là sự phân hóa của biển cả. Đã không phân hóa thì lấy gì hóa
giải đây, phải không thượng quan?
- Nhưng Phật, Pháp, Tăng làm nên đạo Phật, phải không thầy?
- Phật là biển cả, Pháp là dòng nước, Tăng là con thuyền. Nếu nước xuôi dòng,
thuyền sẽ trôi nhanh và chóng về biển cả. Nhưng lỡ nước cạn, nước ngược,
nước xoáy, thuyền trôi chậm hay không trôi thì lẽ nào biển cả sẽ vì suối khô mà
cạn theo suối, đại dương sẽ vì sông gầy mà chết khát theo sông được sao?
- Khi nói đến một tôn giáo, người chuộng giả danh thường đem lịch sử cả mấy
trăm năm hay mấy nghìn năm ra làm bảo chứng. Điều đó ngoài mục đích khoe
khoang lý thuyết lòe đời cho vui thì có ích gì? Về mặt lý luận thuần túy thầy
nói quả không sai về tinh thần viên dung, tự tại cơ bản của đạo Phật. Nhưng thực tế trước mắt, khi nói đến đạo Phật hay bất cứ một đạo nào khác thì
người ta chỉ nhìn vào sinh hoạt của tu sĩ, tự viện và tín đồ của đạo đó đang diễn
ra hàng ngày để biết đạo đó như thế nào. Bất chấp kinh điển, thần thánh của
một tôn giáo nói gì, nhưng người tu theo và tin theo đạo đó đi giết người, làm
việc ác thì tôn giáo đó là một ác đạo. Bất chấp tam tạng kinh điển của Phật
giáo nói cao sâu như thế nào nhưng việc làm của tu sĩ và tín đồ đạo Phật đang
diễn ra sẽ giới thiệu đạo Phật là gì.
- Tiếc thay đạo Phật lại không đơn giản như quan lớn hiểu, kể về cả hai mặt lý
thuyết và cấu trúc thực hành mà người ta thường gọi là khế lý, khế cơ.
- Như thế thì cả ba giá trị cao quý nhất của Phật giáo là Phật, Pháp, Tăng là
gì và phải hiểu như thế nào?
- Không là gì cả và hiểu như thế nào cũng được.
- Ô hay! Nếu như tôi hiểu sai, hiểu quấy. Tôi cho rằng Phật là ông thần bằng
gỗ, Pháp là khối chữ nghĩa hỗn độn khó hiểu, Tăng là những kiêu binh tranh quyền
đoạt lợi với nhau thì sao?
Thầy Tiều trả lời điềm đạm:
- Thì cũng chẳng sao cả thượng quan ạ. Nếu như có một người kém cỏi, mù
chữ nghĩ rằng một bậc đại khoa như quan lớn đây là một kẻ dốt nát, mù chữ thì
có vì thế mà quan lớn trở nên dốt nát mù chữ thật không?
Nói xong, thầy Tiều đứng dậy và lửng thửng ra vườn sau một mình, trong lúc Quan
thượng thư đang còn bối rối ra mặt. Chén trà đã châm mấy lần mà vẫn
chưa có ai nói với ai lời nào. Quan lên tiếng:
- Thưa hoàng thân và chư vị, tôi đến đây là thừa lệnh triều đình mà đến. Đến để bàn việc lớn có lợi cho đất nước và tiền đồ của Phật giáo, chứ không phải
đến đây để tranh luận lý thuyết hơn thua. Tôi rất thất vọng khi môt tu sĩ Phật
giáo được tiếng là minh tăng như thầy Tiều lại tỏ thái độ khinh bạc đối với triều
đình như thế.
Trí Hải đỡ lời:
- Thế thượng quan đã chuẩn bị sẵn sàng trước khi đến đây chưa?
- Chuẩn bị quá kỹ hơn cả cần thiết nữa hoàng thân ạ. Ngài thử duyệt lại
xem. Chiếu chỉ, lễ nghi, quan hầu, giám binh, hộ vệ đều hành động răm rắp
đâu vào đấy, chẳng có gì sơ hở.
Trí Hải cười nhẹ:
- Nhưng có một chuyện nhỏ mà quan trọng hơn hết thì thượng quan lại quên.
Quan thượng thư hỏi hấp tấp:
- Thưa hoàng thân, còn quên gì nữa ạ?
- Ngài quên chìa khóa.
- Chìa khóa?
- Vâng, đúng là chìa khóa.
- Chìa khóa gì thế?
- Chìa khóa mở cửa thiền.
- Nhưng đây là tư dinh của hoàng thân mà.
- Không, ý tôi muốn nói là cửa thiền trong tâm ý của thượng quan kia.
Quan lớn trố mắt nhìn Trí Hải lạ lùng, hỏi:
- Xin hoàng thân thứ lỗi, ngài nói điều gì tôi hoàn toàn không hiểu. Tôi chẳng
phải là thiền sinh hay thiền giả tu theo Phật giáo. Làm gì có tâm thiền lảng vảng
trong tôi.
- Thiền không phải là sản phẩm riêng của Phật giáo. Thiền là sự tỉnh thức,
là cái nhìn an lạc vào bên trong để thấy chính mình. Ngài đến đây như cái bóng
của triều đình, ngài nói lời hoàng thượng nói. Ngài nói về một đạo Phật
đã thành tượng đồng, tượng gỗ trong định kiến của ngài. Ngài chưa nhớm chân bước
ra khỏi cửa mà thấy mình đã đến đích. Ngài nói với một thầy Tiều mà quên thầy
Tiều đang ngồi trước mặt nên ngài chỉ nói với chính mình. Vì biết cánh cửa
tâm ý của chính ngài chưa mở, nên thầy Tiều đã nói với ngài về đạo Phật rằng:
“Không là gì cả và hiểu như thế nào cũng được”. Nói mà thật ra chẳng nói
gì cả vì muốn ngài tự mình mở lấy cánh cửa mà vào! Trước một cánh cửa còn
khép kín, có ai ở đó hay không thì cũng giống nhau thôi, nên thầy Tiều bỏ đi
thì cũng chẳng có gì lạ.
Vốn xuất thân là bậc đại khoa, Quan thượng thư có đủ tầm nhìn và sự sâu sắc
để nhận ra mình đang ở đâu. Quan trở nên trầm ngâm, nhìn chăm chăm vào những
chậu kiểng cổ mộc rất lâu và rất sâu. Trong phòng khách rộng lớn, mọi người
như đang vào cơn nhập định. Tiếng vỗ cánh của những con chim nhỏ chuyền cành
ngoài xa cũng nghe rõ mồn một. Bầu không khí lặng thênh thang bị đánh thức
khi quan bất ngờ lên tiếng. Lần này câu hỏi hướng về phía Ba Gấm, một nhân vật
nữ duy nhất có mặt, thường chỉ bày tỏ cảm xúc của mình bằng nhiều nét cười khác
nhau trong mọi diễn biến của câu chuyện từ đầu. Quan vừa bày tỏ ý nghĩ
riêng của mình, vừa dò hỏi:
- Thưa Chánh chưởng phu nhân, chúng ta là chỗ quen biết thân tình từ lâu trong
các sinh hoạt riêng ở tư dinh cũng như trong các lễ hội có liên quan đến triều
đình. Dám xin hỏi ý kiến riêng của phu nhân là hoàn cảnh nào đã đưa phu
nhân vào trong nhóm Vườn thuốc Thái Ấp?
Đã bao năm quen với lối sống đầy nghi thức rào trước đón sau của giới quý tộc,
đại thần, Ba Gấm không ngạc nhiên về phản ứng tức thời của Quan thượng thư. Vừa ở địa vị là người đàn bà có ảnh hưởng cao nhất và cũng là nhà đại
kinh doanh giàu có bậc nhất trong giới quyền quý đương thời, Ba Gấm lại xuôi
ngược giao thương từ Âu sang Á nên người đàn bà nầy hiểu được trọng lượng lời
nói của mình. Đối với hàng Quan thượng thư lục bộ của triều đình,
Ba Gấm không thấy họ cao mà cũng chẳng thấy họ thấp, nhưng vẫn có sự thân tình
và gần gũi tự nhiên. Ba Gấm phá tan cái không khí nghiêm trọng đang vây bủa
mọi người bằng cách trả lời theo một ngôn ngữ vừa lễ độ hình thức, vừa đùa vui
một cách gần gũi và thân thiện:
- Thưa Quan thượng thư, vậy mà tiện muội Ba Gấm nầy cứ tưởng các huynh đệ
và đường quan không màng đến ý kiến của đàn bà con gái nữa chứ.
Quan đáp lại:
- Nữ lưu mà cầm kỳ thi họa tài hoa, doanh thương nức tiếng, đi đó đi đây cũng
nhiều như phu nhân thì ngoài phu nhân ra, có ai sánh kịp nữa đâu...
- Đa tạ Ba Gấmợng đã chiếu cố. Tiện muội xin trả lời ngay vào câu hỏi của
đường quan đại huynh nhé. Muội có mặt với nhóm Vườn thuốc Thái Ấp trước hết
là vì ngưỡng mộ tài năng văn chương trác tuyệt và phong cách sống có một không
hai về lý, về tình, về đời và về đạo của hoàng thân Trí Hải. Sau nữa, vì Vườn
thuốc Thái Ấp là việc làm chỉ có cho đi mà không cầu nhận lại; giúp mà không cần
biết người được giúp là ai.
Quan và những người có mặt đều xúc động trước câu trả lời chân thành và thẳng
thắn của Ba Gấm. Quan thượng thư lẩm bẩm, “cho đi mà không cầu nhận
lại; giúp mà không cần biết người được giúp là ai”. Quan hỏi tiếp:
- Hẳn phu nhân còn nhớ, chúng ta đã gặp nhau nhiều lần trong các lễ hội chùa
chiền ở kinh đô như khánh thành, trai đàn, cúng tế, rước Phật, nghinh tăng, kỷ
niệm... Nhưng sự diễn tiến trong một thế giới Phật giáo hoàn toàn khác với tinh
thần đạo Phật mà thầy Tiều trao đổi cùng chư vị hôm nay. Phu nhân có thấy
sự khác biệt đó không?
Ba Gấm trả lời:
- Dạ, nếu nhìn từ phía triều đình và giới Phật giáo thân cận hoặc chống đối triều
đình thì thấy khác. Nhưng nếu nhìn từ phía thầy Tiều thì không.
- Thuở nhỏ, khi còn làm cung nữ, muội đã học được điều nầy từ các bà cung
phi xuất thân từ hàng dân dã mới được tuyển vào cung. Các bà luôn luôn hướng
hết cuộc đời mình đến một mục đích duy nhất là được làm vợ vua và luôn luôn có
kẻ thù để nghi ngờ, đề phòng, tranh đấu là những bà phi khác. Nhiều bà
phi suốt đời chưa được sống thực sự một ngày vì đã biến ngay thân xác mình và
những gì xung quanh mình thành phương tiện để được làm vợ vua nhưng cho đến khi
chết vẫn còn ở trong bóng tối của cấm cung, chưa được gặp mặt vua một lần bao
giờ. Trồng hiện thực để hái ảo vọng. Ngỡ như gieo nhân lành mà gặp
quả ác nhưng không phải vậy mà đây là vì gieo tham vọng tột đỉnh, nên phải gặt
tuyệt vọng tận cùng mà thôi.
Quan ngắt ngang, hỏi dồn:
- Nhưng hiện tượng nầy có liên quan gì đến hình ảnh các khuynh hướng Phật giáo
khác nhau đâu?
Ba Gấm không trả lời ngay mà đan hay tay lại với nhau, quay qua phía Thiện Giả
đang ngồi lim dim giữa Phạm Xảo và Tâm An, đưa mắt trao đổi ý kiến:
- Tôn giả, hôm qua, hình như chúng ta có bàn luận điều nầy khi nói đến đạo Phật
Trung Hoa đã phân hóa thành mười ba bộ phái dưới triều đại Mãn Thanh phải không
ạ?
Thiện Giả đỡ lời Ba Gấm:
- Vâng, có. Nhưng đây không phải là tình trạng riêng ở triều đại Mãn
Thanh mà nó xẩy ra ở bất cứ nước nào. Khi thế quyền và giáo quyền cùng
chung đất đứng thì tôn giáo và triều đình xích lại gần nhau. Sự gần gũi
đó có ảnh hưởng hỗ tương đầy khai sáng và thịnh vượng cho cả dân tộc lẫn đạo
pháp. Tôn giáo trở thành nguồn suối tâm linh của giới lãnh đạo như Phật
giáo Việt Nam thời Lý Trần. Ngược lại, khi thế quyền và giáo quyền chối bỏ,
nghi ngờ hay chống báng nhau thì sự xung đột sẽ thành ngọn lửa khi cháy bùng,
khi âm ỉ đốt cháy những giá trị vô hình nhưng rất quý báu của cả hai bên.
Quan thượng thư quắc mắt nhìn một nhân vật nói giọng Việt lai Tàu chưa ai
biết tiếng, nhưng lại dám nói những lời coi nhẹ thế lực cầm quyền như thế. Quan cao giọng:
- Xin quan chức Thiện Giả tự lên tiếng cho biết phương danh và chức vị để chúng
ta nói chuyện dễ dàng thông cảm hơn.
Ba Gấm không đợi Thiện Giả lên tiếng trả lời, nói ngắt ngang:
- Mong quan lớn thứ lỗi cho, chứ ngài là thượng thư bộ lễ mà lại vi phạm lễ
nghi giao tế mất rồi. Chả lẽ quan lớn quên rằng ngài đang tiếp kiến với
những người trong nhóm của hoàng thân Trí Hải sao? Chúng ta đang thảo luận
một đề tài rất quan trọng và đầy nhạy cảm. Điều cần mang ra trình bày nơi
đây là sự hiểu biết, lý luận và cách nhìn của mỗi người trong chúng ta chứ
không phải là phán xét nhau qua tên tuổi và chức vụ. Thế nhưng quan lớn đã hỏi
thì chúng tôi cũng xin thưa rằng, Thiện Giả tức là Hàn Kỳ Vương, đại danh thủ cờ
tướng đã từng làm lay động tinh thần và cân não của giới kẻ sĩ, quyền chức tại
kinh đô cũng như khắp nước mấy năm về trước...
Thiện Giả cất lên giọng cười hiền hậu gần như vô tư làm cho bầu không khí sắp
trở nên căng thẳng dịu lại và tiếp lời Ba Gấm:
- Hì, hì... Thì cũng chỉ là một kỳ vương hết thời Hàn tộc nhà tôi, nên đã
bị một kỳ vương vô địch Trí Hải cự phách hơn, đánh bại thua xiểng liểng phải nhảy
xuống sông Hương năm xưa đó mà. Dòng sông không còn dấu vết thì chuyện cũ cũng
xin bỏ đi thôi. Vậy bẩm quan lớn, tôi xin trở lại với ý kiến của ngài một cách
nghiêm túc hơn. Phải chăng ngài không bằng lòng sự dẫn giải của tôi về
tác động qua lại giữa hai thế lực thế quyền và giáo quyền phải không ạ?
Quan trả lời hấp tấp:
- Đúng, đúng vậy. Nếu muốn hay nếu cần, thế quyền sẽ thừa sức mạnh để dẹp
giáo quyền như phủi nanh vuốt của loài kiến cỏ chứ làm gì có chuyện hai thế lực
đôi co với nhau. Như đương kim triều đình ta với binh hùng tướng mạnh, chả
lẽ lại sợ hay chịu thua những người chỉ biết gõ mõ tụng kinh, trong tay không
có một tấc sắt sao?
Thiện Giả với giọng lễ độ nhưng cứng rắn, trả lời:
- Dạ, đúng thế quan lớn ạ. Nhưng sự tồn tại của sức mạnh tâm linh lại
không diễn ra như những bài toán cộng trừ đơn giản của sức mạnh gươm giáo, mạnh
được yếu thua. Trong lịch sử xưa nay, một thế lực triều đình nào mạnh nhất
cũng chỉ kéo dài trong một giới hạn thời gian ngắn dài tương đối mà thôi. Trong
khi tôn giáo nói chung và đạo Phật nói riêng, dẫu không có một tấc sắc làm vũ
khí, nhưng đã tồn tại cả mấy nghìn năm nay với hàng bao nhiêu triệu người khắp
hoàn vũ tin theo.
Quan chau mày thắc mắc:
- Thông thường, càng có chỗ dựa mạnh thì càng vững chắc và mau đạt đến đích chứ
lẽ nào lại có trường hợp ngược lại?
- Tiếc thay, đời sống tâm linh lại không diễn biến theo chiều hướng ấy thượng
quan ạ. Khối người theo đạo Phật mà ngài đã gặp bên cạnh triều đình thường
dựa vào thế lực triều đình để có chùa to, tượng lớn, nghi lễ rình rang mà đi
tìm Phật. Người theo đạo Phật chống đối triều đình thì dựa vào sự căm giận
triều đình để tạo ra sự khổ hạnh, hy sinh như thể xót đau cùng tột mà đi tìm Phật. Khi đã dựa vào bất cứ thế lực hay nguồn suối cảm xúc nào thì mình sẽ không thấy
mình được nữa; trong lúc Phật ở chính trong mình mà lại không dựa vào chính
mình nên tìm hoài không thấy Phật. Ngược lại, khuynh hướng thầy Tiều thì
chẳng dựa vào ai cả ngoài chính mình. Phương tiện cũng là cứu cánh hay trong
phương tiện đã có hạt giống của cứu cánh rồi. Chỉ một hơi thở vào đầy tỉnh
thức cũng đã chứa sẵn sự sống và giải thoát. Một nguồn sống đầy chánh niệm,
tự nó, là một phương tiện mà đồng thời cũng là cứu cánh của tinh thần giải
thoát.
Quan thượng thư tỏ vẻ nôn nóng:
- Việc hoàng thượng giao cho tôi chỉ cần giải quyết chứ chưa cần giải
thoát. Hoàng thượng và bá quan văn võ đang cần một tổ chức Phật giáo mạnh
để ủng hộ triều đình, dẹp tan những thế lực giáo gian ngông cuồng chống đối. Miễn làm được việc, ngân sách to lớn của triều đình lúc nào cũng sẵn sàng tài
trợ tất cả, không quản tốn kém.
Vị quan say sưa nói. Thầy Tiều nhẹ nhàng vào phòng tiếp tân, trở lại chỗ cũ.
Thầy Tiều đến trước mặt quan, xá hai xá, lên tiếng:
- Đa tạ hoàng thượng, triều đình và Quan thượng thư. Với ngân sách
dồi dào như thế, thượng quan thừa sức mạnh để lập nên những giáo hội Phật giáo
thân triều đình khắp nước. Đồng thời, triều đình cũng chẳng khó khăn gì dẹp
sạch mọi sự chống đối. Phật giáo vẫn là Phật giáo; biển khơi vẫn là biển
khơi trôi chảy, chẳng hề hấn gì. Chỉ tiếc rằng, triều đình bỏ mất một sức mạnh
tinh thần như Phật giáo mà thôi.
Quan thượng thư hạ giọng:
- Thưa thầy, điều thầy nói mâu thuẫn chăng? Nếu triều đình đã có trong
tay những giáo hội Phật giáo thân tín, thuộc về mình và dẹp sạch phường theo đạo
Phật chống đối thì rõ ràng là được chứ sao lại mất Phật giáo?
- Thưa quan lớn, mất là vì nhiều lẽ. Tự thân, đạo Phật là biển khơi, trôi
chảy thường hằng, như như bất tận. Biển khơi không nghiêng bên nầy mà
cũng chẳng đổ bên kia. Nay triều đình cố đem triều nước về làm khe suối
róc rách quanh mình thì đấy cũng chỉ là khe suối, chẳng phải là biển khơi. Cũng
tương tự như thế, triều đình dẹp sạch những thế lực chống đối thì cũng chỉ làm
công việc dẹp bứt những khe suối không có cùng dòng chảy với triều đình. Đấy
cũng chỉ là dẹp yên khe suối, không làm lặng sóng biển khơi.
- Như vậy thì triều đình phải làm sao để nắm được thế lực Phật giáo trong tay?
- Xin đừng vốc khe suối và sông biển trong tay. Muốn tắm khe suối, cứ thản
nhiên lặng lẽ về với khe suối thì sẽ được trọn vẹn với khe suối. Muốn tắm
sông biển, cứ thản nhiên lặng lẽ về với sông biển thì sẽ được trọn vẹn với sông
biển.
- Thế thì tại sao Phật giáo thời Lý Trần đã đến giữa cung đình, ngự lên ngai
vàng, thậm chí cùng theo chân vua Trần ra trận, đánh thắng giặc Mông, Nguyên?
- Vua quan Lý, Trần thành tâm, lặn lội tìm đến với Phật giáo để suối nguồn đạo
Phật tưới tẩm những hạt giống lành không chỉ riêng vua quan Lý, Trần mới có mà
ai cũng có sẵn trong lòng mình.
Trước khi Quan thượng thư kịp mở lời nói tiếp, thầy Tiều đã đến trước mặt
quan xá dài hai xá rồi xách tay nải đi ra.
CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM
Bến Đợi
Tuổi năm mươi thì đi; tuổi sáu mươi thì chạy; tuổi bảy mươi
thì bay; tuổi tám mươi nằm chờ trên cửa huyệt. Hoa Đà đã ví von, so sánh
tuổi đời với sự rơi xuống mỗi ngày một nhanh, trên đường xế chiều tiến về phía
cận kề với bệnh tật và cái chết. Trong nhóm Vườn Dược Thảo, Phạm Xảo là
người cảm nhận rõ nhất điều đó trong lứa tuổi bảy mươi.
Thời xông pha chiến trận, một Phạm Xảo tướng quân trung niên
nhìn mọi sự, kể cả hạnh phúc lẫn gian nguy và thử thách qua lăng kính mầu hồng. Tưởng như đầu có bị đối phương chém rụng giữa sa trường thì sử sách và cuộc đời
sẽ dựng mọc lên đầu khác. Muôn vạn nẽo đường đời trong tầm mắt theo tháng
ngày ít dần đi và thu nhỏ lại. Đến tuổi bảy mươi thì chỉ còn có một con
đường đơn độc và lạnh lùng nằm vắt vẻo bên bờ sống chết. Bến đợi nằm ngay
trước mắt. Phạm Xảo góp mặt thưa dần trên những cánh đồng dược thảo. Rồi một hôm, Phạm Xảo vắng mặt luôn ba ngày mà không ai hay biết vì đâu. Mọi người dáo dác đi tìm và bắt gặp Phạm Xảo ngồi im bất động, quay mặt vào tường
trong ngôi miếu bỏ hoang trong vùng cây già của Thái Ấp.
Trên đường về, Phạm Xảo đi thong dong trong im lặng bên cạnh
những người anh em. Thầy Tiều hỏi:
- Ba ngày qua quý hữu đi đâu?
Phạm Xảo trả lời mà không giải thích:
- Chẳng đi đâu cả, chỉ ngồi định tâm trong ngôi miếu cổ thôi
thầy ạ.
Thầy Tiều lắc đầu:
- Ý tôi muốn hỏi cái tâm của quý hữu kia.
Phạm Xảo trả lời ngay:
- Thân và tâm đều ở một chỗ.
Thầy Tiều nói bằng lời vui phơi phới:
- Hà, hà. An định được vậy là tốt lắm.
Tâm An xen vào:
- Thế nào mới là không tốt, thưa thầy?
Thầy Tiều đáp:
- Tâm viên, ý mã. Nghĩa là tâm con người hiếm khi được an
định mà nhảy nhót chuyền cành như con vượn và ý cũng tung vó chạy quanh như ngựa.
Không tốt khi xác thân ngồi đó mà tâm ý lại bỏ đi.
Tâm An không tán đồng:
- Cái xác chỉ là tấm thân tứ đại thô lậu. Tâm ý mới là
đáng quý. Nếu tâm ý bỏ cái xác thô lậu để chu du những cảnh giới đẹp đẽ của
thánh thần, trời đất thì có tốt không ạ?
- Không có khổ đau thì làm gì có an lạc. Không có địa
ngục thì đâu có niết bàn. Không có vô minh thì không còn đạo Phật vì đạo Phật
là con đường chuyển mê thành giác. Phật bất ly thế gian. Tánh Phật
không nằm trên cõi trời mà nằm trong cái xác thân thô lậu ấy của con người. Nếu tâm ý đã tự tách ra và lên đến được cõi Trời thì cớ sao lại phải quay về để
chui vào cái xác thân thô lậu ấy để làm gì đã chứ?!
- Thưa thầy, nhưng có rất nhiều người và bản thân đệ tử Tâm
An này cũng đã có lúc nhập thiền xuất hồn lên đến tận cõi trời Đâu Suất.
Thầy Tiều hỉ hả:
- Đẹp không?
- Dạ đẹp lắm thầy ơi!
- Đẹp giống gì?
- Ồ, đẹp còn hơn cả Đại Nội và cung vua nữa kìa.
Giọng thầy Tiều càng trở nên trào lộng:
- Chắc vua Trời cũng mướn mấy ông thợ kép xây Hoàng Thành Huế
lên cảnh trời Đâu Suất để xây dựng thiên đình đó.
Biết thầy Tiều chẳng xem chuyện xuất hồn, xuất vía vào đâu,
Tâm An tức mình hỏi vặn lại cho bằng được:
- Ôi, thầy mà không tin thì kẻ tiểu sanh nầy xin hỏi rằng, nếu
không có thật thì hình ảnh ở đâu mà hiện ra đẹp đẽ đến thế?
Thầy Tiều đáp gọn lỏn:
- Ma ảnh!
Tâm An kêu lên:
- Nghĩa là ma quỷ sáng tạo ra hình ảnh đó ư?
- Lòng ham muốn của mình vẽ nên hình ảnh và phát ra từ cái
tâm mơ tưởng chứ có ai ngoài ta đâu. Sự tin tưởng vu vơ, sai lầm gọi là
"ngụy tín" càng lâu ngày, càng lôi kéo, lay động cái tâm mình. Đến một lúc nào đó, ta bỗng tự mình thuyết phục mình điều chính mình đã tin tưởng
vu vơ trong bao lâu ấy chính là sự thật, là chân lý rạng ngời.
Tâm An quyết hỏi cho bằng được cái "chân lý rạng ngời"
đích thật là gì:
- Thưa thầy, thầy là người đem trọn cuộc đời tu theo đạo Phật. Vậy thì chân lý cùng tột mà thầy đang đi tìm là gì?
Thầy Tiều lại bật cười trước vẻ mặt nghiêm trọng của Tâm An,
thầy nói dễ dãi:
- Là chúng ta đang đi về nhà đây này.
Tâm An lại nhăn nhó:
- Thôi tội quá thầy ơi! Thầy đừng đùa nữa.
Thầy Tiều cũng làm bộ nhăn nhó theo khuôn mặt Tâm An nhưng
vui đùa trong lời nói:
- Hoan hỷ! Hoan hỷ! Tâm An đang đi trên đường chân lý vui vẻ,
thẳng băng lại quẹo qua con đường nhăn nhó, gập ghềnh rồi, tội chưa!
Sự lặng lẽ của Phạm Xảo làm cho những lời phân tích, luận bàn
thành xa lạ. Có vẻ như mọi người đang trong một thế giới của lời nói là bạc,
im lặng là vàng.
Tiếng ngựa hí làm mọi người ngạc nhiên khi vừa về đến con đường
dẫn vào cổng Thái Ấp. Một cổ xe song mã dáng quen quen không có chủ đang
đứng trước cửa ngõ dinh ông Hoàng tự bao giờ. Trí Hải vừa qua khỏi cổng chính
thì đã gặp hai người nữ hầu bưng khay lễ vật đứng chờ. Một vị cao niên
trong sắc phục lão quan xuất hiện, ngoắc tay cho hai người bưng khay lễ vật đến
gần nhóm Dược Viên của Trí Hải. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, vị lão
quan rót hai chén rượu trên mâm lễ với một tấm thiệp đã được trang trọng để sẵn
trên đó và chắp tay cung kính thưa:
- Bẩm hoàng thân đại nhân và chư vị, hạ quan thừa lệnh Quan thượng thư bộ
Hình đệ trình thiệp xin yết kiến.
Trí Hải chắp tay chào vị lão quan và tiếp tấm thiệp. Thì ra là Lê Trung Ẩn. Vị quan đầu triều về luật pháp nầy muốn gặp riêng Trí Hải và Phạm Xảo. Trí Hải phê “thuận” vào thiệp và ngõ ý với vị lão quan mời Quan thượng thư bộ Hình vào khu nhà kiếng. Nơi đây, không khí an tịnh và thân mật chứ
không lễ nghi quan cách như khung cảnh tại tiền sảnh của dinh ông
Hoàng. Cả Trí Hải và Phạm Xảo đều tỏ vẻ ngạc nhiên trước cách hành xử
mang tính lễ nghi một cách khác thường của Lê Trung Ẩn. Thường khi, Ẩn một
mình một ngựa, quần áo thường ngày, nhẹ nhàng đến thăm Trí Hải. Chưa bao
giờ ông đến với Trí Hải bằng cung cách nhà quan cả.
Những người vệ sĩ và hầu cận vẫn đứng nghiêm cẩn trong tư thế đã được xếp đặt
đúng lễ nghi. Khi cả 3 người gồm Trí Hải, Phạm Xảo và Lê Trung Ẩn đã an vị
trong ngôi nhà kiếng, nằm gọn giữa mầu xanh mát của cây lá thiên nhiên, chủ
nhân lên tiếng bằng giọng thân tình thường lệ, không quá câu nệ lễ nghi khách
sáo như đối với một vị quan triều:
- Mời chư vị dùng trà. Hôm nay huynh đến đây chắc không phải để bàn chuyện
văn chương, thế sự như thường lệ phải không ạ?
Lê Trung Ẩn không cười vui như mọi khi mà nghiêm trang ngỏ lời:
- Tôn huynh nói đúng. Lần này, xin được gác việc riêng ra ngoài việc
công. Chúng tôi đến với tư cách là người của bộ Hình trong Lục Bộ của triều
đình. Tuân chỉ đương kim hoàng thượng thi hành mật chỉ của tiên đế đã ban
trước khi băng hà.
Trí Hải lờ mờ đoán ra giây mơ rể má về trường hợp Phạm Xảo và vua Gia Long, điềm
nhiên trả lời:
- Việc công là trọng. Quan thượng thư cứ theo quốc pháp mà thi
hành. Giao tình giữa chúng ta vốn quý nhưng chẳng nên câu nệ trong lúc
này.
Lê Trung Ẩn tươi mặt tiếp lời:
- Tôn huynh bao giờ cũng chu đáo. Trước hết, cá nhân tôi xin được bày tỏ
lòng bái phục đối với lão tướng quân Phạm Xảo. Thật tôi không ngờ bao lâu
nay được gần gũi môt ngọn núi Thái sơn mà vẫn tưởng là hòn non bộ. Mãi
cho đến khi tiếp nhận mật chỉ của tiên đế từ tay Hoàng thượng, tôi mới sửng sốt
nhận biết lão gia bên cạnh hoàng thân là danh tướng Phạm Xảo.
Đứng dậy qua về phía Phạm Xảo, Lê Trung Ẩn thi lễ:
- Xin tướng quân nhận nơi đây tấm lòng ngưỡng mộ chân thành của riêng
tôi. Là một người bạn tâm giao với hoàng thân, tôi đã đến đây sinh hoạt
như người nhà. Nếu lâu nay có điều gì thất lễ, kính mong tướng quân đại xá cho.
Phạm Xảo khoát tay:
- Tướng quân hay lão già hầu cận cũng chỉ là tên gọi tạm thời cho tôi hay một
người nào đó. Cái giao tình chân thật mới là quý. Quan thượng thư chấp nhất chuyện nhỏ nhặt làm gì.
Lê Trung Ẩn bày tỏ một sự trang trọng thân tình:
- Thật là quý hóa. Cám ơn tấm lòng độ lượng của tướng quân. Hôm nay tôi đến
đây có nhiệm vụ thông tri và bàn bạc về ba điều mà tiên đế đã di chỉ phải thi
hành đúng vào ngày tướng quân lên tuổi thọ bảy mươi. Thứ nhất, là cấp một
trăm mẫu đất ruộng nhất đẳng điền để làm bổng lộc cho lão tướng hưởng dụng
trong thời gian tuổi già sức yếu. Thứ hai, là cáo bạch trước khi lão tướng
còn sinh tiền rằng, ngày tướng quân qua đời, triều đình phải đem nghi lễ đại thần
làm quốc táng. Và thứ ba, là sẽ thiết đại triều nghi để phong tôn tước xứng
đáng với công lao to lớn mà tướng quân đã tận trung phục vụ bên cạnh tiên đế
trong bao nhiêu năm để đánh thắng Tây Sơn, thống nhất sơn hà.
Phạm Xảo như không chú ý đến lời của Lê Trung Ẩn. Ông nhìn lên những hàng
cây du với dáng nghĩ ngợi. Trong đáy mắt một dũng tướng, chiến trường xưa
đã phai mờ gươm giáo, nhưng cái anh hồn chiến trận vẫn còn vang vọng đâu
đây.
- Thưa tướng quân, trong ba điều di chỉ của tiên đế, chẳng hay tôn ý của tướng
quân như thế nào ạ?
Câu hỏi của Lê Trung Ẩn làm Phạm Xảo phải quay về với thực tế. Ông đáp lời:
- Cả ba điều đều không áp dụng đúng vào trường hợp của cá nhân tôi, thưa Ba
- Nghĩa là...? Tướng quân có thể giải thích rõ thêm được chăng?
- Thứ nhất, ở tuổi này rồi, tôi chỉ cần một miếng đất bằng cái giường con để
chôn khi chết chứ làm chi mà cần đến cả trăm mẫu nhiều thế! Thứ hai, đạo
làm tướng như đạo làm người. Làm người không khó nhưng sống đúng đạo làm
người thật khó. Không có tang lễ nào vinh quang hơn cho người làm tướng bằng những
huy chương vô hình mà chiến tích và đồng đội mình đã ngã gục trên chiến trường
hay còn sống sót tặng cho mình. Những công thần lương đống như Nguyễn Văn
Thành, Lê Văn Duyệt mới xứng với nghi lễ đại triều và sự sắc phong tôn tước,
nhưng rồi cuối cùng cái chết của họ còn bi thảm hơn là kẻ thất phu. Riêng
tôi thì nẽo đi về của những chiến trường xưa đã khép. Lòng tôi đã an tịnh như
hài nhi tóc bạc. Tôi coi danh lợi như khói như sương. Xin Quan thượng thư về cung bẩm với hoàng thượng là tôi rất đội ơn tiên đế và hoàng thượng. Nửa đời làm tướng, nửa kiếp làm tôi kết lại, tôi chỉ mong xin được một đời làm
người. Khi đến ngày xuôi tay nhắm mắt, tôi chỉ mong được ra đi như một ngọn lá
rụng về đất im ắng, nhẹ nhàng và thanh thản.
Cả Trí Hải và Lê Trung Ẩn cùng trân trọng nhìn về phía Phạm Xảo. Mái tóc trắng
phau và chòm râu bạc trắng phụ họa thêm cho lời nói cổ kính của viên lão tướng.
Lê Trung Ẩn ra hiệu cho tất cả quan quân hầu cận tả hữu lui ra. Như một
trách nhiệm đạo nghĩa mang ít nhiều kịch tính đã đóng xong, những người làm chứng
sẽ đồn đãi ra ngoài công luận về sự thủy chung, tôn trọng hiền thần của vua
quan đương vị vốn đã từng bị mang tiếng là bạc đãi trung thần.
Còn một mình với Trí Hải và Phạm Xảo, Lê Trung Ẩn khơi lại chuyện xưa:
- Nếu đêm đại tiệc ở Ngự Viên với vua Gia Long ngày đó mà không có hoàng thân
Trí Hải, chắc chắn tôi không phải là tôi bây giờ.
Trí Hải hỏi lại, giọng trầm xuống như lời tâm sự:
- Huynh tiếc?
- Cũng chẳng lầm mà cũng chẳng mấy may. Nếu có chăng điều đáng tiếc là càng làm
quan, càng xa cái gốc của mình và dần dần đi đến chỗ không biết mình là ai.
- Bây giờ so với ngày ấy, huynh đã mất đi và được những gì?
- Mất gia tài thực sự bên trong của riêng mình và được những hình tướng vay mượn
đầy mình đeo nặng bên ngoài.
- Sao lại thế?
- Thế là thế đó tôn huynh à. Một thời đầy lý tưởng dậy trời và nhiệt tình
tuổi trẻ. Thuở ấy, trí còn trong suốt không nương nhờ; tâm còn an trú
trong lý tưởng cao xa. Tuy chưa thực chứng tâm không, vô ngã nhưng hướng đi
khai phóng ấy sao mà đầy tính thuyết phục, lay động tâm thức con người đến thế.
- Huynh biết đến đạo Phật từ bao giờ?
- Từ nhỏ tôn huynh ạ. Nhưng tôi theo đạo Nho mà không theo đạo Phật.
- Ngày đó và cả bây giờ, cả hai chúng ta không hề nhận mình là người theo đạo Phật nhưng cái tâm chúng ta đã nương theo một con đường “minh đức”, một tinh thần
hóa giải là nét tinh yếu của Phật giáo.
Lê Trung Ẩn bồi hồi nhắc chuyện cũ:
- Tôn huynh và tôi đã nắm tay nhau, ôm chầm nhau như anh em tiền kiếp. Thực
lòng chúng ta không câu chấp Bắc Nam, không nép mình sau biên cương mới cũ.
Gió đưa lá dáo dác ẩn hiện một cách mơ hồ. Trí Hải trầm ngâm nhìn ra bên ngoài
ngôi nhà kiếng, hồi lâu mới lên tiếng:
- Thời gian đã làm cho chúng ta già hơn hay khôn ngoan, từng
trãi hơn?
Lê Trung Ẩn trầm giọng thành lời tâm sự:
- Từ sau đêm Ngự Viên, cái “tâm không” an nhiên ấy đã bị cái
“trí hữu” đối đãi nầy làm mờ mịt. Giữa chợ đời của công danh, quyền lực,
vật chất đối mặt với lòng ham muốn, hận thù, cố chấp... đã từng bước, từng khắc,
từng ngày làm cho cái tâm mây trắng của chúng ta thành vẩn đục mất rồi. Tôi làm Quan thượng thư; càng gần vua hơn càng có nhiều dịp quỳ lạy và phải
giữ gìn ý tứ hơn người khác. Làm quan nhỏ như người cỡi bò, lỡ sa chân
thì cũng còn gượng dậy được. Làm quan to như người cỡi ngựa, đã ra roi
phóng nước đại mà lỡ sẩy bước thì thân mạng khó toàn. Làm quan đầu triều
như cỡi xe phượng hoàng lên trời mà người cầm lái là con trời, là thiên tử.
Cỗ xe và chim phượng không bao giờ có thật nên “cổ xe” chỉ có hành khách và người
lái. Vua trực tiếp lái quan đầu triều nên quan triều như ngồi trên đầu
voi. Lỡ lầm là vong mạng!
Sự ví von ngộ nghĩnh làm cả ba người cười xòa, gần gũi nhau
hơn.
Trí Hải nhận xét:
- Như thế làm quan khó hay đi tu khó?
- Tu là sửa mình mà làm quan là sửa người. Muốn sửa người
đúng hướng thì phải sửa mình trước đã.
- Như thế thì theo huynh muốn làm quan thì phải đi tu trước
đã?
- Tu hay làm quan chỉ là hình tướng; mà hình tướng là giả tướng,
chả có gì quan trọng đáng kể. Điều cốt tủy là tu và làm quan không phải
là hai trạng thái mâu thuẫn nhau trong cùng một con người. Đời Trần hầu
như nhà nào cũng có người đi tu; hơn một nửa quan triều sống và hành xử theo
tâm thức và phong thái nhà tu. Tu không phải là lánh đời mà lánh cái đáng lánh ở
đời. Trần Hưng Đạo là một nhà tu. Giặc chiếm non sông thì treo áo nhà tu
ra cầm quân giữ nước. Đất nước thanh bình thì khoác lại áo nhà tu.
Mời Lê Trung Ẩn một chén trà bằng cả hai tay, Trí Hải hỏi một
cách đùa vui:
- Thế thì có chăng Quan thượng thư bộ hình của chúng ta
đây cũng là một nhà tu?
Quan Lê đùa lại:
- Nhà tu của nhà tù hoàng thân đại nhân ạ.
- Nhà nào lớn hơn, nhà nào cao hơn thế, hả quan?
- Lớn hay nhỏ không phải là độ lớn của cái nhà mà là tính “dụng”
của cái nhà. Cao hay thấp không phải là thước đo của cái nhà mà là
tính “trọng” của cái nhà. Nhà tu không phải nhân dáng, là cái áo, là điệu
bộ trình diễn bên ngoài mà là cái phẩm chất tu hành ở bên trong. Làm quan
chấp pháp của triều đình, đôi khi tôi phải dùng nhà tù để nhốt những nhà tu vì
trong những nhà tu đó đã chứa sẵn chủng tử hay mầm giống của nhà tù.
- Chủng tử của nhà tù trong nhà tu là gì vậy?
- Là sự tham dục bọc trong chiếc áo màu khả kính; là sân hận
nhốt trong cái đầu thánh thiện; là si mê gói giữa lời chân kinh.
- Huynh bỏ tù nhà tu là lỗi đạo.
- Nhà tu chân chính là lương tri cuộc sống tâm linh của con
người. Hiểu được điều đó nên tôi không bao giờ dám động đến nhà tu. Tôi
chỉ tạm nhốt lại cái biến chất thô nhám, cột trói lại cái vọng tính hoang dại của
một người phạm tội khi vẫn còn khoác áo nhà tu mà thôi. Nếu một người nào
đó cứ khư khư bám chặt vào cái phẩm chất đã bị biến tướng và suy đồi đó thì cứ
vào nơi giam giữ, buông tay thì trở ra. Đơn giản thế thôi.
- Huynh ạ, người cầm đầu pháp luật của một nước như huynh mà
lý luận như thế là hàm hồ và áp đặt. Đánh đập một người nóng giận hồ đồ
mà bảo rằng chỉ trừng trị sự bạo động và hồ đồ chứ không hề động đến thân thể của
ông ta là ngụy luận, không thể chấp nhận được.
- Ô hay! Tôn huynh quên là tôi đã nói ở phần trên rằng, tu là
sửa mình mà làm quan là sửa người đó sao. Nếu một người làm tốt thì mãi
mãi anh ta là người tốt và ngược lại thì hóa ra con người là một nguyên khối
không thay đổi được hay chăng? Thái tử Tất Đạt Đa và đức Phật Thích Ca cũng chỉ
là một người. Nếu thái tử không tách rời tính vương giả, tham ái và hưởng
thụ ra khỏi mình để xuất gia tìm đạo thì làm sao có đức Phật Thích Ca?
- Vậy thì theo huynh, sức mạnh nào làm cho con người xoay
chuyển đến hướng nầy hay hướng khác?
- Hình như tôi còn nhớ rằng, tôn huynh đã có lần đã nói đến một
sức mạnh tổng hợp, dồn tụ qua muôn vạn chặng đường cho đến ngày hôm nay; và hôm
nay cũng chỉ là một chặng đường trong muôn một. Hôm nay vừa là tụ điểm, vừa
là khởi điểm cho một dòng sinh thái chảy luân lưu trong trong suối nguồn vô hạn
và vô biên của vũ trụ, của tạo hóa.
Trí Hải xác nhận:
- Vâng, tôi thấy càng rõ tụ điểm của sự sống đó khi ngâm mình
trong suối Bản Lai. Dòng nước như dòng sống cứ trôi chảy không ngừng.
Nước chỉ một dòng nhưng sẽ trong vắt khi qua đá thanh, sủi bọt đục ngầu khi qua
bến cạn bùn đất, vỡ toang thành sợi khi lao ra khỏi ghềnh đá, róc rách khi vào
khe núi, lạnh băng khi vào lòng đất, ấm lên một chút khi chảy qua thân
tôi. Và cứ thế, dòng nước cứ mãi luân lưu, biến tướng không ngừng.
Lê Trung Ẩn tiếp lời Trí Hải:
- Càng suy tưởng trong vắng lặng, càng cảm nhận để “thấy” tụ
điểm và khởi điểm như tôn huynh nói là một mắc xích của sự sống cứ trôi chảy
triền miên mà không một sinh vật nào tránh khỏi. Ai muốn gọi sức mạnh đó
là gì cũng được. Dẫu cho gọi tên là trời, là đất, là đạo, là thái cực, là
nghiệp, là số phận, là định mệnh... hay là gì đi nữa thì cũng chỉ có Một Lực
Uyên Nguyên hay Suối Nguồn Vũ Trụ từ vô thủy đến nay mà thôi.
Trí Hải nhớ lại khái niệm “Suối Nguồn Vũ Trụ” trong nửa năm sống
trên núi Kim Phụng, hỏi Lê Trung Ẩn
- Lực Uyên Nguyên hay Suối Nguồn Vũ Trụ đó là vĩnh hằng,
không bao giờ biến đổi hay sao?
- Tất cả mọi vật đều dựa vào nhau mà thay hình đổi dạng; mà
sinh diệt không cùng tận. Khi tụ điểm của Lực đó xuất hiện ở đời nầy, trong thế
giới nầy, nó có thể thay hình đổi dạng tùy theo điều kiện mà nó trụ vào hay
dính mắc vào. Như ánh sáng khi còn ở khối tinh cầu trên cao kia thì gọi là
mặt trời. Nó chiếu qua rừng mây thành vòng cầu ngũ sắc. Nó chiếu xuống
đại dương thành hoa nước lung linh. Nguồn sáng tưởng như là tuyệt đối, sống
đời đời, nhưng thật ra nó thay đổi trong từng khoảnh khắc.
Trí Hải nhìn đuôi tóc bạc của Lê Trung Ẩn lọt ra ngoài áo mũ
nhà quan, lên tiếng với bạn mà có cảm tưởng như đang nói với chính mình.
Sống thực sự là ý thức được mình đang hiện hữu. Trong
hiện hữu biết được mình cần phải làm gì để cho dòng sinh mệnh chảy qua chặng đời
này được tốt hơn, trong sáng hơn, đầy năng lực hơn trước khi chảy vào tương lai
thì gọi là... tu.
Trong khi Trí Hải và Lê Trung Ẩn phân tích và trao đổi những
suy nghĩ riêng của mình thì Phạm Xảo vẫn âm thầm ngồi canh bếp lửa than hồng nấu
nước nóng pha trà. Lê Trung Ẩn sà xuống ngồi cạnh bếp hồng, lên tiếng:
- Mời tướng quân ngồi dùng trà cho vui. Chúng tôi là chỗ
bằng hữu thân tình lâu ngày không gặp, nên có quá nhiều điều suy nghĩ để nói với
nhau. Mong đại huynh châm chước cho nhé.
Ánh than hồng hắt lên tóc râu bạc trắng của Phạm Xảo thành mầu
cổ đồng pha sắc đỏ. Trong vòng một năm trở lại, Phạm Xảo càng ngày càng
trở nên ít nói đến độ làm mọi người phải ngạc nhiên. Ông thường thức rất
khuya và thích ngồi xếp bàn định tâm ngoài trời. Không ai hay ông ngủ lúc
nào vì khi mọi người chuẩn bị đi ngủ thì ông vẫn còn thức và khi có người đầu
tiên dậy thì thấy Phạm Xảo đã ngồi trong sương không biết đã bao lâu rồi. Có ai thắc mắc thì ông chỉ cười mà không nói. Những đồ dùng cá nhân của
Phạm Xảo ngày một giản lược đến khi chỉ còn ba bộ áo quần, cái gối, cái mền,
chiếc chiếu. Gia sản quý nhất của Phạm Xảo có vẻ như là bài kinh Bát Nhã
viết bằng chữ Phạn và chữ Hán với nét chữ cố gò bó một cách chân phương nhưng vẫn
còn cực kỳ bay bướm. Bài kinh viết trên một vuông gấm nhỏ cũ kỹ lâu đời
được lồng trong khung kính mà Phạm Xảo treo ngay trên đầu giường ngủ.
Thư pháp viết trên vuông gấm rõ ràng có hai mảnh. Mảnh
trên hình như đã bị ai xé rách. Mảnh dưới được tạm thời nối kết với mảnh
trên bằng một đường chỉ khâu nhỏ, mảnh mai.
Mỗi đêm trước giờ đi ngủ và mỗi sáng ngay sau khi thức dậy,
Phạm Xảo thường đưa mắt nhìn vuông gấm với vẻ đam mê và đắm đuối của người tình
si mê về một đối tượng chưa hề gặp mặt. Đôi môi ông mấp máy. Tiếng
vọng chưa thành lời. Nhưng cái âm vang từ chữ, từ lời, từ ý, từ cái không mênh
mông của không chữ, không lời, không ý cuốn hút ông, lôi kéo ông, buông lơi ông
và thả ông phiêu bạt về với chính ông an trú giữa cõi bao la không bến bờ ghé lại.
Phạm Xảo buông tay, buông tay, buông tay... không biết vịn nơi đâu. Trong
thầm lặng muôn đời dậy lên tiếng gọi huyền bí: “Bờ Bên Kia. Hãy qua bờ bên
kia!”.
CHƯƠNG HAI MƯƠI SÁU
Bờ Bên Kia
Một buổi trưa, cây lá lao xao lấp loáng theo nắng. Trời
trong và nhẹ giữa âm vang thinh lặng thoáng vẻ ca dao. Những chén trà mắt trâu
gõ nhịp cho câu chuyện chỉ có hai người. Người nghe và người nói thấm vào
nhau không phân biệt vì cả hai đều đã nghe và đã hiểu câu chuyện đầy ẩn dụ từ
thuở xa xưa. Thế nhưng nhu cầu phải nói lên, nói những lời muôn năm vẫn
còn thiếu với người khao khát đi tìm và thừa với kẻ mệt mề quay mặt như lời nói
tình yêu, như lời kinh cầu nguyện... vẫn cần thiết, vẫn thôi thúc. Tiếng
Lê Trung Ẩn đều và ấm bên bình trà nội phủ với Phạm Xảo:
- Ngày nọ, hai anh em đồng môn xuống núi. Trí Quang và
Trí Minh đã sống quanh quẩn bên cạnh Thầy suốt mười lăm năm dài tu học.
Hai anh em dắt tay nhau bước dần xuống đồi. Cứ mỗi bước đi tới lại quay lui
nhìn Thầy. Vị ân sư nuôi dạy hai trẻ mồ côi trong ngôi chùa cổ trên núi
xanh dặn dò: “Cuộc đời thật dưới kia không phải là cảnh trời mà cũng chẳng phải
là địa ngục. Hai con đã học chín những lời dạy tinh yếu nhất của ba tạng
kinh điển. Nay phải xuống núi giúp đời là việc phải làm. Nếu chỉ lo
tu trên núi để cầu mong giải thoát cho riêng mình như Thầy là điều rất khó đạt
vì nợ nần chúng sanh là món nợ trùng trùng ân tình, ơn nghĩa dễ vay mà khó trả. Chưa trả sạch nợ thì nghiệp chưa giải hết, làm sao buông tay, quay mặt với đời
để giải thoát một mình. Vay nhiều thì phải trả nhiều; vay ít thì trả ít;
không vay thì khỏi trả. Trong các món nợ thì Nợ Mình là lớn nhất.
Cái tôi càng nhỏ, nợ nần càng ít. Tâm không, vô ngã là hết nợ”.
Đời vô thường nên cuộc đoàn viên nào rồi cũng đến lúc chia
tay. Với nụ cười khoan hòa, tĩnh lặng, nhưng không dấu được vẻ lưu luyến lúc
chia xa, Thầy dừng lại ở cuối con đường chân núi vẫy tay dặn dò và chúc lành
hai đứa bé mồ côi ngày xưa bây giờ đã thành hai thanh niên tuấn tú. Nước
mắt lưng tròng, hai thanh niên nhìn lui Thầy lần chót trước khi con đường về đồng
bằng rẽ khuất sau biển cây xanh.
Về với phố chợ lạ lùng, Trí Quang và Trí Minh bịn rịn bên
nhau gần mấy tuần trăng, nhưng rồi cũng phải xa nhau, tự đi tìm lẽ sống. Trí Quang về sống ngay giữa khu chợ ồn ào, tấp nập bên cạnh bờ sông. Bắt
chước theo hạnh đầu đà “thỏng tay vào chợ”, Trí Quang tin rằng, nuôi được tâm
không vắng lặng giữa chốn bụi đời phiền trược mới thật là tịnh tâm và tịch diệt
được mọi ham muốn ở đời. Tìm tịnh ngay trong động; và tìm động ngay trong
tịnh mới thật là gần gũi với chân tính. Nghĩ thế và làm theo, Trí Quang
suốt ngày lê la sống giữa chợ, mĩm cười bất chấp những điều tục lụy khen
chê. Đêm về, anh ta ngồi ngủ trong cái lu sành kê dưới gốc cây mưng bên bờ
sông. Đêm khuya chợ vắng, Trí Quang ngẩng đầu ra khỏi miệng lu, tĩnh tọa
ngồi thiền. Quanh năm, áo quần tóc tai không thay đổi chăm sóc, bất cần đến
nhục thân, bất cần đến xã hội xung quanh, miễn sao giữ cho được bản tâm mình
thành thánh. Trí Minh thì hoàn toàn ngược lại. Anh ta nghĩ rằng bồ
tát hạnh không xa thế gian một mảy may nên lặng lẽ vào đời để sống như mọi
người. Trí Minh làm ăn trở nên giàu lớn và lấy vợ sinh con, có đủ thê thiếp,
kẻ ăn, người ở đầy nhà.
Mười năm trôi qua, Trí Minh chạnh nhớ người anh em và cho người
đi tìm Trí Quang. Người nhà Trí Minh tìm được Trí Quang ngoài chợ và ngỏ
lời mời đến thăm nhau. Trí Quang ra điều kiện là Trí Minh phải trải thảm
đỏ từ nhà đến chợ để rước mình mới chịu đến thăm. Và khi đến dinh thự,
Trí Minh và toàn thể gia nhân phải sắp hàng nghênh đón. Người nhà về bẩm
báo, Trí Minh chịu mọi điều kiện của Trí Quang đưa ra.
Đến ngày hẹn, Trí Quang xuống sông tắm rửa, rồi xách gậy bước
qua thảm đỏ đến thăm Trí Minh. Vừa đến dinh cơ đồ sộ của Trí Minh, Trí
Quang ngẩn người ra một lát. Anh ta bị choáng ngợp với ý nghĩ rằng, Trí
Minh đã quên lời Thầy dặn, chỉ lo tham luyến giữa đời. Rồi lập tức, chẳng
nói, chẳng rằng, Trí Quang xách gậy đập vỡ từng cái một những đồ đạt quý giá,
sang trọng bày biện khắp nơi trong dinh thự. Đập vỡ đồ đạc chán tay, Trí
Quang lại xách gậy rượt đánh người nhà của Trí Minh chạy tán loạn. Khi chỉ
còn lại Trí Minh vẫn đứng tươi cười chờ đón người anh em trước cửa giữa cảnh đổ
nát trong dinh thự sang trọng, Trí Quang vung gậy lên trước mặt Trí Minh nhưng
bỗng chùn tay lại. Đôi mắt hung hãn của Trí Quang bắt gặp ánh mắt trong
ngần, mát lạnh của Trí Minh đang thân ái nhìn mình. Cây gậy trong tay Trí
Quang rơi xuống. Không nói một lời, hai anh em đồng môn cùng dang tay, chạy
ào tới ôm nhau... Trí Quang nói nhè nhẹ trong tiếng thở dài: “Đứng lại giữa đời
mà lạc đường! Hèn gì Thầy mình phải vào sâu trong núi...” Trí Minh an ủi: “Mọi
vật đều biến đổi trong từng khắc. Có gì đứng lại được đâu. Cho nên
tự mình đứng lại cũng có nghĩa là đang bị xô đi. Đã biết phút trước không
còn, phút sau chưa đến thì có gì để bám víu và bám víu để làm gì đã chứ!”
Kể xong câu chuyện, Lê Trung Ẩn tự tay pha trà mời Phạm Xảo,
kết luận:
- Tướng quân à, đồ gia bảo quý nhất là cái tâm trong sáng
không dính mắc chứ chẳng phải là giá trị vật chất. Trốn chạy thực tế, chối
bỏ vật chất cũng có thể là một cách tham lam đi tìm cái to hơn, cái quý hơn còn
ở dạng tiềm năng, chưa tượng hình, tượng ảnh chứ chẳng phải là đi tìm chân
Không, chân Tánh của Đạo.
Phạm Xảo đón chén trà từ tay Lê Trung Ẩn, hỏi:
- Quan thượng thư vẫn cố tìm cách thuyết phục tôi phải
nhận lộc vua ban, nhận ân sủng của triều đình sao?
- Trả lời rằng “có” cũng đúng mà trả lời rằng “không” cũng
không sai.
- Vì Ẩn tôi vừa là Quan thượng thư của triều đình, mà
cũng vừa là người tin và hành đạo Phật.
- Không có sự mâu thuẫn khi cùng một lúc đóng hai vai trò vừa
đạo, vừa đời như vậy sao?
- Ngược lại đại huynh ạ. Hai vai hỗ trợ cho nhau. Nếu
thiếu mất một bên thì ý nghĩa của đời sống sẽ mất đi một nửa.
- Tại sao một lúc lại cần đến cả hai?
- Cầm đầu luật pháp quốc gia như Ẩn tôi mà thiếu đi cái tâm
chánh định, cái nhìn chánh kiến, cái trí chánh tư duy thì sẽ đi lệnh đường
trung đạo, bị nghiêng ngửa bên nầy hay bên kia. Khi cán cân luật pháp mất
quân bình thì luật lệ rất dễ trở thành trò áp bức. Còn vai bên kia là người
theo đạo Phật. Nếu Ẩn tôi cứ nói toàn những triết lý cao siêu; lẽ đạo tuyệt
vời mà chẳng làm gì được cho những người dân đen cùng khổ ngoài kia, cứ khăng
khăng đi tìm đường giải thoát cho riêng mình thì lại vô hình chung rơi vào một
sự bất công khác.
Phạm Xảo lắc đầu:
- Nói vậy, sẽ rất dễ vướng vào một sự cực đoan hình thức. Đấy là chưa nói đến thái độ gần như phủ nhận phẩm chất ưu việt của những
bậc chân tu, những kẻ đã hiến trọn đời mình cho đạo.
Lê Trung Ẩn cười và nói một cách nhã nhặn:
- Không đâu tướng quân ơi! Vàng thau thường lẫn lộn giữa
đời thường, nhưng trong đời sống tâm linh thì tội và phước hiển lộ rạch ròi
ngay từ trong tâm thức. Đạo Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn mà Ẩn
tôi mới đi có một. Còn lại những tám vạn, ba ngàn, chín trăm chín mươi
chín cách chọn lựa tùy duyên khác nhau nữa, thiên hạ tha hồ mà chọn lựa, tướng
quân lo lắng làm gì cho vất vả.
Phạm Xảo trở lại câu hỏi ban đầu:
- Cũng chẳng có gì quan trọng. Chấp nhặt làm gì chuyện
sông hồ, ao biển, miễn sao có nước thì thôi. Giờ trở lại với ý ban đầu,
quan muốn tôi phải thuận theo những ân điển của triều đình đã xếp đặt dành cho
tôi chăng?
Lê Trung Ẩn cười cười đáp lại:
- Cũng chẳng có gì quan trọng. Ân điển của triều đình
ban cho mà không muốn nhận thì có sao đâu. Người ta chỉ bắt vạ kẻ oán chứ
không ai bắt vạ người ân. Điều tôi cảm thấy chưa an lòng ở đây là có vẻ
như tướng quân đang cố gắng thực hành con đường “vô ngã” bằng cách dựa vào cái
ngã để chối bỏ, tiêu diệt nó.
Phạm Xảo nhìn lơ đãng khói trà váng vất, nói giọng bâng quơ:
- Vậy à? Tôi không biết và không cố ý đụng chạm đến cái gì mà
quan vừa nói đó… à, à… cái ngã. Ngã ở đâu?
- Làm gì có cái Ngã thực sự. Cái “tôi” hay cái “ta” chỉ
là tên gọi tạm thời cho những đơn vị hợp thể. Khi hợp thể tan thì cái tôi
hay ta tạm bợ đó cũng tan theo. Tất cả chỉ là sự chuyển hóa thói quen. Khi nói “tôi muốn hay không muốn...” là dựa vào kinh nghiệm và thói quen để bày
tỏ.
Phạm Xảo khen nửa như chiếu lệ, nửa như mĩa mai:
- Hay thật! Nếu “ta” là hư vọng, là vô ngã thì tu cho
ai và giải thoát cái gì nhỉ?
Thoáng một chút lúng túng, Lê Trung Ẩn trả lời:
- Vô ngã là một ý niệm tuyệt đối, không thể dùng chữ, dùng lời,
dùng âm thanh hay hình tượng mà gọi tên hay mô tả được. Khi còn một cái tôi
thân xác nói được “vô ngã” bằng lời thì khái niệm vô ngã chưa thực sự là vô
ngã. Cũng ví như khi người ta còn nói được “tôi ngủ” thì rõ ràng là chưa
ngủ hay nói được “tôi đang ngủ” thì có nghĩa là đã thức dậy. Người ngủ là
người đang hòa tan trong giấc ngủ, làm sao còn nói lên được khái niệm thật sự về
cái ngủ như thế nào. Những người còn tự xưng tụng hay muốn được xưng tụng
mình là đức nầy, đấng nọ, ngài kia; còn cố bon chen cho được người trên ngưỡng
mộ, người dưới cung bái để mưu cầu vô ngã là đang bước vào bóng tối để tìm ánh
sáng, bám vào hòn đá chìm dưới đáy sông để làm phao nổi trên mặt nước, ôm
vô minh để cầu giác ngộ. Vô tâm hay cố tình trói buộc cái ngã của mình,
cái ngã của chúng sanh và vạn pháp vào trong chùa to, tháp lớn, tượng đài để thực
hành “vô ngã” thì có khác gì nói rằng: “Ăn nhiều vào đi để cho đói, ngủ nhiều
vào đi để cho thức, uống thật say đi để cho tĩnh, vơ vét cho thật nhiều đi để
mà tay không…”
- Như thế thì trong câu chuyện mà nhà quan vừa kể về hai anh
em nhà họ Trí, ai đáng gọi là bậc hành giả trên con đường mưu cầu vô ngã?
Lê Trung Ẩn lại say sưa vào lý luận:
- Cả Trí Quang lẫn Trí Minh đều là hai trường hợp cực đoan,
chấp trước; cả hai đã trú ẩn vào cơn mộng tưởng làm cứu cánh sau dáng vẻ
“cầu vô ngã”. Khác nhau chăng là hình thức bên ngoài. Trí Quang và Trí
Minh đều bày tỏ tâm tưởng kiêu mạn theo cách riêng của mình. Trí Quang
quyết xa lánh cái “có” và ngỡ rằng sẽ tìm được cái “không” bằng thái độ chối bỏ
và xem rẻ đời sống và giá trị vật chất quanh mình. Trí Minh thì tìm cách
xa lánh cái “có” bằng thái độ bất cần. Đó là sự chọn lựa nhập thế, tạo dựng
và thỏa hiệp với cuộc đời thường. Khi đã nắm được của cải vật chất trong
tầm tay mình rồi thì lại ra vẻ dửng dưng và từ bỏ nó; rồi từ có biến thành
không. Tiếc thay, đấy chỉ là ảo tưởng nhất thời khi tâm tưởng vẫn còn mắc
kẹt trong khái niệm nhị nguyên đối đãi thông thường. Đó là khái niệm “có”
và “không” vật lý chứ không phải có và không thể tánh.
Lê Trung Ẩn dừng nói, đưa mắt hỏi ý Phạm Xảo nhưng chỉ thấy
người đối diện trầm ngâm nhìn lơ đãng đâu đâu. Im lặng hồi lâu, Phạm Xảo
nói chậm rãi:
- Trí Quang và Trí Minh chỉ thực hành theo cái thấy và cái biết
của cá nhân mình và thầy tổ của mình một cách trung thành. Thế theo Quan
thượng thư thì trong hoàn cảnh riêng của họ, hai anh em ấy có thể làm gì
khác hơn không?
- Thầy phải đi tìm một cái ngã an tịnh và ít nhiễm độc trên
núi sâu; trong khi hai gã học trò xuống núi thực hành “vô ngã vô nhiễm” giữa chốn
bụi đời. Sống với bụi đời bao bọc chung quanh mà không lo “tu bụi”. Tu bụi để gột rửa bớt lớp lớp bụi bặm phong trần chực chờ bám vào trên thân xác
và trong tâm tưởng liên tục trong mỗi nháy mắt. Những lớp mỏng bụi mờ
không lau sạch, sự dồn tụ càng lâu càng thành đống thành đồi. Làm sao có
thể chuyển hóa cái nghiệp muôn năm dính mắc trên thân phận làm người của mình
được khi bụi đời chưa lau sạch trong tâm.
- Theo quan thì phải cần tu bụi trước?
- Vâng, tu là chuyển. Chuyển là thay đổi. Trong
thay đổi thì cái gì cần nhất và gần nhất thì làm trước, thế thôi. Chỉ vì
mãi lo “tu đạo” khi thân chưa sạch, tâm chưa an nên cả hai anh em nhà họ Trí đều
bị dính mắc vào mớ bòng bong của tâm thức phá ngã và dối ngã. Trí Quang
khinh bỉ quay lưng hay nóng nảy đập phá thế giới vật chất mà anh ta coi như là
“có”, là kẻ thù của vô ngã. Trí Quang nhắc ta nhớ lại hình ảnh một kiếm
khách thời xa xưa vác trường kiếm chém gió thu để cho trời hết lạnh. Trí Minh
thì tự cho mình đã vượt ra khỏi vòng câu chấp; ôm trọn đời sống vật chất trong
tay nhưng quay lại đánh đổ và coi thường nó như một sự phủ nhận hiện hữu với tâm
trạng thỏa mãn của người “giác ngộ”. Sự giác ngộ dễ dãi và ngây thơ của
người chỉ thấy tượng Phật trong chùa mà không thấy tánh Phật quanh ta. Cái ngã
của hai người anh em ấy to gấp đôi so với người thường. Mỗi người vốn có một
cái “ngã sở” lù lù ra đó của riêng mình. Giờ đây, lại có thêm cái “ngã chấp”
hiện tiền nung đốt họ.
Phạm Xảo góp ý một cách lơ lửng:
- Biết đâu vậy mà hai anh em ấy lại cảm thấy an lạc và hạnh
phúc hơn tất cả chúng ta bây giờ.
- Tại sao tướng quân lại suy diễn như thế?
- Vì tất cả chỉ là phương tiện tạm thời để đi đến cái đích. Ấy
là hạnh phúc. Sống là phương tiện. Thân xác nầy là phương tiện. Tu
bụi hay tu đạo cũng chỉ là phương tiện. Qua những thay đổi, thăng trầm
bên ngoài mà có người cho là “dâu bể” thì hạnh phúc nhất là tìm được ra
nhau. Trí Quang và Trí Minh tìm ra nhau, ôm lấy nhau sau những đổ vỡ tang
thương. Ấy là hạnh phúc.
Những oan trái thường theo danh mà đến, bám lợi mà vào, nương
theo lòng ham muốn mà đi. Sau lần gặp gỡ cuối cùng giữa Phạm Xảo và Lê
Trung Ẩn, tước phong “Hùng Oai Đại Tướng Quân Tiền Vệ Phạm Hầu tự Thiện Xảo” của
triều đình dành cho Phạm Xảo đã được công bố đi khắp nơi. Bảng sắc phong
đã khuấy bụi thời gian làm cho Phạm Xảo nổi tiếng trong các cung đường và ngoài
dân dã.
Sống đời lặng lẽ như chiếc bóng trong Thái Ấp, Phạm Xảo vẫn
chẳng hay biết gì đời sống bên ngoài. Cho đến một hôm, một người khách lạ
đường đột đến báo là có người đang chờ muốn gặp. Phạm Xảo bằng lòng.
Khách đến viếng là một người đàn ông trung niên. Dẫu cố
khoác lớp áo bình dân bên ngoài, nhưng dáng dấp đường bệ, cử chỉ uy nghi và
ngôn ngữ cẩn trọng đã chứng tỏ địa vị cao sang và xuất thân quý tộc của người nầy. Bước vào dinh ông Hoàng một mình với thanh trường kiếm cắp trong tay, người
trung niên tiến thẳng đến trước mặt Phạm Xảo nghiêng mình thi lễ:
- Xin kính chào Hùng Oai Đại Tướng Quân. Kẻ tiểu sanh này
xin được diện kiến tướng quân. Xin tướng quân tha cho sự khiếm lễ trong
việc trình báo hơi đột ngột nầy.
Phạm Xảo chắp tay vái chào đáp lễ người khách lạ, đáp lại:
Người khách trung niên quắc mắt nhìn như xoáy vào người đối diện và bất ngờ cao
giọng đầy giận dữ:
- Ông biết tôi là ai? Thế nầy thì quá lắm. Ông đã giết hết cha mẹ
tôi rồi mà hơn 30 năm sau vẫn còn bám sát đứa con trai bất hạnh sống sót của họ
là tôi để giết nốt hay sao?
Lạ thay, trên khuôn mặt của Phạm Xảo không lộ một chút bối rối hay sợ
hãi. Ông nói với người khách đang nổi giận bằng giọng ôn tồn qua nét nhìn
đầy nhân hậu:
- Quan tổng đốc, người là một đại quan văn võ toàn tài, những lời nói tầm thường
như thế thật không xứng đáng với vị thế và uy danh của quan đâu.
Người khách cau mày, giọng bớt xẵng, trả lời:
- Nhân nghĩa có nơi, ăn chơi có chốn. Có lẽ không cần giới thiệu ông cũng
đã biết tôi quá rõ. Tôi là Trần Minh, con trai của vợ chồng người chủ
quán mà ông đã giết trong đêm biến loạn dạo nọ. Tôi đã kiếm ông bao nhiêu
năm mà không tìm ra tông tích. Khi ngỡ rằng ông đã chết thì tên tuổi ông lại xuất
hiện như một cựu lão tướng lương đống của triều đình.
Nhìn người khách trong một dáng buồn rầu, Phạm Xảo hỏi:
- Trần Minh, còn gặp nhau thì vẫn chưa muộn. Trong hoàn cảnh nầy, tôi có thể
làm được gì để giang tay thanh toán nợ nần?
Trần Minh vẫn cố bám sát con mồi đã ra khỏi hang:
- Ân báo ân, oán báo oán. Giết người thì đền mạng là công lý xưa
nay. Ông giết cha mẹ tôi. Vua tha tội cho ông; luật pháp do con người
đặt ra giải tội cho ông; con người đầy chủ quan và thiên kiến xúy xóa cho ông;
kể cả phản ứng của cái tôi đầy ngã mạn mà người ta quen gọi là lương tâm cũng về
hùa với ông. Nhưng trời đất mênh mông, lưới trời lồng lộng tưởng như chẳng
vướng chân ai, thế mà một tơ hào tội ác, một mảy may bất nhân cuối cùng cũng
không chui qua lọt đó ông ạ.
Phạm Xảo gật gù biểu đồng tình:
- Tôi cũng tin như thế. Chẳng hay hôm nay quan tổng đốc muốn mang uy quyền,
muốn mượn lưới trời đến đây bắt tội tôi chăng?
- Cha mẹ tôi sinh tôi ra, tuy có công sinh thành mà không dưỡng dục. Nhưng ơn nghĩa sinh thành vẫn hết sức thiêng liêng. Đạo làm con là phải
báo hiếu cho cha mẹ. Khi cha mẹ bị hàm oan thì phải minh oan; cha mẹ bị
sát hại thì phải trả thù. Nói một cách rõ ràng và minh bạch là tôi muốn lấy
mạng sống của ông để báo thù cho cha mẹ tôi.
- Như thế có nghĩa là quan tổng đốc phải giết tôi mới trả thù được cho cha mẹ
hay sao?
Trần Minh trả lời không do dự:
- Không còn cách lựa chọn nào khác ông ạ.
Phạm Xảo lắc đầu:
- Đáng tiếc!
- Ông sợ?
- Sợ gì?
- Sợ chết.
- Chết thì ai cũng sợ đã đành, nhưng chết một cách nông nổi và nhạt thếch thì lại
càng đáng sợ và đáng tiếc hơn.
Trần Minh cười nhạt, hỏi lại:
- Chết thế nào là chết “nông nổi và nhạt thếch” vậy ông?
Phạm Xảo trả lời với giọng đầy khinh bạc:
- Là nhắm mắt chết cho những ham muốn làm “kẻ” thánh tử đạo trung thành điên đảo. Quên chính mình để chết cho những ước mơ hoang tưởng. Hy sinh mình cho những
hận thù cố chấp si mê.
Trần Minh cười húc hắc khó nghe:
- Ông lấy tư cách gì để phê phán sự dấn thân hành động của người khác đã chứ?
- Tư cách của một người sắp bị chứng kiến hay sắp bị thiêu thân cho một loại chết
tương tự như thế.
- Vì nghĩ vậy nên ông đang tìm cách ngăn chận nó chăng?
- Không bao giờ!
- Vì sao?
- Vì một hành động dẫu là điên cuồng hay ngu ngốc mà chưa xảy ra, chưa ló mặt,
chưa gây tác hại thì chỉ mới ra ở dạng “chủng tử” hay nói cách khác thì chỉ mới
là cái nhân. Lấy gì để chứng minh và thuyết phục người khác đừng theo?
- Vậy là bất lực sao?
- Chưa hẳn là bất lực. Nếu đừng tạo duyên cho nhân mọc lên thành cây,
thành quả thì có thể cứu vãn được.
- Cha mẹ tôi đã chết rồi thì làm sao mà cứu vãn?
- Nếu ngài tổng đốc cho rằng chết là hết thì mọi việc làm của nhà quan hôm nay
như trả thù hay ban ân báo oán là để phục vụ cho ngài chứ chẳng dính dấp đến
cha mẹ ngài đã chết. Nếu ngài tin cha mẹ vẫn còn tiếp diễn dòng sống đâu
đây qua tiếng tăm, qua một phần tâm thức và thân xác của con cháu thì hãy ráng
bảo vệ và bồi đắp cho con cháu. Nuôi hận hay trả thù là tạo thêm nghiệp chướng
nặng nề cho con cháu về sau, ích gì đâu.
- Tôi không tin cả hai. Tôi chỉ cần làm việc phải làm như vay thì phải trả.
Thế thôi!
- Thế có khác gì con ngựa ăn lúa mạch của chủ thì phải kéo xe trả nợ đâu!
Trần Minh nghiến răng nhưng bỗng cảm thấy lạnh gáy vì cái nhìn đau đớn đầy
thương cảm của ông già đang ném cho mình. Ánh mắt không sợ hãi, không hận
thù, không trách móc mà xót xa như cha nhìn con lầm lỡ. Trần Minh lớn lên
với bà Vãi trong chùa. Minh học kinh sách với những nhà sư ẩn dật, học võ
nghệ với những viễn khách du hóa giang hồ, lớn lên thi đậu tiến sĩ văn, cử nhân
võ được bổ ra làm quan tổng đốc. Chưa bao giờ một lần trong đời, Trần
Minh bắt gặp một tia mắt nào lạ lùng như ẩn chứa cả một huyền sử không lời đến
thế. Nhưng Minh đã được tôi luyện trong một môi trường kiến thức và tài
năng vắng tiếng trái tim ru hời và tình cảm suối nguồn thổn thức của mẹ; không
có thứ tình núi Thái Sơn đầy uy vũ mà êm đềm huyền diệu của cha. Đứa trẻ
mồ côi chỉ có một con đường trước mặt: Ước mơ và chinh phục những ước mơ bằng
thành đạt. Đứa trẻ đó đã sớm thành quan tổng đốc. Nó cần san phẳng
những chướng ngại tình cảm tạm bợ và nhỏ bé trước mắt để cho cuộc đời đầy quyền
thế và tương lai đầy tươi sáng của nó tiến lên. Nó hất đầu gạt phăng nỗi
ám ảnh từ cái nhìn tha thiết của ông già đang hướng về nó, rồi cao giọng như ra
lệnh:
- Lão tướng à, tôi còn bận việc công, không có nhiều thì giờ để bàn chuyện nhân
luân, tri lý quanh co. Tôi muốn ông và tôi giải quyết món nợ truyền đời nầy
trong công bằng và danh dự càng nhanh càng tốt.
Đôi mắt ông lão càng đượm buồn sâu hút và nét nhìn càng nhức nhối hơn. Ông run run lên tiếng:
- Nghĩa là quan tổng đốc nhất định muốn tôi chết để đền mạng?
Trần Minh trả lời khô khan, dứt điểm:
- Không! Lấy mạng ông tôi chỉ cần một đường kiếm. Nhưng ông giết cha mẹ
tôi, đến lượt ông thế mạng để trả nợ sòng phẳng dưới bàn tay tôi thì vô hình
chung món nợ đời thế mạng lại chụp trên đầu tôi để biến tôi thay ông làm kẻ mắc
nợ. Tôi muốn ông và tôi có mạng sống đồng đều, chúng ta hãy sử dụng mạng
sống của chính mình để làm phương tiện hóa giải hận thù.
Phạm Xảo nhíu mày hỏi lại:
- Phải tiêu diệt mạng sống của nhau mới hóa giải được sao?
Trần Minh trả lời xác quyết:
- Mạng đổi mạng, ấy là lẽ công bằng xưa nay. Ông chỉ có một mạng và tôi
cũng thế. Không có sự trốn chạy hay lựa chọn nào khác hơn.
Lưng ông lão như còng xuống. Bản lĩnh con nhà tướng không cho ông lùi bước,
xuống giọng hay năn nỉ dẫu vì người khác; mà chỉ biết hy sinh cho người
khác. Ông lão giật mình vì sự thông minh và nhạy bén của Trần Minh đã đi
trước suy nghĩ của ông:
- Thưa lão tướng quân, cả hai chúng ta tuy khác thế hệ, nhưng đều ở hàng đệ nhất
võ quan của triều đình. Truyền thống con nhà tướng của chúng ta là thà chết
chứ không thà giữ mạng sống mà phải hạ thấp khí tiết của mình để được sống. Cái sống hèn mọn còn tệ hơn là cái chết đối với một vị tướng trung bình. Bởi vậy, trong cuộc thi triển mạng sống giữa tôi và tướng quân sắp đến, mọi sự
hy sinh hay nhân nhượng đều đồng nghĩa với sự nhục mạ và hủy diệt thanh danh của
nhau.
Lão tướng hỏi nhanh:
- Chúng ta sắp làm gì?
Chưa trả lời vội, Trần Minh mở cái bao vải dài để bên cạnh và rút ra một thanh
trường kiếm. Phạm Xảo ngẩn người khi nhận ra đó là thanh kiếm cũ đã theo
ông vào sanh ra tử trong bao nhiêu năm. Cũng chính thanh kiếm này Phạm Xảo
đã dùng để chém chết vợ chồng chủ quán năm xưa. Phạm Xảo đã quăng thanh
kiếm xuống dòng nước như môt sự đoạn tuyệt với quá khứ. Trần Minh dùng vạt
áo lau bụi làm lộ ra ánh sáng xanh ngời ánh thép của cây trường kiếm. Cầm
đốc kiếm quay một vòng, Trần Minh chậm rãi nói:
- Phải, đây là cây trường kiếm của tướng quân Phạm Xảo năm xưa. Thanh kiếm
nầy đã góp phần dựng nên nghiệp lớn cho đương triều; nhưng cũng chính thanh kiếm
nầy đã chém chết vợ chồng người chủ quán vô tội để lại đứa con thơ. Thằng
bé mồ côi cả cha lẫn mẹ đó bây giờ đang cầm lại thanh kiếm cũ và đứng trước mặt
người đã giết cha mẹ nó.
Ngoài khu vườn có cây kỳ Nam cổ mộc, Trần Minh đặt cây kiếm trên chiếc bàn đá
cách đều cả hai người đang ngồi đối diện nhau. Phạm Xảo nhìn đăm đăm cây
kiếm. Từng tiếng của Trần Minh rớt xuống đanh như chém đá:
- Trước mắt chúng ta là cây kiếm. Bắt đầu từ thời khắc nầy, tôi và ông ngồi
yên tại chỗ, không ai được nằm xuống hay nói chuyện. Không ăn, không uống
cho đến khi một trong hai người gục xuống. Người chưa gục phải lấy kiếm
chém đầu người gục trước. Sau đó, sẽ có người xách thủ cấp vừa bị chém về chỗ
lăng mộ của cha mẹ tôi để tế giải oan. Tôi đã dặn dò chuẩn bị mọi thứ và
cho bố trí người cẩn mật. Đây là hai bản giao ước giống nhau đã soạn sẵn. Nếu tướng quân đồng ý, cả hai chúng ta sẽ ký vào và mỗi người giữ một bản làm bằng
chứng. Kẻ chết được yên thân và người sống cũng không sợ bị ai bắt vạ.
Phạm Xảo biết là không thể nào lay chuyển được lòng dạ kiêu mạn và sắt đá của
con người trẻ tuổi này. Ông chỉ hỏi:
- Nếu cả hai người cùng gục một lần thì sao?
- Khi một người đã chết, người còn sống sẽ được cứu cho tĩnh lại. Mọi việc
lớn nhỏ đều đã có dự liệu trong bản giao ước này. Điều chắc chắn là sẽ
không có trường hợp cả hai người cùng sống hay cùng chết sau cuộc thi triển nầy.
Không buồn nhìn vào bản văn đã được soạn sẵn với mực xạ và dấu son đỏ
chót. Phạm Xảo trầm ngâm nhìn vào khoảng không. Trần Minh giục:
- Ông vẫn còn đắn đo vì nội dung của bản văn chưa được công bằng hợp lý hay
sao?
Phạm Xảo trầm giọng:
- Những bản văn loại nầy thì bản nào mà chẳng giống nhau. Tôi chỉ thất vọng
vì một nhân vật trẻ tuổi, anh tuấn như quan tổng đốc Trần Minh mà cũng chẳng
khá lên được chút nào.
Đỏ mặt vì bị xúc phạm, Trần Minh gằn giọng:
- “Không khá” có nghĩa là thế nào, thưa tướng quân?
Giọng kẻ cả và xa vắng, Phạm Xảo trả lời:
- Là mang nhân cách hèn mọn như phường quan chợ, quan đường, chuyên diễn trò
ném đá dấu tay.
Như bị ai đánh lén bất ngờ, Trần Minh đứng thót dậy, lớn tiếng hỏi:
- Xin lỗi ông, tuổi tác không phải là giấy phép để một người già có quyền nhục
mạ một người trẻ như ông đang xử sự với tôi.
Vẫn với giọng ôn tồn pha chút buồn bã, thất vọng, Phạm Xảo trả lời:
- Nói lên sự thật thường nghe không được bùi tai, nhưng đây mới đúng là sự kính
trọng thành thật. Có lẽ vì dành cho ông quá nhiều trọng nể tôi mới nói thẳng với
ông như vậy. Tôi tiếc cho ông vì ông hành xử chẳng có gì khá hơn là bọn hủ
quan sợ sử thần và miệng đời hơn sợ đao phủ. Ông muốn giết tôi để trả thù
cho cha mẹ ông nhưng không dám thẳng thắn hành động vì tôi là lão thần được triều
đình sắc phong và mọi người đều biết. Ông xem tuổi trẻ phương cường của
ông như một bảo đảm chắc chắn cho sự chiến thắng trên tuổi tác già nua của
tôi. Ông bày ra trò song đấu này vì tin chắc là ông sẽ thắng tôi, để tiêu
diệt tôi một cách đương nhiên trong công khai và danh dự. Trò chơi quý tộc
giết người tiểu xảo nầy có thể hợp với chức vụ của ông đang nắm giữ nhưng không
hợp với hoàn cảnh xuất thân và con người của ông đâu. Trước khi ký vào giấy,
tôi chỉ xin nhắn lại một điều: Ở đời, ta có thể thắng, có thể thua là
chuyện bình thường; nhưng đừng làm vẩn đục lương tri của mình bằng những trò
gian manh và hèn hạ.
Không để cho Trần Minh kịp trả lời, Phạm Xảo nâng ngay nghiên bút đã đặt sẵn
bên cạnh lên và ký tờ nầy đến tờ khác.
Trần Minh không còn đủ kiên nhẫn để nghe ông già nói gì thêm. Chỉ cần kéo
cho được ông lão vào sân quyết đấu là kể như đang làm chủ được chiến thắng sau
cùng. Để cho lưỡi gươm ân huệ và quan tài tranh luận với nhau trong bóng
tối, Trần Minh cùng ký vào bản giao ước.
Cuộc đối mặt trả thù có Thần Chết làm chứng bắt đầu… trong vắng
lặng.
Một ngày đã đi qua.
Hung thần đến trước là cơn khát. Cái khát không còn là
sự thèm nước bình thường mà nó trở thành rừng dao sắc nhọn chạy khắp châu thân. Mũi nhọn của cơn khát đâm vào từng lỗ chân lông và nghiến nát từng thớ da thịt. Hơi thở và mạch máu từng hồi nóng rần rật như đang sôi. Chiều về và đêm
xuống lạnh làm dịu lại cơn khát thì cái đói bắt đầu xuất hiện. Đói và
khát quyện vào nhau.
Ngày thứ hai.
Hai cao thủ vẫn ngồi lưng thẳng băng. Bốn mắt như kiếm
khí chiếu thẳng vào nhau. Hai dũng tướng đã xông pha trên chiến trường.
Bản lĩnh và khí phách của đôi bên không nhường một chỗ trống nào cho những kêu
đòi nhượng bộ của tình cảm yếu đuối.
Ngày thứ ba.
Mưa chiều xuống, sương đêm thấm lạnh và nắng lên. Mỗi
cơn gió thoảng qua đã mang theo mùi nực nội của người nầy hay người kia.
Ngày thứ tư, ngày thứ năm, thứ sáu…
Lưng cả đôi bên không còn thẳng. Đầu hơi cúi xuống. Hơi
thở như đã có mùi chết chóc vờn qua.
Đêm thứ bảy…
Thời gian chậm lại. Trời xuống thấp và đất đang run dưới
chân hai đấu thủ.
Trăng lên sau rừng lá. Ánh sáng là lửa, dầu là ánh
trăng xanh bạc màu sữa loãng. Phạm Xảo bắt đầu chú ý đến âm thanh hơi thở
khô khan của Trần Minh. Người trung niên đang độ phương cường ấy có đủ bản lĩnh
của dương tính động, đương đầu và xông pha. Lão già bên bờ sinh tử lại có
thừa sức trì của âm tính tĩnh, chịu đựng và nhẫn nhục. Tính động cần tiêu
dùng năng lượng trong khi tính tĩnh bảo tồn được năng lượng. Qua những tháng
ngày tĩnh toạ định tâm, Phạm Xảo biết rõ là trong cuộc thi triển này, Trần Minh
sẽ gục ngã trước rất nhanh. Phạm Xảo rợn người khi nghĩ đến giây phút
chính tay mình phải cầm lại thanh trường kiếm năm xưa để chém đầu Trần Minh
đúng theo quy ước trong bản giao kèo đã ký.
Đã quá nửa đêm, hơi thở của Trần Minh có vẻ dồn dập hơn. Trăng lặn dần,
có tiếng Trần Minh rên khe khẻ. Phạm Xảo vẫn đắm mình trong cơn định tâm
sâu lắng. Tiếng gà gáy sáng cuối Thái Ấp bắt đầu trỗi dậy. Tiếng gà
từng đêm nối đêm trong cơn trường mộng mấy mươi năm chưa dứt. Tiếng
chuông chùa Thiên Mụ giọt xuống. Mỗi tiếng chuông sau, tiếp nối tiếng
chuông trước đã lụi tàn, là sự biểu hiện toàn vẹn nhất của một chu kỳ dòng sống.
Tiếng chuông vỡ òa, chiếm hết không gian, rồi theo thời gian nhỏ dần, nhỏ dần,
nhỏ dần… rơi xuống và mất hút vào khoảng không. Không lớn không nhỏ. Không trên
không dưới. Không đến không đi. Cái không quá khứ hay vị lai mà bao
trùm tất cả và tan đi. Tan đi. Vắng lặng.
Sương đêm làm ẩm vai áo cả hai người. Hơi sương thấm vào từng lỗ chân
lông đang khô khốc giúp cho cơn khát dịu xuống. Mặt trời vừa lên sau tàng
cây. Ánh sáng không xua nổi bóng tối của một sự gục xuống đang ngấp nghé
đợi chờ từ bốn phía. Phạm Xảo cảm thấy tỉnh táo hơn bao giờ hết. Có
một dòng sông vỗ cánh vừa hiện ra trong tâm thức của ông. Dòng sông huyền
diệu quá, sương khói quá. Cái chết, cái sống nối đuôi nhau trôi về một
nơi xa lắc. Bờ bên nầy và bờ bên kia có khác gì đâu. Nén một hơi thở
đã thấy tay mình dài cả dặm. Với tay ra là quá dòng sông vắng lặng. Không níu kéo mà bờ bên kia đã nằm tan loãng dưới lòng bàn tay. Không còn
bên nầy, không còn bên kia níu kéo. Đã hết bờ. Ngồi bên nầy mà cũng
đã qua bên kia. Reo vui.
Xốc kiếm đứng lên như cơn gió mới, Phạm Xảo cầm chặt đốc kiếm trong tay. Có tiếng nói thều thào của Trần Minh:
- Khoan, khoan đã... Tôi, tôi… chưa, chưa ngã gục mà.
Mặc… không còn để ý, Phạm Xảo nhảy ba bước đến bức tường vôi trắng xóa. Loáng kiếm, hoa lên. Dòng máu đỏ tươi phọt ra từ ngón tay trỏ, ngón tay
quần thảo thành những nét đại tự lên tường vôi: “Yết đế, yết đế, ba la yết
đế…” Máu cạn. Loáng kiếm hoa lên. Dòng máu đỏ yếu dần từ ngón
tay giữa, nét chữ nhỏ dần, đứt quảng: “ba la tăng… yết… đế…”. Máu cạn.
Loáng kiếm hoa lên. Máu đỏ đã cạn, rỉ ra yếu dần và khô lại từ ngón tay
đeo nhẫn, nét chữ rời rạc như sương pha ráng đỏ. Nét chữ chỉ còn là chấm
móc mơ hồ: “bồ đề, tát… bà… ha”
Trên bệ đá giữa nền vôi trắng, mấy dòng chữ Hán mầu đỏ tím càng lúc càng hiện
rõ dần khi nắng lên cao. Đó là câu thần chú cao thâm nhất, uyên áo nhất,
vi diệu nhất mà không một câu thần chú nào khác có thể so sánh được trong kinh
điển Phật giáo. Nhưng đó cũng là câu thần chú đơn giản nhất, dễ hiểu nhất, bình
dân nhất trong kho tàng ngôn ngữ thần chú của lịch sử loài người. Nội
dung thần chú ấy chỉ là: Qua đi, qua đi, hãy qua bến bờ bên kia. Reo
vui. Pa-ra-mi-ta!… tiếng reo vui nguyên thủy của người Ấn Độ khi đã tới bến
bờ đẹp tươi. Bờ giác ngộ. Bờ Không.
Thân hình tầm thước, ngồi xếp bàn ngay ngắn như đang thiền định, lưng dựa vào bức
tường có câu chú Bát Nhã Ba La viết bằng tất cả dòng tinh lực, râu tóc bạc
như tơ… Phạm Xảo chỉ còn là cái xác.
Bằng những phản ứng yếu đuối, Trần Minh chỉ có thể ngồi nhìn Phạm Xảo chặt ngón
tay, rút hết máu trong mình để viết… Như sực nhớ điều gì, nguồn tinh lực đang ẩn
tàng từ vô thức bỗng cháy lên, Trần Minh cảm thấy như ai vừa vực mình sống lại. Minh chụp ngay nửa vuông vải gấm vàng để trong ngực áo đã cũ xưa ra nhìn. Cả bầu trời lồng lộng chỉ còn tụ lại thành một mảnh. Bài kinh Bát Nhã viết
bằng mực son trên mảnh gấm vàng bị xé mất phần cuối. Phần cuối đó là câu
kết của bài kinh Bát Nhã mà Phạm Xảo vừa viết trên bức tường vôi trắng. Nét đá,
nét mác cuồng thảo trên gấm vàng và tường vôi trắng gặp nhau. Đã ba mươi
năm Trần Minh đi tìm kẻ thù và người ân mà không gặp. Kẻ thù giết cha, giết
mẹ. Người ân dấu mặt giao đứa hài nhi cho bà Vải ở chùa và thường xuyên
lo lắng cuộc sống cơm áo, học hành của đứa bé cho đến khi khôn lớn thành tài ra
làm quan. Trước khi mất đi, bà Vải ở chùa đã trao cho Trần Minh kỷ vật
duy nhất mà bà có được về người ân, đó là vuông vải gấm vàng có bài kinh Bát
Nhã bị xé mất câu chú sau cùng.
Trần Minh nhớ lại ánh mắt đau đớn gần như van lơn của lão tướng Phạm Xảo khi ký
vào thỏa ước thi triển giữa hai bên.
Lần đầu tiên, quan tổng đốc trẻ tuổi thành công đầy kiêu hãnh ấy ôm mảnh gấm
vàng và khóc vùi dưới chân cái xác uy nghi như tượng thần của lão tướng.
Trần Minh nói đủ cho mình mà cả ba ngàn thế giới đều nghe: “Mẹ ơi! Cha ơi! Ân
nhân ơi! Ước chi con gần được những trái tim của Mẹ, của Cha, của Người Ân từ
ngày còn bé để con biết khóc như hôm nay trước khi con biết hận thù!”
CHƯƠNG HAI MƯƠI BẢY
Duyên Tu
Càng lớn tuổi, càng được nhiều tiếng tăm và danh vọng, con
người càng dễ làm quen nhưng khó làm bạn. Thời son trẻ, khi hai người làm
bạn, cả hai đều mở rộng hai tay, hai mắt và tấm lòng của mình để đến với bên
kia dễ dãi, vô tư, không tính toán. Nhưng càng về già, trong mỗi nụ cười
và trong từng cái bắt tay hình như có ẩn chứa vài mảnh hoài nghi và dăm ba câu
hỏi. Hoài nghi và câu hỏi làm cho tình người và tình thân đeo nhiều lăng
kính. Rồi từ đó, nhìn nhau qua những cặp kính màu nên càng khó trãi rộng
giao tình thân thương và chân thật để đón lấy nhau. Người ta tự quấn mình
trong nhiều lớp vỏ lẩn quẩn từ ta đến tôi, tới mình, sang tớ… rồi cảm thấy cô
đơn. Trí Hải nhận ra sự trống vắng khi Phạm Xảo không còn nữa. Phạm
Xảo là chiếc bóng của Trí Hải. Chiếc bóng là người bạn không nói nhưng
luôn luôn có mặt bên mình. Khi sống một mình không có chiếc bóng Phạm Xảo,
Trí Hải cảm thấy như nguồn sáng lơ lửng vẫn treo đâu đó nhưng không chiếu xuống
đời mình, nên bóng mình bỗng khuất.
Tình cảm nhớ thương là ý hướng đi tìm một sự thiết thân bị mất. Trí Hải
nhớ Phạm Xảo trong nỗi thèm muốn đi tìm một dáng xưa, một nguồn tình cảm quen
thuộc. Khi nhớ một người đã mất thường gặp nỗi hụt hẫng của kẻ đi tìm mà
chẳng biết tìm ai. Nỗi nhớ mịt mù, rồi bỏ cuộc, chẳng còn tha thiết đi
tìm để chỉ còn đối diện với trống vắng, hư không.
Tuổi trẻ lấy thương làm nhớ. Tuổi già lấy nhớ làm thương. Từ ngày Phạm Xảo
mất, đêm đêm, sau khi mọi người đi ngủ, Trí Hải vẫn còn thức một mình. Giữa
đêm khuya thanh vắng, mang chén cơm để dành trong bữa ăn chiều, đặt trên bệ đá
dựng ở bồn hoa trước sân, Trí Hải thắp một cây nhang và ngồi tưởng nhớ Phạm
Xảo. Ông ngồi nhìn đốm sáng cháy đỏ theo gió trên đầu cây nhang cho đến
khi nhang cháy hết.
Đêm rằm tháng Bảy, trăng sáng mênh mông. Trí Hải định
quay bước trở vào thì bỗng nghe tiếng chân rón rén của ai bước lào xào trên
lá. Ba Gấm. Tiếng nói rất nhẹ mà cũng làm chao đọng ánh trăng:
- Mới đó mà Phạm huynh đã ra đi vừa đúng 49 ngày.
Không quay lui, Trí Hải nhắc thêm:
- Và cũng vừa hết thân trung ấm.
Tiếng Ba Gấm ngập ngừng:
- Làm sao mà biết được hết hay còn, hở huynh?
Trí Hải hỏi Ba Gấm:
- Thế Ba Muội có bao giờ nghe ai nói về thân trung ấm là gì
không?
- Dạ có, huynh ạ. Hồi còn ở trong cung, muội có đọc một
số sách vở nhà Phật bàn về sự sống chết. Muội chỉ nhớ mang máng rằng, người
ta gọi “Thân trung ấm” là sự sống còn tồn tại và chuyển tiếp sau khi chết. Nhưng muội không ngờ mà cũng chẳng tin.
- Tin thì có mà không tin thì không có thôi.
- Muội nửa tin nửa ngờ là không biết có còn hay không một trạng
thái sống sau khi chết. Trong khi sách vở nói rằng, linh thức (linh hồn
và tâm thức) của con người còn kéo dài đời sống đến 49 ngày, rồi tùy theo nghiệp
lực mà đầu thai. Thời đó, mỗi khi bị sai vào dọn dẹp phòng trống của một
cung nữ già vừa mới chết, muội cứ mường tượng cái “thân trung ấm” là con ma mới
còn lẩn quẩn đâu đó chờ tái sinh mà sợ hết hồn. Ơ, mà tại sao lại 49 ngày
hở huynh?
Trí Hải giải thích một cách ngập ngừng:
- Vì chẳng phải là hành giả phát nguyện tu theo đạo Phật, nên
tôi chỉ có chút hiểu biết giới hạn qua sách vở về ý nghĩa của con số “linh
tính”. Số lớn nhất của dân Trung Hoa là số 9, trong khi đó số lớn nhất của
dân Ấn Độ là số 7. Theo quan niệm triết học Ấn Độ, số 7 là con số biểu
trưng cho sự hoàn hảo của vũ trụ. Nó được xác lập trên 7 nguyên lý tổng hợp của
thời gian 3 thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) và không gian 4 hướng (Đông,
Tây, Nam, Bắc). Theo tư tưởng kinh Hoa Nghiêm, toàn thể vũ trụ nhân sinh
từ vật nhỏ như vi trần đến vật to lớn như núi Tu Di, tất cả không ngoài con số
7. Phật cũng có 7 ngôi vị (thất Phật). Người tu theo Phật cũng có 7
hạng (thất chúng). Bởi vậy con số lớn nhất, tròn trịa nhất và gần gũi nhất
của truyền thống Ấn Độ là 7 lần của 7 tức là 49. Muội đọc sách Phật mà có
nhớ hình ảnh thái tử Tất Đạt Đa sinh ra bước 7 bước, mỗi bước nở một hoa
sen. Hoàng hậu Ma Gia sinh thái tử Tất Đạt Đa được 7 ngày thì mất. Hành giả Tất Đạt Đa nhập định 49 ngày dưới cội Bồ Đề hốt nhiên đại ngộ thành Phật
và thuyết pháp trong 49 năm không? Có chăng con số 49 này cũng có gốc rễ từ số
7?
- Ô, phải rồi đó huynh ạ. Muội được đọc một ít sách cổ
của Phật giáo Ấn Độ và cứ bị con số 7 ám ảnh hoài trong trí. Tại sao lại là 7 mà
không 6 hay 8? Rồi phải chăng 12 nhân duyên khi sinh sôi nẩy nở tối đa đến
7 lần, nhân lên 7 lần 12 sẽ đạt tới mức 84 là cao nhất. Và 84 thiên biến
vạn hóa thành ra 84 nghìn hoàn cảnh và mỗi cảnh đều có một cách riêng, nên có đến
8 vạn 4 nghìn pháp môn để tùy cảnh và tùy duyên mà đối trị.
Trăng khuya càng sáng vằng vặc. Lại có tiếng chân ai bước
tới. Một người vừa đến, nổi lên tràng cười thoải mái. Thì ra, tiếng thầy
Tiều:
- Đúng hôm nay là thất tuần của tướng quân Phạm Xảo.
Vớ được thầy Tiều, Ba Gấm reo lên:
- Thật là buồn ngủ mà gặp chiếu manh! Thầy ơi, xin Thầy
giải thích cho ra con số 49 đầy ám ảnh nầy.
Thầy Tiều đằng hắng giọng như để cân nhắc về một con số chính
xác nào đó rồi lên tiếng:
- Với nhà Phật, tất cả những con số chỉ có ý nghĩa tượng trưng. Vì con số tròn đầy nhất của đạo Phật mà quý hữu thường nghe là “vô lượng vô
biên”, “hằng hà sa số” không có giới hạn. Rồi những dòng số vô tận đó
cũng chỉ là không.
Ba Gấm lại thắc mắc:
- Không có số đếm thì làm sao để tính toán, thưa thầy? Vẫn
còn số đếm tam quy, ngũ giới, tứ diệu đế, bát chánh đạo, mười hai nhân duyên
kia mà.
- Tất cả chỉ là phương tiện tạm thời. Con thuyền cũng phải có
ván đóng kín ba mặt trong một giới hạn nào đó mới nổi được trên mặt nước
để chèo qua sông chứ.
- Vậy thì thưa thầy, thời gian 49 ngày có phải là phương tiện
cần thiết để cho một linh hồn mới lìa khỏi xác chuẩn bị đầu thai không?
- Quý hữu đã biết là thân trung ấm hay còn gọi là thân trung
hữu. Trong tín lý nhà Phật, thời gian tồn tại của thân trung ấm cũng có nhiều
lý thuyết khác nhau. Có bốn nhà luận sư được nhắc đến nhiều nhất là: Luận
sư Tỳ Bà Sư cho rằng nó chỉ có trong khoảnh khắc sau khi chết, liền sau đó đầu
thai. Luận sư Thế Hữu cho rằng nó tồn tại lâu nhất được bảy ngày. Luận sư Thiết
Mặc Đạt Đa cho rằng nó có thể tồn tại trong bảy lần bảy là bốn mươi chín ngày.
Riêng luận sư Pháp Cứu thì cho rằng thời gian tồn tại của thân trung ấm sau khi
chết không nhất định. Tùy theo nhân duyên mà thọ sanh. Do nghiệp lực rất
mạnh thúc đẩy, nếu trung ấm đáng thọ sanh vào loài người thì khi hội đủ duyên
liền sanh vào loài người; trung ấm đáng thọ sanh vào loài súc vật thì khi hội đủ
duyên, liền sanh vào loài súc vật. Như Hoàng thân quý hữu vừa nhắc lại
đó, “Linh tại ngã, bất linh tại ngã”, có hay không là do mình tin hay không mà
thôi.
Ba Gấm hỏi một cách hồn nhiên:
- Thế Phạm huynh bây giờ ở đâu? Chết là hết hay còn?
Thầy Tiều với giọng bông đùa:
- Biết làm gì cho vội. Cứ chờ cho đến khi chết hẵng hay
tín hữu à.
Nương theo lối nói đầy hài tính của thầy Tiều, Ba Gấm hỏi tiếp:
- Đúng quá! Nếu thế thì thầy cũng phải chờ cho đến khi
biết đích xác “hương linh” có hay không mới đọc kinh cầu nguyện vãng sanh nước
Cực lạc chứ.
Thầy Tiều hỏi lại Ba Gấm:
- Thí chủ Ba Gấm khuyên thật chí lý về cái còn và hết. Thí chủ nổi tiếng là người giàu có trong thiên hạ. Vậy gia sản của thí chủ
bây giờ ở đâu hết?
Bị hỏi một cách đột ngột Ba Gấm lúng túng:
- À, dạ. Ở khắp nơi thầy ạ.
- Nếu ngay bây giờ không may Ba Gấm lăn đùng ra chết thì tiền
của đó có còn không?
- Dạ vẫn còn chứ.
- Còn ở đâu?
- Đâu đó giữa cuộc đời nầy.
- Không, tôi muốn nói tiền của mà Ba Gấm mang theo kìa.
- Chẳng còn gì cả ngoài hai bàn tay trắng thầy ơi.
- Không đúng, còn! Xưa nay sách vở đời thường dạy sai cả
khi cứ đua nhau “dọa” rằng, chết là hết, là chỉ còn hai bàn tay trắng, chẳng
mang theo được gì. Cái gì của riêng mình đều được mang theo hay phải mang
theo.
Ba Gấm reo lên thú vị:
- Thiện tai! Thiện tai! Chết rồi mà vẫn còn mang sự giàu sang
theo được. Nào, thầy phát tâm từ bi dạy cho con cách mang tiền của theo
khi đã hết thở rồi đi. Thích quá thầy hỷ.
Thầy Tiều cười hỉ hả theo sự kích động trẻ thơ của Ba Gấm. Thầy
nói:
- Người ta có thể giúp đỡ hay chỉ dạy cách làm ăn cho kẻ có
chí, có tài trở nên giàu có khi còn sống. Nhưng không ai dạy được cách
mang theo tài sản sau khi chết được cả.
- Coi kìa! Thầy vừa nói “còn” tài sản mang theo được sau khi
chết mà.
- Phải, phải. Cái nghiệp trong tâm, trong trí, trong đời
đã tạo ra khi còn sống đều phải mang theo sau khi chết. Nghiệp lành như
trí tuệ, tình thương được bồi dưỡng hay nghiệp dữ như hận thù, ngu dốt của mình
trong lúc còn sống, khi chết phải mang theo. Không ai có quyền hưởng phước
lành hay chia nghiệp dữ của người khác sau khi người đó qua đời. Như tướng quân
Phạm Xảo không còn nữa, nhưng những tài sản mà Phạm hữu giúp nuôi Trần Minh nên
người vẫn còn mãi mãi trong dòng sống của Trần Minh hiện tại hay những Trần
Minh nầy, Trần Minh nọ, Trần Minh kia… trong dòng sinh diệt và biến tướng không
ngưng nghỉ về sau nầy. Cũng vậy, tài sản mà thí chủ Ba Gấm tiêu dùng vào
việc đúng hay việc sai vẫn còn mãi trong dòng sống của những người tiếp nhận nó
bằng lúc nầy hay lúc khác; cách nầy hay cách nọ. Tất cả sự sống quá khứ,
hiện tại, vị lai là một vũ trụ nhỏ, tạm tách ra, rồi lại trở về vũ trụ Đại Nguồn
hay Suối Nguồn Vũ Trụ, nên gia tài của mỗi chúng ta chẳng bao giờ mất đi một mảy.
- Suối Nguồn Vũ Trụ là gì mà Hoàng thân đại huynh, cũng như
Thầy thường nhắc đến vậy? Trong kinh sách nhà Phật, có chỗ nào nói đến
cái “suối nguồn” đó không Thầy?
- Có chứ. Nhưng lại được gọi dưới một tên khác.
- Tên gì vậy, thưa Thầy?
- A Lại Dạ Thức.
- Tên nghe là lạ như chữ Phạn phải không Thầy?
- Đúng. A-lại-da thức trong Duy Thức Tông của
Phật giáo Đại thừa chính là Suối Nguồn Vũ Trụ. A lại da, tiếng Phạn là Alaya,
có nghĩa là “tàng”, tức là chứa. Nên còn gọi là Tạng thức hay
Tàng thức. A-lại-da thức được xem là thức căn bản của mọi hiện tượng.
Thức này chứa đựng mọi sự tích lũy kinh nghiệm đời sống của mỗi
con người và nguồn gốc tất cả các hiện tượng tinh thần. Mọi khả năng, mầm
mống, bản chất, thật tính của đời sống tâm linh trở về và xuất phát từ cái kho
chứa năng lượng vô tận nầy. Nó là dòng suối sau cùng chứa đựng các hạt mầm
của tâm thức. Những hạt mầm này, theo sách vở nhà Phật, thì gọi là chủng tử, tức
là hạt mầm của Nghiệp. Khi nhân duyên đầy đủ sẽ hiện thành tư tưởng.
A lại da thức trong duy thức học Phật giáo xem như là "sự thật cuối
cùng", nên có khi được gọi là Chân
như.
- Thầy ơi! Thầy nói nghe thì hay nhưng mơ hồ quá. Làm
sao ta biết được mình đã tạo phước; mình mắc nợ hay ban ơn cho ai đó trong chuỗi
dài sinh diệt hở Thầy?
Vẫn với dáng điệu vui vui mà đầy suy tưởng, thầy Tiều cười cười
giải thích:
- Mới gặp một người ta thích ngay hay ghét ngay. Có khi
gặp một người từ đâu tận chân trời góc biển lù lù hiện đến rồi kết tình, kết
nghĩa sống gần gũi và san sẻ một đời. Có những sự giúp đỡ bất ngờ mà ta gọi
là “may”; hay sự phá phách làm hại mà ta gọi là “rủi”… Tất cả những sự tác động
qua lại đó, thường ngỡ như xa xôi và cách trở, nhưng chỉ là chuyện “trong nhà”,
là sự tương tác trong một dòng chung của Suối Nguồn Vũ Trụ. Cảm giác ta
thương ghét khi gặp một người chỉ là tác động đến sau, là kết quả của “gia tài”
đã ban phát hay lấy đi; cho hay mắc nợ giữa ta và người đó.
- Như vậy thì con thấy mình còn quá nghèo Thầy ạ.
- Sự giàu nghèo tự chúng nó tính toán với nhau, tự nhiên và
công bằng như nước chảy về chỗ thấp; như nồng độ mặn nhạt, nóng lạnh phải hòa
nhau. Cái “thấy” của thí chủ Ba Gấm là một ấn tượng chủ quan. Như kẻ
nghèo thì sung sướng với cảm giác giàu có khi kiếm được dăm ba đồng. Nhưng người giàu thì thất vọng với cảm giác nghèo nàn khi có được bạc vạn mà
không lên tới bạc triệu.
- Nếu đã có một sự tự điều hòa và san sẻ công bằng như thế
thì cần làm việc tốt là đủ, cần gì phải đi tu nữa, phải không Thầy.
- Đi tu là phương tiện. Chiếc thuyền chưa phải là sự đảm bảo
cho việc qua sông, qua biển mà cần phải có phương hướng đúng, tay chèo hay.
- Một người đi tu so với một người thường sống giữa thế gian,
thì ai hơn ai kém nhau về mặt nào, thưa Thầy?
- Mặt nào là mặt nào?
Ba Gấm xác định:
- Như về mặt đạo cao đức trọng; mặt tiếp xúc với đời sống tâm
linh; mặt giá trị làm người; mặt tu hành đắc đạo…, chẳng hạn, thì ai hơn ai
kém?
- Không ai hơn mà cũng chẳng ai kém.
- Lạ quá. Sao lại như thế được?
- Vì khi đánh giá hơn và kém là phải dựa vào một tiêu chuẩn
hay thước đo nào đó có giá trị đúng tuyệt đối. Nhưng chẳng có một giá trị nào
tuyệt đối cả. Người đi tu và kẻ ở đời thường chỉ khác nhau về nề nếp sinh
hoạt, nghĩa là khác nhau về phương tiện, hình tướng. Dùng phương tiện,
hình tướng để gột rửa vô minh, đi tìm ánh sáng. Tu là sửa đổi, là chuyển
hóa từ thấp đến cao, từ xấu sang tốt, từ tối tăm sang sáng suốt. Bất luận
người xuất gia hay kẻ tại gia hễ một khắc dừng lại và thỏa mãn với cái mình
đang có là đang chìm đắm; ngược lại khi chuyển mình cải hóa là tu.
- Như thế thì với thiện tâm cầu đạo, xuất gia đi tu chẳng có
lợi gì hơn là ở nhà sống cuộc đời thường để tự mình tu sao Thầy?
- Người đi tu có giới luật và hình tướng thường xuyên nhắc nhở
nên biết mình đang tu và phải tu. Còn người đời thường hoàn toàn tự do
nên thường quên là mình cần phải chiến đấu với lòng ham muốn của mình từng khắc
một để vươn lên; lại có khi hẹn rày, hẹn mai “sẽ tu” và thường hóa ra quá muộn. Giữa cõi vô thường nầy, ai biết được đôi khi chỉ trong một nhấp nháy mở mắt ra
là còn sống mà nhắm mắt lại là đã chết.
- Ngoài hình tướng và phương tiện hành trì, tu sĩ và phàm
nhân không có gì khác nhau về sự thánh thiện trong nếp sống thể chất và tinh thần
hay sao?
- Nói về sự thánh thiện là nói về chân tánh. Đạo Phật
xác nhận chân tánh sẵn có trong mỗi chúng sanh. Chân tánh của mọi loài
chúng sanh đều bình đẳng. Chân tánh bị che lấp bởi ngũ trược là 5 lớp màn
đen tối vấy lên làm dơ bẩn cặn đục kiếp sống. Đó là, kiếp trược (khổ
nạn), kiến trược (nhìn sai), phiền não trược (tâm trí bị phiền loạn vây bọc),
chúng sanh trược (sự trái đạo bất chấp của chúng sanh), mệnh trược (tuổi thọ bị
rút ngắn dần). Trên nguyên tắc, người xuất gia là kẻ đã dứt khoát bỏ lại
đằng sau cuộc đời phàm nhân đầy phiền não để đi vào con đường của thánh nhân,
nên sự thánh thiện tăng dần, cho đến khi thành bậc chí thánh; nghĩa là giác ngộ. Thế nhưng giữa thực tế, vẫn có rất nhiều kẻ xuất gia không đi vào con đường
thánh nhân thênh thang mây trắng mà bước lùi vào con đường tục lụy, phiền
não. Do vậy mà “chất thánh” đáng lẽ cần phải có cho đời tu hành lại trở
nên ngày càng thêm phôi pha. Hào quang thánh thiện mờ dần cho đến khi tàn
lụi.
Ba Gấm mở to đôi mắt như dò hỏi sâu hơn:
- Thưa thầy, thầy đang nói đến một tình huống quá tổng quát
nên chưa được rõ nét. Đã quyết chí xuất gia tu hành thì chỉ có một con đường
đi tới chứ làm sao mà có trường hợp bước lùi được?
Thầy Tiều lắc đầu:
- Bước tiến dễ thấy nhưng bước lùi khó thấy lắm. Tham,
sân, si nói thì dễ; hầu như ai nói cũng được nhưng tìm cho ra khuôn mặt thật của
nó thật không dễ dàng. Nó ẩn tàng và biến tướng dưới muôn nghìn hình
thái. Đạo Phật xưa nay, bên cạnh những danh tăng và cao tăng đạo cao đức
trọng, thì cũng đã có biết bao nhiêu kẻ xuất gia phải đứng lại hay bước lùi vì
bị dính chặt vào một vị thầy tổ quá chấp chặt vào nếp cũ. Có người học đạo
mà không tu đạo nên suốt đời nói đạo chứ không hành đạo. Có vị “tu chùa”
vì để hềt tâm lực và thời gian vào việc vận động cho có tiền để dựng chùa to tượng
lớn, thật hoành tráng bên ngoài mà quên đi sự khổ luyện cho lý tưởng tu chứng của
chính bản thân mình. Tu là một hành trình khổ hạnh. Dễ dãi là bước
lùi. Có bao nhiêu hiện tượng bước lùi làm sao kể hết…
- Như thế, có phải chăng thầy không khuyến khích việc đi chùa
để tu học?
- Trái lại mới đúng.
- Nếu vậy, có phải việc đi chùa, cầu nguyện để cầu xin giải
thoát là cách tu tốt nhất không?
- Cầu xin ai? Muốn khấm khá thì phải siêng năng làm
ăn. Mình mắc nợ thì mình phải trả. Chỉ biết nhắm mắt trông cậy vào
người thương hại và tìm người tốt bụng đứng ra để rước nợ cho mình tha hồ tiêu
xài thỏa thích là mơ mộng viễn vông. Đi chùa, cầu nguyện là phương tiện
thấy và nghe. Đọc kinh để thấm hiểu lời nhắc nhở của các bậc hiền thánh
cho mình chứ thật ra chẳng có ai đang đợi mình ở tượng, ở đài, ở chùa, ở tháp, ở
tận đâu đâu chờ khi mình gọi, mình kêu để đến dắt mình đi về cõi hạnh phúc, giải
thoát cả.
- Thế thì tại sao muốn cho thân tâm an lạc lại phải đi chùa
Thầy nhỉ?
- Đôi mắt nhìn, cảm giác riêng và tác động của âm thanh,
hương vị là cửa ngõ đi vào tâm. Đặt chợ trước cửa ngõ thì tâm dao động ồn
ào, náo nhiệt. Đặt vầng trăng thanh trước ngõ thì tâm vắng lặng, thảnh
thơi. Đặt cảnh chùa, mùi trầm hương và tiếng kinh như lời thơ trước ngõ
thì tâm an lạc.
- Chỉ vì người đó thân thì ở chùa mà tâm thì ở chợ. Chân bước vào chùa mà tâm hướng thiện không mang theo thì dẫu có ở cả đời trong
chùa tâm vẫn là tâm loạn.
Ba Gấm lặng lẽ nhìn thầy Tiều. Vị tu sĩ nầy thật kỳ lạ. Ông nói
chuyện đạo mà chẳng bao giờ thuyết phục người nghe đi vào thế giới thần bí hay
mầu nhiệm của tôn giáo. Ông nói chuyện đi tu cũng thản nhiên và rạch ròi
như chuyện đốn củi, làm ăn. Chính vì đã được đọc quá nhiều sách vở tôn
giáo, nên Ba Gấm có cảm tưởng như thầy Tiều vừa là một tu sĩ đơn giản chẳng có
gì đáng học hỏi; vừa là một ngọn núi Linh Sơn, có một suối nguồn tâm linh phong
phú, ẩn dấu phía bên kia sườn núi mà ánh nắng mặt trời không bao giờ chiếu tới.
Ba Gấm càng hỏi tới:
- Thưa thầy, nếu tự mình tìm đường giải thoát cho mình thì những người theo đạo
Phật niệm danh hiệu Phật, cầu xin chư bồ tát và long thần hộ pháp cứu khổ, cứu
nạn thì có ích gì đâu?
- Kêu cứu để được vớt lên khi sắp bị chết đuối, chứ không phải kêu cứu để nhờ
người tập bơi. Muốn biết bơi cho khỏi bị chết đuối thì tự mình phải tập
bơi trước đã. Tôn Ngộ Không theo phò Tam Tạng để cứu nguy chứ không phải
để thỉnh kinh thay cho vị Đường Tăng đó.
- Nói vậy thì Thầy có tin hay không tin lời cầu nguyện?
Không do dự, thầy Tiều đáp ngay:
- Tin lắm chứ.
- Như vậy là Thầy cũng phải dựa vào một nhân vật khác rồi.
- Nói đúng hơn là dựa vào sức mạnh chứ không dựa vào nhân vật.
- Đức Quán Thế Âm là một nhân vật hay một sức mạnh?
- Cả hai, thí chủ Ba Gấm ạ.
- Thầy trả lời khó hiểu quá, thưa Thầy.
- Có một sức mạnh vô hình của trời đất, vũ trụ. Ta có thể gọi đó là “Năng Lực
Vũ Trụ” hay gọi gì tùy thích. Năng lực đó ẩn chứa trong Suối Nguồn Vũ Trụ. Con người sinh ra là đã có khuynh hướng nối kết với Suối Nguồn Vũ Trụ đó rồi. Cầu nguyện là gởi năng lực nhỏ bé và yếu ớt của cá nhân mình vào năng lực suối
nguồn vũ trụ to lớn vô biên đó. Khi nguy biến, dốc tâm nguyện cầu là mở rộng
cửa để lấy lại năng lực đó. Sự thành tâm cầu nguyện cũng ví như hình thức
“giải mã” để năng lực vũ trụ bắt gặp cửa ngõ của cá nhân mà hút vào và biến tướng
dưới vô số hình thức. Quán Thế Âm là Nghe Tiếng Trần Gian. Đó là trạm
chuyển tiếp năng lực vũ trụ vào nhu cầu của hoàn cảnh con người trần gian một
cách kịp thời và chính xác nhất. Đức Quán Thế Âm là một vị đại Bồ Tát,
nhưng đồng thời cũng là một Năng Lực Siêu Nhiên Tuyệt Đối nên không bao giờ suy
suyển, vắng mặt hay thiếu hụt bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu có nhu cầu trong
vũ trụ, càn khôn này. Có thể cùng lúc biến thành vô số nhân vật khác nhau
tùy theo nhu cầu của hoàn cảnh: Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi. Đạo Phật
có đức Quán Thế Âm. Đạo Chúa có đức Mẹ. Dân gian Việt Nam có ông Trời,
ông Bụt và mọi dân tộc, mọi tôn giáo xưa nay và bất cứ nơi đâu, đều có một đấng
cứu khổ tương tự như ngài Quán Thế Âm. Người tiến hóa có một hình ảnh thánh
linh để cầu. Người cổ sơ cầu đá, cầu cây, cầu mưa, cầu gió… đều là một hình thức
giống nhau để tiếp cận với năng lực thường hằng trong Suối Nguồn Vũ Trụ đó.
- Thật là thú vị khi nghe Thầy giải thích một hình thức tâm linh, tôn giáo bằng
lời lẽ “như thật” mà chỉ có những đầu óc quen lối lý luận Tây dương mới thường
nói đến. Nếu vậy, thì điều Thầy nghĩ có trái với nội dung kinh sách của
nhà Phật mà Thầy đang theo không ạ?
- Nếu ai cho trái thì đó là vì họ nghĩ trái. Đức Phật đã nói rằng vạn
pháp đều là Phật Pháp. Cách suy nghĩ dẫu có trái với kinh điển cũng là Phật
Pháp nhìn theo một lăng kính khác. Cái đúng chẳng qua là một cách nhìn
khác của cái sai mà thôi.
Ba Gấm vừa cười vui, vừa ôm đầu nói lớn:
- Ôi! Thầy ơi. Nếu lỡ con vào chùa mà nhìn sai tượng Phật với một vị hộ
pháp thần thông nào đó thì chắc là sẽ bị các thầy trụ trì cho ăn đòn liền…
Khoác tay như để trấn an Ba Gấm, thầy Tiều nói bằng giọng phóng khoáng, thân mật:
- Thí chủ Ba Gấm chớ lo. Chính đức Phật đã liệu trước điều này nên ngài dặn
dò:
"Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã. Thị nhân
hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai".
Ba Gấm vui theo niềm vui của cả nhóm và dịch ngay ra bằng thơ:
- Ai đem sắc tuớng nhìn ta,
Lấy âm thanh bảo Phật Đà là đây.
Theo tà đạo chính người nầy,
Làm sao thấy được bóng thầy Như Lai.
Có tiếng cười vui tán thưởng và tiếng vỗ tay bôm bốp. Dưới ánh trăng
khuya vằng vặc, cả nhóm Vườn Thuốc ngồi quanh thầy Tiều và Trí Hải, theo dõi
câu chuyện giữa thầy Tiều và Ba Gấm trong im lặng. Cùng trong nỗi nhớ Phạm
Xảo, những người cùng nhóm Trí Hải có tấm lòng với đời, với đạo, với bạn, với
mình còn bắt gặp niềm vui chung về một lối suy nghĩ không rời nếp cũ xa xưa;
nhưng cũng đầy suy tư và khai phá vào những chân trời sáng tạo riêng mình.
Thiện Giả xích gần lại thầy Tiều, lên tiếng:
- Thưa Thầy, có phải vì không xem trọng việc xuất gia tu hành, trì trai, giữ giới
nên mới có hiện tượng “đồ tể quăng dao thành Phật” không ạ?
Thầy Tiều không trả lời mà hỏi lại Thiện Giả:
- Quý hữu có tin như vậy không?
- Dạ không, tin làm sao được mà tin. Thành Phật là một đại sự, đâu có dễ
dàng như thế được.
- Sao là dễ, sao là khó?
- Đức Phật Thích Ca đã tu vô lượng kiếp mới đạt được kiếp sau cùng làm thân
thái tử. Sau đó xuất gia, đại ngộ thành Phật.
- Thì người đồ tể kia cũng đã tu vô lượng kiếp và kiếp sau cùng phải qua nghiệp
đồ tể. Thái tử Tất Đạt Đa là thái tử đông cung bỏ ngôi đi tu và đi đến
giác ngộ thành Phật; người đồ tể quăng dao để tu theo cách của mình và cũng
giác ngộ thành Phật thì có gì khác nhau đâu. Làm vua hay làm đồ tể cũng
chỉ là cái nghiệp nhân sinh mà thôi. Bỏ ngôi hay bỏ dao đồ tể để giải
nghiệp và hành đạo, tuy hình thức khác nhau nhưng ý hướng thâm sâu cũng chỉ là
một.
Thiện Giả nhìn Ba Gấm mỉm cười, nói giễu:
- Tỷ tỷ Ba Gấm với tóc mây, má hồng, xiêm áo đẹp đẽ thế kia mà cũng có thể là
đang tu sao?
Thầy Tiều nghiêm nét mặt, gật đầu:
- Bất kỳ ai đang làm việc tốt là đang tu.
Trăng sáng mênh mông. Trong xóm đêm lại nổi lên tiếng mõ cầm canh đổi
phiên. Nhóm vườn thuốc vẫn chưa ai muốn chia tay về ngủ. Thiện Giả
nói với thầy Tiều:
- Đã qua ngày thứ 49, Phạm huynh hết làm thân “trung ấm”
quanh quẩn với chúng ta rồi. Phạm huynh vừa bước vào một kiếp khác. Thưa
thầy, với cuộc đời của tướng quân Phạm Xảo, kẻ thường làm việc tốt cho đời như
thế, thì sẽ được về đâu trong 6 nẽo luân hồi?
Thầy Tiều lắc đầu, trả lời:
- Nghiệp lực đưa Phạm hương linh về đâu thì về đó, làm sao biết
được.
- Nghiệp lực là gì?
- Là tổng kết mọi việc làm của một người từ vô số kiếp. Gồm cả việc thiện, việc ác, tốt, xấu, hay, dở, sáng, tối, cao, thấp,
công, tư… không một mảy may khuất lấp. Tất cả mọi việc làm lớn nhỏ, tự
chúng tác động qua lại chi li và chính xác như phép tính toán cộng, trừ, nhân,
chia để đưa ra kết quả sau cùng không sai một ly, không đi một mảy. Đạo
Phật gọi đó là nghiệp lực, đạo Chúa xem đó là sự phán xét cuối cùng của Thượng
Đế và dân gian cho đó là lưới Trời, không ai thoát khỏi.
- Như thế thì con người cũng chỉ là một tên nô lệ buông tay,
bất lực để cho nghiệp dẫn đi đâu thì đi hay sao, thưa Thầy?
- Nghiệp do mình tạo chứ có ai khiêng nghiệp đến để trên vai
mình bắt gánh đâu.
- Nếu thế thì con người có thể chuyển nghiệp được hay không?
- Nghiệp do thân, miệng, ý phát sinh ra. Muốn chuyển
nghiệp thì phải biết làm chủ hành động, lời nói và ý nghĩ.
- Bằng cách nào vậy, thưa Thầy?
- Hành động lương thiện và ngay thẳng; nói lời chân
thành và nhân ái; nghĩ điều chính đáng và hướng thượng ấy là đang tự mình
giải nghiệp, chuyển nghiệp ác sang nghiệp lành.
- Cuộc chuyển nghiệp đó bao giờ mới xong?
- Không bao giờ ngừng nghỉ. Cứ tiếp tục duyên nghiệp
trùng trùng cho đến khi dứt nghiệp.
- Làm sao dứt nghiệp?
- Đừng tạo nghiệp.
- Nhưng sống là tạo nghiệp mà.
- Cũng có nhiều lối sống. Sống buông thả cho lòng ham
muốn làm chủ thì nghiệp chướng chồng chất. Sống đời trong sạch trong
chánh niệm thì nghiệp chướng sẽ lui dần. Sống trong giác ngộ thì nghiệp
chướng sẽ được dứt sạch.
- Vậy, sống đời tu hành như Thầy thì nghiệp có còn tạo ra cho
Thầy nữa không?
Ngửa cả hai bàn tay với nụ cười mở rộng, thầy Tiều hỏi lại
như nói đùa:
- Này Thiện Giả, quý hữu có thấy tôi làm đúng như lớp áo cà
sa tôi đang mặc, suy nghĩ trơn tru như chiếc đầu tròn và nói năng thích hợp như
kẻ tu hành không?
Tỏ vẻ tán đồng, thầy Tiều trả lời:
- Nếu như thế thì nghiệp chướng trên tôi đang nhẹ dần.
- Và khi nào thì hết nghiệp?
- Làm sao tôi biết được những nghiệp chướng do chính mình gây
ra trong bao nhiêu đời kiếp trước.
- Thì tu hành là hết nghiệp. Khi chết sẽ lên ngay chốn
Niết Bàn.
- Không đơn giản thế đâu quý hữu ơi! Như ngài Mục Kiền
Liên là đại đệ tử của đức Phật có thần thông bậc nhất, thế mà vẫn bị bọn cướp
hung hãn tầm thường đâm chém giết chết.
Thiện Giả kêu lên:
- Ôi! Đau quá! Tại sao lại có thể như thế được? Tu hành một đời đạo cao, đức trọng thế kia mà vẫn bị đọa sao thầy?
- Nói “bị đọa” cũng đúng mà không đúng. Ngài Mục Kiền
Liên phải trả cho cái nghiệp báo vì sợ vợ mà bỏ đói cha mẹ giữa rừng sâu từ
trong một kiếp trước xa xưa.
- Nhưng ngài là bậc tu hành đắc đạo lại không chuyển nghiệp hết
sao?
- Không mà có; có mà không. Nghiệp là món nợ chung
thân, không thừa trừ ai cả. Tu hành nghiêm cẩn hay sống đời đức hạnh có
thể giải hết nghiệp trong đời nầy. Nhưng có những nghiệp quá nặng còn đeo
đẳng chưa dứt sạch thì người mang nghiệp phải trả cho hết sạch, ít nhất cũng trả
lần cuối trước khi hoàn toàn đoạn nghiệp.
Thiện Giả thắc mắc:
- Thế sao ngài Mục Kiền Liên trong chuyện kể nhà Phật có thể
nhìn thấy được hóa thân bà mẹ độc ác của mình đang ở địa ngục A Tỳ sau khi bà ấy
chết mà lại không thấy được lũ cướp vây quanh?
- Đứng ở đỉnh núi cao thì nhìn thấy hết cảnh đồng bằng phía
dưới nên cũng thấy được căn nhà riêng nhỏ bé của mình đang ở đâu. Chúng
ta không biết, không thấy Phạm huynh ở đâu vì chỉ có đôi mắt trần. Muốn
thấy thiên thâu phải có huệ nhãn. Huệ nhãn là con mắt thật, mắt trần của
tuệ giác. Khi bị ác nghiệp bao vây thì tầm nhìn cũng bị bao vây bởi mây mờ
của cảnh trần khi tạo nghiệp. Sự bao vây của nghiệp báo có khi thoáng qua
rồi đoạn diệt như trường hợp ngài Mục Kiền Liên; có khi kéo dài một đời như kẻ
mù lòa, câm điếc từ khi lọt lòng mẹ; có khi kéo dài đời đời kiếp kiếp như hàng
ngạ quỷ súc sanh… cho đến khi trả hết nghiệp.
- Làm sao để có huệ nhãn?
- Tu!
- Thì thầy cũng đang tu đó mà.
Nói như để chế nhạo chính mình, thầy Tiều trả lời Thiện Giả:
- Có lẽ cũng cần phải tu vài ba tiểu kiếp mới mong có huệ
nhãn.
- Thế Thầy tu đã được bao lâu rồi ạ?
- Chừng năm chục năm.
- Một tiểu kiếp dài bao nhiêu năm?
- Mười sáu triệu năm.
- Đại kiếp thì dài bao lâu.
- Có khi là 20 có khi là 1000 tiểu kiếp.
Bày tỏ một sự thất vọng não nề về cái khung thời gian mà thầy
Tiều vừa nói, Thiện Giả chỉ còn biết kêu lên:
- Chao ơi!
- Sao vậy?
- Chỉ cần nghe cũng đủ ngộp thở mất rồi!
- Vì kiếp người cho dẫu 100 năm thì vẫn chưa bằng nửa hạt cát
trong sa mạc thời gian bao la vô cùng tận phải không?
- Dạ, quả đúng như thế Thầy ạ.
- Tại sao quý hữu lại không tự thắp sáng lên một niềm tin rằng,
trong kiếp nầy quý hữu chỉ cần tu thêm một khắc nữa thôi là đủ vài tiểu kiếp mà
quý hữu đã tu trong muôn vàn kiếp trước?
- Ồ, dạ. Hay lắm, hay lắm. Tại sao ta lại không có quyền
nghĩ về ta một cách tích cực như thế đã chứ. Ôi, mẹ ơi! Hạnh phúc
quá. Nếu con đã từng tu 32 triệu năm, đã trải qua vài tiểu kiếp làm việc
tốt. Với từng ấy thời gian, con đủ tự hào vươn lên như bất cứ ai. Con cũng đang có chân tâm, có Phật tánh trong con như các sư ông, sư bác, sư
huynh, sư đệ trên chùa, như mọi người sống đời lương thiện đang làm việc tốt
quanh đây. Con cũng sẽ có huệ nhãn, có thần thông để biết tôn huynh Phạm
Xảo, biết mọi người và biết con đang ở đâu.
Thầy Tiều, Trí Hải, Ba Gấm, Tâm An đều cười chan hòa với niềm
vui vô tư gần như trẻ thơ của Thiện Giả. Lòng tri ân ơn cứu tử của Thiện
Giả đối với Phạm Xảo thật sâu bền. Không hẹn mà gặp, trí tưởng của mọi
người trong nhóm đều hướng về Phạm Xảo.
Từ ngày về lại với nhóm vườn thuốc, Tâm An trở nên dễ dãi,
nhu hòa và ít nói. Mắt nhìn phân biệt sắc sảo và lời nói đầy thuyết phục
càng có lợi cho việc làm ăn buôn bán chừng nào thì lại càng bất lợi cho việc tu
dưỡng định tâm chừng đó. Khi dáng vẻ đời sống trụ lên đôi mắt; ý nghĩa
giao tình gắn chặt vào lời nói thì chân dung cuộc sống chỉ còn là lớp sơn màu
tô trét bên ngoài. Ngày trước, Tâm An đã nhìn Trí Hải và thầy Tiều như
nhìn những cây cổ mộc trong khu vườn thiền kiểng. Dáng trang đài kỳ
tú mà vô hồn. Tâm An hôm nay lắng xuống bề sâu. Cảm nhận sâu xa nhiều
hơn là nhìn nói vội vàng.
Tâm An hỏi trống không, chẳng biết câu hỏi hướng về thầy Tiều
hay là về ai trong nhóm:
- Hiền huynh Phạm Xảo không phải là thầy tu, cũng chẳng phải
là cư sĩ Phật tử, tại sao lại đi tìm cái chết ngay trên những dòng kinh Bát Nhã
vậy kìa?
Im lặng hồi lâu không ai lên tiếng. Thầy Tiều tự nói
lên ý nghĩ của mình:
- Vì khi còn sống, Phạm hữu đã sống đời Bát Nhã.
Ba Gấm hỏi thầy Tiều:
- Bát Nhã Ba La Mật Đa là trái tim của lý thuyết nhà Phật. Chỉ có các bậc cao tăng thượng trí mới thực hành Bát Nhã thôi, phải không ạ? Nếu vậy thì tướng quân Phạm Xảo chứ đâu có phải là một vị đại thiền sư mà dám sống
đời Bát Nhã, thưa Thầy?
Lắc lư đầu như vừa phủ nhận và vừa xua tay đùa vui, nhưng bằng vẻ mặt trầm
tư sâu lắng, thầy Tiều nói về cái lý Bát Nhã trong suy tư của Thầy:
- Bát Nhã là mắt sáng nhìn đời đúng như sự thật đang diễn ra
chứ có gì ghê gớm lắm đâu mà không dám sống.
- Mắt sáng đó có phải là con mắt của trí tuệ ở bên trong
không Thầy. Người thường làm sao có được?
- Con mắt trí tuệ khởi từ cái nhìn bình thường của nhục nhãn;
tiến lên cái nhìn thiên nhãn và đạt tới tuệ nhãn của hàng Bồ Tát, Thanh văn,
Duyên giác là một vòng chuyển hóa nội tại mà mọi chúng sanh đều có khả năng
vươn tới được. Bát Nhã là sự chối bỏ toàn triệt những biên giới phân biệt
của thân, tâm, ý, thức. Đó là những biên giới, rào chắn, ý niệm chủ quan
được dựng lên do ảo tưởng sai lạc của con người.
- Ảo tưởng sai lạc đó do đâu mà có?
- Tâm, tưởng sai lạc do lớp lớp bụi trần trong nhiều kiếp
đóng thành núi, thành đồi cố chấp có khi được gọi đầy vẻ tự hào si mê là… kinh
nghiệm. Chính thói quen tích tụ nầy đã dẫn dắt con người mang mộng tưởng
điên đảo đi đào bới để tìm cho bằng được cái búa của “ông Thiên Lôi” sau cơn
sét đánh làm cây đổ, người chết. Ai cũng lý sự được rằng, nếu không có một
“ông Thiên Lôi” với sức mạnh ghê hồn vác búa từ Thiên Đình xuống đánh thì làm
sao có ánh sáng chói lòa từ trên trời cao xẹt xuống đất; rồi có tiếng nổ long
trời; rồi có cây đổ, người chết… cháy đen thui? Ai dám nói “không”
khi có nó. Ai dám nói “có” khi nó là không. Và nếu cứ đi mãi, rồi
đi mãi tìm ngọn nguồn và nguyên nhân của cơn sấm sét thì ai dám bảo là có, ai
dám bảo là không? Muốn nói gì thì nói nhưng chắc chắn cái ông Thiên Lôi mạnh
vô song đó là… “đồ giả thật”! Nó có thật đó mà lại không có thật. Cái giả, cái không cuối cùng của sự thật ông Thiên Lôi đó không thể thấy, không
thể tính, không thể bàn mà chỉ có thể hiểu ra và cảm nhận qua ý niệm “tri kiến”
trong vô hình vắng lặng. Chỉ có cái nhìn của tuệ giác mới thấy được đó là
lý Bát Nhã. Chẳng có một ông Thiên Lôi thật sự nào cả mà chỉ có tánh điên
đảo hợp lại thành sấm sét và mộng tưởng điên đảo hợp lại thành ông Thiên Lôi.
- A! Thầy ạ. Thuở nhỏ, Ba Gấm con từng biết một ông thầy
pháp có được cái búa thiên lôi để trừ ma diệt quỷ đó mà.
- Thế ngày đó Ba Gấm có tin đó là búa thiên lôi thật không?
- Dạ, tin lắm thầy ơi! Cả làng, cả xã đều tin như vậy
vì ông thầy pháp có cái búa Thiên Lôi bỏ trong túi xách thật mà.
- Nếu đó chỉ là cái búa thợ rèn giả thì làm sao biết được?
- Ơ! Mà… ơ! Thật tình là không biết vì có ai ngoài ông thầy
pháp đó có “búa Thiên Lôi” đâu.
- Thì Bát Nhã cũng chỉ là lời xác định một cách quả quyết rằng,
không có cái búa Thiên Lôi thật; mà cũng chẳng có gì thật cả. Nên đừng sợ
sấm chớp, đừng sợ tiếng nổ, đừng sợ Thiên Lôi vì thật ra mọi hình tướng đều là
sự va chạm hay kết hợp của âm dương, ngũ hành mà sinh ra, rồi tan biến và về lại
với Suối Nguồn Vũ Trụ mà thôi. Ngay cả tam thiên, đại thiên thế giới cũng chỉ
là một trường sinh diệt liên tục. Cái gọi là Ta Bà thế giới hôm nay biết
đâu sẽ tan thành đám bụi mờ bay tỏa trong không gian vô cùng và thời gian vô tận.
Ba Gấm hồi tưởng lại những cuốn sách bàn về yếu lý nhà Phật
quá cao siêu đến độ mơ hồ và tối tăm khó hiểu mà mình đã đọc, liền hỏi thầy Tiều:
- Thưa Thầy, như thế có loại kinh sách nào bàn về kinh Kim
Cang Bát Nhã Ba La Mật đơn giản và dễ hiểu với tất cả mọi người, ngay với cả
người mù chữ không?
Thầy Tiều giải thích:
- Bát Nhã là sự thật của thể lý, là cội nguồn của ý thức, là
tính không của vạn pháp. Đó là một ý niệm hoàn toàn tự tại, an nhiên và rỗng
lặng, không đào bới hồi ức từ quá khứ, không chạy đuổi theo ước mơ về tương
lai. Quán tự tại nơi ta và trong chính ta ngay trong lúc này. Bát
Nhã đơn giản như hơi thở và gần gũi thật thà như máu của ta. Tâm vắng lặng, trí
thản nhiên trước tất cả những mảnh đời đang trôi theo dòng sống là đang sống đời
Bát Nhã. “Từng trang nghĩa lý phân minh. Kim Cang kinh thật là
kinh không lời”! Vì kinh thật không lời nên khi đem “xích tử chi
tâm”, nghĩa là cái tâm nguyên sơ, hồn nhiên, trong suốt của đứa bé sơ sinh và một
đầu óc không vướng bận nhị nguyên đối đãi (như khen chê, tốt xấu, có không…)
thì dòng Bát Nhã có sẵn trong mỗi người tự nhiên hiển lộ.
Ba Gấm cúi đầu lẩm bẩm:
- Kim Cang kinh thật là kinh không lời. Kim Cang vô tự
thị chân kinh!
Tâm An không nhịn được, liền hỏi:
- Thầy ơi! Nếu Bát Nhã mà gần gũi và đơn giản như thế
thì tôi đâu có bỏ chùa ra đi trôi nổi đến hai lần như thế.
Đặt một bàn tay nhè nhẹ lên vai áo của Tâm An, thầy Tiều nói như an ủi:
- Tâm An vẫn còn tiếc nuối những năm tháng sống xa chùa à?
Giọng ấm lại đầy vẻ cảm động và chân tình, Tâm An nói nhỏ:
- Dạ, tiếc lắm Thầy ạ.
- Lại vướng mắc hình tướng nữa rồi. Sao quý hữu không xem thế gian này là
một ngôi chùa rộng lớn.
- Tam Bảo nơi đâu?
- Phật là Tâm thương người, thương đời. Pháp là Trí tỉnh táo, sáng suốt. Tăng
là việc tốt đang nghĩ, đang làm.
- Tìm ở đâu?
- Tất cả đều có sẵn trong ta. Không cần tìm. Chỉ cần thấy.
- Tôi chưa nghe ai nói đơn giản như vậy bao giờ.
- Bởi vì người ta đua nhau nói những điều cao siêu về Bát Nhã
nên chẳng ai hiểu Bát Nhã như chính thị Bát Nhã mà cứ hiểu Bát Nhã theo những
điều cao tột nằm tận đâu đâu bên ngoài Bát Nhã. Dần dần, vọng tưởng Bát
Nhã trở thành cung tên của ngôn ngữ khải đạo và tư tưởng ngự trị. Hễ người
xạ thủ vô minh bắn ảo ảnh Bát Nhã vào đâu là ý nghĩa thâm sâu của Bát Nhã ấy sẽ
mất sự hồn nhiên trong sáng và biến thành vọng tưởng. Bát nhã, tánh không, chân
như… không có gì xa hơn là sự thật. Nó là nó chứ không phải ai khác, cái
gì khác, hay thể tính khác. Quán tưởng, suy niệm về sự thật để tiến tới một
đối tượng không phải là chính nó mà cao hơn hay thấp hơn nó; đẹp đẽ hay xấu xa
khác nó là phi Bát Nhã.
Người hiểu Phạm Xảo nhất là Trí Hải, chỉ im lặng theo dõi,
bây giờ mới lên tiếng:
- Quả thật là Phạm huynh đã có “duyên tu”.
Trước sự im lặng đợi chờ, Trí Hải không nói gì thêm. Thầy
Tiều giục:
- Chẳng hay Phạm quý hữu có duyên tu như thế nào, hoàng thân?
- Để có thể trả lời Thầy, có lẽ tôi phải mượn ý kinh nhà Phật.
Hình như là Kinh Đại Pháp Cú thì phải, đại ý có nói đến Duyên Tu rằng: Dẫu
cho tụng kinh ngàn lời mà không thực hành, tu dưỡng thì ích gì? Chẳng bằng nghe
một lần, rồi tự mình siêng năng lặng lẽ chuyên tu cho chính mình sẽ được ích lợi
hơn. Tụng kinh ngàn lời, không hiểu thì ích gì? Chẳng bằng hiểu một lời kinh, rồi
áp dụng, tất sẽ đắc độ. Tụng kinh ngàn lời, mà lòng bất kính, thì ích gì? Chi bằng
thực hành, vui vẻ, phụng tu đầy tin tưởng. Tụng kinh ngàn lời, mà cái tôi không
bớt, chi bằng theo tu một lời, mà bỏ kiêu mạn, buông lung. Tụng kinh ngàn lời,
cầu danh thêm chấp, chi bằng nghe một lần, rời bỏ chấp trước. Nếu tu vì
hình tướng, vì danh vị, vì tiếng tăm, vì lợi lộc, vì đối đãi phân biệt phe ta,
phái người thì đấy là “nghiệp tu”, càng tu càng mang nghiệp chướng càng nặng nề.
- Phải. Phạm Xảo quý hữu đã sống thật với chính mình
trước khi sống thật với người khác trong mọi tình huống, trước mọi hoàn cảnh. Tu không hình tướng là duyên tu và cũng là một cách sống đời Bát Nhã. Dẫu
cho đấy chỉ là một trong tám vạn tư lối về bến Giác thì khi đi trọn đường cũng
sẽ đến được bờ bên kia thôi.
Cả nhóm nhìn ánh trăng nhạt dần để đón một bình minh đang về.
Một sớm mai bình thường, nhưng sẽ trở thành đến muộn với những người thức trắng
đêm và đến sớm với người nông dân đang ngủ say sau màn sương mỏng dưới chân đồi
Thái ấp.
CHƯƠNG HAI MƯƠI TÁM
Tu Giữa Bụi Trần
Xoài về!
Tiếng vọng ghê gớm có sức mạnh làm người ta run lên vì lo sợ.
Không ai hiểu “xoài” là tên của vị hung thần, ác thần nào đó hay là mùa xoài
chín. Nhưng “xoài về” đối với người dân quê một thời đồng nghĩa với cơn dịch họa
đang từ đâu giáng xuống trong cơn nóng bức của mùa Hạ.
Hiện tượng của “xoài về” năm nay là chuột. Chuột sinh sôi nẩy nở thành
đàn, thành lũ kéo đi rúc rỉa khắp mọi hang cùng ngõ hẻm. Người ta sợ uy
danh của chuột đến độ phải kiêng cử để khỏi phạm húy bằng cách gọi chuột là
“ông Thiên”!
Khi “ông Thiên” đã kéo nhau ăn sạch mùa màng cây trái thì đua nhau chết và đua
nhau sinh. Chuột sinh ra nhiều đến độ nhiều người cho rằng, ba ngày mà
chưa tắm gội kịp thì sờ lên trên đầu cũng có tổ chuột. Người và chuột đều
thi nhau chết. Xác chuột chết càng rãi đầy làng xóm thì số người chết
cũng gia tăng theo khắp xóm dưới làng trên. Chuột chết không biết vì
đâu. Còn người thì hiện tượng rẩy chết rất giống nhau. Đang mạnh khỏe,
bỗng cảm thấy ớn lạnh, khát nước, rồi sốt nóng quằn quại, ruột gan nóng sôi và
đau rát như có ai xẻ ra từng mảnh. Cơn lạnh ập đến làm người co rúm, máu
trào ra rồi chết. Sự lây lan càng về sau càng nhanh. Nỗi sợ hãi
kinh hoàng càng ngày càng dồn dập.
Từ miệng cụ già đến em bé, người ta nghe chuyền tai nhau những tiếng lạ lùng,
nhưng có một tác động chết chóc ghê gớm: “Dịch tễ. Dịch hạch!”
Làng mạc, thôn xóm như đang sống giữa sự đe doạ và tàn phá của một cơn đại loạn. Ban ngày mà nhà nào cũng đóng cửa im ỉm. Người trong nhà dùng vôi, lá trầu,
các loại lá cây có mùi hăng hắc, giã nhuyễn bôi lên mặt, lên người… để cho ma
quỷ gớm ghiếc khỏi nhòm ngó.
Nhóm Vườn Thuốc Thái Ấp của Trí Hải trở thành một chỗ dựa tốt nhất cho quần
chúng trong cơn khủng hoảng “xoài về” này. Tuy thuốc của vườn Dược thảo
Thái ấp không trực tiếp đương đầu nổi với nạn dịch chuột đang lan tràn, nhưng
đã góp phần năng nỗ vào việc cứu chữa bệnh nhân. Dinh ông Hoàng nhanh
chóng trở thành một bệnh viện cấp cứu và Thái ấp trở thành nơi “trốn dịch” được
mọi người đồn đãi nhau như là khá an toàn.
Từng đoàn người lũ lượt dắt díu, bồng bế nhau tới Dinh Ông Hoàng trốn nạn. Khi cả dinh thự và cánh đồi không còn chỗ chen chân, người ta cắm dùi ngay trên
những cánh đồng trồng thuốc.
Trí Hải nhớ lại có lần bệnh dịch hạch lan tràn ở Paris khi ông và hoàng tử Cảnh
đang có mặt. Nguyên tắc y khoa chữa trị thời đó là giữ vệ sinh, diệt chuột và uống
thuốc Tây phòng ngừa và chống bệnh. Nhóm Trí Hải vừa chữa bệnh, vừa đi
nhiều nơi giảng giải phép vệ sinh và diệt chuột. Nhưng việc giữ vệ sinh
“chống vi trùng” dịch hạch là điều quá xa xôi và mới lạ mà quần chúng chưa hiểu
nổi để chấp nhận và thực hành. Diệt chuột là điều mà rất ít người dám làm vì
tâm lý vẫn còn nơm nớp lo sợ… ông Thiên!
Xác chuột không có người hốt, xác người không có đất chôn càng làm cho tình cảnh
trở nên trầm trọng hơn. Ngay Đại Nội cũng phải khóa chặt cửa thành, không
ai được phép ra vào vì sợ dịch “xoài về” vào thăm cung cấm!
Vắng bóng Phạm Xảo, mỗi chiều về khi nhóm Trí Hải quây quần quanh chiếu cơm đạm
bạc, không khí trầm lại và buồn hơn. Cái lý vô thường không còn nằm trong
lý luận mà đã xông vào cửa chính kéo Phạm Xảo ra đi. Đêm đêm, Trí Hải
trăn trở nhiều hơn và lâu hơn. Sống như một hiện sinh thiên nhiên thì dễ,
nhưng tìm một ý nghĩa đích thực cho cuộc sống thật khó. Sau cái chết phảng
phất màu huyền thoại của Phạm Xảo, Trí Hải vẫn thường tự hỏi, một đời của Phạm
Xảo có ý nghĩa gì và một đời của chính Trí Hải mang ý nghĩa gì? Trí Hải
đã từng cười chế nhạo thầm nhóm ông hoàng bà chúa Phủ Đệ thường họp nhau tiệc
tùng ca xướng và tự đặt cho nhóm cái tên vừa buồn cười, vừa buồn bã là “Hội ăn
chơi chờ chết”! Nhưng nếu không phải là như thế thì đâu là hướng đi cho hết cuối
đời? Cuộc đời trở thành quá ngắn khi có nhiều việc đáng làm mà chưa đủ thời
gian làm hết. Nhưng đời sẽ dài lê thê khi mỗi ngày mặt trời lên cùng với
câu hỏi: “Biết làm gì cho hết phần đời còn lại?!”
Sau những ngày dài làm việc mệt nhoài trong hoạt động Vườn Thuốc, nhóm Trí Hải
vẫn thường dành những sớm, những chiều và những đêm ngắm trăng uống trà đàm đạo. Câu chuyện thường vẫn hướng về ý nghĩa của đời sống. Thầy Tiều luôn bị
gán ép làm diễn giả kết luận sau cùng. Ý thầy bao giờ cũng giống
nhau. Theo thầy thì vạn vật đều nằm trong quy luật “thành, trụ, hoại, diệt”. Nhưng đừng chờ cho một thứ tự như vậy tuần tự diễn ra mà phải thấy được rằng,
trong sinh đã có diệt nên trong thành đã có trụ, trong trụ đã có hoại và trong
hoại đã có diệt. Bởi vậy, người hay vật mới sinh ra là đang già từng khoảnh khắc,
đang rã dần, đang cũ bệnh trong từng chớp mắt đi qua và đang nhích dần đến cái
chết. Ý nghĩa của đời sống không nằm ở tương lai mà ở ngay trong lúc đang
diễn ra. Phần đông quên hiện tại và dành quá nhiều thời gian cho việc đã
qua và việc chưa tới. Đừng bận tâm tra hỏi ý nghĩa việc làm của anh là gì vì đó
vẫn là điều xa xôi mà phải hỏi là anh có biết anh đang làm gì không?
Một người khỏe mạnh và xinh đẹp có ai tự thức tỉnh mình để trả lời là: “Tôi
đang chết…” không? Thế nhưng đấy là câu trả lời trên cửa miệng của thầy
Tiều. Có lẽ nhờ vậy nên dường như trong thầy Tiều không có một chỗ nào để
chứa những tác động của ngày qua và ham muốn của ngày mai. Thầy hồn nhiên
và vui đùa như một đức trẻ thơ thú vị với đồ chơi trước mắt.
Trước sự đòi hỏi cấp bách của hoàn cảnh, nhóm Vườn Thuốc không còn dừng lại ở
giới hạn hốt thuốc và cấp thuốc nữa mà mọi người trong nhóm phải chuyển tải từng
bao lá thuốc vào lò nấu để sắc lấy nước cho hàng nghìn người bệnh đang nằm la
liệt khắp các ngõ ngách trong Thái Ấp. Sức người thì giới hạn mà sự đòi hỏi cấp
cứu thì mỗi lúc càng tăng. Cảm giác cũng đành, buông tay bắt đầu xâm lấn
từng người trong nhóm. Tâm An, Thiện Giả, Ba Gấm giữ vững tinh thần nhưng
thể chất trên đà sa sút thấy rõ. Chỉ còn thầy Tiều và Trí Hải vẫn chạy ngược,
chạy xuôi có vẻ như chưa đến hồi nao núng. Thầy Tiều vẫn còn ngồi thiền định
từng đêm sau mỗi ngày làm việc cật lực.
Cho đến một buổi sáng thầy Tiều vắng mặt trong giờ uống trà, ăn cháo điểm
tâm. Bốn người còn lại dáo dác tìm quanh và thấy thầy Tiều đã lặng lẽ bỏ
đi đâu từ trong đêm. Vì công việc bắt buộc, chỉ có một mình Trí Hải là được
ủy nhiệm tạm nghỉ tay đi tìm thầy Tiều.
Trí Hải tìm quanh gần nửa ngày mà vẫn không thấy dấu vết của thầy Tiều nơi
đâu. Cơn gió Nồm từ phía sông thổi về mát rượi và mầu nắng vàng đã phai
trong buổi xế chiều gần cuối Thu như vô hình kéo chân Trí Hải men theo lối cũ
vào khu rừng đốt than trong buổi đầu gặp gỡ thầy Tiều.
Chiều tím về trên núi xanh. Không có dãi khói nào bay lên chứng tỏ có người
ở đó. Trí Hải vẫn bước đi với tâm trạng kiên nhẫn kiếm tìm.
Khi đến gần phiến đá có hầm than ngày cũ, Trí Hải đã thấy bóng thầy Tiều ngồi xếp
bàn lặng lẽ ở đó. Nhìn dáng thầy ngồi đĩnh đạc như một bức tượng đá, Trí Hải
không biết là thầy đang đạt đến một trạng thái nào vì đã có nhiều lần, người ta
tìm thấy thầy ngồi yên lặng như thế ngày nầy qua ngày khác mà không có dấu hiệu
của hơi thở. Sau đó, thầy gỉải thích là trong trạng thái định tâm sâu lắng
nhất, nếu hành giả đã đạt đến một mức nhập định cao sâu nào đó thì có thể đi
vào trạng thái bế hơi thở, làm ngưng lại nhịp đập của tim mà vẫn không cắt đứt
dòng sống.
Quan niệm về dòng sống và sự sống của thầy Tiều mang một nội dung khác hẳn với
khái niệm đời thường. Dòng sống, theo thầy Tiều, là một tiến trình tiếp nối
miên viễn trong dòng “Suối Nguồn Vũ Trụ”. Nguồn Sống ấy là suối nguồn không
có sinh ra, không có hủy diệt, không có thời gian, không có không gian, không bờ,
không bến, không có bên nầy hay bên kia. Tất cả là một chuỗi biến động
không hình, không ảnh xảy ra liên tục trong từng nhấp nháy của một đơn vị thời
gian nhỏ nhất mà con người hay tri thức của con người có thể nghĩ tới được. Chữ
nhà Phật gọi đơn vị thời gian đó là “sát na”. Mỗi sát na nhanh đến mức chỉ
có khái niệm, đặt tên được mà không thể đo lường được. Vì một chớp mắt từ khi
mí mắt mở ra và nhắm lại là đã trải qua muôn vạn ức sát na. Nhanh đến thế
nhưng chẳng bao giờ ngưng lại. Có thể trước và sau một sát na, con người và
muôn vật đã thay đổi từ sống sang chết, từ còn sang mất, từ có tới không… nên
không có sự vật nào trên đời nầy là thường tại, là hằng thường cả. Tất cả
đều vô thường.
Sự sống thực sự là một cuộc “tổng phản công” của con người và
muôn vật chống lại cái chết. Đấy là sự cố gắng thường trực, quy tụ hết thảy
những khả năng vật lý, sinh lý, tâm lý, luận lý, tín lý… để chống lại sự thay đổi
vì thay đổi là tiền đề, là cách nói khác của hủy diệt. Trong Suối Nguồn
Vũ Trụ đó, hễ có hiện tượng sinh thì phải có hiện tượng diệt và có diệt là có
sinh. Sự sống như nguồn sáng và bóng tối. Nguồn sáng không thấy ở
đâu cả nhưng đâu cũng có. Nó ở khắp nơi. Hễ đến mặt trời thì thành
tia nắng, đến mặt trăng thì thành ánh trăng, qua các vì sao thì thành ánh sao,
giữa cơn giông bão thì thành sấm sét, vào bếp thì thành lữa bếp, vào giống côn
trùng bắt sáng thì thành con đom đóm. - Nó ẩn tàng đâu đó, nhưng lại tức khắc
hiện ra - xẹt lữa - khi hai khoáng vật chạm nhau. - Nó vào thân xác vạn
vật thì thành dương tính, tạo hơi ấm để bình hành với hơi lạnh. - Nguồn
sáng quay mòng mòng. Nguồn sáng không có nguồn mà tự nó là sáng.
Không ai loại trừ, thay đổi hay chôn giữ cất dấu nó được mà tự nó là nó. Đi
cũng là đến mà tắt cũng là đỏ, mất cũng là còn. Tất cả vô số lượng hình
thái chỉ là sự chuyển hóa, biến tướng tùy theo đối tượng sinh hay diệt mà nó bị
hút vào, bị đẩy ra liên tu bất tận. Chữ nhà Phật gọi Nó là “Luân Hồi”.
Sự sống thường xuyên chống lại cái diệt đã đành, nhưng cũng chống luôn cái sinh
vì không diệt thì không sinh. Con người hôm nay là kẻ tử vong qua muôn
trùng đại kiếp. Vì thế, nó mệt mõi, nó run sợ và kinh hoàng trong cuộc viễn
du từ vô thủy đến vô chung đó. Sự sống, tự nó đang chiến đấu tả tơi đi
tìm một sự an nghỉ, một sự sống đời đời trên Thiên Đường hay nơi cõi Niết Bàn đầy
hứa hẹn.
Với thầy Tiều thì “tôn trọng sự sống” là tôn trọng cuộc chiến đấu của mỗi con
người và của mỗi sinh thể trong muôn vật. Thời nhỏ, khi thầy Tiều còn là
một chú tiểu ở chùa, có một lần chú hỏi thầy của mình rằng:
“Thầy ơi! Thầy dạy con phải tôn trọng sự sống. Hôm qua
con gánh nước bên bờ suối bỗng gặp một bác thợ săn đang bẫy được một con
trăn. Con hỏi bác ấy tại sao Bác không ăn chay như Thầy mà phải giết trăn
làm thịt tội nghiệp vậy. Bác thợ săn cười và bảo con về hỏi thầy rằng, Thầy
phải làm sao khi con trăn đang nuốt một con chồn, con chồn đang nuốt một con quạ,
con quạ đang nuốt con chim sâu, con chim sâu đang nuốt con sâu. Cũng theo
lời Bác ấy thì các con vật đang còn sống và dãy dụa cố thoát ra khỏi nanh vuốt
nhau, trong lúc sinh vật mạnh hơn cứ bám riết để nuốt sự sống của sinh vật yếu
hơn. Tất cả, bác thợ săn và năm con vật trăn, chồn, quạ, chim, sâu đều vì sự sống
của mình mà giết chúng sanh khác. Thầy ơi, thầy dạy cho con đi. Con
phải làm sao để đừng sát sanh mà vẫn bảo vệ được sự sống quanh đây thầy nhỉ?”
Thầy trụ trì không nói gì cả mà chắp tay đi vào trong. Lát sau, thầy trở ra với cây roi mây dài trên tay. Thầy đưa cây roi cho
chú tiểu và bảo:
“Cầm cây roi nầy và ráng hết sức tự đánh mình một trăm roi.”
Chú tiểu chắp tay xá và nhận cây roi từ tay thầy. Nhưng
thay vì tự đánh mình, chú quỳ xuống trước mặt thầy, thưa:
“Thưa thầy, con không tự đánh mình được vì con chưa biết mình
đã phạm lỗi gì mà bị phạt như thế.”
Gật đầu, thầy dạy chú tiểu:
“Thầy vừa giúp con tự trả lời câu hỏi của con rồi đó: Tôn trọng
sự sống là không bức hại ai, không làm đau đớn ai và ngay cả chính mình, một
cách vô lý.”
Chú tiểu vẫn còn thắc mắc:
“Thầy ơi! Thầy chưa dạy cho con cách nào để cứu những con vật
đang giết nhau trong câu chuyện cá lớn nuốt cá bé mà con vừa kể cho thầy nghe.”
Thầy trầm ngâm suy nghĩ một lát, rồi trả lời:
“Ngày xưa khi ra khỏi bốn cửa thành bên ngoài cung cấm, thái
tử Tất Đạt Đa đã thấy cảnh như thế.”
“Rồi thái tử làm sao để cứu cảnh mạnh hiếp yếu, lớn hiếp
nhỏ vào lúc đó, thưa thầy?” Chú tiểu bức rức hỏi.
Thầy chậm rãi trả lời:
“Lòng lành của thái tử chấn động sâu xa trước cảnh đời đau khổ
chung quanh. Sau đó về thành ngài lặng yên suy nghĩ trong bao nhiêu ngày
tháng…”
“Sao ngài không nhảy vào cứu nguy như con muốn làm?”
“Con đã muốn làm gì?”
“ Con muốn giật con sâu ra khỏi miệng con chim sâu. Giật
con chim sâu ra khỏi miệng con quạ. Giật con quạ ra khỏi miệng con chồn…”
“Giỏi lắm! Lòng thương loài vật của con thật là đáng
khen, đáng quý. Nhưng mỗi ngày, hàng triệu triệu cảnh muôn loài ăn nhau,
nuốt nhau như thế xảy ra, còn làm sao cứu hết nổi.”
“Như vậy, người tài giỏi như thái tử Tất Đạt Đa hễ thấy việc
ác nhỏ thì không đáng cứu, phải không thầy?”
Thầy nhìn chú tiểu gật gù và nói tiếp:
“Không có việc ác nào là quá nhỏ mà cũng chẳng có việc thiện
nào là quá lớn hết con ạ. Một cục than con quên dập tắt sau khi thổi cơm
cũng có thể đốt cháy cả làng này. Một vạn hộc lúa vua ban chắc gì đã quý
hơn một bát cơm của người nghèo khổ. Xưa thái tử Tất Đạt Đa cũng có lòng
nhân như con, như mọi người. Ngài đã từng bỏ nhiều thì giờ, công sức để cứu
một con chim bị thương ra khỏi tay người anh em họ độc ác của mình…”
Chú tiểu cảm động, hỏi thêm:
“Tại sao thái tử không lên làm vua, rồi đem quân lính dẹp hết
người ác, việc ác mà phải bỏ nhà đi tu thầy nhỉ?”
“Làm vua tốt thì chỉ giúp được dân nước mình, trong thời mình
còn sống mà thôi. Đi tu thành Phật thì giúp được mọi loài, mọi người
trong nhiều đời nhiều kiếp.”
“Thầy, như con đang tu học với thầy thì giúp được ai đây?”
Cầm tay chú tiểu, thầy nói:
“Giúp ai cũng được, miễn là con thương sự sống và không làm hại
người hay vật để kiếm lợi cho mình.”
Thầy Tiều một đôi lần kể lại thời thơ ấu đi tu. Giọng
thầy vẫn chùng xuống khi nhắc lại lời thầy mình “giúp ai cũng được, miễn
là con thương sự sống và không làm hại người hay vật để kiếm lợi cho mình”, rồi
kết luận:
- Quý hữu à. Lời dặn dò của thầy tôi mộc mạc và chân
quê quá. Ai cũng biết, phải không. Vậy mà đã gần hết cuộc đời tôi vẫn
còn nương theo để tu trì và hành thiện, nhưng mong gì đạt đến một lý tưởng cao
cả như thế.
Trí Hải cùng ngồi xuống định tâm bên cạnh thầy Tiều không biết đã bao lâu,
nhưng bỗng giật mình vì tiếng cười khanh khách và giọng nói hồn nhiên của thầy
Tiều:
- Cả hai đều bị lạc trong rừng. Không biết ai đang tìm
ai đây?
Trí Hải cười theo và hỏi ngay vào đề:
- Thầy đã tìm ra cách?
Thầy Tiều hỏi lại nhanh:
- Cách làm gì?
- Giết chuột, bảo vệ sự sống cho mọi người.
Trầm ngâm một lát, thầy Tiều nhắc lại:
- Cách làm của người xứ Tây mà quý hữu đã thấy hồi trước ở Ba
Lê là hợp lý nhất. Phải ngăn cho được cái gốc rồi mới mong cứu được cái
ngọn.
- Theo thầy thì chuột và bệnh, cái nào là gốc chính. Bệnh
sinh ra chuột hay chuột sinh ra bệnh?
- Đôi bên tương tác, tương sinh. Chuột mang mầm bệnh
truyền đi. Bệnh làm ô nhiễm môi trường sống tạo hoàn cảnh cho chuột sinh
sôi nẩy nở; nhưng chuột là chính quý hữu ạ.
Trí Hải có cái nhìn thẳng ngay vào vấn đề:
- Nếu đúng như thế thì tại sao chúng ta không bứng cái gốc là
sẽ yên chuyện?
Thầy Tiều nhìn Trí Hải cười chúm chím, rồi trả lời:
- Cái gốc đâu phải nằm trong hang ổ của bầy chuột mà nó ở cao
tột đâu đâu tận trên trời, dưới biển.
- Ô! Tôi nhớ ra rồi. Người dân sợ cái “oai” của các
“ông chuột” nên xưng là “ông thiên” đó mà!
- Còn xa hơn thế nữa kia. Nó ở tận trong triều đình kia hoàng
thân ạ.
Trí Hải ngạc nhiên:
- Bệnh dịch có gốc từ trong triều đình nghĩa là sao, thưa thầy?
- Sáu bộ đương triều gồm bộ lại, bộ hộ, bộ lễ, bộ binh, bộ
hình và bộ công cai quản mọi việc trong cả nước và có quyền lực cao nhất nước. Nhưng quý hữu thử nhìn kỹ lại thì chẳng có bộ nào đặt ra để lo cuộc sống cho
dân cả. Hoàng thượng và các quan chỉ lo trị dân mà chẳng có bộ nào để giúp dân
thuốc men và bệnh tật. Khi cần đến thì lúng túng đóng cửa thành ngăn dịch bệnh
khỏi vào. Đó là gốc của dịch họa, bệnh tật đó quý hữu à.
Trí Hải cúi đầu nhìn những thôn trang kéo dài dưới vùng đồng
bằng xa tắp, tưởng tượng đến hàng đống xác người vô danh chưa có người
chôn. Thầy Tiều giữ im lặng và đắm mình trong cơn suy tưởng.
Trí Hải phá tan bầu không khí im lặng của rừng chiều, hỏi:
- Sự sống của con người và sự sống của con chuột đang ở
trong thế tương quan nghịch chiều. Người chết càng nhiều chừng nào thì
chuột càng sinh ra nhiều gấp bội chừng ấy. Cần phải giết chuột để cứu người. Thầy có cho rằng giết chuột để cứu người là phạm vào giới sát sanh không?
Thầy Tiều chưa trả lời vội mà nhìn rất xa về phía rừng sâu.
Lát sau, thầy trả lời:
- Quý hữu! Tôn trọng sự sống, trước hết, là tôn trọng ý nghĩa
của sự sống. Sự sống của con bướm vàng trên đóa hoa cũng có một ý nghĩa
riêng như sự sống của người vũ nữ trên sân khấu. Ý nghĩa của sự sống lúc
nầy là cái Đẹp…
- Thế sự sống của con chuột trong hang ổ có giống như sự sống của con người
trong căn nhà của họ hay không?
- Giống, vì cả hai đều ham sống sợ chết. Con người kinh hoảng đi trốn hùm
beo thì có khác gì con chuột run rẩy chạy trốn con mèo.
- Như thế là theo thầy, không được giết chuột để cứu người sao?
- Khi hai sự sống là mối đe dọa tiêu diệt lẫn nhau hay sự sống bên nầy sẽ hủy
hoại sự sống bên kia thì sự sống không còn là sự sống. Sự sống biến thành
vũ khí, thành phương tiện bức hại nhau mất rồi. Khi một con người cầm dao
trên tay, cố tình giết người khác để chiếm đoạt của cải, thì con người đó đã biến
thành kẻ sát nhân, là tên cướp. Bởi vậy, vua quan nhà Trần thuở xưa, hầu hết đều
tinh thông đạo lý. Họ đều hành thiện và tôn trọng sự sống muôn loài,
không nỡ ra tay giết một con voi què, bỏ bê một bầy ngựa ốm. Nhưng họ đã
đằng đằng ra trận đánh tan tác quân Nguyên.
Một thầy Tiều qua bao ngày lăn lộn giữa cơn dịch họa để cứu
giúp người bị nạn đã nhuốm vẻ phong trần trong chiếc áo tu vàng cũ gần với màu
đất. Nhiều đường may sứt chỉ và trên vai áo đã lốm đốm những vết rách xác
xơ. Thầy Tiều có vòng hào quang của một viên thuyền trưởng can trường trên
chiếc thuyền bị nạn mà không ai nghi ngờ sẽ chết theo tàu để nhận lấy trách nhiệm
hướng đạo và lãnh đạo của mình.
Đôi mắt trần gian thấy Thầy gần với cảnh đời hơn cảnh
Phật. Nhưng với đôi mắt đầy thương yêu nhìn chúng sanh thì lại thấy Thầy
gần với cảnh Phật hơn cảnh đời. Mạng sống của những con người giữa dòng đời bên
cạnh thầy cần phải được cứu. Thầy không có một cảnh Niết Bàn hay Cực Lạc
riêng cho mình. Cảnh trời vi diệu ấy là lý tưởng cao cả cho một đời xuất
gia tìm đạo của thầy, nhưng thầy tìm thấy ngay giữa cuộc đời này. Không
mong cầu, không hứa hẹn, không cứu chuộc, không nằm tận đâu đâu trên chín tầng
trời cao viễn mà nó ở đây. Nó nở trên những nụ cười nhăn nheo của mẹ già,
giữa tiếng cười giòn ngây thơ của em bé. Nó ở trong xóm vắng hoang
sơ, ngoài chợ đời xao động. Nó ở ngay trong lòng người.
Đoàn người rãi lá trừ chuột hái từ vùng núi đốt than của thấy
Tiều tỏa ra khắp kinh thành, thôn xóm. Là ánh sáng xóa dần bóng tối, chuột
sinh theo đám nên chết theo bè. Chuột vắng đi, con người trỗi dậy…
Cơn bệnh giảm dần; cơn đói lại tăng theo…
Giữa cơn đại nạn chao đảo và nghiêng ngữa đang hoành hành
toàn xã hội, chỉ những người quên mình mới dám xông pha để sống cho người khác.
Có hai sự quên mình lớn nhất: Quên mình hiện tại để sống cho mình mai sau mà
người đời thường gọi là “lý tưởng” hay là quên mình cho một Tình Yêu. Yêu
mình, yêu một người, yêu cuộc đời hay yêu cả nhân thế đều nằm trong một chuổi
nhân duyên của tình yêu. Người không yêu mình trước, tự tìm cách hủy hoại
chính mình thì sẽ chẳng yêu ai được cả. Ba Gấm trở thành một biểu tượng
tình yêu cho toàn nhóm Vườn Thuốc Thái Ấp. Trong cơn hoạn nạn, Ba Gấm đến
với mình và với người bằng nụ cười an lạc. Người đàn bà xinh đẹp bình dân
mà quý tộc ấy yêu được hết thảy cả bệnh nhân hôi hám nhất; cười được nụ cười an
ủi, thoa dịu khổ đau trong tiếng khóc; mở rộng hết cửa gia tài đồ sộ của riêng
mình để cứu giúp mọi người mà không có một người nào riêng biệt để nhớ hay cần
phải trả nghĩa, mang ơn.
Chuột đã ăn hết mùa màng lương thực. Chết bệnh không quằn
quại bằng chết đói. Ba Gấm như một chiến tướng xông pha tìm mua và huy động
những đoàn ghe thuyền chở lương thực từ Nhật, từ Trung Hoa, Tân Gia Ba, Thái
Lan về cứu đói. Trong thinh lặng, không có tiếng tung hô, ca ngợi vang rền,
nhưng có hết cả những hạt bụi trần gian dừng lại ở mỗi chớp mắt, có nét cười
nhân ái của Ba Gấm trên những người đau khổ.
Khi trận chiến cứu khổ vẫn còn tiếp diễn vào hồi gay cấn nhất, Ba Gấm đã gục xuống. Một sinh vật thánh thiện hay sự thánh thiện trong mỗi sinh vật là chất lượng,
là nghĩa sống tiềm tàng, tích tụ tập hợp trong chính nó. Mọi sinh vật đều
phải chết. Nhưng Dòng Sống cuối cùng của một cá thể nhỏ bé sẽ tách rời
thân xác tạm bợ để về nơi đâu trong Suối Nguồn Vũ Trụ đang luân chuyển triền
miên mới là ý nghĩa đích thực sau cùng. Không một sức mạnh nào có đủ quyền
lực mang đi hay đặt để Dòng Sống nhỏ bé của một người, một sinh thể đang trút bỏ
xác thân về với Dòng Đại Nguồn hay Suối Nguồn Vũ Trụ, ngoài chính nó. Ba
Gấm đang mang ý nghĩa đời mình ra đi. Sau cơn sốt kéo dài trong mê man, Ba Gấm tỉnh lại. Trí Hải, thầy Tiều,
Tâm An và Thiện Giả đều có mặt. Một nụ cười tươi tắn xuất hiện bất ngờ
trên khuôn mặt bỗng sáng rỡ ràng như tỏa hào quang của Ba Gấm. Chìa tay
ra tìm nắm bàn tay Trí Hải, Ba Gấm nói thật dịu dàng:
- Cám ơn Hoàng thân đại nhân… Anh… cám ơn anh đã cho em được làm người.
Cám ơn anh đã cho em nụ cười, cho em tiếng khóc, cho em niềm vui, cho em nỗi buồn,
cho em những tuyệt vọng, cho em những ước mơ… Nhưng trên tất cả là anh đã
cho em tình yêu. Em đã nhiều lần ngã xuống và vịn tình yêu anh mà đứng dậy. Anh đã cho em đam mê và cũng giúp em thức tỉnh từ đam mê. Anh đã giúp em
biến một nỗi lòng thành một cõi lòng và một cõi lòng thành vạn tấm lòng… để
thương và để sống. Cám ơn anh. Em đi…
Ba Gấm quay mặt nhìn về phía mọi người, môi mấp máy không thành tiếng trong ánh
mắt thành khẩn đầy tri ân, đa tạ. Đôi mắt ấy bỗng đậu trên khuôn mặt thầy
Tiều. Lời thì thào thành tiếng:
- Huynh đệ, xin tạ ân. Thầy! Con chưa quy y…
Thầy Tiều hiểu ý tiến lại gần nắm chặt cả hai tay Ba Gấm:
- Được… được rồi! Tín nữ Ba Gấm đã hóa thân sống hạnh Bồ Tát giữa cuộc đời
nầy… đâu cần quy y.
Nghe tiếng thầy Tiều, nét cười lại hiện lên khuôn mặt như đang hướng về cõi trời
xa của Ba Gấm. Tiếng thì thào đứt quãng:
- Thầy cho con… một… pháp danh.
- Pháp danh con là… Ba Gấm.
- Dạ! Ba… Gấm…
Có một giọt nước mắt lặng lẽ làm ấm nụ cười an lạc về với hư không.
Ba Gấm ra đi như một cánh chim mỏng bay vút lên mây. Xuân, hạ,
thu, đông… rồi đến xuân. Nhưng xuân trước và xuân này không cùng màu hoa
và màu tóc.
Vào một sớm mai ửng hồng từng giọt sương trên cây cỏ, những
người chết cuối cùng vì nạn dịch ở cuối phố, làng trên chỉ còn là hiện tượng lẻ
tẻ hay bị nhiễm bệnh dịch lâu ngày, giờ đuối sức bệnh mới phát ra. Trong
ngôi nhà cũ dùng tạm làm chùa vắng vẻ hơn sau cơn dịch họa, chỉ còn lại mình thầy
Tiều trong cái vắng lặng mênh mông của đêm tối. Cơn sốt se se đầu hôm
thình lình ập đến lúc nửa đêm. Cả thân mình thầy Tiều như muốn bốc lửa vì
nóng. Thanh lặng một mình trong đêm, đã từng định tâm nội soi trong bao
nhiêu năm thiền định, thầy Tiều nhắm mắt lại và biết rõ cái đuôi dịch chuột còn
sót lại đã tìm đến thân xác của thầy làm nơi trú ẩn. Thầy Tiều không một
mảy may ân hận vì đã để hết tâm lực lo chạy chữa cho người khác mà hằng đêm
quên bế mạch để ngăn chận bệnh dịch cho mình…
Gần sáng, Trí Hải, Tâm An, Thiện Giả và những người thường
lui tới ngôi nhà cũ được dùng làm tịnh xá đều có mặt bên cạnh thầy Tiều. Trên tấm phản gỗ lâu đời, mòn nhẵn, thầy Tiều chỉ còn mặc bộ áo quần cụt màu
nâu vá trước, vá sau nhiều đoạn. Chiếc áo vàng được xếp gọn gàng đặt kê
lên đầu như để làm gối. Đó là chiếc áo cà sa duy nhất còn lại của thầy Tiều
sau những ngày vật lộn với nắng gió, đất bụi, bệnh tật cấp cứu giúp đám quần
chúng vô danh từ khắp nơi tản cư, tỵ nạn dịch chuột, ùn ùn kéo về Thái Ấp. Gia tài vật chất trần gian duy nhất còn lại bên cạnh Thầy là chiếc bình bát bằng
gỗ trống không và xâu chuỗi còn nguyên vẹn 108 hột bồ đề.
Thầy Tiều nằm ngay ngắn, hơi thở nhẹ nhàng nhưng đứt
quãng. Mắt Thầy lim dim, bình thản như đang ở trạng thái tham thiền. Giữa sự im ắng với nắng vàng và lá xanh xào xạc ngoài kia, có tiếng gõ cửa nhè
nhẹ. Rồi cánh cửa gỗ xưa cũ, nặng nề của căn nhà xịch mở. Nắng phản chiếu
hắt vào nhà rực lên nguồn sáng vàng tươi mới. Một nhà sư áo vàng nhẹ
nhàng bước vào nhà làm mọi người quay lại nhìn:
- Sư Trúc Lâm!
Có tiếng ai kêu lên như vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ.
Nhà sư chấp tay vái chào mọi người và bước đến bên cạnh thầy
Tiều. Mắt thầy Tiều mở lớn. Qua một thoáng bất ngờ nhất, thầy Tiều
từ từ ngồi dậy. Thầy ôm chiếc áo cà sa trước ngực và cố đứng dậy. Hai nhà sư cùng đảnh lễ cung kính chào nhau. Mọi người cùng chấp tay đứng
dậy vây quanh. Đôi mắt quầng thâm vì phải chiến đấu với cơn bệng đang
hoành hành của thầy Tiều đảo quanh như đang cố gắng tìm ai. Đôi mắt ấy
sáng lên và đậu lại trên khuôn mặt Trí Hải. Níu tay áo sư Trúc Lâm làm điểm
tựa, thầy Tiều bước lại gần Trí Hải. Có vẻ như Thầy cố vận dụng hết sức lực
còn lại của mình để làm một điều gì trọng đại cuối cùng. Thầy run run lần
tay lên chiếc áo xếp duy nhất mà Thầy đã kê đầu lên trong mấy ngày qua. Thầy mở rộng chiếc áo cà sa, khuôn mặt hốc hác vì cơn đau nhưng đượm vẻ thành
kính, lâm râm nói gì không ai hiểu. Thầy cung kính hai tay cầm chiếc áo
lướt qua đầu, vắt lên vai, khoác lên mình Trí Hải. Có tiếng ai vang vang:
- Chiếc áo rách hết rồi!
Im lặng…
Không biết mùi bùn đất quê hương, mùi hoa đồng cỏ dại hay mùi
trầm hương lan tỏa thơm lừng mùi thơm chơn chất, từ bi.
Tiếng sư Trúc Lâm trầm, nhẹ như vọng lên từ đầu non:
- Không. Chiếc áo tu hành không bao giờ rách. Đức
Thế Tôn đã khoác chiếc áo đó lên mình trong suốt 49 năm hành đạo. Chư Tổ
và chư Tôn Đức cũng đã khoác chiếc áo đó qua hơn hai nghìn năm vân du hóa độ. Chiếc áo nhà tu chỉ bị bị xé rách khi những vết cắt phát khởi tự bóng tối của
vô minh.
Trí Hải vẫn chưa dám đụng tay vào chiếc áo còn nằm nguyên
trên mình do thầy Tiều vừa khoác lên và tìm cách dìu thầy Tiều về chỗ nằm. Mắt thương nhìn thế sự của Thầy Tiều vẫn phóng hết sức sống vào đời. Đôi
mắt Thầy chợt mở to hơn. Thầy nhìn lên chiếc áo cà sa trên mình Trí Hải. Mắt Thầy ánh lên nỗi mừng vui rạng rỡ. Nét nhìn tỏa sáng đó chiếu lên
khuôn mặt cả Tâm An và Thiện Giả; lướt đến với mọi người và từ từ khép lại. Miệng thầy Tiều mấp máy điều gì không rõ, sư Trúc Lâm phải ghé sát tai vào
nghe. Đôi môi thầy Tiều hé ra, rồi đóng chặt. Mãi mãi. Lời sư
Trúc Lâm lập lại sau cùng:
- Thích Trí Hải. Tu giữa bụi trần.
Giàn hỏa thiêu bùng lên ngọn lửa.
Những người dân còn sống sót sau cơn dịch họa thấy đó là Lửa
Từ Bi.
Thân xác thầy Tiều khuất dần sau màn khói, rỗng lặng với
duyên tan.
Chắp tay vái nhẹ lần cuối, sư Trúc Lâm lần đầu và cũng là lần
cuối xuống núi, hướng về giàn hỏa lâm râm bái biệt thầy Tiều: “Tôi chỉ là người
khéo tu, nhưng thầy mới chính là bậc chân tu. Thầy tu giữa cuộc đời gió bụi. Tu
giữa bụi trần. Thầy cùng với sinh linh hít thở bụi trần, thấy được bụi trần và quét
bớt những lớp bụi trần gian bám trên thân, đọng trong tâm để tìm an lạc và tìm
cứu độ ngay giữa cuộc đời này”.
Có tiếng ngựa xe rộn rã. Có tiếng loa truyền của ngự
lâm quân báo tin triều đình mang lệnh sắc phong đến cho “đại sư tân viên tịch”.
Nhưng giàn lửa đã tắt.
Quan thượng thư Lê Trung Ẩn, quan tổng đốc Trần Minh dõi mắt
tìm kiếm. Nhưng sư Trúc Lâm và Trí Hải không còn bóng dáng. Cả hai
người là một rặng núi xa xăm.

























Thi Đàn Việt Nam
Trả lờiXóa