Thứ Hai, 10 tháng 2, 2020

Tu bụi 3

Tu bụi 3
CHƯƠNG MƯỜI LĂM
Hát đồ khay 
Sân khấu rộng lớn lót thảm, thêu hoa sáng lên rực rỡ vì ánh đèn ngũ sắc và ánh sáng phản chiếu từ những thiết bị trang hoàng lộng lẫy xung quanh. Đối diện với sân khấu là đang đứng trước một "thực tế ảo".  Mọi người có cảm tưởng như là mình đang chuẩn bị khai phá một phương trời nào đó từ trong chính mình mà lại xa lạ với chính mình. Vua thật, quan thật, tướng thật, người thật, việc thật, thiện thật, ác thật giữa đời đang chen chúc và đối mặt với vua giả, quan giả, tướng giả, đời gia, thiện giả, ác giả trên sân khấu. Nhưng "lộng giả thành chân" - cái giả biến ảo thành cái thật - vẫn thường là bi hài kịch của sự đời. Những nhân vật xuất hiện trên sân khấu có khi còn uy nghi, lộng lẫy và xinh đẹp hơn nhiều nhân vật thật đang ngồi im trong bóng mờ, ngước mắt nhìn lên những diễn viên đang đóng và diễn vai của chính mình trên sân khấu.
Hát bội cũng là hát tuồng, một hình thức hát diễn theo những tuồng tích, nhập vào nước Việt kể từ khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn bắt được Lý Nguyên Cát trong đám quân Nguyên. Cát có tài múa hát, diễn tuồng, được tướng Trần Nhật Duật giao cho việc tổ chức các đội hát tuồng để ủy lạo giúp vui cho tướng sĩ. Hơn ba trăm năm sau, hát bội lại theo chân Đào Duy Từ vượt sông Gianh vào Nam gọi là "hát tuồng xứ Nam", lần đầu tiên đến Phủ Hoài Nhơn, Bình Định. Các tuồng tích theo lớp lang của những câu chuyện kể mang tính đạo lý và lý tưởng hào hùng của các nhân vật lịch sử theo nghệ thuật hát tuồng xứ Bắc vẫn giữ hình thức trình diễn. Nhưng hình thức diễn tuồng thay hình đổi dạng từ hình thức mang đậm tính biểu diễn, ca múa, trở thành một bộ môn trình diễn sân khấu có tính nghệ thuật cao là Hát bội Bình Định.
Cái lý tưởng thiện của minh quân và hiền thần đối nghịch với tuyến nhân vật ác gồm toàn những hôn quân và gian thần là xương sống của các tuồng tích hát bội đương thời. Nghiêu Thuấn không lập luật hình, Võ Thang chẳng xây khám đường ngục thất, người người an vui, nhà nhà sung túc, thiên hạ thái bình là vương đạo. Mặt trái, gồm những nhân vật phản diện như bạo chúa Kiệt Trụ là bá đạo. Hai tuyến nhân vật "trung" và "nịnh" trở thành biểu tượng đạo đức sân khấu.
Đêm đêm, những văn thần võ tướng hiền tài "trung" như Quan Công, Nhạc Phi, Tiết Hiền, Địch Vương, Bàng Cử... mang mặt đỏ, áo mão uy nghi, mắt nhìn thẳng băng không chớp, giọng sang sảng như hịch truyền nói toàn những lời trung liệt đã làm cho khán giả tôn vinh, kính sợ. Những gian thần, nịnh thần như Bàng Hồng, Tôn Tú, Tần Cối, Trương Huờn sơn mặt trắng, mắt nhìn láo liên, âm mưu phản phúc, nịnh trên nạt dưới gây tâm lý khinh chê, phẫn nộ cho khán giả. Cái hiện tượng xã hội nghịch lý "người trung mắc nạn lao tù, để ba thằng nịnh lọng dù nghênh ngang" đã dấy lên thành một cảm giác rất thật trong lòng người xem. Thật đến nỗi  bà chủ bún bò Mụ Rơi có món bún bò giò heo ngon nhất kinh thành vẫn thường để dành những miếng giò khoanh, giò nạc luộc chín vừa, sứa thịt còn chắc nịch cho các đào kép hát bội đóng vai người trung. Trong khi các đào kép đóng vai kẻ nịnh thì mặc dầu cũng trả cùng giá tiền, nhưng những tô bún múc cho "thằng nịnh" bao giờ cũng là lỏng bỏng toàn giò ngoéo, mỡ sa... cho bõ ghét!  Nhiều lần các diễn viên ghiền bún bò Huế Mụ Rơi cố giải thích sân khấu không phải là đời thường, nhưng Mụ Rơi vẫn chứng nào tật nấy, vừa múc bún, vừa nói lầu bầu: "Tui rứa đó! Thương ghét rạch ròi. Ưng thì tới ăn, không ưng thì thôi." Nhưng vì bún Mụ Rơi là "độc chiêu" bún bò ở kinh thành nên thường thường, kép "trung" đành phải mua bún bới về nhà cho đào kép "nịnh"!
Tiếng trống chầu của Trí Hải cũng đã một thời chinh phục lòng người vì cái âm vang "trung - nịnh" hòa quyện vào tiếng trống. Cũng là sau một câu hát trầm bỗng tuyệt vời của đào kép "độc", nhưng tiếng trống chầu dành cho các nhân vật quang minh, trung liệt bao giờ cũng có âm vang bay bỗng như tâm hồn kẻ cầm chầu. Tiếng trống chầu dường như cũng nương theo hướng bay hào sảng của con đường nghĩa khí hay ngõ cụt đục ngầu vướng mắc của kẻ nịnh thần phản phúc.
Lần đầu tiên, một sân khấu cung đình mở rộng cho bàng dân thiên hạ được mở ra tại chốn đế đô. Quý tộc và bình dân hiếm khi gặp nhau trong những cuộc mua vui bằng loại hình nghệ thuật. Nghệ thuật không có giai cấp, sang hèn. Nhưng giai cấp thường ngăn chận đường bay và sức bật của nghệ thuật. Những tuồng hát trên sân khấu làng xã và sân khấu cung đình cũng như hoa dại dưới đất và phượng đỏ trên trời. Vẻ đẹp tự nhiên của hoa thì muôn đời vẫn thế, vẫn vô tư như nghệ thuật. Thế nhưng người cắm hoa vẫn quen thói tôn vinh những đóa hoa vô thường chưng trong bình ngọc là "vương giả chi hoa"!
Đêm nay, khoảng cách tạm thời khép lại. Trong màu áo gấm của hàng quan chức, vương tôn công tử có xen lẫn màu áo vải của dân thường. Bộ trang phục dành cho hội hè một thuở của Trí Hải đã cũ. Hoa thêu trên gấm xuống màu như một sự với tay ngọc ngà của quý tộc, nắm lấy bàn tay thô nhám của bình dân, bỗng trở thành khiêm cung, thân ái và ấm áp lạ thường. Chiều chưa xuống hết mà người đi xem hát đã nườm nượp khắp các nẽo đường. Họ cố đi nhanh để kiếm một chỗ không quá xa sân khấu.
Đoàn hát bội Phụng Vũ Bình Định của ông bầu Nam Sơn tiếng tăm lừng lẫy, nhưng trên miệng người đi xem hát ít trầm trồ nhắc đến hơn là nhân vật cầm chầu hôm nay. Trí Hải đang trở thành một huyền thoại. Một ông hoàng theo phò đông cung thái tử Cảnh bôn ba tận bên trời Tây. Một nhân vật kề cận vua trong những ngày chiến đấu gian khổ, nhưng khi vua đăng quang lên ngôi bá chủ thiên hạ, không nhận một chức tước nào. Một nghệ sĩ bạn chí thân của tử tội Ấm Thuyên, kẻ chết vì thơ. Một cao thủ đánh bại Hàn Kỳ Vương, vô địch đánh cờ trong thiên hạ. Một hoàng thân bị đương kim hoàng đế nghi ngờ hài tội.  Một chủ thái ấp chỉ còn vườn hoang nhà trống.  Một ẩn sĩ trong lâu đài đổ nát. Và có lẽ trên tất cả trong đêm nay là Trí Hải, một chầu vương trở lại cầm chầu.
Đi vào khu vực sân khấu, Trí Hải chầm chậm bước theo sự hướng dẫn của ông bầu Nam Sơn và các quan trong ban lễ tân. Nổi bật lên trong biển người xuôi ngược là long án dành cho Vua và hoàng hậu. Chỗ bọc gấm thêu hoa, chỗ kẻ son thếp vàng chói lọi, long án được đặt ngay chính giữa Duyệt Thị Trường ngay trước sân khấu. Duyệt Thị Trường chỉ mới là khu vực được chọn làm sân khấu tạm thời, chuẩn bị cho Duyệt Thị Đường là nhà hát chính thức của Hoàng cung trong tương lai. Long án Duyệt Thị Trường vẫn buông rèm lặng lẽ chờ nghênh tiếp ngự giá của nhà vua. Đội bát âm lặng lẽ như đang nín thở đợi chờ. Đội lính hầu phẩm phục uy nghi đứng yên như tượng gỗ trái ngược với biển người đang râm ran trò chuyện, vang vọng tiếng cười. Trí Hải theo chân đoàn tiếp tân tiến dần vào khu vục gần sân khấu.
Nơi đây, các quan triều gần như đủ mặt. Đây là một thế lực quyền uy nắm quyền sinh sát thiên hạ trong tay. Quan đại thần ngồi ghế bọc nhung xanh thêu tam linh vì con rồng trong tứ linh chỉ dành riêng cho vua. Rồng chầu có tam thập nhị thế, gồm 32 dáng đứng, ngồi, bay, lượn, tranh, chìm, nổi... Quan tam phẩm trở xuống ngồi ghế bọc gấm ròng - không thêu - màu bạch nhũ. Mỗi màu sắc, mỗi lọai vật thêu, mỗi kiểu ghế ngồi đều mang một ý nghĩa riêng và được cân nhắc kỹ càng và chi li từ cả năm trước.
Trí Hải hết hướng về bên phải lại quay sang phía trái, liên tục cung mình thi lễ và đáp lễ các quan đầu triều cũng như các hoàng thân quốc thích, các vương tôn công tử. Lê Trung Ẩn bước ra khỏi ghế ngồi, đến cầm tay Trí Hải, chào vui với giọng thân tình, ấm áp:
- Ha, ha! Hôm nay hùm thiêng đã chịu ra khỏi hang động để xuống núi cầm chầu. Thật là tuyệt vời! Tuyệt vời! Quả tình là chư quân ghiền hát bội, dĩ nhiên trong đó có Ẩn nầy, đến đây không mê "điệu thán trường vĩ" chết người của đào hiếm Nguyệt Nga hay lời diễn "xướng bạch quân bang" dậy sóng của kép độc Nam Xuyên bằng mê tiếng trống chầu của tôn huynh đâu nhé!
Trí Hải chẳng biết nói gì hơn là bóp chặt tay Lê Trung Ẩn rung rung, nói nho nhỏ vừa đủ cho người bên cạnh nghe:
- Cảm tạ thiện ý của huynh. Nghiệp cầm chầu cũng như làm Quan thượng thư hay làm đào kép trên sân khấu. Cứ ngỡ như mình điều khiển được thiên hạ nhưng may lắm thì cũng chỉ mới giữ được mình và điều khiển được mình thôi.
Bầu Nam Sơn quay nhìn hai người bạn cũ. Tiếng cười đùa của Quan thượng  thư Lê Trung Ẩn, chầu vương Trí Hải, bầu gánh Nam Sơn vang lên hồn nhiên và tươi vui như ngày mới lớn.
Bước lên chiếc ghế dành cho người cầm "chầu bổ", toàn thân chiếc ghế đã được bọc gấm đoạn hoa vàng, Trí Hải ngẩn người vì xúc động khi một thoáng quá khứ bỗng đâu hiện về trong chớp mắt.  Quá khứ của một thời màu hồng. Một thời mà thực tại và ước mơ thật gần nhau, tưởng như với tay là tới. Thế nhưng thời gian càng đi qua, càng làm cho cái thực tại ù lì, nhàm chán mỗi ngày một gần và nỗi ước mơ tươi đẹp mỗi ngày một  xa... Tia chớp quá khứ lóe lên và biến mất. Tất cả đi qua rất nhanh, để lại một thực tại mà Trí Hải chưa bao giờ trải qua. Sau tia chớp hồi ức đó, Trí Hải có cảm tưởng như mình bị giật lùi lại và quăng đi thật xa; xa đến nỗi bản thân mình không còn hiện hữu và thuộc về thế giới hiện thực chung quanh nữa.
Trí Hải tự trấn tĩnh để kéo mình trở lại với hiện tại. Cái hiện tại sau cơn say tâm lý chớp nhoáng làm cho người vừa tỉnh cảm thấy váng vất và cô đơn. Với tay cầm dùi trống.  Nâng dùi lên và nhìn quanh một lượt. Trí Hải có cảm giác ớn lạnh như đang đối diện trước đấu thủ, giương cung lên mà không có mũi tên nào còn sót lại.
Tiếng giàn nhạc cung đình nổi lên báo hiệu xa giá của vua vừa đến ngự lãm. Trí Hải theo đám đông làm lễ cung nghinh hoàng thượng một cách máy móc như cái chong chóng giấy quay tít theo gió. Không bao lâu nữa sân khấu sẽ khai diễn. Trí Hải chưa gióng tiếng trống mở đầu mà đã có vô số những cặp mắt từ mọi phía đang đổ dồn về hướng chầu bổ. Hít vào một hơi thở thật sâu, Trí Hải nhớ lời dặn của thầy Tiều "đừng dính mắc" để tâm không chạy theo cảnh mà cảnh cũng không chui vào tâm. Nhưng cái trí thiền định không thắng nổi cái hồn nghệ sĩ trong cùng một con người Trí Hải. Trí thiền sư rỗng lặng như bóng mây trên biển. Hồn nghệ sĩ mông lung như đốm nắng trên đầu sóng biển. Bóng mây thiền lặng yên; đốm nắng nghệ sĩ dính mắc, quằn quại, vật lộn, gào thét đến sủi bọt, tỏa hào quang... trước khi cả hai cùng trả lại cái hư vô về cho biển cả. Trí Hải nhớ lời thầy Tiều trong trí nhưng giờ nầy trôi về một góc rất xa. Trong khi cái tâm cảm của dòng máu nghệ sĩ đang cuồng lên sống thực từng hồi làm cho Trí Hải cố đè nén ngọn trào trong lòng mình đến thắt ruột. Làm sao đây, khi tiếng trống chầu không dính một đồng trinh khen thưởng kèm theo trước những cái nhìn hau háu của diễn viên và khán giả, khối khán giả lẫy lừng trong cả nước từ vua đến cả cung đình; từ hoàng tộc đến bàng dân thiên hạ. Cơn yếu đuối từ đâu ùn ùn kéo lại. Trí Hải có cảm giác sự yếu đuối truyền dần vào cánh tay, xuống dần vào hai bàn tay làm cho dùi trống sắp rớt ra khỏi tay mình...
Trong cơn nguy khốn nhất đang vùi dập cảm xúc làm nhức buốt đến tận cùng tâm lực, Trí Hải muốn buông tay, ôm đầu gục xuống vì bất lực thì một tình huống giải cứu chợt hiện ra như phép lạ. Trí Hải mở lớn mắt. Từ đâu... một mùi hương rất lạ. Mùi hương quen quá mà xa vời từ tiền kiếp. Mùi Hương làm Trí Hải tức khắc sống lại với tuổi đôi mươi. Mạch sống mới làm Trí Hải nhận ra rồi. Đấy là mùi nước hoa thoang thoảng toát ra từ hoàng hậu Marie Antoinette mỗi lần Trí Hải theo hoàng tử Cảnh vào gặp vua Louis và hoàng hậu tại cung điện Versailles. Hai thể nữ áo hồng và áo xanh tha thướt tiến đến bên cạnh ghế chầu bổ. Cô áo hồng tiến sát gần Trí Hải, hai tay trao một phong thư xếp trong túi gấm nhỏ, tiếng nhẹ như hơi thở:
- Cung thỉnh hoàng thân đại nhân xem thư.
Trên mảnh giấy hoa tiên lớn bằng hai bàn tay, chỉ ghi đôi hàng chữ viết tay. Nét chữ thảo, rõ ràng là người gửi viết trong vội vàng. Trí Hải kêu lên trong trí: "Chữ Nôm!" Thư viết: "Kính thưa Hoàng thân đại nhân. Xin đại nhân vui lòng cho phép hai thể nữ được kính hầu ngài trong cuộc diễn tuồng đêm nay. Tiểu nữ áo xanh lo cung phụng trầu nước và tiểu nữ áo hồng lo cung ứng tiền thưởng, thẻ thướng sẽ chấp hành đúng theo tiếng trống của ngài. Thời gian chuẩn bị gấp rút, xin đại nhân miễn xá cho những điều khiếm lễ. Mọi việc xin giải thích rõ ràng sau. Đại nhân gắng điểm chầu đêm nay cho thật hay ngài nhé. Kính ngưỡng. Tiện muội Ba Gấm”.
Tiếng hô cung bái của toán ngự binh rước vua lên long án để xem tuồng làm Trí Hải bàng hoàng tỉnh lại trước một màn "cứu nguy khẩn cấp" đang diễn ra như câu chuyện thần tiên có Bụt hiện lên giúp người hiền mắc nạn. "Ba Gấm, tên nghe dường như rất quen. Ba Gấm là ai mà lại viết được chữ Nôm với nét chữ thảo kỳ tú và tài hoa đến như vậy?" Trí Hải vừa sắp gióng tiếng trống đầu tiên chuẩn bị khai diễn thì phải dừng lại vì ông bầu Nam Sơn đã vội vàng đưa hai vị cầm chầu bên phải và bên trái đến thi lễ với Trí Hải để xin gác chầu nhường lại cho chầu bổ trở thành "chính chầu" trong buỗi diễn hôm nay. Sau khi vị đại khoa hưu trí cầm chầu bên phải ngỏ lời nhường chầu lại, ông bầu Nam Sơn giới thiệu người cầm chầu bên trái:
- Bẩm Hoàng thân đại nhân, đây là phu nhân quan lớn Tổng Chánh Chưởng Thân Binh tục gọi là "cô Ba Gấm". Phu nhân quan Tổng tuy là nữ lưu nhưng sự hiểu biết về văn sách kim cổ và tuồng tích nghệ thuật thì rất sâu rộng. Bởi thế, phu nhân là nữ đại gia duy nhất thường được mời cầm chầu hát bội. Xin trân trọng giới thiệu cùng đại nhân.
Trí Hải bị đặt giữa một sự bất ngờ quá lớn, thi lễ vội vàng và hỏi không thành câu:
- Ba Gấm... cái thư chữ Nôm?
Người phụ nữ đứng trước mặt Trí Hải chẳng mang một vẻ gì mệnh phụ phu nhân. Đó là một người đàn bà nhỏ nhắn, da trắng mịn hồng, mơn mởn. Miệng cười không thành tiếng với đôi môi cong cớn đầy vẻ thách thức nghịch ngợm của thiếu nữ đang độ xuân thì hơn là nét già dặn của một thiếu phụ. Một người đàn bà khó đoán tuổi chính xác vì mái tóc bồng cuốn gọn mà không bối cao kiểu miền Nam hay cuộn tròn trong khăn như đàn bà miền Bắc. Đôi mắt sắc nhẹ, thông minh, ẩn chứa nét trầm tư hơi mệt mỏi. Khuôn mặt tròn đầy, thanh tú, bắt nét hài hòa với sống mũi không cao lắm nhưng kín đáo nhu mì. Người đàn bà lẳng lặng, hai tay nâng dùi trống "nhường chầu" cho Trí Hải. Khi hai khuôn mặt tiến lại rất gần nhau, Trí Hải sửng người bắt gặp cái nheo mắt thoáng nhanh rất Tây Phương nói bằng những ngọn sóng vô hình ẩn dưới  giọng nói lí nhí:
- Dạ, bẩm phải... Ba Gấm.
Người đàn bà quay đi rất nhanh để tránh vô số những cặp mắt xung quanh đang đợi chờ, theo dõi. Trí Hải chỉ còn kịp nhận ra mùi nước hoa Marie Antoinette. Tiếng trống mở màn. Buổi diễn tuồng khởi động.
Rung động là một cảm xúc bất ngờ mở toang những cánh cửa cảm nhận ngoài tầm kiểm soát thường tình của con người. Có những sự rung động mơn man, nhẹ nhàng, yếu ớt đến rồi đi âm thầm và mất dạng lúc nào không hay. Nhưng cũng có sự rung động bất ngờ tạo ra những "chấn động dị thường", mở một khúc quanh mới trong đời mà con người không cưỡng lại nổi. Trí Hải đã buông tay khi sự chấn động dị thường đó vỡ ra trước cuộc cứu viện bất ngờ ở phút đỉnh điểm của sự bối rối vì không có một xu tiền thưởng cho đêm cầm chầu. Sự xuất hiện ngắn ngủi của người phụ nữ lạ lùng như đến từ một thế giới thần tiên nào khác. Lạ lùng vì nét chữ Nôm hiếm thấy, vì điệu bộ phương Tây còn quá mới mẻ với người dân thường và mùi nước hoa của một hoàng hậu nổi tiếng của Pháp đã bị đưa lên máy chém. Khuôn mặt mang nét đẹp đầy ẩn dấu và dáng vẻ chín muồi hương sắc cùng với lời trao gởi đầy bối rối, hay làm ra vẻ bối rối nửa vời, luôn luôn là sức mạnh lôi kéo tâm lý khám phá của người đàn ông. Tất cả  gom lại tạo ra sức cuốn hút nỗi đam mê của dòng máu nghệ sĩ ẩn dấu bao nhiêu năm trong Trí Hải. Nòi nghệ sĩ thường có một tinh lực. Đó là sự sắc bén nhạy cảm, là nỗi đam mê, là sức mạnh vô hình, nằm trong góc khuất của ý thức. Tinh lực ấy vẫn thường hằng và thể hiện qua muôn màu, muôn vẻ như mặt trống, như dây đàn, như tư tưởng sáng tạo. Nghệ thuật chỉ ngân lên, chỉ vang vọng khi có sự đánh động đúng thời gian và tầng số của sức mạnh tinh túy nằm sờ sờ mà bí ẩn một cách đầy mâu thuẫn đâu đó.  Sự đánh động có thể gióng lên bất ngờ trong một giây phút nào đó hay suốt một đời không bao giờ xảy đến. Tình yêu, đặc biệt tình yêu đam mê của nghệ sĩ, là tiếng ngân vang, là sự bốc cháy của tinh lực, là sự thiêu rụi toàn triệt hết những biên giới bình thường. 
Tiếng trống chầu làm nức lòng diễn viên và khán giả. Người nữ áo hồng ném tiền thưởng lên sân khấu thướt tha và khéo léo như điệu vũ uyển chuyển múa theo cùng tiếng trống. Chầu đơn thưởng thẻ bạc, chầu đôi thưởng thẻ vàng, chầu ba thưởng thẻ hồng bảo. Thẻ bạc sẽ được đổi ra 10 tiền, thẻ vàng 20 tiền và thẻ hồng bảo 50 tiền theo đơn vị và giá trị của đồng tiền "Gia Long thông bảo." Mỗi lần tiểu nữ áo hồng rướn người lên ném tiền thưởng, Trí Hải mường tượng như có bàn tay của cô Ba Gấm đang mơn man vỗ vào tiếng trống lan xa và bay cao đến vùng trời của nghệ thuật. Tuồng diễn càng về khuya, diễn viên và ông hoàng cầm chầu càng gắn bó không còn khoảng cách. Đào hiếm Nguyệt Nga và những kép độc Nam Xuyên, Minh Hùng, Sáu Út cùng dốc hết tài năng và bản lĩnh nghệ thuật để lột tả và sống thật với tâm lý và động thái của vai trò.  Qua điệu bộ, diễn viên phải diễn xuất bằng cả ánh mắt, nụ cười, dáng đi, cách ngồi, kiểu đứng để lột tả được hết lòng trung thành, tính nịnh hót, vẻ đoan chính, thói lẳng lơ... Cái xảo trá gian hùng, cái trung tín nhân nghĩa ở đời không bao giờ cũ nên có người xem đến thuộc nhẵn nằm lòng mà vẫn không thấy chán. Ngay một kiểu đi diễn tuồng gọi là "đi bộ hạ" của Châu Thương do kép độc Sáu Út thủ diễn cũng làm nức lòng khán giả. Châu Thương là tên cướp núi, khi gặp Quan Công là bậc cái thế anh hùng nên đã ví mình như lau sậy bên tùng bách; như con đom đóm đông tàn bên mặt trời mới mọc.  Chỉ một kiểu đi mà lột tả được tình cảm, thái độ, vị thế một cách tuyệt vời làm cho tiếng trống chầu vang lên từng hồi giục giã.
Đến cuối tuồng diễn, cả ba vai Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi hội ngộ để nhớ thuở Đào Viên kết nghĩa. Những câu Nói Lối sâu nặng tình nghĩa. Câu hát Nam cởi mở ân tình. Câu hát Khách với điệp khúc Đại quá trường anh hùng và dũng cảm làm cho tiếng trống chầu đổ dồn với âm vang hào hùng phấn khích. Tuồng hát chấm dứt với tiếng trống chầu dồn dập và tiểu nữ áo hồng vươn lên như gió lượn thảy nguyên cả khay thẻ còn lại lên sân khấu để tán thưởng.  Có tiếng của mội vị đại quan ngồi gần sân khấu cổ võ:
- Hát hay đổ khay là phải!
CHƯƠNG MƯỜI SÁU
Nợ ân tình 
Đêm cầm chầu của Trí Hải đã qua. Đoàn hát Phụng Vũ vẫn tiếp diễn những xuất hát mỗi đêm. Cuộc lưu diễn kéo dài đến cả hai tuần trăng mới hết. Dư vang của một đêm vui, một cuộc chơi, một lần gặp gỡ đạt đến trình độ tuyệt vời của cái đẹp tinh thần thường sống mãi trong trí nhớ của những người có mặt.  Trí Hải chỉ xuất hiện một lần. Sau Trí Hải, tiếng trống chầu đêm đêm vẫn len lỏi trong bầu không khí trầm lặng của kinh thành, nhưng khán giả coi đó cũng chỉ là sinh họat tự nhiên như tiếng mõ cầm canh.
Trí Hải trở về dinh ông Hoàng với nếp sống cũ, hay nói đúng hơn là cố gắng giữ nếp sinh hoạt đều đặn hàng ngày. Nhưng cái bình thủy tinh vô hình giữ mặt thủy triều lên xuống đều đặn của tâm hồn đã vỡ. Nước tràn lênh láng. Sự kêu réo của tâm hồn khi trăn trở bơ phờ, khi quay quắt mãnh liệt làm Trí Hải không làm chủ được mình trong tương quan với hoàn cảnh xung quanh. Đêm xuống giữa ban ngày và ngày lên giữa ban đêm là một chuỗi mộng mị bất thường của những tâm hồn vừa bước qua một khúc ngoặt tình cảm. Một tình cảm bỗng nhiên dậy thì, một trạng thái tâm lý mới mẻ xâm nhập Trí Hải không chống đỡ nổi.
Bên cạnh thầy Tiều và Phạm Xảo, Trí Hải không cô độc mà cảm thấy cô đơn. Sự cô đơn của một người đi loanh quanh để gặp lại dấu chân mình, trong một thế giới chưa hề có dấu chân ai chạm đến.
Trí Hải càng ít nói, đắm mình trong suy nghĩ, Phạm Xảo càng dè dặt. Riêng thầy Tiều thì vẫn cứ vô tư cười khúc khích. Dường như thế giới nầy đều là bạn đối với thầy. Loài vật cũng như cây cỏ xung quanh, tất cả đều rỉ rả trò chuyện không ngớt với thầy Tiều.
Chiều đến, ba người lặng lẽ vác cuốc trở về. Trên đường đi, Trí Hải nhìn về phía kinh thành thở dài. Bất ngờ, thầy Tiều tiến sát bên tai, cười cười nói nhỏ:
- Nhiễm sâu quá rồi. Khó gỡ...
Trí Hải tròn xoe mắt, hỏi lại:
- Nhiễm gì hở thầy?
- Nhiễm tình.
Tiếng "tình" có sức lay động mãnh liệt kéo Trí Hải về với thực tại:
- Tình nào? Tình gì? Sao thầy biết mà nói vậy?!
- Tiếng trống chầu đêm nọ nói hết rồi mà.
Cảm giác kỳ lạ cầm dùi trống trên tay, hình ảnh cô Ba Gấm nhẹ nhàng khuất trong đám đông và mùi nước hoa Marie Antoinette thoang thoảng như thật, như hư loáng hiện về. Trí Hải không dấu nổi sự xúc động hiện hình trong giọng nói:
- Ý thầy muốn nói đến tiếng trống chầu hát bội của tôi đêm nọ?  Thầy không đi xem hát sao biết? Ơ, mà cũng chẳng có gì. Cũng chỉ là những tiếng trống điểm chầu trong tuồng hát thế thôi. Chẳng khác...
Thầy Tiều lắc lư cái  đầu cười dễ dãi, trả lời:
- Tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng khánh, tiếng trống... đều có độ vang bền khác xa nhau tùy theo người tạo tiếng quý hữu à. Độ vang bền không phải là kết quả của bắp thịt mà là tiếng vọng và sức hút của hai trái tim. Trái tim tạo tiếng và trái tim nghe tiếng. Nếu trái tim Bá Nha tạo tiếng mà không có trái tim Tử Kỳ nghe tiếng thì làm sao có sự hoà điệu của tri âm. Tiếng chuông phát ra từ bàn tay của người có tâm sự u uất khác xa với tiếng chuông gõ nhẹ bởi bàn tay của vị xuất trần. Tiếng trống chầu của quý hữu trong đêm cầm chầu không u uất mà cũng chẳng xuất trần, nhưng nghe ra còn lắm đa đoan, nhiều hệ lụy giữa đời nầy.
Trí Hải hỏi dồn:
- Nguyên nhân nào từ trong tiếng trống đã làm cho thầy nghĩ như thế?
- Tiếng trống chầu đôi, chầu ba không khoan thai đều nhịp mà tiếng trước đuổi tiếng sau dập dồn như vừa đam mê, vừa lo sợ.
- Theo thầy thì từ đâu sản sinh ra nhịp trống chầu khác thường như thế?
Thầy Tiều đáp gọn lỏn:
- Sóng tình!
- Tình gì?
- Tình ái. Nỗi đam mê dính mắc của một sự rung động chợt đến.
- Làm sao để tránh nó?
- Muộn rồi!
- Sao lại muộn?
- Khối tình bên trong đã vỡ òa và đuổi theo một hình bóng...
Lần này đến lượt Trí Hải cười kiêu bạc:
- Biển dâu muốn tránh còn tránh được huống chi chỉ là một cuộc tình nam nữ.
Thấy Tiều nói lẩm bẩm:
- Tội nghiệp. Những người chưa bao giờ biết một tình yêu đích thực là gì mới cho rằng tránh được tình yêu dễ dàng như thế.
Chưa nghe rõ và hiểu hết ý thầy Tiều, Trí Hải hỏi lại:
- Theo thầy thì tình cảm trai gái là một "biến cố" mà khi đã xảy ra thì không thể nào tránh được sao?
- Tình cảm trai gái và quan hệ thường tình nam nữ khác với tình yêu quý hữu ạ.
- Như vậy tình yêu là gì?
- Là một trạng thái tình cảm đam mê, một ấn tượng tâm hồn sâu sắc, một sự gắn bó vô hình quấn quyện hai người tình với nhau mà chỉ có những người trong cuộc tình mới hiểu được.
- Thầy! Sao thầy đi tu mà lại hiểu sâu khái niệm tình yêu đến thế?
 Thầy Tiều lại cười khúc khích:
- Ơ! Vì tôi đã yêu. Yêu mình và yêu cả thế gian đau khổ nầy.
- Thầy lại trả lời theo kiểu "huề vốn" rồi!
- Lời to. Không huề vốn đâu.
- Lời?!
- Yêu sự đau khổ mà không bị đau khổ yêu lại thì nói theo giọng nhà buôn là "một vốn bốn lời" đó quý hữu à.
- Yêu mà không nhận yêu lại là ăn gian chứ thầy.
Thầy Tiều lại cười to hơn:
- Hay! Tu là cõi phúc, tình là... ăn gian. Ha, ha...!
Dáng thầy Tiều chỉ còn là cái bóng xa dần trên đường cỏ. Trí Hải lững thững trở về với Phạm Xảo; vừa đi vừa ngẫm nghĩ đến sự bén nhạy của thầy Tiều. Nghe tiếng chuông, tiếng trống mà hiểu được nỗi lòng thầm kín của kẻ tạo tiếng và cảm xúc thực sự của người khua chuông, gióng trống thì quả thật xưa nay hiếm. Lời thầy Tiều như một chén nước lạnh đổ thêm vào khối cảm xúc đang run rẩy, ướt đẫm của Trí Hải. Bản chất kiêu hãnh dấu kín của một ông hoàng, sự thông minh uyên bác của một thiện tri thức và sự nhạy cảm, khao khát sống vỡ bờ của một nghệ sĩ càng làm cho Trí Hải thấy được sự yếu đuối tình cảm của mình. Mặt hồ phẳng lặng vừa bị cả một trái núi rơi xuống. Sự xao động dữ dội không ngờ. Hơn nửa đời người, Trí Hải vẫn chưa từng kinh qua cơn say tình cảm như thế bao giờ. Lần đầu say chếch choáng vì nếm phải một thứ rượu cấm không thể nào uống được làm Trí Hải muốn phủ phục, ngửa mặt đón từng giọt hiếm. Nhưng cùng lúc có những khuôn mặt dữ tợn, những bàn tay đầy đe dọa vươn ra từ phía sau kéo Trí Hải bước lùi lại. Thiên thần và ma quái cùng xuất hiện một lần khiến Trí Hải vừa say mê vừa chống lại.
Có bóng người thấp thoáng ngoài ngõ. Phạm Xảo ra đón và trở vào ngỏ lời với Trí Hải:
- Có khách. Một người nữ muốn vào gặp hoàng thân để trao thiệp.
Trí Hải đồng ý mời vào. Thì ra, đấy là cô gái ôm khay thẻ tiền thưởng trong đêm cầm chầu. Với phong thái nghiêm cẩn đến khô khan so với dáng vẻ trẻ trung và mềm mại của mình, cô gái đặt một phong thư nhỏ lên chiếc khay rút ra từ túi xách mang theo bên mình, chắp tay thi lễ và thưa:
- Bẩm hoàng thân đại nhân, Chánh Chưởng Phủ phu nhân xin gửi thiệp này đến đại nhân. Kính xin ngài chiếu cố khai thiệp.
Trí Hải chưa vội với tay nhận thiệp mà đuổi theo dòng suy nghĩ mông lung với ý nghĩ tức thời rằng, đây hẳn là cái thiệp ngõ lời xin đến gặp của cô Ba Gấm. Những nỗi dao động tình cảm, suy tư nằm sâu kín từ đâu trong mấy ngày qua lũ lượt ùa đến. Bên này là sự mời gọi êm đềm: Cô Ba Gấm, quan Chánh Chưởng phu nhân, người đẹp chín muồi không dấu vết tuổi tác, một mạnh thường quân hào sảng nặng tình nghệ sĩ với nét vẽ vời thư pháp tài hoa. Từ chối không gặp lần này là mặc nhiên tiếp tục đóng kín cánh cửa của một đời khổ hạnh. Bên kia là chướng ngại đầy gai góc: Nhân luân, phẩm hạnh, hoàng tộc, triều đình, tiếng tăm, vinh dự. Nhận lời gặp mặt là mở cửa cho khát vọng tình cảm bùng lên. Trí Hải nhắm mắt định thần trong giây lát. Trực giác tự nhiên cho biết là cánh cửa địa ngục và thiên đường đang từ từ hé ra. Đam mê và đau khổ, địa ngục và thiên đường có khi chỉ là hai mặt chẵn, lẽ của một số phận thật mong manh và phi lý. Có một câu thần chú nào, một lời nguyện cầu nào linh ứng cho phút giây nầy. Có một chỗ dựa nào cho con người muốn sống thực, nhưng vẫn phải nói chuyện bâng quơ hoài trên sân khấu cuộc đời...
Tiếng cô gái nhỏ nhẹ nhắc đến lần thừ ba:
- Cung thỉnh đại nhân khai thiệp.
Trí Hải giật mình cầm lấy cái thiệp trên khay và mở ra. Vẫn mảnh giấy hoa tiên và nét chữ tài hoa bay bướm. Nhưng nội dung bức thư bằng chữ Nôm không phải là một cái thiệp xin tiếp kiến bình thường, mà là một cuộc hẹn gặp đầy quyết đoán, không cho Trí Hải một sự lựa chọn nào hơn là phải đến gặp người viết thư. Thư viết rằng:
"Kính bẩm Hoàng thân đại nhân. 
Trước hết tiểu thiếp xin kính lời vấn an đại nhân. Mục đích thư nầy là thỉnh ý đại nhân cho tiểu thiếp được một dịp hội kiến với ngài để thanh thỏa vấn đề tiền thưởng trong đêm cầm chầu hát bội vừa qua. Dù cho đại nhân có chiếu cố chuẩn lời quá bộ đến hay không thì tiểu thiếp cũng sẽ chờ nơi nhà kiếng trong vườn cây cảnh của Tâm An vào giờ Ngọ ngày mai, mồng hai tháng Tám. Đa tạ đại nhân.
Kính bút. Ba Gấm."
Người tiểu nữ đã ra tới cổng ngoài mà Trí Hải vẫn còn ngồi đắm mình trong suy nghĩ. Một trời hương hoa lãng mạn bay đâu mất. Cái thiệp rõ ràng chỉ là một cái thư đòi nợ. Giọng điệu trong thư khô khan và rạch ròi như một tờ thông báo hợp đồng thương mãi. Sự thất vọng từ đâu biến thành cái buồn chợt đến. Ngăn kéo tâm hồn sâu kín nhất trong Trí Hải đã báo động lầm về một hiện tượng tình cảm xảy ra đột ngột. 
Trí Hải uể oải đưa cái thiệp cho Phạm Xảo xem với lời bình luận mệt mỏi pha một chút lo lắng:
- Thanh toán tiền thưởng bằng cách nào đây huynh?
Phạm Xảo xem qua tờ thư, cười cười nhận xét:
- Có lẽ vì tôi xuất thân là con nhà tướng nên nhìn thư nầy có khác. Trong binh thư có nói: "Dụ tướng không gì bằng khích tướng." Cô Ba Gấm đem chuyện nợ nần ra để khích hoàng thân phải đến tận điểm hẹn vì lòng tự trọng chứ không thể chối từ. Chữ dùng rất khéo là "thanh thỏa" chứ không phải là "thanh toán" vấn đề tiền bạc. Nếu đây chỉ là một cái thư nhắc nhở chuyện tiền bạc tầm thường thì người viết không thể nào là một người nổi tiếng như cô Ba Gấm.
Trí Hải thắc mắc:
- Tôi chỉ biết Ba Gấm là phu nhân quan Chánh Chưởng. Thật ra bà ấy là ai và nổi tiếng như thế nào thì tôi không rõ. Huynh cũng biết về bà ấy?
- Nhiều năm qua tôi chỉ quanh quẩn trong dinh nầy nên ít biết chuyện bên ngoài. Riêng trường hợp cô Ba Gấm thì không biết cũng phải biết vì từ hàng nông dân nghèo khổ đến bậc quyền quý giàu sang đều nhắc đến "Ba Gấm" hàng ngày trên cửa miệng.
- Sao lạ vậy? Nhắc đến để làm gì?
- Tất cả mọi kiểu gấm vóc, tơ lụa dẫu có đắt tiền, đẹp đẽ đến đâu mà không mang nhãn hiệu "Ba Gấm" đều bị coi như là hàng tiểu phẩm quê mùa. Hàng đại quan, hàng triều thần lương đống, hàng quý tộc cho đến cung tần, mỹ nữ... hễ có dịp gặp nhau đều tò mò tìm một dấu hiệu ở một nơi nào đó trên áo để coi có phải đang mặc hàng Ba Gấm hay không. Những người lao động, những kẻ chân lấm tay bùn... cũng ước mơ có ngày được mặc hàng Ba Gấm.
Trí Hải vừa ngạc nhiên vừa tò mò vói tay lấy cái áo lễ hội đã hơi cũ do một người giàu có trong hoàng tộc may tặng, đưa cho Phạm Xảo xem, rồi hỏi:
- Thế cái áo nầy có phải là hàng Ba Gấm không huynh?
Phạm Xảo nhận ra ngay nhãn hiệu Ba Gấm từ góc cổ áo và chỉ cho Trí Hải:
- Chính hiệu. Cái nhãn hiệu cành hoa ba lá, nhỏ cỡ móng tay, thêu bằng chỉ nhung nầy là dấu hiệu đặc biệt của hàng Ba Gấm. Đơn giản thế mà bao năm rồi không ai giả được, hay không dám giả, nên càng làm cho hàng Ba Gấm tăng thêm giá trị và nổi tiếng lừng lẫy hơn. Cái áo hàng Ba Gấm đắt giá hơn cả chục lần so với cái áo cùng loại mang nhãn hiệu khác.
Nhìn vào cành hoa ba lá thêu chỉ nhung, Trí Hải không nói gì. Phạm Xảo nhăn mặt kêu lên:
- Cái áo chỉ là phương tiện che thân thôi, tại sao người ta lại chuộng những hình thức phù phiếm đến như thế?
- Cái dụng thường có giới hạn, nhưng cái đẹp thì vô cùng. Vì vô cùng cho nên vô giá. Nụ cười của Bao Tự đáng giá cả sự nghiệp của quân vương cũng chỉ vì cái đẹp.  
Mỗi người đuổi theo một ý nghĩ riêng. Đêm tháng Tám bắt đầu lạnh.
Mặt trời càng lên cao trên đỉnh mái, Trí Hải càng bồn chồn. Trong lặng im của hai người, chỉ có tiếng Phạm Xảo cất lên đầy quyết đoán:
- Hoàng thân phải đi thôi. Dẫu không có một đồng dính túi nhưng hoàng thân còn có cả một vòng hào quang ẩn hiện trong lòng người. Nếu nói như hoàng thân hôm qua thì hào quang đó cũng là cái đẹp. Biết đâu cái đẹp nầy cũng có giá riêng của nó và có thể trả được nợ nần.
Trí Hải đặt tay lên vai Phạm Xảo. Người bạn già mang bản chất ngay thẳng của con nhà tướng nầy đối diện với thực tế một cách thật thà nhưng cũng đầy cảm động.
Mặt trời sắp đứng bóng. Trí Hải men theo con đường nhỏ ngập lá mùa Thu đi về khu vườn cây cảnh của Tâm An, lòng không yên với nhiều ý nghĩ mâu thuẫn. Gặp người thân thiện là một niềm vui; gặp kẻ thương quý là một nguồn hạnh phúc; gặp nhân vật ngưỡng mộ là một ân sủng; gặp phường gian dối là một tai họa... Nguồn suy tư đầy tràn bỗng giật mình trống không khi Trí Hải vừa nhận ra cái bóng thấp thoáng của Ba Gấm sau những tàn cây cảnh. Tâm An bỏ đi nhưng vẫn mướn người chăm sóc ngôi nhà thiền và khu vườn quý hiếm bởi có cây kỳ Nam cổ mộc. Khu vườn đẹp dáng mơ phai vì nhiều cây đã chuyển màu sang Thu.
Và đứng ở đó, nơi khu vườn vắng vẻ xao xác lá mùa Thu là một nàng Liêu Trai - nếu Liêu Trai là người đẹp thường giả dạng dưới muôn vàn hình tướng - Quả thật trước mắt Trí Hải là một nàng Liêu Trai vì không thể có người thật ở xứ này lại ăn mặc kiểu cách vừa Âu vừa Á đẹp kiêu sa đến như vậy. Tóc không bối hay quấn thả đuôi gà mà cột cao, thắt bím hồng, để lộ cần cổ trắng ngần man dại. Áo vải thô Tây bó sát ngực và phần dưới xòe ra như áo kép tứ thân. Dáng đi thoải mái, trẻ trung chứ không điệu bộ kiểu cách kiểu các bà mệnh phụ. Nhìn kỹ, thì vẫn là đôi mắt nhung thăm thẳm vừa thông minh sắc sảo, vừa kỳ bí dịu dàng.
Trí Hải tiến tới chào trước:
- Kính chào Chánh Chưởng phu nhân. Thật là vạn hạnh mới được diện kiến phu nhân ngày hôm nay.
Người đàn bà đáp lại bằng nét cười tươi, nhưng đôi mắt vẫn không cười cùng cửa miệng. Đôi mắt đẹp mở to, dò hỏi. Đôi mắt có sức cuốn hút người đối diện vì nét kiêu sa và bí ẩn. Đôi mắt quyết đoán và lạnh lùng trong cách nhìn, nắm bắt đối tượng; nhưng đa tình và lãng mạn khi diễn đạt:
- Dạ, kính chào hoàng thân đại nhân.
Một thoáng yên lặng hơi bỡ ngỡ làm Trí Hải có cảm tưởng như mình đang bị chới với trong tầm quan sát của người trước mặt. Người đàn bà lại lên tiếng, phá vỡ mảnh im lặng khó khăn:
- Thưa hoàng thân, có thể nào chúng ta giải quyết ngay chuyện vay trả liên quan đến những thẻ thưởng trong đêm cầm chầu hát bội không ạ?
Lúng túng vì một đời chưa quen với việc vay mượn bao giờ, Trí Hải hỏi mà không biết câu trả lời sẽ về đâu:
- Vâng, tôi cũng đang mong như thế nhưng trả bằng cách nào xin phu nhân cho biết.
Người đàn bà cười rất thoáng, nửa như nghịch ngợm trêu chọc, nửa như chân thành kính cẩn, trả lời:
- Vay một lần thì phải trả một lần cho hết mà thôi, thưa đại nhân.
Sự căng thẳng tinh thần nằm trong giọng nói của Trí Hải:
- Có lẽ đó là cách hợp lý nhất. Vậy, thưa phu nhân, tổng ngân khoản của toàn khay tiền thưởng là bao nhiêu?
- Là vô giá, thưa ngài.
- Xin phu nhân vui lòng nói rõ hơn...
- Là vô giá. Cái dụng thường có giới hạn, nhưng cái đẹp thì vô cùng. Vì vô cùng cho nên vô giá.
Trí Hải giật mình vì nhận ra đây là câu mình nói với Phạm Xảo hồi đêm, nhưng cũng rán hỏi, ngập ngừng:
- Ý này tôi nghe đâu... quen quen?
Người đàn bà bỗng cười khanh khách. Tiếng cười giòn, vui làm nứt rạn bức rào chắn hình thức nghi lễ giữa hai người. Người đàn bà hết cười, cắn môi, mặt nghiêm lại và đôi mắt trở nên buồn thăm thẳm như đang để buông trôi về một dĩ vãng:
- Của tác giả hoàng thân Trí Hải viết chung với cậu ấm Nguyễn Văn Thuyên trong sách Phù Sinh Ký đó ngài ạ.
Thảng thốt đứng bật dậy từ chỗ ngồi đối diện với người đàn bà, Trí Hải chưa tin hẳn những điều mình vừa nghe là có thật, hỏi dồn:
- Phù Sinh Ký? Tác phẩm đầu tay của ta đã bị thiêu hủy sau vụ án "văn chương phản nghịch" ấm Thuyên?
Người đàn bà vẫn ngồi điềm nhiên, giọng xa vắng có vẻ như đang nói với những kẻ vô hình năm cũ:
- Không chỉ Phù Sinh Ký mà năm tác phẩm khác về Thi, Thư, Chuyện, Ký, Sử của đại nhân vẫn còn nguyên vẹn.
Hy vọng bừng lên trong tuyệt vọng khiến Trí Hải than van một cách yếu ớt:
- Tất cả đều bị thiêu hủy. Không ai dám chống lệnh triều đình khi tả quân Lê Văn Duyệt là quan chấp sự của vụ án.
- Thưa hoàng thân, đúng là như vậy.  Nhưng  nội tình có khác. Việc thu sách và đốt sách được tả quân giao cho quan Chánh Chưởng.
- Ô như vậy cho nên phu nhân có cơ hội dấu một số sách không đốt?
- Dẫu sao thiếp cũng là người nhà của quan Chánh Chưởng, nên nếu muốn thì cũng có nhiều cơ hội để dấu sách, nhưng cả tàng thư của ấm Thuyên và bằng hữu có được bao nhiêu cuốn sách hay đâu mà phải mất công dấu diếm. Sách Tàu thì toàn cả kinh sử Trung Hoa xưa cũ. Sách ta thì rặt thơ văn ngâm hoa vịnh nguyệt vu vơ.  Hơn nữa, thiếp không muốn vi phạm luật của triều đình đã ban ra.
Trí Hải nóng lòng hỏi cho ra sự thật:
- Nếu đã không cất dấu thì làm sao phu nhân còn giữ được những cuốn sách vừa kể trên?
- Chép. Luật triều đình không ghi điều cấm chép sách.
- Chép?! Như thế phải cần có một ban sao chép bao nhiêu người và phải làm việc mất trong bao lâu?
- Dạ, một mình! Phải chép xong trong bảy ngày đêm để cho quan Chánh Chưởng kịp thi hành án lệnh khẩn cấp.
- Lẽ nào chỉ một mình phu nhân mà chép hết mấy nghìn trang sách trong bảy ngày đêm?
- Mẹo tốc ký chấm phá của Vương Hy Chi đời Tấn và Vũ Bá Thiên đời Đường có thể giúp ghi lại cả trang sách trong dăm ba dòng bằng ký hiệu. Khi đã thích thì việc chép lại những dòng kim cổ hùng văn, những áng thiên hạ danh văn trở thành nỗi đam mê không mỏi mệt.
- Về sau ai chép lại từ ký hiệu tốc ký ra văn thường?
- Thiếp!
- Vẫn chỉ một mình?
- Dạ.
- Bao lâu?
- Ba năm.
Trí Hải từ từ nhắm mắt lại. Những hàng nước mắt chảy thành dòng.
Có từng quằn quại vì một câu thơ, từng dõi ánh mắt trỏm sâu vào đêm khuya một mình, từng xác để giữa đời mà thần trí chơi vơi bên khung trời cao viễn mới thấm hiểu dòng nước mắt ngắn dài của Trí Hải. Nghệ sĩ là người mang nghiệp nặng giữa trần gian. Sáng tạo nghệ thuật có khi chỉ là những con đom đóm ma trơi. Con đom đóm không sáng bằng một giọt nắng mặt trời, nhưng nghiệp tiền kiếp muốn đốt hết xác thân của nó thành ánh sáng. Có thể chẳng soi đường cho con kiến cỏ, nhưng con đom đóm vẫn cứ đốt sáng cho hết một kiếp lập lòe bay bổng hay nằm bẹp dí dưới những gốc cỏ dại vô danh. Nó chỉ có một đời và dám sống hết một đời cho bóng tối.
Từ từ mở mắt, nhìn sáu cuốn sách bọc trong gói lụa đào vừa được Ba Gấm mở ra, Trí Hải dang tay vươn tới. Một tay đặt lên mân mê từng cuốn sách, một tay đặt lên vai Ba Gấm như một cử chỉ gần gũi biết ơn, nghiêng mình trân trọng. Trí Hải nói như trong cơn mộng du:
- Ô! Sách cũ vẫn còn? Thưa phu nhân, Ba Gấm...
Nỗi nghẹn ngào làm cho người đàn ông hóa đá. Nhưng cơn hoá đá chỉ là một thoáng qua mau. Trí Hải rụt tay lại. Đã muộn. Bàn tay nuột nà và ấm áp của Ba Gấm đã kịp giữ bàn tay Trí Hải nằm yên trên vai mình. Ba Gấm, giọng lạc đi vì xúc động:
- Hoàng thân, đại nhân.  Ngài... Huynh... Muội hiểu.
Hiểu. Có khi không cần tri thức mà chỉ cần biết mở tung cánh cửa tâm hồn đúng lúc để cho sự cảm xúc ùa vào. Ba Gấm đã từng có những cảm xúc ngây hồn và nỗi rung động tê dại khi một mình chép những dòng văn tài hoa và lãng tử của Trí Hải. Chữ như gươm, ý như lửa đi khai phá những con đường tươi mới. 
CHƯƠNG MƯỜI BẢY
Đời Cung Nữ 
Gia đình Ba Chiêu đã năm đời trồng dâu, nuôi tằm, lấy kén, ươm tơ và dệt lụa. Tơ lụa Ba Chiêu dệt bằng những xe tơ quay tay và khung cửi đạp bằng chân. Mặt hàng gồm cả hàng, lụa, thao, đũi, nhiễu... Dâu xanh nuôi tằm quanh năm tươi tốt nên kén vàng óng ả. Lụa Ba Chiêu mịn, bóng và có vẻ sang trọng hơn là các mặt hàng tơ lụa buôn từ Tô Châu, Hàng Châu và Thượng Hải đưa qua nên rất được ưa chuộng trong giới quyền quý ở kinh thành.
Khách thường trực quanh năm là các ông hoàng bà chúa. Họ là những hoàng thân quốc thích được phong tước và chia đất tùy theo thứ bậc. Căn bản kinh tế là sống bằng lợi tức, xâu thuế thu từ nông dân trong từng thôn ấp được chia. Một số hoàn cảnh, nguồn thu nhập giới hạn không đủ cung ứng cho nếp sống vương giả nên họ thường lâm vào cảnh nợ nần vì quen ăn ngon mặc đẹp.
Liên tiếp hai năm Thân, Dậu mất mùa, sự nghiệp canh cửi, vải vóc của gia đình Ba Chiêu cũng kiệt quệ theo số con nợ mỗi ngày một lớn, không có tiền để trả. Chủ nhân một gia đình quý tộc ở kinh thành có thế lực và ảnh hưởng lớn ở cung đình đến gặp Ba Chiêu, tuyên bố thẳng là hoàn cảnh kinh tế của họ đã kiệt quệ, không thể nào đủ sức trả món nợ quá lớn về số vải vóc đã mua trong mấy năm qua. Cuối cùng hai bên đi đến chỗ thương lượng là viên quý tộc sẽ đưa Ba Gấm, cô con gái út của gia đình Ba Chiêu vào nội cung để xóa nợ.
Ba Gấm ra đời khi gia đình Ba Chiêu khá giả nhờ nghề nuôi tằm, lấy tơ dệt lụa. Chỉ có lụa Ba Chiêu mới địch nổi với tơ lụa Hàng Châu của Trung Hoa. Gia đình toàn con trai, nên khi sinh được một cô con gái, cả gia đình Ba Chiêu sung sướng và trân quý cô con gái út vô cùng. Ba Chiêu muốn cô gái út phải thoát ra khỏi cảnh ruộng lúa, nương dâu của nghề tang tằm khó nhọc. Sự “đổi đời” đầu tiên là khi Ba Chiêu mang lễ vật đến thỉnh ý cụ Nghè. Cụ là bậc đại khoa hưu trí duy nhất ở trong vùng để xin một cái “tên chữ” cho cô gái út. Cụ Nghè vuốt râu dạy rằng, người con gái quý nhất là đức hạnh và vẻ đẹp tự nhiên làm cho người “quân tử” cầu cạnh mong được gần gũi. Theo lời cụ Nghè, người đẹp ví như gấm, như hoa. Cho nên cụ đặt tên cho cô gái út là Hoa Gấm. Nhưng khi cụ chấm ngọn bút lông vào giấy hồng đào để viết lên hai chữ Hoa Gấm thì bỗng dừng tay lại. Cụ phải kiêng húy. “Hoa” là trọng húy nên cụ theo trào lưu “kiêng cử” chung bằng cách đổi “Hoa” thành “Ba”; Hoa Gấm thành Ba Gấm. 
Giấc mơ đổi đời cho cô gái út bay bổng xa hơn khi viên quý tộc mắc nợ vải vóc gạ gẫm rằng, ông ta có người em làm quan tuyển cung, nên việc đưa những cô gái đẹp như Ba Gấm vào nội cung làm thê thiếp của vua chẳng có gì khó cả. Quan tuyển cung chuyên tìm gái đẹp tiến cung. Mục đích là để sung vào đội nữ binh trừ bị, chờ đợi cơ hội được làm thê thiếp của Vua. Ba Gấm sẽ được đưa vào vị thế chờ đợi đầy hy vọng. Mong được có ngày “dựa mạn thuyền rồng”, trở thành hoàng hậu. Với hàng dân dã như Ba Chiêu, thì cái bánh vẽ “hoàng hậu” là ánh sáng vinh quang chói lọi, mấy ai dám ước mơ.  Lòng thương con đã thắng. Gia đình Ba Chiêu đưa Ba Gấm vào cung với hy vọng tràn đầy vào một tương lai huy hoàng đang chờ cô con gái út.
Đối với hàng dân dã, nếp sống cung đình sau lớp hào lũy và hoàng thành uy nghi, kiên cố hoàn toàn là một thế giới khác. Thế giới có vẻ gần với thần thoại của các bậc đế vương trong cổ tích. Một thiếu nữ đã được đưa vào cung cấm là bước qua một thế giới vẫn sống, nhưng cuộc đời rẽ sang kiếp khác, kiếp của một con người sống trên cùng một hành tinh nầy, nhưng không mong ngày trở lại với cuộc đời thường. Trong dân gian, những vùng quanh Huế, khi nói đến "đưa con vô Nội" là có ý nói một đứa con đưa vào cung cấm sẽ vĩnh viễn mất đi. Một khi đã được tuyển vào cung, các phi tần, cung nữ không còn được phép gặp mặt bất cứ ai ở bên ngoài nữa. Họa hoằn trong những trường hợp đặc biệt hiếm hoi, nếu cha mẹ được đặc ân cho phép vào Đại Nội thăm con, thì cũng chỉ có thể nói với con qua một bức sáo, chứ không được phép nhìn thấy mặt con.
Thế nhưng, cái tâm lý "một ngày dựa mạn thuyền rồng, còn hơn muôn kiếp ở trong thuyền chài" vẫn thôi thúc các bậc cha mẹ mơ ước những đứa con gái đẹp nhất, khéo nhất, ngoan nhất của mình gặp dịp may nghìn năm một thuở nào đó, được tiến cung và sẽ có cơ hội làm vợ vua. Con được tuyển vào cung cấm, được hầu hạ vua giữa chốn triều đình là cả một sự vẻ vang không những cho cha mẹ, gia đình mà còn là niềm vinh quang của cả dòng họ, tiếng vang chung cho làng xã, tỉnh thành.
Ba Gấm được đưa vào cung. Cô bé dân dã lớn lên trong khung cảnh làm lụng hái dâu, nuôi tằm, dệt lụa cùng với gia đình trở thành cung nữ. Thế giới mới hoàn toàn xa lạ với cô bé bình dân chưa ra khỏi lũy tre làng. Một thế giới đàn bà được tuyển chọn vì nhan sắc, vì địa vị xã hội có cha ông là quan lớn trong triều hay vì có tài năng trội bật trong thiên hạ... nhưng tất cả đều có một mục đích cao nhất và cuối cùng là được hầu hạ, cung phụng, phục vụ, hiến trọn đời mình cho một ông vua.
Cũng như các cung nữ mới tuyển, Ba Gấm được đưa vào Viện Đoan Trang. Đây là nơi tập sự cho những con chim non đang tập tểnh bước vào đời cung cấm. Trong thế giới Tam Cung, Lục Viện uy nghi, lạnh lẽo nhưng cũng xô bồ, hừng hực muôn thứ lửa đua tranh này, mỗi người đàn bà là một mảnh thân phận sẽ trôi theo dòng sông lạnh lùng, không còn sự mơ mộng đợi chờ của “mười hai bến nước”. Ngoài các thái giám trơ lì phi giới tính, không có một bóng đàn ông nào được đặt chân tới nơi nầy. Từ viện Đoan Trang, lên tới viện Đoan Tường, viện đoan Huy, viện Đoan Hòa, viện Đoan Thuận, viện Thuận Huy là một cuộc hành trình đầy gai góc. Càng ngày Ba Gấm càng khám phá ra rằng, cung nữ chỉ là một người đầy tớ gái trong cung vua. Như con mèo chẳng bao giờ thành con cọp, cung nữ là kẻ hầu hạ suốt đời đủ hạng người trong cung vua. Hầu hạ từ những bà cung phi già có, trẻ có cho đến những đứa bé sơ sinh con vua, cháu chúa… Chẳng bao giờ có cơ hội làm được gì cao hơn. Nhìn được dáng vua từ đằng xa đã khó, nói chi đến giấc mơ hoàng hậu, ái phi bên vua.
Ngay cả những người đẹp được tuyển vào cung làm thê thiếp của vua, phần đông, đều mang số phận hẩm hiu “cung oán”. Biết bao giai nhân khi vào viện Đoan Trang là một trinh nữ và ra đi, nhắm mắt lìa đời, là một… “trinh lão” mà vẫn chưa một lần thấy mặt quân vương. 
Ba Gấm tập làm cung nữ là tập bỏ thói đời thường để tự dọn mình và được uốn nắn thành một mẫu người riêng trong cung cấm. Cách ăn mặc cũng phải thay đổi từ trong ra ngoài. Cách nói năng cũng phải dè chừng, cẩn trọng, tinh tươm, đài các trong mỗi một lời ăn tiếng nói. Với các bậc quyền quý ăn thì phải gọi là "thời". Vua ăn cơm thì phải nói là vua "ngự thiện". Vua bệnh thì gọi là vua "se". Vua ngủ thì gọi là "ngơi", thức dậy thì gọi là "tánh"... Thà ngậm miệng suốt ngày, còn đỡ khổ hơn là nói ra mà phạm húy bị phạt. Sự kiêng cử gọi tên tục của vua sống, của các đấng tiên vương, các bà vợ được vua sủng ái, các nhân vật quan trọng trong hoàng tộc đã làm cho ngôn ngữ triều đình cũng bị nhốt vào cung cấm. Các cung nữ mới nhập cung phải biết nhớ việc kiêng húy trước khi nhớ cha, nhớ mẹ. Phải biết tránh hay "nói trại" âm “ánh” (tên tục của vua Gia Long) thành "yếng", long thành "luông", cảnh thành "kiểng", hoa thành "huê", nguyên thành "ngươn", nghĩa thành "ngãi"... Cả một chuỗi trọng húy (tên các vua) và khinh húy (tên các thân thích của vua) dài lê thê phải học thuộc nằm lòng mà hầu hết toàn là những tiếng xa lạ với cuộc sống ngoài cung cấm.
Sau những tháng ngày được dạy dỗ chi ly, tập tành cặn kẽ ở viện Đoan Trang, toán cung nữ mới  được đưa vào các viện khác trong lục viện Tử Cấm Thành. Ba Gấm  được gửi đến "học", nhưng thật sự là chỉ để hầu hạ các cung nữ về già. Cung nữ vào độ tuổi 30, 40 là đã xem như hết thời hương phấn. Niềm hy vọng duy nhất và cuối cùng của một đời người là được kề cận với vua dần dần lịm tắt.
Ba Gấm chưa bao giờ biết đời người con gái có nỗi cô đơn nào ghê rợn hơn là số phận người cung nữ về già bị quên lãng. Tất cả những người đẹp được tuyển vào cung cấm đều có chung giấc mơ và nỗi ám ảnh thường trực là đem phận má hồng đi làm vợ cho một người... ông vua. Nỗi hy vọng và lòng mong đợi lóe lên trong từng khắc. Tiếng tăm, tước vị, quyền hành là lớp vỏ huy hoàng, nhưng nỗi chờ mong rạo rực nhất của tuổi thanh xuân khi vào cung cấm là chuyện ái ân. Phấn son, xiêm áo mỗi ngày cũng chỉ là phương tiện để một người đàn bà chuẩn bị thế sẵn sàng được nhìn ngắm, được vuốt ve, được thương yêu và ân ái. Nhưng im lặng là sự tàn nhẫn cùng tột của khát vọng. Nỗi đợi chờ tiếng gọi của vua càng ngày càng quá cao vời, mất hút ngoài tầm tay với. Người cung nữ cố trốn chạy niềm tuyệt vọng, nhưng tuyệt vọng là bàn tay quỷ quái càng ngày càng siết chặt. Khi con người mang tâm lý tuyệt vọng thì dễ xa người thường để về gần với thánh thần hay ma quỷ. Họ phải tự tử hay ứng xử một cách cực đoan, phản kháng để thách đố và đương đầu với cô đơn và tuyệt vọng. Họ phải làm gì để bù lại cho cái duyên kiếp phũ phàng của họ. Đời cung nữ bị lãng quên là tiếng rên dài trong vắng lặng.
Khác với chuyện thần tiên ngày xưa mẹ kể. Sau ba vòng thành quách huy hoàng của chốn hoàng cung là những khuôn mặt đanh lại, lạnh dần vì thiếu vắng nụ cười âu yếm. Giữa vòng thành tím trơ trơ của Tử Cấm Thành, con người sống cho mình chưa đủ, còn đâu hương hoa dư thừa mà chia sẻ. Những tia nhìn không còn biểu cảm gần với thảo mộc vì bị cấm cung hàng chục năm trường không có tình yêu hay đối tượng để mà yêu. Giọng nói the thé và cách sai bảo, ra lệnh thẳng thừng của các "tỷ tỷ" bằng tuổi mẹ mình làm Ba Gấm nhiều lần run rẩy. Cố cúi mình thật thấp để sống, để làm vui lòng các bậc trên mình. Nhưng dù có cố mềm mỏng đến thế nào chăng nữa thì Ba Gấm cũng là kẻ thù một cách vô hình chung đối với lớp cung nữ già. Vũ khí đáng sợ nhất mà Ba Gấm đang mang trên người: Tuổi trẻ!  
Nhiều lớp lá mùa Thu xếp thành tầng trên khung nhà kiếng làm cho ngôi nhà trở nên mờ ảo dưới cơn nắng xế chiều. Lần đầu trong đời, Ba Gấm kể lại đoạn đời cung nữ của mình cho một người nghe.  Giọng kể khi muộn phiền tủi cực, khi dửng dưng khô khan, khi ngậm ngùi xúc động; rồi bỗng đột ngột dừng lại. Ngừng kể không phải để kết thúc câu chuyện mà để chắp lại những mảnh rời của ký ức về một sự tình cờ đã làm chuyển hướng, thay đổi hẳn cả đời mình.
Trí Hải dè dặt gợi ý:
- Thế rồi, phu nhân làm sao thoát được đời cung nữ?
Ba Gấm nói như đùa nhưng với đôi mắt nhìn thẳng vào người đối diện bằng tất cả vẻ dịu dàng và chân thật:
- Chỉ nhờ một miếng vá thôi huynh ạ.
Trí Hải ngỡ như nghe lầm, hỏi lại:
- Một miếng vá? Miếng vá gì mà kỳ diệu đến như vậy?
- Thì cũng chỉ là miếng vá áo rách thôi. Nhưng đây là chiếc áo đại triều của hoàng tử.
Nguyên nhân của những biến cố làm thay đổi con người và hoàn cảnh nhiều khi cũng chỉ là sự tình cờ. Một vị thái giám mới được tuyển vào cung đã lỡ tay rơi đổ cây đèn, làm cháy xém một miếng bằng nửa bàn tay trên chiếc áo quý của hoàng tử. Vì chiếc áo may bằng một loại tơ sợi quá đặc biệt, quý hiếm; trên áo lại điểm thêu rực rỡ, nên không một cung nữ nào có khả năng vá lại mà có thể hoàn toàn che được dấu vá. May một chiếc áo mới cho nghi lễ đại triều phải mất hàng tháng trời, trong khi cuộc lễ thiết đại triều nghi gần kề. Ba Gấm nhận lãnh việc khâu lại chỗ rách. Vốn đã quen nghề thêu thùa kim chỉ, dệt lụa, đan khâu từ hồi còn bé, Ba Gấm miệt mài làm trong ba hôm là chiếc áo liền lặn lại như cũ. Đường kim mũi chỉ vừa thêu, vừa khâu, vừa đan, vừa dệt của Ba Gấm khéo đến độ nhiều người xúm lại cố tìm cho ra chỗ vá mà không tài nào phân biệt được đâu là dấu rách.
"Miếng vá đại triều" đã đưa Ba Gấm từng bước ra khỏi cung cấm.
- Huynh có biết nhờ đâu mà em học đuợc chữ Hán, chữ Nôm; học được sách vở của bách gia chư tử và bắt chước cách viết chữ Nho theo nét thư pháp tài hoa của Vương Hy Chi, Vương Duy, Trương Húc, Tề Hoàng Mễ Sái và đặc biệt gần gũi nhất là của Trí Hải không?
Câu hỏi bất ngờ của Ba Gấm đã hé mở ra một cánh cửa còn đóng kín cho mối thắc mắc là tại sao một cung nữ xuất thân trồng dâu, nuôi tằm, dệt cửi như Ba Gấm lại có được một sở học cao xa như ngày nay. Trí Hải cười rạng rỡ, ngẫm nghĩ và nêu lên thắc mắc của mình:
- Phải rồi, phu nhân... muội.. à...
Ba Gấm không để cho Trí Hải nói hết câu, cởi mở ngắt ngang:
- Huynh cứ gọi Ba Gấm bằng tên, bằng muội, bằng... em  gì cũng được, có sao đâu. Một người đàn bà lớn tuổi hơn thì gọi bằng bà, bằng chị; người nhỏ tuổi hơn thì gọi bằng cô, bằng em đâu có gì lỗi đạo. Con người là chính chứ có quan trọng gì về nhân xưng đâu mà chúng ta cần phải chấp nhặt.
Một thoáng im lặng lúng túng hiện ra trong giọng nói Trí Hải:
- Đành vậy, nhưng có những giới hạn...
- Dạ, giới hạn là do con người tự đặt ra nên con người cũng có quyền hủy bỏ, nới rộng hay sửa đổi giới hạn chứ, phải không huynh?
Giọng nói sắc sảo và tự tin của Ba Gấm đầy sức thuyết phục. Được đi xa, tiếp cận với cách ứng xử thoáng đạt của người phương Tây, nên Trí Hải chẳng ưa gì lề lối tôn xưng nặng bài bản của chốn cung đình, thế nhưng vẫn ngạc nhiên và cảm thấy hơi lạ lùng trước sự phóng khoáng ở người đàn bà trước mặt. Trí Hải càng muốn biết rõ hơn về người đối diện:
- Phu nhân,... à, à Ba Gấm vẫn chưa nói về đường kinh sử của mình.
Ba Gấm lại cười dòn tan. Nhưng tiếng cười nghe có vẻ như ẩn chứa sự chua xót lẫn diễu cợt:
- Em làm học nô chứ có phải là học quan đâu mà dám nói chuyện về đường kinh sử.
- Học nô? Học nô là gì vậy? 
- Dạ huynh, học nô là làm nô tỳ, hay là đầy tớ gái, để hầu hạ cho việc học của các hoàng tử và công chúa. Tuy làm đầy tớ, nhưng là đầy tớ trong cung vua, nên đây vẫn là chỗ ngồi mơ ước của hàng cung nữ. Nhờ "miếng vá đại triều" em mới được làm học nô đã là khó lắm rồi, nhưng cố giữ cho được chỗ đứng của mình còn trăm lần khó hơn. Hàng cung nữ hầu hết đều xuất thân từ những gia đình quyền thế trong nước; hoặc phải có tài năng đặc biệt hay đẹp tuyệt vời trong hàng dân dã mới được tiến cung. Riêng em chẳng có gì cả ngoài món nợ may mặc giữa hai gia đình. Bởi vậy, một cung nữ tầm thường mà được làm học nô như em là bị đặt lên đỉnh đồi ganh tỵ của bao nhiêu người, kể cả cung nữ và các phe nhóm triều thần có thân nhân là cung nữ. Ba Gấm kể lại mảnh đời cung nữ làm học nô. Giọng kể khi buồn thấm nước mắt, khi vui hồn nhiên khúc khích tiếng cười...
Mỗi ngày, Ba Gấm phải thức dậy từ lúc gà gáy lại để chuẩn bị cho một ngày mới. Tắm gội sạch sẽ, tóc tai áo quần tươm tất, đến đợi ngoài cửa phòng riêng của các công chúa đang theo học. Ba Gấm có nhiệm vụ ôm tráp, mang văn phòng tứ bảo đi theo hầu các công chúa học trò vào học đường. Thầy giáo là những học sĩ được vời vào cung làm học quan để dạy dỗ cho các hoàng tử và công chúa. Cách dạy có khác nhau nhưng các thầy đều giống nhau về hình thức dùng roi vọt để trừng phạt học trò một cách nghiêm khắc theo tiêu chuẩn được toàn xã hội chấp nhận và tôn trọng. Tuy nhiên, con vua thì phải khác, các thầy không được, hay nói đúng hơn là không dám, dùng roi vọt trực tiếp trên thân thể của các hoàng tử và công chúa học trò phạm lỗi. Trực tiếp chịu đòn là các học nô. Giới gần gũi với học nô thường đùa: "Mũi dại thì lái chịu đòn.  Con vua làm biếng liệu hồn học nô".
Ba Gấm vốn là cô bé chân quê, lại nhát gan, nên đã rán hết sức mình để đỡ ăn đòn. Lớp vỡ lòng bắt đầu từ "Tam Thiên Tự". Quyển sách ba nghìn chữ ghi một bên là chữ (Hán), một bên là nghĩa (Nôm) mà học trò để chỏm thường nhắm mắt đọc làu làu như chơi hát đồng dao ngoài đường: "Thiên - trời, địa - đất; cử - cất, tồn - còn; tử - con, tôn - cháu; lục - sáu, tam - ba; gia - nhà, quốc - nước; tiền - trước, hậu - sau; ngưu - trâu,  mã - ngựa... "
Đọc mà không nhớ mặt chữ hay đọc mà vấp trước, thiếu sau là cây roi mây trong tay thầy giáo đã quơ gió vi vu, đánh "bốp" trên sàn hoặc phi thân bay xuống đầu học nô. 
Ba Gấm đã học thuộc làu từng chữ để cứu viện cho thân chủ, mà thật ra là để cứu viện cho chính mình trước. Các hoàng tử, công chúa sau giờ học thường có không biết bao nhiêu cuộc vui để tham gia, đến khi trả bài chỉ còn ngậm miệng hay nhớ trước quên sau. Ba Gấm nhìn thân chủ trả bài mà mặt xanh như tàu lá, hồi hộp đợi chờ rọi vọt của thầy sẵn sàng giáng xuống đầu mình. Bản năng sống còn đã dạy cho Ba Gấm sự tinh nhanh của trò "học thế". Khi đến những điểm bí, Ba Gấm cố dùng hết mọi khả năng diễn tả thành ngôn ngữ của thân thể mình để nhắc bài cho những cành vàng lá ngọc đang ủ rủ vì bí chữ. Như nheo mắt trái là bộ mộc, nheo mắt phải là bộ thổ, khịt mũi là bộ thủy, vuốt tóc là bộ miên, chúm môi là bộ khẩu... và cứ thế, những quy ước "thân ngữ" kéo dài. Tuy không bao quát hết cả 214 bộ thủ trong chữ Hán, nhưng khả năng ứng phó cứu nguy chữ nghĩa mang hiệu quả rất cao làm nức lòng đám học trò ham chơi hơn ham học. Ngoài ra có rất nhiều chữ tượng hình, hội ý trong phép lục thư của chữ Hán cũng được Ba Gấm gợi ý làm cho đám vương tử học trò nhớ chữ và học chữ nhanh hơn cả thầy dạy. Lạ lùng thay là cách "gợi chữ" của Ba Gấm đánh trúng tâm lý ham vui của các nhà quý tộc tí hon làm cho đám nhóc tì hoàng tử, công chúa học qua một lần là nhớ hoài mặt chữ. 
Lên các bậc học cao hơn thì sự lười biếng thường để lại những dấu vết rõ ràng hơn. Học Tứ Thư, Ngũ Kinh mà không chịu tự mình đào sâu nghĩa lý của tư tưởng thì rất dễ rơi vào tình trạng nô lệ sách vở, tìm chương, trích câu một cách máy móc của lối mòn học vẹt. Các vị danh sư hiểu rằng họ đang đào tạo những người chăn dân, chủ nước tương lai nên được giao trọng trách là phải dạy dỗ học trò đến nơi, đến chốn. Nhưng tiêu chuẩn đến nơi đến chốn của thời đại khoa bảng và học theo sách vở Trung Hoa cũng chẳng đi đâu xa hơn là quanh quẩn trong những khe suối của ngũ kinh Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu. Lý luận làm căn bản trị nước an dân cũng chỉ là những khung thếp úa mòn của Tứ Thư gồm bốn tập sách Luận ngữ, Đại học, Trung Dung và Mạnh Tử. Ba Gấm phải học thuộc lòng từng chương, từng đọan, có khi từng chữ. Cái học để thờ phụng và bắt chước chứ không phải để khai phóng. Cả thầy trò chìm lĩm trong ao hồ chữ nghĩa.
Ba Gấm là một trường hợp ngoại lệ trong cung. Thông thường, một hoàng tử hay công chúa có một hay hai người hầu riêng. Ba Gấm là cung nữ hầu cận riêng cho công chúa Ngọc Nữ, nhưng vì không có một cung nữ thứ hai có khả năng “học thế” nên Ba Gấm đã bị “mượn” thường xuyên để hầu cận, làm bài giúp và làm học nô cho những công chúa và hoàng tử khác.
Cho đến một hôm công chúa Ngọc Nữ hỏi:
- Thầy ta bảo là phải tìm một ý mới nào đó khác với lời dạy của đức Khổng Phu Tử mà thầy đã dạy từ bấy lâu nay. Từ  nhỏ đến lớn, ta chỉ biết Khổng Tử là đấng Vạn Thế Sư Biểu, phụ hoàng ta là bề trên tất cả thiên hạ cũng phải hết lòng tôn kính, nên ta chỉ biết cúi đầu vâng theo chứ làm sao dám nói khác. Nay ngươi là con nhà dân dã, lời nói có khi quê mùa thô lậu nên dẫu lỡ mồm lỡ miệng nói trái với bậc thánh hiền cũng không bị quở như  ta, nếu lỡ lời. Ngươi có thể giúp ta tìm ý mới được không?
Ba Gấm thưa:
- Bẩm, lời công chúa phán ra quả thật là chí lý. Lời công chúa là sấm là lệnh. Kẻ nô tỳ đâu dám nghĩ khác mà chỉ biết xin tuân hành.
- Tốt lắm. Ráng giúp ta, nếu được thầy khen, phụ hoàng và mẫu hậu hài lòng ngươi sẽ được thưởng xứng đáng.
- Bẩm công chúa, nô tỳ học và chép sách của cụ Khổng Tử và chư hiền mỗi ngày, mỗi đêm trong bao nhiêu năm qua.  Nhưng chỉ nghe toàn lời ca tụng, chưa từng nghe ai dám nói khác bao giờ.  Nay được lệnh cô nương, nô tỳ cũng xin thử một phen.
Lời của Khổng Tử dạy là nhắm vào các bậc cao siêu tôn quý mà luận bàn, mà tôn xưng và ca ngợi ơn vua lộc nước. Vua là con Trời, là cái rốn của vũ trụ. Bất chấp phải quấy, hễ vua ra lệnh là phải tuân hành răm rắp. Vua bắt chết là phải chết, không chết là không trung thành. Riêng kẻ quê mùa thô lậu thì chỉ biết tuân theo lời dạy của cụ Khổng mà một lòng trung với vua lo làm ăn và nộp thuế để mong báo đền ơn vua.
Ba Gấm bẩm với công chúa Ngọc Nữ rằng:
- Bẩm công chúa, người dạy thì xin vâng. Công chúa dạy là phải cố tìm một cách nói khác với cụ Khổng, kẻ nô tỳ mới dám có ý như vầy: Cụ Khổng dạy là phải lấy dân làm quý. Nhưng mặt khác, cụ lại khinh rẻ đám dân nghèo ít học là hàng tiểu nhân. Đàn bà thì bị coi khinh như hàng độn căn, thấp trí. Lời cụ dạy trong sách Luận Ngữ rằng: "Chỉ hạng đàn bà và tiểu nhân là khó dạy. Gần thì họ nhờn, xa thì họ oán." Bởi vậy cụ Khổng đã cho đàn bà thành chiếc lá trôi phăng phăng theo chữ tòng để phục vụ suốt đời, hết cha đến chồng, hết chồng đến con. Như vậy người đàn bà không phải là dân, theo lời Mạnh Tử, vì họ không được lấy làm quý. Họ cũng chẳng phải là người mà chỉ là công cụ phục vụ. Phải chăng lời dạy của cụ Khổng không tôn trọng sự công bằng. Đã không có đạo công bằng thì khó mà có đạo làm người công chính theo tinh thần Luận ngữ, Trung dung... Đức Khổng Tử sinh vào thời loạn lạc, Xuân Thu, Chiến Quốc. Cụ Khổng không được trọng dụng ngay trên quê hương nước Lỗ của mình, phải qua Vệ, Tề và chu du khắp 14 nước trong 14 năm nhưng chẳng có nơi nào được trọng dụng, phải về lại quê hương năm 68 tuổi và mất năm 72 tuổi. Chỉ về sau nầy, khi nhà Hán đã gồm thâu thiên hạ, muốn nắm vững quyền lực đời đời mới vinh danh cụ Khổng Tử và các bậc Trình, Chu. Đạo Khổng là cái búa chăn voi, cái roi giữ ngựa bảo vệ chính danh và uy quyền của thiên tử và quý tộc; nhưng lại là cái gông đẹp đẽ, êm ái nhân danh đạo lý đối với con người bình thường. Sự trói buộc dựa trên một căn bản trật tự xã hội tưởng tượng nhằm bảo vệ quyền lợi của vua quan và đem áp bức buộc lên đầu, lên cổ đám dân lành thấp cổ bé miệng, không bao giờ dám ngẩng mặt nhìn lên để nói lời phản kháng trước bạo quyền.  Nếu bậc thiên tử thương dân như con, muốn lấy dân làm quý thì không nên lấy đạo Nho làm gốc.
Công chúa Ngọc Nữ theo ý của Ba Gấm để làm văn nghị luận mà nộp lên thầy và được thầy khen. Từ đó Ba Gấm có niềm tự tin rằng, nếu ném cả vốn lẫn lời chăm bẳm tin theo sách vở không hề nghi vấn, thì thà đừng có sách vở hay hơn. Sự suy nghĩ độc lập đã làm Ba Gấm trở thành một nguồn tư liệu nghị luận văn sách đáng quý cho giới học trò ông hoàng bà chúa, vốn bị mụ người vì ý nghĩ và lời nói chỉ toàn hình thức một chiều trong cung. Tất cả các học nô khác đều bị thay đổi từng tháng, từng mùa, riêng Ba Gấm vẫn giữ được vai trò học nô trong suốt nhiều năm làm cung nữ.
Tuy cung nữ Ba Gấm làm học nô thì vẫn là học nô, nhưng nhiệm vụ hầu hạ thì được cất nhắc từ mài mực, ôm quyển lên thành phụ việc trợ giáo. Trong những đợt bình văn chấm quyển, Ba Gấm đã làm cho các danh sĩ học quan nể phục vì sở học sâu rộng về cả chữ Hán và chữ Nôm. Từ tâm lý sợ hãi roi vọt của một học nô, Ba Gấm đã chăm chỉ học hành từ cấp vỡ lòng đến trình độ cao cấp bình văn, điểm sách để đủ sức "cứu nguy" cho thân chủ là các ông hoàng bà chúa học trò, nhưng trước hết là cứu nguy chính mình. Học để hiểu biết, học vì bị bắt buộc hay học để tự sống còn tuy khác nhau về động cơ, nhưng phương tiện và kết quả thì cũng giống nhau. Đó là sự miệt mài đèn sách, chăm chỉ bút nghiên đã mở mang tầm hiểu biết. Cái học đã giúp đưa cô cung nữ xuất thân trồng dâu nuôi tằm lên ngang tầm với các tay văn học quen vẫy vùng trong trường văn trận bút.
- Huynh à! Không hiểu cuộc đời nầy có số phận xếp đặt hay tất cả mọi chuyện xảy đến đều chỉ là sự tình cờ?
Ba Gấm dừng ngang câu chuyện đang kể về quảng đời học nô của mình và đột ngột hỏi. Trí Hải không trả lời thẳng vào câu hỏi mà lại đưa ra một câu hỏi khác:
- Trả lời "có" hay trả lời "không" đều là suy đoán.  Những người trang bị và áp dụng luật nhân quả của đạo Phật thì trả lời là “không”. Họ cho rằng, một người đã gieo nhân thì phải nhận nghiệp quả, không ai có thể thay thế thụ hưởng hay chịu quả báo thay cho ai được cả. Đã không có một sức mạnh bên ngoài chi phối, con người tự quyết định số phận của mình, nên chẳng có một sự sắp xếp nào trên số phận của mỗi người, hiểu như định mệnh hay số phận cả.
- Huynh có đồng ý với khuynh hướng “vô định mệnh” ấy không?
- Chỉ đồng ý có một nửa thôi.
- Tại sao?
- Tại vì có người mà cũng có mình. Có Trời mà cũng có Ta.
- Như vậy thì người bình dân nói “Đời cha ăn mặn đời con khát nước” là đúng hay sai và ý nghĩ ấy đi ngược lại lý thuyết “nhân nào quả nấy” của Phật giáo hay sao huynh?
- Những người theo đạo Phật có niềm tin riêng của họ. Nhưng nếu có người hiểu và áp dụng tinh thần Phật giáo nửa vời thì cũng mới chỉ đi được một nửa đường trong suy nghĩ và thực hành. Thậm chí, còn có người phân vân cảm thấy dường như là lý thuyết Phật giáo trở thành mâu thuẫn với nhau.
- Mâu thuẫn như thế nào, hở huynh?
- Nếu ai làm nấy chịu thì cầu nguyện làm gì. Bà Mục Liên Thanh Đề ác thì phải đọa vào địa ngục chứ làm sao người con hiếu thảo Mục Kiền Liên có thể nhờ năng lực của chính mình và các bậc tu hành hợp lại để cứu bà mẹ độc ác của mình ra khỏi địa ngục được. Nếu mỗi người là một hạt bụi đơn độc giữa đời, không có sự tương quan, tương tác thì trong số những người theo đạo Phật ai sẽ là kẻ sẽ được vào cảnh sung sướng nhất của ước mơ, đó là cảnh Tây Phương Cực Lạc - trong khoảng một niệm. sanh về Cực Lạc - có đức Phật A Di Đà dang tay ra đón?
- Như vậy là có những luận sư Phật giáo cho rằng, chẳng có ai giúp mình ngoài chính mình là sai lầm cả sao?
- Không hẳn là sai lầm nhưng họ chỉ chú mục vào lý Tánh Không, nghĩa là vạn sự và vạn vật không có một gốc rể riêng; không có một tự tánh riêng. Không có một nguyên nhân đầu tiên như Đấng Tạo Hóa tác tạo muôn loài; cũng chẳng có một đấng thần linh cứu độ dắt dẫn tâm linh con người vào nước Trời an vui tuyệt đối.
- Nếu thế thì có gì sai?
- Sai ở chỗ là họ dừng lại ở chỗ “tất cả đều không có tự tánh” để nhìn muôn vật, rồi suy diễn ra một chiều là “tất cả đều không”.  “Không” - chính là cốt tủy của vạn sự, vạn vật. Nhưng vạn sự, vạn vật đều đang quay cuồng, thay đổi, biến hiện trong từng chớp mắt. Nghĩa là hằng hà sa số “cái không” đang quay. Chính sự quay cuồng, biến hiện nầy làm cho mọi vật không bao giờ đứng yên để trở thành một “cái gì đó” đời đời bất tuyệt. Sự tác động lên nhau, dính mắc mọi phía, san sẻ qua lại, hút đẩy triền miền nầy rất phức tạp. Nhà Phật gọi đó là “Duyên”.  Duyên hợp, duyên tan, duyên tàn, duyên tận, duyên cạn, duyên đầy… làm cho mọi sự, mọi vật tác động lên nhau hết sức mạnh mẽ, thường xuyên, không có một điểm ngừng. Một hạt đậu đơn giản thôi, nhưng vốn đã chứa vô số vạn sự và vạn vật trong nó rồi. Hạt đậu đó vừa hiện hữu thì lại có vô số tác động và điều kiện xung quanh như đất, nước, ánh sáng, chất dinh dưỡng, khí hậu, môi trường sống… làm cho nó có khả năng bị tiêu diệt để biến thành vô số hạt bụi mang tính chất khác nhau; hay phát triển thành vô số mức độ (tươi tốt, cằn cỗi, sinh sôi nẩy nở thành vô số hạt đậu khác…). Có thể nói sự khác nhau vô cùng, vô tận đó của một hạt đậu là “định mệnh, số phận” của một hạt đậu.
Vỗ hai bàn tay vào nhau một cách khoái trá, Ba Gấm tươi cười và kêu lên, nối tiếp lời Trí Hải:
- Một hạt đậu còn có “định mệnh” huống chi là con người, phải không huynh?
Trí Hải biểu đồng tình, cười nói theo:
- Phải. Định mệnh của một hạt đậu, định mệnh của một hạt bụi, định mệnh của một con người, định mệnh của cả vũ trụ bao la nầy đều theo cách “tùy duyên” ấy chứ có khác gì nhau đâu.
- Như thế khi người ta nói “đời cha ăn mặn, đời con khát nước” hay “nhờ phước đức  ông bà, phúc ấm tổ tiên… mới có được cuộc sống tốt đẹp như ngày hôm nay” là hợp lý phải không?
- Không đúng mà cũng không sai.
- Huynh cứ quanh quẩn với trò chơi “huề vốn” hoài.
- Nhưng đó là sự thật mà. Ta hiểu tánh của vạn vật là “không”, nhưng “tướng” là có, do duyên hợp mà thành. Khi tướng đang xuất hiện thì cũng là khi nó đang biến nên tướng có mà không. Duyên hợp tương tác, tương sinh. Ăn mặn, khát nước, phúc ấm, hạnh phúc, tốt, xấu, rủi, may… đều không có một cái gốc nào tác tạo ra cả mà do sự tác động qua lại theo những mô thức và quy ước của chính nó mà sinh ra như đám mây, bụi nước, ánh sáng mặt trời, sự ấm lạnh, hướng nhìn… mà sinh ra cầu vồng năm sắc. Cầu vồng năm sắc chuyển đổi hình dáng vùn vụt rồi tan đi. Cầu vồng chết và sinh trong mênh mông. Giả dụ như cầu vồng sinh ra và chết đi một tỷ lần thì ta thấy như nó đang “có” trước mắt ta dài bằng thời gian tàn điếu thuốc. Ánh sáng chết và sinh ra muôn vạn tỷ lần nên ta có được một ngày. Con người sinh ra và chết với số lần gấp ba vạn sáu ngàn lần sự sinh và chết của ánh sáng trong một ngày nên ta có được một đời. Nó hiện diện và vắng mặt đâu đó quanh ta nhưng chẳng bao giờ đứng lại nguyên hình là chính nó, dẫu trong một mảnh li ti nhỏ nhất của thời gian.
Cả hai người bỗng im lặng. Họ cảm thấy dường như mình đang lạm bàn về một vấn đề trời biển nào đó mà cả hai chỉ mới kiếm tìm trong sách vở, chưa có một lần nếm trải bằng kinh nghiệm. Ba Gấm hỏi mà như đã tự trả lời: 
- Em cố đi loanh quanh và đi xa như vậy vì em đang nhìn sâu vào mắt huynh từ hồi nãy đến giờ. Em thấy có một câu hỏi rất lớn vẫn còn đọng trong mắt huynh dẫu rằng em đã kể hết chuyện thật về đời mình. Câu hỏi đó phải chăng là em đã thắng số phận hay số phận đã thắng em để mang cô cung nữ quê mùa lên hàng mệnh phụ nửa mùa?
Trí Hải vỗ tay và cười dòn. Chưa bao giờ người đàn ông dè dặt theo lối cung đình ấy lại bộc trực đến như vậy:
- Ba Gấm thông minh tuyệt vời, nhưng cũng chủ quan quá lắm. Thắc mắc của Trí Hải nầy không ăn nhập gì đến số phận cả. Cũng chẳng có gì quan trọng hay khác nhau giữa hai người đàn bà sinh ra và lớn lên hai nơi khác nhau; nếu ở bầu thì tròn, ở ống thì dài mà thôi. Có số phận hay không thì trăm năm vẫn hết và cuộc đời nầy vẫn thế.  Đúng! Câu hỏi chiếm ngự trong tôi từ lúc mới đọc mấy dòng chữ thảo của Ba Gấm từ đêm cầm chầu đến giờ vẫn là nét chữ...
- Đúng là em nhìn người không lầm. Cả non nước này chỉ có một mình Trí Hải mới thấy được nét chữ của em.
Ba Gấm hai tay ôm nửa mặt. Không có tiếng khóc mà nước mắt ràn rụa. Với giọng buồn sủng nước mắt, Ba Gấm kể:
- Sau năm năm ở trong cung cấm, làm học nô, ngày lại ngày mài mực chép bài, lần mò đọc sách bách gia chư tử, có khi bị ăn đòn oan uổng không phải lỗi của mình, em mới thấy rõ sự phi lý của tuồng đời diễn ra trước mắt. Một sự hiểu biết đáng bao nhiêu trang sách của một học nô, không bằng một lời phán vội vàng của vị học quan và thua cái nhảy mũi của nàng công chúa. Thước đo giá trị là cả một tuồng ảo hóa. Những tài năng tiểu xảo lại được vinh danh như chuyện lấp biển vá trời. Vị học quan khen công chúa dám nói trái với lời Khổng Tử bị cho về quê cày ruộng, làm dân đen. Em may được công chúa Ngọc Nữ che chở chứ không thì cũng bị đuổi vào chốn mạt cung làm kẻ nô tỳ tắm ngựa. Em phải biết tập cho trí óc của mình thành giả dối. Phải biết nói khác để mà khen, mà ca ngợi công lao cụ Khổng chứ không phải nói khác để phê phán kêu đòi sửa đổi. Trong sự cô đơn cùng cực đó, em phải tự tìm cho mình một sự giải thoát mà không ai nhòm ngó hay bắt tội được mình. Đấy là thư pháp, là con đường khổ luyện để viết chữ đẹp, sống với chữ đẹp, mơ mộng với chữ đẹp cho đến mức cùng ăn, cùng ngủ, cùng thức, cùng hạnh phúc và đau buồn với chữ đẹp.
- Thì thư pháp là một nghệ thuật tao nhã mà ai cũng trân trọng.  Nhưng sao trong giọng nói của Ba Gấm tuồng như có gì u uẩn?
- Giờ lại đến lượt em phải khen huynh là thông minh và nhạy bén vô cùng.
- Nữa! Lại khen gì nữa đây?
- Dạ, phải khen qua khen lại mới toại lòng nhau chứ huynh. Hì, hì… Huynh nói đúng, tài mọn viết chữ đẹp của em phải giữ bí mật để khỏi bị tội.
- Hừm...?! Viết chữ đẹp cũng là một cái tội sao?
- Em đã đem chữ đánh lừa cả cung đình và thiên hạ.
- Lại càng khó hiểu hơn nữa...
- Sẽ rất dễ hiểu nếu huynh biết rằng em đã tìm lẽ sống trong công phu luyện chữ đẹp. Thường những mẫu chữ đẹp nhất của các bậc đại danh gia thư pháp, hầu hết thuộc Trung Hoa thời cổ, đều được mang đến làm mẫu cho các hoàng tử và công chúa đang đi học bắt chước viết theo. Chốn cung đình, giấy mực nhiều như núi, nhưng học trò vương giả có quá nhiều cuộc vui nên thường ham chơi hơn ham học. Mỗi ngày em phải lén lút làm hộ bài cho những vương tử học trò lười biếng.
Ngạc nhiên, Trí Hải hỏi:
- Thầy vẫn không biết có người khác làm bài thế?
- Em phải bắt chước viết theo những tuồng chữ khác nhau của từng người cực kỳ khéo léo để thầy không nghi là bài học trò của thầy do người khác làm hộ. Có đêm em về đau nhức rã tay vì viết quá nhiều. Ban đêm còn phải chong đèn thức đọc bài, chép văn, bình sách hộ cho các công nương và công tử lớp cao cấp. Em đã học và tập luyện tay viết của mình siêng năng như một người làm ruộng.
- Như một Nho sinh chứ sao lại là người làm ruộng?
- Phải nói là tệ hơn người làm ruộng huynh ạ, vì ngoài nỗi mệt mỏi của thể xác còn có sự đày đọa tinh thần. Càng chép, càng đọc, càng viết em càng cảm thấy chán ngắt với những lời khuyên, lời dạy vô hồn về một thứ trung quân ái quốc cuối đường một chiều như: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" mà không cần biết người xử có xứng đáng làm quan tòa công chính không hay cũng chỉ là phường tội phạm. Kinh sách cổ nói đến con người như nói đến loài sinh vật có hai chân. Sinh ra đời dưới một ngôi sao định mệnh và ngoan ngoãn chấp nhận định mệnh.Rồi cuộc sống cứ thế mà nương theo cái sơ đồ vớ vẩn có thứ, có lớp, có luật tắc, quy trình tưởng tượng về con trời cháu đất gọi là đạo lý, là trung, là nghĩa. Cuối cùng, con người vẫn phải phủ phục quỳ gối trước thân phận nô lệ bé nhỏ của mình để khoanh tay nhận cái ân sủng sau chót của một kiếp đời là cái chết. Sự chán nản của em kéo dài tưởng như không còn lối thoát, cho đến một hôm...
Ba Gấm bỏ lửng giữa lưng chừng câu nói. Trí Hải nhắc:
- Một hôm như thế nào?
- Một hôm em được đọc Phù Sinh Ký của Trí Hải. Em lạnh toát, tưởng chừng như tê cóng cả ngưởi.
- Những dòng chữ bóng bẩy đầy tính hư cấu trong Phù Sinh Ký có một tác dụng tâm lý mạnh đến thế sao?!
- Dạ, huynh ạ, chính sự tưởng tượng của những đầu óc tài hoa, kiệt xuất mới là sự sống của sáng tạo. Tứ đại kỳ thư - bốn đại kiệt tác - cổ của Trung Hoa cũng chỉ là sản phẩm tưởng tượng thôi mà. Vâng, cũng như thế thôi, suốt bao nhiêu năm xào nấu, nhào nặn đủ thể lọai hình hài với Tứ Thư, Ngũ Kinh... em chỉ thấy một thế giới người đã được đúc cứng lạnh lùng như tượng đá. Phù Sinh Ký đã thổi hơi người vào đá. Đá sống lại. Con người bỗng có cảm xúc, biết khóc, biết cười, biết yêu thương và hờn giận đã lập tức chinh phục em như một đạo hào quang lan tỏa trong đêm. Em đã đọc Phù Sinh Ký và khóc mùi mẫn như một đứa bé mới chào đời. Từ mê nội dung em đâm ra mê tuồng chữ viết. Phù Sinh Ký em có trong tay thuở đó là bản gốc…
Trí Hải trầm ngâm nhớ lại và tiếp lời:
- Phải rồi. Thời đó Phù Sinh Ký được chép tay thành hai bản. Ấm Thuyên giữ một bản, tôi giữ một bản. Sau đó bản của tôi bị mất.  Không ngờ lại lọt vào tay Ba Gấm.
Ba Gấm nói trong hồi tưởng:
- Tác giả có lối viết cuồng thảo làm dậy sóng cảm xúc của người đọc. Một lối viết chữ Nôm đầy sáng tạo, tuy vẫn dựa trên phép lục thư cổ điển của Trung Hoa, nhưng những nét giản thư chấm phá vừa độc đáo, vừa đẹp như tranh vẽ. Thuở đó, em thường mê mẩn tưởng tượng đến tâm hồn người viết tràn vào cả đầu ngọn bút lông để nói lên cả ý, cả chữ, cả sức sống tinh thần miên man, cuồn cuộn tràn vào đường nét. Chính nét chữ viết và lối dùng chữ Nôm trong Phù Sinh Ký đã trở thành mẫu mực cho em theo. Em đã đi theo Phù Sinh Ký cho đến phút này.
Ba Gấm cúi mặt, che miệng cười, nói nho nhỏ:
- Ngày đó, em ước ao đời mình chỉ được gặp tác giả Phù Sinh Ký một lần rồi chết cũng đã mãn nguyện lắm rồi.
Trí Hải nói đùa theo:
- Nhưng không ngờ, sự tình cờ đã biến tác giả thành con nợ của mình phải không?
Chân tình, Ba Gấm giải thích:
- Thật ra, chẳng phải là tình cờ đâu huynh ơi!
- Nghĩa là…
- Em dàn xếp mọi chuyện.
- Kể cả đêm trình diễn cho toàn thể cung đình xem?
- Dạ.  Đúng.
- Sao một mình Ba Gấm mà có thể làm chuyển động cả một guồng máy lớn đến như thế?
- Cung đình như một cỗ xe trăm ngựa, nhưng chỉ có một xà ích đánh xe giỏi mà thôi. Đó thường là người mạnh nhất điều khiển toàn cỗ xe.
- Vua?
- Không…
- A, vậy thì có thể hiểu được.
- Huynh hiểu gì ạ?
- Hiểu về sự phi lý của những biến cố trọng đại về triều đình, xã hội, lịch sử.
- Dạ…
Tiếng “dạ” đằm thắm của Ba Gấm có vẻ hiền và ngoan như một cô gái sống nếp tròn đầy của người lo nội trợ, bếp núc.
Chuyện kể chân thật qua giọng nói ngọt ngào của Ba Gấm đưa Trí Hải vào một trời mơ. Khung trời quá khứ đẹp phiêu bồng đã bị thực tế kéo về giữa đấu trường đau xót sau vụ án văn chương phản nghịch. Trí Hải, nói một mình: "Phải, Ấm Thuyên và ta đã viết Phù Sinh Ký từ hai phương không thấy mặt nhau. Ta viết một chương, Thuyên viết tiếp một chương. Hai nét bút cuồng lãng không cùng chung nghiên mực; hai tư tưởng dậy lên trong ngọn triều cùng chung sự thao thức và trăn trở để nhìn lại kiếp phù sinh. Tập sách ba mươi chương đến với người đọc mà chẳng có ai phân biệt được đâu là Trí Hải, đâu là Ấm Thuyên."
Trí Hải mơ màng:
- Nếu Ấm Thuyên còn sống, quả thật chúng ta đã tìm được một trần ai tri kỷ.
Ba Gấm tiếp lời:
- Đâu cần phải có hai người mới thấy được một bầu trời đẹp, hả huynh?
Trí Hải chìm trong tiếng nói của Ba Gấm:
- Một mình, thấy sợ!
- Sợ cô độc?
- Không, cô đơn.
- Cô đơn vì tự lòng mình cứ mãi mãi thấy bầu trời xa quá. Thật sự, tất cả đều rất gần huynh ạ.
- Gần đến chừng nào?
- Có lẽ chỉ trong tầm tay với.
- Cũng có cái với tay tuyệt vọng mà cũng có cái với tay để níu kéo nghìn trùng.
- Cả hai lối với tay mà huynh vừa nói cũng chỉ là một mà thôi vì cả hai cùng làm cho sự cô đơn trở nên cùng cực. Em có biết một cách với tay khác. Hay hơn. Này huynh nghe em đọc: "Kéo mây vào trong mắt và níu nắng vàng vào trong tâm. Chừng nào mây và ta là một, nắng và ta giao hòa không tiếng nói thì con người dẫu một mình nhưng vẫn cảm thấy không cô độc. Và khi mình không còn nhỏ bé trước vũ trụ vì chính mình cũng là một tiểu vũ trụ nên chẳng thấy cô đơn."
Trí Hải khen:
- Một ý nghĩ thật hay và rất nên thơ!
Ba Gấm bình phẩm qua tiếng cười đùa gần gũi:
- Mèo khen mèo dài đuôi. Có lẽ mèo khen vì không thấy được đuôi mình chăng?
- Ai khen ai vậy?
- Thì ông hoàng Trí Hải khen nghệ sĩ Trí Hải chứ chẳng ai vào đó.
- Có chuyện như vậy sao?
- Đó là câu cuối cùng trong sách Từ Chương của Trí Hải viết mấy mươi năm về trước!
Vỗ tay lên trán, Trí Hải reo vui:
- A! Thôi, chết! Nhớ ra rồi...
Qua dáng vẻ bên ngoài thanh tú, đơn sơ mà vẫn đượm nét gấm hoa của người đàn bà trước mặt, Trí Hải mường tượng đằng sau vẻ đồng nội ấy có một thế giới khói sương của ngọn núi Kim Phụng soi bóng sông Hương đang nhốt mình trong đó.
CHƯƠNG MƯỜI TÁM
Lửa Tình 
Hạn hán kéo dài. Bao nhiêu cố gắng cầu mưa vẫn không có một giọt. Sông cạn, nguồn khô. Ruộng đồng nứt nẻ. Khi sự cầu đảo vào thần linh trở thành vô vọng, người ta quay lại với con người. Trong mắt nhìn của thế giới nam trị nặng tính phụ quyền và gia trưởng thì người đàn bà là một bông hoa, nhưng cũng vừa là tai họa. Đàn bà mang âm tính. Động lực âm bị coi là lực cản, lực chìm. Dẫu có đẹp như tứ đại mỹ nhân của xứ Tàu thì cũng chỉ làm vướng chân giới đàn ông khí phách. Hoặc có oanh liệt ngang tầm với tứ đại nữ anh hùng đất Việt như Âu Cơ, Triệu Nữ Vương, Hai Bà Trưng rồi cuối cùng cũng phải bó tay trước sức mạnh của đàn ông. Sự bất công trọng nam khinh nữ có cội nguồn từ nền văn minh tiểu nông, trong đó, người nào vỡ đất, cày ruộng giỏi hơn thì người đó nắm quyền chủ động.
Người ta tin rằng, muốn giải hạn cho có hiệu qiả thì phải loại bỏ tính âm và cổ xúy tính dương. Nhà vua đương triều, sau nhiều lần triệu ý với các thầy huyền học, luận lý âm dương đã cho rằng số cung nữ trong cung quá đông nên đã làm cho âm thịnh, dương suy mà sinh ra hạn hán. Nhà vua xuống chiếu cho một trăm cung nữ rời cung cấm, trở về nguyên quán.  Ba Gấm nằm trong số cung nữ rời cung.
Sau mười lăm năm nhập cung, Ba Gấm trở về với gia đình. Cô gái ươm tơ dệt cửi ngày xưa về lại chốn cũ bỗng nhận ra mình là người xa lạ. Người từ cung vua ra chẳng phải là người thường. Đụng đến tên húy của nhà vua còn sợ huống hồ là "người của vua". Ba Gấm khó mà giải thích cho người bên ngoài, kể cả cha mẹ ruột của mình, hiểu được nếp sống buồn thảm, ngày lại ngày chờ đợi một ảo ảnh không bao giờ đến. Không ai tin lời người cung nữ ở hàng chục năm trong cung cấm mà chưa bao giờ được tận mắt nhìn thấy vua. 
Sự cung kính phân biệt đối xử làm cho Ba Gấm nghẹt thở hơn cả những ngày đen tối nhất trong cung cấm. Đám người dân thường đang nói chuyện đầy tiếng cười vui bên đường, trên bến, ngoài vườn sẽ im bặt khi thoáng thấy bóng Ba Gấm đi qua. Mọi người chắp tay kính cẩn, có kẻ cúi đầu chào, có người chắp tay im lặng cho đến khi Ba Gấm đi khuất. Dẫu trong mơ mộng hoang tưởng nhất thì vẫn không có một người đàn ông bình dân nào dám mơ tưởng đến chuyện lấy người cung nữ làm vợ.
Nhưng rồi cũng đến một ngày lạ lùng xẩy đến giữa cuộc đời Ba Gấm. Có người khăn áo chỉnh tề đến mai mối. Người đó ngỏ ý xin cưới Ba Gấm làm thiếp thứ tư cho quan Chánh Chưởng tuổi ngoài sáu mươi. Không phải là một sự lựa chọn mà là một lối thoát, Ba Gấm và cha mẹ bằng lòng. Ngày cưới dâu, chỉ có bà vợ cả và hai bà vợ thứ của quan Chánh Chưởng đứng ra làm chủ hôn xin rước dâu trong khi chú rễ là quan Chánh Chưởng vẫn còn bận phò ngự giá ở tận đâu đâu.
Ba Gấm lại lên đường về làm thiếp quan Chánh Chưởng. Những trái tim gỗ mục khô rốc tìm nhau. Ba Gấm về dinh quan Chánh Chưởng như về một miền quạnh hiu. Lạy tạ từ đường và ba bà vợ già của quan Chánh Chưởng, Ba Gấm muốn khóc nhưng khóc với ai đây.  Nệm gấm, màn nhung phủ lên đời tủi cực. "Đêm tân hôn" trống vắng bên hai cô gái hầu ngủ gục, Ba Gấm chong mắt nhìn ngọn đèn lồng leo lắt, trí óc đặc quánh bóng đêm và chỉ còn nhớ man man dăm câu thơ chữ trong Kinh Thi: "Quan Ba Gấm cưu. Tại hà chi châu. Yểu điện thục nữ. Quân tử hảo cầu... " và dịch nghĩa để buồn: "Thư ơi! Chim hót ai nghe. Bãi sông vắng lặng ai về bến duyên. Có cô thục nữ dịu hiền. Mơ chàng quân tử về miền quạnh hiu."
Hơn nửa tháng sau ngày cưới, quan Chánh Chưởng trở về. Thì ra, cô dâu mới là món quà trao thân mà ba bà vợ già đã mõi mệt, muốn về hưu giữa cuộc ân tình đang tới mùa Đông... muốn tặng cho đức lang quân trong ngày lễ thượng thọ. Đêm tơ hồng, đêm động phòng hoa chúc, quan Chánh Chưởng ngất ngư trong men rượu. Níu tóc nàng dâu cười sặc sụa. Ba Gấm chết lặng, tê điếng người trong cơn chịu đựng tột cùng của thể xác với con quái vật đàn ông xa lạ...
Sáng hôm sau tỉnh rượu, quan Chánh Chưởng chợt khám phá ra rằng, mình vừa có người vợ mới trẻ trung và xinh đẹp không ngờ.  Từ đó, lạ thay, Ba Gấm đã trói chân ông quan già võ biền vốn coi đàn bà như phương tiện truy hoan và sinh sản, sau những cuộc liên hoan ngập ngụa trong rượu và đàn bà. Xuất thân là quan võ, nên quan Chánh Chưởng thường mang nặng mặc cảm vừa tự tôn, vừa tự ty với giới văn chương, sách vở bút nghiên. Khi khám phá ra rằng, Ba Gấm cũng là người tinh thông kinh sử và thư pháp, quan tò mò tìm hiểu. Càng tìm hiểu, quan càng bị cuốn hút bởi phẩm chất nghiên bút tài hoa mà trước đây quan không bao giờ nghĩ có thể có nơi một người đàn bà. Dần dần, quan hoàn toàn bị chinh phục bởi người đàn bà bằng tuổi con mình.
Tuổi sáu mươi ở người đàn ông có quyền lực và địa vị là một mốc thời gian đầy thử thách. Bao nhiêu năm say sưa chen chân vào đời tranh sống, tranh địa vị, tranh tiếng tăm. Tốc độ đời sống ngỡ như tăng tốc lên tới điểm cao nhất, nhưng thực ra chỉ là ảo giác do cái đà của năng lực quán tính còn sót lại. Người đàn ông sáu mươi, thật ra, đang rơi xuống thấp dần với đất, phía bên kia sườn núi phía Tây của tuổi già xế bóng. Quan Chánh Chưởng không còn nhớ rõ và phân biệt từng trường hợp mình đã gặp gỡ và kết hôn với ba bà vợ cũ trong hoàn cảnh nào. Quá khứ trãi dài hơn 30 năm  trước và về sau nầy chỉ để lại trong đầu quan Chánh một điều rất rõ là quan lấy vợ cũng như người sắm nhà. Hai bên mối lái thuận mua vừa bán thì người đàn bà độc thân thành vợ. Vợ về nhà chồng. Ăn ở với chồng sinh con đẻ cái. Tuổi già thì có thêm cháu nội, cháu ngoại. Những vòng tròn đơn giản của sinh, lão, bệnh, tử quay đều đặn từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Thế nhưng từ khi gặp Ba Gấm quan bắt đầu hiểu ra là có một thứ tình trai gái lạ lùng hơn, lay động dữ dội hơn, sâu và bền hơn là những động tác và cảm giác lập đi, lập lại hoài trong bao nhiêu năm đến độ trơ lì trên giường ngủ. Người ta gọi thứ tình trai gái lạ lùng đó là tình yêu. Và quan nghĩ rằng mình mới bắt đầu nếm vị tình yêu đó từ khi gặp người đàn bà kỳ diệu ấy. Nhưng quan chỉ cởi bằng quyền hạn mà không mở được cánh cửa của tình yêu vì không có cái chìa khóa vàng để mở trái tim người đàn bà đã tạo ra nguồn rung cảm dữ dội của quan. Quan hiểu điều đó, nhưng không có lý do đòi hỏi nhiều hơn. Như trồng cây mẫu đơn trổ được hoa cũng đã là quý rồi, quan không có lý do đòi hoa ngũ sắc; dẫu rằng, quan biết trong lòng mẫu đơn có hoa ngũ sắc. Dẫu sao thì ở tuổi sáu mươi, quan vẫn thầm cảm ơn đời đã hé cửa cho quan biết có một chân trời khác mà quan biết rõ là có không biết bao nhiêu bạn đồng liêu của mình, từ ngày mới lớn cho đến khi nhắm mắt lìa đời, tuy con đàn cháu đống, nhưng chẳng bao giờ được hít thở một chút hương hoa của chân trời "khác" ấy.
Không tình yêu, nhưng Ba Gấm hiểu cái "nghĩa" của quan Chánh Chưởng và trân trọng cái nghĩa ấy. Ba Gấm thương chồng con và lo chu tất chuyện cơm áo gia đình. Tình cảm của Ba Gấm như cái giếng sâu, thản nhiên và lặng lẽ tụ nước cho người đến múc. Cái giếng không biết đến những khe suối, ao hồ, dòng sông và biển cả.  Thế nhưng càng ngày, cái giếng tình cảm của Ba Gấm, từ trong thâm cung tự nhiên của tình cảm, vẫn phải nghe mơ hồ tiếng róc rách của khe suối, đã thoáng thấy bầu trời soi bóng mặt hồ, đã nghe xao xác nước chảy ven sông, đã có lúc nổi sóng ba đào của biển lớn.
Người ta nói những văn tài, những nhà độc tài, những thiên tài và những nhà kinh tài là những người có quá nhiều mối tình hay không có được một mối tình nào dính túi. Nhưng tất cả đều giống nhau là không tìm thấy một tình yêu đích thực nào cả ở trần gian nên họ vẫy vùng trong tuyệt vọng và thành "tài" bao giờ không hay! Ba Gấm  vẫn thường đem ý tưởng ngộ nghĩnh nầy để ví von với mình và sự thành công quá lớn lao của mình trong thị trường buôn bán gấm vóc.
Ba Gấm mang cả một nguồn tinh lực nghệ sĩ dạt dào trong mình để đối diện với sự ghẻ lạnh tình cảm riêng mình. Quan Chánh Chưởng càng say mê thiết tha, Ba Gấm càng nhận rõ hơn cửa ngỏ tình cảm của mình vẫn đóng chặt. Nỗi ám ảnh kinh hoàng trong buổi tân hôn là những cái đinh đóng chặt nắp áo quan của tình cảm. Tự bản chất sâu thẳm, người đàn bà khác với người đàn ông là khi không có tình yêu thì sự tương giao xác thịt là nỗi dày vò cực hình. Ba Gấm phải tự giải thoát cực hình bằng họat động bận rộn kinh doanh. Kinh nghiệm truyền đời trong nghề tơ lụa đã giúp Ba Gấm biết cầm vững phẩm chất và thị hiếu của khách sành điệu xem cái mặc trước cái ăn. Kiến thức văn chương và sở trường thư pháp giúp Ba Gấm biết nhìn cái đẹp độc đáo và tinh chuyên trong sở thích may mặc của giới giàu sang và quý tộc. Uy quyền của quan Chánh Chưởng giúp Ba Gấm vẫy vùng không biên giới trên mọi thị trường tơ lụa trong nuớc và các xứ lân bang. Hàng tơ lụa, gấm vóc mang nhãn hiệu Ba Gấm chiếm lĩnh ngôi vị không có địch thủ cạnh tranh trên thương trường. Sự giàu có ào ạt tìm cửa đại gia Ba Gấm mà đến.
Hàng tơ lụa. gấm vóc Ba Gấm đến từ mọi phía. Phía Đông có hàng Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh Cát Lợi và luôn cả hàng Ấn Độ Ba Tư. Phía Đông có hàng Nhật Bản, Triều Tiên. Phía Bắc có hàng Hàng Châu, Tô Châu, Thượng Hải, Đài Loan. Dưới bóng dù che của quan Chánh Chưởng, Ba Gấm trực tiếp giao thiệp buôn bán, đổi chác, sinh hoạt với hầu hết các tàu buôn và khách thương ngoại quốc. Những chuyến đi buôn bán lặng lẽ hàng tháng trời ra các nước ngoài giúp Ba Gấm mở rộng tầm mắt, thay đổi nếp suy nghĩ chật hẹp của người đàn bà dưới chế độ phụ quyền nghiêm ngặt. Mùi nước hoa Marie Antoinette, mỹ phẩm trang điểm phương Tây, những kiểu may mặc Âu Á cải biên, phong cách giao tiếp cởi mở và tự nhiên của người phụ nữ... đã biến Ba Gấm thành người phụ nữ có sức mạnh gợi cảm kín đáo. Nếp xã giao thoáng đạt, tự nhiên nhưng cũng đầy trí tuệ cuả Ba Gấm gây ấn tượng sâu sắc nhất đối với các nhà quyền quý, đầy thế lực ở kinh thành. Quyền lực của một người đàn bà thường dồn tụ ở một trong ba mặt: Sắc đẹp chín muồi, quý phái qua nghệ thuật trang điểm; sự thông minh, bén nhạy qua sinh hoạt giao thiệp; và tài tổ chức đời sống qua khả năng kinh doanh. Ba Gấm có luôn cả ba mặt đó trong cùng đời sống hàng ngày. 
Quan Chánh Chưởng chỉ còn là bóng mờ khi tiếng tăm Ba Gấm trỗi lên được bao người hâm mộ và giá trị tuyệt hảo của hàng hóa Ba Gấm ngự trị khắp nơi. Và có vẻ như quan cũng chỉ mong bậc thang của đời mình đến được như vậy là tột đỉnh của danh vọng. Niềm hãnh diện lớn nhất của quan là đi đâu có Ba Gấm bên cạnh để được người đời giới thiệu là quan Chánh Chưởng phu nhân.
Khi người đàn bà vượt cao quá tầm người đàn ông trong gia đình, sự yếu đuối cảm xúc và nhu cầu vuốt ve mơn trớn của người đàn bà cần đến bàn tay rắn rỏi của người đàn ông nhạt dần. Cho đến một lúc nào đó thì vai trò quan hệ vợ chồng cổ điển bị thay đổi. Hình bóng người đàn bà không còn là hình ảnh nhành hoa lã ngọn dưới bàn tay âu yếm của chồng.  Chồng không còn là sức mạnh ngự trị cả trong tâm hồn lẫn thể xác trên người vợ. Quan hệ hoa bướm thể xác nam nữ lắng xuống cho đến khi một trong hai người hay cả hai người nhận rõ ra rằng, vợ chồng sống với nhau vì "nghĩa". Đó là khi cuộc tình chấm dứt. Vợ chồng thành hai người lính gác một viện bảo tàng kỷ niệm.  Một gia tài kỷ niệm, có khi thực tế trống trơn vì bóng kỷ niệm chỉ hiện lên khi có ánh sáng ân tình. 
Để tránh sự chung đụng xác thịt mỗi ngày một hiếm hoi và miễn cưỡng, Ba Gấm phải nài ép quan Chánh Chưởng cưới người hầu thiếp thứ năm. Cặp vợ chồng hãnh diện và hạnh phúc đi bên nhau trước mắt mọi người có khi chỉ là hai cái bóng. Mặt trời và hai con người thật của họ đã lặn từ phía bên kia đồi thời gian.
Ba Gấm cười buồn. Tiếng nói rơi vào lặng lẽ:
- Còn lại một nửa đời sau đối với em có lẽ quá dài để sống.
Nâng bình trà Nội phủ, rót một nửa vào hai tách trà trước mặt, Trí Hải góp lời:
- Nửa ly đầy, nửa ly cạn.  Cũng chỉ là nửa ly nước mà người nầy cho là "còn đầy nửa ly", kẻ khác lại cho là "cạn hết nửa ly"! Nửa đời sau quá dài hay nửa đời sau quá ngắn; đầy hay cạn, ngắn hay dài cũng chỉ là những ý nghĩ chủ quan có gì quan trọng đâu. Quan trọng là hiện tại mình có đang sống thực hay không. Dĩ vãng qua rồi và tương lai chưa đến. Cái đã qua và cái chưa đến đều nằm ngoài tầm tay. Quên hiện tại thì sống cũng như chết vì sống với hai bàn tay không thì sống chết đèu vô nghĩa như nhau. Nếu cứ kéo dài cái chết trong cái sống thì thêm nửa đời sau dài ngắn cũng bằng không.
Trí Hải trầm ngâm như đang đọc lại những trang sách của mình.
Không có tiếng trả lời của Ba Gấm. Trí Hải nhìn những tàn cây xanh. Hai người đều bình thản quá.
Thực tại, trái với những ngày qua, chỉ cần hình dung lại chút hình ảnh của Ba Gấm thoáng qua trong đêm cầm chầu là Trí Hải đã cảm thấy đầu mình rộn lên với bao ý nghĩ đầy mơ mộng, xen lẫn với cảm giác rạo rực, ấm áp. Nhưng bây giờ đối mặt, gặp nhau riêng tư trong khung cảnh hữu tình cây lá mơ phai của mùa Thu, cả hai lại ngỡ ngàng im lặng. Ba Gấm đã để ra hơn nửa ngày kể chuyện đời mình. Trí Hải lắng nghe, nhấm từng lời nói, hình dung từng hình ảnh, nghĩ về từng sự cố. Cả hai vẫn lặng yên. Lời nói xa xôi là những luồng gió nhẹ. Thường giữa cơn cuồng phong  là tâm bão. Không có một chút gió. Tình cảm lọt vào vùng tâm bão là sự lặng yên, như vô tình.  Vẻ vô tình nằm chính giữa trục quay của những cơn gió cuốn ghê hồn đang lay đổ ngoài kia.
Hơn nửa ngày gặp nhau. Trời đã tối. Ba Gấm ra về. Hai người chào tạm biệt nhau, nét mĩm cười nói nhiều hơn tiếng nói.
Chỉ khi hai dòng sông tách nhau, mỗi bên mới nhìn ra được con nước ròng hay con nước lớn và hướng chảy trong lòng nước của mình. 
Dòng suy tư của Trí Hải như trái cây vừa chín. Vàng hươm, mọng nước, nhưng  mất sự tươi tắn bén nhạy bình thường. Tất cả còn lại là nỗi nhớ. Cái nhớ leo dần. Nhè nhẹ đi từ cảm xúc mơn man được gặp một người lạ mà rất quen. Cảm xúc cao hơn chút nữa là tâm tình, chia sẻ. Cuộc sống vốn lạnh lùng với những hình thức giao tiếp hời hợt, có vẻ như gần gũi mà vẫn xa lạ ngoài nhau, nay có hai người đi vào thế giới của nhau không gài then cửa. Cảm giác được tiếp nhận, thuộc về nhau nhen lên ngọn lửa ấm áp, gần gũi. Tuồng như phía bên kia là một phần thân thể của chính mình. Khi một phần thân thể mất đi, có một sự réo gọi, kêu đòi vô hình lặng yên nhưng hết sức thường xuyên và mãnh liệt. Ăn, uống, ngủ, làm... vẫn không một nháy mắt quên đi phần thân thể tách lìa cần khép lại. Trí Hải cảm thấy yếu đuối. Người ta có thể đánh thắng con quái vật hiện hình, nhưng khó nhất là làm sao chế ngự được nỗi khát khao  đang réo gọi từ bên trong.
Một người ái mộ mình và cũng là người mình ái mộ. Một người trải lòng ra với mình và mình cũng tự nguyện trải lòng ra để đón. Không có hàng rào chắn nào dựng lên giữa hai người. Nỗi nhớ là tên phù thủy tai quái nhất của tình cảm. Nỗi nhớ nhân thành hai, thành bốn, thành mười sáu... và cứ thế nhân lên cho đến một lúc nào đó hai kẻ cùng nhớ nối liền cảm xúc, chung một dòng sông, hòa quyện với nhau. Không còn thiếu một ngày, cô nữ hầu tâm phúc, nhưng lại mù chữ Hán, chữ Nôm của Ba Gấm mang đi và mang về liên tục những tờ thư viết và gởi từ cả hai phía. Ngôn ngữ "nói với người kia" thu dần khoảng cách để nói với chính mình. Gọi mình: "Mình ơi!" Đó là tiếng gọi của sự cuốn hút tình cảm giữa hai người cùng lạc loài giữa mênh mông tìm nhau, tìm về nhau, tìm đến nhau và tìm lại khát vọng của chính mình.
Một lần, Ba Gấm hỏi Trí Hải trong thư đi:
"Huynh ơi! Thế nào gọi là thương"?
Và thư lại:
"Thương là khi hai người cùng về một phía."
"Và cùng nhìn về một phía?"
"Không! Nhìn mọi phía mà chẳng có phía nào để nhìn cả."
"Thế thì nhìn vào đâu?"
"Không nhìn vào đâu cả!"
"Vậy thì thương là mù?"
"Mù hay sáng là cách nói của những người đứng ngoài để phê phán. Khi thương thật tình thì không còn phê phán. Phê phán là một cách dò hỏi tìm đường để cho hay giữ lại tình thương. Mẹ thương con không dò hỏi hay phê phán mà tình thương như suối nguồn trút xuống. Bạn bè thương nhau không tính toán hơn thiệt; không đong đếm cân đo. Người đàn ông, đàn bà thương nhau là đi vào đời nhau như hai dòng nước gặp nhau; trong hay đục, ấm hay lạnh đều hoà tan vào nhau mà không còn biên giới."
"Nhưng vẫn có thương mà hận, thương mà buồn, thương mà vẫn gian dối, thương mà không gần nhau được thì sao?"
"Đó chưa phải là tình thương đích thực mà chỉ là một khuynh hướng của tình thương hay chỉ là một mảng ngọt ngào của tình cảm đem cho và sẵn sàng lấy lại."
"Huynh và em có thương nhau thật không?"
"Có!"
"Nghĩa là huynh sẽ không bao giờ lấy lại?"
"Thôi! Thua.  Không trả lời được."
"Hì! Hì..."
Cô nữ hầu của Ba Gấm chỉ thấy nụ cười vui trên khuôn mặt thường đăm chiêu của Trí Hải.
Rồi một ngày vắng thư. Trí Hải băn khoăn. Lo cho mình thì ít mà lo cho Ba Gấm thì nhiều. Cô ấy buồn? Cô ấy giận? Cô ấy không khỏe hay cô ấy gặp chuyện bất thường. Nhiều khi Trí Hải bất mãn với chính mình, tự đay nghiến sự yếu đuối của mình, nhạo báng cảm xúc ngây ngô của chàng trai mới lớn nơi mình vì đầu óc thường xuyên nghĩ về Ba Gấm. Bao nhiêu kiến thức sách vở chẳng giúp ích gì được cho cố gắng tuyệt vọng một cách êm đềm để tìm ra một vài khoảng trống nhỏ cho riêng mình. Ba Gấm có mặt khắp nơi. Mở sách Chu Dịch luận về càn khôn, âm dương ngũ hành sinh khắc, cũng thấy Ba Gấm hiện hữu nơi đó. Ba Gấm là càn khôn, là vẻ đẹp tuyệt vời mà tạo hóa đã sinh ra. Mở những tác phẩm mình đã viết và đã từng tha thiết, tiếc nuối đến quặn mình vì cứ ngỡ là đã bị thiêu hủy theo vụ án "văn chương phản nghịch", may nhờ Ba Gấm sao chép lại, Trí Hải cũng không tài nào thoát khỏi sự ám ảnh của Ba Gấm. Nghĩ đến bàn tay thoăn thoắt ghi lại từng trang sách, không quan tâm tiền rừng bạc bể trước mắt để chép lại từ những trang tốc ký trong suốt ba năm, Ba Gấm càng có mặt gần gũi với Trí Hải hơn bao giờ hết. Trí Hải nhìn vào khoảng không, nét chữ cuồng thảo của Ba Gấm lại bay lượn như bướm hoa trưóc mắt. Trí Hải nhắm  mắt, mùi nước hoa Antoinette và tiếng cười trong, diễn cảm lạ lùng của Ba Gấm lại đến. Cố tìm một điểm tựa cuối cùng mà Trí Hải đặt ở tầm cao và chỉ khi nào cấp thiết nhất mới dùng đến. Đó là sự tĩnh tâm, dưỡng trí, định thần mà nguời tu theo đạo Phật gọi là thiền định.  Ngồi xếp bàn an tịnh trong vài ba phút, vọng tưởng về Ba Gấm lại khởi lên. Trí Hải cố tưởng tượng tập trung về một tiếng chim Anh Lạc, giọng nói hồn nhiên ríu rít như chim của Ba Gấm lại về. Cố gạn hết bụi bặm của suy tư để mong tìm sự rỗng lặng, đầu óc Trí Hải lại lang thang với những câu hỏi mang nhiều ý nghĩa riêng và tư chưa được trả lời trọn vẹn của Ba Gấm.
Trí Hải tự hỏi: "Tại sao ta không thắng được mình; tại sao ta không thể làm chủ chính mình để cho một hình ảnh và cảm xúc đến hay đi vào hồn ta như đi vào gian nhà trống thế kia?" Trí Hải nhớ và suy nghĩ đến hai chữ "dính mắc" của thầy Tiều: "Dính mắc vì lòng ta không có then gài cửa khóa hay vì cánh cửa trống đón nhận mở toang?" Nhớ lại mình đã từng thao luyện và thành công về cái "trí không" trong cuộc đối đáp với Lê Trung Ẩn và nhóm sỹ phu Bắc Hà, Trí Hải lần theo thời gian và càng nhớ rõ hơn là mình đã từng có cái trí không dính mắc để tạo ra được những thế cờ muôn phương đánh bại Hàn Kỳ Vương. Thế nhưng tại sao bây giờ lòng Trí Hải lại bấn loạn giữa cuộc tương giao với Ba Gấm. Càng cố thoát ra, càng bị dính chặt. "Ta không còn là ta của ta thuở ấy nữa sao...?" Trí Hải thất vọng với chính mình và tự hỏi tiếp.
Ngày thứ ba vắng tin, Trí Hải bồn chồn chờ đợi. Cô nữ hầu của Ba Gấm mang tin đến. Thư viết:
"Huynh ạ. Em sợ. Em cố ngoi lên cho thoát khỏi nỗi nhớ quay quắt nầy, nhưng em đã thua và đang bị nỗi nhớ đó đánh bại. Em hiểu là huynh cũng chẳng hơn gì em.  Em đợi huynh. Cùng giờ, chỗ cũ..."
Trí Hải thoáng ưu tư. Sự dính mắc sâu đến mức khó gỡ ra được như nhận xét của thầy Tiều qua tiếng trống chầu sẽ đi về đâu.
Ba Gấm và Trí Hải như sợi dây đàn và cần gảy của một cây độc huyền cầm. Phương tiện cần để cho cây đàn bầu đơn giản đã có sẵn. Chỉ cần một ngón đàn điêu luyện là sợi dây đàn và cần gảy đơn độc kia sẽ ngân lên tiếng đàn muôn điệu.
Hai người lại quấn quýt tìm nhau.
Tri thức, địa vị, hoàn cảnh, tiếng tăm xã hội là phương tiện tốt để cho người ta biết nhau, nhưng đó là chướng ngại xấu để cho người ta gần nhau. Biết nhau để tò mò, so sánh, nhờ cậy... thì dễ. Biết nhau để mà thành thật gần gũi nhau đã khó. Gần nhau để làm bạn lại càng khó hơn.
Có lần, Ba Gấm hỏi Trí Hải:
- Huynh ơi! Chúng ta biết nhau bao lâu rồi và thời gian có phải là thước đo chính xác sự gắn bó tình cảm giữa hai người không?
- Giữa chiều cao của trời đất, chiều rộng của sông hồ, chiều dài  của đất nước còn có một chiều đáng nói nữa mà mọi người thường quên, đó là chiều sâu của thử thách hay độ bền của thời gian.
- Hì. Hì! Dạ thưa... trật!
- Tại sao?
- Trong tình cảm thì không những chỉ có bốn chiều huynh vừa nói mà có rất nhiều chiều. Đặc biệt trong tình yêu nam nữ thì lại có thể có vô số chiều.
- Vô số là bao nhiêu, là những chiều nào?
- Vô số là vô số. Không đếm được và cũng không kể tên hết được.  Có bao nhiêu cảm xúc, bao nhiêu rung động, bao nhiêu đổi thay... thì có bấy nhiêu chiều tương xứng. Có khi tất cả mọi chiều cùng về lại với nhau thành một điểm. Người ta gọi điểm đó là “tình yêu”. Hì, hì!  Ngụy biện nhưng mà đúng quá phải không huynh? Nếu huynh muốn đếm, muốn gọi tên thì trước hết phải biết tình yêu là gì trước đã.
- Thế thì theo Ba Gấm, tình yêu là gì?
Ba Gấm trả lời theo cách suy nghĩ riêng, sau những năm dài chiêm nghiệm về một đời sống hôn nhân mà chẳng có bóng dáng tình yêu của chính mình:
- Tình yêu là một điểm có vô số chiều và vô số chiều ấy tụ thành một điểm. Vì chưa ai từng diễn tả cho đúng ý nghĩa một nụ hôn của hai người yêu nhau, nên cũng chẳng ai biết được ý nghĩa thực sự của tình yêu là gì. Nếu có hằng hà sa số người yêu nhau, thì cũng có hằng hà sa số cảm xúc khác nhau mà chỉ có hai người mới biết.  Thậm chí, cảm xúc của người nầy cũng hoàn toàn khác với người kia giữa hai người yêu nhau. Cho nên yêu là đi tìm và chia sẻ sự cô đơn. Càng tìm, càng chia sẻ, càng cô đơn. Nên tình yêu là một cuộc hành hương tình cảm không có giới hạn. Khi một trong hai người yêu nhau tuyên bố rằng, họ tìm được nhau và biết được tình yêu trong nhau là khi tình yêu tự nó chấm dứt. Tình yêu tự nó không còn nữa, nhưng cái đà thói quen và ham muốn vẫn còn. Người ta chỉ còn sống tiếp những ngày tình yêu bên trong vắng bóng với sự biểu hiện bên ngoài như ghen tương, hoài nghi, hoan lạc, đau khổ, mong muốn, chán chường… Nguồn cảm xúc phi tình yêu đó có khi kéo dài suốt một đời còn lại mà hai người trong cuộc chẳng ai nhận biết hay tự nhận rằng họ đang sống có Tình mà chẳng có Yêu.
Trí Hải nhìn những sợi tóc lòa xòa làm mạng che khuôn mặt của Ba Gấm thành khói sương. Đọc sách và giao tiếp đã nhiều, nhưng Trí Hải chưa từng gặp một người phụ nữ nào có sự suy tư độc lập và linh hoạt về cảm xúc và tình yêu của con người đến như thế.
Một cảm giác rung động nhẹ nhàng và vui vui chợt đến, Trí Hải hỏi:
- Nhưng tất cả đó mới chỉ là một khung cảnh trang hoàng “rất Ba Gấm” cho một triết lý tình yêu. Một định nghĩa tình yêu vẫn còn vắng bóng. Thế Ba Gấm có một định nghĩa về tình yêu của riêng mình không?
- Dạ, có chứ!
- Yêu là...?
- Là có nhau, trong nhau, một lần và mãi mãi.
- Vì sao phải trong nhau?
- Trong nhau vì biết hy sinh và thương quý nhau. Không hy sinh và thương quý thì vẫn còn đứng bên ngoài nhau mà phán xét. Hai kẻ đối mặt nhau để mà phê phán thì làm sao chấp nhận nhau để mà thương yêu nhau, phải thế không huynh?
- Vì sao chỉ “một lần” rồi mãi mãi…?
Hỏi pha một chút đùa vui. Cả khuôn mặt, giọng nói và tiếng cười của Trí Hải đều trẻ lại.
- Lên đến đỉnh núi cao nhất một lần là đã lên tới Đỉnh Trời. Những lần đến được những đỉnh núi thấp hơn thì không tính vì cao không bằng. Nhưng dẫu có nhiều lần lên đỉnh núi cao nhất thì cũng chỉ lập lại như một lần lên tới Đỉnh Trời chứ không còn lên cao hơn được nữa, nên dẫu có nhiều thì cũng như một mà thôi.
Ba Gấm trả lời và hỏi lại Trí Hải bằng một giọng rất lém lỉnh:
- Huynh đã có bao giờ được “một lần” đó chưa hỉ?
- Lần nào?
- Lần lên tới được Đỉnh Trời.
- Chưa.
- Thử.
- Thử gì?
- Leo.
- Leo gì?
- Núi.
- Cần không?
- Cần chứ. Không leo sao tới được ngọn Đỉnh Trời…
Ba Gấm và Trí Hải mỗi ngày càng cảm thấy gần nhau hơn. Những câu hỏi, câu trả lời trước kia về thương, về yêu... càng ngày, càng dần dần trở nên chênh vênh, nhạt nhòa đến gần như vô nghĩa.
Không cần phải nói gì cả; cũng chẳng cần phải giải thích gì cả mà ngọn lửa tình bên này và bên kia, dẫu ngăn sông cách núi, vẫn cảm thấy hừng hực hơi nóng khi chỉ cần nghĩ đến.
Tình yêu nửa đời là một sự sáng thế giữa trần thế vốn khô lạnh và quạnh quẽ nầy. Khi người ta yêu, thế giới nầy bỗng nhiên đổi khác.  Mọi người, mọi vật quanh ta đều như có tâm hồn thánh thiện và dáng dấp đẹp đẽ, dễ yêu. Người ta có thể cười rất vô cớ với một đám mây trên trời xa hay rung động vì tiếng con dế mèn thấp thỏm trong đêm. Người ta có một tâm hồn lúc nào cũng đầy vị tha. Thể xác được tắm trong tình yêu sẽ thành tươi mới. Dòng máu luân lưu rần rần trong cơ thể làm cho người ta đẹp hơn. Chàng trai sẽ nhìn đời bằng tia nhìn hiệp sĩ và cô gái má chín ửng hồng, xinh xắn tự nhiên hơn mười lần son phấn. Chỉ cần nghĩ đến người tình, da thịt đã gây gây như thể có bàn tay đang ve vuốt vô hình. Trí Hải đã từng sống đời vợ chồng, nhưng người đàn bà chỉ là người vợ, chưa phải là người tình. Khá lắm thì cũng chỉ là đi song song chứ chưa bao giờ thật sự ở trong nhau. Ngưòi vợ truyền thống là người em để phục tòng, người chị để chăm sóc, người mẹ để an ủi bao dung, người đàn bà để làm tình và sinh đẻ. Vợ chồng là để thương nhau chứ không phải để yêu nhau; để chăm sóc và lo lắng cho nhau như một người vợ, người chồng chứ không phải để chia sẻ, mơ mộng, nhớ nhung, xao xuyến, tình tự, lãng mạn như một người tình. Vợ chồng cưới nhau rồi là giống như sắm một cỗ xe song mã. Cô dâu và chú rễ trở thành hai con ngựa ngoãn ngoãn và miệt mài cùng cong lưng kéo cổ xe gia đình nặng trĩu cho đến ngày cả hai cùng răng long đầu bạc, con cháu đầy đàn. Hầu hết những cặp vợ chồng Việt xưa có tất cả, biết tất cả, trừ chất vị tuyệt vời sóng sánh của tình yêu.
Tình yêu tự nó là một nghệ thuật, nghệ thuật đòi hỏi sự sáng tạo và tô điểm thường xuyên như những đóa hoa tươi vẫn nở mỗi ngày. Tình yêu cũng là sự ngạc nhiên khám phá. Khám phá ra nét phù du, niềm cảm xúc ẩn chứa trong mỗi con người. Khám phá ra sự bùng vỡ mong manh của thể xác để đập vỡ biên cương của thể xác cho hai thế giới đam mê cùng tan loãng và hoà quyện với nhau.
Ba Gấm khám phá thế giới tri thức và tâm hồn của Trí Hải từ hơn mười năm trước qua những tác phẩm văn chương mà chàng hoàng thân một thời tuổi trẻ đã viết. Trí Hải khám phá Ba Gấm qua giấc mơ dài hơn nửa đời. Giấc mơ của những mối tình vương giả từ trăng và thơ, từ những chuyện tình trong cổ sử, từ bóng dáng tình tự lãng mạn trong đời sống Paris và cung điện Versailles. 
Gặp nhau, không phải tình cờ mà cũng chẳng phải định số. Đấy là sự đợi chờ của một viên ngọc quý nằm ẩn trong tim. Viên ngọc không tên, không hình dáng, trong suốt như chẳng có gì. Nhưng khi có luồng sáng đợi chờ dọi đến, viên ngọc sẽ ánh lên nghìn hào quang. Tia hào quang mắt thường của nhân gian không thấy, nhưng hai người yêu nhau bỗng thấy chói lòa và tan biến trong nhau. Từ đó, kẻ có tình yêu nhìn trăng không phải là trăng; nhìn mây không phải là mây... vì tất cả đều đã đổi khác. Cả hai cùng cười trong khổ đau, cùng khóc trong sung sướng, cùng quằn quại trong nỗi đam mê cùng tột mà kẻ đứng ngoài thấy không đáng ba xu.
Trong tình trường, người đàn bà bao giờ cũng hơn người đàn ông nửa bước vì người đàn ông xuất thân là gã lãng du mà người đàn bà xuất thân là mẹ. 
Ba Gấm báo tin:
- Huynh ạ. Em sắp đi xa. Em sẽ đi thuyền tới Quảng Châu, rồi từ đó đi đường bộ lên Hàng Châu. Tất cả hàng vải vóc băng qua Con Đường Tơ Lụa xuyên lục địa và sa mạc sẽ đổ đến Hàng Châu. 
Trí Hải ngạc nhiên:
- Làm chủ kinh doanh lớn như Ba Gấm mà cũng phải trực tiếp cất công đi nhận hàng sao?
- Người mình rất thiện xảo về tài đánh giặc du kích hay tinh xảo trong cách lách mình để sống, nhưng trong thương mãi chỉ giỏi về tiểu xảo. Nếu em không trực tiếp tự tay mình chọn mặt hàng rất nghệ thuật, độc đáo và tự tay bấm nhãn hiệu "Ba Gấm" thì có lẽ đã có nhiều hiệu Ba Gấm giả mọc lên khắp nơi rồi.
- Muội phải hết sức vất vả để kiếm cho nhiều tiền sao?
- Dạ không hẳn vậy, nhưng nghệ thuật sống khó lắm. Ông vua có quá nhiều quyền lực nhưng phải biết giữ quyền lực. Em đã có quá nhiều tiền nhưng phải biết giữ thế làm tiền. Cũng như huynh có quá nhiều kiến thức nhưng cũng phải biết dùng kiến thức. Vua vụng sẽ bị cướp ngôi. Kinh doanh như em không khéo cạnh tranh sẽ dễ dàng sạt nghiệp. Hiểu biết như huynh không biết dùng sẽ thành người ảo tưởng, nói suông.
Trí Hải mỉm cười, nhìn sâu vào đôi mắt đẹp vẻ man mác buồn của Ba Gấm:
- Cám ơn muội đã nhắc nhở. Tôi vẫn sợ nhất là thành người ảo tưởng, nói suông.
Ba Gấm cười rất xinh làm át đi chút mây mờ vừa thoáng qua với Trí Hải:
- Đừng nghĩ vậy, huynh. Trí Hải là một nghệ sĩ tài hoa. Nghệ sĩ không làm cho trái mau chín, lá mau vàng nhưng làm cho cuộc đời này đẹp hơn và con người thánh thiện hơn.
Gió xào xạc trút lá trên mái căn nhà kiếng. Lá xanh, lá đỏ, lá vàng, lá khô lay lắt với gió giữa hoàng hôn làm cho khung cảnh buồn và lãng mạn. Vẻ cô tịch nên thơ dễ làm cho những tâm hồn đang miên man trong tình cảm chưa biết sẽ về đâu gần nhau hơn. Ba Gấm ngỏ ý:
- Em muốn được kính mời huynh uống trà và ăn bánh nguyệt quế trong dịp Trung Thu này. Chỉ còn ba hôm nữa là đến rằm tháng Tám.
Trí Hải tỏ vẻ hơi ngần ngại:
- Dạ tiệc Trung Thu ở dinh quan Chánh Chưởng?
- Dạ không. Chỉ có em và nửa vầng trăng trong đêm Trung Thu từ ngày em mới lớn.
- Còn nửa vầng trăng kia?
- Chưa mọc huynh ơi!
- Vì trăng non?
- Dạ không. Trăng đúng độ nhưng em vẫn để dành một nửa...
- Dành cho ai?
- Cho tình cờ, cho số phận, cho định mệnh... Ơ! mà em cũng không biết dành cho ai nữa.
Gió ngoài kia mà Trí Hải có cảm tưởng như gió lạnh đang thổi vào tai của mình. Cảm giác ngây ngây lay đổ làm Trí Hải cảm thấy yếu đuối. Ý nghĩ  âm thầm, "có chăng ta là nửa vầng trăng kia?" khiến Trí Hải lo âu trong hạnh phúc. Cửa thiên đường và địa ngục vừa hé. Cả hai cùng một lối vào mà chỉ khác nhau về ngã rẽ. Trí Hải hình dung hai cái bóng từ cõi sống vừa đi vào cửa nhà trời. Mất hút.
Trăng trên sông là trăng sáng nhất vì trăng ngời bóng nước. Trên chiếc đò chỉ có hai người. Đêm thượng nguồn sông Hương ẩn hiện trong khói sương kỳ bí. Xa về phía Tây, có trái đồi hình dáng như chén ngọc chứa đầy sương trăng là đồi Vọng Cảnh. Chuyện truyền kỳ kể lại, xưa khi chưa có bóng người thì nơi đó chỉ có dấu chân tiên. Cuộc tranh thắng giữa người và tiên nhập nhằng cả mấy trăm năm. Người thắng, người về trần; tiên thua, tiên cỡi chim phượng hoàng bay về núi Kim Phụng. Từ đó, đồi Vọng Cảnh trở thành Đồi Thiêng nên chẳng ai dám đến. Lâu ngày, những cơn mưa nguồn cuốn sạch những bàn cờ tiên trên vách đá, mé sườn Đông. Đồi Vọng Cảnh thành hoang phế. Nghìn năm sau, chỉ còn cỏ tranh lơ thơ trên đất sỏi.
Giữa lòng chiếc đò dọc có mui che, bàn trà bày sẵn bên ngoài, dưới ánh trăng dịu mát. Tiếng ấm nước sôi vi vo trên lò than thoảng mùi hương rất lạ làm cho vầng trăng có vẻ xuống thấp hơn để ánh trăng cùng chan hòa với nước. Sông vẫn trôi mãi về xuôi. Ba Gấm chèo đò thong thả ra giữa sông. Trí Hải ngồi trong mui đò nhìn về phía lái.  Ba Gấm trong bộ quần áo màu đen bó sát. Thân hình đang độ chín tới của người đàn bà một con vừa thon thả, vừa cân đối một cách đầy đặn, uốn lượn với mái chèo dưới trăng thật khoan thai và linh động. Vì chỉ là người chèo đò giải trí trên sông nên từ thế đứng đến thế chèo của Ba Gấm đều để lộ ra vẻ lúng túng như thể đang mời gọi người khác đến tiếp tay một cách đầy cuốn hút. Người đàn ông vẫn thích ngắm vẻ đẹp của người đàn bà từ một góc khuất hơn là khi mặt đối mặt nhìn nhau. Đến giữa dòng sông, đò gác mái. Đò, sông, trăng và người... cũng lặng lờ trôi theo nước.
Ba Gấm bước vào khoang thuyền. Thuyền du lịch tư nhân có ba ngăn riêng biệt. Ngăn trong cùng được dùng như một nhà kho thu gọn. Trong đó chỉ chứa một cây đàn bầu, cái bàn độc tấu, cái ghế mây và cái áo khoác độc đáo vừa có dáng ki-mô-nô của Nhật, vừa có dáng đại yến phục của Trung Hoa và dáng tứ thân của truyền thống Việt. Ba Gấm khoác áo. Chiếc áo choàng đài các phản chiếu ánh nước đầy trăng càng làm tăng vẻ đẹp rực rỡ đầy thâm cung và bí ẩn của người đàn bà thầm lặng trong đêm. Ba Gấm lễ mễ ôm cây đàn bầu và bàn ghế trình tấu ra ngăn ngoài làm phòng khách. Trí Hải ngạc nhiên mở to mắt nhìn Ba Gấm với cây đàn bầu như một hiện tượng lạ lùng chưa từng thấy. 
Đàn bầu là nhạc cụ độc đáo và hấp dẫn nhất trong kho tàng nhạc cụ Việt Nam. Nó chỉ có một dây nhưng là cây đàn muôn điệu. Trí Hải đã đi từ Đông sang Tây, đã chen chân tới khắp hang cùng ngõ hẻm và các đại nhạc viện quốc tế ở Paris nhưng vẫn chưa bao giờ thấy cây đàn nào lạ lùng và siêu tuyệt như cây đàn bầu. Những cây đàn một dây nổi tiếng thế giới như đàn Tung-ti-na của Ấn Độ, Đàn Cung ở vùng Đông Phi, đàn Độc Huyền Cầm (Tu-shuen-kin) của Trung Hoa đều là những cây đàn đệm hòa theo ban nhạc, không đứng độc lập để tạo ra âm vang muôn điệu như cây đàn bầu Việt Nam. Những nhạc sĩ đàn bầu đạt tới mức thượng thừa có thể đưa âm thanh tiếng đàn bắt chước cả tiếng người và thú vật. Âm thanh đàn bầu có thể cao vút như chim bay trên núi cao,“nga nga hồ chí tại cao sơn”; hay trầm xuống sâu thẳm dưới dòng nước chảy, “dương dương hồ chí tại lưu thủy”. Ở mức thông thường thì âm thanh đàn bầu rất mộc mạc, chân quê nhưng sâu lắng đến vô cùng.
Vừa nắn nót lên dây, sắp sẵn bàn ghế để dạo đàn, Ba Gấm vừa kể chuyện đời mình đã gắn bó với cây đàn bầu ra sao.
Đàn bầu có cấu trúc rất đơn giản. Nó mang tên là “bầu” vì nguyên thủy đàn bầu được làm từ ống tre và quả bầu khô. Cây đàn được cải tiến dần từ tre sang gỗ. Một cây đàn bầu lỳ tưởng phải hội đủ hai yếu tố “mặt ngô thành trắc”, nghĩa là mặt đàn phải làm bằng gỗ lưng của cây ngô đồng vừa xốp vừa nhẹ. Thớ gỗ óng chuốt thẳng hàng thì mới tạo ra tiếng ấm mà vang. Khung và thành đàn làm bằng gỗ trắc hoặc gụ vừa bóng láng lên nước rất đẹp, lại vừa bền. Cần rung hay đôi khi còn được gọi là vòi đàn của loại đàn bầu sơ khai cũng làm bằng tre. Dần dần chuyển qua làm bằng sừng trâu. Bầu đàn được lấy từ quả bầu khô hoặc càng về sau thì được tiện bằng gỗ.
Lượng âm thanh của đàn bầu nằm ở cấu trúc của thân đàn, nhưng cái phẩm âm thanh của đàn bầu là ở dây đàn có chiều dài chạy suốt thân đàn. Ngày xưa chưa có dây đàn kim loại, người ta dùng tơ tằm xe thành sợi. Ba Gấm từ thuở tập tểnh biết làm những công việc nhỏ giúp gia đình chuyên sống bằng nghề trồng dâu, nuôi tằm, lấy tơ dệt lụa. Riêng đối với Ba Gấm thì công việc thích thú nhất vẫn là se tơ tằm thành sợi dây đàn bầu.
Đàn bầu ở vùng quê Ba Gấm làm bằng ống tre và eo trái bầu tròn, bầu nậm khô. Đàn quá dễ làm nên hầu như nhà nào cũng có. Đàn bầu ở vùng quê Ba Gấm hết sức giản đơn về hình thức nhưng tiếng đàn lại ăn đứt những vùng lân cận trong những cuộc hội diễn đàn bầu vào các dịp hội hè đình đám. Bí quyết độc đáo chỉ có một mình Ba Gấm biết. Tơ tằm lấy từ loại kén mầu cổ đồng óng ánh là tốt và bền nhất. Dây đàn xe lại từ loại tơ nầy sẽ cho một thứ âm thanh vừa bền, vừa vang và sâu không loại nào bì kịp. Trong lúc dây đàn kim loại thì âm thanh sắc mà khô; tơ tằm loại thông thường thì cho âm thanh trầm mà nhão.
Mặc dầu về sau nầy, đã có dây đàn bằng kim loại để thay thế cho dây bện bằng tơ tằm, nhưng Ba Gấm vẫn xe riêng bộ dây bằng tơ tằm tuyệt hảo nhất để dùng riêng. Ngón đàn bầu với dây tơ tằm nầy chỉ dùng để đãi khách tri kỷ, tri âm…
Tầm nhìn của Ba Gấm bỗng tan vào đêm trăng khi bàn tay vừa chạm vào cần đàn.  Người nghệ sĩ đang trình diễn cũng như một thi sĩ đang làm thơ, một nhà văn đang sáng tạo. Họ là một thiền sư đang nhập định. Tất cả mọi năng lực thể xác, tri thức và tâm linh đều dồn tụ lại trong cơn say sáng tạo. Thiền sư và nghệ sĩ đều cảm thấy đang sống, đang bay lượn, đang tỉnh thức, đang trọn vẹn đạt đến hạnh phúc tuyệt vời trong giây phút hiện sinh.  Hiện sinh của nghệ sĩ là sáng tạo, trình diễn. Hiện sinh của thiền sư là tâm bụi trần đang hòa vào tâm vắng lặng trong thiền định.
Khúc Phụng Vũ dập dồn như đang bay lượn bỗng chậm lại. Âm thanh luyến láy như đang quặn mình bay qua từng kẻ tay của Ba Gấm đang uốn lượn trên cần đàn. Khúc Tương Biệt nói lên nỗi lòng gặp nhau để mà chia xa, rắc xuống lòng người những mảnh vọng âm buồn hiu hắt. Trước mắt Trí Hải, người đàn bà với vị thế Chánh Chưởng phu nhân mờ dần và lặn đi mất dạng. Trí Hải thấy trước mắt mình dãi tóc đen tuyền là dòng sông đêm. Khuôn mặt che nửa bóng trăng là hoa đền thánh. Dáng nghiêng là suối nguồn đê mê đang đổ xuống. Và đôi bàn tay tài hoa làm dấy lên điệu buồn tương biệt đang xóa mất biên giới giữa ta và người. Trí Hải muốn dang tay thật rộng để ôm lấy, níu lấy hết thảy những gì đang nép mình trong cảm xúc.
Đêm càng khuya, trăng càng sáng. Cái lạnh giữa mùa Thu trên sông làm cho trăng và nước như ấp ủ nhau khiến hai người đơn độc xích lại gần nhau, thu dần khoảng cách. Hơi ấm trên vai, hơi ấm trên tay tan loãng rất nhanh. Ba Gấm rùng mình kéo tấm chăn gấm khoác lên vai Trí Hải cho đỡ lạnh. Trí Hải cố thu mình nhỏ lại để chia nửa tấm chăn cho Ba Gấm. Nhưng tấm chăn quá nhỏ, không đủ che vai cho cả hai người. Gió khuya về trên sông. Đò chòng chành. Cái lạnh kéo hai người sát nhau. Khi hơi ấm trở thành nguồn sống, da thịt sẽ tê đi để chỉ còn hơi ấm. Vai sát vai không còn khoảng cách. Họ ngồi như thế rất lâu. Im lặng. Xúc cảm đê mê, cuốn hút chuyền nhau qua đôi vai sát cánh.
Chiếc đò không người lái, theo chiều gió trôi dạt vào bờ lau lách hoang vu ven sông. Tiếng vỗ cánh thảng thốt của bầy cò ăn đêm từ rừng lau sậy làm kinh động bầu không khí tĩnh lặng hoang sơ. Cánh trắng lấp loáng mầu trăng tung lên giữa không gian và xa dần về phía núi. Âm thanh xao xác của đàn cò cánh dài vẫy nước tạo ra một cơn mưa trăng rây nước xuống đò. Trí Hải và Ba Gấm dìu nhau cùng nhảy vào mui đò khép kín để tránh mưa. Cơn mưa nhỏ qua nhanh như hơi thở nhưng cũng đủ mạnh để bật lên tia lửa đam mê cháy bỏng của cuộc tình.
Khi những cảm giác sâu lắng nhất của nhục thể đã bừng bừng trổi dậy trong một cuộc tình đắm đuối và đam mê, hai con người bỗng khám phá ra nhau. Người nầy biết được mình có một sự hiện hữu khác bằng sự dấn thân tự nguyện hết mình cho và nhận với người bên kia. Hai người là hai nửa thân xác chia lìa từ khi mới sinh ra tìm nhau hòa làm một. Quằn quại, bức phá, đau đớn và hoan lạc cùng mất hết biên giới để tan biến trong nhau. Nguồn tinh lực của hai bên đều vươn tới đỉnh điểm để phóng vào trận lửa của khát vọng. Một giấc ngủ đắm say, một giấc mơ kỳ diệu hòa quyện với nhau trong suối nguồn của hạnh phúc. Ba Gấm và Trí Hải đã mất hết ý niệm về thời gian và không gian. Một thoáng mắt sẽ dài như trăm năm và một mảnh da thịt cuồng say hơn bão tố. Cả hai cùng ngấu nghiến nhai trái cấm trong mê đắm, trong đêm dài. Tất cả dồn tụ vào cảm giác say sưa, thỏa mãn, rã rời, buông thả cho một giấc ngủ vùi tưởng như không bao giờ còn dậy nữa.
Trăng lặn. Mảnh sáng đầu tiên trên sông là đèn chài. Hai thân xác cùng thức giấc tìm nhau, tìm nguồn khơi động sự đam mê đang chực chờ nằm sẵn trong mỗi con người. Lửa tình lại cháy. Hai thể xác quấn lấy nhau và cơn mưa tình dồn tụ bao nhiêu năm lại ào ào trút xuống.
Nhưng nửa mùa Thu sau thương tiếc vẫn về. Đêm hưởng trăng Trung Thu hết. Bình minh lên và chia tay.
Tình dục là con sói hoang dại của tâm lý chiếm hữu. Khao khát tình dục là cơn đói thường xuyên của cảm xúc trong một thể xác bình thường. Khi không có đối tượng lôi cuốn, cơn đói lắng xuống và âm thầm tràn vào các ngõ ngách của thân thể, của ý thức và vô thức như bầy sói phải chui vào các hang động để trốn tuyết mùa Đông.  Khi mùa Xuân tới, nắng ấm tràn đầy như khi gặp đối tượng cuốn hút, bầy sói lại hau háu dùng mọi xảo thuật khôn khéo nhất để vồ mồi. Lại ăn no hả hê, nằm ngủ, đi loanh quanh kiếm mồi chờ cơn đói khác tiếp theo.
Sinh vật sống với bản năng thuần túy, tình dục diễn ra bình thường như  đói thì ăn, khát thì uống. Tình dục là một thú tính. Con người là một sinh vật nhân văn nên tình dục thường biến tướng và biểu hiện dưới muôn ngàn thể cách. Nhờ đa dạng như vậy mà con người có thể "làm tình" bằng sự lựa chọn. Sự lựa chọn gần với thú tính tại các nhà thổ. Sự chọn lựa gần với nhân tính tại các nhà ở. Và sự lựa chọn "tình là đạo" tại các nhà tu. Nỗi đam mê tình dục là sự ám ảnh thường xuyên, là động cơ thường trực thôi thúc của vật và người.  Thú tính và nhân tính là hai mặt không lìa nhau trong cùng một con người bình thường. Khi tình dục chỉ là sự thèm khát xác thịt mà vắng bóng tình yêu thì đi gần với thú tính. Nếu tình dục là kết quả của tình yêu thì đi gần với nhân tính.
Qua những tháng ngày cuồng nhiệt với sự chín muồi của tình yêu và nỗi đam mê tình dục, cái nhân tính trong Trí Hải bắt đầu máy động.  Sau mỗi trận bão tình, Ba Gấm thường nằm ngủ ngon lành với khuôn mặt tươi hồng lấm tấm mồ hôi và vẻ thỏa mãn hiện lên trên nét mặt, dáng nằm như trẻ thơ. Trí Hải mắt ráo hoảnh, nhìn vào khoảng không trên trần nhà và tự hỏi: "Ta là ai bây giờ? Một người tình, một người chồng, một người đàn ông, một nhà quý tộc, một kẻ đi tìm nghĩa sống lạc đường, một gã lấy vợ người khác, một tên bất lương... hay ta là ai, là ai nữa?" Cuộc tình với Ba Gấm càng sâu đậm, những câu hỏi càng lớn dần. Thảng thốt.
Khi cả Trí Hải và Ba Gấm hiểu nghĩa của tình yêu, nếm trải qua đỉnh điểm lạc thú của tình yêu thì những xao động nhất thời từ từ tĩnh lại. Từ trên đỉnh cao của sự lắng đọng, cả hai phóng tầm nhìn thật xa về mình, về nhau, về những gì đang vây quanh. Cái tĩnh lặng của viên chủ tướng vừa thắng trận trong đêm viễn chinh thường trống trãi một cách bất ngờ. Khi đỉnh núi cao nhất đã phơi dưới chân; khi vùng đất xa nhất đã nằm trong doanh trại, đoàn thám hiểm sẽ múa hát quay cuồng trong giây lát rồi cũng phải đối diện với cái trống vắng của Vô Cùng. Lắm khi, chiến thắng cũng là tro tàn của hy vọng, nếu chỉ chiến thắng thân xác và khối óc nhưng cái hồn vẫn còn vô định, lang thang...
Thân xác và tâm trí dồn tụ vào cuộc tình, Trí Hải sống như cái bóng mơ hồ trong một góc còn ở được của tòa lâu đài gần như đổ nát. Một cuộc tình, dù kín đáo và khéo léo tới đâu thì cũng là một sự hiện hữu nóng bỏng dưới ánh mặt trời. Hai người yêu nhau có thể dấu được tất cả, nhưng làm sao dấu được chính mình. Niềm hạnh phúc tươi mới thuở ban đầu lắng xuống trong ly nước trong của sự suy nghĩ sẽ trở thành nỗi trăn trở. Từng hạt mưa lấm tấm rơi xuống cuộc tình oan trái mỗi ngày một nặng hạt hơn. Trí Hải phải đối diện với tấm gương soi bóng chính mình. Tấm gương soi bóng đầu tiên là vẻ buồn lặng lẽ của Phạm Xảo. Viên tướng già như voi trận đã từng xông pha ngoài trận mạc không bao giờ chấp nhận thần tượng hay vị thống soái chỉ huy mình sa đọa và hèn nhát. Từ ngày đầu dấn thân vào cuộc tình với Ba Gấm, Trí Hải đã thấy được tia nhìn trách móc, tuy nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc của Phạm Xảo hướng về mình. Tia nhìn càng ngày càng dữ dội.  Nếp sống im lặng trong êm đềm và thông cảm giữa hai người như đang rộn lên với tiếng gào câm nín của Phạm Xảo. Trí Hải cảm thấy đau nhói mỗi lần bắt gặp đôi mắt đăm chiêu và đôi môi mím chặt đầy nghiêm khắc của Phạm Xảo khi người đóng vai lão bộc mềm nhũn ngày xưa,vẫn hàng ngày pha trà, nấu cơm cho mình đang có cái nhìn đổi khác.
Mỗi đêm trước giờ đi ngủ, Trí Hải không bao giờ bỏ quên thú đọc sách. Bậc trí giả đọc sách là chuyện trò và chia sẻ. Độc giả bình thường đọc sách là thu nhận và lắng nghe. Bởi vậy người cầm bút như kẻ cầm kiếm. Thiếu tri thức, vắng chân tâm xách bút làm kiếm chém bậy chém càn thì không khác gì tên tội đồ bạo hành nơi công cộng. Đêm nay, Trí Hải đọc hoài mà thần trí cứ khơi vơi, không thể nào hòa nhập vào câu chuyện chữ nghĩa đang bày ra trước mắt. Hình ảnh quyến rũ của Ba Gấm, nổi bật với chất keo mềm mại trên thân thể, đường cong thu hút, hơi ấm êm ả, mùi da thịt nồng nàn, màu mắt môi ẩn dấu đã làm cho Trí Hải chỉ còn là cái xác đối bóng với sách, thần hồn, thần trí bay tận đâu đâu. Tác giả cuốn sách không phải là tên bạo hành. Nhưng người đọc chỉ là ngọn đèn không có bấc nên ánh sáng không biết tựa vào đâu để soi vào chữ nghĩa. Đã bao đêm như vậy. Trí Hải vứt sách trên gối, đi ra sân. Bầu trời sao vẫn long lanh thăm thẳm, nhưng Trí Hải lại có cảm tưởng hàng loạt con sao đang nhảy múa cười nửa miệng; rúc rích mĩa mai trên đầu mình. Một tâm hồn và trí óc từng làm chủ vũ trụ, bây giờ đang bị vũ trụ bắt làm con tin trong khung tình nhỏ bé. Trí Hải ray rứt, ưu tư, phiền muộn và nôn nóng muốn tháo gỡ cái khung vây bủa lấy mình để bay ra khỏi lưới tình mà trở lại với vũ trụ bao la trên đầu, trước mắt mình, nhưng mọi khung cửa đều khóa chặt. Ba Gấm có mặt khắp nơi. Chỉ cần một bàn tay nuột nà vuốt nhẹ của Ba Gấm là Trí Hải đã bủn rủn chân tay, khuỵu xuống trong trùng vây êm ái của ân tình. Tình yêu là bùa ngải của cảm xúc; tình dục là phép lạ của ham muốn. Trí Hải yếu đuối trước tình yêu và bị chinh phục hoàn toàn bởi tình dục.
Nỗi bức xúc muốn thoát ra khỏi trùng vây của đam mê không mạnh hơn chính cơn sốt của đam mê. Cuộc chiến đấu giữa phải và trái, đục và trong, lương tri và khoái lạc, đạo lý và buông thả càng ngày càng bão liệt hơn trong lòng Trí Hải.
Chàng Thiện trong Trí Hải lên tiếng:
"Này ông Hoàng, yêu đương ngoài vòng luân lý là sai trái. Tư tình với vợ người khác là trái đạo. Hái trộm một cành hoa có chủ là bất công với người làm chủ."
Gã Ác trong Trí Hải phản bác ngay:
"Ai cho phép tên đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp; trong lúc bó buộc người đàn bà phải chính chuyên một chồng. Mỗi người chỉ có một cuộc đời ngắn ngủi để sống, tại sao lại cấm cản khi hai người thật sự yêu nhau."
Chàng Thiện cãi lại:
"Con người ta sống cần phải hợp với đạo lý. Ngoại tình là hành động đồi phong bại tục."
Gã Ác bác bỏ:
"Cái gọi là đạo lý chẳng qua là sản phẩm của một xã hội, một giai cấp, một giống người tự đặt ra để phục vụ cho quyền lợi nhất thời, trước mắt của mình. Sống lâu với những cách ứng xử nào đó thành thói quen. Thói quen lâu đời thành phong tục tập quán. Tại sao khi cần con người lại không có can đảm quăng cái thói quen lâu đời kia vào hố rác để tự do thỏai mái và thật sự sống cho mình. Sống nô lệ cho tập quán, dư luận là uổng phí một kiếp người ngắn ngủi."
Mới chia tay với Ba Gấm trên chiếc đò neo giữa sông Hương lúc quá nửa đêm, Trí Hải nằm thức đến sáng vẫn chong mắt không tài nào ngủ được. Cuộc đối thoại nội tâm dật dờ đẩy tới kéo lui làm Trí Hải muốn ôm đầu trốn chạy để tìm một giấc ngủ bình yên, nhưng ngựa đã lên yên khó lòng dừng lại.
Trí Hải tìm đến am thầy Tiều lúc trời chưa sáng. Từ sau hàng dậu bông cẩn cao quá đầu người, Trí Hải đã vẳng nghe tiếng tụng kinh sớm của thầy Tiều. Tiếng tán, tiếng tụng ngân nga, phát ra âm đìệu trầm lắng, phảng phất một thoáng buồn buồn nhưng đầy an lạc. Trí Hải bước nhẹ chân vào trước cửa ngôi nhà cổ. Thầy Tiều vừa tụng kinh xong, ngồi xếp bàn tĩnh tọa. Cũng là khung cảnh quen thuộc cũ nhưng sao Trí Hải cảm thấy xa lạ vô cùng. Tất cả khung cảnh ấy và tiếng kinh kia vẫn điềm nhiên an trú trong một cõi hư không tịch mịch nào đó mà xác thân nầy đã thay đổi. Trí Hải có cảm tưởng tay mình đã nhúng chàm. Nhìn vào bệ thờ, Trí Hải mường tượng như những cuốn kinh, những bình hoa lạnh lùng quay mặt về nơi khác. Trí Hải tự dưng quay lưng bước ra khỏi cửa am. Sương mai và cây cối đua nhau thức dậy cười sặc sụa chê cười. Tiếng gà gáy sáng cất lên thông báo cuộc tình vụng trộm của Trí Hải.
Lòng muốn vùng bỏ chạy vì bị ám ảnh. Chốn kia thanh sạch quá cho thân xác lấm bụi này. Phải trốn. Phải tránh. Những cơn mê cuồng ham muốn của hai thể xác đã để lại nhiều dấu tích trên hình hài và tâm não của Trí Hải. Bao nhiêu vết sẹo của dục vọng chưa liền da giờ thi nhau mở miệng, rỉ máu. Nhức buốt. Nỗi đau nhức từ cảm xúc dị thường đau réo hơn là vết cắt trên da thịt. Trí Hải không tài nào giở chân lên được, ngồi gục xuống. Một bàn tay mát lạnh đặt lên sau gáy. Trí Hải không quay lên nhưng biết ngay là bàn tay của thầy Tiều:
- Thầy!
 Trí Hải thì thầm nói với thầy Tiều. Tiếng thầy Tiều nhẹ nhàng:
- Vâng, tôi đây. Mời quý hữu về am dùng trà, ở đây lạnh lắm.
Trí Hải tựa trên vai thầy Tiều bước về ngôi nhà cổ.
Bình trà nóng có ai vừa pha sẵn để bên khay trà đặt trên chiếu ngồi. Trong vùng ánh sáng sớm mai, bên chén trà buổi sớm, Trí Hải ngồi đối diện với thầy Tiều. Trí Hải đang chờ đợi một thái độ của thầy Tiều. Nếu không phải là cái nhìn đầy phê phán lẫn xót xa như Phạm Xảo thì ít ra thầy Tiều cũng có đôi lời trách cứ nhẹ nhàng. Nhưng đôi mắt thầy vẫn như mặt hồ trong không vướng một bóng mây. Tất cả chỉ có mặt hồ trong như pha lê và bầu trời xanh lồng lộng trên cao. Nhìn sâu vào đôi mắt thầy Tiều, Trí Hải mới hiểu sâu hơn về khái niệm "không dính mắc" mà thầy Tiều thường nói đến. Ánh mắt thầy đậu trên tất cả mà dường như chẳng đậu vào đâu. Ý nghĩ thầy dàn trải mọi hiện tượng của cuộc sống mà chẳng đeo mang nỗi vui buồn của cuộc sống.
Trí Hải gợi ý trước:
- Lâu nay tôi vắng mặt thường xuyên nên ít khi gặp thầy. Thầy có thắc mắc là tôi đi đâu không?
Giọng thầy Tiều bông đùa dễ dãi:
- Đời người ta có nhiều lần đi chơi và một lần đi thật. Không đi chơi lỡ một ngày "đi thật" thì còn đâu nữa mà đi chơi!
- Ý tôi muốn nói về sự quan hệ của tôi...
- Với Ba Gấm?
- Thầy đã biết hết mọi chuyện?
Thầy Tiều lắc đầu:
- Chuyện riêng của chư quý hữu, tôi biết để làm gì?
Trí Hải hỏi lại:
- Thưa thầy, tôi nghĩ thầy cũng cần biết chuyện của những người xung quanh thầy. Biết để khen cái tốt mà theo đuổi và để chê cái xấu mà bỏ đi chứ thầy!
Thầy Tiều lại cười tủm tỉm:
- Căn cứ vào đâu để biết tốt xấu, hay dở đây?
- Thì đúng với quy ước xã hội là tốt mà trái với quy ước xã hội là xấu.
- Lỡ như quy ước xã hội thay đổi nghịch chiều thì sao? Tỷ như ngày xưa ai theo Tây Sơn là tốt, nhưng ngày nay ai theo Tây Sơn là xấu, là bị chém bêu đầu thì biết đâu biên giới đúng, sai?
Trí Hải đi ngay vào đề nói về hoàn cảnh riêng của mình:
- Như trường hợp tôi đang có tình riêng với Ba Gấm là đúng hay sai?
- Không sai, không đúng; không đúng, không sai.
- Ô, tại sao lại kỳ lạ như thế hở thầy?
- Đúng sai chăng thì cũng chỉ xét tình cảnh trong hiện tại mà thôi.
- Nếu không xét trong hiện tại, chả lẽ lại xét từ thuở chưa sinh ra hay sau khi chết đi?!
Thầy Tiều ngồi trong thế xếp bàn một hồi lâu, rồi thầy lên tiếng.  Giọng nói rõ và chậm của người vừa thức dậy sau giấc ngủ trưa:
- Đúng vậy quý hữu à. Trong chuỗi dài ân tình vay trả, trả vay thì chẳng thiếu một tơ hào mà cũng chẳng thừa một mảy may. Không có gì mất đi mà cũng chẳng có gì được lại cả. Lấy một giọt nước của biển cả thì biển cả mất đi một giọt nước. Tác cạn biển Đông thì biển Đông mất đi một biển nước. Nhưng trong cuộc xoay vần của tạo hóa thì tất cả là một khối nguyên vẹn. Lấy một hạt bụi nơi này thổi qua nơi nọ thì nơi nầy sẽ thiếu một hạt bụi và bên kia thừa một hạt bụi.  Chỗ thiếu sẽ tìm sự bù đắp và chỗ thừa sẽ đẩy đi. Tạo hóa xoay vần, biến dịch nhưng mãi mãi vẫn ở trong một thế quân bình mà các tôn giáo gọi là Trung Đạo. Số phận, việc làm, cảnh ngộ của con người cũng biến đổi thường xuyên nhưng không bao giờ ra khỏi cái thế tuần hoàn quân bình đó của tạo hóa. Quy luật quân bình đó gọi là nhân quả, là vay trả hay gọi là gì cũng được. Mọi việc xoay vần tuồng như vô hình vô ảnh nhưng không ai có thể ra ngoài sự xoay vần đó. Có người gọi luật xoay vần đó là "lưới trời" là "thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu", có nghĩa là lưới trời lồng lộng, thưa nhưng không ai lọt ra khỏi.
Ngẫm nghĩ một lát, Trí Hải hỏi thầy Tiều:
- Thầy có nghĩ là mọi việc xảy ra đều do duyên tiền định không?
- Tôi không nghĩ những đìều xa xôi như thế, nhưng tôi tin vũ trụ có một sự quân bình tuyệt đối. Vòng quay luân hồi; sinh lão bệnh tử... chỉ là sự chuyển động của vạn vật để tự điều chỉnh cho hợp với quy luật quân bình đó.
- Như vậy việc tôi tư tình với Ba Gấm có nằm trong sự chuyển động theo quy luật quân bình đó không?
- Đó là quy luật khách quan, không ai tránh khỏi.
- Đã làm theo quy luật khách quan thì hành động chỉ còn là những tác động qua lại chứ đâu còn sai hay đúng nữa, phải không thầy?
Trí Hải hỏi, thầy Tiều giải thích:
- Nếu chỉ đứng ở vị trí hiện tại thì cuộc tư tình giữa quý hữu và tín nữ Ba Gấm là một điều sai trái, một hành động tội lỗi. Nhưng nếu đứng trên đường dây của dòng đời sinh diệt không ngừng từ vô thủy thì hôm nay cũng chỉ là một bến tạm ghé qua trong chuỗi dài vô tận. Những ai dính líu trong cuộc tình này như hoàng thân, Ba Gấm, quan Chánh Chưởng và ngay những người trong gia đình của họ hay kể cả những người gần gũi với quý hữu như Phạm Xảo, như tôi, như cả xã hội này đều có sự dính dáng, mắc mớ với nhau trong chuỗi dài của những kiếp sống bất tận đó. Cuộc tính toán nợ nần chi ly, giây mơ rể má nầy với nhau chẳng mang ý nghĩa đúng, sai, tốt, xấu gì cả vì tất cả đều phải quay theo cái quy luật quân bình của tạo hóa.
Trí Hải nắm hai tay lại, hỏi:
- Như vậy, con người hoàn toàn bất lực trước quy luật quân bình của tạo hóa sao?
Thầy Tiều mở rộng hai tay, trả lời:
- Buông tay chỉ vì muốn buông tay mà thôi.
- Ý thầy muốn nói "buông tay" là không chịu chống lại cái quy luật quân bình đó phải không?
- Thật ra cái quy luật đó chính là cái bản năng thú tính tự nhiên trong mỗi con người mà không ai tiêu diệt được cả, vì tiêu diệt bản năng thú tính tự nhiên đó là đồng nghĩa với tận diệt sự hiện hữu của con người.
- Lạ quá thầy ạ. Nếu không diệt dục, diệt tham, diệt sân, diệt si... thì làm sao thầy tu cho yên.
- Trong đạo Phật không có gì là tự sinh ra hay tận diệt được cả. Tất cả xuất hiện dưới hình thức nầy nọ, cao thấp khác nhau chỉ là sự biến tướng. Nhưng thật ra thì vạn pháp đều bình đẳng.
- Khi tu, lòng dục của thầy đã biến tướng như thế nào?
- Hà, hà! “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ!” Hình như sinh hoạt ngoài đời người ta hay nói đùa theo kiểu nầy phải không? À, mà hoàng thân cũng chỉ quen sống khép mình trong dinh thự và sách vở thì đâu biết chuyện ngoài đời nhiều.  Câu nói đùa đó cũng nói lên được ý nghĩa của tinh thần tự chứng. Quý hữu đứng ngoài, có lẽ không hiểu được lòng dục của những người đi tu chuyển hóa như thế nào đâu. Như bản thân tôi chẳng hạn, tôi cũng có lòng ham muốn dục tình nam nữ trong lứa tuổi thanh xuân như bao nhiêu người trai trẻ khác. Lòng ham muốn sôi nổi từ từ dịu lại khi tôi cố tránh không nghĩ đến nó. Cuộc chiến đấu ban đầu rất mực khó khăn. Trong hoàn cảnh cô đơn, kham khổ, con người buông thả với chính mình thường rất dễ tìm một lối thoát dễ dãi. Lối thoát tự nhiên và đơn giản nhất là nghĩ tới hay hành động dục tình. Cửa thiền rộng mở khi cửa ngõ tình yêu trai gái và cửa lòng ham muốn dục tình khép kín. Hai cánh cửa không bao giờ cùng mở hay cùng đóng. Người có duyên tu thì cửa thiền rộng mở, cửa tình khép chặt. Người bị nghịch chướng thì hai cánh cửa nầy thường chỉ mở hé hay khép hờ nên vào cũng khó khăn mà ra cũng vướng vít. Khi tôi đã xuống tóc, khoác áo nhà tu, thường có một tiếng sấm nổi lên hàng ngày làm át đi âm thanh du dương quyến rũ của ái tình. Đấy là tiếng kinh, tiếng vọng từ muôn trùng thánh thiện dấy lên trong tôi. Tôi tựa vào hải triều âm vi diệu đó mỗi ngày, mỗi phút. Và có một bức thành chắn cao vời vợi chận đứng tia nhìn, cảm xúc riêng tư thành cái nhìn, cảm xúc chung. Trước mắt tôi, chẳng có một đối tượng nào, kể cả gia đình, cha mẹ, anh em, người tình, người bạn thuộc về riêng tôi. Vì vậy, cảm xúc của cá nhân tôi cũng không đậu trên một người, một vật nào cả. Khi không có sở hữu riêng tư thì mặt trời, mặt trăng, mặt đất nầy là của chung. Mặt trăng, mặt trời không phát ra ánh sáng cho riêng tôi nên cũng chẳng có ai trên mặt đất nầy ôm ấp hay ban phát tình cảm riêng cho tôi. Từ đó tôi yêu đương tự do. Yêu người không phân biệt giới tính và nhẹ nhàng như yêu vầng mây ấm.
Đã từ lâu, Trí Hải bắt gặp trong đôi mắt của thầy Tiều một nét gì đó rất lạ lùng. Ánh mắt thầy lúc nào cũng như những rặng núi xa xăm.  Trong mắt thầy không có một bến bờ ghé đậu. Cá tính, dáng vẻ của mỗi con người hình như chẳng có độ nhám để bám vào ánh nhìn không có thành trì biên giới của thầy.  Với ý nghĩ đó, Trí Hải hỏi thầy Tiều:
- Vậy thì vào chùa là cách tốt nhất để xa lánh chuyện tình nam nữ giữa đời, phải không, thưa thầy?
Thầy Tiều lúc lắc đầu, cười và nói:
- Thất tình, đi tu để khỏi đối diện với sự thật là đi ngược lại tinh thần vắng lặng nhưng lại đầy sức mạnh âm thầm từ bên trong của cửa chùa. Chùa chiền, tự viện là nơi tự mình đối diện với những dục vọng của chính mình, rồi từ đó tìm phương hóa giải. Ngoài đời thường, người ta dùng dục vọng lớn hơn để bao phủ hay đè bẹp những dục vọng nhỏ hơn. Dục vọng biến tướng và người ta hiểu lầm rằng dục vọng không còn nữa như một ông nhà giàu cho người nghèo của tiền bố thí để lấy lại tiếng khen. Ông ta chỉ tính gạo tiền đổ ra mà không tính cái hư danh mình đang lấy lại.
- Nếu như tôi muốn ra khỏi vòng vây của tình ái thì phải làm sao?
- Đừng trốn chạy vì không có chỗ nào trốn được cả. Người ta có thể trốn được một xã hội nhưng sẽ không có ai trốn được chính mình. Sống với nó, nhìn thẳng vào nó để thấy được những ngón tay bạch tuộc của nó bám chặt vào đâu và gỡ ra khỏi đời mình.
- Nói thì dễ nhưng làm khó quá.  
- Vâng, khó thật! Riêng tôi thì gỡ bàn tay của dục vọng một mình làm không nổi nên tôi phải nương tựa vào lớp áo nhà tu.
- Thế thì ai cũng phải đi tu như thầy mới tìm được tâm vắng lặng sao?
- Mỗi người đều có căn cơ và phước đức riêng. Có một định lực vô hình nhưng nó đóng vai trò gần như quyết định cho mỗi cuộc đời riêng mà người ta quen gọi đó là định mệnh hay số phận.
- Ai là kẻ quyết định cho số phận đó hở thầy?
- Theo cách hiểu thông thường của nhà chùa thì cái định lực vô hình đó là sự tích lũy sau cùng của tất cả những ý nghĩ, lời nói, việc làm của mỗi người gồm cả cái được và cái mất, cái tốt và cái xấu, cái thiện và cái ác gọi là nghiệp.
- Nghiệp! Một sức mạnh vô tình, lạnh lùng và độc ác đến thế sao?
- Nghiệp do mình tạo chứ có ai trừng phạt hay ban phát cho mình đâu. Rượu không bắt mình say, tiền không bắt mình mắc nợ. Say vì tự mình uống quá chén; mắc nợ vì mình xài quá nhiều.  Đừng uống rượu quá đà thì khỏi say. Làm tiền ra nhiều hơn tiêu tiền thì có tiền dành để lại trong tay.
- Nghĩa là mình có thể làm chủ nghiệp của mình?
- Ồ, tất nhiên rồi quý hữu à. Người ta có thể cải nghiệp, giải nghiệp hay không tạo nghiệp.
- Hành động hôm nay là hạt giống cho số phận ngày mai hay đời sau. Tu không phải là chỉ có hình thức vào chùa để làm trụ trì, lên sư ông, thành sư cụ mà tu là tự mình làm thanh sạch cho cái tâm của mình để giải bớt nghiệp chướng cho chính mình bằng cách gieo hạt giống cho ngày mai.
- Có chăng một vùng đất lý tưởng để gieo giống cho đời sau?
- Ba ngàn thế giới, gieo đâu mà chẳng được, miễn sao là giống lành.
Trí Hải lập lại lời sau cùng của thầy Tiều mà cảm thấy lòng ấm lại như vừa có một nơi nương tựa:
"Ba ngàn thế giới, gieo đâu mà chẳng được, miễn sao là giống lành."
CHƯƠNG MƯỜI CHÍN
Bụi Tình 
Đêm chia tay trên sông. Dòng nước sông Hương mềm lại. Bến bờ chìm sau biển sương mù và khói nước ven sông vây phủ như thế giới chỉ còn hai con người trong lòng thuyền đang sống. Cảm giác có nhau trong tay và nhớ nhau ngày sắp tới khiến những người tình chưa xa mà đã nhớ. Họ muốn hong khô những giọt nước càng thấm càng đầy làm trôi nổi dòng cảm xúc. Dù đã cho và nhận tận tình trên xác thân không tiếc nuối, họ vẫn muốn gửi nỗi thương nhớ còn quyến luyến vào mớ hành lý mai sau. Nỗi say mê không đong hết được khi tâm lý níu kéo dùng dằng ra đi và ở lại đang diễn ra trước bình minh của một ngày đang tới và sẽ lùi dần vào một buổi chiều chia xa. Ba Gấm sẽ khởi hành đi Hàng Châu trước khi trời tối. Từ cửa biển Thuận An, đoàn thuyền buôn của Ba Gấm sẽ căng buồm nương theo gió mùa, trực chỉ mé Đông Bắc. Nếu thuận buồm xuôi gió thì chỉ trong ba ngày đêm là tới đảo Hải Nam. Từ đó, thuyền sẽ chạy ven theo bờ biển Trung Quốc trong cuộc hải hành xa nghìn dặm đến vịnh Hàng Châu.
Tiếng reo hò của đám vệ binh tuần tra thủy diện làm Trí Hải choàng tỉnh dậy. Nỗi ám ảnh nặng nề đối với Trí Hải trong lúc này là sự tưởng tượng cảnh quân sĩ tuần tra phát hiện được Ba Gấm và Trí Hải đang tư tình với nhau trên một chiếc đò buông lái giữa thượng nguồn sông Hương. Thuyền quan quân gươm giáo tua tủa đang tiến nhanh về phía đò của Ba Gấm và Trí Hải. Với bản chất tự tin và trầm tĩnh đến độ lạnh lùng, Trí Hải ngồi nhìn đăm đăm những ánh lửa đang nhấp nhô di chuyển về phía mình. Dường như trên những đốm lửa phù du đó mọc lên lắm cảnh hệ lụy phi lý của kiếp người: Hận thù đối mặt với yêu thương, kềm kẹp đối mặt với tự do, xảo trá đối mặt với chân thành, bạo động đối mặt với bình an, đau khổ đối mặt với hạnh phúc... Trí Hải nhắm mắt lại trong cảm gác bàng hoàng chợt đến là tại sao mình phải đứng trước hoàn cảnh này. Bên này là nỗi đam mê tận tình của khát vọng hồn nhiên; bên kia là danh vị cao sang của người đời quy ước. Khi sự lựa chọn là con đường nghịch chiều, kẻ được chọn lựa thường đứng trước ngã ba: Ngã ngược, ngã xuôi và ngã thoát! Trí Hải cần một ngã thoát mà tìm mãi chưa ra.
Ba Gấm lách mình ra khỏi mui đò với dáng nhẹ nhàng và thản nhiên mà trong bóng tối không ai hình dung được vẻ mặt Ba Gấm là đang cố đương đầu hay sợ hãi. Thuyền tuần tra đã cặp sát vào đò Ba Gấm. Người đội trưởng tay cầm cây đèn gió đang cháy phừng phực, tay kia cầm đại đao cán dài nhảy lên trước mặt Ba Gấm hỏi bằng một giọng đầy thị uy uy gần như nạt nộ:
- Ai là chủ đò?
Ba Gấm trả lời bằng cái giọng bất chấp của một người kẻ cả:
- Ba Gấm!
Viên đội trưởng tuần tra gằn giọng hỏi dồn:
- Ba Gấm là tên nào? Ở đâu? Làm nghề gì?
Ba Gấm trả lời với vẻ lạnh lẽo và cứng rắn:
- Ngươi không cần biết. Quan tổng giám sát đội phòng ngự thủy diện của ngươi ở đâu, ngươi cấp tốc đi trình báo đến đây nói chuyện với ta.
Người đội trưởng tuần tra có vẻ như đã quen với sóng nước giang hồ, nhận ra ngay sức mạnh quyền thế trong giọng nói của người đàn bà đang đối diện với mình, xuống giọng hỏi lại:
- Bẩm, thế thì xin hỏi phu nhân đây quý danh là gì ạ?
- Ba Gấm.
Người đội trưởng không hỏi thêm gì nữa và nhanh chân lùi lại phía thuyền mình với quân lính canh phòng vẫn còn án binh bất động, đốt đuốc đợi chờ. Trong một khoảng ngắn thời gian hút chưa tàn điếu thuốc, thuyền lớn chỉ huy đã cặp vào đò Ba Gấm. Quan tổng giám sát nhẹ nhàng bước sang đò Ba Gấm, niềm nở chấp tay vái chào thân mật một cách lịch thiệp:
- Dạ, trình phu nhân, xin phu nhân thứ lỗi cho tên tiểu tốt đội trưởng.  Hắn vừa mới được thuyên chuyển từ ải xa về nên chưa biết đại danh của phu nhân. Hạ quan xin phu nhân đừng chấp nhất.
Ba Gấm tươi cười đáp lễ:
- Chuyện nhỏ, xin quan tổng đừng bận tâm. Tiện thể, có món quà nhỏ xin biếu quan tổng lấy thảo.
Quan tổng đã quá quen thuộc với những "món quà nhỏ" như thế nên càng hăm hở chấp tay vái tạ:
- Cảm đội ơn phu nhân. Phu nhân lúc nào cũng hào sảng, chu đáo hèn gì quan quân người người đều cảm phục.
Quan tổng nhét vội hai nén bạc vào hầu bao và cung kính kiếu từ qua thuyền mình rồi ra lệnh cho toán thuyền tuần tra tránh xa khu vực quanh thuyền Ba Gấm.
Chưa quen với lối ứng xử đầy vẻ giang hồ một cách bất thường, Trí Hải mở to mắt theo dõi sự việc đã diễn ra trước mắt, lên tiếng hỏi:
- Sao một vị quan của triều đình nắm quyền tuần tra trên mặt sông lại có thể khúm núm trước mặt Ba Gấm đến như thế? Vì sợ uy quyền của quan Chánh Chưởng chăng?
- Không phải đâu huynh ạ. Quyền hạn của quan chánh chưởng đâu có lan xa đến những vùng sông nước hẻo lánh như thế này.
- Nếu vậy thì uy quyền của Ba Gấm là do đâu mà có?
Ba Gấm cười nhẹ:
- Chuyện chen chúc giữa đời nhiều khi không đáng để bận tâm huynh ạ. Mà huynh cần biết để làm gì cho mệt trí?
Trí Hải lắc đầu vì sợ bị hiểu lầm là thóc mách, lên tiếng:
- Ồ không. Tôi chẳng có ý tò mò hay phê phán em đâu. Nhưng thắc mắc vì tự mình không tìm ra lời giải đáp hợp lý đó thôi.
Ba Gấm trả lời gọn lỏn:
- Tiền!
- Chỉ thế sao?
- Dạ phải.
Một phản ứng tâm lý gần như bất bình chạy vào ý nghĩ của Trí Hải.  Quen với đời sống cung đình và hoàng phủ, Trí Hải chỉ biết mọi việc trên bề mặt huy hoàng của phấn son, trang hoàng và nghi lễ. Những chuyển động thực sự nấp sau dáng vẻ uy nghi và nghiêm cẩn thật là khó hiểu. Trí Hải cảm thấy như chính lòng tự trọng của mình bị thương tổn khi biết quan quân triều đình cũng bị đồng tiền sai khiến. Trí Hải hỏi một cách nghiêm nghị:
- Như thế có nghĩa là Ba Gấm đã đút lót, hối lộ phi pháp cho các viên chức triều đình, phải không?
Ba Gấm đọc được vẻ căng thẳng và hoài nghi trong lời của Trí Hải nhưng vẫn hồn nhiên và tươi cười giải thích:
- Dạ, huynh. Trên cao nhìn xuống thì có lẽ tiền cho quan tổng là hối lộ và phi pháp, nhưng đi vào đời sống thực tế thì đó cũng chỉ là chuyện đời thường. Huynh nhìn quanh kinh thành và các vùng lân cận sẽ thấy. Nếu chấp hành đúng phép công thì bất cứ quan nào xây phủ đường, xây dinh thự đều đáng tội nghiêm trị, lưu đày hết. Lương của các quan chưa đủ nuôi sống và sắm sửa xe ngựa, áo gấm, tường loan... cho bản thân và con cháu đầy đàn, năm thê bảy thiếp, làm gì có tiền dư để xây phủ, xây dinh. Hơn ai hết, huynh đã biết rõ quy chế lương bổng của triều đình rồi. Thế thì tại sao làm quan lớn, giàu lớn; làm quan nhỏ, giàu nhỏ. Ai làm quan chức cũng sung sướng giàu sang là do đâu. Tiền của từ đâu ra? Nếu không phải là tiền hối lộ, ăn cắp, xoay xở, cắt xén, bòn rút từ mồ hôi nước mắt của dân đen thì chẳng lẽ tiền từ trên trời rơi xuống?
Trí Hải có cảm giác lành lạnh từ đỉnh đầu chảy dài xuống xương sống. Sự thật phơi bày quá rõ ràng. Càng che càng rõ. Cái lá chắn cuối cùng là bám vào cụ Khổng để trấn áp mầm mống phản kháng. Phải mang hai hàng rào kiên cố là cha và thầy để làm vòng đai an toàn cho vua. Ba dây cương là quân, sư, phụ hợp tác với năm đức hạnh ngũ thường... là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín trở thành cái gông tinh thần vô hình chụp xuống đầu người dân. Người ta phải sống gương mẫu để tôn thờ và cung phụng guồng máy vua quan cầm quyền. Trí Hải ôm đầu. Ba Gấm hốt hoảng:
- Huynh ơi! Em xin lỗi đã làm huynh lo nghĩ.  Quên hết đi anh. Đeo mang chuyện đời làm mình mất vui. Chỉ còn những giờ hạnh phúc ngắn ngủi bên nhau. Tối nay em đi rồi. Thương nhau đi...
Trí Hải hôn Ba Gấm thật đậm. Nói trong mơ hồ:
- Đi về đâu, em? Ta lạc đường mất rồi. Bao năm, ta nuôi mộng trung quân ái quốc, thương dân hơn thương cả bản thân mình. Nhưng ta đã tự chôn mình giữa những đống sách để mong tìm đường giúp nước, cứu đời. Tìm đến phương Tây, Tây chỉ muốn thay chủ đổi ngôi, nuôi hoàng tử Cảnh để biến vị vua tương lai thành bù nhìn mặt Nam dạ Pháp. Tìm về phương Đông, Tàu chỉ muốn biến nước ta thành châu quận. Tìm về đạo Nho, Nho chỉ dạy cúi đầu bóp bụng thờ vua. Tìm về đạo Phật, Phật dạy phải từ bỏ trần gian nầy để tìm phương giải thoát nơi miền cực lạc. Biết về đâu? Hai phần đời đã xế. Về bên em, Ba Gấm ơi, ta có muôn nghìn hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc nầy cũng chỉ là canh bạc lận dẫu sớm muộn cũng phải đến hồi kết cuộc. Em và tôi đang cỡi mây đi ngoài bốn biển, rồi sẽ rơi xuống nơi đâu. Ai biết...
Ba Gấm áp má mình lên môi Trí Hải, nước mắt ràn rụa:
- Em hiểu anh, cả thể xác lẫn tinh thần. Rồi em cũng sẽ già và thân xác nầy rồi cũng xám tro như thân gỗ mục. Em cũng đã từng trăn trở đi tìm một hướng đời cho có ý nghĩa sống như anh. Ước mơ mình thì cao quá mà cuộc đời này thì lạnh lẽo và tầm thường. Với thân phận đàn bà, em chỉ biết kéo ước mơ về hiện thực. Em cố kéo ước mơ về lại trần gian này. Em cố nhìn trần gian nầy như một quê hương tươi đẹp.
Nét cương nghị ánh lên trong đôi mắt Ba Gấm. Trí Hải nhìn lên, chưa bao giờ Trí Hải thấy Ba Gấm đẹp như lúc nầy. Ngạc nhiên, Trí Hải kêu lên:
- Đẹp! Em đẹp quá. Có phải vì quê hương tươi đẹp trong lòng em đang làm em đẹp lên không?
- Cám ơn anh đã khen em. Em không biết, nhưng em đã giữ đẹp quê hương bằng cách riêng của mình.
- Bằng cách nào?
- Bằng cách thỏa hiệp với cuộc đời. Em cứ cho như đời không đẹp mà cũng chẳng xấu; không khổ mà cũng chẳng sướng. Em mặc cho đời bằng chiếc áo của em. Em đã làm giàu công khai và lương thiện. Em lấy tiền của đời và trả lại cho đời. Em không dùng tiền như đốt pháo bông để làm vui cho đời mà coi tiền của như một phương tiện cứu người khốn khó.
- Người ta có thể vừa làm giàu mà cũng vừa lương thiện được không?
- Dạ, theo em thì được huynh ạ.  Như cây kỳ Nam cổ mộc của Tâm An chỉ là cây rừng hoang dã nhưng đem về bán giá nghìn vàng.  Những bức thư pháp của các nhà danh họa Trung Hoa có thời chỉ đổi lấy con vịt, con gà nhưng kẻ biết sưu tầm thành ra vô giá. Đất ruộng Giang Nam xưa trồng lúa trồng khoai chỉ đủ ăn ngày hai bữa, nhưng có người khai thác trồng quýt trồng cam thu lợi gấp trăm gấp vạn lần. Hàng hóa gấm vóc, tơ lụa của Ba Gấm bán đắt gấp nhiều lần thiên hạ đâu phải là sự tình cờ hay ép buộc. Nhưng để được giá cao như vậy em đã vận dụng hết hiểu biết và kinh nghiệm của một thời cung nữ, học về cái đẹp trong tận cùng khổ nhục. Và đêm nay, em sẽ lên thuyền đi Hàng Châu để chọn mặt hàng. Biển khơi xa nghìn dặm, em có thể bỏ mạng trong giông bão dọc đường ai biết được. Muốn giúp đời, em cần phải phương tiện. Phương tiện trước mắt mà không cần tìm kiếm đâu xa là của cải vật chất. Nhưng vật chất giúp mình và giúp đời chỉ có ý nghĩa  khi được làm ra một cách lương thiện. Cái giàu bất lương làm bằng dối lừa và mưu kế làm sao sánh được với cái giàu lương thiện làm nên do trí tuệ và tài năng.
- Đúng vậy. Xưa nay không ai cấm làm giàu một cách chính đáng và lương thiện. Ngay như đạo Phật coi mọi giá trị vật chất chỉ là hư giả, có là không, thế nhưng đức Phật vẫn khen ông trưởng giả Cấp Cô Độc, người đã đem vàng trải ra để mua khu vườn quý của thái tử Kỳ Đà làm nơi thuyết pháp cho Phật và tăng chúng.
- Dạ, cám ơn sự nhắc nhở đầy ý nghĩa của anh. Nhưng em không dám đi xa hay làm được điều gì to lớn hơn mà chỉ nguyện góp một bàn tay nhỏ vào việc giúp người nghèo khó, hoạn nạn. 
- Ba Gấm đã cứu được ai và ai là người khốn khó?
- Em đã cho và không đợi chờ nhận lại. Người em cho không biết là ai, nhưng em biết đích xác họ là những người khốn khổ. Người nhận cũng chẳng cần biết ai cho, điều họ cần biết là có manh áo, miếng ăn trong cơn khốn khó.
Trí Hải buồn bã thở dài:
- Tôi đang ở đâu đây? Bao nhiêu chữ nghĩa... rốt cuộc, chỉ là một kẻ lạc đường!
Ba Gấm ôm đầu Trí Hải, nhìn thẳng vào đôi mắt thăm thẳm ưu tư:
- Huynh! Không đâu. Huynh không lạc đường khi tấm lòng của huynh còn đầy ắp yêu thương. Không phải chỉ thương em mà thương tất cả...
- Mơ hồ quá! Trái tim thương yêu chỉ mới là con thuyền trống. Thuyền biết chở ai về đỗ bến nào mới là thật sự yêu thương.
- Đúng!
- Đúng là thế nào?
- Là đem yêu thương về chính giữa cuộc đời gió bụi này. Địa ngục là đây mà thiên giới cũng là đây. Con người thuộc về trần gian nên phải đem con người về lại giữa trần gian. Muốn lên thiên giới hay muốn về địa ngục, con người cũng phải qua ngõ trần gian nầy trước đã. Quên trần gian để bước thẳng lên thiên giới là ảo tưởng của những tâm hồn mờ mịt niềm tin. Phi tiểu nhân bất thành quân tử. Nếu đời sống chỉ có toàn là quân tử hay tất cả đều là tiểu nhân thì làm gì có hai bờ đối đãi, tiểu nhân hay quân tử. Nếu không ai có tội thì làm gì có đấng chuộc tội. Đời không đau khổ thì làm gì có đấng cứu khổ.
- Hay lắm! Rất luận hành minh triết. Nhưng đâu là cửa ngõ để bước vào dòng đời thật sự đau khổ hay hạnh phúc. Biết bắt đầu từ đâu trong cuộc hành trình êm đềm mà khốc liệt nầy?
Ba Gấm đặt cả đôi bàn tay êm như gấm vuốt má Trí Hải, trả lời thờ ơ:
- Em không biết nữa. Bên huynh, bên em, phút nầy chúng ta đang sống trong chiếc võng hạnh phúc của cõi trời. Nhưng tối nay, khi em đi, đời vắng nhau rồi, sự nhớ thương sẽ đưa mình về... về địa ngục.
- Thế thì cõi lành cũng ở nơi đây mà cõi ác cũng ở nơi đây...
Trí Hải ấp bàn tay của Ba Gấm đưa lên ngực mình, nơi trái tim đang gõ từng nhịp đời dồn dập.
Ba Gấm nhắm mắt, tựa đầu lên ngực Trí Hải, nói nho nhỏ:
- Em nghe.
- Nghe gì em?
- Nghe tiếng tim anh đập, nghe sự sống của anh.
- Rồi sao nữa?
- Trái tim chẳng biết nói gì hết ngoài những nhịp nhặt khoan vô nghĩa.
- Em đang nghĩ gì?
- Không. Thế anh đang nghĩ gì?
- Không!
- Em cảm thấy quá hạnh phúc trong cái "không" nầy anh ạ.
- Anh cũng vậy...
- Thế làm sao kéo dài cái "không" vô tận hở anh?
- Anh không biết. Em biết?
- Không! Bộ anh biết sao?
- Không!
Cả hai ngồi im lặng bên nhau mà trong nhau. Sự tĩnh lặng mong manh dần dần tan đi với mặt trời xế bóng.
Mộng tưởng cứu cánh... thường xuất phát từ niềm tin tôn giáo. Tôn giáo là một ảo tưởng trong mắt nhìn trần trụi. Nhưng tôn giáo là một thế giới hứa hẹn, thế giới mơ ước, thế giới bên kia trong niềm tin và hy vọng của tâm linh. Muốn qua thế giới bên kia cần phải có một chiếc cầu. Chiếc cầu không hình, không tướng, không sắc, không thanh, không màu, không ở một nơi nào cả. Bởi vậy, chẳng có một thi nhân, văn nhân, họa sĩ tài hoa trác tuyệt nào có thể diễn đạt hay mô tả được chiếc cầu ấy một cách chân xác. Chiếc cầu có có, không không trong rỗng lặng, trong cảm niệm, trong quán tưởng. Khi tất cả mọi cánh cửa của trí óc mở rộng; mọi rào chắn của tâm hồn phá bỏ; mọi suy tư và định kiến có từ muôn thuở tan đi thì vùng đất bên bờ nầy chợt hé ra để có được một khoảng trống làm đầu cầu. Có lúc, chiếc cầu chợt ẩn hiện đâu đó trong vô thức, trong tiềm thức, trong ý thức, trong cảm xúc, trong nụ cười, trong tiếng vọng, trong tình yêu, trong thù hận... trong tất cả. Chiếc cầu có khi chỉ là gang tấc; nhưng cũng có khi dài vô tận. Bao nhiêu người vịn thành cầu, đứng trên cầu, đi qua, đi qua, rồi đi qua... Có kẻ qua được bờ bên kia, có kẻ đứng lại bên cầu, có người vịn cầu chờ đợi và cũng có kẻ đi hoài không tới.
Tình yêu say đắm hay cảm xúc mê say thường chiếm hết khoảng không của trí óc và chiều sâu tâm hồn con người. Khi yêu, những người trong cuộc tình thường say mê chết lặng hay rên rỉ trong tình yêu. Những nghệ sĩ được xem là những người có khả năng và phương tiện rên rỉ bằng nghệ thuật điêu luyện, nên thơ tình, nhạc tình, tranh tình, hát tình... thường có độ rung đầy cường điệu dễ làm say đắm lòng người. Đắm trong suối tình, ướt đẫm đến từng chân tóc, không còn một khoảng trống nào để cho tạo vật và niềm an lạc thanh tịnh chen vào. Và cứ thế, con người vật lộn liên tục với cảm xúc nung nấu phóng ra và dội lại như con thoi cho đến ngày thân xác tan rã. Ba Gấm và Trí Hải cuốn hút nhau trong cơn lốc tình cảm. Khi cuộc tình chuyển qua một khúc quanh, cả hai người tình chợt khám phá ra một thoáng mắt lặng gió. Trong giây phút sắp chia tay, họ không bám víu những gì đã qua, chưa biết gì sắp xảy đến.  Họ vừa đang có nhau mà cũng vừa đang mất nhau. Cả hai chưa có một vọng tưởng nào ngoài khoảnh khắc hiện tại. Họ mở bung hết ngọn nguồn cảm xúc cả tinh thần lẫn thể chất, ngồi bên nhau như hai cụ già đã quá vãng và như hai đứa trẻ chưa sinh trong hiện tại nên chẳng có gì để bám víu, dù là ảo tưởng. Chính sự đồng cảm trong cái "không" tuyệt đối đã đưa họ tới suối nguồn hạnh phúc. Nhưng cái không của họ mới chỉ là cái tâm không dính mắc xảy ra trong thoáng mắt. Không có ai trong cả hai người tình có đủ sức mạnh để giữ lại được thoáng giây hạnh phúc ấy lâu hơn. Từ trong hạnh phúc, cả hai đều cảm nhận được mặt đối nghịch nằm khuất ở phía bên kia của đời sống thoáng nhe răng cười bóng hạnh phúc phù du của họ. Cái không hạnh phúc lóe lên như một sự nhắc nhở tất cả chỉ là vô thường. Hạnh phúc giữa vô thường là cái bóng trêu ngươi trước khi biến vào nẽo khuất.
Chỉ còn một người thân duy nhất trong đêm là mặt trăng mùa đông hiếm hoi, nhưng rồi trăng là của muôn phương nên cũng từ từ lặn mất. Ba Gấm đã giương buồm ra khơi từ chặp tối. Phạm Xảo vẫn ngủ say dưới một mái nhà nhưng ý nghĩ và cảm xúc đã rời xa Trí Hải hàng bao nhiêu vạn dặm trường. Đầu hôm chợp mắt được một lát, tiếng động răng rắc của ngôi nhà quá cũ kỹ không chống đỡ nỗi với gió mạnh đã vực giấc ngủ dậy. Trí Hải chong mắt nhìn trăng lặn, đợi đêm tàn và chờ sáng.
Trong sương mù của ý nghĩ, tiếng chuông chùa Thiên Mụ vỡ lạnh cả hư không. Tiếng chuông về đâu. Không có một miền trú xứ. Âm thanh như một đời người, nó từ không mà có; rồi trở về không... Chú tiểu công phu sớm, cái chày kình mòn nhẵn nửa đầu, cổ chuông đúc từ thời chúa Nguyễn, một không gian vắng lặng, thẻ đếm chuông xâu chuỗi xếp hàng, một bàn tay lần thẻ và tay kia thong thả dộng chuông, và tiếng gió, tiếng đêm, tiếng dế cũng góp phần thai nghén, sinh đẻ, tạo tác tiếng chuông. Tiếng chuông từ tất cả, của tất cả mà cũng chẳng thuộc về ai.
Làm người có nhiều nỗi khổ, nhưng cái khổ âm thầm mà dằn vặt nhất là nỗi khổ suy tư. Nỗi nhớ trong tình yêu là cơn chớp giật sấm sét của suy tư. Nhớ không còn là một cảm giác mong ngóng hay ham muốn được đền bù để khỏa lấp khát vọng thèm thuồng mà là một sự quay quắt. Cảm giác quay quắt tê dại như một nửa phần thân thể bị ai cắt đi. Trí Hải nhớ Ba Gấm. Tất cả những cánh cửa gần như khép lại. Bầu trời lồng lộng, sông núi, cỏ cây, đều bị cái lạnh lẽo khép lại sau màn sương dày đặc. Chỉ có một cánh cửa ấm. Còn mở.  Đó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ cũng dày đặc mà không nắm bắt được, mơ hồ như khói, như sương, giữa hai người tình. Họ càng xa nhau, càng nghĩ đến nhau nồng nàn và gần gũi trong tâm tưởng. “Ba Gấm! Ba Gấm!” Trí Hải kêu lên không thành tiếng.
Nỗi nhớ càng mênh mông, trí tưởng như càng đặc quánh lại. Trí Hải chỉ thấy đôi mắt đẹp muôn trùng của Ba Gấm đang từ biển khơi sóng gió hướng về mình. Đôi môi yêu thương chực nhoẻn những nụ cười tươi mới, nói những lời mơn trớn dịu ngọt và hé ra chờ đợi. Thân thể nồng nàn vật vã và quấn quyện của những loài thú mắt nai, trườn mình nơi rừng xanh làm động núi giữa mùa tình.
Bỗng như có một luồng gió lạ vừa thổi tới, Trí Hải quắc mắt nhìn bóng đêm. Bóng tối che hết cả vạn vật cũng như tình yêu cuốn lấy một người làm cho trái tim bị quấn những vòng dây êm ái quá. Khi trái tim chỉ còn biết rung động trong vòng quấn giới hạn thì tín hiệu yêu thương cũng rất khó trãi dài ra ngoài cung cấm của nó.
Ráng hồng vừa hiện lên sau bóng hàng cây còn đen đặc bóng tối. Bình minh không đồng lõa với bóng tối. Gươm giáo, hận thù, la hét, cuồng nộ không bao giờ giết được bóng tối. Ánh sáng tự nó là ánh sáng, không nhân danh mặt trời mà cũng chẳng tô màu đặt tên cho chính nó. Ánh sáng chỉ cần yên lặng bước tới là bóng tối đi lui hay tan dần. Ngước nhìn bình minh, Trí Hải tự hỏi, nếu tình yêu và sự đam mê cũng dày đặc và bủa vây như bóng tối thì cần có một thứ ánh sáng nào giải phóng được trái tim đang đắm đuối. Ngồi bó gối nghĩ hoài không ra.  Mặt trời lên cao, cao tới đỉnh đầu, chếch về phía Tây và sắp lặn. Mặt trời chao đảo trong mây, lấp lánh giữa biển sương vàng, tỏa hết hào quang trên đỉnh núi phía Tây trước khi lặn xuống như cũng đành chịu lạnh tanh, câm nín với số phận. 
Nhìn mặt trời sắp lặn, Trí Hải cảm thấy bất an. Nỗi sợ hãi bóng tối quá mênh mông. Khi bóng tối dấy lên tự trong lòng, Trí Hải chỉ còn biết hướng vọng về một đối tượng từ bên ngoài để đi tìm ánh sáng.  Trí Hải ngước nhìn về phía Tây, đỉnh núi Kim Phụng buổi chiều nằm lẫn trong mây. Mây ửng vàng pha tím xếp thành tầng trên đỉnh núi cao. Càng nhìn đăm đăm, mây núi càng gần lại. Gần đến nỗi Trí Hải cảm thấy như bàn chân của mình đang bước lên tầng thứ nhất. Trí Hải đứng dậy, nhón lên cao. Đôi mắt trong suốt và nụ cười từ ái của sư Trúc Lâm hiện ra từ sau dãy núi phía Tây.  Những ngọn sóng thét gào trong lòng Trí Hải dịu xuống. Ảo giác không hoang tưởng trở thành sức mạnh tinh thần vô địch khi một người không đầu hàng với hoàn cảnh, phải vươn lên cho bằng được từ trong cô đơn. Phá tuyệt vọng là cuộc chiến đấu oanh liệt nhất bên bờ sinh tử.
Trí Hải đắm mình trong suy nghĩ nhưng đôi mắt vẫn nhắm thẳng hướng núi Kim Phụng, men theo con đường mòn đã quen mà cất bước ra đi.
Trí Hải qua khỏi đồi sim dẫn vào chân núi thì trời đã tối mịt. Trăng lên đầu núi thanh tuyền và uy nghi với ánh sáng dịu dàng, nhưng cũng đầy ngự trị. Hơi đá lạnh. Sương núi chập chùng bắt ánh trăng lọt qua kẻ lá. Núi rừng càng sâu, hơi lạnh càng dày. Đôi chân tiến bước thoăn thoắt, Trí Hải nhìn xuống lối mòn khi ẩn, khi hiện trong từng lớp lớp sương trăng. Khi cái chí đã vươn cao đầu núi, Trí Hải cảm thấy bước đi của mình trên đường rừng sỏi đá nhẹ nhàng và đầy năng lực như “đằng vân”, lướt mây mà đi vào vùng trời mong tưởng.
Nhớ khi xưa Trí Hải vẫn thường thắc mắc rằng, đường qua Tây Trúc thỉnh kinh của Huyền Trang gian lao quá. Phải mất 17 năm trường và vượt qua 81 khổ nạn mới thỉnh được những tạng kinh điển Phật giáo về phương Đông. Trong lúc Tôn Ngộ Không với 72 phép thần thông biến hóa không lường, có khả năng đại náo cả cung Trời, chỉ cần một cái phất tay, dùng cân đấu vân cỡi mây, lướt gió là đã thừa khả năng đi đến cõi Trời. Thế thì tại sao Tôn Ngộ không chẳng cõng thầy Huyền Trang đi đến Tây Trúc chỉ trong vòng nháy mắt mà phải gian lao đánh yêu, diệt quỷ trong một khoảng thời gian dài đến như thế!
Trí Hải lắng nghe tiếng bước đi xào xạc của mình trên lá khô như tiếng giục giã của thời gian đang thúc hối con người đi tìm một sự cứu rỗi ngay giữa trần thế đầy bụi bặm này. Bốn thầy trò Đường Tăng là một hợp thể của con người trần gian bằng xương bằng thịt.  Con người hội đủ tâm hồn, trí tuệ, tài năng, tham lam, sân hận, si mê, hiếu sinh, hiếu sát. Tôn Ngộ Không có đủ thần thông để đi khắp sáu cõi luân hồi, nhưng vẫn say mê trần gian, tha thiết làm người vì không có nơi đâu đẹp não nùng và đáng yêu quằn quại bằng chốn trần gian nầy cả. Muôn phương vì trần gian mà lại. Trần gian vì muôn phương mà đi. Con người sinh ra giữa chốn dương trần chẳng phải là tình cờ, mà cũng chẳng phải là số phận do một đấng siêu nhiên nào đó đặt định. Cuộc đời chẳng qua là một sự dừng chân tạm bợ để tính toán cấp thời những món nợ đang đeo nặng và chồng chất trên vai mà người ta thường gọi là “nghiệp.” Khi tạm thời được hoàn cảnh buông thả để tiến bước, người ta ra đi... tiếp tục cuộc hành trình.
Trí Hải vẫn bước đi giữa lối mòn của rừng núi, giữa trần gian với trái tim đầy ắp yêu thương. Yêu mình, yêu người và yêu cuộc sống.
CHƯƠNG HAI MƯƠI
Chuyển hóa 
Lần đầu tiên trong đời, Trí Hải có một cảm giác xa lạ, hoang sơ gần như trần trụi với chính mình và khung cảnh chung quanh. Không danh, không vị, không nhà, không cửa, không hầu, không thiếp, không tớ, không chủ, không đón, không đưa. Sự cô đơn hiu quạnh làm cho Trí Hải cảm thấy tự do. Cái tự do hồn nhiên của cánh chim bơ phờ giữa gió bão một mình.
Vừa bước đến lối mòn rẽ vào thiền cốc của sư Trúc Lâm, Trí Hải khuỵu xuống vì mệt mỏi và đói khát. Đã mấy ngày đêm bước đi ròng rã, đói thì ăn trái cây rừng của chim muông ăn thừa rơi vãi dọc ven bìa rừng. Khát thì cố tìm nước suối hay những bọc nước đọng trong từng hốc đá để uống. Buồn ngủ thì nằm hay ngồi chợp mắt trên những phiến đá. Trí Hải như một người vừa mới sinh ra từ mặt đất này. Đứa con của vua sinh ra trong châu báu; đứa con của nhà giàu sinh ra trong nhung gấm; đứa con của trần gian sinh ra từ đất và cuối cùng thì tất cả những đứa con yêu, con ghét, con hư, con ngoan, con trời hay con đất cũng sẽ buông tay trở về với đất. Đã từng làm con trong châu báu và nhung gấm, Trí Hải xin nguyện được làm đứa con của đất lành mà thôi.
Chùa Từ Vân vẫn lặng lẽ đón người khách cũ. Sau một hồi chợp mắt trên thềm đá làm bậc cấp dẫn lối vào chùa, Trí Hải cố đứng dậy, nhè nhẹ từng bước một, bước vào bên trong. Chùa vắng vẻ như bỏ hoang. Lá khô xếp lớp bay lao xao từ ngoài vào trong và quanh quẩn đâu đó. Đi quanh ngôi nhà trai, bếp tro lạnh ngắt. Bước dần lên thiền cốc, cửa trúc không gài gió lộng bốn bề. Trí Hải chẳng thấy một bóng người. Dư hương của mùi trầm hương thoang thoảng đâu đây như một nỗi gợi nhớ mơ hồ. Sư Trúc Lâm, chú tiểu tăng, người thị giả, lão hầu cận Phạm Xảo bỗng về đâu khuất bóng. Lá rừng vẫn muôn năm xào xạc và mây trắng trên cao thì cứ trôi hoài về cõi miên du không hứa hẹn một chân trời.
Nhìn quanh, đâu cũng là rừng núi bạt ngàn. Chẳng có nẽo về và nẽo đi nào rõ rệt. Đây là đây. Rừng thiêng như một sự chứng ngộ tự tại.  Trí Hải nhắm mắt và ngồi bệt xuống trên mảnh đất mình đang đứng mà không biết nơi đâu... 
Khi cảm giác mệt mỏi  tạm lắng xuống, sự réo gọi của cơn đói lại nổi lên. Những chân trời cao viễn, những triết lý lẫy lừng, những lý thuyết sâu xa, những ý chí lấp sông xẻ núi... đều phải chùn chân, cúi đầu trước thực tế bức bách của cơn đói. Trí Hải cố nhớ một điệu hò, một câu thơ; cố gợi lên một ý tưởng “hình nhi thượng” khinh bạc miếng ăn, nhưng tất cả những cố gắng đều buông tay. Hình ảnh, mùi thơm, vị béo ngọt của những món ăn không thành hình rõ rệt chiếm ngự hết tất cả những khoảng trống lớn nhỏ trong đầu óc Trí Hải. Thân xác, cảm tính, ý thức và vô thức bao nhiêu năm nằm yên ở thế dự trữ trong sâu lắng của con người Trí Hải bây giờ tuôn ra để cứu nguy cho thân chủ. Gia tài dự trữ bị cơn đói ngốn mất rất nhanh, để lại cho Trí Hải cái hố sâu thèm muốn. Thèm ăn, thèm uống, thèm yêu thương mơn trớn, thèm dục tình, nhưng tất cả sự kêu đòi đều nằm ở dạng bản năng. Bỗng dưng Trí Hải cảm thấy thèm Ba Gấm một cách mãnh liệt. Sự khao khát bừng bừng của giới tính động tình trỗi dậy vượt ra ngoài vòng  trói buộc của ý thức. Khi một thân xác rã rời vì đói và một đầu óc mụ đi vì thiếu ăn không còn sức mạnh để gạn lọc và kiểm soát bản năng. Đốm tinh lực cuối cùng nhóm lên, nhen lên, cháy đỏ như lữa rừng chợt dậy, rực rỡ sáng lòa rồi tắt ngúm.
Bóng tối và ánh sáng đến rồi đi, đi rồi đến. Gió thổi sạch những đụn lá khô đâu mất. Trí Hải mở mắt nhìn quanh và thấy mình đang ngồi trước một bồn hoa nhỏ. Hoa quanh bồn đều ở dạng mầm non. Chỉ có một cây hoa giữa bồn đang nở. Những bông hoa vàng óng ánh màu hoàng kim. Dưới gốc hoa vàng, có dựng một phiến đá nhỏ, ghi mấy dòng chữ son đỏ, nét chữ tài hoa phiêu lãng tuyệt đẹp:
Hoa khai ngọ thực
Nhựt nhựt nhất thời
Tám chữ như một lời vừa nhắn nhủ, vừa mang ý nghĩa truyền lệnh rằng, hoa có nở mới được ăn bữa trưa và mỗi ngày chỉ được ăn một lần như thế. Nhìn hoa đang nở, nhìn sau những tàn mây trắng bay qua, mặt trời đã đứng trên đỉnh ngọ. Tập trung nhìn rõ hơn dưới gốc hoa, Trí Hải nhận ra là trên một phiến lá bảng lớn như lá vả, có đặt ba oản xôi, ba trái chuối và một nhúm muối mè. Dòng sống bỗng vươn lên, chạy rần rần khắp châu thân và huyết quản. Cả ba nghìn thế giới, chỉ còn là tụ điểm của miếng ăn. Trí Hải lim dim mắt nhìn, nhưng vẫn không rời mấy oản xôi và trái chuối. Nhu cầu xác thân khi đối diện với cái chết, chết đói, cận kề rất gần với bản năng của thú tính động vật. Một vầng mây xám đi qua, cảnh rừng tối sầm lại, Trí Hải rúng động toàn thân khi cảm giác sợ hãi mất mác chụp đến bất ngờ. Trí Hải đứng dậy một cách quyết liệt, bước vào bồn hoa, vươn tay nắm hết mấy oản xôi và trái chuối, cắn từng ngụm lớn, nhai nuốt một cách say sưa và man dại.
Miếng ăn tuy đạm bạc, nhưng đã giúp Trí Hải phục hồi thể chất một cách nhanh chóng. Mặt trời đứng ngọ hôm sau, Trí Hải bước lần đến chỗ cũ. Gió đêm đã thổi lá rừng khô rụng ngập lối đi hôm qua, bây giờ sạch bóng. Trong vùng nắng yếu ớt vì bị sàn lọc sau tàn lá, Trí Hải đến sát cây hoa màu hoàng kim. Những đóa hoa vàng lớn bằng nắm tay rủ xuống và teo lại trong đài hoa nhăn nhíu như bàn tay vụng về ôm bờ ngực thanh tân. “Hoa khai” mới có “ngọ thực”. Hoa không nở nên oản xôi và trái chuối cũng vắng bóng dưới chân hoa.  Trí Hải nhìn chăm chú vào cây hoa, vừa cố để trấn áp cơn đói đang cồn cào và cũng vừa cố tìm ra nguyên nhân làm hoa héo. Những ngày canh tác với thầy Tiều, Trí Hải đã học được câu châm ngôn áp dụng vào nghệ thuật nuôi dưỡng cây cối là “nước, phân, cần, giống”. Nước là sự nuôi dưỡng hàng đầu trong đời sống cây cỏ. Mắt Trí Hải sáng lên khi tìm thấy hai cái gàu múc nước làm bằng vỏ cây để sẵn trong bồn hoa. Có tiếng reo vui trong lòng, “Có ngọ thực rồi. Ta chỉ cần mang gàu xuống suối múc nước lên tưới là cây hoa vàng sẽ tươi tốt lại ngay”.
Xách hai cái gàu múc nước trên tay, tiếng suối róc rách đâu đó hiện lên rõ dần với Trí Hải. Đi nhanh xuống sườn núi phía Đông, sau bức tường lá xanh dày đặc nổi lên một khung cảnh đẹp như bức tranh thiên nhiên của Tàu.
Phía Tây dưới chân ngọn núi xanh cao ngất nổi lên một mảng trên thân núi mầu nhũ bạc. Giòng suối trong vắt từ trên cao đổ xuống bị cái vách núi mầu nhũ bạc chận lại. Dòng nước phân tán mỏng chảy xuống tràn trên vách. Bóng cây, vách núi, ghềnh đá, độ nghiêng của ánh sáng từ bầu trời trên cao phản chiếu qua lại nhiều lần theo thế núi đã tạo ra một phong cảnh kỳ tú như ảo ảnh, như mơ màng, như hiện thực. Từ xa, Trí Hải đã thấy bóng mình phản chiếu trên tấm gương của thác núi. Cảnh đẹp quá làm Trí Hải quên cả cơn đói thắt ruột, tay nắm chặt hai cán gàu múc nước và chạy nhanh xuống dòng suối chảy. Tiếng róc rách từ đỉnh núi đổ xuống, tiếng rì rào của nước dội qua bức tường nhũ bạc, tiếng nước đổ ra dòng trôi về xuôi... Những âm thanh uốn lượn và trầm lắng hòa quyện lấy nhau nghe như lời ru, tiếng gọi êm đềm của bà mẹ thiên nhiên.
Trí Hải thong thả cất từng bước dài đến gần bên bờ suối, dang tay ấn gàu xuống nước, nhưng chiếc gàu dội ngược trở lại trên mặt nước. Lạ lùng một chút với cảm giác như có bàn tay ai mạnh hơn đẩy lùi chiếc gàu trở lại, Trí Hải ấn xuống mạnh hơn thì lực đẩy trở lại càng mạnh hơn gấp bội. Sự lập đi, lập lại kéo dài mà Trí Hải vẫn không cách nào chạm tay vào mặt nước suối. Cuối cùng, thu hết sức mạnh bình sinh, Trí Hải dùng cả sức nặng thân mình để cố nhận chìm chiếc gàu vào nước, nhưng sức phản hồi trở lại mạnh đến nỗi xô ngã người cầm gàu nằm sóng sượt bên bờ suối. Trí Hải ngỡ ngàng ngước mắt nhìn lên và sững người khi bắt gặp một con vượn dã nhân, to lớn gấp ba người thường đang nhe răng trong tư thế sẵn sàng ứng chiến.
Trí Hải nghiêm giọng nói lớn:
- Này! Con vượn dã nhân. Ta và mầy không thù, không oán, cớ sao lại cản đường ta múc nước. Phải tránh đường lập tức cho ta đi.
Tiếng gào từ phía con vượn lập lại nguyên văn lời Trí Hải không sai một chữ, không sót một âm. Âm thanh dội lại từ phía con vượn lớn gấp mấy lần tiếng Trí Hải, nghe dữ tợn và vang động cả núi rừng.  Con vượn vẫn đứng yên thách thức. Trí Hải tiến tới gần bờ suối một bước, nó tiến tới cản đường một bước. Trí Hải dùng những ngón võ thuật được tập luyện kỹ ngày xưa để tiến tới, xô đẩy con vượn đang cản đường ngay trước mặt. Nhưng con vượn phản ứng đẩy lùi đối tượng bằng cách tấn công trở lại với sức mạnh ghê hồn làm Trí Hải ngã sóng soãi trên bờ suối. Bản năng sinh tồn vực Trí Hải trở dậy.  Dùng một cành cây khô làm vũ khí, Trí Hải ứng dụng hết sở học võ nghệ một thời vang bóng của mình trong bộ môn song đấu như trượng, chùy, đao, kiếm để tấn công và chế ngự sự cản đường vô lý của vượn dã nhân. Nhưng bất cứ một động tĩnh nào phóng ra từ phía Trí Hải, liền gặp ngay sự phản hồi tức khắc và mạnh gấp nhiều lần từ phía vượn người. Khi Trí Hải quyết tấn công dứt điểm bằng những đòn chí mạng đánh vào đối tượng thì cũng nhận sự đánh trả mạnh như trời giáng từ phía đối tượng phản đòn trở lại. Cuộc chiến đấu để sinh tồn không khoan nhượng tiếp diễn cho đến khi Trí Hải ngã xuống bất tĩnh với thương tích đầy người.
Tiếng quạ kêu và những dòng nắng mai xuyên qua kẻ lá chảy tràn lên mặt làm Trí Hải tỉnh lại. Toàn thân gần như co rúm vì đau nhức.  Trên vách đá bên bờ suối, con dã nhân cũng cựa quay, cúi đầu ngồi ủ rủ. Trí Hải nghe tiếng nói lao xao từ thời tiền sử. Miệng khô đắng mà vẫn không mong được với tay xuống dòng suối mát bên cạnh vốc một ngụm nước. Con dã nhân vẫn ngồi canh gác dòng suối tự bao giờ.
Trí Hải cố mở mắt nhìn một đám mây trời - cũ đã nghìn năm mà cũng mới như hôm nay - đang bay qua kẻ lá. Mây trắng lọt vào mắt.
Trí Hải lắng nghe tiếng quạ xa dần và tiếng chim rừng ríu rít xung quanh. Tiếng chim cổ sơ chẳng nói gì mà lại nói lên tất cả bằng thứ âm thanh hồn nhiên gần như thinh lặng. Âm ba thinh lặng vẳng vào tai.
Trí Hải nhận biết mình đang sống qua từng hơi thở. Hơi thở từ muôn xưa đến và đi thong dong không điểm tựa. Khí trời thanh thoát len vào mũi.
Trí Hải nhấp lưỡi khô không một giọt nước, không còn biết vị đắng cay. Cay đắng hay ngọt ngào từ vạn thuở không phải là vị thật sự mà chỉ là sự so sánh tương đối như men rượu cay đắng với người nầy mà ngọt ngào đối với kẻ khác. Vị không men mơn man trên đầu lưỡi.
Khi một chuổi động tác nhìn, nghe, thở, nếm, cảm giác -  sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp - không còn dựa vào một đối tượng nào có thật, Trí Hải cảm thấy người mình nhẹ hẫng, lâng lâng. Có một sự chia lìa với tục lụy để nâng tâm thần bay cao như bốc khói. Một vầng hơi dịu ấm tròn đầy bao bọc khắp châu thân. Thể xác như giao hòa với rừng núi. Và khi thân thể gần như tự tại, không có nhu cầu nào cần tiếp viện và thẩm thấu từ bên ngoài, cơn đói cũng lắng xuống dần và biến đi đâu mất. Cảm xúc trở lại bình an. Cơn đau do trận thư hùng với con dã nhân tự nó hóa giải như tay mặt đánh vào tay trái của chính mình. Đấy là một lối “hạ thủ công phu” nội tại; một lối tự vật mình vật mẫy để tạo ra thế thăng bằng của một tiểu vũ trụ trong thân xác của chính mình đang trải qua một thời điểm chông chênh, khủng hoảng.
Trí Hải cảm thấy bình an trở lại để mỉm cười với chính mình và tự hỏi, phải chăng cơn đói là nguyên nhân của cả một chuỗi các sự việc mình mới trải qua? Nghĩ đến con dã nhân, Trí Hải có cảm giác như nó gần gũi và rất hiểu mình. Nó cũng tới lui, lên xuống, gầm thét hay lặng lẽ buồn thiu ăn cánh với cả hành động và ý nghĩ trong chính mình. Trí Hải dõi mắt tìm và thoáng thấy con dã nhân ấy ngồi ủ rủ bên bờ suối. Từng mảng nước trôi nghiêng loáng ánh mặt trời.  Lòng Trí Hải bỗng rộng thênh thang như nắng vàng với núi. Chợt nhìn lại, con dã nhân ngồi buồn bã biến đi đâu mất rồi. Trí Hải vẫn giữ thân tâm mình nhẹ như thinh không, đi chầm chậm men theo bờ suối, rồi lội xuống suối, cầm cả hai chiếc gàu ấn xuống, dìm sâu trong nước nhưng chẳng có ai hay vật gì ngăn cản. Dòng suối trong ngần, mát lạnh vẫn phăng phăng dẫn nước về xuôi, nhưng bóng dáng của con dã nhân đã trốn đâu mất dạng. Lơ đãng, Trí Hải thả cho cả hai chiếc gàu trôi theo dòng nước... Cây hoa vàng trổ hoa mầu kim quang ấy cần phải có đời sống riêng của nó, không thể cứ mãi mãi phụ thuộc vào hai chiếc gàu mang nước cho ăn.
Có tiếng chân dẫm trên lá khô. Một người mặc áo màu chàm lam, tay xách một giỏ tre đậy nắp kín từ phía núi xanh đi tới. Ông ta nhìn Trí Hải, lặng lẽ chấp một tay trước ngực cúi đầu chào, miệng mỉm cười hiền hậu. Trí Hải nghiêng mình chào lại. Một khuôn mặt trông quen quen. Nhưng trong cảnh rừng ư tịch chỉ có hai người. Người không quen cũng là quen vì chung một kiếp người. Khung cảnh núi rừng im vắng quá, chẳng ai nói một lời, nhưng tiếng đồi xa vọng âm nói thay cho họ lời chào hỏi chúc tụng của hai người nhận biết mình đã để lại những mảnh đời tục lụy dưới chân núi xa khuất bên kia.  Mãi đến khi người đàn ông, lấy một ít cơm nắm và muối mè từ trong giỏ tre, để ra trước mặt khách lạ với một cử chỉ mời mọc cung kính, không nói một lời, rồi dợm bước rời khỏi dòng suối, Trí Hải mới e dè lên tiếng:
- Thưa... thưa ngài.
Người đàn ông hiểu ý, góp lời:
- Dạ, tôi là Thiện giả.
Trí Hải nhướng mắt như muốn hỏi: “Thiện giả?”. Người đàn ông lại đỡ lời:
- Hiểu “thiện” là cơm như người đưa cơm hay thiện là lành như người làm việc thiện cũng được ạ.
- Thưa Thiện giả, đây là đâu? Nơi đây có thuộc về chùa Từ Vân không?
Thiện Giả - hiểu như thiện giả cũng được - trả lời:
- Đây là Suối Bản Lai, thuộc về núi Kim Phụng. Tương truyền, xưa kia đây có mỏ bạc nên những đêm tối trời có vầng sáng tỏa ra từ đỉnh núi Kim Phụng. Bởi vậy, dân gian có câu hò, “chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc; cá ngư ông bóng ngáp ngoài khơi...” Núi mỏ bạc ngày xưa nay chỉ còn lại một triền núi bạc rất nhỏ, suối Ngọc Tuyền chảy qua tạo thành một tấm gương “nội chiếu” vì nằm kín và sâu trong rừng cây lá. Nguồn sáng, thế núi, cấu tạo cây đá nơi đây rất lạ lùng, kỳ vĩ. Sự tương tác qua lại tinh vi đến độ như có thể phản chiếu, phản ánh và phản diện được cả chiều sâu trong lòng của con người. Điều nầy cũng dễ hiểu vì mọi hành vi và tâm lý của con người qua cách thấy, cách nghe, cách cảm nhận và phản ứng bằng giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều biểu hiện trên khuôn mặt và dáng dấp bên ngoài. Khi có một tấm gương thiên nhiên như triền suối bạc phản chiếu thì tất cả đều lộ ra trên bề mặt. Dòng suối bạc là một tấm gương soi lớn, do vậy nên không những chỉ soi bóng mà còn soi tâm người đến viếng.
Trí Hải vẫn chưa hết ngạc nhiên và thắc mắc:
- Thế thì con dã nhân đó từ đâu tới?
Thiện giả, mỉm cười và nhìn thẳng vào người đối diện:
- Thưa quý hữu. Đấy chính là cái bóng của con người thật, là bản lai diện mục của quý hữu.
Trí Hải thản nhiên cười cười, nói giọng bông đùa:
- Ô là ta?! Ta mà cũng bảnh trai vậy sao?
Thiện giả giọng nghiêm trang:
- Con dã nhân ấy không phải là sự phản chiếu dáng vẻ bên ngoài mà là sự phóng chiếu cái tâm sở thiện hay cái tâm sở ác bên trong.
- Thiện giả ạ, nếu quả như thế thì e rằng không đúng.
- Tại sao?
- Từ một con vượn người hung hãn và thô bạo hôm trước, hôm sau cũng chính con vượn người ấy đã hoàn toàn lột xác thành một sinh vật trầm lặng, phai dần, rồi mất hút. Nếu ví thử đó là cái tâm ngã sở của tôi đúng như lời Thiện giả nói thì làm sao có sự thay đổi nhanh đến như thế?
- Con người cũng có thể “mê” muôn kiếp mà “ngộ” nhất thời lắm chứ. Giáo lý nhà Phật cũng nói như thế. Đau khổ hay hạnh phúc; niết bàn hay địa ngục chẳng phải là hai như bóng với hình mà là một. Thế nhưng “Nói Một thì sai, mà nói Hai thì trật...”
- Tại sao lại mâu thuẫn đến như thế?
- Vì như sóng và nước chẳng hạn. Nếu nói sóng và nước là một thì cũng sai, bởi vì nước tĩnh lặng mà sóng dậy ầm ầm. Nhưng nếu nói sóng và nước là hai thì cũng trật vì sóng cũng là nước, luôn luôn giao hòa làm một?
- Thế thì làm sao để phân biệt?
- Khi nói đến Tướng thì sóng và nước là hai; nhưng nếu nói đến Thể thì sóng và nước là một. Cũng thế, chỉ cần chấp một chút thôi là tâm con người sẽ thành não loạn. Khi không chấp thì tâm an lạc, thái hòa. Ngay trên bờ suối này, khi con dã nhân soi bóng tâm người ấy xuất hiện là địa ngục; nhưng khi nó biến mất là thiên đường. Chỉ một sát na tâm thôi thì lòng người đã đổi khác. Địa ngục hay thiên đường chỉ là một giữa trần gian nầy chứ có đi đâu xa.
Sau câu nói của Thiện giả, Trí Hải trầm ngâm nhìn dòng suối chảy.  Có cái gì đã đổi khác trong lòng người đàn ông tuổi ngoài năm mươi ấy.
Cơn đói của thể xác lồng lộn như dã thú xuất phát từ dục vọng thể chất. Nó kêu đòi phải thỏa mãn cái ăn, cái uống vật chất trước mắt.  Cơn đói của cảm xúc bừng bừng đi kèm như bóng theo hình với đòi hỏi nhục thể. Cần đáp ứng sự ham muốn cháy bỏng nằm lưng chừng giữa tinh thần và thể xác. Cần yêu đương, vuốt ve, mơn trớn, làm tình. Sự đòi hỏi và lòng ham muốn thường không có giới hạn, nên sự đáp ứng sẽ không bao giờ tới được mức độ làm thỏa mãn khát vọng của phía đòi hỏi. Muốn níu chậm lại sự đòi hỏi đang cuồng lên, dâng lên thì cần có sức mạnh công phá ghê hồn của cả tinh thần và thể xác. Thắng được sự đòi hỏi, ham muốn đó là thắng được mình. Thắng được mình là có thể tái sinh thành tiên, thành thánh ngay giữa cuộc đời nầy.
Trí Hải đã ngã gục trước sức mạnh của con vượn người. Hay đúng hơn là ngã gục trước dục vọng cấp thời của chính mình. Khi dục vọng lửa rơm bị đánh ngã tiêu tan thì cái “dụng” sẽ được thay thế bằng cái “thể”, nghĩa là sự hiện diện của cái vỏ bên ngoài của hình tướng sẽ phai đi và cái lõi bên trong của bản chất sẽ hiển hiện giống như trường hợp cây gươm là cái dụng mà sắt thép mới là cái thể.  Đó là khi con người thật của Trí Hải với bề dày tích lũy hàng hàng lớp lớp thiện, ác, trí, ngu... của từng khoảng khắc thời gian nhấp nháy trong bao nhiêu năm trỗi dậy.
Mỗi vi ti hình ảnh và từng cảm xúc tuế nhuyễn đã một lần đi qua tâm thì sẽ không bao giờ mất. Đấy là những hạt giống đợi chờ cơn mưa nguồn kết tụ bằng những sự việc li ti hay những biến cố lớn lao của đời sống - sinh sôi nẩy nở, loại trừ, tác dụng lên nhau, trùng trùng duyên nghiệp - mà nẩy mầm vươn dậy. Những hạt giống lành chiếm ngự gần hết cái kho bản hạnh nằm sâu trong tâm hồn Trí Hải ào ạt vươn lên trổ cành xanh lá chỉ sau một cơn mưa. Cơn mưa tâm thức không gặp mái chắn vì gã canh giữ ý thức đã buông tay, bất tỉnh, hết khả năng đề kháng nên kho hạt giống tích lũy - huân tập chủng tử - ào ào rơi xuống lòng Trí Hải. Con vượn người “nội chiếu” phải thoái trào, ủ rủ, nhạt dần và biến mất.
Khi một mình, một bóng lên núi tìm đến chùa Từ Vân này, lòng Trí Hải đeo nặng mối ưu tư. Ưu tư lớn nhất là một cuộc đời mang nhiều ước vọng và đam mê nhưng không định hướng. Thiếu hướng đi vì thiếu một con đường cái - một đại lộ, một quan đạo - để bước lên đó mà đi, mà làm điểm tựa cho tâm, cho trí, cho hành động. Sự chới với trong biển sương mù của cuộc sống sẽ làm đời tiều tụy, sẽ dẫn đến cảnh buông xuôi “ra đi gặp vịt cũng lùa; gặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu” hay sao?
Tuy đắm đuối trong cuộc tình với Ba Gấm, nhưng cái tâm bản hạnh của Trí Hải luôn luôn trăn trở; cái ý thức giải thoát thường xuyên cựa quậy. Trong mọi điều ham muốn của người đàn ông thì sự ham muốn về sắc dục thường khó vượt qua nhất. Ái dục có sự cuốn hút khó cưỡng chế hơn cả vì nó là cảm xúc trực tiếp lay động tới đỉnh điểm khoái lạc tình dục mà ngày thường bị nhốt trong ba chiếc lồng “tam ngục”: Lồng kính của bản năng giới tính, lồng sắt của đạo lý thuộc về quy ước xã hội và trong lồng son trang trí của nhân cách.  Tiếng gọi của ước vọng về một hướng đời cao viễn hơn, bên cạnh nỗi cô đơn khi Ba Gấm đã đi xa và Phạm Xảo không còn kề cận như xưa, đã thôi thúc Trí Hải đi tìm sư Trúc Lâm. Nhà sư ấy là chiếc bóng. Nhưng lại là chiếc bóng êm đềm và mát dượi như một cứu cánh giải thoát nỗi dày vò lạc hướng và nỗi bức xúc vô hình mà mãnh liệt của ba chiếc lồng tai quái ấy.
Sư Trúc Lâm vắng bóng, nhưng sự vật lộn với cơn đói ban đầu dẫn đến cuộc chiến đấu và chiến bại với con dã nhân đã vực Trí Hải dậy. Thiện Giả cũng vừa chỉ cho Trí Hải rõ rằng đây là cuộc chiến đấu với chính mình. Dẫu cho phải đi cùng trời cuối đất để tìm cho ra một lẽ sống, đạt đến một ý nghĩa đích thực của cuộc đời, Trí Hải vẫn không chùn bước. Nhưng tìm ai và tìm đâu bây giờ. Hai lần trước thỉnh ý sư Trúc Lâm, Trí Hải đã được nhà sư khai mở cho hai cánh cửa.  Cánh cửa “con gà” để hiểu chính mình và cánh cửa “nhìn mà không thấy” để thấy chính mình. Nhà thông thái trong Trí Hải đã lên tiếng hỏi “ta là ai” và vị trí giả trong Trí Hải đã trả lời “ta là ta”. Biết Ta là Ta nhưng rõ ràng là hai cái Ta đang còn ở hai bên bờ sông “Giang Hà” có khúc nước trong; có khúc nước đục; có khúc nước đen ngòm.  Chảy siết. Con đường từ cái Ta Truy Hỏi đến cái Ta Tự Tại vẫn thăm thẳm mù khơi, vẫn miên trường muôn dặm trước mắt. Trí Hải vác cái Ta Truy Hỏi như đội núi Thái Sơn trên lưng mà đi trong cô đơn và chỉ cần một phen ngã lòng là sẽ đi hoài trong tuyệt vọng.
Mùa Xuân và lộc non. Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông về và đi trên cây cỏ như sinh, lão, bệnh, tử đối với con người. Những ngày cuối đông và đầu xuân trên vùng núi non Kim Phụng, Trí Hải sống một mình. Ngày đi quanh những ngọn núi lớn nhỏ hay ngồi tĩnh lặng định tâm bên suối Bản Lai, đêm về khu nhà trai vắng vẻ của chùa Từ Vân, Trí Hải khám phá một thế giới mới của người sống một mình.  Giữa xã hội đời thường, người ta quen kiểu sống cho ai và sống với ai. Một mình giữa rừng núi buổi đầu, Trí Hải quen dần với ý niệm “sống cho mình và sống với thiên nhiên”. Muốn sống an lạc với thiên nhiên thì phải biết đưa thiên nhiên vào mình, chứ không thể làm ngược lại là đưa mình vào thiên nhiên. Những ngày đầu, Trí Hải phản ứng chống lại thiên nhiên như phải cắn răng hay co cụm thân mình hoặc đốt than suốt ngày để chống với cái lạnh của núi rừng.  Nhưng càng chống với thiên nhiên thì thiên nhiên càng phản ứng lại một cách lạnh lùng không nhân nhượng. Trí Hải dần dà tập nghe thiên nhiên và sống với thiên nhiên như nghe và sống với tiếng “con gà” gáy sáng thuở nào.
Từng đêm khuya và mỗi sáng sớm, Trí Hải lắng hết tâm trí nghe tiếng núi, tiếng gió ngàn, tiếng lá rung, suối chảy, dã thú, côn trùng... của rừng thẳm vang lên từng hồi, từng chặp hay thâu đêm đâu đó.  Trí Hải nén hơi thở mình, trộn hơi mình với khí lạnh bên ngoài, hít sâu vào châu thân, mở rộng ngõ cho luồng khí lạnh len lõi, chạy đều khắp kinh mạch trong người.  Cảm giác tê buốt lúc đầu giảm dần, rồi bảo hòa và ấm lại cho đến khi nguồn nội nhiệt giao hòa với tiết trời lạnh buốt bên ngoài để tạo thành một luồng sinh khí mới.
Từ hơi thở đến những sinh hoạt khác hàng ngày như ăn, uống, thức, ngủ, nghĩ, nhìn... Trí Hải tự luyện tập cho mình theo cùng với điệu sống của thiên nhiên. Thiên nhiên là một người cha nghiêm khắc, nhưng là một người mẹ nhân từ. Với người cha, bắt thiên nhiên uốn lượn theo đường nét riêng của cá nhân mình là điều nghịch lý, không thể nào chìu con được. Với mẹ, gieo tấm thân lem lấm bụi đời vào vòng tay mẹ, bao giờ cũng được mẹ dang tay ra đón với tất cả tha thứ và yêu thương. Chỉ có thiên nhiên mới rủ được những lớp bụi phong trần. Con người thì có vẻ như càng cố lau sạch bụi đời càng tấp thêm những lớp phù sa lấp loáng nước phèn.
Càng gần gũi và giao hòa với thiên nhiên, núi rừng, cây cỏ, Trí Hải càng cảm thấy cái vũ trụ nhỏ mang tên là Hoàng Thân Trí Hải chỉ là một ý niệm bèo bọt như một tiếng lá rơi chưa chạm đất giữa rừng thẳm trong đêm khuya. Tầm mắt nhìn từ đỉnh núi không bị che chắn bởi rào dậu hay biên cương. Mắt người nhìn sâu vào vũ trụ chỉ là đốm lửa tàn loé lên trong giây lát và thể nhập vào cõi mêng mông. Tai nghe một vọng âm phát ra từ đối vật rồi tắt lịm vào cõi im lìm nguyên sơ tuyệt đối. Rồi hương vị, mùi vị, cảm vị trở thành vô vị, trống không giữa đá núi rêu phong và cây rừng bạt ngàn, trùng điệp. Có cái gì là tồn tại, là thật giữa núi rừng Kim Phụng nầy. Rõ ràng là không có gì cả. Ngay cả cái tên gọi cũng chỉ là những thói quen, những quy ước bâng quơ. Kẻ có chữ gọi nó là Kim Phụng; người làm ruộng dưới đồng bằng phía Đông gọi nó là núi Tây Phương; giới tìm trầm thì gọi nó là núi Trầm; dân sống gần chân núi thì gọi là núi Xanh. Tất cả đều đúng, tất cả đều sai hay chẳng có ai sai, ai đúng cả?  Nghĩ đến đó, Trí Hải bật cười sảng khoái một mình.
Những ngày đầu ngồi im lặng, định tâm trên đỉnh núi nầy, Trí Hải hầu như mượn cảnh cô liêu tịch mịch để suy nghĩ riêng mình. Muôn ý nghĩ dấy lên trong từng khoảnh khắc. Những ý nghĩ cứ tiếp nối, sinh sôi nẩy nở, rồi biến tướng thành đàn, thành lũ không ngừng xâm nhập đầu óc Trí Hải. Cái lò bát quái nằm trong đầu cứ sôi lên sùng sục làm cho tâm trí như muốn nổ tung từ trong thế ngồi mà thoạt nhìn từ bên ngoài ngỡ như an tịnh. Nhưng bên trong, hình bóng Ba Gấm, nỗi nhớ Ba Gấm, sự cuốn hút và thèm khát Ba Gấm... cứ từng hồi không ngớt nổi lên xoắn lấy mọi suy tư và cảm xúc của Trí Hải.  Sau mỗi màu hồng, màu thắm, màu xanh của khát vọng là màu đen, màu lạnh, màu xám của vô vọng cứ ùn ùn tràn tới.
Rồi có một buổi mai, Thiện Giả lại gánh giỏ tre đi ngang qua vùng suối Bản Lai, ái ngại nhìn Trí Hải và lên tiếng:
- Quý hữu à, mới cách có mấy hôm mà sao trông sắc diện của quý hữu lại phờ phạc và tiều tụy đến như thế. Thân không an, tâm không lạc chăng?
Trí Hải trả lời thành thật:
- Cảm ơn Thiện Giả đã quan tâm. Quả nhiên sự quan sát của hiền hữu thật tinh tường. Lòng tôi không được an ổn. Tôi vẫn còn đang đợi được gặp sư Trúc Lâm để thỉnh ý nhưng chưa biết lúc nào sư mới trở về thiền cốc đây.
Thiện Giả vừa soạn ra một số thức ăn để biếu tặng Trí Hải, vừa nhỏ nhẹ nói:
- Hừm! Lạ thật.  Sư Trúc Lâm đã có mặt với quý hữu từ phút đầu tiên quý hữu trở lại chùa Từ Vân này mà.
Trí Hải tròn mắt ngạc nhiên:
- Không, tôi chưa hề gặp được sư Trúc Lâm từ hôm lên đây đến giờ.
Thiện Giả giải thích:
- Nếu không có quý hữu thì làm gì có sư Trúc Lâm xuất hiện trong ý nghĩ của quý hữu. Và nếu không có sư Trúc Lâm thì ngọn núi Kim Phụng nầy cũng chỉ là một trong bao nhiêu vùng núi non hoang vu khác của dãy Trường Sơn thôi.  Cũng có thể có những dòng suối, những ngọn đồi; có nước chảy trăng soi… nhưng làm gì có suối Bản Lai, có đồi Vọng Nguyệt, có chùa Từ Vân.
Trí Hải như vừa chợt nhận ra một điều gì đó thật mới lạ mà cũng rất thân quen, gật gù:
- Cám ơn Thiện Giả, tôi hiểu. “Có” là một ý niệm khởi từ nguồn gốc của “Không” và ngược lại. Nếu không tôi thì không có sư Trúc Lâm trong tôi; không sư Trúc Lâm thì làm sao có tôi trong sư Trúc Lâm.  Hai cái không mênh mông họp lại thành có. Một cái có giả tạm sẽ thành không chưa biết lúc nào. Ồ! Sư Trúc Lâm đang đứng bên tôi, đang ở trong tôi.
- Mà cũng ở ngoài quý hữu nữa.
- Đúng vậy. Khắp nơi và cũng chẳng có chỗ nào cả.
Trước khi cúi chào tạm biệt, Thiện Giả còn ngoái lại nói:
- Vâng, vâng, chẳng có chỗ nào.
Trí Hải nói với theo:
- Nhưng chỗ nào mà chẳng có.
Và nghe tiếng mình, tiếng Thiện Giả vọng qua đồi:
“Chẳng có chỗ nào… Nhưng chỗ nào mà chẳng có… Chẳng có… chẳng có.”
CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT
Lạc 
Những ngày đầu ngồi im lặng, định tâm trên đỉnh núi nầy, Trí Hải hầu như mượn cảnh cô liêu tịch mịch để suy nghĩ riêng mình.
Muôn ý nghĩ dấy lên trong từng khoảnh khắc.
Những ý nghĩ cứ tiếp nối, sinh sôi nẩy nở, rồi biến tướng thành đàn, thành lũ không ngừng xâm nhập đầu óc Trí Hải. Cái lò bát quái nằm trong đầu cứ sôi lên sùng sục làm cho tâm trí như muốn nổ tung từ trong thế ngồi mà thoạt nhìn từ bên ngoài ngỡ như an tịnh. Nhưng bên trong, hình bóng Ba Gấm, nỗi nhớ Ba Gấm, sự cuốn hút và thèm khát Ba Gấm... cứ từng hồi không ngớt nổi lên xoắn lấy mọi suy tư và cảm xúc của Trí Hải. Sau mỗi màu hồng, màu thắm, màu xanh của khát vọng là màu đen, màu lạnh, màu xám của vô vọng cứ ùn ùn tràn tới. Những mảnh đời lớn nhỏ có lúc xa vời như lân tinh; lúc vần vũ như mây bão khởi lên và tắt ngúm; rồi khởi lên và giương mắt nhìn nửa như thách thức, nửa như van nài để công phá cái yên ắng muôn trùng của rừng thẳm trong lòng Trí Hải.
Trí Hải gần như ngất ngư, hụt thở giữa trùng trùng ý niệm và hình tướng không ngớt dấy lên trong tâm thức. Cứ đuổi một lại đến đôi; đuổi đôi lại tới ba. Đuổi ba lại tới đến năm điều, mười chuyện liên tục. Trong cái vắng lặng sao lại ồn ào đến thế. Cố định thần đôi mắt thì Cố kìm hãm tai nghe thì tiếng núi rừng vang động. Cố điều hòa hơi thở thì hương núi rừng ngan ngát đã phả vào mặt, vào mũi; lưỡi mặn đắng, nước bọt trào ra. Cố nghiến răng, lắc đầu, mím miệng thì cái ngứa ngáy rần rật đến từ mọi phía khắp châu thân. Trí Hải đã ngồi chịu trận như thế qua mấy ngày, mấy đêm. Trí Hải nhớn nhác tìm quanh một sinh vật hay một đồ vật nào đó để cho dòng tâm thức tựa vào, đỡ dật dờ trôi nổi, nhưng quanh ông chỉ là sự vắng vẻ dị thường.
Sự chiến đấu nội tâm của một chiến trường bên ngoài lặng lẽ, nhưng bên trong cát đá, thành quách xoay chuyển, đổ vỡ mịt mờ làm cho mồ hôi chảy thành dòng trên mình Trí Hải giữa cảnh núi rừng lạnh cóng. Câu thơ sương khói của sư ông Chân Nhã Đại Hùng thấp thoáng đâu đó trong trí nhớ mịt mờ của Trí Hải:
Đóng cửa lại
Mới thấy được vầng trăng
Đóng đôi mắt
Mới thấy núi Linh Sơn
Đóng cửa tai
Mới nghe hồn Nguyệt Quế
Đóng mũi dày
Mới ngửi được trầm hương
Co lưỡi lại
Mới nếm vị Ta Bà
Ném châu thân
Mới bay vào vũ trụ
Ném tâm ý
Mới tìm  vào an trú     
Trí Hải hoang mang trong ý nghĩ: “Phải chối bỏ chính mình, phải phủ định tất cả mới tìm ra được sự an lạc hay sao?” Hay phải kêu lên bơ vơ và lạnh cóng như thiền sư thi sĩ xứ tuyết, Trường Lạc An:
“Miền an trú ở nơi đâu?
Là một cõi trời vô tưởng định;
là phi xứ
là phi tưởng xứ,
là phi phi tưởng xứ,
là đây,
là kia,
là đó,
là một giấc mơ đời vĩnh cửu ở trong ta?”
- Ôi, trời đất cao dày, ta đối diện với ai đây?
Trí Hải nghe tiếng mình kêu lên như tiếng ai và lịm đi trong cơn chấn động bất ngờ.
Nắng mai lên. Hơi ấm mặt trời nâng Trí Hải dậy. Cái tam tài: Thiên, Địa, Nhân của cuộc sống bon chen trên mặt đất dưới kia khó mà hiểu được cái “tam thiên”: Nắng vàng, mây trắng và cây xanh trên đỉnh núi này.
Niềm thanh thoát vô biên như một phép lạ không có phép lạ. Giữa trần gian nầy không có phép lạ. Phép lạ là kết quả của của một chuỗi dài công lao truy tìm và thực hành định hướng.
Trí Hải tự đặt ra cho mình một định hướng suy tưởng và thực hành bước đầu. Thử phủ định toàn triệt như đại lão thiền sư Chân Ngã Đại Hùng giữa rừng thông tuyết lạnh xứ Tây Tạng huyền bí. Một bài tự dặn mình nho nhỏ mà Trí Hải gọi đùa trong trí là: “Tám cửa vào nhà trống” dần dần trở thành một sự nhắc nhở cận kề mỗi khi tạp ý nổi lên:
Thở vào không có Ta
Thở ra không có Người
Mắt nhìn không thấy sắc
Tai lắng không nghe thanh
Mũi thở không có hương
Lưỡi thường không cảm vị
Toàn châu thân an nghỉ
Tâm trí chỉ là không.
Ngày lại ngày, Trí Hải tự ép buộc mình phải xả bỏ tất cả để đi tìm an lạc. An lạc chỉ có trong phủ định. Sự xả bỏ đầu tiên là chối bỏ chính mình. Trí Hải áp đặt dòng suy tưởng của mình thành một gã đao phủ ý thức trên chính mình. Phải triệt hạ cho bằng được sự hiện hữu của thân xác tội lỗi tày đình này. Phải cho dòng ý thức chảy vào thân xác nầy như những cơn lũ cường toan thiêu hủy tất cả mọi cứ điểm ngoan cố, bảo thủ của nó.
Phải nghĩ rằng: “Thân xác con người là một bị thịt thối tha”, chẳng nên bảo trọng.
Phải thấy được hang ổ vi trùng trong từng lỗ chân lông. Thấy máu mủ dưới làn da đẹp. Thấy bộ xương trắng hếu sau thân xác mỹ miều. Thấy bệnh hoạn chực chờ dưới dáng vẻ trẻ trung, mạnh khỏe. ,
Phải cảnh giác rằng: “Lòng ham muốn, nỗi đam mê, tính phản kháng, ý nắm giữ… là thuốc độc cần phải loại trừ ra khỏi nơi ta.”
Dòng tâm thức của Trí Hải càng phủ định cuồng nhiệt chừng nào, cái nhìn về chính mình và xung quanh càng khắt khe chừng ấy.
Đầu tiên là phải diệt dục nơi ta. Nương theo phương pháp của mật tông sư Đạt Lai Đề Văn, Trí Hải sử dụng “kiếm khí” bằng hơi thở để diệt dục, chặt đứt những ham muốn đời thường. Bất cứ lúc nào, hễ ra khỏi giấc ngủ mê man, Trí Hải lại chăm đắm vào con đường diệt dục. Chu kỳ của một hơi thở phải thành đao kiếm diệt dục để chặt hết gốc rể của ham muốn. Toàn tâm ý hướng hơi thở của mình từ mũi, chạy lên đỉnh đầu, vòng xuống cổ, chạy dọc theo xương sống, truy quét hết chất nhiệt chứa trong vùng bụng, thóp hai bên hông vào tận xương sống, vét lần cuối hơi ấm vùng thận, chuyển hết ra ngoài thân thể theo đường hậu môn. Động tác lúc đầu là một chu kỳ có điều kiện. Lâu dần, thành một phản ứng thể chất vô điều kiện.  Những ngày đầu, Trí Hải cảm thấy khối da thịt đeo nặng của chính mình nhẹ dần. Ham muốn thể xác bốc hơi. Ham muốn tinh thần lắng xuống. Ham muốn đầy ảo ảnh bùng lên. Đôi mắt đẹp mà buồn thăm thẳm của Ba Gấm nhạt nhòa. Mùi quyến luyến gọi mời của thân xác mất đi cái nóng bỏng, háo hức, râm ran cuồng nhiệt của nó. Trí Hải mất dần khả năng về ham muốn. Mơ mộng luyến ái tắt dần. Ngày ngày đi quanh vùng đồi núi để ngắm cảnh, kiếm thức ăn cây trái thiên nhiên. Đêm đêm về nhà trai chùa Từ Vân nghỉ chân. Phải chạy, phải đuổi, phải diệt lòng ham muốn. Tinh lực trong người bị dòng tâm ý khinh miệt và phản bác tống khứ ra ngoài không thương tiếc.  Hơi thở lúc dồn dập, lúc ngắt quãng và thân xác từ từ lạnh giá.
Nỗ lực định tâm và cố gắng xua đuổi tạp niệm từ trong tư tưởng dừng lại chỉ đôi ba phút lúc đầu. Mỗi ngày sự định tâm đó kéo dài thêm và dài thêm, có khi suốt mấy ngày đêm không động tĩnh. Rồi Trí Hải cảm thấy thân xác mình không còn điểm tựa giữa trần gian nầy nữa. Tất cả theo một dòng lũ mới tinh khôi vi vút bay đi. Đi, đi  mãi đến những vùng trời mới lạ. Mắt ngập tràn chói ánh hào quang. Trí Hải ở trong trạng thái xuất hồn.  Hồn cũng chỉ là “Ta” không có xác, bềnh bồng bay, bay nhẹ như bông. Trí Hải gặp lại những nhân vật mà xưa nay chỉ biết trong cổ thư, kinh sách. Vua Trời Phạm Thiên, Phật, Chúa, Thánh, Thần, Tiên, Hiền, Bồ Tát... đều mang tính người để nghinh tiếp. Có khi uy nghi lộng lẫy, khi gần gũi thân tình, nhưng tất cả đều làm cho Trí Hải mê say cùng cực. Thế giới thánh linh hay ma ảnh, ảo ảnh, tâm ảnh ấy đẹp vô ngần. Tất cả đều thanh thoát và diệu kỳ có sức cuốn hút đến độ làm cho Trí Hải hạnh phúc ngập tràn; hoan lạc say mê vô cùng tận. Mỗi lần tỉnh lại sau cơn xuất hồn, Trí Hải có cảm giác như mình vẫn còn đứng rất xa để nhìn một cách đầy khinh miệt cái thân xác xương thịt chướng ngại đang đến hồi tàn tạ ở cõi trần thế thô lậu và mông muội nầy. Thế nhưng cái hồn thanh tân ấy vẫn phải rùng mình chui vào cái xác. Sau cùng, Trí Hải có thể chối bỏ tất cả, nhưng lại không thể chối bỏ cái thân xác tội nghiệp, cái trần gian lấm lem bụi đời hiện hữu trong chính mình và quanh mình. Trong đó và nơi đó, hơi thở vẫn đang duy trì sự sống.
Trí Hải cũng đã có lúc chới với kêu lên: “Hỡi cái trần gian ma trơi mà diệu kỳ; yêu thương mà tàn nhẫn nầy, làm sao mà bỏ mi cho đành đoạn, cho mất hết dấu tích trong ta, để cho ta nhẹ như thinh không mà bay về cõi trời vô tưởng ấy…”
Khi những vọng ảnh va chạm vào nhau và vỡ tung. Vũ trụ chỉ còn là ánh sáng. Khối “đại linh quang” ngập tràn thiên thể. Ánh sáng, ánh sáng, ánh sáng... tất cả là ánh sáng. Con người chỉ là một đốm sáng trong vũ trụ mênh mông nguồn sáng.Mỗi người là môt tiểu linh quang mang hết bản ngã của đại linh quang. Do đó, mỗi con người là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ ánh sáng. Từng đốm sáng nói chuyện với nhau. Từng vệt sáng cuốn hút với nhau. Từng tinh cầu ánh sáng tác hợp với nhau để biến tướng thành tinh cầu mới. Tình yêu nguyên sơ tác hợp với tình yêu trần thế, rồi thiên biến vạn hóa thành vô số những cuộc tình ngây ngô, hoang dại hay nghiêm cẩn, trang đài mà tạo ra thế giới con người và muôn loài...
Thêm một lần đổi đời, Trí Hải chối bỏ tất cả để chiêm nghiệm Đại Linh Quang. Biển ánh sáng kéo dài bất tận. Và bởi bất tận không có biên cương mà cũng chẳng có phương hướng cho nên ánh sáng là ánh sáng, không có đầu, đuôi; xuôi, ngược. Cũng chẳng có điểm khởi đầu và kết thúc.
Trí Hải đang ở giữa vùng xoáy của tư duy, nơi đó, lửa đang cháy rần rật. Lửa thiêu sống hết thảy mọi giá trị, quy ước, ý nghĩa, cảm nhận về đời sống. Lửa thiêu rụi tất cả để sáng tạo ra một thế giới mới.  Thế giới khi trống không, đen ngòm, hoang lạnh; khi rộn ràng hiện ra muôn ức điệu sống. Sự gặp gỡ của thiên giới lẫn ta bà đang diễn ra rộn rã. Trí Hải đi vào miền hoang tưởng của một trạng thái tâm lý, tri thức và cảm giác đang bị đổ vỡ tan hoang mà những luận sư tâm lý gọi là trí động, tâm loạn, rối đạo, âm dương không bình hành hay “tẩu hỏa nhập ma”!
Thiện Giả đến gần một Trí Hải đang ngồi định thần bên suối Bản Lai, mắt nhắm nghiền, miệng nói ra những điều khó hiểu. Nghe tiếng động, Trí Hải mở mắt. Đôi mắt thông minh có vẻ như đờ đẫn mệt mỏi đang vân du về một cõi nào đó rất xa, say sưa nói những điều bâng quơ dưới lớp vỏ minh triết:
- Từ cõi hỗn mang, tất cả trời đất quỷ thần đều là một. Ta vừa gặp vua trời Phạm Thiên. Ngài mời ta uống rượu bồ đào và cho biết thế giới trần gian nầy sắp đến ngày tận thế. Cho nên ta phải tìm ra một chân lý siêu tuyệt nhất để cứu đời. Ta đã bay tới vùng trời Đâu Suất, nghe chim Ka Lăng Tần Già ca hát. Ta đã gặp Phật, gặp Chúa, gặp chư vị bồ tát, thánh thần trò chuyện. Ta đã học được hết kho báu của trời, kho khôn của người, kho quý của đất. Ta là sứ giả của muôn loài...
Thiện Giả ái ngại lặng nghe giọng trầm ấm của Trí Hải nói lảm nhảm vang lên giữa rừng núi như tiếng chảy lạc hồn của một dòng sông buồn ngủ. Giọng Trí Hải mới nghe qua, mang đầy vẻ tự tin của một nhà khải đạo. Nhưng thật ra đây chỉ là tiếng nói từ vô thức. Kiến thức, lý thuyết sách vở cộng với những mơ ước ngút ngàn không thể hiện được trong cuộc đời thường đang gặp gỡ nhau giữa dòng cuồng lưu của tâm thức bị ức chế vừa tạo ra một Trí Hải khác. Trí Hải bây giờ như con sông mới lạc vào biển rộng, mất hết cá tính và tan loãng vào một thực tế ảo, còn đó mà như không, vẫn trôi đi mà không có phương hướng bến bờ.
Trước khi Thiện Giả kịp lên tiếng, Trí Hải đã quay sang ngỏ lời giáo chủ:
- Này Thiện Giả. Ta nhận người làm môn đệ đầu tiên của ta. Đừng sợ hãi. Hai ta sẽ lên đường hành đạo cứu đời. Đạo của ta là đạo siêu nhân. Đường ta đi là đường chân lý. Tất cả các nẻo khác đều sai lầm. Hãy cầu nguyện. Hãy niệm. Niệm ta. Niệm to lên. Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Ta. Niệm Nam mô Ta Bà Trí Hải Linh Quang Đại Vũ Trụ. Ta là bậc thượng thừa đại thánh, là giáo chủ sắp truyền mật ấn cho ngươi! Theo ta. Theo ta.  Hãy theo ta. Hỡi Thiện Giả và muôn loài.
Thiện Giả đặt bàn tay ấm áp của mình lên bàn tay lạnh ngắt của Trí Hải. Niềm cảm thông chân tình ùa đến. Thiện Giả đã quanh quẩn nơi vùng núi đồi Kim Phụng nầy đủ lâu để chứng kiến những khúc quanh đầy sóng gió và quyết liệt trong tâm thức của những con người cầu đạo, tu đạo và hành đạo theo một cách riêng phù hợp với căn cơ của mình. Ban đầu, có thể họ cũng có một tấm lòng nhân ái.  Nhưng họ tự bỏ mình vào cái lò luyện đạo, năng nỗ muốn dùng lữa tam muội của tôn giáo để đốt lò. Họ cố nhen lên một bếp lửa riêng.  Nhưng khi cố bật mồi lửa đầu tiên thì bật hoài mà lò không nhá lữa.  Đơn giản vì những Ông Đạo, Bà Đạo nhỏ nầy muốn thành nhà sáng tạo mà lại không hề có một mảnh nhỏ tư tưởng của riêng mình. Những ông bà Đạo Nhỏ nầy lém lỉnh cắt một miếng của Đạo; xén một mảng của Nho; gói một mớ kinh điển Phật, ghém một tràng yếu lý của Chúa… để “luyện trong lò bát quái” của riêng mình. Luyện hoài không chín, đành vớt sống ra rao bán giữa đời. Vì thế, một sản phẩm tâm linh mà chưa chín nhừ sẽ thành một mớ cơm độn lổn chổn thứ nào cũng có. Nói hoài những điều không phát ra từ trí tuệ chân chính nên hết linh thiêng và nhiều ông bà Đạo Nhỏ bỏ cuộc nửa chừng.
Bỏ cuộc, người ta chỉ tới được một trong hai con đường: Hoặc là được mình, hoặc là mất mình. Được mình là tìm lại về mình, tìm thấy con người thật của mình để tỉnh ngộ và sửa đổi. Mất mình là mang ảo tưởng tự thánh hóa mình và tìm cách thánh hóa kẻ theo mình. Trí Hải đang mất mình vì đang ở trạng thái tự thánh hóa mình và tìm cách hóa thánh “môn đồ” Thiện Giả. Tâm lý hóa thánh lâu ngày sẽ dần dà trở thành một cơn bệnh kinh niên. Bệnh này là tin vào một điều không có thật nhưng cứ tin hoài thành ra thật - ngụy tín - nên thấy mình là thánh thật và đòi hỏi người đời phải cung bái mình như thánh. Thiện Giả đã chứng kiến nhiều người “tự hóa thánh” như vậy xuống núi. Thánh cứu đời hay đời chôn thánh cũng chẳng có tác động gì đến ai. Nhưng đã làm thui chột đời sống tâm linh của những người theo họ vì nhân sinh quan và vũ trụ quan vá víu và khập khiễng của “giáo chủ”. Trong những tôn giáo với lịch sử hàng nghìn năm, vẫn thường có những hiện tượng “tiểu đạo” nhất thời ồn ào, vọng động như thế. Tuy biết thế, nhưng lần này, Thiện Giả không thể dửng dưng trước hiện tượng “hóa thánh” của một trí giả có chân tâm và chân tài như Trí Hải. Thiện Giả quỳ xuống trước đôi mắt lạc thần vừa ánh lên nét long lanh ma quái của Trí Hải. Vừa vái như vái với bậc chân nhân thánh sống, vừa sửa giọng cầu đạo, Thiện Giả lên tiếng:
- Bẩm hoàng thân chí thánh, xin tạ ơn ngài đã nhận Thiện Giả này làm đại môn đệ. Tuy nhiên, kẻ cầu đạo này chỉ xin một điều kiện nhỏ, chẳng rõ ngài có soi xét cho không?
Trí Hải đặt tay lên đầu Thiện Giả như ban phát hồng ân:
- Được, được. Ta cho phép ngươi cứ nói.
Thiện Giả chắp tay thưa:
- Dạ, Thiện Giả tôi chỉ theo ngài nếu ngài vượt qua được bờ bên kia của dòng suối nhỏ này.
Trí Hải cười. Tiếng cười không mang nét vui buồn thường lệ mà lanh lảnh như tiếng chim từ lưng trời đổ xuống:
- Ôi chao! Chuyện nhỏ, người yên chí theo ta. Phép thần thông ta còn có được, vua Trời ta còn gặp được thì dòng suối nhỏ này có đáng vào đâu. Này Thiện Giả! Quảy giỏ mây lên vai và đi theo ta.
Trí Hải nhớm đứng dậy nhưng người còn yếu quá phải ngồi xuống lại lấy hơi. Luồng sức mạnh ân sủng tự kỷ tràn tới đẩy Trí Hải đứng lên và bước xuống bờ suối. Trên bờ, con dã nhân đã đứng đó từ bao giờ. Mắt nó đỏ ngầu, hai tay cầm hai vòng lửa đang cháy rần rật, đầu đội mũ kim khôi giáo chủ, miệng không ngớt nói rít qua kẻ răng những âm thanh chói tai, vô nghĩa. Khi đến gần bờ suối, Trí Hải sấn tới một bước, dã nhân sấn tới hai bước. Trí Hải buông lời thuyết giáo, con dã nhân lập lại qua tiếng hét, tiếng gào đinh tai nhức óc.  Trí Hải đưa tay làm cử chỉ ban phát, dã nhân tung cả hai vòng lửa vào đầu ông. Với hai vòng lửa cháy quanh mình, Trí Hải vùng vẫy chống đỡ lửa nóng và bổ nhào xuống suối, nhưng dã nhân đã nổi cơn thịnh nộ hất tung lên bờ. Trí Hải quằn quại vật vã cho đến khi ngất lịm trên bờ suối.
Không biết ngã xuống đã bao lâu, khi mở mắt tỉnh dậy, đêm đã quá nửa khuya.
Trí Hải cảm thấy như chân tay và đầu óc buông lung của mình đang bị trói chặt vào một tảng đá hay gốc cây vững chắc. Từ trên cao có ai đang nhìn. Tia nhìn dữ dội xé nát cơn hoang tưởng ra từng mảnh nhỏ. Trí Hải lạnh tê người và run rẩy trước tia nhìn im lặng đầy phong ba đó. Có một sức mạnh đang nâng Trí Hải lên, vực Trí Hải dậy, giải hết những mây mờ đã chôn vùi ánh sáng của lý trí.  Khi tâm bị quật ngã, thể lực mất thế dựa cũng ngã theo. Trên đà rơi nhanh vùn vụt của tâm thức không còn chỗ dựa, cần phải có một sức mạnh đối trị. Sức mạnh đó là Định Lực Nội Tại của bậc thần thánh hay định lực an trú có nơi các vị cao tăng. Ngồi bên cạnh một bậc chân tu là ngồi trong vòng thế giới linh cảm. Không cần lời mà vẫn hiểu được sự uyên áo của tư tưởng; không cần xoay chuyển mà vẫn  cảm nhận được sự an lạc của thân tâm.
Khi những tia sáng ban mai đầu tiên vừa lọt qua khe núi, Trí Hải mới nhận ra là suốt đêm qua ngoài Thiện Giả thấp thoáng dưới chân đồi, còn có một một người, một vùng, một thế giới đứng yên, không quay cuồng xoay chuyển bao bọc quanh mình. Những ảo ảnh điên cuồng quay tít trong không gian, trong trí tưởng “giáo chủ” Trí Hải từ mấy ngày trước cho tới đầu hôm qua từ từ chậm lại, đứng yên, khi ẩn khi hiện, rồi mất dạng. Ngày lên và cái bóng thứ hai đó cũng không còn.
Trí Hải cố vươn mình đứng dậy. Thiện Giả đang ngồi nhìn, nở nụ cười hiền bên cạnh. Nhìn xuống dòng suối, con dã nhân đã đứng sẵn ở đó tự bao giờ đang chằm chặp nhìn lên. Lần đầu Trí Hải mới có dịp nhìn thẳng lại nó. Bốn tia mắt gặp nhau, Trí Hải cảm thấy toàn thân rúng động như đang nhìn vào xác chết của chính mình. Thân thể mõi mệt cơ hồ vỡ ra từng mảnh vụn. Đầu óc đặc quánh. Trí Hải cảm nhận được bàn tay ấm dịu của Thiện Giả đặt lên trán mình, trăn trở hỏi:
- Tôi vẫn còn sống ư?! Không phải tôi đã bị đốt cháy thành than rồi sao?
Vẫn nụ cười hiền chưa tắt, Thiện Giả trả lời:
- Có lửa hỏa thiêu bên ngoài đâu mà cháy. Hai vòng lửa trên tay dã nhân chính là lửa trong tâm của Hoàng thân quý hữu. Đó là ngọn lửa của tham vọng và vô minh tự thánh hóa mình thành giáo chủ và cố hóa thánh người khác thành môn đồ của mình.
- Tôi đã mơ thành giáo chủ sao?
- Vâng, hoàng thân không phải chỉ mơ mà đã hành xử như một ngài giáo chủ.
Trí Hải mở mắt nhìn cây lá ngỡ ngàng như vừa tỉnh dậy sau một cơn mơ:
- Mà giáo chủ là ai, là hiện thân của một mẫu người như thế nào và có nghĩa lý gì không mà tôi phải mơ thành người như thế?
- Đấy là tiếng gọi mơ hồ nhưng vô cùng thúc bách của tham vọng và quyền lực thống lĩnh tâm linh giữa một thế giới toàn ma ảnh.
- Tôi đã sống qua những giờ phút cập kỳ vọng tưởng đến như thế sao? Cái gì đã đưa tôi trở lại với tôi như bây giờ?
- Định lực.
- Định lực là gì?
Thiện Giả trả lời như nói thuộc nằm lòng:
- Là sức mạnh tâm linh siêu việt nhất mà con người có được.
- Sức mạnh đó từ đâu mà con người có được?
- Nguồn sức mạnh đó có sẵn khắp nơi trong trời đất.
- Nhưng làm sao để lấy được?
- Chỉ cần một bình chứa.  Bình càng lớn chứa được càng nhiều.
Trí Hải cảm thấy vui vui như một cuộc chơi cút bắt:
- Bình chứa đó kiếm từ đâu ra?
- Khỏi cần mua hay kiếm, ai cũng có sẵn nơi mình.
- Ở đâu?
- Ở tánh rỗng lặng.
- Làm sao có được tánh rỗng lặng?
- Dọn cái kho đang chứa đầy những thứ hỗn tạp trong tâm, trong trí của mình. Vứt bỏ tất cả.
Trí Hải đuổi nhanh hơn:
- Vứt bỏ luôn cả mình sao?
- Bỏ tuốt!
- Mình là ai mà lại bỏ tuốt dễ dàng thế?
Đến đây thì Thiện Giả đưa cả hai tay lên trời cười xòa, trả lời thành thật:
- Chịu. Tôi chỉ mới học tới ngang đó.
- Học với ai?
- Với người có định lực siêu việt đã cứu một người bị tẩu hỏa nhập ma hồi đêm qua đó.
Chợt hiểu, nhưng Trí Hải muốn xác định rõ hơn:
- Ai là người cứu và người được cứu vậy?
Thiện Giả cười to, nói đầy cởi mở:
- Hoàng thân Trí Hải phải biết quá rõ người đó là ai mới tìm lên núi nầy chứ. Mình cũng có thể biết được căn cơ của mình mà.
Quay lại với thực tế của mình, Trí Hải hỏi:
- Vậy thì làm sao mà biết được căn cơ của tôi như thế nào?
Thiện Giả tiếp lời:
- Không ai biết được căn cơ của ta ngoài chính ta.
- Nhưng bằng cách nào?
- Tại bên bờ suối Bản Lai này thì rất dễ. Chỉ cần chế ngự cho được cái tâm vọng động của mình là sẽ bắt đầu thấy được mình?
- Khi con dã nhân biến mất.
- Phải. Chính thế!
- Nếu lỡ như Trí Hải tôi không đến được suối Bản Lai và không gặp con dã nhân mà lâm vào tình trạng “hóa thánh” thì sao?
- Thì nghiễm nhiên trở thành một ông hay một bà đạo nhỏ.
Thiện Giả vừa nói vừa cười đùa. Trí Hải thở dài không nói.
Mùa Xuân và lộc non. Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông về và đi trên cây cỏ như sinh, lão, bệnh, tử đối với con người. Những ngày cuối đông và đầu xuân trên vùng núi non Kim Phụng, Trí Hải sống một mình. Ngày đi quanh những ngọn núi lớn nhỏ hay ngồi tĩnh lặng định tâm bên suối Bản Lai, đêm về khu nhà trai vắng vẻ của chùa Từ Vân, Trí Hải khám phá một thế giới mới của người sống một mình.  Giữa xã hội đời thường, người ta quen kiểu sống cho ai và sống với ai. Một mình giữa rừng núi buổi đầu, Trí Hải quen dần với ý niệm “sống cho mình và sống với thiên nhiên”. Muốn sống an lạc với thiên nhiên thì phải biết đưa thiên nhiên vào mình, chứ không thể làm ngược lại là đưa mình vào thiên nhiên. Những ngày đầu, Trí Hải phản ứng chống lại thiên nhiên như phải cắn răng hay co cụm thân mình hoặc đốt than suốt ngày để chống với cái lạnh của núi rừng.  Nhưng càng chống với thiên nhiên thì thiên nhiên càng phản ứng lại một cách lạnh lùng không nhân nhượng. Trí Hải dần dà tập nghe thiên nhiên và sống với thiên nhiên như nghe và sống với tiếng “con gà” gáy sáng thuở nào.
Từng đêm khuya và mỗi sáng sớm, Trí Hải lắng hết tâm trí nghe tiếng núi, tiếng gió ngàn, tiếng lá rung, suối chảy, dã thú, côn trùng... của rừng thẳm vang lên từng hồi, từng chặp hay thâu đêm đâu đó.  Trí Hải nén hơi thở mình, trộn hơi mình với khí lạnh bên ngoài, hít sâu vào châu thân, mở rộng ngõ cho luồng khí lạnh len lõi, chạy đều khắp kinh mạch trong người. Cảm giác tê buốt lúc đầu giảm dần, rồi bảo hòa và ấm lại cho đến khi nguồn nội nhiệt giao hòa với tiết trời lạnh buốt bên ngoài để tạo thành một luồng sinh khí mới.
Từ hơi thở đến những sinh hoạt khác hàng ngày như ăn, uống, thức, ngủ, nghĩ, nhìn... Trí Hải tự luyện tập cho mình theo cùng với điệu sống của thiên nhiên. Thiên nhiên là một người cha nghiêm khắc, nhưng là một người mẹ nhân từ. Với người cha, bắt thiên nhiên uốn lượn theo đường nét riêng của cá nhân mình là điều nghịch lý, không thể nào chìu con được. Với mẹ, gieo tấm thân lem lấm bụi đời vào vòng tay mẹ, bao giờ cũng được mẹ dang tay ra đón với tất cả tha thứ và yêu thương. Chỉ có thiên nhiên mới rủ được những lớp bụi phong trần. Con người thì có vẻ như càng cố lau sạch bụi đời càng tấp thêm những lớp phù sa lấp loáng nước phèn.
Càng gần gũi và giao hòa với thiên nhiên, núi rừng, cây cỏ, Trí Hải càng cảm thấy cái vũ trụ nhỏ mang tên “Hoàng thân Trí Hải” chỉ là một ý niệm bèo bọt như một tiếng lá rơi chưa chạm đất giữa rừng thẳm trong đêm khuya. Tầm mắt nhìn từ đỉnh núi không bị che chắn bởi rào dậu hay biên cương. Mắt người nhìn sâu vào vũ trụ chỉ là đốm lửa tàn loé lên trong giây lát và thể nhập vào cõi mêng mông. Tai nghe một vọng âm phát ra từ đối vật rồi tắt lịm vào chốn im lìm nguyên sơ tuyệt đối. Rồi hương vị, mùi vị, cảm vị trở thành vô vị, trống không giữa đá núi rêu phong và cây rừng bạt ngàn, trùng điệp. Có cái gì là tồn tại, là thật giữa núi rừng Kim Phụng nầy.  Rõ ràng là không có gì cả. Ngay cả cái tên gọi cũng chỉ là những thói quen, những quy ước bâng quơ. 
Kẻ có chữ gọi nó là Kim Phụng; người làm ruộng dưới đồng bằng phía Đông gọi nó là núi Tây Phương; giới tìm trầm thì gọi nó là núi Trầm; dân sống gần chân núi thì gọi là núi Xanh. Tất cả đều đúng, tất cả đều sai hay chẳng có ai sai, ai đúng cả? Nghĩ đến đó, Trí Hải bật cười sảng khoái một mình.
Hình tướng và danh tướng không có một chỗ đứng nào vừa mắt trên đỉnh núi mây bay nầy.
Càng ngày, Trí Hải càng khám phá ra một sự thong dong tự do tuyệt đối: Nó! Nó là sự rỗng lặng tuyệt vời. Nó không mảy may dính mắc như mây trắng phiêu du. Nó không tên, không tuổi, không hình, không dáng, không phẩm, không lượng.  Nó rỗng không mà đầy ắp.  Nó hiện ra thường xuyên trong ta, ngoài ta, quanh ta. Nó có đó mà không đó. Khi tâm trí hoàn toàn buông xả thì Nó đến. Chỉ một chút tơ vương là Nó biến mất. Nó vô hình mà hiện hữu trong từng chớp mắt. Nó không phải là một cặp phạm trù mà là một “Nó” vừa có vừa không. Giữ lòng trống không thì Nó hiện ra tức khắc. Tìm cách giữ nó lại bằng một tên gọi, một mảy may ý niệm mô tả hay so sánh thì Nó sẽ vụt bay đi. Nó là Không. Và chỉ có Không mới hiểu được Không và cũng chỉ có Không mới nuôi dưỡng được Không. Chẳng có gì chứa được “Không” mà “Không” cũng chẳng chứa gì trong nó cả dù chỉ là ý niệm vì tự “Không” là một ý niệm.
Càng giữ được cái tâm có khuynh hướng về gần với “không”, hoàn toàn buông xả, Trí Hải càng yêu cuộc đời nầy lạ lùng. Yêu cuộc đời để sống với nó, yêu thương nó, trân trọng nó từng khắc từng giây chứ không phải cầm giữ nó như một kỷ vật hay một mơ ước. Cuộc đời nầy không có; cuộc đời nầy chết đối với người không thật sống với nó. Chẳng có một cuộc đời nào cả khi tâm vắng bóng giữa đời.  Trí Hải nhận ra rằng muốn cứu đời trước hết phải làm cho cuộc đời nầy hiện hữu với chính mình. Khi mình không thực sống cho mình thì mình cũng chẳng sống được cho ai cả. Nếu chính mình đã phủ nhận đời sống mà vẫn đòi sống cho người khác thì hoặc là bất minh, hoặc là giả dối hay tự đánh lừa chính mình. Trí Hải cảm nhận nỗi ân hận trào dâng khi nghĩ lại hơn nửa đời qua và thấy mình vô lý. Mình muốn giúp đời mà chối bỏ cuộc đời. Mình không thực sống với cuộc đời mà cứ mãi mê đi tìm những gì nằm ngoài hiện thực cuộc đời.
Nói với một mình, Trí Hải nhớ Inke Yorka thời cổ đại trong sử thi của một bộ tộc nhỏ được trưng bày ở Ba Lê thời hoàng tử Cảnh đã chỉ gươm xuống đất:
- Ta về với cõi người dưới đất,
Sống mãi trên Trời ta nhớ Ta.
Cái Ta bản lai diện mục. Cụm từ ngỡ như là triết lý cao siêu nầy, thật ra, để chỉ cái tánh rất thật, rất chân phương và trong suốt nằm sâu trong ta. Nó ở ngay trong ta mà nó đi đâu chẳng thấy bì bị những cái tánh rất giả, rất dối che khuất.
Trí Hải sửa lại bài tập thở “Tám cửa vào nhà trống” thành “Tám cửa vào đời sống”. Một điệu sống dấn thân mà không chấp nhặt; hành động mà vẫn buông xả; có có trong không, có không trong có:
Thở vào không dựa Ta
Thở ra không dựa Người
Mắt nhìn không đắm sắc
Tai lắng không say thanh
Mũi thở không dính hương
Lưỡi thường không mắc vị
Toàn châu thân xả hỷ
Tâm trí lặng như không.
Trí Hải không tìm cách phủ nhận đời thường, diệt ham muốn nữa.  Bởi vì do ham muốn mà con người sinh ra, nên con người chuyển động và sinh tồn do động cơ ham muốn thúc đẩy. Diệt ham muốn tức là diệt cái gốc con người. Trong cái vòng tròn sinh diệt ấy, thật ra, tất cả là một chuỗi thay hình biến tướng liên tục chứ chẳng có cái mới nào sinh ra và cái cũ nào tiêu diệt cả. Trí Hải đã toan “diệt dục” bằng phương thức triệt tiêu tinh lực của bản thân mình, xả bỏ hết năng lực tình dục, đày đọa xác thịt, tiêu mòn sức sống để đuổi hết ham muốn ra khỏi thân xác mình. Nhưng làm như thế có khác gì làm công việc cố vét bùn, tát cạn một dòng sông để triệt tiêu nước nguồn, mưa lũ. Thế nhưng mưa nguồn không đến từ một dòng sông mà đến từ biển cả sau một chuỗi dài biến tướng ra đi và trở về; không một ly sinh diệt.
Sau cơn chấn động dị thường, Trí Hải trở về với cuộc đời thường quanh vùng núi rừng Kim Phụng và chùa Từ Vân. Những buổi ngồi định tâm hằng ngày, mỗi lúc một kéo dài lâu hơn. Trí Hải không đi tìm một thế giới nào an lạc hơn ngoài chính mình nên cả thân xác lẫn tâm hồn đều rất an tịnh. Không còn quay quắt, loay hoay để cố thoát ra khỏi mình, tìm đủ mọi cách xuất hồn, xả vía hay tự tán mình trong biển linh quang, Trí Hải cảm thấy thế giới nầy tĩnh lặng từ bầu trời xanh đến cành cây ngọn cỏ. Tiếng chim kêu không ríu rít, buông lung mà có gởi gắm điều gì rất ý nghĩa trong đó. Nắng, gió cùng tiếng suối Bản Lai trong sáng và dịu thoát vô cùng. Ngay cả Ba Gấm cũng trở thành một hình tượng đẹp đẽ, yêu kiều không làm gợn lên một thoáng dục tình, đục trong, ham muốn.
Khi cả tâm hồn và thể xác đều thể hiện trọn vẹn “nội dung” bên trong lẫn bên ngoài thì tất cả đều phơi trải trên dòng hiện tại, giữa phút này đây. Khi không còn một nơi trú ẩn, không còn cái hang quá khứ để trốn vào đó mà tiếc nuối hay ân hận, không có một lâu đài tương lai để sa đà vào đó mà mơ mộng vẽ vời hay lo sợ thì tâm lý con người sẽ được tự do. Tự do đích thực không phải đến từ bên ngoài mà tịnh thoát từ bên trong. Trí Hải nghĩ về những ngày qua với một cảm giác an nhiên của gã tiều phu đi nhặt những miếng củi trong rừng để bỏ vào bếp lửa đang cháy trước mắt. Trí Hải nhìn về con đường trước mặt cũng với tâm lý tự tại của gã tiều phu đang đốt than. Bếp lửa than đang đốt củi thành than. Điều nầy cũng tất nhiên như than sẽ được bán ra đổi gạo vào một lúc nào đó tại một nơi nào đó. Bếp lửa đang cháy mới thật là sự sống. Chối bỏ sự sống hiện tại là phủ nhận dòng thời gian không đứt đoạn. Bếp lửa đang cháy là sự sống; nó là gạch nối giữa quá khứ và tương lai. Trí Hải gật đầu với quá khứ và mĩm cười với tương lai, nhưng không mảy may để ý đến nó. Giữa hiện tại, Trí Hải biết có một Ba Gấm giữa đời này. Ba Gấm đã từng gắn bó với Trí Hải trong những ngày qua và sẽ gặp ông trong thời gian tới. Cái “biết” của Trí Hải trong phút hiện tại nầy là một cảm giác đứng yên và độc lập. Đấy là một cảm giác thanh thản, bình an; không chán, không ham, không gợi, không tưởng.
Nắng vàng trên cao như đang tung mình vào những tảng mây quanh đỉnh núi Kim Phụng. Rồi mây và nắng xa nhau không một chút bịn rịn, không một lời từ ly, nên không gây một tiếng động giữa cung trời.
Trời đất, con người và vạn vật có sự cảm ứng qua lại nhưng tất cả đều phải ở trong một trật tự hòa điệu, không dính mắc vào nhau, không lấn lướt tấn công và hủy diệt nhau. Cả vũ trụ trăng sao trùng trùng thăm thẳm thế kia mà vẫn muôn đời im lặng. Chỉ có thế giới ta bà nầy là ồn ào, vọng động nhất vì muôn loài đã đánh mất chân tánh. Định tâm để tìm về và tìm lại chân tánh gọi là tu.
Tháng 5/2006
Trần Kiêm Đoàn
Theo http://www.trankiemdoan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đỉnh mù sương XXXXX

Đỉnh mù sương Nằm xuống với một đồng tiền cũ nát Mở to mắt nhìn lệ rơi trong đêm… Chiếc xe bán tải isuzu màu xám đen vượt lên lưng chừn...