Cơm nước đã dọn xong nhưng Maria vẫn chưa thấy đến.
Tôi sốt ruột nhìn đồng hồ, đã hơn tám giờ tối, rồi nhớ là theo hẹn chúng tôi sẽ gặp nhau sớm để có thể nói chuyện nhiều.
Thấy tôi bắt đầu mất kiên nhẫn nên vợ tôi vội gọi điện cho Maria, nhưng hình như là ở nhà không có ai trả lời, còn gọi qua di động thì đường giây tắt ngấm, không bắt được liên lạc. "Lạ thật! Hay lại xảy ra chuyện gì?". Tôi không nói gì, nhưng đinh ninh là Maria đang trên đường đến đây và bị kẹt xe ở một nơi nào đó. Đường phố vào mùa nầy rất đông người.
Tôi đi đi lại lại trong phòng khách rồi bước đến bàn ăn, thổi tắt ngọn nến mà vợ tôi vừa đốt lên khi nãy. Ngọn lửa bùng lên, chao qua chao lại rồi tắt phụt. Tôi cầm đĩa đậu phộng đặt ở góc bàn rồi đến đặt mình xuống ghế xa lông, bật Ti Vi, vừa nhâm nhi vừa xem tin tức. Tôi bấm máy liên tục, không nhất thiết nhìn vào một đài nhất định nào. Nhưng sau một lát, trên màn ảnh có thiên phóng sự về thời tiết và cảnh mua sắm bỗng làm tôi chú ý. Tôi đặt cái máy điều khiển xuống chiếc bàn con và thôi không đổi đài nữa.
Năm nay trời trở lạnh bất thường. Những mảng tuyết chưa tan, phủ trắng khắp thành phố La Mã là một hiện tượng lạ lùng. Có lẽ từ nhiều năm qua, vào mùa đông nhiệt độ ở thành phố nầy chưa bao giờ xuống thấp như vậy. Nhưng điều làm tôi chăm chú là hình ảnh những kẻ vô gia cư đang khốn khó và chết cóng vì cái lạnh bất ngờ. Sự bần cùng của họ là một tương phản đậm nét với cảnh tiêu pha xa xỉ của những ngày trước lễ Giáng Sinh.
Trên màn ảnh lúc nầy là chiếc băng gỗ, cạnh đó còn mấy chai rượu, các vật lỉnh kỉnh đựng trong túi nylon và một chiếc mền bẩn thiểu, rách nát nằm vương vải trên nền đất, nơi mà Peppino Fumagalli, gã đàn ông 50 tuổi đã nằm chết đêm qua. Đó là gã lang thang, vô gia cư thứ 15 chết cóng từ khi trời bất ngờ trở lạnh. Hồi tám giờ sáng người ta thấy gã nằm bất động ở trong vườn Bravetta, gần khu Trastevere, ở ngoại thành La Mã.
Thiên phóng sự còn cho biết là những ngày trước người ta đã tìm thấy xác một bà người Đức mập tròn ngủ qua đêm bên cạnh đống vỏ bia đã cạn không còn một giọt trên một băng gỗ ở đường Giulio Cesare; Ở một khu phố khác, một gã người Tunisi nhập cư bất hợp pháp, trong túi hãy còn mảnh giấy trục xuất của sở cảnh sát Roma. Có lẽ gã đang chờ đến giờ mở cửa,có phát thức ăn vào sáng chúa nhật trước chủng viện của các nữ tu, hoặc định xin vào trong tránh rét. Ở gần nhà ga Fiumicino, người ta cũng đã tìm thấy năm thi thể khác nằm co quắp. Cơ quan truyền thông còn cho hay là sẽ có rất nhiều người nữa bỏ mạng trong những ngày sắp tới. Cái lạnh bất ngờ đã không buông tha cho cuộc đời khốn khổ và bần cùng của họ.
Tôi sực nhớ là những ngày trước đó, các mẫu tin về cái chết thê thảm của những kẻ sống lang thang được báo chí loan tin dồn dập làm dư luận bắt đâu lo ngại. Ngay đức Giáo Hoàng cũng phải lên tiếng và kêu gọi các cơ quan thiện nguyện khẩn cấp cứu trợ. Ông thị trưởng thành phố Roma lên TV tuyên bố là trong vài ngày sẽ cố gắng thu xếp chổ ăn ngủ cho ít nhất 200 người. Nhưng trong trường hợp khẩn trương nầy "vài ngày" là một thời gian dài vô tận cho những kẻ chỉ biết tránh rét trong những thùng giấy rách bươm trên vỉa hè thành phố.
Thật tình, từ trước đến nay tôi hoàn toàn không hiểu gì về những kẻ lang thang, dù đôi khi tình cờ thấy họ trên đường phố. Chưa bao giờ tôi để tâm về họ nên những câu chuyện trên màn ảnh đã làm tôi ngạc nhiên, nhất là khi biết rằng không phải kẻ vô gia cư nào cũng muốn được cứu giúp. Phần đông họ không chịu xin vào các chỗ tập trung. Và hình như chỉ có cái lạnh quá đáng mới có thể buộc họ chấp nhận những lề luật để vào các trại tiếp cư. Nhưng chỉ tạm thời. Vì khi thời tiết thay đổi, trước sau gì họ cũng trốn ra. Những câu trả lời trên màn ảnh làm tôi ngớ ngẩn: "Bị nhốt trong những căn nhà tế bần ấy chúng tao chỉ là những tên nô lệ. Trên đường phố, ít ra là chúng tao còn có tự do". "Tao đâu có muốn bị giam để bị đối xử như những kẻ ăn mày. Đúng giờ, lũ nhân viên thí cho một bữa ăn, nấu nhão nhẹt như keo dán bích chương. Đêm giáng sinh bọn nó quẳng cho một chai rượu, vài cái bánh ngọt, và chúng tưởng làm thế là lương tâm chúng được ổn". Có lúc câu trả lời mang đầy phẫn nộ: "Cần phải có can đảm lắm để sống cuộc đời nầy, để giữ cho trí óc thảnh thơi, dù đường phố có làm cho chúng tao hung dữ. Mà chúng tao có hung dữ thì cũng bỡi vì thực tế đã tàn nhẫn với chúng tao. Hà hà... Chúng mầy là bộ phận của thực tế ấy"
Tôi chăm chú theo dõi những hình ảnh đa dạng về những mảnh đời khác biệt hiện trên màn hình. Rồi những ý nghĩ lan man trong đầu làm tôi không còn sốt ruột vì chờ đợi. Tôi quên cả đói.
Khoảng hơn 9 giờ thì Maria mới đến. Mệt mỏi, mặt mày hốc hác. Lúc bước vào cô ríu rít xin lỗi, nhưng vợ tôi vội bảo cô đi sấy tóc và mang cho cô đôi dép để thay đôi giày đã ướt đẫm vì lội tuyết.
Maria cho hay là lúc sáu giờ rưỡi đã định rời cơ quan nhưng không về sớm được vì tình hình đêm nay khá căng thẳng. Lúc cô định báo cho chúng tôi hay là sẽ đến trễ nhưng trong khi phân phối mùng mền, thuốc cảm, thuốc giảm đau cho những kẻ vô gia cư, loay hoay thế nào, cái điện thoại cầm tay bỏ trong túi áo đã rớt mất lúc nào không biết.
Bữa ăn tối diễn ra không còn trịnh trọng như dự tính ban đầu. Nhưng bù lại, có một không khí chân tình, cởi mở. Câu chuyện của chúng tôi lúc nầy dĩ nhiên là xoay quanh về công việc của Maria ở một cơ quan thiện nguyện và đề tài chính là cuộc đời của những kẻ không nhà. Họ là ai? Và câu hỏi nầy đã được Maria giải thích bằng kinh nghiệm của mình.
- Những kẻ lang thang là một hiện tượng khá phổ biến trong xã hội Tây Phương. Người Ý gọi họ là vagabondo, gã lang thang hay barbone là một gã râu tóc bờm xờm; người Mỹ thì gọi là Homeless và người Pháp kêu họ là clochard. Dĩ nhiên đó là một người nghèo, nhưng nghèo không đủ để định nghĩa rằng đó là một kẻ lang thang. Điều chắc chắn là họ không có việc làm, hay sở hữu một phương tiện nào đó để mưu sinh. Nhưng điều này cũng chẳng phải là một mẫu số chung. Phần đông họ là những kẻ sống bên lề xã hội, bị xã hội ruồng bỏ. Hay có khi chính họ từ bỏ xã hội, sau những chấn động hay mất quân bình tâm lý. Có kẻ vì những lý do phức tạp bị gia đình hất hủi và chối bỏ; có người được đưa ra chữa trị, rồi trốn khỏi bệnh viện tâm thần, sau chọn lấy cuộc sống không nhà, không cửa, cắt đứt mọi liên hệ với những người thân. Có người còn nhớ rõ quá khứ nhưng cũng có kẻ đã hoàn toàn đánh mất trí nhớ sau những chịu đựng nhục nhã ê chề.
Những năm gần đây còn có những hoàn cảnh đặc biệt, như sự nhập cư sự bất hợp pháp của các người ngoại quốc. Có mấy người lang thang chết lạnh trong mùa nầy là những kẻ đến từ những nước nghèo, liều lĩnh nhập cư không hợp lệ vào Âu Châu để cầu may, lúc đầu phải sống ngoài lề pháp luật nhưng sau không tìm được việc làm hay nơi cư ngụ, rồi những thất vọng và tuyệt vọng đã đưa đẩy họ vào vỉa hè thành phố.
Thông thường khi nói đến barbone, người ta hay nghĩ họ là những người già, nhưng thực tế không hoàn toàn như thế. Có nhiều người còn rất trẻ. Cuộc sống của họ khốn khổ, nhưng điều đáng ngạc nhiên là chẳng có ai muốn trở lại "cuộc sống bình thường" như của chúng ta. Dĩ nhiên mỗi người đều có một lý do riêng.
- Nhưng mùa đông lạnh như thế nầy thì họ phải làm sao?
- Ngoài những phương tiện thông thường như thùng giấy, các thứ mùng mền xin được, họ còn có những cách rất đặc biệt. Chẳng hạn như có kẻ chống lạnh bằng cách nhảy lên xe bus, nằm suốt đêm, hy vọng là người soát vé sẽ không đuổi xuống. Có kẻ nốc từng ngụm rượu, loại rẻ tiền, để sau đó lăn lộn vì khó chịu. Chính tối nay có gã đã nói với tôi: "Buổi sáng thức giấc, nếu còn thức được, cô sẽ thấy bao tử như đang bốc cháy và các khớp xương rã rời như không còn liên kết với nhau". Những kẻ khác trốn vào hầm xe điện ngầm, nhóm khác tập trung trên các vỉa hè gần toà thánh Vatican. Phần đông họ sống từng đoàn, như chỗ ngủ của nhóm Vincent Rappa mà gần đây tôi thường tiếp xúc và giúp đỡ, được tổ chức khá tốt. Trên những tấm carton trải ra làm đệm có đánh số cẩn thận để khẳng định vị trí. Từ số 1 đến 10: Zanichelli, Levi, Del sordo, Giorgio quên họ, Tôi không còn biết tôi là ai nữa... Họ giải thích là cần đánh số chổ ngủ để tránh cãi cọ và sự đoàn kết rất cần thiết để chống lại những băng đảng khác, thường vũ trang bằng dao lam, mảnh chai vỡ... đến ăn cắp giày, tiền xin được hay những thức ăn thừa. Họ nằm có vẻ chật chội, người nọ tiếp xúc với người kia, nhưng như thế cũng là một phương thức chống lạnh; họ cho những kẻ kém may mắn và "nghèo" hơn mình mượn những tấm mền để đắp qua đêm. Tối nay bên cạnh họ còn một nhóm khác, dẫn đầu là Peppina Leonoris, một gái làng chơi lỡ vận. Bà đang lên cơn sốt vì mầm liệt kháng HIV và đang được Barbara Tedeschi chăm sóc. Đây còn là nhóm hút xách, những kẻ đàn em khác đang ngất ngây vì đợt chích choát cuối cùng.
Nói đến đây, khuôn mặt Maria bỗng như buồn hẳn lại. Cô như chợt nhớ ra một điều gì, trên vầng trán hai hàng chân mày nhíu lại như muốn giao nhau:
- Nói chung, phần đông họ là những kẻ đã đoạn tuyệt với gia đình. Dĩ vãng và thời gian đã làm mờ trí nhớ nhưng nhiều người không chịu nổi cô đơn. Mấy năm trước tôi có quen một trường hợp rất cá biệt: Một lão barbone sống riêng lẻ, hoàn toàn biệt lập với các người cùng giới. Và tâm sự bi thảm của lão ta đã ám ảnh tôi một khoảng thời gian dài dằng dặc.
Thấy chúng tôi đưa mắt khuyến khích, Maria uống một ngụm nước rồi bắt đầu câu chuyện. Căn phòng lúc ấy im phăng phắc.
Mùa Đông năm ấy trời đột nhiên trở rét. Nhiệt độ bỗng nhiên xuống thấp. Nha khí tượng tiên đoán là suốt mười ngày liên tiếp nhiệt kế có thể sẽ hạ xuống thêm đến 5, 6 độ; đêm có khi đạt tới âm ba, bốn độ, và độ ẩm có thể sẽ tăng đến một trăm phần trăm. Nhưng điều nầy thì Renato Cantone không thể nào biết được. Mà dù có biết thì chắc lão cũng chẳng thể làm gì hơn. Đêm ấy, cũng như những đêm trước lão cũng chỉ còn nước thu dọn các chai lọ cho vào túi nylon, ôm đống thùng giấy và xấp mền để đến núp trên vỉa hè của một cửa hàng ngoài phố Tritone. Chỗ ngủ qua đêm của lão nằm gần cổng ra vào, dưới hàng chữ "hoan nghênh quý khách". Nơi đây ban ngày tấp nập người qua lại, nhưng đêm đến đó là chỗ trú ẩn của kẻ không nhà.
Từ mấy năm nay lão đã chọn vỉa hè nầy, trước hết vì nơi đây ít lạnh và kín đáo hơn là nằm trên những băng gỗ lộ thiên. Nơi đây, dù đơn độc, lão vẫn cảm thấy an toàn và ít khi bị bọn trẻ khạc nhổ lên người, chửi bới, tạt nước lạnh hay bị vất rác... mà những năm gần đây đã thành một trò giải trí của những băng đảng du côn. Bọn trẻ được kích thích và huấn luyện bỡi những phim tàn bạo chiếu hằng ngày trên màn ảnh TV, thường thình lình xuất hiện trong đêm và những kẻ không nhà lâu nay đã trở thành mục tiêu cho những trò bạo hành của chúng.
Trò chơi của các băng đảng có khi còn vượt ra ngoài mọi giới hạn về dã man và tàn nhẫn nữa. Đã có nhiều trường hợp bọn trẻ chế xăng lên những gã barbone đang say ngủ, châm lửa, rú lên cười khoái trá rồi phóng xe tẩu thoát khi ngọn đuốc người bùng lên trong đêm tối với tiếng gào thảm khốc.
Vỉa hè đó là giang sơn riêng biệt của Renato, một lão già thuộc lứa 60-65 chứ chưa già lắm. Tối đến, sáng đi, lão không làm phiền hay quấy nhiễu gì nên chẳng ai nỡ lòng xua đuổi lão. Từ lâu tiếp xúc và giúp đỡ lão, tôi đã âm thầm quan sát là lúc nào lão cũng cô độc một mình. Cuộc sống của lão hoàn toàn biệt lập. Lão chẳng mấy thích kết đoàn hay sống thành nhóm như những kẻ đồng cảnh khác.
Tối đó, cũng là một đêm trong tuần lễ trước Giáng Sinh, nhìn đường phố băng giá mà lão vẫn khăng khăng từ chối chuyển vào nơi tiếp nhận, rồi sự cô độc của lão đã làm lòng tôi ái ngại. Bỗng dưng tôi nghĩ đến sự cô lẻ của mình. Bạn trai của tôi vì công việc nên còn ở Luân Đôn cho đến cuối tuần, và đêm nay tôi sẽ ăn tối một mình bên ánh đèn màu chớp sáng của cây Noel đặt ngoài phòng khách.
Tự dưng tôi nghĩ là tại sao không mời lão Renato một bữa ăn tối. Biết đâu không khí gia đình có thể giúp cho lòng lão bớt khô cằn, và buổi nói chuyện với lão sẽ chẳng giúp cho tôi hiểu thêm về đời sống của những barbone khác. Điều ấy cũng sẽ có lợi cho công việc của tôi.
- Nầy Renato, những ngày nầy trời lạnh lắm. Nếu ông muốn tôi xin được phép mời ông về nhà ăn tối.
Khi tôi hỏi lần đầu cặp mắt của lão vẫn không rời những ánh đèn màu nhấp nháy trước mặt, có vẻ như không hề nghe tôi nói, nhưng sau khi tôi lập lại lần nữa thì lão quay lại nhìn tôi. Trong đôi mắt đờ đẫn đó tôi chợt thấy một tia sáng xuất hiện. Môi lão mấp máy như muốn nói gì. Nhưng lão vẫn yên lặng. Tôi vô cùng thất vọng vì chỉ vài giây sau đó, lão đã thẫn thờ bỏ rơi tôi để quay về phía những ánh đèn màu. Tôi ngạc nhiên và bàng hoàng, và lần đầu tiên, tôi nhìn lão một cách chăm chú.
Tuy áo quần xốc xếch, tóc tai bơ phờ, nhưng khuôn mặt lão già vẫn còn những nét đều đặn của một người đàn ông đẹp trai. Đôi mắt lớn, chiếc mũi thẳng, vầng trán rộng và cao, cặp môi dày với chiếc miệng rộng. Nhưng điều đăc biệt khiến tôi chú ý là cái nhìn sáng quắc, mái tóc và hàm râu quai nón bạc phơ. Màu bạc trắng tự nhiên chứ không phải vì năm tháng.
Tưởng mình chưa chinh phục được niềm tin của lão nên tôi thất vọng bỏ đi,nhưng đột nhiên lão gọi giật lại:
Tôi vui mừng quay lại, hối hả thu dọn giúp lão đăt những thứ đồ vật lỉnh kỉnh lên xe... Ánh mắt của lão nhìn tôi lúc đó có vẻ nửa như bẻn lẽn, nủa như ngượng ngùng. Lão theo tôi ra xe với những bước nhẹ nhàng, chậm rãi. Chỉ lúc ấy tôi mới để ý là cánh tay phải của lão hơi bị liệt.
Bữa cơm tối đơn giản nhưng diễn ra thân mật. Chúng tôi nói chuyện với nhau vui vẻ. Giọng lão trầm và ấm, nói hơi nhanh, nhưng ngôn ngữ lão dùng rất chuẩn và chính xác. Đêm đó tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác. Lão lang thang tóc trắng trước đây là một luật sư khá nổi tiếng và thành đạt ở Como, một thành phố thuộc miền bắc Ý. Đời sống sung túc, vợ đẹp, con ngoan. Rồi không hiểu vì sao, sau này tôi mới hiểu là vì không khí Giáng Sinh, lão bỗng dưng kể lại những biến chuyển của đời mình.
Câu chuyện bắt đầu từ hơn mười năm trước.
Sau một vụ kiện lớn, Renato tưởng mình là một luật sư bậc nhất. Sự thành công chói lọi đó càng hun đúc thêm lòng kiêu hãnh về khả năng nghề nghiệp của mình. Gã thấy cuộc đời mình vô cùng tươi đẹp và dù chưa già lắm nhưng gã đã bắt đầu nghĩ đến việc thu xếp một cuộc sống an nhàn vì không còn bận tâm về kinh tế nữa. Nhưng định mệnh trớ trêu đã quật gã ngã xuống như một sự trừng phạt của công lý vô hình.
Cú áp phe ấy là một vụ kiện chống lại một công ty lớn, đã mang lại cho Renato một lợi tức bất ngờ. Một số tiền kếch sù mà trước đó gã chưa hề nghĩ tới. Thực ra nó thuộc quyền sở hữu của thân chủ, kỷ sư Italo, chứ không phải của gã, nhưng giờ chót, nhờ nhanh trí và nhạy bén do thói quen nghề nghiệp, gã đã thay đổi tình huống kịp thời.
Kết quả đến dễ dàng hơn gã đã tưởng.
Mà không dễ dàng sao được! Từ nhiều tháng trước gã đã đứng sau lưng Italo để hướng dẫn từng đường đi nước bước, và mọi việc đều xảy ra như tiên liệu. Giám đốc phòng nhân viên của công ty đối nghịch là một kẻ kiêu căng và hời hợt, không bao giờ ngờ là đằng sau kỷ sư Italo có luật sư hướng dẫn nên càng ngày càng tăng áp lực với anh, đã vô tình phạm phải sai lầm nầy đến sai lầm khác. Hắn đã chủ quan vì, hơn 10 năm cọng tác trong công ty, kỷ sư Italo luôn luôn chấp nhận mọi điều kiện áp đặt mà không hề phản kháng; gã giám đốc phòng nhân viên quá biết tánh tình hoà nhã và không thích "có vấn đề" với công ty của anh ta, nên thẳng tay làm tới mà không hề suy nghĩ đến những hậu quả nghiêm trọng theo luật Ý, vốn rất bênh vực người lao động. Chính nhờ vậy mà Renato đã “cài” công ty vào một thế vô cùng nguy hiểm về phương diện pháp lý.
Kết quả là một sự sa thải nhân viên thật lạ đời và vô lý.
Khi tổ chức công đoàn phản kháng, ban giám đốc công ty nói là chỉ "giả vờ" sa thải để buộc kỷ sư Italo chấp thuận sự áp đặt của công ty, và nếu anh ta đến văn phòng để chấp nhận "đề nghị" của công ty thì sự sa thải sẽ được vô hiệu hóa.
Dĩ nhiên là Italo không đến. Anh ta nhờ luật sư Renato thương lượng để tìm một phương cách nhằm bảo đảm quyền lợi của mình. Nhưng buổi gặp ban giám đốc, Renato đã đơn phương và đột ngột huỷ bỏ mọi thương thuyết để sau nầy "có thể đưa sự việc ra tòa" “bồi thường sẽ cao hơn"... những ý định hoàn toàn khác với những điều mà kỷ sư Italo mong muốn nhưng không hề tham khảo ý kiến của anh. Chiều đó, bị Italo chất vấn, gã đã giải thích là phần thắng đã nắm chắc trong tay nên không cần phải thương lượng để làm mất thì giờ. Renato còn giải thích là nếu Italo tìm được việc làm khác thì vụ kiện sẽ được kéo dài và điều nầy càng thêm có lợi cho anh ta.
Suốt một năm, Italo không tìm được việc làm. Tình hình kinh tế ở Milano vào những năm cuối thập niên 70 bắt đầu bất ổn định, và Italo cũng đã lớn tuổi, từng có một vị trí cao trong hãng xưởng, nên không dễ tìm ra một chỗ làm tương xứng. Tính cho đến ngày toà xử thì anh chỉ có một tiếp xúc khả quan cho một công việc mới, nhưng trên thực tế thì chưa có ký kết gì. Renato biết tất cả những chi tiết đó nhưng gã không hề bận tâm. Giả sử là việc ra tòa thất bại, dĩ nhiên là độ rủi ro cho thân chủ sẽ khá cao, nhưng phiá luật sư thì đâu có mất mác gì! Được thì hưởng tất, còn thua, khả năng rất khó nhưng nếu xay ra, thì kẻ khác sẽ lãnh đủ chứ gã sẽ không bao giờ bị tổn hại, dù chỉ một nắm lông! và những toan tính ngấm ngầm nhưng chuẩn xác của gã đã được rắp ranh chờ ngày đem ra thực hiện.
Buổi sáng họp tòa tất cả đều tiến hành một cách bình thường. Italo tin chắc là luật sư Renato sẽ bảo vệ mình nên rất yên tâm. Anh đâu có ngờ là Renato chỉ tiếp xúc vài phút với luật sư của phe đối nghịch trước khi vào họp, mọi việc đã âm thầm chuyển hướng. Bất ngờ. Thiếu chuẩn bị để đối phó với tình huống mới, anh đã ký vào thoả thuận mà trước đây anh chưa bao giờ nghĩ tới, thậm chí trong đó có cả việc sát nhập một vụ kiện khác về sự khác biệt lương bổng và nhiệm vụ mà lâu nay anh đã bỏ nhiều công sức thu góp hồ sơ, mà theo sự đánh giá của nhiều người biết luật, riêng vụ nầy thôi anh có thể sẽ nhận được bồi thường hơn nửa tỷ lire.
Số tiền thời ấy có thể mua được hai căn nhà lớn trong thành phố. Nhưng trước sự thúc giục và giải thích của Renato là "không còn cách nào khác", anh đâm ra lúng túng nên chỉ phản kháng nhẹ nhàng và đã nhắm mắt ký vào biên bản. Trong thâm tâm, anh vẫn còn tin tưởng vào sự chân thật của luật sư thân tín, nên đã hoàn toàn phó thác mọi quyết định vào tay gã như một đứa trẻ con ngoan ngoãn. Lúc ấy anh chỉ nghĩ là một luật sư tin cậy và tài năng đã làm như thế, chắc có một lý do bí ẩn nào đó. Lúc nầy chưa tiện, nhưng thế nào Renato cũng sẽ giải thích cho anh hiểu lý do.
Số tiền thời ấy có thể mua được hai căn nhà lớn trong thành phố. Nhưng trước sự thúc giục và giải thích của Renato là "không còn cách nào khác", anh đâm ra lúng túng nên chỉ phản kháng nhẹ nhàng và đã nhắm mắt ký vào biên bản. Trong thâm tâm, anh vẫn còn tin tưởng vào sự chân thật của luật sư thân tín, nên đã hoàn toàn phó thác mọi quyết định vào tay gã như một đứa trẻ con ngoan ngoãn. Lúc ấy anh chỉ nghĩ là một luật sư tin cậy và tài năng đã làm như thế, chắc có một lý do bí ẩn nào đó. Lúc nầy chưa tiện, nhưng thế nào Renato cũng sẽ giải thích cho anh hiểu lý do.
Nhưng những ngày sau đó Renato biến mất. Italo ngạc nhiên vì trước đó cứ hai, ba ngày là họ thông tin cho nhau, nhưng anh kiên nhẫn đợi chờ và mãi hai tuần sau Renato mới gọi điện thoại, thực ra để thăm dò phản ứng của anh. Trong buổi điện đàm ấy, trước những lời giải thích ấp úng, đầy mâu thuẫn cùng với ngôn từ tráo trở, lật lọng anh mới hiểu ra sự thật đau lòng mà trước đây anh không bao giờ dám nghĩ hay nghi ngờ gì. Anh đã bị lừa gạt, được dẫn dắt cho đến khi mất việc để gài ban giám đốc công ty vào những khó khăn về pháp lý và cuối cùng đã bị bỏ rơi. Renato đã không hề bảo vệ anh. Gã đã thoả thuận với phe đối nghịch để gỡ rối cho họ, không đưa vụ kiện ra toà và phỗng mất số tiền mà lẽ ra phải thuộc về anh. Kết quả thoả thận mà anh đã được "khuyên" và ngây ngô ký kết, chỉ là những mảng vụn rơi rớt trên bàn, còn chiếc bánh ngọt thì Renato đã an nhiên cướp mất.
Với hàng ngàn lý do trong tay để thủ thắng, cuối cùng Italo chấm dứt vụ kiện như một người có lỗi. Uất ức, anh cố tìm một bằng chứng về sự phản bội nầy, nhưng anh quên rằng phần lớn luật sư là những tay lừa đảo chuyên nghiệp, không khi nào bỏ lại bằng chứng. Sự tìm tòi của anh dĩ nhiên không kết quả.
Maria ngừng kể, mắt cô nhìn ra ngoài trời, uống một ngụm nước rồi hạ thấp giọng:
- Câu chuyện trên đây thực ra chỉ là một trong những vô vàn chuyện lừa đảo trong đời. Có khi tàn nhẫn. Nhưng điều làm tôi ám ảnh và kinh hoàng bỡi vì viên kỷ sư kia chính là chồng của Teresa, cô em gái duy nhất của Renato.
- Khốn nạn!
Vợ tôi không kìm được yên lặng. Maria quay lại nhìn cô và gật đầu đồng ý:
- Nhưng ngoài quan hệ gia đình, giữa Italo và Renato còn có tình bạn. Chính lão Renato đã thú nhận là hơn hai mươi năm quen biết, Italo luôn thương yêu và kính trọng lão ta như anh ruột của mình! Italo mồ côi cha mẹ, quê ở miền nam Ý. Sống ở thành phố Como, anh chỉ có gia đình vợ là thân thiết.
- Còn cô em gái?
- Hình như Teresa làm việc bán thời trong một văn phòng bảo hiểm. Đời sống của hai vợ chồng trước đây chỉ dựa vào đồng lương của Italo nên tình hình lúc sau dĩ nhiên rất là căng thẳng. Nhưng sau "áp phe" thì Renato lẩn luôn. Gã tránh mặt để khỏi gặp em gái dù trước đó họ liên lạc hằng tuần và thường gặp nhau.
- Gã giải thích ra sao với gia đình về sự xa cách đột ngột nầy?
- Đơn giản thôi. Một hôm gã làm mặt giận rồi vắn tắc giải thích cho hai con rằng Italo và Teresa là hai kẻ vô ơn. Gã đã giúp không công, thế mà sau khi đã bằng lòng ký kết, bọn họ vẫn còn nuôi ảo tưởng là có thể nhận được nhiều tiền hơn nên chẳng những không cảm ơn mà còn giận dữ và nghi ngờ luật sư nữa. Một lối giải thích kiểu làm ơn mang oán.
- Vậy mà hai đứa con tin à?
- Chắc không hoàn toàn tin hẳn, vì bọn chúng thừa biết tính tình rộng lượng của Teresa và Italo. Nhưng bọn chúng còn trẻ, không hiểu nhiều về pháp lý và cũng chẳng buồn để ý đến chuyện người lớn. Chắc Renato cũng biết là các con bán tín bán nghi, nhưng điều quan trọng là tụi nó không liên lạc được với họ, và để đạt được mục đích này, một hôm gã làm như bị xúc phạm rồi cấm tất cả mọi người trong gia đình quan hệ với "lũ bội bạc". Tất cả đều trôi chảy. Gã đóng kịch hay đến nỗi là ít người nhận thấy tai sao những tật xấu, khuyết điểm của cô em gái hiền hậu sau biến cố mới xuất hiện mà trước đây chưa hề có. Gã đã đánh lừa được nhiều người tuy không đánh lừa được lương tâm mình.
- Tội nghiệp cô em quá!
- Phải. Chắc cô ta đau khổ vô cùng. Tôi nghĩ chẳng phải chỉ vì tiền bạc, mà còn vì cách cư xử tàn bạo, tán tận lương tâm của Renato đối với chồng mình. Đó là chưa kể đến nỗi đau của tình cảm gia đình bị mất và sự nhục nhã khi có một người anh như thế.
- Câu chuyện về sau thế nào?
- Hình như sau kinh nghiệm đau xót ấy, Italo không còn gặp Renato nữa. Anh có gửi cho Renato một bức thư kèm với một món quà, để vĩnh viễn khép lại món nợ, vì trước đây anh có hỏi thù lao nhưng Renato khẳng định là sẽ bảo vệ hai vụ kiện miễn phí, coi như "chuyện trong gia đình". Sau đó Italo đã quyết định bán tất cả những gì có được, dẫn vợ con ra ngoại quốc rồi bặt tin luôn. Mãi nhiều năm về sau, Renato mới hay là vợ chồng anh đã qua Á Căn Đình lập nghiệp.
- Trong bức thư ấy chắc toàn là những lời thoá mạ và phẫn ức? Vợ tôi hỏi.
- Ngay lúc đầu tôi cũng nghĩ thế. Nhưng không. Và đây mới chính là sự cao thượng của Italo. Trong bức thư hơn 10 trang đánh máy, anh không hề than van, phê bình hay phán xét mà chỉ nhắc lại những sự kiện và tình cảm chứ không hề có một lời khiếm nhã. Nhưng chính vì thế mà nhiều năm sau, Renato phải thú nhận là cách cư xử của Italo đã cướp mất linh hồn của gã.
- Thế sao? Anh ta đã viết gì vậy?
- Bức thư dài lắm, không thể nào nhớ hết. Nhưng may là Renato hãy còn cất giữ và tối hôm đó gã quên và bỏ lại ở nhà tôi. Những trang giấy nhàu nhò, sau nhiều năm đã úa vàng và khó đọc nhưng tôi cũng còn nhớ một vài đoạn chính: "Ban đầu tôi đã định đến thăm và nhìn thẳng vào mắt để cám ơn anh, nhưng sau tôi nghĩ tốt nhất là viết cho anh một bức thư. Lý do của sự chọn lựa nầy là ghi lại như một tài liệu, để giữ mãi những sự kiện trong trí nhớ, mà dù đúng hay sai, đã trở thành kinh nghiệm chua xót nhất đời tôi. Có một văn bản, tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ không dễ dàng quên vì những bận bịu khác trong đời. Với ước muốn ấy, anh cho phép tôi ghi lại đây những kinh nghiệm mà tôi và anh đã cùng trải qua suốt một năm ròng".
Sau đó anh kể lại những dữ kiện, những lời nói và đánh giá của Renato về sự chắc thắng rồi nhắc lại mùa giáng sinh, trước phiên toà chỉ ba tuần lễ, hai anh em ngồi đối diện trước bàn ăn, cụng ly sâm banh thề hợp lực tranh đấu, chống lại bất công."Nhưng tôi không muốn nhắc lại những chuyện nầy để giới hạn rằng quan hệ tình cảm của chúng ta chỉ có bấy nhiêu. Chắc anh cũng thừa biết là xưa nay tôi vẫn kính trọng và quý mến anh như một người anh cả, bộ phận của một gia đình mà sống ở thành phố nầy tôi luôn luôn thiếu thốn. Còn về phần vợ tôi, Teresa, tôi hy vọng là anh không có chút nghi ngờ nào. Từ nhiều năm nay, cô ta không bao giờ kể gì khác hơn là về anh trai mình, mà cô rất thương yêu và gắn bó. Cô ấy luôn nói với tôi về anh, kể về quãng đời đã lớn lên và trưởng thành trong cảnh đói nghèo như hai đứa bé mồ côi kể từ sau sự rời bỏ gia đình của người cha; cô ấy nhắc mãi về hoàn cảnh kinh tế khó khăn bên người mẹ khó tính vì thiếu thốn, kể về những phấn đấu khó nhọc bên nhau trong những tháng năm dài để có thể sinh tồn. Tôi tin rằng cô ấy sẽ mãi mãi mang trong lòng những kỷ niệm và tình cảm cao đẹp đã từng dành cho người anh mà cô hằng kính mến". Và bỡi những gắn bó ấy mà Italo đã tin tưởng và đặt bút ký vào biên bản, chí vì anh vợ luật sư khuyên bảo và hối thúc. Nhưng sau vì không có lời giải thích của Renato anh đã đi tìm những giải thích qua bạn bè hiểu chuyện, rồi tóm tắc: "Hôm điện thoại, hai tuần sau phiên toà, anh muốn biết là tôi có bằng lòng hay không, vậy thì anh hãy đặt mình vào vị trí của tôi để tưởng tượng thế nào là tâm trạng và hoàn cảnh thực: Để chống lại một đề nghị có tính áp đặt, hoàn toàn trái ngược với những điều đã thoả thuận bằng văn bản của công ty trước đó, tôi đã đến anh để tham khảo ý kiến rồi sau nhờ những lời khuyên của anh tôi bị kéo vào giông bão, và mất việc một cách vô lý; Bị xoá khả năng trở lại nhiệm sở vì luật sư anh vợ của tôi từ chối thương lượng với ban giám đốc công ty nhưng tôi không hề được tham khảo trước; Một năm mất việc, không lương, với những lo âu, căng thẳng và tủi nhục rồi cuối cùng ký kết vào bản thoả thuận như người có lỗi trong khi có nghìn lý do để thắng. Đó là chưa kể đến chuyện đánh mất một vụ kiện khác mà tất cả những người biết luật thường xem chắc sự bồi thường như một quỹ tiết kiệm lâu năm. Còn hiện tại thì tôi vẫn chưa tìm được việc làm! Anh có bằng lòng không, nếu ở vào vị trí của tôi? Còn phần tôi, xin thưa thật với anh, ngay cả đối với những người mà tôi không ưa thích, tôi cũng chẳng nỡ cầu mong cho họ gặp phải cảnh ngộ nầy". Sau đó Italo còn ví von: "Tôi như người đến bác sĩ tin cậy để mổ khúc ruột thừa, và sau nhiều lần mổ xẻ, vì những lý do bí ẩn, trở về nhà không còn thận, không còn gan và mất đi buồng phổi, nhưng khúc ruột thừa vẫn còn chình ình ra đó". "Bạn bè trong công đoàn đã trách tôi đã không ủy thác cho họ về vụ kiện chắc thắng nầy, có người trách tôi thơ ngây và quá tin "người" - cho đến lúc nầy chưa có ai trong bạn bè biết luật sư là anh rể của tôi, tôi không dám nói ra điều ấy chỉ vì tình yêu, vì kính trọng và để giữ gìn danh dự cho vợ của tôi - còn những người khác còn nổi giận, nói luật sư đã hại mầy và cần phải phản ứng. Nhưng để làm gì?
Để tự mình trả hận hay lao vào tố tụng một lần nữa khi không còn tin vào công lý? Không, vấn đề ở đây đâu có phải là luật pháp, bỡi nó là vấn đề của lương tâm và lòng lương thiện". "Nhưng chắc chắn không phải nỗi đau vì mất mác vật chất đã làm thương tổn tôi và em gái của anh. Mỗi sự mất mác hay thu được vật chất dĩ nhiên mang đến niềm vui và nỗi buồn, nhưng chỉ tạm thời, trước hoặc sau gì cũng nhạt phai và biến mất, còn nỗi đau trong linh hồn, sự tàn phá những kỷ niệm và giá trị gia đình... cần phải có nhiều thời gian, hay sẽ không bao giờ lành được. Chúa ơi, tôi đau đớn nhìn thấy nỗi đau và sự tuyệt vọng của vợ tôi, và "cũng" là em gái của anh, từ ngày ấy luôn thức trắng đêm vì thất vọng pha lẫn niềm ân hận, vì đã tin tưởng và giao phó tất cả mọi chuyện vào tay anh. Nhưng chúng tôi đâu có thể làm gì khác hơn là tin ở anh mình"
Để tự mình trả hận hay lao vào tố tụng một lần nữa khi không còn tin vào công lý? Không, vấn đề ở đây đâu có phải là luật pháp, bỡi nó là vấn đề của lương tâm và lòng lương thiện". "Nhưng chắc chắn không phải nỗi đau vì mất mác vật chất đã làm thương tổn tôi và em gái của anh. Mỗi sự mất mác hay thu được vật chất dĩ nhiên mang đến niềm vui và nỗi buồn, nhưng chỉ tạm thời, trước hoặc sau gì cũng nhạt phai và biến mất, còn nỗi đau trong linh hồn, sự tàn phá những kỷ niệm và giá trị gia đình... cần phải có nhiều thời gian, hay sẽ không bao giờ lành được. Chúa ơi, tôi đau đớn nhìn thấy nỗi đau và sự tuyệt vọng của vợ tôi, và "cũng" là em gái của anh, từ ngày ấy luôn thức trắng đêm vì thất vọng pha lẫn niềm ân hận, vì đã tin tưởng và giao phó tất cả mọi chuyện vào tay anh. Nhưng chúng tôi đâu có thể làm gì khác hơn là tin ở anh mình"
Cuối thư còn có một đoạn khác: "Đành thôi. Tôi đã thất bại và thua kiện, nhưng vẫn được an ủi rằng mình đã làm tất cả những gì có thể. Và dĩ nhiên tôi bước ra khỏi câu chuyện đáng buồn nầy mà vẫn ngẩng cao đầu, không có gì phải ân hận hay hổ thẹn. Như một con người và như một nhà chuyên môn.
Nhưng bây giờ chúng ta hãy nghĩ đến chuyện khác và để cho cuộc sống tiếp tục.
Với bức thư nầy, tôi xin gửi đến anh một món quà, để vĩnh viễn đóng lại một chương đời có lẽ cay đắng nhất đời tôi, mà dù muốn hay không, chúng ta đã cùng đã trải qua một năm dài căng thẳng. Có lẽ đây chỉ là một món quà khiêm tốn, hoàn toàn khác với những gì tôi dự tính từ lâu, nhưng hiện tại tôi không thể nào làm khác được, bỡi lẽ đến giờ tôi vẫn chưa tìm ra một việc làm cố định. Nhưng tôi tin là anh sẽ hiểu rằng những giá trị vật chất không thể nào thay thế được lòng quý mến và tình cảm tốt đẹp mà xưa nay tôi dành cho anh. Một lần nữa tôi xin cảm ơn anh về những ý định đã giúp đỡ tôi, dù trong khi thực hiện nó đã đi qua một khúc quanh khác, mà đến giờ vẫn chưa rõ lý do.
Nhưng xin anh đừng có bận tâm. Giờ nầy anh không cần phải giải thích làm chi nữa. Tôi không có ý định viết bức thư nầy để than phiền, bình phẩm hay phê phán gì anh. Tôi chỉ hy vọng là anh sẽ hài lòng và thỏa mãn về những gì anh đã chọn. Vã mong anh hãy sống yên bình và thanh thản với linh hồn mình. Còn đối với tôi, câu chuyện buồn nầy đến đây là vĩnh viễn chấm dứt. Tôi đã đau xót quá nhiều và không muốn mở rộng thêm vết thương nầy nữa."
Món quà ấy ban đầu Italo nhờ một người quen chuyển hộ, nhưng Renato đã tránh né không nhận nên sau anh phải gửi thư qua đường bưu điện. Vì phong bì đánh máy và không ghi tên người gửi nên Renato cũng chẳng ngờ, gã mang tất cả thư từ ở sở về nhà và đặt lên bàn, chờ khi nào thuận tiện sẽ đọc một lượt.
Một buổi tối ở nhà một mình, Renato rảnh rổi nên đem các thứ giấy tờ ra kiểm lại. Khi mở thấy thư của Italo, gã ngạc nhiên và chăm chú đọc. Cơn giận bốc lên ngùn ngụt, gã quẳng bức thư xuống đất. "Thằng khỉ, đã ký rồi, bây giờ còn muốn gì nữa chứ". Lúc đầu gã định cầm điện thoại chửi cho Italo một trận, nhưng sau nghĩ kỹ, gã lại thôi. Nó đang còn ức, lỡ nổi nóng làm lớn chuyện thì chẳng có lợi gì. Mặc. Muốn viết gì thì viết. Nhưng cái điều then chốt đâu có phải là nói cho sướng miệng! Đằng nào thì mình cũng đã lấy tiền rồi, cứ làm tĩnh chờ đợi một thời gian rồi thế nào đâu cũng sẽ vào đó. Nghĩ thế, gã mĩm cười vu vơ, thầm phục cho óc thực tế và khả năng suy nghĩ nhạy bén của mình. Gã cầm bức thư định mang đi đốt, nhưng nghĩ sao, gã lại cất vào ngăn tủ.
Mấy ngày sau đời sống của Renato vẫn không có gì thay đổi. Công việc dồn dập làm gã quên đi. Gã rất hài lòng vì vừa thay được chiếc xe hơi mới, lộng lẫy hơn và sắp tới sẽ cũng sẽ thay toàn bộ bàn ghế mới trong villa mà không còn phải bận tâm về chi phí. Bức thư của Italo như chìm trong quên lãng của sự hài lòng về cuộc đời xa xỉ và huy hoàng trong tương lai.
Nhưng một hôm tạm rổi việc, những giòng chữ của Italo bỗng nhiên gợi lại trong trí nhớ rồi thẩm thấu vào tâm hồn gã. "Cho đến lúc nầy không có ai trong bạn bè biết luật sư là anh rể của tôi; tôi không dám nói ra điều ấy vì muốn bảo vệ thanh danh cho vợ, bỡi tình yêu và lòng kính trọng cô ấy". Lời lẽ mỉa mai, cay đắng mà gã yên trí là đã chìm quên, thực ra được lưu trữ khắp nơi, chỉ chờ một phút yên bình của gã là liên tục dội về. Bức thư khoá kỹ trong ngăn tủ cứ hiện lên, chập chờn trước mắt, như một ám ảnh, và gã hiểu là mình cần đọc lại.
Vào một chiều thứ bảy, lúc vợ con đi mua sắm, Renato pha trà, ngồi nhâm nhi bánh ngọt và đọc lại các thứ giấy tờ. Sau đó gã đi lấy bức thư của Italo. Nhưng khác hẳn tâm trạng của vài hôm trước, những hàng chử lần nầy như những nhát dao đâm vào tim gã. Những kỷ niệm của thời thơ ấu và khung cảnh gia đình êm ấm cứ lởn vởn hiện lên trên từng trang giấy làm mồ hôi như nỗi nhục tuôn ra trên mặt gã, làm ướt đẫm hàm râu trắng.
Khi hàng chữ cuối cùng vừa dứt, gã vụt chạy vào phòng tắm, đóng cửa. Người bồng bềnh như đang lênh đênh trên chiếc mảng gỗ bị xua đẩy bỡi muôn ngàn cơn sóng. Ruột gan gã đột nhiên co thắt, dồi lên, dập xuống... rồi ôm bụng ói ra, rũ rượi. Gã nôn mãi cho đến khi không còn gì để ói ra ngoài được nữa. Thôi, thế là hết. Lúc này gã mới thấm thía là tất cả đã thực sự chấm dứt. Là không còn gì nữa. Đó là một thứ chung cuộc của tình huyết thống và từ nay gã sẽ không bao giờ còn gặp Teresa nữa. Nhưng đôi mắt hiền từ, bao dung của người em gái, dường như chờn vờn đâu đó, và đang âm thầm quan sát gã.
Gã chợt ngẩng đầu lên, nhìn bóng mình trong gương, và chợt thấy một thứ hình thù kì dị mà trước đây gã chưa bao giờ trông thấy.
Và, đột nhiên, gã vụt lao ra phòng khách. Gã lấm lét nhìn về phía cổng villa rồi vội nhét bức thư vào túi áo. Cơn sợ hãi làm mồ hôi gã, một lần nữa toát ra như tắm. Nếu vợ con tình cờ biết được nội dung bức thư thì cuộc đời của gã sẽ hoàn toàn tiêu tán. Cái lớp sơn đáng kính, giả nhân giả nghĩa của gã sẽ hoàn toàn đổ vỡ, những vết sơn phết bên ngoài sẽ rớt xuống; và chúa ơi, thần tượng mà lâu nay gã cố gắng vẽ vời sẽ hiện nguyên hình, và sẽ chỉ còn là một khúc gỗ mốc meo.
Gã ngồi thừ như thế cho đến lúc vợ con trở về nhà. Nhìn nét mặt bơ phờ của gã, vợ gã hốt hoảng: "Renato, anh không khoẻ phải không?". Gã lắc đầu. "Mặt anh tái mét thế kia! Anh thấy trong người thế nào?". "Anh có cần gì không?". "Anh có cần em gọi bác sĩ không?". Gã chỉ làm thinh không đáp. Nhưng khi thấy vợ định cầm điện thoại thì bất thình lình gã hét lớn: "Đã bảo không mà. Hãy để cho tôi yên". Vợ và con gã há hốc mồm kinh ngạc. Đây là lần đầu tiên họ thấy chồng và cha mình nổi giận đến thế. Mọi khi, nếu có chuyện gì không vừa ý, gã chỉ nhỏ nhẹ thuyết phục mọi người bằng lý lẽ. Và bằng thái độ vô cùng trìu mến!
Kể từ cái ngày định mệnh ấy, cuộc sống của Renato hoàn toàn thay đổi. Những người thân bắt đầu nhận ra những thái độ và cách cư xử khác thường của gã. Khi có điện thoại reo là gã chạy đến chụp ống nghe, điều mà trước đây không ai thấy gã làm thế bao giờ. Gã trả lời điện thoại bằng một giọng rất nhỏ, mãi lúc sau mới đổi lại giọng bình thường. Còn chìa khoá thùng thư ở nhà chỉ còn mình gã giữ, sau khi đã "vô ý" làm gãy chìa khóa của vợ mà không có thì giờ đi làm chìa khác. Gã kiểm soát thật kỹ các thư từ. Nỗi sợ là mọi người nhận được một bức thư khác của Italo thường làm gã giật mình, nhất là khi có ai nhìn gã với cái nhìn khác lạ.
Nỗi dày vò khốc hại bắt đầu theo gã như một bãi đờm kinh niên, có khi lắng xuống nhưng cũng có lúc trào lên, ngạt thở, mà gã không biết cách nhổ ra. Hậu quả tai hại của những tình cảm phức tạp dần dần làm gã mất đi tính nhạy bén trong công việc. Sức khỏe của gã cũng bắt đầu lụi đi một cách thảm hại.
Ban đêm, hễ chợp mắt là gã chìm vào những giấc mơ kinh dị. Gã giật mình tỉnh giấc và có khi thức luôn đến sáng.
Nhưng không có giấc mơ nào giống giấc mơ nào. Có đêm gã mơ thấy mình đi gặp Teresa để xin tha tội và mang tiền trả lại cho vợ chồng cô. Nhưng Teresa đã lạnh lùng từ chối, và trước những lời năn nỉ ỉ ôi lải nhải, cô đã hất xấp tiền vào mặt gã. Những tờ bạc bay lả tả, vung vãi trên nền nhà.
Có đêm gã lại mơ thấy Italo, gã ôm chầm lấy anh để phân trần và yêu cầu thông cảm, nhưng anh đã hất tay gã ra và giận dữ: "Anh không biết thế nào là danh dự và giá trị thiêng liêng của gia đình. Tôi có thể bắn chết kẻ phản bội và tàn nhẫn như anh, hay gây thương tích để anh thân tàn ma dại. Nhưng làm như thế chỉ bẩn tay và uổng đạn mà thôi. Mà giết anh làm gì. Anh phải sống để suy nghĩ về hành vi đốn mạt của mình. Lương tâm sẽ dày vò và trừng phạt anh".
Những lần như thế mồ hôi của gã toát ra dầm dề. Hơi thở dồn dập của gã lúc ấy làm gã có cảm tưởng như tiếng ngọn roi của Italo vun vút quất vào mặt gã. Rồi gã thức cho đến sáng.
Nhưng không phải là gã chỉ mơ thấy Teresa và Italo. Có khi những giấc mơ của gã lại hướng về phía gia đình mình. Nhiều đêm vừa chợp mắt thì gã thấy Fausto, đứa con trai ngoan hiền của gã đang trừng trừng, nghiêm khắc nhìn mình: "Ông đã làm cái gì vậy. Giờ biết những xa xỉ của ông do đâu mà có, tôi xin chối từ. Đây, quần áo, đồng hồ, xe hơi, điện thoại cầm tay... những đồ vật mà ông mua sắm... tôi không thèm xài nữa. Nó làm tôi dị ứng, ngứa ngáy. Ông đã nghe chưa? Tất cả những thứ nầy là mồ hôi nước mắt của bao người, là cướp giật trên tay của chú Italo, và của cô Teresa. Ông là đồ ăn cắp. Không, đồ ăn cướp. Kẻ cướp hèn hạ nhất vì đã cướp nhờ lòng tin tưởng của em mình. Ông là đồ khốn nạn... "
Rồi những thứ quần áo, đồng hồ, điện thoại... được ném vung vãi lên mặt gã. Gã đứng chết trân nhìn Fausto thu xếp vài món hành lý để ra riêng. Gã giật mình thức giấc. Gã hú hồn khi thấy người vợ vẫn ngủ say bên cạnh, nhưng mồ hôi của gã vẫn vã ra đầm đìa. Cổ họng cháy khô. Gã đứng dậy đi lấy nước uống nhưng không quên bước qua phòng các con, Fausto vẫn còn ngủ ngon lành trên giừơng, và từ phòng bên kia tiếng ngáy của Roberto vẫn đều đều vọng lại. Hú vía! Câu chuyện bí mật kia vẫn chưa ai trong gia đình hay biết. Nhưng không hiểu sao gã vẫn chưa thấy yên tâm. Lúc nào gã cũng có cảm giác rằng có một đôi mắt vô hình, không biết rõ ở đâu, nhưng thường xuyên quan sát và theo dõi gã. Từng ngày.
Cứ thế, những giấc mơ kia, hay đúng hơn là những cơn ác mộng, từng đêm hiện về trong giấc ngủ, như một lưỡi cưa cùn, cứa đi cứa lại trong trong tiềm thức của gã luật sư. Nó âm thầm hành hạ gã, nhưng tự ái và lòng kiêu hãnh không cho phép gã nói ra sự thực để trút đi gánh nặng trong lòng. Ray rứt vì thế không thể nào giải toả, ngày càng tăng thêm cường độ, đến nỗi về sau có nhiều đêm gã không còn khả năng để hoàn thành nhiệm vụ làm chồng. Ban đầu gã cũng còn hăm hở lắm, nhưng chỉ nửa cuộc rồi đành bỏ dở. Buông xuôi. Sự kích thích như quả bóng xì hơi, để trả lại cho gã một thứ bầy nhầy, mềm nhũn. Gã bẽn lẽn rời bụng vợ để quay ra ngủ, tảng lờ như không nghe tiếng thở dài khe khẽ của vợ.
Rồi chỉ sau mấy tháng mà gã đã già sọm đi. Những đêm mất ngủ làm đôi mắt gã thụt sâu và thâm quầng. Cái dáng cao lớn và bệ vệ của gã cũng không còn và những vết nhăn như hằn său thêm lên mặt. Từ đó gã lại càng để râu thật dài để che đôi má hóp. Nếu ngày xưa gã rất chú trọng đến cách ăn mặc bao nhiêu, thì bây giờ hình như gã không còn để tâm đến nữa. Gã đến văn phòng với cách ăn mặc xuề xoà, nhiều khi không mặc com lê hay mang cà vạt, còn nét mặt và tia nhìn thì đờ đẫn như kẻ vô hồn, mất hẳn nét tinh anh.
Rồi cứ thế nỗi đau trong lòng gã không sao xoá nổi. Nó gắn liền với hình hài gã như một khuyết tật phải mãi mãi mang theo. Nó lớn dần với thời gian như một bướu ung thư, đến nỗi lấn áp cả lòng kiêu hãnh và sự kiêu căng, thường tự xem mình là một luật sư bậc nhất.
Hơn một năm sau, gã tưởng mình phát điên lên. Dạo ấy cũng gần ngày lễ giáng sinh, và ánh đèn màu đã ám ảnh linh hồn Renato, nhắc gã quay về với những kỷ niệm cũ với em gái. Gã không hiểu tại sao mình đã vào nhà thờ cầu nguyện để xin tha tội, dù đã hơn 10 năm gã không hề bước chân vào một nơi thờ phượng. Nhưng lúc bước ra gã chợt hiểu là nếu không phải chính Italo và Teresa nói lên lời tha thứ thì lương tâm của gã sẽ không bao giờ yên ổn.
Sau lần ấy tinh thần của gã hoàn toàn suy sụp. Những thay đổi trong cách hành xử trong gia đình và trong công việc càng ngày càng thêm đậm nét. Nhiều lúc gã như người đãng trí. Đang làm một việc gì đó, gã bỗng dưng đổi ra thẫn thờ, xa vắng rồi đột nhiên đánh mất mọi khả năng tập trung tư tưởng. Có khi gã nói lẩm bẩm như người tụng kinh, có lúc lại mơ màng như người đang sống trong một thế giới nào xa lạ.
Công việc chuyên môn của gã vì thế xuống dốc một cách thảm hại. Thân chủ bỏ đi, bạn bè xa lánh.
Vợ con gã vô cùng lo lắng. Họ gửi gã đến khám bác sĩ thần kinh. Nhưng những lần khám và tái khám chỉ làm tình trạng của gã thêm trầm trọng. Còn bác sĩ tâm thần, sau một thời gian thử nghiệm rồi cũng bó tay. Cuối cùng chỉ còn cách cho nhập viện tâm thần. Họ phải chọn giải pháp đó sau lần gã định tự tử nhưng bị phát hiện và ngăn cản.
Sau đó luật sư Renato trốn khỏi bệnh viện tâm thần. Đêm đó là một tối thứ bảy, nhân viên và y tá bận đi chơi nên gã đã thoát ra một cách khá dễ dàng. Gã đón xe về nhà thì đã gần mười giờ đêm.
Nhìn thấy ánh đèn phòng ngủ còn chiếu sáng, lòng gã rộn rã niềm vui. Mấy tháng qua gã thấy thật tù túng và ngột ngạt trong viện tâm thần. Giờ thì gã sắp gặp lại vợ con, những người thân.
Vì cổng villa chỉ khép hờ nên gã băng qua vườn, vào thẳng và bấm chuông cửa. Gã chờ đợi khá lâu mà không có ai trả lời. Chắc hai đứa con trai đi chơi chưa về. Gã bấm chuông tiếp. Mãi một hồi lâu mới nghe tiếng lẹp xẹp bước trong nhà và nghe tiếng vợ gã:
- Ai đó?
- Anh đây, Renato đây!
Renato phải đợi một lúc lâu thì cửa mới mở. Gã nhìn thấy đầu tóc vợ gã rối bù, chiếc áo ngủ như quàng lên vội vàng, và gã đã tinh ý nhận thấy một hột nút cài không đúng chỗ. Vưa buớc vào nhà, vợ gã vội vàng đóng sập cửa lại. Gã mơ hồ nghe như có một tiếng động rất khẻ ở phía cửa sau, và dường như có tiếng chân bước nhẹ vòng qua villa đi về phía cổng.
- Em đang làm gì vậy?
- Em đang ngủ. Chiều nay lau sàn nhà, em mệt quá! Vợ gã vừa nói vừa che tay ngáp dài rồi dụi mắt như người còn đang ngái ngủ. Gã bíêt ngay là cô ta nói dối. Ánh mắt cô ta chỉ hiện lên vẻ bối rối chứ không có chút mừng rỡ nào vì được gặp lại chồng.
Tối hôm đó Renato không sao ngủ được. Gã trằn trọc suốt đêm. Mãi đến gần sáng gã mới chợp mắt được trong giấc ngủ đầy mộng mị. Trong mơ, gã thấy vợ mình đang hùng hục, rướn người làm tình với thằng sửa xe, góa vợ, ở gần nhà. Gã hình dung đến những bắp thịt của nó, nổi vồng trên những cánh tay và đôi chân chắc nịch, lòng gã buồn vời vợi cho cái "bộ phận" khiêm tốn của mình, những lúc sau này không hoàn thành "nhiệm vụ ", trừ chuyện bài tiết thông thường. Gã thức giấc, chắt lưỡi thở dài, rồi thức luôn cho đến sáng.
Trong những giây phút khắc khoải đợi bình minh đó, Renato chợt nhớ lại buổi họp mặt gia đình ăn uống vào dịp giáng sinh, ba tuần lễ trước phiên toà định mệnh. Sau khi nghe Italo thông báo kết quả các tính toán của bạn anh làm việc ở phòng tài vụ thì vụ kiện sa thải trái luật, có thể anh sẽ được bồi thường khoảng ba bốn trăm triệu lire, kể cả tiền bồi thường danh dự, và phạt công ty về cách đối xử thô bạo với nhân viên mà công ty đã làm. Số tiền sẽ còn cao hơn nếu Italo không muốn trở lại làm việc với công ty, vì luật pháp sẽ buộc công ty phải tái nhận anh, trả tất cả những tháng lương kể từ ngay anh nghỉ việc đến ngày đi làm lại, vì công ty đã vi phạm luật. Đó là chưa kể đến vụ kiện thứ hai về sự khác biệt lương bổng có liên quan đến chức vụ giám đốc kỷ thuật mà Renato đã giữ suốt mười năm ở công ty mà luật sư Renato vừa gửi hồ sơ ra tòa án: vai trò quan trọng và đầy trách nhiệm của anh đã không được thừa nhận như một "super manager" vì công ty áp đặt và chỉ trả lương cho anh như một nhân viên kỷ thuật thông thường. Riêng vụ này, nếu tính cả lạm phát cùng lãi xuất của mười năm, sự bồi thường thiệt hại của công ty có thể lên đến hơn 500 triệu lire. Những tính toán đó hoàn toàn phù hợp, với những kết quả mà phòng tài chính của văn phòng luật sư Renato đã nhờ cố vấn.
Renato nhớ rất rõ là chính gã đã trình bày lại với vợ, và lúc mọi người còn ở trong nhà bếp, vợ gã đã nói bằng giọng đầy ganh tị: "Italo, Renato nói chú sẽ trở thành tỉ phú. Chú sẽ làm gì? Chắc sẽ nghỉ làm chứ?" Chính Renato lúc đó cũng đã phải đỏ mặt vì sự sổ sàng của vợ. Gã còn nhớ câu trả lời của Italo: "Bạn bè em và công đoàn đã tính toán thế. Hy vọng vậy. Em đặt tất cả niềm tin vào sự hổ trợ của anh Renato. Vợ chồng em sẽ đền bù xứng đáng công lao và khó nhọc của anh" "Đừng lo, anh em trong gia đình mà! Anh sẽ giúp miễn phí cho hai vụ kiện".
Renato nhớ là mình đã trả lời như thế. Vợ gã không nói gì lúc đó, nhưng sau bữa tiệc thân tình, tối đó cô mới cằn nhằn: "Thằng Italo sẽ trở thành tỉ phú. Còn anh, anh giúp nó thì sẽ được cái gì? Nó được của, mình lại tốn công. Hừ, miễn phí. Anh là đồ ngu!". Suốt đêm đó Renato cũng không chợp mắt, thời cơ trong tay, mất đi, biết bao giờ trở lại?
Renato thở dài. Gã hình dung cái cảnh vợ gã rướn người ôm lấy thằng thợ sửa xe rồi nhìn cái của nợ chỉ còn nhiệm vụ bài tiết của mình, rồi nghĩ đến những đổ vỡ của công danh sự nghiệp, lòng gã thật xót xa. Rồi gã đùng đùng nổi giận. Chính con đàn bà đang ngủ say sau khi hành lạc với người đàn ông khác đã gợi ý rồi xúi gã chụp lấy cơ hội để phỗng lấy món tiền mà lẽ ra phải thuộc về người em rể. Và kết quả là gã đã vĩnh viễn đánh mất tình máu mủ, thân tàn ma dại và sự nghiệp tan tành. Renato dợm đứng lên, muốn đấm cho vỡ mặt con đàn bà hư thân trắc nết kia. Nhưng lúc sắp giáng xuống quả đấm chứa đầy phẫn uất thì bỗng gã dừng tay lại.
Đúng là con đàn bà này đã xúi gã thực. Nhưng dù sao thì trong phiên toà hôm đó, chính gã, và chỉ có gã mới là người điều khiển cuộc chơi, và là người duy nhất có khả năng quyết định. Bây giờ gã còn biết trách ai.
Mồ hôi hổ thẹn và nhục nhã toát ra làm gã ướt cả lưng. Gã đứng lên, thay quần áo, mở khóa lấy theo bức thư của Italo rồi bước qua phòng nhìn hai con đang chìm trong giấc ngủ vô tư rồi lặng lẽ bước ra khỏi nhà.
Từ đó Renato không về lại với gia đình nữa mà đi tìm sự bình yên của tâm hồn trên đường phố. Một tâm lý phức tạp nào đó đã thúc đẩy gã cắt đứt những ràng buộc với tất cả mọi người để sống một đời cô độc.
Rồi thời gian làm hằn thêm nếp gấp, gã đã biến thành một kẻ lang thang. Một gã lang thang tóc trắng. Gã bắt đầu uống rượu và cuộc đời mới đã làm gã già nhanh trước tuổi.
- Tôi còn nhớ là khi nghe Renato kể lại câu chuyện, tôi không dám nhìn thẳng vào gương mặt của lão ta. Nó như được nắn bằng sáp và đang bị ngọn lửa trong lòng nung đốt nên biến hình, méo mó. Cái nhìn của lão lúc đó vừa khổ đau, vừa bẻn lẽn, nhưng hình như cũng có pha một chút thỏa mãn của người vừa quẳng đi một chút gánh nặng trong lòng. Thứ tâm trạng của người bất thình lình nhổ được một bãi đờm ngạt thở xuống tấm thảm quý lót nền vào lúc có khách. Để tránh tia nhìn ngượng ngùng ấy, tôi giả bộ bước ra ban công để lấy thêm chai nước suối. Lúc ngước nhìn bầu trời đêm lơ lững những vì sao heo hút, mờ ảo trên cao, như lẩn trốn những ánh đèn màu chăng khắp nẻo đường, tôi tự hỏi có phải vì không khí giáng sinh mà lão đã nhìn tôi qua lăng kính của người em gái, nên đã thố lộ tâm sự với tôi, nhưng đích thực trong lòng lão là xin tạ tội với người em gái kia chăng?
Sau đó lão đòi về. Nhất định không chịu nán lại, mà tôi cũng không còn muốn giữ khách. Lúc lão bước xuống xe, tôi bắt tay từ giã. Lão cứ đứng im, bàn tay sần sùi thô kệch, sầu não nắm lấy bàn tay mảnh khảnh của tôi, nhưng mắt cứ đăm đăm nhìn ánh đèn màu bên kia bờ sông Tevere. Ánh mắt lúc đầu sáng rực, sau đó, đột ngột chuyển qua long lanh, như có giòng nước nhỏ đang từ khoé, tuôn ra.
Nghe Maria kể xong câu chuyện, bỗng dưng tôi mơ hồ cảm thấy một mùi tanh tanh trong không khí. Cuộc sống lăn lốc hỗn độn ngoài kia như đang mang theo một mùi xú uế tràn vào. Lạ thay! Ngày xưa suốt những tháng năm trọ học bên những căn nhà ven thành phố Sài Gòn, trên những giòng kênh nước đục, nhưng tôi chưa bao giờ cảm nhận cái mùi ngột ngạt khó thở thế này. Trời tanh. Đất tanh. Một mùi hăng hắc cứ bám vào mũi.
- Anh đang nghĩ gì vậy?
Tôi giật mình bước ra khỏi trạng thái nhờn nhợn đó, nhìn Maria rồi trả lời:
- Tôi đang nghĩ về những kẻ đánh mất nhân phẩm, ăn cướp vì lòng tham chứ không phải vì đói khát.
Maria, chỉ khẽ gật đầu rồi nhìn tôi chứ không nói gì thêm.
Mãi lát sau cô mới nói:
- Đã 5 năm nay tôi không gặp lại lão tóc trắng. Nhưng không bao giờ tôi quên nổi đôi mắt ấy. Và có lẽ suốt đời tôi không bao giờ quên được cái dáng xiêu vẹo của lão đứng nhìn tôi bước lên xe sau khi đưa lão trở lại "nơi cư ngụ". Lúc ấy tôi bỗng thấy đôi mắt lão có cái gì như sự hốt hoảng, như cố hình dung lại một mùa Giáng Sinh năm nào trong cái gia đình đầm ấm mà lão đã lỡ lầm đánh mất. Chỉ vì lòng tham bệnh hoạn, mà những giá trị thiêng liêng kia đã mãi mãi vuột khỏi tầm tay.
Sau đó thì lão biến mất. Tôi đã tìm khắp nơi trong thành phố Roma nhưng không tìm thấy bóng lão đâu. Tôi đã nhờ các cơ quan liên hệ hỏi thăm cùng khắp. Có người đặt nghi vấn là có thể lão đã chết, nhưng tôi tin là không thể nào chuyện ấy có thể xảy ra. Tôi sẽ biết ngay qua mạng lưới thông tin của cơ quan Caritas, qua các City Angels hay của các văn phòng trợ giúp xã hội trong thành phố. Và dù không có bằng cứ gì chắc chắn nhưng tôi vẫn tin là lão đã chạy về một thành phố khác ở miền nam Roma, như Napoli chẳng hạn. Có thể có những lý do bí ẩn nào khác nhưng tôi tin là lão không muốn gặp lại tôi, người đã biết những ẩn tình. Thố lộ một tâm tư thầm kín sẽ làm chúng ta vơi đi những ray rức và giảm bớt dày vò. Nhưng chỉ nói được với một người ngoại cuộc, lão sẽ không bao giờ xoá bỏ được nỗi đau. Ngược lại nó chỉ làm lão thêm hổ thẹn nếu một mai có gặp lại tôi, vì lão mang trong lòng cái mặc cảm của người ăn cắp và bị bắt quả tang hay cái mặc cảm của kẻ mang nợ mà vẫn chưa trả được. Đời lão chỉ có thể có lời tha thứ của Italo và Teresa thì niềm đau kia mới hết. Nhưng hai người đáng kính và đáng thương kia đã đoạn tuyệt với mảnh đất nầy, và đang ở bên kia nửa vòng trái đất. Dù sẽ không có ai chết cả, nhưng họ sẽ rất khó lòng gặp nhau trong cuộc sống nầy. Còn khả năng là lão sẽ đi tìm cái chết? Tôi không bao giờ tin là điều ấy có thể xảy ra, mà dầu cho là có đi nữa, chưa chắc lão có thể thực hiện được ý định quyên sinh. Sống thì rất khó mà chết cũng chẳng phải dễ đâu. Sống và chết đâu có phải tùy thuộc ở mình. Lão sẽ còn phải tiếp tục trả giá cho hành động tán tận lương tâm của mình thêm nhiều năm nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét