Con người và số phận
Chỉ là một con người và một số phận
Gần nhà có một quán cóc nhỏ gọi là quán bà Trường, dân tình
ngồi ở đấy thường là mấy tay xe ôm, mấy thằng sinh viên trong khu, và thỉnh thoảng
có cả mấy ông công an phường. Tuy nhiên, người đi đường có thể nghĩ rằng quán
cóc này còn có những vị khách thường xuyên khác. Đó là ba bốn ông lão về hưu,
toàn cỡ 70 tuổi trở lên, thường ngồi uống chè và bàn luận chuyện thiên hạ. Chuyện
thiên hạ chứ không phải chuyện mình, giống như những người ngồi ngoài đường
biên ngó nghiêng bình luận cái bọn đang đá bóng trên sân. Thực ra mấy ông ấy
không ngồi quán cóc, mà ngồi quanh một chiếc bàn nhỏ, thuộc sở hữu của một ông
cụ xương xẩu da mồi, tay run rẩy và nụ cười ngây ngô.
Trước đây, khu vực này là một dãy kiốt. Sân vận động được xây
lại, kiốt bị phá đi, đợi bao giờ xong sân sẽ dựng trở lại. Quán nước của bà Trường
trở thành quán cóc bên lề đường, dựng quán để giữ đất là chính. Ông lão cũng
mang một chiếc bàn ra kê bên cạnh để chứng tỏ quyền sở hữu của mình, rồi dần dần
có những người bạn già đến ngồi với ông. Thường thì chỉ có các bạn ông nói chuyện
với nhau, toàn những chuyện đao to búa lớn, ông chỉ rót nước mời bạn và mỉm cười
lành hiền ngây ngô.
Có những nụ cười cứ đọng mãi trong tâm trí người ta. Không phải
vì nó đẹp, không phải vì nó rạng rỡ hay chứa đựng một điều gì đó sâu xa, đơn giản
vì bản thân sự tồn tại của nó đã là điều khiến ta ngạc nhiên.
Ông lão vốn làm nghề thợ xây. Tôi nhớ hồi xưa, chính tay ông
đã xây cho nhà tôi một bức tường. Bức tường cũ quá rệu rã đến nỗi một hôm gió
thổi nó ngã rạp xuống đường. Bố tôi gọi ông đến để xây lại. Hồi đó tôi đã ấn tượng
về nụ cười hiền lành của ông. Nhận phần tiền công ít ỏi, ngồi vào mâm ăn một bữa
cơm gọi là thân mật với gia đình, thế thôi mà sao trông ông cứ ngượng ngượng
nghịu nghịu. Hình như ông lão ngượng nghịu với tất cả. Ông ngại ngùng ngay cả với
sự tồn tại của mình, về số phận của mình. Tôi cứ nghĩ rằng, bất kỳ ai trong
chúng ta, mỗi người đều có một niềm tự hào cho riêng mình, dù to dù nhỏ. Nhưng
mỗi khi ra quán cóc gần nhà ngồi uống nước, nhìn sang cái bàn ọp ẹp của ông
lão, tôi lại phân vân không biết điều đó có thật đúng vậy chăng?
Sát nhà tôi là một con đường nhỏ, ngày trước nó vắng vẻ lắm.
Vào những buổi trưa hè, hầu như không có ai qua lại trên con đường đó cả. Chỉ
có một tay thanh niên bước đi thất thểu, cứ thế đi qua đi lại trên con đường
dài khoảng trăm mét, đến hết đầu này lại quay lại đầu kia. Quần áo bẩn thỉu,
tóc tai rối bù, nét mặt man dại. Nhìn vào gương mặt đó, người này sẽ cảm thấy
kinh sợ, người khác thì không. Hắn ta cứ đi đi lại lại như thế, trên tay luôn
luôn là một điếu thuốc bị bóp chặt bằng ngón tay cái và ngón tay trỏ. Đôi khi để
tâm quan sát hắn, lúc thì tôi thấy hắn giống như Chí Phèo đang mơ màng minh triết,
lúc thì tôi thấy hắn như một con thú hoang dại đang đờ đẫn trong một liều thuốc
mê. Cứ để mặc hắn và đừng động đến hắn thì tốt hơn. Người lớn bảo hồi trước hắn
học giỏi lắm, học nhiều đến nỗi khi lên năm thứ 3 đại học BK thì phát điên. Hắn
là con trai của ông lão.
Ông lão sinh sống ở khu này từ trước gia đình tôi rất lâu. Chả
ai biết hồi trước ông thế nào. Chỉ biết là gia đình vợ ông có máu điên. Vợ ông
thì bình thường, chỉ là một người đàn bà lưng còng và khó tính. Nhưng mẹ vợ ông
(đã chết từ rất lâu rồi) là một người điên. Người ta bảo bệnh điên có tính di
truyền. Cô con gái của ông không điên hẳn nhưng cũng dở dở, với một đứa con
hoang và một người chồng hờ, thường xuyên mắng chửi cãi cọ bố mẹ. Con trai ông
thì đi lại trên đường với điếu thuốc và nét mặt của một con thú bị đánh thuốc
mê. Có phải vì thế mà không bao giờ thấy ông cãi cọ tranh chấp với ai, chỉ có nụ
cười ngây ngô hiền lành. Ông đi xây thuê những bức tường vụn vặt, chẻ củi để
bán, nhiều nhiều những việc khác nữa… Có một dạo ông lão mang một cái bơm ra đầu
đường. Thỉnh thoảng tôi vẫn dừng lại với cái bơm của ông. Nhìn ông lão tay chân
run rẩy thở hồng hộc bơm xe cho mình thì không thấy tự nhiên lắm. Mà cầm lấy
cái bơm để tự bơm, lại chẳng có lý do gì để trả tiền cả. Sau rồi thôi.
Bẵng đi một thời gian. Không thấy con trai của ông lão đi dạo
trên đường nữa. Thấy bảo là hắn nổi xung, đánh bố, nên phải đi trại tâm thần. Bẵng
thêm một thời gian nữa, thấy nhà ông lão có đám cưới. Ông lão cưới vợ cho con
trai. Hắn đi trại điên về, hiền lành ngu ngơ vô hại. Vợ hắn là một người đàn bà
cô độc lỡ thì, từ quê lên lấy một thằng chồng điên để chạy trốn cảnh đói nghèo.
Dù sao thì vẫn là có một tấm chồng, vẫn là có hai người nào đó để gọi là cha mẹ,
vẫn có được một kiốt nhỏ để làm ăn buôn bán.
Cô ta khoảng hơn 30 tuổi, xấu xí quê mùa nhưng tốt tính. Nhìn
cô, ta sẽ hiểu vì sao người phụ nữ lại đáng được ca ngợi vì lòng dũng cảm đối đầu
với cuộc sống. Kiốt của cô bán từ dưa cà mắm muối cho đến ô mai thuốc lá, và cả
dây chun lẫn bi ve cho bọn trẻ con. Tất cả những gì có thể mua được ở kiốt của
cô, không bao giờ tôi đi mua ở chỗ khác. Không phải vì muốn giúp gì cho cô, mà
chỉ vì sự quý mến thông thường mà thôi. Tôi thường thấy anh chồng điên của cô
hay ra đó giúp đỡ cô việc vặt, quen đi tôi cũng thấy hắn rất hiền lành như mọi
người. Tôi cũng hay thấy ông lão ra đó giúp đỡ cô bưng bê khuân vác, hoặc đến để
lấy bữa cơm trưa cô nấu cho và đựng trong một cái cạp lồng. Cô vui vẻ và hài
lòng lắm với cuộc sống của mình. Thì mọi người cũng chỉ thấy thế thôi, đôi khi
còn có cảm tưởng rằng cô thật may mắn.
Rồi ông lão bế trên tay một đứa bé trai, cháu nội của ông. Đứa
bé rất đẹp với đôi mắt to tròn và sáng như sao. Ít khi thấy một đứa bé có đôi mắt
sáng như vậy. Ai cũng mừng cho ông lão và con dâu của ông. Ông lão vẫn cặm cụi,
vẫn ngượng nghịu với tất cả mọi người, nhưng dù sao người ta vẫn có thể thấy là
ông hạnh phúc… Hai giờ đêm, cả khu náo loạn, ầm ĩ tiếng kêu khóc hoảng loạn. Hắn
lại phát điên, và trong cơn điên, hắn đã giết vợ. Ông lão không làm cách nào để
phá nổi cửa, khi hàng xóm đến giúp ông thì đã muộn. Kẻ điên đang vật vã giữa
nhà, mê sảng hoàn toàn thú tính. Người đàn bà đáng thương ấy đã chết vì bị bóp
cổ và bị vật nặng đập vào đầu. Đứa bé con thì không sao.
Chỉ nhìn thấy ở ông lão vẻ cam chịu cố hữu mà thôi. Kiốt nhỏ,
không còn cô con dâu, không ai có thể đảm đương được, đành cho người ta thuê.
Thỉnh thoảng vẫn thấy ông lão dẫn đứa cháu nội đi ra đó. Từ sau khi mẹ nó chết,
cứ nhìn nó tôi lại thấy một cảm giác là lạ lành lạnh dọc sống lưng. Mắt nó sáng
quá, thông minh quá, mà cứ như đã chứa trong lòng mầm mống của sự điên dại. Về
sau không thấy đứa bé đâu nữa. Khi tôi hỏi ông lão, ông trả lời là gửi nó ở đâu
đó nhờ người ta nuôi hộ. Gửi ai? Họ hàng, bạn bè, người thân,… hay trại trẻ mồ
côi? Nếu đứa bé ấy không có gì khác thường, có lẽ tôi đã quên mất nó rồi. Nhưng
nó lại có đôi mắt sáng vô cùng, thông minh vô cùng, và rồi cả cái ý nghĩ về mầm
mống điên dại nữa… Mấy năm trôi qua rồi, chẳng bao giờ tôi nói chuyện với ông lão
nữa, cũng không biết là vì sao lại thế. Kiốt đã bị phá, không còn tiền cho
thuê, không còn sức để làm việc, chả hiểu ông lão sống bằng cái gì.
Ngày đông lạnh giá, tôi ngồi đợi bạn ở quán nước bà Trường.
Nhìn sang bên cạnh, thấy ông lão đang ngồi bó gối trên ghế. Tờ báo phủ lên đùi,
đầu gục xuống trong một giấc ngủ lơ mơ. Bộ ấm chén đặt trên bàn, phích nước bên
cạnh ghế. Chắc ông lão đang đợi những người bạn già của mình. Chiều mát họ mới
đến, nhưng ông ngồi đợi từ bây giờ. Còn việc gì để làm đâu, ngoài việc đợi những
người bạn đến bàn chuyện thế giới với nhau. Họ chỉ nói chuyện với nhau thôi, họ
là những công chức về hưu và am hiểu nhiều điều. Điều mà ông lão cần, chắc chỉ
là sự có mặt của họ vào mỗi buổi chiều tà. Ông lão đợi họ đến. Để ông sẽ được mời
họ ngồi, rót nước mời họ, lắng nghe những câu chuyện không đầu không cuối. Và
thỉnh thoảng mỉm cười một nụ cười hiền lành và ngây ngô.
Một lần tôi nghe thấy bạn của ông lão vung tay khoát lên trời
và nói với mấy ông còn lại: “Mỗi người có một số phận, vùng vẫy làm gì, chạy
đâu cho thoát!” Rồi tôi thấy ông lão lại cười ngây ngô theo cách cố hữu. Đằng
sau nụ cười ấy là ý nghĩ gì?
Chắc là chẳng có gì cả đâu.
Chắc là chẳng có gì cả đâu.
Mệt mỏi và mong muốn sự bình yên.
Bi kịch con người
1. Kiếp làm người có phải: Nước mắt chúng sinh nhiều hơn bốn
biển?
Đó là thảm kịch của cuộc đời mà Đức Phật Thích Ca đã nhận
chân ra sau khi vi hành ra khỏi cung điện đầy vàng bạc châu báu, gấm vóc xa
hoa, đồ ăn thức uống sơn hào hải vị của vua cha.
Cuộc đời là một tấn thảm kịch! ...
Bằng một trái tim lạc quan hào hùng có lẽ bạn muốn chối bỏ thực
tại đầy yếm thế đó chăng? Bạn hãy thử hình dung cuộc đời ngắn ngủi của con người
bị kẹt giữa bao cuộc tranh sát tương tàn: biết bao kẻ ăn mày đói rách, biết bao
kẻ lang thang cơ nhỡ không chốn nương thân đi giữa cuộc đời nhung lụa, và bất hạnh
đến từ đâu? Mỗi ngày có bao nhiêu câu lạc bộ làm quen được mở ra, mà con người
vẫn sống trong cô đơn, thờ ơ, lãnh đạm và ghẻ lạnh đến hoang phế cả tâm hồn, biết
bao đôi lứa bước tới cửa hạnh phúc của cuộc đời lại nhanh nhảu bước ra từ cửa
ly hôn của toà án?
Biết bao trại ấp từ thiện được lập nên mà những đứa bé mồ côi
đói khát mù chữ vẫn đứng tần ngần ngoài cổng ngước nhìn lên những hàng chữ đổ
son cho tấm lòng quảng đại của con người? Biết bao cuộc hội thảo về tình thân
ái bằng hữu được khai mạc, vậy mà con người vẫn nhìn nhau bằng con mắt đố kỵ hằn
học, giăng bẫy và cảnh giác lẫn nhau? Biết bao sách vở, giáo lý , kinh điển bàn
về tâm hồn cao thượng công chính của con người, vậy mà loài người vẫn tiếp tục
là nạn nhân cho các vụ bắn giết bạo hành phi pháp lý và lề luật con người? ...
Còn, còn nhiều lắm những đau khổ và phi lý... biết bao chiếc
cáng cứu thương chạy thục mạng đến dưới nòng đại bác để hứng lấy những thương
binh bê bết máu? Đó là những đau khổ của ngoại cảnh. Nỗi đau khổ này nằm ngoài
cung điện của vua cha Đức Phật Thích Ca, nhưng những người sống trong nhung lụa
giữa bốn bức tường cung điện có được bao nhiêu? Và chính họ, nàng hầu, người ở
có thoát được khổ đau của nhung gấm, mấy viên hoạn quan liệu có sống cuộc đời
toàn vẹn khi bị người ta khai tử cái chủng giống của mình?
Rồi tận cùng những chủ thể sung sướng được chăm ẵm và kẻ hầu
người hạ, đức vua, hoàng hậu, thái tử, công chúa, quan lại có hạnh phúc không
khi mà càng sướng thì họ càng lo chết và lo giữ ngai vàng, nỗi lo cứ canh cánh
trong lòng suốt đời, nó liên lỉ miệt mài đục ruỗng cuộc đời đầy quyền lực từ
kinh thành đến biên ải nhưng bất lực của họ. Tại sao họ bất lực? Bởi như những
kẻ hèn hạ khốn khó, họ buộc phải là chủ nhân của bốn thứ cẩm nang: SINH, LÃO, BỆNH,
TỬ.
Bởi vậy mọi người từ tôn ông đến thằng hèn, từ hoàng đế cao
sang đến kẻ thị dân thấp cổ bé họng đều trở thành chúng sinh của đau khổ, của
nước mắt. Đức Phật nói:
Bể khổ mênh mông sóng lụt trời
Khách trần chèo một chiếc thuyền trôi
Thuyền ai ngược gió hay xuôi gió
Xét lại cùng trong biển thẳm thôi
(Phật học phổ thông) (1)
Cuộc đời đầy rẫy đau khổ sao vẫn đáng sống? Đức Phật vẫn sống
giữa trần ai để chứng ngộ đạo và truyền dạy chúng sinh mong cứu rỗi cuộc đời. Một
Socrate vẫn hoan hỉ uống bát thuốc độc trong vui hưởng cái chết thanh thản đẹp
đẽ của mình, đến mức Nietzsche phát ghen tỵ khi thốt lên: Không! Bát thuốc độc
không được trao cho Socrate, mà chính Socrate trao mình cho thuốc độc. Một Đức
Chúa Jesus chọn cái chết đầy bi hùng thảm khốc trên thánh giá. Một Ju-đa lẳng
đi cái gói tiền bán Chúa để tậu lấy cái chết sám hối của mình. Một Gandhi chân
trần áo thụng đi giữa những nòng súng bạo hành đầy rẫy của cuộc đời.
Và giản dị hơn, chúng ta hãy thử nhìn vào cuộc đời bình dị, một
gã si tình vẫn đang đi đến chỗ hẹn với người yêu bằng một trái tim dạt dào thổn
thức; một cô gái vùi mặt vào hai bàn tay ướt đẫm nước mắt trong nỗi đau khổ về
mối tình tuyệt vọng của mình, nàng cự tuyệt không cho ai lôi nàng ra khỏi những
hàng lệ chua xót đau đớn. Leo Tolstoi đã nói thật chí lý: “Nỗi đau khổ lớn nhất
là bắt một người đang đau khổ không được đau khổ nữa”.
Người đau khổ muốn được cào xé mình trong nỗi đau riêng có -
họ muốn được nhức nhối trong nỗi đau của mình, và liệu nỗi đau đó có là hạnh
phúc?
Bởi nỗi éo le đó của kiếp làm người nên có bao nhiêu cách
nhìn về cuộc đời. Dostoievski đã tôn vinh về cuộc đời rằng: “ Dù người ta có
nói gì về cuộc đời đi nữa, tôi vẫn thấy, những gì mà con người có được ở trần
gian này thật chẳng có gì hơn nổi.”
Nước mắt ư? Một đôi tình nhân có tận hưởng những giọt nước mắt
không? Và nước mắt có cao quí hơn giữa kiếp làm người khi mà nó trở thành tài sản
riêng có của loài người? Và những hàng lệ liệu có giúp cho cuộc đời trở nên ý
nghĩa và huyền nhiệm? Gã tình nhân thổn thức đến tan nát cõi lòng dưới gốc me
chua đợi mà người tình không đến, nỗi thổn thức đó của gã có đáng có không? Một
cô nàng khóc hết nước mắt đón đợi người yêu, nước mắt đó liệu chẳng giúp ích gì
để xây lên nụ cười rạng ngời cuống quít của nàng khi nghe bước chân chàng bước
dồn ngoài cửa? Một dân tộc cải hoán sự ươn hèn của mình bằng một cuộc hy sinh đầy
máu, liệu cuộc huyết chiến đó chẳng đem lại nổi một niềm kiêu hãnh hùng tráng
nào?
Vậy bất chấp sự đau khổ đầy rẫy khắp nơi cuộc đời vẫn đáng
yêu, đáng sống lắm. Sartre nói: “Cuộc sống yêu như thể đất thịt này!” (La vie
est aimable comme la terre charnelle).
2. Cố hương và chốn lưu đầy
Vâng! Cuộc đời vẫn đáng yêu da diết như mối tình bình dị của
chúng ta. Nhưng đó là tình yêu ở trần gian này, mặt đất này. Tình yêu đó khiến
chúng ta say mê ngây ngất vui hưởng hạnh phúc, song nó không thể phong thánh
cho cuộc đời trần tục còn nhiều bi luỵ của chúng ta. Vẫn còn đó đổ nát, hằn thù
và cô quả! Vẫn còn đó mảnh đất đầy sẹo thuốc súng, gươm đao và chém giết! Vẫn
còn đó thái độ nơm nớp trong bóng đêm lừa phỉnh giả trá và phi đạo lý! Vẫn còn
đó những tâm hồn ích kỷ chỉ định đánh lưới hay nô lệ hoá tha nhân! Vẫn còn đó
tha nhân không phải là người bạn tình mà là kẻ nô bộc thí thân trong cuộc tranh
chiến cũng như hoan lạc!
Vậy cuộc đời đáng sống không phải nó đã là chốn thiên đường của
công lý, đạo hạnh và bác ái, mà nó đáng sống bởi vì con người vừa sống vừa khát
vọng cứu rỗi đời sống thực tại còn trầm luân đau xót và thô lậu. Bởi thế trước
hết chúng ta hãy khước từ cả cái nhìn bi quan coi cuộc đời là bể khổ, nhưng
cũng khước từ cả cái nhìn lạc quan coi cuộc đời là thiên đường. Không! Chúng ta
muốn nhìn cuộc đời như thực tại về nó. Heidegger nói: “Thế giới mình sống vừa
là cố hương vừa là chốn lưu đầy, vừa là thiên đường vừa là hoả ngục” (2).
Thế giới là cố hương bởi nó là đất mẹ của con người; nó là chốn
lưu đầy bởi là tấn tuồng đau khổ suốt dòng lịch sử của con người: nào nạn hồng
thuỷ, hạn hán, núi lửa, nào thập tự chinh, chiến tranh thế giới thứ nhất, chiến
tranh thế giới thứ hai... Song trước hết thế giới là chốn lưu đầy bởi ở đó kiếp
người mỏng manh yếu ớt như một đoá phù du, Pascal nói: “Con người là một hạt bụi
bay theo gió, một giọt nước trong biển cả. Thế giới không cần lay động mấy cũng
đủ làm cho con người chịu thiệt. Một làn gió độc thổi vào, một tia nắng xuyên
qua cửa sổ, đủ làm con người nguy đến tính mạng.”
Kiếp người là vậy đó! Một làn gió thoang thoảng cũng khiến
chúng ta phải mắc chứng phế quản rồi lao phổi, một con nhện Phi châu cắn cũng đủ
làm ta phải chết, một đám vi trùng động cỡn lên có thể xơi gọn buồng gan của
ta, một con rắn chẳng cần hào phóng lắm cái nọc độc nhỏ nhoi của nó cũng khiến
cuộc đời chúng ta phải luỵ hệ, rồi một con sư tử, một con cá sấu, một con
sói... tất cả đều có thể đo ván cuộc sống của chúng ta. Đó là chưa nói đến những
chứng bệnh hiểm nghèo như phong cùi, ung thư, sida, những đại hoạ thiên tai như
mưa sa bão táp, nứt vỏ địa cầu... Đó là thế giới mà con người bị đặt vào đấy,
nó làm sao có thể yên ổn sống nổi giữa muôn vàn tai hoạ luôn dập dình bao quanh
như vậy. Epitecte một triết gia đã cảnh tỉnh con người ngay từ thời cổ đại: “Hỡi
bạn hãy nhớ bạn là diễn giả của tấn bi kịch mà tạo hoá đã đặt cho bạn”.
Thiên nhiên không chỉ là một vũ trụ hiểm hóc luôn rình rập
thân phận nhỏ bé khốn khổ của con người, thiên nhiên còn phô ra bộ mặt hùng vĩ
vô biên của nó nhằm dồn đuổi con người đến tận cùng sự thách đố, đó là điều kiện
bất lợi gian nan cho con người, song chính điều kiện đó đã thử thách tôi luyện
con người trở nên can trường hơn. Con người đã vượt thắng và tôn vinh chính
mình nhờ trải qua cuộc giằng co cam go với thiên nhiên. Saint Exupery nói:
“Thiên nhiên cho chúng ta biết nhiều hơn sách vở, bởi thiên nhiên kháng cự lại
chúng ta. Con người tự khám phá ra mình khi họ phải so đọ với trắc trở”.
Khi so đọ với trắc trở con người nâng cao chính mình. Bởi vậy
giữa vũ trụ bao la, con người không chịu cam lòng sống thân phận yếu hèn của kẻ
bị hà hiếp, mà con người vượt lên để biến thân phận bi thảm của nó thành một bi
hùng kịch nhờ sẵn lòng quả cảm giao đấu với thiên nhiên. Con người mở đường
khai sơn phá thạch, đào hào đắp đê ngăn lũ, đắp đập ngăn biển, khai quang những
cánh rừng rình mò rập rạp, khơi thuỷ nhập điền... Khi thiên nhiên càng ngày
càng lùi xa cái ranh giới bịt bùng hỗn mang đầy đe doạ của nó, vào lúc con người
tưởng có thể khá yên tâm sống dưới mái nhà yên bình được tạo dựng từ hai bàn
tay của mình, thì thảm hoạ khác hiện ra, thảm hoạ con người phải làm mồi cho
con người.
Đây chính là thân phận thống khổ giằng co suốt kiếp người,
con người chưa thoát khỏi thảm kịch thiên nhiên lại rơi vào thảm kịch xã hội.
Những cá nhân nhỏ bé như một sợi tơ mỏng mảnh phải nằm trọn trong guồng quay của
cỗ máy quyền lực xã hội khổng lồ. Con người chiếm lĩnh lẫn nhau, chém giết lẫn
nhau, hành hạ lẫn nhau, bóc lột lẫn nhau và thủ miếng lẫn nhau. Con người bị biến
thành miếng mồi xâu xé của các thế lực, các xu hướng chính trị, các tôn giáo,
các phong trào, các vùng đất cát cứ lãnh thổ... Con người không được sống yên ổn
theo nhân tính của nó nữa, mà nó buộc phải sống theo hoàn cảnh mà xã hội đã chụp
úp lên nó.
Cuộc đời là một bi kịch éo le thống khổ của con người, bởi lẽ
con người chỉ là con người khi nó tự do, nhưng dường như nó không thể làm chủ
nhân ông cho cuộc đời của nó, ngược lại nó phải làm mồi cho hoàn cảnh thiên
nhiên và xã hội. Jasper nói: “Con người là con người của hoàn cảnh” (L’homme
est en situation) (3).
Còn Sartre thì đã tìm cách lý giải sự thất trận của bản tính
nhân loại trước xã hội như: “Chúng tôi đồng ý là không có một bản chất nhân loại,
nói cách khác, mỗi thời đại nảy nở theo những định luật biện chứng và con người
tuỳ thuộc vào thời đại chứ không tuỳ thuộc vào bản chất nhân loại.”
3. Bi kịch hóa bi hùng kịch
Nỗi thống khổ của con người không chỉ nằm trong mối tương
quan yếm thế và bé mọn của thân phận nó trước thiên nhiên và xã hội, mà từ
trong thẳm sâu bản tính của mình con người là một nỗi buồn đày ải dai dẳng khôn
nguôi. Đạo Phật cho rằng: con người đau khổ ngay từ lúc sinh ra, bởi thế những
hài nhi đã cất tiếng khóc như một lời chào trước thảm cảnh cuộc đời. Hàng tỉ
hài nhi đã ra đời, vậy mà chẳng có hài nhi nào lại ngây ngô mỉm cười trước cuộc
hiện sinh yểu mệnh đầy chông gai của nó.
Con người là hiện hữu đau khổ tự thân suốt cả kiếp người, bởi
con người là hữu tinh thần. Đó là nỗi đau dày vò vô hạn định của nó: “Con người
là một giấc mộng tàn tạ” (Sartre). Cuộc đời người, cái kiếp làm người lúc
thăng lúc trầm, lúc lên voi lúc xuống chó, hoan hỉ như ngày cưới chẳng tầy
gang, còn đau khổ như ngày tháng lê thê buồn tẻ của cuộc đời chất đầy nhục nhằn
chua xót và uất hận ấy thường được con người gọi là định mệnh - một định mệnh
ba chìm bảy nổi chín lênh đênh hệ luỵ đầy nước mắt. Tại sao có định mệnh ấy?
Hegel nói: “Định mệnh, đó chính là con người” (Le destin c’est ce que l’homme
est).
Tại sao con người lại chính là định mệnh thống khổ của nó? Bởi
vì con người là tự do, nó tự do xây lên định mệnh của mình đầy cam go thống khổ.
Bạn hãy nhìn một bầy ong: có bao giờ ong chúa vì thiện cảm tư
tình riêng với anh ong thụ giống nào đó mà ân ái nhiều hơn không? Và trong khi
những chú ong giống đang ân ái hoan hỉ cùng ong chúa, thì những chú ong chiến lại
phải mải miết lao vào cuộc chiến với một con bê đến phá tổ, chúng chiến đấu đến
đứt nọc mà chết; và liệu có nổi một lần đám ong chiến la lên với ong chúa rằng:
tại sao những kẻ khác thì đang hưởng lạc thú còn chúng tôi thì lại phải chết?
Không! Tất cả mọi bổn phận đều được những con ong thực thi một cách riêng rẽ vẹn
toàn. Sẽ không có một con ong nào lẩn trốn cuộc chiến đấu, cũng như chẳng có
chú ong thợ nào ma lanh nứng đực lủi sang buồng của nàng ong chúa, chẳng có chú
nào bị lôi ra toà, chẳng có chú nào bị giết vì ghen tuông. Đó là một thí dụ
trong muôn vàn thí dụ của tự nhiên. Loài vật không có định mệnh, bởi chúng tự
thủ tiêu tự do của chúng khi an phận sống theo lề luật thiên nhiên.
Còn con người, nó khát tự do! Nó là hữu tinh thần! Nó là định
mệnh thống khổ, bởi vì: “Sự phiêu lưu của vũ trụ khởi sự bằng mộng và gặt hái
cái đẹp bi tráng” (White Head).
Con người luôn luôn mơ mộng để rồi vỡ mộng, đó là tất yếu bởi
lẽ đôi chân của con người không có cách chi lấp đầy những khoảng cách hun hút
xa vời vợi của mộng mơ. Như một kẻ hành hương lên đường đi tìm đền thánh ở nước
Trời, con người cứ đi mãi, nó chẳng bao giờ đến được đền thánh đó, nhưng nó vẫn
cứ đi bởi vì nó khao khát gặt hái những vết sẹo bi tráng của cuộc hành trình cứu
rỗi tâm hồn. Vỡ mộng là nỗi đau khổ dày vò khôn nguôi trong tâm hồn con người,
bởi lẽ con người chẳng bao giờ chịu ngừng nghỉ mộng mơ của nó. Vỡ mộng là một
bi kịch sát cánh với con người, bởi con người luôn thai nghén mộng mơ của nó,
và nó chẳng bao giờ lảng tránh nỗi đau khổ vỡ mộng bằng cách chấm dứt mộng mơ.
Bởi vậy mà Jean T. Desanti nói: “Đau khổ là yếu tính của tinh thần” ( Malheur
est essence de l’esprit).
Con người là đau khổ bởi con người là tinh thần, mà tinh thần
thì chẳng bao giờ ngừng nghỉ khát vọng tự do, cũng như suy tư vọng tưởng. Tự do
là một thách đố cam go với vũ trụ và với chính con người! Nó là đau khổ! Suy tư
vọng tưởng là vỡ mộng, là đau khổ! Nhưng dấn bước thêm vào cuộc đời đổ nát vỡ mộng
của mình, con người còn trở nên nỗi đau rên xiết âm ỉ nhức nhối hơn nhiều, khi
nó trở thành kẻ so đọ cũng như thèm khát nỗi đau của tâm hồn nó.
Con người yêu đau khổ như một gã trai can trường yêu trận mạc,
như kẻ si tình thèm khát sự dâng hiến và thổn thức dày vò, như cô gái đang yêu
được khóc nấc lên giữa hai bờ vai rung bần bật của mình, như những kẻ tham thiền
thích ngồi lên đinh, như Đức Phật Thích Ca muốn ngồi trơ xương dưới gốc bồ đề,
như Chúa Jesus thèm đóng đanh trên thánh giá. Con người yêu cả giấc mộng yêu cả
sự vỡ mộng của nó, nó yêu cả hạnh phúc và đau khổ. Và con người như Rimbaud nói:
“Cuối cùng tôi khám phá ra sự hỗn loạn của tâm trí tôi là thiêng liêng”.
Con người là một bản trường ca đau khổ của hữu thân xác bị đẩy
ra khỏi vòng tay ẵm nựng ấm áp của mẹ hiền, của hữu tinh thần quằn quại trăn trở
trên nẻo đường vỡ mộng, và cuối cùng là của nỗi buồn không thể hoá thành bất tử.
Bởi vậy Sartre có lý khi nói: “Sống là đau bệnh một thời gian dài”.
William Faulkner thì cho rằng con người là nỗi đau song hành
với thời gian, ông nói: “Con người là tổng số những nỗi bất hạnh của hắn. Người
ta có thể nghĩ rằng nỗi bất hạnh một ngày kia sẽ kết liễu bằng cách mòn mỏi đi,
nhưng lúc đó chính thời gian lại trở thành nỗi bất hạnh của ta.” (4).
Kiếp người là khổ đau! Đã đành vậy. Nhưng tại sao con người vẫn
vui sống và khát vọng? Tại sao con người lại không chịu ngã xuống chết rục
trong kiếp đoạ đầy gian nan thống khổ? Goethe nói một câu thật chí lý: “Nghèo
không nhục mà xấu hổ vì nghèo mới nhục”. Cũng vậy, con người ý thức được nỗi khổ
đau trọn kiếp người nhưng không phải để cam lòng qui phục đầu hàng, mà để vượt
lên lướt thắng những đau khổ của trần gian với khát vọng hoàn tất sự nghiệp làm
người bi tráng của mình. Con người không chấp nhận sự an bài của định mệnh, như
một kẻ can trường tha thiết tự do, con người chỉ chấp nhận cuộc thách thức của
định mệnh, bởi vì: “Có khả năng chấp nhận sự thách đố là một điều kiện để có đời
sống tự do” (Mounier).
Bởi không tránh được đau khổ cũng như không tránh được già
lão bệnh tật dần dà con người đã dám tiếp cận với đau khổ, làm quen với đau khổ,
và cuối cùng còn tiêm phòng đau khổ vào tâm hồn để ngăn ngừa sự đổ nát tan
hoang đến tuyệt vọng của tâm hồn khi gặp phải sự gieo cấy đau khổ của định mệnh
khắc nghiệt. Nietzsche nói: “Bi kịch trước hết là phương thuốc phòng ngừa, một
cuộc trồng độc chống lại định mệnh không thể tránh khỏi” (5).
Và bất hạnh bịt bùng bao quanh số phận nhỏ bé của con người,
con người đã dùng quyền tự do của nó để lựa chọn bất hạnh như một hạnh phúc. Đó
là một thái độ mới, thái độ dấn thân quả cảm của con người nhằm hóa giải cơn
đau định mệnh. Kierkegaard nói: “Lựa chọn bất hạnh, chính nó cũng xứng đáng để
lựa chọn” (Choisis le desespoir qui est lui meme un choix).
Chúng ta thử xem! Chẳng phải Đức Phật đã rời bỏ cung điện giầu
sang phú quí để dấn thân vào cát bụi cuộc đời mong tìm chân lý, với Ngài cát bụi
hay vàng son là hạnh phúc? Chẳng phải mỗi năm có hàng nghìn con người từ bỏ cuộc
đời êm ấm ở gia đình vượt dãy núi Hymalaya đến giam mình trong những tu thất ngập
chìm trong băng tuyết phủ, liệu đó có phải hạnh phúc mà họ muốn chọn? Tổng thống
Linh-côn khi còn niên thiếu đã đi bộ suốt bốn mươi dặm đường để mượn mỗi cuốn
sách, vậy ngài chọn cái gì: nỗi vô minh hay chặng đường gian nan vất vả? Những
con thuyền vượt đại dương mênh mông lên Bắc Cực hay xuống Nam Cực, những con
người bị bỏ đói hàng năm trời lấy dao đẽo gỗ ra ăn, những con thuyền ra đi chẳng
trở về, nhưng tại sao có những con người vẫn hăm hở tình nguyện leo lên những
con thuyền mới đang nóng lòng kéo neo hướng về Nam Cực?
Và mọi người kể rằng, khi nhà thơ Byron định viết một trường
ca mới về chàng Odyssey, chẳng có cách nào khác, ông buộc phải giằng chàng
Odyssey ra khỏi vòng tay ấm áp của bà vợ Pê-lê-nốp duyên dáng và xinh đẹp,
chàng lại hăm hở đóng thuyền để lao vào cuộc phiêu lưu lênh đênh trùng khơi ác
hiểm mong tái hiện lại bi kịch hùng tráng của chàng; còn nàng Pê-lê-nốp chắc hẳn
phải sửa soạn khăn áo, đóng lại khung cửi sẵn lòng bước vào một sự nghiệp chờ đợi
mới. Con người không sợ đau khổ bởi lẽ con người khao khát sự nghiệp làm người
hơn là hạnh phúc.
Hạnh phúc ư? Nó có thể khiến con người trở nên lười nhác, bại
hoại và ươn hèn. Còn sự nghiệp làm người và bi kịch làm người lại giúp con người
tinh chế chắt lọc chính mình. Con người muốn trở nên thanh tao cao nhã và thông
thái hơn là hạnh phúc. Con người không lẩn trốn đau khổ bởi lẽ:
“Những bi kịch cảm động nổi tiếng đã đóng vai trò thanh lọc
những đam mê” (White Head) (6).
4. Cứu rỗi
Đức Phật Thích Ca cho rằng: “Đau khổ lớn dẫn đến giác ngộ lớn”.
Chúng ta nên viết tiếp câu của Ngài là: Giác ngộ lớn dẫn đến cứu cánh lớn. Theo
Đức Phật thì con người có nhiệm vụ phải chống lại hạnh phúc cũng như đau khổ, bởi
lẽ nếu không chống lại đau khổ con người sẽ rơi vào tuyệt vọng không muốn sống
nữa, còn nếu chỉ đơn thuần khát mãi hạnh phúc con người sẽ trở nên bại hoại,
suy đồi và suy nhược. Theo đó thì con người cần phải hiên ngang đi giữa đau khổ
và hạnh phúc. Chúa Jesus cũng dạy: “Phải bất khuất khi chiến bại, phải khiêm
nhường khi chiến thắng”.
Khi chiến thắng hãy khiêm nhường! Bởi đó là thái độ cao ngạo
của kẻ khiêm tốn muốn bước tới cao hơn trong vinh quang của cuộc đời! Còn thất
bại ư? Có hề hấn gì! Đó mới là thái độ của kẻ can trường chẳng hề biết tuyệt vọng
trong kiếp làm người, và chỉ với thái độ như vậy kẻ đó mới đủ khả năng tái thiết
lại cuộc đời.
Chúng ta đừng có coi những lời dạy của Chúa Jesus hay Phật
Thích Ca là:
Rằng hay thì thật là hay
Ngẫm ra lại thấy xa bay cõi trần
Chúng ta hãy nghe những con người ở thế gian nói về cuộc đời!
Raymond Offner nói: “Đau khổ làm cho con người trở thành khôn ngoan sáng suốt
hơn hạnh phúc”. Nếu bạn muốn phản bác điều đó, bạn hãy ngắm nhìn trí khôn của
những cậu ấm cả thời niên thiếu chỉ quấn váy mẹ mong được nũng nịu, ăn ngon, rồi
lớn lên cậu ta chỉ quấn váy vợ mong hưởng thú điền viên, cơm dẻo canh ngọt và
hơi ấm nữ nhi.
Không! bạn và tôi, chúng ta khát vọng nhìn ra cuộc đời lồng lộng:
có phải thế giới Hy Lạp đã uống lấy nền văn minh Ba-bi-lon nhờ cuộc vượt biển của
A-lec-xan-đơ đại đế! Người Mông Cổ đã mở rộng quan năng thế giới của mình nhờ
những vó ngựa oai hùng ào ạt rong ruổi từ Đông sang Tây! Napoleon đã làm vang
danh nước Pháp bằng cuộc điều binh khắp châu Âu của một lực lượng lục quân hào
hoa quả cảm! Còn những con người phiêu lưu khí phách can trường khác: không có
Ma-gien-lăng thì làm sao con người biết được quả đất hình tròn! Không có Mác-cô
Pô-lô thì thế giới phương Tây vẫn tiếp tục đóng cửa để tự thị về nền văn minh
không có phương Đông của mình! Không có A-mê-ri-cain, không có Cô-lôm-bô thì chắc
gì ngày nay thế giới đã mở sang châu Mỹ!
Gian khổ, bi kịch dường như là mảnh đất gieo cấy niềm vui sống
của con người, bởi ở đó con người được dấn thân, được hành động, và cuối cùng
được tôn vinh chính mình: “Hãy tìm trong nỗi phiền muộn niềm vui sống và lý do
để tôn vinh chính cuộc sống” ( Trouver dans la l’inquietude presente la joie de
vivre et la raison de s’exalter soi-meme) - (Jean T. Desanti).
Vượt lên cả cuộc dấn thân nhằm hoá giải hoặc hoán cải đau khổ,
con người còn chủ động sáng thế ra tiếng cười để quên đi tiếng khóc ngay từ khi
nó mở mắt chào đón bi kịch cuộc đời. Con người đã cười, đã học cười để chống lại
nỗi chua xót thống khổ của định mệnh. Nietzsche kêu: “Tôi phong thánh tiếng cười,
hỡi những con người siêu đẳng hãy học cười”. Và Nietzsche đã tuyên xưng cho
mình một ý chí vượt thoát đau khổ để xây lên một người hùng siêu việt, một con
người vứt bỏ mọi hoạn nạn đau khổ của cuộc đời để cất cánh về siêu việt. Ông
nói: “Đối với tôi điều đáng bận tâm không phải con người đồng loại, con người
nghèo khổ, con người hoạn nạn, hình ảnh mà tôi tha thiết nhất là về một siêu
nhân.”
Đối với Andre Gide thì con người buộc phải là một người hùng
dám ngoi ra khỏi địa ngục đen tối của định mệnh: “Tôi không thể thán phục nhiều
một tâm hồn không bao giờ biết tới xao xuyến bất an; nhưng tôi thán phục hơn hết
kẻ nào chế ngự được nó và tìm thấy lại an bình thăng bằng, bên ngoài cái địa ngục
mà không có gì nơi hắn còn tồn tại ngoại trừ sự thấu hiểu vô cùng tinh tế và vô
cùng phong phú về con người, về những khả năng của con người. Để có thể vẽ thật
khéo cái địa ngục đó, chính mình phải thoát ra cái đã” (7).
Đau khổ là định mệnh không thể tránh khỏi mà theo Charle
Werner thì đau khổ còn chiếm lĩnh vị trí cao quí tất yếu như mẹ đẻ của hạnh
phúc, bởi lẽ chẳng có sự hạ sinh nào không thai nghén trong vận động đau đớn.
Ông nói: “Để đảm bảo cho lạc thú vĩnh cửu của tạo vật... cần xác quyết tính
vĩnh cửu của ý chí sống, sự vĩnh hằng của đau khổ sản sinh sáng tạo, tất cả đều
cần thiết” (Pour assurer le plaisir eternel de la creature... affirmation
eternelle de la volonte de vivre, l’eternite des douleurs de l’enfantement,
sont de toute necessite) (8).
Hạnh phúc của con người là thứ hạnh phúc được hun đúc từ ngọn
lửa sáng tạo, chứ không phải thứ hạnh phúc được an bài. Và sáng tạo là một sự
nghiệp dấn thân cam go của con người chứ không phải một cuộc nghỉ ngơi hoan hỉ.
Con người chấp nhận đau khổ như bà mẹ sung sướng mang thai hạnh
phúc, bởi vậy mà:
Bất chấp cuộc đời là một bi kịch gian nan thống khổ! Bất chấp
cuộc đời là cõi trầm luân chua xót tràn đầy nước mắt! Bất chấp cuộc đời là một
định mệnh ngang trái dày vò cay đắng!
“Bất chấp thời gian chết chóc và mục nát, chúng ta tất cả vẫn
còn đoàn tụ” (Schopenhauer).
Bất chấp mọi đau khổ, bất chấp bi kịch của thân phận làm người,
con người vẫn sống, vẫn còn đoàn tụ! Bởi con người biết tự cứu rỗi lấy mình.
Chú thích:
1- Soạn giả Thích Thiện Hoa “Phật học phổ thông” (PHPT), Nha
tuyên úy Phật giáo 1970, tr.420
2- Lê Thành Trị “Hiện tượng luận về hiện sinh” (HTLHS), Sài
Gòn 1969
3- Emile Brehier “Histoire de la Philosophie” (HdlP), France
1953, tr.99
4- Nguyễn Hữu Hiệu “Con đường sáng tạo” (CĐST), tr.257
5- Nt, tr.258
6- Alfred North White Head “Bước đường phiêu lưu của những
dòng tư tưởng”. Dịch giả: Nam Chi và Từ Huệ, Văn Đàn 1969, tr.334
7- sđ d (CĐST), tr.300
8- F. Tomlin “Les Grands Philosophes de l’Occident”, Payot
Paris 1951, tr.245.
Nguyễn Hoàng Đức
Nguồn: Ý hướng tính văn chương,
NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội 1999
Nguồn: Ý hướng tính văn chương,
NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội 1999
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét