7- ĐIỀN KHẮC KIM
Trong “bảng phong thần” của giang hồ Sài Gòn trước 1975, tên
tuổi Điền Khắc Kim cũng lừng danh không kém gì Đại Cathay, Sơn Đảo, Lâm Chín
ngón, Y Càlết... những hung thần lề phố. Nhưng trước sau gì hắn vẫn là một tên
tướng cướp không giống ai, một “tướng không quân”. Con đường leo lên vị trí đàn
anh của hắn hoàn toàn nằm ngoài quy luật chung của giới giang hồ: không hề gây
bè kết đảng, không xưng hùng xưng bá, không hề tổ chức những cuộc thanh trừng đẫm
máu để tranh giành lãnh địa.
Điền Khắc Kim nổi tiếng vì là tác giả của hàng chục vụ cướp
kinh thiên động địa với giá trị tài sản rất lớn mà nạn nhân tất tật đều là người
Mỹ. Cứ cướp xong là hắn hiếp các nữ nạn nhân, sau đó không quên ghim lại một mảnh
giấy ghi ba chữ: “Điền Khắc Kim”. Đã là tướng cướp thì chuyện vướng vòng lao lý
là lẽ tất nhiên, nhưng với Điền Khắc Kim, nhà tù chỉ là chốn “vui thì ở, buồn
là đi”, bắt hắn chỉ như bắt cóc bỏ đĩa. Tất cả những phi vụ kinh hoàng ấy, Điền
Khắc Kim cũng chỉ đơn thương độc mã thực hiện, không hề có trợ thủ. Vì lý do
này, báo chí Sài Gòn trước năm 1975 mới gán cho hắn biệt danh “Tướng cướp cô
đơn” hoặc “Tướng cướp sôlô”. ít ai biết rằng, bức chân dung kinh khủng ấy lại
được vẽ nên từ những nét cọ đầu tiên là một chuyện tình buồn trên một nền khung
nghèo khó.
Điền Khắc Kim tên thật là Lê Văn Minh, con trai thứ hai trong
một gia đình nheo nhóc có bốn anh chị em ở làng Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. Tuổi
thơ không êm đềm của hắn trôi qua dưới một mái nhà rách nát, lợp bằng những tấm
tôn cũ thủng lỗ chỗ, vách là một hỗn hợp gồm ván ép, mảnh bìa carton, vỏ thùng
phuy cũ và vô số mảnh tôn, thiếc đầu thừa đuôi thẹo khác. Mùa nắng, ngôi nhà
nóng hầm hập. Mùa mưa, nóc dột tứ tung, nền thấp nên nước mưa từ các đường hẻm,
rãnh cứ thi nhau cuốn rác rều ồng ộc tuôn vào nhà. Bốn chị em hắn tha hồ gọi
nhau lội tứ tung, nhặt nhạnh lại những đôi dép đứt, giấy vụn, bao nilon đang nổi
lều bều giữa nhà đã thành một bể nước bẩn và thi nhau chổng mông lên trời khua
xô, thùng tát nước.
Cha mất sớm, toàn bộ gánh nặng mưu sinh đè trĩu lên đôi vai mẹ
hắn. Cứ sáng tinh sương, thằng bé con đen đúa, mắt đầy ghèn lại bị lôi cổ dậy để
ra lò bánh mì lấy những mẻ bánh đầu tiên đi bán bánh mì “chạy”. 8 giờ sáng, quẳng
cái giỏ cần xé đã hết nhẵn, hắn lại lo chạy về phụ giúp mẹ bán bánh mì “nằm”.
Tuổi thơ vất vả và thiếu thốn nên Minh không lớn nổi, người cứ loắt choắt, gầy
và đem nhẻm, có phần nhút nhát vì mặc cảm. Việc học hành của hắn vì thế cũng chẳng
bằng ai, chữ vào tai này lại ra tai kia rồi rụng mất.
Con nít nhà nghèo thế kỷ trước đói ăn nhưng lại dễ no đòn. Mỗi
lần Minh bị đánh, có một con bé hàng xóm lại cạy vách nhìn vào trề môi trêu chọc.
Con bé tên là Diễm, Nguyễn Thị Diễm, nhưng dân trong xóm cứ nôm na hình hài mà
gọi nó là Diễm đèo, cũng như gọi Minh là Minh con bởi cả hai đều gầy quắt như
quả dưa chuột đẹt trồng trên đất cằn bị ong chích. Bị trêu, Minh con tức lắm, rắp
tâm tìm cách trả đũa. Làng Hạnh Thông Tây có nghề làm pháo gia truyền, hầu như
nhà nào cũng có mâm quấn pháo nên quanh năm làng cứ đầy những tiếng đì đùng.
Không có tiền mua, thằng oắt Minh con cứ lăn xả vào dưới những bánh pháo đang
tóe lửa của các đám giỗ chạp, cưới hỏi, xô nhau giành giật với trẻ con hàng xóm
để nhặt pháo lép cất dành, chờ Diễm đèo đi ngang qua đốt ném để “khủng bố”. Ban
đầu, Diễm sợ khóc thét lên. Sau, nó lại ton ton chạy theo Minh nhặt pháo, miệng
cười rổn rảng trong khi mắt nhắm tịt và hai ngón tay thì bịt chặt hai tai. Lâu
dần thành quen, hai quả dưa chuột đẹt bị ong chích phải lòng nhau lúc nào không
biết.
Con gái thường mau lớn hơn con trai. 16 tuổi, Diễm đèo trông
phổng phao hẳn lên, mái tóc đỏ quạch đã mượt ra, nước da cũng trở nên mịn màng
chứ không đen đúa, sần sùi như trước nữa. Đúng thời điểm đó, Mỹ ồ ạt đổ quân
vào miền Nam. Khu vực Hạnh Thông Tây, trại lính, sở Mỹ mọc lên nhan nhản. Trên
các trục đường lộ quanh cái xóm nghèo của Minh con, Diễm đèo, quán rượu, nhà chứa,
snack-bar cũng thi nhau mọc lên để hứng những tháng lương lính và bán đi tất tật
những gì có thể bán. Dù chưa phải thiên nga, Diễm đèo cũng không còn là con vịt
trời xấu xí nữa. Chưa kịp ngỏ lời, Minh con đã phải cay đắng nhìn mối tình đầu
của mình lột xác thành một Hélen Diễm, cô tiếp viên xinh đẹp với váy ngắn cũn cỡn
hằng đêm nằm lọt thỏm trong vòng tay lông lá của những tên lính Mỹ to con gấp
đôi nó trong snack-bar. Minh cũng không khá gì hơn, nó bỏ học, trở thành một thằng
ma cô dắt mối cho gái điếm. Tháng ngày của hắn được nối nhau bằng những trận đập
lộn tóe lửa với đủ loại sắc lính, từ biệt động quân, thủy quân lục chiến, lính
dù đến lính bộ binh - những kẻ thường kéo cả đoàn mò vào xóm Hạnh Thông Tây tìm
gái chơi bời rồi giở trò ăn quịt. Đánh nhau tay không cũng có mà bằng gậy gộc,
gạch đá, dao phay cũng có... Thằng bé hiền lành ngày xưa biến mất, thay vào đó
là một thằng Minh con ma cô lầm lì, bất chấp với một vết sẹo dài cỡ hai lóng
tay vắt qua má trái, một tay đứng bến được cả vùng Hạnh Thông Tây - ngã ba Chú
ía - vành đai sân bay Tân Sơn Nhất nhớ mặt biết tên.
Lì lợm là thế nhưng với Diễm đèo, đúng hơn là với Hélen Diễm,
Minh con vẫn không thể can đảm hơn để nói được một câu tỏ tình đàng hoàng thành
thật. Chỉ duy nhất một lần, tức quá không chịu nổi, Minh con đã chặn Hélen Diễm
khi cô đang cặp kè với một tên lính Mỹ, hỏi dấm dẳn:
- Mấy thằng lông khỉ này có gì hay? Sao cô cứ...
Cơn ghen của nó bị Diễm tàn nhẫn cắt đứt nửa chừng:
- Hỏi dzô duyên. Hổng có gì hay, nhưng tụi nó có tiền!
Rồi cô kéo tên Mỹ trẻ măng đang đứng trố mắt đi một nước, bỏ
lại Minh con đứng trơ như phỗng, ngơ ngác giữa đường.
Khoảng cuối năm 1967, một biến cố nho nhỏ đã xô Minh con ra
khỏi nghề dắt gái ở Hạnh Thông Tây: mẹ hắn lấy chồng. Bố dượng của hắn là một hạ
sĩ quan lái xe người gốc Campuchia nhưng nói tiếng Việt nhuyễn như ăn cháo, tên
là Kalon Rim. Bố dượng cũng cục tính, lầm lì y như thằng con, được cái cũng
không tệ bạc gì với mấy đứa con riêng của vợ nên Minh con chẳng có lý do gì mà
ghét lão. Nhưng chính vì tử tế nên lão đã nhất quyết bắt bốn anh em Minh cải họ
theo mình để mang những cái tên rất Miên mà nó không hề thích, cũng chẳng hiểu
nghĩa là gì. Minh con trở thành Kalon Theo, con Hòa em nó trở thành Kalon Hòa.
Những cái tên có vẻ “cà chớn” khiến thằng ma cô bất mãn. Không nói không rằng,
nó bỏ nhà, bỏ miệt Gò Vấp mò lên sống bụi đời ở trước khu chợ Dân Sinh, quận 1.
Làm đủ thứ nghề, ngày bán báo, đánh giày, đêm ra lề đường Nguyễn Công Trứ thuê
ghế bố ngủ. Không có tiền thì lót báo cũ nằm vạ vật. Chưa hề sung sướng bao giờ
nên kiếp bụi đời, với Minh cũng chẳng có gì là khổ sở.
Trước lúc ra đi, thu hết can đảm, nó mò đến cái snack-bar nơi
Hélen Diểm làm tiếp viên, trong túi là một bánh pháo dài cả thước. Diễm chưa kịp
ngạc nhiên trước sự xuất hiện bất ngờ, Minh con đã lôi bánh pháo ra, cầm trên
tay trần, giơ cao và rút điếu thuốc trên miệng châm vào ngòi pháo. Pháo nổ tung
tóe khiến gái bán bar và khách làng chơi cả Mỹ lẫn Việt được một phen nhốn
nháo. Nhưng Diễm thì không. Không nhắm mắt, không bịt tai cũng không bỏ chạy,
cô cứ đứng ngó trân trân dây pháo nổ điếc màng nhĩ trên tay tên bạn bụi đời.
Viên pháo cuối cùng, Minh con bóp đít búng tung lên trời đúng khi nó vừa phát
ra tiếng nổ. Xong, nó quay lưng đi thẳng, đi một mạch, không hề nói câu nào, bỏ
lại một Hélen Diễm phía sau đang ngây người, nước mắt ròng ròng trước lời tỏ
tình có một không hai của thằng con trai hàng xóm.
Khoảng nửa tháng sau, tháng 4.1968, tình cờ trên mục “đua xe
cán chó” của một vài tờ báo, Minh con đọc được mẩu tin: “Một cô gái điếm cỡ 18
tuổi bị một toán lính Mỹ thay nhau hãm hiếp rồi lột truồng vứt xác ngoài bãi
rác ở Gò Vấp”. Lòng điên dại, hắn vứt xấp báo chạy ngay về Hạnh Thông Tây.
Nhưng đã quá muộn: cỗ quan tài có Hélen Diễm nằm trong đó đã vùi sâu vào đất lạnh!
Mối tình đầu câm lặng kết thúc quá sớm trong bi thảm, hắn nhờ một cô bạn bán
bar cùng với Diễm mua giúp khẩu Colt 45 với mấy kẹp đạn giắt vào bụng rồi lặng
lẽ bỏ đi.
Ba năm liền sau đó, báo chí Sài Gòn thỉnh thoảng lại bị khuấy
động bởi những vụ cướp hết sức kinh hoàng, nghi phạm tỏ ra cực kỳ liều lĩnh,
hung hăng như thể đi cướp để mong được chết, như thể chỉ ngày mai là tận thế. Nạn
nhân của những vụ cướp này đều là người Mỹ. Kẻ cướp, không ai khác chính là Lê
Văn Minh, hắn đi cướp để trả thù.
Giữa tháng 2.1968, cùng một tên du thủ du thực khác là Lê Văn
Hùng, Minh con đột nhập vào nhà một kỹ sư công chánh Mỹ trên đường Trần Quang
Khải, dùng khẩu Colt 45 khống chế bà vợ ông ta cướp đi 5.000 USD và một số nhẫn,
dây chuyền vàng, kim cương trị giá 17 triệu đồng. Đó là một số tài sản kếch xù,
bởi vào thời điểm đó, giá vàng chỉ có 25.000đồng/lượng và 1 USD thì trị giá bằng
10 USD theo giá ngày nay. Nhưng vẫn chưa thỏa mãn, sau khi dồn hết số tài sản của
viên kỹ sư vào bao tải, Minh con còn bắt tên Hùng cảnh giới để hắn lôi bà vợ Mỹ
của ông kỹ sư ra hãm hiếp.
Bảy tháng sau, kịch bản lặp lại nhưng hung thủ chỉ một mình
Minh con. Lần này, tại một cư xá Mỹ trên đường Trần Cao Vân, quận 1, gần hồ Con
Rùa, Minh con lần lượt “viếng thăm” và dọn sạch 3 căn hộ, cướp đi một số tư
trang tiền bạc trị giá 11 triệu đồng. Cả 3 bà vợ Mỹ đều bị hắn giở trò thú vật.
Bảy tháng sau nữa, tháng 5.1969, đến lượt vợ của tay Giám đốc
hãng sản xuất băng đĩa Columbia, nhà riêng ở Xóm Chùa, Bình Thạnh trở thành nạn
nhân của Minh con. Lần này, hắn cướp được khoảng 8 triệu đồng và hơn 2 kg magne
dùng để sản xuất đĩa nhạc.
Cả Sài Gòn nhốn nháo, thất kinh nhưng cảnh sát thì chịu chết,
không tài nào mò nổi tung tích hung thủ, bởi hắn hành động cực kỳ xuất quỷ nhập
thần. Dù không bị nhận diện danh tánh, bóng ma Minh con cũng trở thành nỗi ám ảnh
kinh hoàng của các bà mệnh phụ giàu có có chồng là người Mỹ. An ninh tại nhà
riêng và các cư xá Mỹ được tăng cường tối đa, nhưng nỗi khiếp đảm thì vẫn đeo đẳng.
Đúng lúc đó, tháng 11.1969, Minh con lại đột nhập nhà một gái bán bar hạng sang
lấy chồng Mỹ ở cư xá Đô Thành cướp 6 triệu đồng. Lần này, cô vợ là người Việt
nên Minh con chỉ “đùa bỡn” một chốc rồi bỏ đi, không cưỡng đoạt.
Quá ngạc nhiên trước sự may mắn của mình, nàng kiều “me Mỹ”
đã buột mồm hỏi thằng cướp vừa quay lưng bỏ ra đến cửa:
- Anh tên gì vậy?
Đến lượt thằng cướp ngạc nhiên. Không lẽ xưng tên thật, hắn
bèn xưng đại một cái tên vừa chợt hiện trong đầu:
- Điền Khắc Kim!
Rồi còn cẩn thận viết cái tên này ra giấy ném lại cho cô gái.
Trước khi rút lui, không hiểu sao hắn còn giải thích:
- Cô may mắn đấy. Tôi chỉ trả thù mấy thằng Mỹ chứ không trả
thù người Việt.
Ngay tức khắc, báo chí Sài Gòn lại tranh nhau chạy những hàng
tít giật gân về vụ “cướp nhà người Mỹ”, với đích danh thủ phạm là Điền Khắc
Kim, dù chẳng ai có thể xác định được ai là Điền Khắc Kim giữa thành phố 4 triệu
dân này. Chưa hết, nhiều tờ báo còn nhanh nhảu tự “điều tra”, gán thêm rất nhiều
nguyên nhân ly kỳ rùng rợn, biện minh cho hành động làm nhục nạn nhân của Điền
Khắc Kim ở các vụ trước đó là để “trả thù dân tộc (?!)”.
Sau vụ cướp này, để tránh bị tóm, Điền Khắc Kim đăng ký đi
quân dịch. Với cái tên giả là Lê Minh Hùng, hắn trở thành một binh nhì mang số
quân 71/116964 của Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 48 bộ binh (ngụy). Ba tháng quân trường
vừa kết thúc, máu giang hồ trỗi dậy, hắn lại đào ngũ về Sài Gòn tiếp tục đi ăn
cướp.
Tháng 5.1970, Điền Khắc Kim đột nhập vào nhà một người Mỹ là
Giám đốc Hội cha mẹ nuôi quốc tế trên đường Trần Quí Cáp (nay là Võ Văn Tần).
Đi đêm lắm có ngày gặp ma, trong khi hắn sắp sửa giở trò đồi bại với bà vợ ở
phòng ngủ thì trong phòng tắm, ông giám đốc đã cởi được dây trói chạy thoát ra
ngoài gọi cảnh sát. Hoảng quá, hắn vội bắt cóc bà vợ làm con tin và tẩu thoát
xuống quận 8. Sau khi hành hạ bà đầm chán chê, Điền Khắc Kim đã gọi taxi đưa trả
bà về với ông chồng Mỹ. Vì sự liều lĩnh bỡn cợt này, hắn đã bị cặp vợ chồng Mỹ
kia nhận diện và bị bắt, phải ra tòa lãnh án 20 năm tù.
Vào trại Chí Hòa, họp mặt với toàn những tay anh chị đầu trâu
mặt ngựa, Điền Khắc Kim dù không băng đảng, người không một hình xăm vẫn nghiễm
nhiên được đám tù hình sự xếp vào “chiếu trên”. Sự táo tợn, liều lĩnh và những
cú “trả thù dân tộc” được các báo lá cải khai thác tối đa đã vô tình tạo cho Điền
Khắc Kim một lai lịch đầy ánh hào quang, khiến những tên du thủ du thực phục
lăn phục lóc. Nhờ có sự hỗ trợ của những tên đại bàng cộm cán ở Chí Hòa, Điền
Khắc Kim có đủ tiền để mua được một tờ “giấy đi phép”, tức được phép tự do ra
ngoài 12 hoặc 24 giờ, sau đó về trình diện. Lợi dụng “giấy đi phép”, hắn trốn
luôn. Vừa ra khỏi nhà giam, hắn đã mò vào nhà một tên thiếu tá CIA Mỹ để cướp.
Là một quân nhân quen hoạt động trong bóng tối, tên “xịa” không dễ gì để bị Điền
Khắc Kim bắt nạt, đã kịp thời móc súng chống trả. Đang loay hoay trèo qua ban
công, tính nhảy từ lầu hai xuống đất, Điền Khắc Kim đã bị tên thiếu tá CIA quất
trúng một viên vào bụng, sụm ngay tại chỗ và bị cảnh sát ngụy tóm cổ, đưa vào Tổng
Y viện Cộng Hòa (nay là Quân Y viện 175) chữa trị.
Vết thương vừa tạm bình phục, người còn xanh rớt như tàu lá,
Điền Khắc Kim lại cưa còng trốn thoát. Sau mấy tháng nằm dưỡng thương, hắn lại
lên kế hoạch tấn công một nhà buôn Mỹ trên đường Công Lý (nay là Nguyễn Văn Trỗi),
cướp được 5.000 USD và 20 triệu đồng. Đúng lúc hắn đang hành hạ nữ nạn nhân người
Mỹ xinh đẹp thì ông chồng bà ta trở về. Một cuộc đọ súng đã nổ ra. Trước khi
ngã quị vì đạn khẩu Colt 45 của tên tướng cướp, tay nhà buôn Mỹ cũng đã kịp bấm
cò tặng cho tên tướng cướp một viên vào ổ bụng.
Vết thương quá nặng, Điền Khắc Kim đã không còn cơ hội để trốn
tù. Lần này, vì là một quân nhân, phạm tội khi đang đào ngũ, Điền Khắc Kim đã bị
tống vào quân lao Gia Định, nơi giam giữ toàn những tên du đãng xuất thân từ
lính tráng.
Vào tù, để “giựt le” với đám du đãng đa phần thất học, Điền
Khắc Kim tự khai đã học hết đệ nhị (lớp 11), dù kỳ thực hắn chưa hề học hết
trung học đệ nhất cấp (cấp 2), kiến thức bị gió giang hồ thổi bay gần hết nên
chữ xấu như gà bới. Lờ tịt sự khai man này, chỉ nhằm lợi dụng uy thế của tên cướp
lừng danh để trị bọn tiểu yêu trong quân lao, đám cai ngục ở đây đã phong cho hắn
cái chức “thư ký quân lao”. Dù là tên cướp đang ở tù, hắn vẫn ăn mặc tử tế như
một sinh viên với áo sơmi đóng thùng cẩn thận, trên nắp túi còn giắt thêm một
cây viết paker cho thêm phần trí thức.
Có một điều kỳ quái là, trong giới giang hồ, ngôi vị cao thấp
thật sự chỉ được phân định rạch ròi khi ở... trong tù. Là “thư ký đề lao”, nghiễm
nhiên Điền Khắc Kim trở thành vua một cõi. Đó chính là lúc bản chất lưu manh mạt
hạng của tên tướng cướp bộc lộ đầy đủ nhất. Không có gì để nghi ngờ, việc Điền
Khắc Kim trở thành hung thần, chuyên cướp, hiếp những người Mỹ giàu có khởi nguồn
từ cái chết bi thảm của Hélen Diễm, mục đích chính là để trả thù. Nhưng, đó chỉ
là những vụ đầu tiên, còn sau này, hắn đi cướp chỉ vì một mục đích duy nhất: kiếm
tiền ăn chơi phè phỡn. Diễm đèo chỉ là kỷ niệm thoáng qua, một màn sương mờ cay
nồng khói pháo, một gam màu lạ để Điền Khắc Kim tô vào bức tranh đầy hào quang ảo
cho thêm phần thê thiết. Đích thực, hắn là một tên bệnh hoạn. Mỗi lần cướp về,
hắn thường xổ tung tiền, vàng cho chúng bay vung vãi khắp nhà rồi nằm lăn lộn
trên đó để tìm khoái cảm. Trong tù, bao nhiêu tiền làm luật hoặc do đàn em cống
nộp, Điền Khắc Kim trải đầy ra dưới tấm drapp để “nằm cấn lưng nghe kêu rột rột
đã tai chơi”. Đồng tiền được phong thánh thì nhân cách hóa tên đồ tể. Điền Khắc
Kim không tiếc tay đánh đập đàn em, những tên tù hạng tép riu tứ cố vô thân, để
thị oai và tiêu khiển. Và, khi gặp đúng đối thủ, hắn sẽ phải trả giá cho điều
đó.
Sự buông lơi kỷ luật đã khiến khối hình sự trại giam Chí Hòa
ngày càng trở nên hỗn loạn; đâm chém, thanh trừng nhau diễn ra liên miên. Không
chịu nổi, cuối năm 1974, nhà tù Chí Hòa đã tiến hành một đợt thanh lọc, tống những
tên đầu bò đầu bướu nhất của trại này sang quân lao Gia Định để tiện bề quản
lý, tất cả có 32 tên. Vừa đến nơi ngồi tù mới, những tên cộm cán này đã la ó
vang trời tính chuyện “làm reo”. Là “thư ký đề lao”, Điền Khắc Kim cũng có mặt
trong buổi tiếp nhận những thành viên mới. Muốn thị oai, hắn xông ra quát:
- Muốn làm loạn hả? Không biết ông nội bay đang ở đây sao?
Nổi nóng, Lâm Chín ngón nhảy xổ ra:
- Mày là thằng chó nào?
Điền Khắc Kim tức lắm bảo:
Lời hắn chưa dứt, Lâm Chín ngón đã nhảy xổ tới, một tay kẹp
ngang cổ họng, một tay rút luôn cây paker trên túi áo hắn đâm thẳng xuống đầu kẻ
mạnh mồm. Hung hăng nhưng nhỏ con, Điền Khắc Kim không chọi lại gã hộ pháp Lâm
Chín ngón, cứ quẫy đạp lung tung nhưng vẫn không thoát, lãnh nguyên nhát đâm
vào giữa trán. May cho hắn, đầu bút chọc trúng vết thẹo cũ do đạn của Biệt đội
hình cảnh trước đây tặng. Thẹo trơn, vết đâm chệch đi nên Điền Khắc Kim không
chết nhưng máu cứ tuôn xối xả, đỏ lòm khuôn mặt. Đến lúc đó, Lâm Chín ngón mới
chịu buông tay, vứt “thằng oắt” sang một bên mặc cho hắn kêu la chói lói.
Sau trận đó, Điền Khắc Kim mới hết ngổ ngáo, tỏ ra biết điều
hơn. Tháng 4.1975, sau khi phân loại, Điền Khắc Kim và một loạt tù trọng án tại
quân lao Gia Định bị đổ xuống tàu, tống ra Côn Đảo. Tàu cập bến ngày 22.4.1975
thì 8 ngày sau, Côn Đảo giải phóng. Lợi dụng tình hình lộn xộn, Điền Khắc Kim
và nhiều tên tù hình sự khác đã đánh lính gác, cướp súng chạy thoát ra ngoài.
Vừa được hít thở khí trời, hắn đã lập tức xông vào khu gia
binh, gây liền hai vụ cướp tại nhà hai cảnh sát chế độ cũ. Côn Đảo đã giải
phóng, “thù dân tộc” không còn nhưng trò đồi bại thì vẫn tồn tại, tên súc sinh
đã không quên cưỡng đoạt hai bà vợ lính rồi rút lên núi trốn. Nhưng chỉ ba hôm
sau, hắn đã bị lực lượng quân quản của đảo tóm cổ.
Sau một thời gian thụ hình tại Côn Đảo, Điền Khắc Kim được
chuyển về trại giam Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Tại đây, giữa tháng 5.1978, cùng
với tên Nguyễn Ngọc á - một trí thức ngồi tù vì tội... buôn heo lậu - Điền Khắc
Kim đã cạy vách tôn nhà xí phòng giam trốn trại, sau đó trốn về Sài Gòn, lén
lút trốn tại nhà vợ bé ở đường Hưng Phú, quận 8.
Trước khi trở thành tên cướp lừng danh (1968), Minh con đã lấy
vợ - một phụ nữ bình thường nhà ở đường Tôn Đản, quận 4. Khi vợ sinh con đầu
lòng, gió giang hồ đã cuốn Minh con đi mất, vợ con hầu như chẳng mấy lúc đoái
hoài. Tiền bạc cướp được, hắn chỉ ăn chơi, đập phá cho kỳ hết, chẳng giúp được
gì vợ con. Đã thế, hắn lại còn đeo thói trăng hoa. Năm 1969, trong một lần trốn
sự truy lùng của Biệt đội hình cảnh (ngụy) tại khu vực Bến Tàu, quận 8, hắn
tình cờ gặp chị Phạm Thị Dung. Khuôn mặt ưa nhìn của cô gái bán sương sâm đã
khiến tên cướp sa cơ thoáng chạnh lòng. Ngoắt chị Dung lại, tướng cướp Điền Khắc
Kim gọi một lúc 10 ly sương sâm, ngồi tì tì húp. Xong xuôi, hắn chùi mép, bảo:
- Đói quá, tôi ăn sương sâm trừ cơm. Bữa nay không có tiền,
em cho tôi thiếu, mai mốt muốn bao nhiêu tôi trả bấy nhiêu.
Khuôn mặt hiền lành, khắc khổ, giọng nói có vẻ thành thật khiến
cô gái bán sương sâm nghèo không nỡ làm dữ, chỉ im lặng thở dài và quảy gánh
đi. Độ một tuần sau, khi quay trở lại chỗ cũ chị đã thấy Minh con đứng từ xa toét
miệng cười. Đưa cho chị một xấp tiền dày cộm, hắn bảo:
- Khỏi thối, để đó tôi ăn sương sâm trừ dần.
Rồi hắn lại bắt chị ngồi múc từ từ đủ 10 ly để hắn ngồi nhẩn
nha ăn, vừa ăn vừa nói đủ chuyện huyên thuyên chi địa.
Khi số sương sâm đã đủ với số tiền Minh con đưa thì cũng đủ
thì giờ để cô chủ buông đòn gánh nằm vào lòng hắn. Hắn bảo:
- Anh làm công nhân, nghèo, không có tiền đám cưới, em chịu
không?
Thở dài, chị lại gật đầu. Đã thương rồi thì không đám cưới với
ăn sương sâm thiếu nào có khác gì nhau.
... Ở với nhau được một mặt con, chị Dung mới biết Minh con đã
có vợ có con, nhưng ván đã đóng thuyền, cũng đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Lâu
lâu, hắn tạt về, đưa cho chị một số tiền lớn (vừa cướp được) bảo là mới “trúng
áp phe”, để chị sửa lại cái nhà, sắm thêm cho mẹ, cho con vài ba tấm áo mới, thế
là đủ mãn nguyện để khoe với xóm giềng. Không ngờ, cuối năm đó, sau nhiều tháng
hắn đi biền biệt, Dung mới ngớ ra: Minh con - anh chồng hiền lành tử tế - lại
là Điền Khắc Kim, “tướng cướp cô đơn” khét tiếng. Chị khóc, khóc rất nhiều. Sau
ba bốn bận thăm nuôi, chị đành xem như Minh con đã chết, chỉ câm nín bán sương
sâm nuôi mẹ già và ba đứa con thơ.
Đùng một cái, thằng chồng dối trá quay trở lại. Hung thần với
ai, tướng cướp với ai, chứ với chị, hắn mãi mãi là một “anh Minh”, cha của ba đứa
nhỏ. Khuyên không được, chị cũng không nỡ tố giác chồng, đành nhẫn nhục cưu
mang che giấu Điền Khắc Kim, dù chị biết rất rõ chồng mình là tên tù vượt ngục.
Với Điền Khắc Kim, tấm lòng người vợ chính là nơi trú ẩn cuối cùng. Vợ lớn của
hắn ở đường Tôn Đản, ngay sau khi hắn bị đày ra Côn Đảo đã bán nhà, ôm con đi
biệt xứ, không còn trông mong gì nữa...
ở nhà một thời gian, Điền Khắc Kim mò ra đường Hồ Văn Ngà,
tìm một người bạn gái cũ đang sống lắt lay bằng nghề bán hàng lạc-xoong (đồ cũ)
tính cậy nhờ để tìm sinh kế. Vừa ra đến nơi, hắn đã bị công an phát hiện và bắt
giữ, sau đó bị đưa lên cải tạo tại trại Tống Lê Chân (Sông Bé). Ngồi trại đến
tháng 7.1983, hắn lại trốn. Con thú dữ sổng chuồng ngày càng liều lĩnh và hung
bạo hơn. Vừa đặt chân trở lại Sài Gòn, hắn đã một mình gây hàng loạt vụ cướp mới.
Lần này, đa số nạn nhân của tên cướp hết thời đều là đàn bà, con nít, những kẻ
yếu ớt, cô đơn.
Một lần, vừa cướp được một chiếc xe đạp trên đường Nguyễn Thị
Minh Khai (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) thì hắn bị công an vây bắt. Cùng đường, hắn
kê súng vào bụng anh công an bóp cò nhưng đạn lép, không nổ nên bị tóm tại trận.
Trở vào trại giam, cố hết sức, Điền Khắc Kim vận công, gồng bụng
làm bục vết thương Mỹ bắn ngày nào. Được công an đưa vào Bệnh viện Bình Dân cấp
cứu. 3 giờ sáng, lợi dụng lúc anh công an gác cửa ngủ gục, hắn lại bẻ còng trốn
thoát. Vì vụ đào tẩu này, dư luận Sài Gòn lại có dịp ồn lên.
Trong khi Điền Khắc Kim đang bị truy nã ráo riết thì tại những
quầy sách ở đường Đặng Thị Nhu, quận 1 lại có kẻ táo gan xuất hiện xưng danh hắn.
Ông ta đi tất cả quầy sách, gom hết những cuốn “Bố già” của Mario Puzzo mà
không hề trả tiền. Nghe xưng Điền Khắc Kim, các chủ quầy sách thất kinh, vội đi
báo công an. Bị bắt, gã điên này sửng cồ:
- Để xem Điền Khắc Kim với bố già Victor Don Carléon ai bảnh
hơn ai. Nó ngon, tôi thách nó đấu súng.
Không thể nhốt một gã điên, công an đành phải cho xe chở hắn
về chỗ cũ. Được thả, hắn phản đối quyết liệt:
- Sao không bắt tôi?
Người ta bảo:
- Ông có tội gì mà bắt?
Hắn tỉnh queo:
- Sao không? Điền Khắc Kim là tôi, kẻ cướp, hiếp, bắn lòi ruột
cả chục thằng Mỹ, sao không có tội?
Tiếng tăm đen đúa lẫy lừng là thế nhưng đoạn cuối cuộc đời
ngang dọc, Điền Khắc Kim đã tự biến mình thành một tên lưu manh mạt hạng. Không
còn những vụ đột nhập xuất quỉ nhập thần, không còn các phi vụ rượt đuổi và đấu
súng dữ dội, cũng không vấn vương mùi thuốc pháo đớn đau hay vị ngọt mát lãng mạn
của ly sương sâm bên bến tàu vất vả, cái còn lại của hắn chỉ là những vụ trộm cắp,
cướp giật vặt vãnh của một tên hạ lưu bần tiện. Lần cuối cùng, hắn bị dân phòng
phường 12, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh tóm cổ trong đêm khi đang tẩu tán một
chiếc xe đạp và mớ quần áo cũ do một đàn em là Lê Văn Thanh trộm được ở một căn
nhà bên cầu Rạch Ông, quận 8. Lúc đó là tháng 4.1985. Khi chị Dung dẫn ba đứa
con, đứa lớn 15 tuổi, đứa nhỏ mới lên 3 vào trại giam thăm nuôi, Điền Khắc Kim
đã ngượng ngùng cúi mặt. Và khóc. Hắn biết thời làm gió làm mưa đã hết. Cái tên
Điền Khắc Kim đã vĩnh viễn không còn ám ảnh hay khuấy động được ai nữa.
8- HUỲNH TỲ
Trong quá trình ngoi lên trở thành ông trùm của giới tội phạm
Sài Gòn, Năm Cam đã lần lượt thực hiện các bước núp bóng, lợi dụng rồi hạ bệ
hàng loạt đàn anh lớn nhỏ. Giang hồ sợ nhất Năm Cam ở điểm y không từ bất cứ ai
và sẵn sàng xuống tay cực kỳ tàn bạo để tiêu diệt tất cả những kẻ cản đường hắn,
cho dù người đó từng là chiến hữu, đàn anh hay có tình đệ tử lâu năm ân nghĩa với
y. Ngoài Lâm Chín ngón trở thành tàn phế vì acid, Dung Hà bỏ mạng vì ăn đạn,
trong danh sách giang hồ cộm cán bị Năm Cam “lấy số” còn phải kể thêm Huỳnh Tỳ
- kẻ có thời được giang hồ Sài Gòn xem như nhân vật số 2 chỉ đứng sau Đại
Cathay trong nhóm “Tứ đại giang hồ”.
Lai lịch một danh xưng
Huỳnh Tỳ tên thật là Nguyễn Thuận Lai, sinh năm 1944, hơn Năm
Cam 3 tuổi. Có lẽ anh ta là tay giang hồ “có số má” duy nhất từ nhỏ chí lớn vẫn
không thay đổi chỗ ở, hàng chục năm nay vẫn sống tại nhà số 4/1 Nguyễn Văn
Tráng, quận 1. Tp. Hồ Chí Minh.
Năm 1960, học hết đệ tam (lớp 10) ở trường Nguyễn Bá Tòng,
chú nhóc Nguyễn Thuận Lai nghỉ ngang, theo cha làm lơ xe đò tuyến Sài Gòn - Nha
Trang - Pleiku. Chính nghề lơ xe đường dài đã khiến tên học trò hiền lành nhanh
chóng tiêm nhiễm đủ mọi thói hư tật xấu của đàn ông con trai thời chiến. Đến tuổi
quân dịch, để tránh bị bắt lính, Nguyễn Thuận Lai đổi tên thành Huỳnh Tỳ - một
cái tên gắn chết cả đời với nghiệp chướng giang hồ.
Góc đường Lê Lai, quận 1 có một rạp hát khá nổi tiếng là rạp
Aristo. Năm 1954, gánh hát Kim Chung của ông bầu Long di cư vào Nam,
lấy rạp Aristo làm đại bản doanh. Ăn theo gánh hát, những trục đường như Lê
Lai, Gia Long (nay là Lý Tự Trọng), Nguyễn Văn Tráng... quán ăn, hàng giải khát
nổi lên khá náo nhiệt, đồng thời cũng kéo theo không ít dân trộm cắp, móc túi,
trẻ bán báo, đánh giày qui tụ. Khu vực này lại gần chợ Bến Thành và ga Sài Gòn.
Mỗi lần “móc đổng” (giật đồng hồ), “ăn kẹp” (móc túi) ngoài chợ xong, đám lưu
manh thường chạy ngay về khu Lê Lai để trốn tránh. Tam giác Lê Lai - Nguyễn Văn
Tráng - Gia Long nhanh chóng trở thành một mảnh đất màu mỡ để hứng hàng ăn cắp,
móc túi bán giá rẻ và tổ chức các loại dịch vụ như sòng bài, động chích, tiệm
hút, gái... cho đám cô hồn các đảng này ăn khao bằng tiền trộm cướp. Cùng với
hai tay anh chị khác là Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế, Huỳnh Tỳ với kinh nghiệm
“du thủ du thực” học được trên những chuyến xe đò đường trường đã đứng ra nhận
bảo kê toàn bộ các dịch vụ nhám nhúa này. Thằng lơ xe cục tính nhanh chóng ngoi
lên vị trí ông trùm, sau hàng loạt những vụ chém lộn tưng bừng với các băng đảng
khác. Ngoài Ngô Văn Cái và Ba Thế, dưới trướng Huỳnh Tỳ còn có thêm một loạt
đàn em khác như Cu Ba đen, Tâm vồ, Hùng phốc, Luân sún... Trong gánh hát, bầu
Long cũng thu dụng một loạt tay đao búa từng nổi tiếng một thời tại Hà Nội để
làm chân bảo vệ. Đám này gồm Sinh càn, Phúc đen, Tâm Ba tai... Ngoài giờ bảo vệ,
bọn chúng thường tụ tập tại quán Kiều Chánh cạnh rạp Aristo. Ngứa mắt, Huỳnh Tỳ
và đàn em đã gây nhiều trận đập lộn tóe lửa với đám bảo vệ này. Để yên thân, bầu
Long đã khôn khéo đãi tiệc dàn hòa hai bên, thu dụng luôn cả băng của Huỳnh Tỳ,
chấp nhận đặt các ông tướng gốc Hà Nội vào dưới trướng của y, đồng thời để cho
Huỳnh Tỳ và đàn em ra vào rạp Aristo tùy thích.
Khi quân đã hùng, tướng đã mạnh, nội các tam đầu chế gồm Tỳ,
Cái, Thế thường tụ nhau bia rượu, bài bạc suốt ngày tại rạp hát Aristo cho nên
được giang hồ gọi luôn là băng Aristo để phân biệt với băng Cathay do Lê Văn Đại
cầm đầu có khu vực hoạt động là chợ Cầu Ông Lãnh, cách đó chỉ hơn nửa cây số.
Khoảng năm 1964, nhờ sự liều lĩnh của Đại Cathay, băng Cathay
bắt đầu mạnh lên. Sau khi diệt băng Bé Bún, quận 4, đâm tên này đổ ruột, Đại dần
dần thôn tính được toàn bộ khu Da Heo (đường Nguyễn Công Trứ) của tay anh chị
Tám Lâu, thò tay gom luôn cả sòng bạc hẻm 100 của Bảy Sy (anh rể Năm Cam) rồi
vươn ra thâu tóm luôn cả sòng bạc của Đực Bà Tiều tại Chợ Cầu Muối... trở thành
đại ca có máu mặt nhất của khu vực quận Nhất, quận Nhì và quận Tư. Lo sợ thế lực
của băng Cathay sẽ “nuốt” mất cả khu Lê Lai, Huỳnh Tỳ bàn với hai phó tướng Ngô
Văn Cái và Thế Aristo tìm cách diệt Đại. Rủ thêm Hùng phốc và Luân, hai giang hồ
cộm cán khác, cả băng Aristo bày tiệc trên lầu rạp hát mời Đại Cathay tới giao
lưu. Không mảy may nghi ngờ, Đại Cathay tới ngay. Chưa lên hết cầu thang, Đại
Cathay đã chột dạ: nụ cười đón khách của Thế Aristo đột nhiên thay đổi. Chưa kịp
hỏi, Đại Cathay đã bị Thế đá lộn cổ xuống thang lầu. Cùng một lúc, Tỳ, Cái,
Luân, Hùng bốn kẻ phục kích nhất tề rút dao xông vào chém tới tấp. Vừa đỡ đòn,
vừa tìm đường thoát thân, Đại Cathay lết được ra khỏi tử địa, mình mẩy đầy
thương tích nhưng may mắn thoát chết. Khi những vết thương vừa bắt đầu kéo da
non, Đại Cathay đã giắt dao, đơn thân độc mã đi tìm từng tên một để
trị tội. Huỳnh Tỳ và bốn tên giang hồ đồng mưu lần lượt bị Đại Cathay chém trọng
thương trong cùng một hoàn cảnh, là khi chúng đang ngồi nhậu tại quán Kiều
Chánh. Nhắm thế không chơi lại Lê Văn Đại, cũng không thể “trải đệm” tên này,
vì băng Cathay quá mạnh, Huỳnh Tỳ đành thay mặt cả băng bắn tiếng cầu hòa. Đang
say máu, Đại Cathay không nghe, vẫn tiếp tục tìm cả 5 tên để chém. Hoảng quá, cả
5 tên phải mời bầu Long đứng ra tìm Tám Lâu, đàn anh cũ của Đại Cathay nhờ nói
giúp. Biết tính Đại Cathay, Tám Lâu lại phải cạy cục nhờ hai tay anh chị lừng
danh là Ba Hội và Cảnh Tượng (đều lớn hơn Đại Cathay vài mươi tuổi), bày tiệc tại
quán Biên Thùy ở chợ Cầu Muối mời thằng em đến khuyên giải. Nể tình và nể tuổi
tác, Đại mới nguôi ngoai, chấp nhận cho Huỳnh Tỳ và 4 tên cùng băng đến dập đầu
xin lỗi, để rồi sau đó băng Aristo vĩnh viễn bị xóa sổ, quân tướng đều qui về
dưới quyền sai phái của một đại ca duy nhất là Lê Văn Đại. Cuộc hợp nhất giang
hồ giữa thập kỷ 1960 đã đẻ ra danh xưng “Tứ đại giang hồ” Đại-Tỳ-Cái-Thế, với Đại
Cathay, kẻ không đối thủ đứng đầu và xếp phía sau là ba đối thủ của kẻ... không
đối thủ.
Huỳnh Tỳ bị Năm Cam “lấy số”
Mất ngôi đầu lĩnh, Huỳnh Tỳ tự an ủi mình với danh hảo là nhị
ca trong “tứ đại giang hồ” hay mỹ miều hơn, gọi là “tứ đại Thiên Vương”, cung
cúc phò tá Đại Cathay trong các cuộc thanh trừng theo kiểu xã hội đen. Đáp lại,
y được Đại Cathay giao quyền trông coi một loạt các sòng bài, tiệm hút không chỉ
trong địa bàn khu Lê Lai mà cả địa bàn khu Cầu Muối. Cứ độ 10 giờ sáng, Huỳnh Tỳ
lại có mặt tại các sòng bạc của Đực Bà Tiều và Bảy Sy để thu xâu nộp cho Đại
Cathay nuôi quân. Còn buổi tối, hắn lại diện đồ “kẻng” theo đàn anh vào các vũ
trường tha hồ đập phá. Thời hoàng kim của băng Đại Cathay kéo dài đến tháng
6.1966 thì chấm dứt, khi Đại Cathay bị bắt, băng Cathay tan rã. Vào thời điểm
đó, Năm Cam vẫn chỉ là một tên phá gia chi tử, thường trộm tiền của Bảy Sy ăn
xài vung vít, chưa có tên tuổi, số má gì trên chốn giang hồ.
Sau giải phóng, cả Tỳ, Cái, Thế lẫn Năm Cam và nhiều tên xã hội
đen vằn vện khác đều thay nhau vào tù ra khám. Ra tù, Năm Cam dần dần củng cố
thế lực, ngày một phất lên, đến đầu những năm 1990 đã nghiễm nhiên trở thành
ông trùm của thế giới ngầm. Trong khi đó, hầu hết các “đàn anh” cũ của Năm Cam
đều vì ma túy mà trở thành dặt dẹo. Ngô Văn Cái quyết cai ma túy bằng cách uống
rượu, cuối cùng chết bất đắc kỳ tử vì ung thư gan. Nguyễn Kế Thế không chịu nổi
mối giày vò vì lỡ thời phải ăn bám vợ (vốn là chủ một động tiêm chích), khoảng
năm 1985 đã lặng lẽ bỏ lại toàn bộ tư trang, tài sản và ra miền Trung nương nhờ
cửa Phật, đến nay vẫn không tăm tích. Một cao thủ giang hồ khác là Đức Raymond
không chịu nổi cảnh đói thuốc phải ngửa tay xin tiền bạn bè, chịu sự khinh miệt,
đã tự xử đời mình bằng thuốc độc.
Huỳnh Tỳ vốn cũng nghiện nặng. Sau giải phóng, giang hồ không
còn đất sống, Huỳnh Tỳ thường xuyên đói thuốc vã mồ hôi. Gánh nặng kinh tế gia
đình càng chồng chất thêm khi vợ anh ta mất vào năm 1978, để lại cho Tỳ hai đứa
con nhỏ dại, trai mới 4 tuổi, gái mới 2 tuổi. Không băng nhóm, không nghề ngỗng,
không đủ dũng khí để tự xử như Đức Raymond hay tiếp tục xưng hùng xưng bá như
Lâm Chín ngón, Huỳnh Tỳ phải xoay sang mánh mung cò con, từ xóc bầu cua, tổ chức
đánh chẵn - lẻ đầu hẻm đến bán lẻ, chích dạo ma túy để nuôi con và nuôi thân,
chỉ mong được no cả dạ dày lẫn no óc. Hậu quả là trong vòng 20 năm (1975-1995),
Huỳnh Tỳ phải ra vào trại cải tạo, nhà giam hơn chục bận.
Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, khoảng đầu năm 1992, Huỳnh Tỳ đã
liên kết được với một số tên giang hồ hết thời như Minh ba giá (Lương Văn Lâm),
Trần Thị Ngàn, Minh bu, Lý Đôi, Thành đôla tổ chức được một sòng bạc tại hẻm
98F Lê Lai, gồm cả đánh tài xỉu, chẵn lẻ và xóc đĩa. Chuyện đến tai Năm Cam.
Không kiêng nể xót thương gì các đàn anh thất thế, Năm Cam ra lệnh dẹp ngay. Huỳnh
Tỳ không nghe, vẫn tiếp tục chơi. Ngay lập tức, sòng bạc này liên tục bị Cảnh
sát Hình sự khám xét và giám sát, không con bạc nào dám bén mảng. Biết là Năm
Cam ra tay triệt hạ, Huỳnh Tỳ phải mang lễ vật đến ngọt nhạt năn nỉ, mời Năm
Cam hùn vốn và được ông trùm đồng ý.
Vốn mà Năm Cam góp vào là Thành Chân, tay giang hồ trẻ tuổi
nhưng lão luyện, có đầu óc, được Năm Cam phái đến giám sát, tổ chức sòng. Tên
thứ hai là Lê Thị Điệu, vợ Thọ đại úy, được Năm Cam đặc trách cho phép hành nghề
cầm đồ và cho vay nặng lãi tại sòng. Ngoài phần ăn chia theo tỉ lệ hùn hạp, mỗi
tuần Huỳnh Tỳ phải mang đến nộp cho ông trùm 5 triệu đồng tiền xâu. Kể từ đó,
công việc làm ăn trở nên hanh thông, không bị băng nhóm khác hay công an đến hỏi
thăm nữa. Tự đánh giá cao vai trò của mình, Năm Cam lại bắt Huỳnh Tỳ nộp thêm mỗi
tuần từ 3 - 5 triệu đồng nữa, gọi là “phí ngoại giao”, để ông trùm “hương hoa”
cho “người nhà nước”. Dù biết tỏng đây là trò ăn chặn, tiền đưa ra chỉ chảy vào
túi tham của Năm Cam, Huỳnh Tỳ vẫn phải cay đắng mở rộng hầu bao, không dám hó
hé. Mối quan hệ hùn hạp này kéo dài từ đầu tháng 7 đến tháng 12.1992 thì chấm dứt.
Thời điểm này, tên tuổi của Năm Cam bị khui ra trên một tờ báo. Cho rằng ông
trùm sắp bị bắt, nghĩa là sẽ quay về vị trí thằng nhãi, chẳng việc quái gì phải
sợ, Huỳnh Tỳ bèn ngưng không cúng nộp tiền xâu và chuẩn bị trục xuất đám đàn em
Năm Cam. Sự “dại dột” lập tức được trả giá: Ngày 6.1.1993, sòng bạc hẻm 98F bị
công an bắt quả tang, hơn 10 “nhân viên” của sòng phải tra tay vào còng, xộ
khám.
Vụ bố ráp này Huỳnh Tỳ may mắn cùng với Minh ba giá thoát được,
nhưng anh ta hiểu ngay đó là đòn trừng phạt của Năm Cam. Rất dễ hiểu, những kẻ
bị bắt đều là chiến hữu của Huỳnh Tỳ, còn những đàn em của Năm Cam phái đến hoặc
tin cậy như Thành Chân, Minh bu, Lý Đôi, thị Điệu thì không một ai bị tóm.
Bị truy nã, Huỳnh Tỳ không còn con đường nào khác, lại phải
đi “bằng đầu gối” đến tạ tội và cầu cạnh Năm Cam. “Ông trùm” lại gia ân, phái
đàn anh đi tổ chức các sòng bạc khác ở quận 4, quận 8 và Biên Hòa. Để tỏ lòng
trung thành, Huỳnh Tỳ đã “đau xót” tiếp tay cho Năm Cam trừng phạt dằn mặt một
“giang hồ cầm bút” thường ký tên T.
Trước giải phóng, T. là một cây bút phóng sự có hạng, chuyên
khai thác đề tài xã hội đen. Giang hồ Sài Gòn rất kiêng ký giả này vì anh ta rất
giỏi võ, từng là một đai đen nhị đẳng Taekwondo, sau giải phóng lại trở thành đệ
tử chân truyền đời thứ 7 của võ phái Vịnh Xuân nổi tiếng. Tật xấu của anh ta là
nghiện thuốc phiện, cho nên không tờ báo nào nhận T., ngay cả đại sư Nam Anh -
Chưởng môn phái Vịnh Xuân - cũng phải trục xuất võ sĩ tài năng này ra khỏi võ
đường. Để kiếm sống T. phải cộng tác với khá nhiều tờ báo, với sở trường là những
phóng sự nóng bỏng về cuộc sống và mánh lới giang hồ. Anh ta là nhà báo đầu
tiên ném tên tuổi Năm Cam lên mặt báo. Găm hận vào lòng, Năm Cam rắp tâm dằn mặt
T. để trả đũa. Giữa năm 1995, khi ký giả T. đang phê thuốc phiện tại một động
hút của Huỳnh Tỳ ở đường Lê Lai thì công an ập vào. Bị bắt quả tang, T. đành
khăn gói vào trại, bị cai nghiện bắt buộc. Khi nồng độ ma túy trong máu anh ta
đã loãng thì Năm Cam bất ngờ ghé thăm. “Trời đất, chỗ anh em không, sao lại ra
nông nỗi này. Để tôi nói với mấy ảnh một tiếng”. Chả biết Năm Cam nói với ai,
nói kiểu gì, nhưng chỉ vài giờ sau chuyến thăm viếng bất thường, T. đã được
phóng thích. Biết mình không phải đối thủ của Năm Cam, lại xấu hổ với đồng nghiệp
nghề báo, ký giả T. sau chuyến ấy đã vĩnh viễn gác bút, chấm dứt một cái tên
khá lừng lẫy cả trên mặt báo lẫn chốn giang hồ.
Sau vụ giúp Năm Cam dằn mặt ký giả, Huỳnh Tỳ còn tiếp tục phò
tá con cáo già một thời gian, được Năm Cam trả công nên không bị bắt, dù đang
có lệnh truy nã. Tháng 9.1995, tội lỗi của Năm Cam lại bị báo chí phanh phui,
Huỳnh Tỳ lại trở mặt không nộp xâu nữa. Không lâu sau đó, Năm Cam bị bắt đi cải
tạo. Không còn ai bảo kê, ngày 31.10.1995, Huỳnh Tỳ cũng bị tóm cổ và ra tòa
lãnh án.
Sau này, khi cả Năm Cam lẫn Huỳnh Tỳ đều đã được trả tự do,
Năm Cam đã “cạch” không cho tên đàn anh này bén mảng đến sòng bài của y nữa. Bị
thất sủng, song với “nhị ca mất số”, đó lại là điều may, bởi chính vì “mất số”
nên anh ta mới không trở thành bị cáo một lần nữa trong chuyên án “Năm Cam và đồng
bọn”. Đó là điều an ủi cuối cùng của Huỳnh Tỳ, kẻ đã từng là một nhị ca lẫy lừng
trở thành một giang hồ dặt dẹo bị chính giang hồ coi rẻ.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 3.2002
9- LÊ VĂN TUỆ
Bây giờ, hắn là ông chủ nhỏ của một gia đình, có một vợ một
con, một ngôi nhà nhỏ mọc giữa khoảng vườn thưa đầy lá rụng. Từ sáng đến tối, hắn
cần mẫn úp mặt xuống đáy sông Tiên (xã Tiên Lộc, Tiên Phước, Quảng Nam) đãi sỏi
bán cho dân thầu xây dựng, kiếm từng 10 ngàn đồng một để nuôi vợ nuôi con. Những
người quen trong xóm đi qua, nhìn cái dáng lụi cụi, vất vả và cam chịu của hắn
chỉ lặng lẽ thở dài. Đám trai tráng ria mép chưa kịp cứng thì tròn mắt ngạc
nhiên. Không hiểu nổi có thật là hắn - đại ca Lê Văn Tuệ khét tiếng, kẻ từng
dám tiêu hoang cho đến hết một lúc hàng trăm cây vàng, kẻ đã từng là nỗi khiếp
hãi của cư dân bất hợp pháp vùng vàng Phước Sơn - đấy không? Ai tròn mắt, ai ngạc
nhiên... cứ việc. Với Tuệ, tất cả đã thành quá vãng. Cái thời “thò tay vào túi
là đụng phải vàng” ấy đã qua rồi, qua mà không có gì đáng để nuối tiếc, bởi đó
là đoạn đường đầy những máu hận thù và nước mắt tủi nhục...
Hơn 18 năm trước, Lê Văn Tuệ chỉ là một thằng bé con nhà
nghèo, đến lớp với hai chân hai chiếc dép khác màu. Năm 1986, học hết lớp 12,
chán cái cảnh đến lớp với cái bụng lúc nào cũng óc a óc ách vì... đói, Tuệ xếp
sách vào bao tải treo lên xà nhà, theo bạn bè đi đãi vàng sa khoáng ở Trà Giốc,
Trà My, le lói trong lòng một khát vọng đổi đời. Nhưng vàng đâu không thấy, chỉ
thấy vàng hai con mắt. Sốt rét rừng quật ngã gục giấc mơ hiền lành của thằng
trai 16 tuổi. Tỉnh cơn nóng lạnh, Tuệ cùng đám bạn lại lo... chạy, vì bị công
an truy quét liên tục. Túng quá hóa liều, nhóm của Tuệ bàn nhau đi “chấn”.
Tháng 2.1992, Tuệ tham gia phi vụ “ăn bay” đầu tiên, chấn được 2,6 cây vàng bổi.
Số tiền này, cả bọn không thằng nào dám tiêu, chúng đầu tư hết vào mua máy,
máng xay vàng tại bãi Tiên Hiệp, Tiên Phước. Không chút kinh nghiệm, chỉ ít
ngày sau, số vàng cướp được đã bốc hơi theo khói máy dầu. Chán nản, cả bọn dàn
cảnh đánh nhau để có cớ rã đám. 12 triệu đồng bán máy được chia đều cho 7 thằng,
mỗi thằng lận lưng một ít và chia tay nhau. Từ đó, Tuệ bắt đầu một đoạn đời
kinh khủng mà dẫu có muốn cũng không quên được.
Ngày 18.3.1992, Tuệ ném mình vào giữa bãi đá Saphre Trường
Xuân (Đắc Nông - Đắc Lắc). Bãi vàng hay bãi đá quí thì cũng như nhau, đều là
nơi bạo lực đồng nghĩa với quyền lực. Đúng hôm Tuệ mò lên thì máng đãi của sáu
thằng oắt con cùng quê Nông Cống, Thanh Hóa vào cầu, nhặt được dăm bảy viên đá
“lốt” (deluxe). Lập tức, chiến tranh hầm hố xảy ra. Sáu thằng bé con bị một đám
dân anh chị trong bãi tấn công, đòi giao nộp chiến lợi phẩm. “Kiến nghĩa bất vi
vô dõng dã”, Tuệ tự động xắn tay áo xông vào trợ chiến. Thấy có người giúp, bọn
nhóc trở nên can đảm hẳn lên, lăn xả vào trận, đánh cho đám gây hấn tan tác. Để
trả nghĩa, chúng nằng nặc mời cao thủ Lê Văn Tuệ “ở lại với anh em”. Chưa biết
đi đâu, tiền mang theo cũng đã cạn kiệt, Tuệ gật đầu ở lại làm “đấng chăn dắt”
đám trẻ con thừa máu liều nhưng thiếu kinh nghiệm và cô thân cô thế. Việc của
Tuệ không phải là nai lưng ra đào đãi mà là “bảo kê”, đứng ra dàn xếp những mối
bất hòa, thậm chí sẵn sàng động chân động tay khi có kẻ mò đến đòi tiền bãi hay
cướp phá. Nghề này Tuệ khá thạo, nhờ vào chút vốn “võ vườn” học được từ những
năm còn bé. Buổi tối, bọn trẻ lại vây tròn quanh Tuệ để đại ca chỉ vẽ cho vài
thế võ phòng thân.
Rừng không hai cọp, đám anh chị trong bãi Saphre cay lắm, quyết
tâm phục kích nhổ bỏ cái gai trong mắt. Biết nguy hiểm đang rình rập, một hôm
Tuệ bảo đám em út đưa cho mình ít tiền và mò vào thị trấn Gia Nghĩa (Đắc Nông).
ở đó, Tuệ không mua sắm gì, chỉ ghé vào một tiệm tạp hóa và một tiệm hàn, ăn một
tô phở rồi về. Trong túi áo Tuệ có thêm một thứ “đồ chơi” lạ mắt: một sợi dây
mì đàn ghi ta, một đầu có gắn một cục chì nặng, đầu kia buộc chết vào một chiếc
vòng sắt, nắm vừa lọt tay, được ông chủ tiệm hàn chế theo thiết kế của chính Tuệ.
Biết chắc trận địa phục kích đang đợi mình, Lê Văn Tuệ nấn ná
mãi đến 2 giờ sáng mới quay vào bãi. Vừa qua khỏi cầu ván thứ nhất, hơn chục thằng
cô hồn đã bu lấy Tuệ với đủ thứ đồ chơi, từ cuốc, xà beng đến côn nhị khúc. Nắm
chắc chiếc vòng sắt, Tuệ múa tít sợi dây đàn. Đêm đen như mực, “địch quân”
không hề phát hiện được “đồ chơi” của Tuệ là thứ gì, chỉ nghe tiếng gió rít vù
vù, nhanh như chớp, và tiếng cục chì quật vào đầu, vào lưng lốp bốp. Trận phục
kích chỉ kéo dài chừng dăm phút, hơn chục tên lót ổ đã thất kinh bỏ chạy, sau
khi đã lãnh hàng chục vết thương. Tuệ không đuổi theo, đúng hơn là không dám đuổi
theo, chỉ vội vã thu sợi dây đàn vào tay và bỏ chạy về lán, giấu kín nó vào người.
“Vũ khí bí mật” của Tuệ đã nhanh chóng tạo nên nỗi khiếp hãi
cho đám dân anh chị vùng bãi đá. Chưa phát hiện được đích thực loại vũ khí mới,
đám cô hồn không dám mạo hiểm tấn công, chỉ lặng lẽ lủi đi, tránh không để Tuệ
gặp mặt. Nghiễm nhiên, Lê Văn Tuệ trở thành một đại ca đáng kiêng dè trong mỏ
đá, thỉnh thoảng lại được những lán vào cầu đem lễ vật đến biếu xén, cống nộp để
mong “được che chở”.
Được yên ổn, sự kính trọng của đám trẻ con Nông Cống dành cho
Tuệ đã trở thành nỗi tôn sùng. Gom hết 13 cây vàng bán đá, chúng giao hết cho
Tuệ, nằng nặc yêu cầu Tuệ đi “tầm sư học đạo” để về lãnh đạo chúng lập băng,
nói trắng ra là đi học nghề... ăn cướp. Những thắng lợi đầu tiên nhờ máu liều
và chút khôn vặt đã đun sôi máu phiêu lưu trong huyết quản Lê Văn Tuệ. Dù không
biết sẽ phải đi đâu, học cái gì, Tuệ vẫn không thể phụ lòng đám trẻ con, đành
im lặng gật đầu và cất gói vàng vào túi. Sau gần một tháng lang thang khắp Tp.
Hồ Chí Minh, rồi Sông Bé, Tây Ninh dò hỏi qua đủ loại xe ôm, dân anh chị bến
bãi, cả bọn cô hồn đủ mọi xó xỉnh, cuối cùng Tuệ cũng tìm được một chốn có một
không hai trên trái đất này, nôm na gọi là “Trường dạy nghề ăn cướp”. Từ nhà
máy đường Cu Ba (Tây Ninh) đi thêm khoảng 250 mét có một con đường nhỏ (nay đã
là một xa lộ rộng thênh thang dài gần 50 km) dẫn vào xứ Cà Tum, sát với biên giới
Việt Nam - Campuchia, một vùng đất trồng nhiều cây ăn trái và hoa cảnh. ở đó,
có một tướng cướp đã “về hưu” tên là Mai Sơn Lộc.
Trước giải phóng, Mai Sơn Lộc là một tướng cướp chuyên “ăn
bay” hàng PX (hàng quân tiếp vụ của Mỹ) trên xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa. Cưỡi
trên Honda đời 67 hoặc 72 xoáy nòng, Mai Sơn Lộc và đồng bọn thường lao theo những
chiếc GMC chở hàng quân tiếp vụ, sau đó nghiêng xe, tăng tốc chui tọt qua gầm
xe GMC, bất ngờ mọc lên trước mũi xe hàng, rút súng, khống chế tài xế và cướp
hàng. Sự táo tợn, trình độ đi xe máy thượng thừa của các “quái bay” này đã trở
thành nỗi ám ảnh kinh hoàng trên xa lộ một thời của các chú lính hậu cần cả ngụy
lẫn Mỹ... Sau giải phóng, nghề “quái bay” không còn đất sống, Mai Sơn Lộc “đê đầu
qui cố hương” và chẳng hiểu ma nào dẫn lối, đã tự biến cái thẻo rẫy khuất nẻo của
mình thành một trường đào tạo quái nhất thế gian. Khi Tuệ đến “bái sư nhập
môn”, trường học quái đản này đã nhận trước một học trò tên là Hoàng Quốc Anh,
quê ở Tam Kỳ, Quảng Nam.
Sau sáu tháng miệt mài, “lão hắc đạo” xuất thân là lính Liên
đoàn 6 Biệt động quân (đóng tại Tam Hiệp, Đồng Nai) đã dạy cho hai tên học trò
đủ mọi cao chiêu của nghề cường đạo. Về lý thuyết, bài học sâu sắc nhất Tuệ thọ
giáo được là “tuyệt đối không dùng súng xã hội chủ nghĩa. Lý do, mọi khẩu súng
xã hội chủ nghĩa đều có số, chỉ cần giám định vỏ đạn, tông tích khẩu súng có thể
bị lần ra ngay”. Về thực hành, Mai Sơn Lộc truyền cho hai tên đồ đệ đủ thứ tuyệt
kỹ, từ cận chiến tay không đến cách sử dụng đủ loại hung khí. Thêm vào đó, vì đặc
trưng của nghề ăn cướp là luôn luôn phải chạy trốn vì bị săn đuổi nên Mai Sơn Lộc
đã bỏ rất nhiều thời gian bắt hai thằng học trò học làu làu hai thứ: kỹ thuật tự
cứu thương (dao đâm, đạn bắn) và kỹ thuật đi xe máy trên mọi địa hình. Giáo cụ
cho môn học thứ hai là 200 mét đường ray được lắp sẵn trong vườn và chiếc Honda
67 cũ mèm ông thầy dựng bên vách chòi rẫy.
Ngày “hạ sơn”, mọi môn học Lê Văn Tuệ đều xuất sắc hơn hẳn Quốc
Anh nhưng đành chào thua bạn đồng môn cái món đi xe 67 một lèo với tốc độ cao hết
200 mét đường ray mà không hề trật bánh. Khoản này, Tuệ không làm nổi.
Kết quả là 13 cây vàng mà Tuệ mang theo đã chuyển sang túi
ông thầy. Sau đó, hai trò một thầy, đường ai nấy đi. Giang hồ là thế, quan hệ
duy nhất chỉ một chữ tiền, mọi khái niệm lễ nghĩa, tình cảm chỉ là mơ hồ và xa
xỉ.
Trở lại bãi đá Saphre, lang thang tìm đỏ con mắt suốt một tuần
vẫn không lần ra tông tích sáu “thằng em” Nông Cống là Phúc, Hiền, Ngọc, Thảo,
Thắng, Hùng, Lê Văn Tuệ đành “dặt dẹo” (xin đểu) ít tiền rồi tìm đường về quê.
Trong thâm tâm, thời điểm đó Tuệ cũng không mong gì chuyện gắn bó với kiếp
giang hồ.
Ba năm sau đó, những kiến thức giang hồ tưởng chừng như rơi rụng
hết khi Lê Văn Tuệ cứ suốt ngày rị mọ với nghề khoan giếng để kiếm cơm. Lúc
này, nghề khoan giếng đang vào cầu, tay nghề cũng khá nên từ Lăng Cô vào đến tận
Chu Lai rồi lên Quế Sơn, ở đâu Tuệ cũng có mối mang săn đón. Ngoài cơm rượu đãi
đằng, một ngày lao động cật lực cũng giúp Tuệ đút túi vài ba chỉ vàng không mấy
khó.
Tình cờ, trong một lần nghỉ lại tại khách sạn Tam Kỳ, Tuệ gặp
lại Quốc Anh. Kéo bạn vào quán, gọi rượu Tây uống say túy lúy, Quốc Anh mở
samsonite và khoe với bạn những bó tiền đô. Hắn bảo:
- Nếu theo tao, chỉ cần ba tháng, mày thừa sức kiếm gấp đôi số
này.
Tuệ hỏi:
- Làm gì?
Quốc Anh đáp:
- Sang K (Campuchia), đi cướp đá quí dọc đường biên giới Thái
Lan - Campuchia ở Pailin.
Lần đó, Tuệ lắc đầu.
Không lâu sau đó, nghề khoan giếng bắt đầu tụt dốc thê thảm
vì có quá nhiều kẻ cạnh tranh. Đang lúc chán nản thì Quyền Đê, một tay anh chị
bãi vàng quê gốc Kim Sơn, Ninh Bình gặp và rủ rê. Lẽ ra, Tuệ đã không đi, Quyền
gãi tai than thở:
- Mấy thằng em trên bãi bị ức hiếp quá!
Nghe thế, hắn bắt đầu nóng lỗ tai, gật đầu ngay. Vậy là, ngày
5.5.1994, Tuệ lại lóc cóc tìm đường lần lên bãi vàng Phước Sơn, hành lý mang
theo là một bình xịt hơi cay năm tác dụng do Quyền Đê trang bị. Chiếc bình xịt
này, trên thị trường có giá 8,3 cây vàng.
Ngay trong đêm đầu tiên có mặt tại bãi vàng Phước Thành (Phước
Sơn), Tuệ đã cầm đầu mười tên thợ gốc Bắc xông vào tấn công một số lán trại của
bọn anh chị hiềm khích, vừa đánh vừa cướp lại tất cả những gì bọn chúng bị tước
mất. Công an xã xuất hiện, Tuệ tấn công luôn cả công an rồi rút lui, sau khi nhận
từ đám này một mớ tiền công trị giá gần chục cây vàng. Rút lên bãi Trà Ven (Trà
My) đúng lúc bãi này đang ăn nên làm ra, Tuệ kiếm vàng dễ như bỡn. 11 ngày chặn
đường, dặt dẹo của các lán vào cầu, khi đem ra chia, phần Tuệ được 63 cây vàng.
Có tiền cũng là lúc con thú hoang trong lòng Tuệ nổi lên. Hắn
lao vào ăn chơi, đập phá, hút chích. Ngày đi chấn, tối đánh bạc và hút thuốc
phiện, hắn không hề lo lắng đến tương lai. Tình cờ, một đại ca ở bãi tên là
Chung bị đánh lén, Tuệ nhảy vào giải thoát, từ đó thành quen. Hai tên giang hồ
kết nhau, hùn lại hơn 100 cây vàng rủ nhau về Hà Nội, quê Chung, ăn chơi đập
phá cho đến đồng bạc cuối cùng.
Khi tiền sắp cạn, Chung bảo:
- Tao đã từng đi phụ hồ nhiều năm ở K biết nhiều nhà giàu lắm.
Hay tao với mày sang K, đi cướp cho... vui?
Không cần suy nghĩ, Tuệ gật đầu ngay, định bụng sang
Campuchia sẽ tìm lại Quốc Anh, lập băng nhóm hoành hành bá đạo. Nhưng, lang thang
mãi vùng đường biên Pailin cả tháng trời vẫn không gặp được Quốc Anh, Tuệ và
Chung đành lộn xuống Pursat cướp hàng lậu. Dặt dẹo nghề này không khá, phải
mang vác nặng, đụng độ nhiều mà chẳng kiếm được bao nhiêu, hai tên đâm nản.
Chúng quay về Nam Vang, nhờ một tên giang hồ gốc Kiên Giang tiến cử vào làm bảo
kê cho một nhà hàng của người Việt ở khu cầu hai tầng. Làm được 1 tháng 17
ngày, Tuệ thấy nhục quá, vì thực chất, chúng đang tự biến mình thành những tên
ma cô mạt hạng, ăn chặn, bớt xén mớ tiền còm cõi của các cô gái làm tiền. Hắn gọi
chủ quán đến, bảo:
- Ăn tiền của gái chướng lắm, tôi có ăn thì phải ăn tiền của
chủ. Đưa đây một mớ để tôi về quê!
Khi nói câu này, mặt Tuệ đằng đằng sát khí, như thể sắp sửa đốt
nhà. Hoảng quá, chủ quán đành lòi ra một cục tiền để tống tiễn Tuệ đi. Chung
không chịu về, bằng lòng ở lại Nam Vang làm nghề chăn gái.
Ngày 2.9.1995, Tuệ về đến Đà Nẵng. Lẽ ra, đoạn giang hồ đã chấm
dứt nhưng vì trong túi chẳng còn một đồng nên Tuệ không thể. Năn nỉ thế nào,
tên lơ xe đò cũng không chịu cho Tuệ đi nhờ xe về Tiên Phước, tiền trả sau. Tuệ
thấy nhục quá bèn thề độc:
- Phải kiếm đủ 100 cây vàng, sau đó quay lại tìm tên lơ xe,
đãi nó một trận và đánh nó một trận, rồi rửa tay gác kiếm.
Nói là làm, Tuệ gọi xe ôm tiến thẳng lên bãi Trà Văn. Như con
thú hoang, hắn lao vào cướp lán, bãi như điên để nhanh chóng kiếm cho đủ 100
cây vàng. Gặp máng cướp máng, gặp bãi bật bãi, máng bãi không ăn thua thì cướp
của dân buôn. Khi kẹt quá, hắn cướp luôn cả đồ nghề của thợ, làm vàng giả và...
bán.
Trong túi hắn, đã có lúc rủng rỉnh một lúc mấy trăm cây vàng.
Không gì đáng ngờ bằng lời thề của thằng nghiện. Có tiền, Tuệ
lại ăn, lại hút, lại quên mất ý niệm hoàn lương.
Chẳng bao lâu sau, hắn nổi tiếng như cồn, ân oán đầy rẫy rắc
khắp vùng vàng rộng lớn và liên tục bị cả công an lẫn giang hồ truy đuổi.
Vừa cướp, vừa chạy trốn, đến tết năm 1996, Tuệ cùng đường.
Khi lọt vào bãi thôn 3 xã Phước Thành thì mụn độc phát lan ăn loét bàn chân, Tuệ
không đi nổi nữa. Đúng lúc đó, hắn gặp cố nhân: Bùi Đình Chuẩn. Trước đây, bị
Tuệ cướp lán nhiều lần, Hiệp, quê người Nghệ An đã từng thuê Chuẩn thanh toán
Tuệ. Với vũ khí lợi hại là sợi dây contermette đúc chì, Tuệ đã đánh cho tám tên
đàn em của Chuẩn chạy tan tác, sau đó vào phá tan hoang lán của Hiệp, bắt cả Hiệp
và Chuẩn quỳ gối liếm... gót giày xin tha.
Lẽ ra, khi Tuệ đã thân tàn ma dại, Chuẩn đã có thể tính sổ lại
món nợ ân oán cũ. Khổ nỗi, lúc này Chuẩn còn tệ mạt hơn, nghiện oặt xà lai gần
như không đi đứng nổi. Do đó, thay vì tấn công rửa nhục, Chuẩn lại nhìn thấy cơ
hội mượn Tuệ để lợi dụng, nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Vậy là, Chuẩn đem hết những
chiến tích thư hùng của Tuệ ra kể cho đám Đỗ Duy Lệ, Hòa lai... nghe. Biết Lê
Văn Tuệ là tay hung thần, Lệ đổi ngay nét mặt khinh bỉ ra thái độ niềm nở mời
chào. Hàng ngày, Lệ sai đàn em cõng Tuệ đi chơi khắp đầu non cuối bãi, tối về hết
lòng lo phục dịch rượu bia và chạy chữa vết thương. Thật ra, Lệ chẳng tốt lành
gì (sau này Đỗ Duy Lệ bị bắt, tử hình vì tội tổ chức giết người, cướp máng), hắn
chỉ cốt lấy lòng, nuôi Tuệ khỏe để nhờ Tuệ đứng ra làm đầu lĩnh tiến công hạ đối
thủ truyền kiếp là tên Điều “tóc lai”, quê ở Đền Hùng, Phú Thọ. Tuệ biết hết.
Khi bệnh tình khỏi hẳn, hắn gọi Đỗ Duy Lệ lại bảo:
- Tao từ nhỏ cho tới lớn có ăn cướp cũng cướp một mình, không
quen băng nhóm. Tụi mày định mượn tay tao giết thằng Điều, tao sẽ không làm vì
với nó, tao không thù oán. Nhưng công phục vụ của bọn mày, tao cũng không quịt.
Để trả, tao sẽ đi dặt dẹo ba ngày, được bao nhiêu tụi mày lấy bấy nhiêu, sau đó
đường ai nấy đi.
Nói là làm, Tuệ ở lại đến hết Tết, cướp thêm một mớ rồi quyết
tâm về Đà Nẵng cai nghiện. Hắn đã quá ngán ngẩm kiếp giang hồ phù hoa, tiền
tiêu như nước nhưng đầy điếm nhục.
Nhưng trời ạ, chốn giang hồ đầy gió tanh mưa máu, bước vào
thì dễ nhưng làm gì có đường lui. Đã quá nổi tiếng, dù trốn góc nào, Tuệ cũng bị
những tên em út lần ra và chèo kéo. Tuệ tự huyễn hoặc mình bằng hình ảnh một
tay nghĩa hiệp, chưa thể buông đao thờ Phật vì bọn đàn em còn bị ức hiếp ở bãi
vàng. Vậy là, vừa cắt cơn nghiện, hắn lại mò vào bãi, lại đánh người cướp của,
lại nghiện oặt xà lai và lại đi cai. Một lần, hai lần, rồi... mười lần. Nghiệp
chướng giang hồ không buông tha Tuệ mà Tuệ thì cũng không đủ dũng khí để đoạn
tuyệt hoàn toàn. Nếu chịu dừng đúng lúc, hẳn Tuệ đã giàu lắm. Đầu năm 1998,
trong khi tọ mọ một hầm vàng của dân Đại Lộc bỏ hoang, cả nhóm của Tuệ đã vơ được
2,3 kg vàng 9999, chỉ sau hai ngày ba đêm làm cật lực. Ngày 14.1.1998, mang
theo số vàng, Tuệ dẫn cả bọn về Đà Nẵng ăn chơi đập phá và đánh bạc. Chỉ sau bốn
ngày, toàn bộ số vàng này đã tan thành mây khói. Một mình Tuệ quay lại bãi làm
tiếp, mót được 21 triệu đồng. Số tiền này cũng chỉ đủ để hắn trả tiền xe ôm và
tiền một đĩa cơm, còn bao nhiêu lại dốc cạn vào một đêm cá độ bóng đá. Như con
thiêu thân lao vào chỗ chết cháy, Tuệ tự đề ra khẩu hiệu cho cả bọn:
- Đã chơi là phải dốc cạn đồng bạc cuối cùng. Tiêu không được
tiếc.
Giai đoạn hoàng kim nhất của nghề dặt dẹo bãi vàng là nguyên
cả mùa khô năm 1998. Năm ấy, bãi vàng Phước Sơn trúng lớn và trúng rộng khắp
cho nên những tay đại ca danh tiếng như Lê Văn Tuệ không cần làm gì cũng dư giả
tiền tiêu. Vừa vào lại bãi thôn 3, Tuệ đã chạm trán ngay với Điều, kẻ được Tuệ
từ chối tấn công đánh cướp ngày nào. Đang lúc trúng quả nặng đồng cân, Điều cảm
nghĩa xưa, nằng nặc mời Tuệ ở lại lán để anh ta có cơ hội đãi đằng. Tuệ đồng ý.
Việc duy nhất mà Tuệ phải làm để giết thì giờ là mua các loại thuốc phiện,
heroin về mày mò bào chế để tìm ra liều chích... phê nhất, bất kể tốn kém, tiền
bạc đã có các chủ lán lo. Với heroin thì đơn giản, chỉ việc bơm nước cất vào là
chích (nghiện quá nặng, đốt giấy bạc hút không phê). Nhưng, chơi heroin không
phải là sành điệu. Tuệ “lên hương” đến nỗi đã có thể sắm riêng cho mình một
“lái xe” - tay chuyên nghiệp tiêm thuốc phiện - loại thượng thừa mà không thèm
hỏi tên nó là gì. Khi rảnh rỗi, tên này đã dạy lại cho Tuệ toàn bộ cao chiêu của
nghề “lái xe”.
Đơn giản nhất là gẩy “cống” - thuốc phiện tinh chất - vào
thìa hoặc nắp bia nấu sôi lên, lọc qua ba đót thuốc lá sạch, cứ thế trộn vào nước
cất chích vào ven. Cách này sang nhưng với những con nghiện đã đạt đến “cảnh giới
thượng thừa” thì không mấy phê. Muốn cho đã, chúng bày ra cách trộn thêm tân dược
và phụ gia vào thuốc. Công thức đặc biệt nhất là: “cống” + xái 1 + thuốc cảm
ABC hoặc Aspirin hoặc Paracetamon + mì chính (bột ngọt) tán nhuyễn thành bột
đem nấu, sau đó lăn, đánh miếng, cán mỏng để dành hút dần bằng đèn dầu đậu phộng
hoặc nấu, lọc lại đem chích. Cách này rất kỳ công. Hễ “lái xe” non tay hoặc nấu
ẩu là cầm chắc chích vào sẽ sốt khặc khừ và ói ra mật xanh mật vàng nên Tuệ
cũng không khoái. Để “lên thiên đàng”, hắn tự sáng tạo cho mình một công thức
bí mật gồm Dolagan + morphin + sedusel tán nhuyễn + nước cất, chích phê lâu và
mạnh hơn cả. Nhưng, dùng liều này rất đắt, giá mỗi mũi chích đúng đô trong bãi
phải tốn 350.000 đồng. Để thỏa mãn cơn ghiền, lúc hoàng kim, Tuệ chích mỗi ngày
gần 15 cữ, tốn sơ sơ chừng 5 triệu đồng.
Không phải cướp bóc, dặt dẹo, nằm lán hút chích mãi cũng
nhàm, Tuệ lân la học nghề “đánh hóa”(cách dùng hóa chất lọc quặng lấy vàng) và
nghề tăm vỉa. Đang rộ mùa thu hoạch, tiền vào như nước nên các chủ lán, chủ hầm
không tiếc, tha hồ cho Tuệ thử. Gần một năm “nghiên cứu” Tuệ lại danh nổi như cồn,
nổi tiếng như tay “đánh hóa” thuộc hàng cao thủ nhất, “tăm vỉa” (thăm dò mạch
đá có chứa vàng) cũng được liệt vào loại “cụ”, uy tín cùng mình. Thế là, gần
như không cần phải mó tay vào chuyện động dao động thớt, Tuệ tha hồ được các
lán mời mọc săn đón và trả công hậu hĩnh với mức lương của một đại chuyên gia.
Giả sử có máu làm giàu, thời kỳ này thừa sức đưa Tuệ lên hàng
ông chủ tầm cỡ. Khổ nỗi, xưa nay người ta chỉ bàn chuyện giang hồ chơi, có ai
nhắc chuyện giang hồ làm giàu bao giờ. Tiền kiếm được, Tuệ đổ hết vào những cuộc
chơi theo cách riêng của hắn là ngao du sơn thủy. Lâu lâu, trong bãi có một tốp
thợ vàng quê ở miền Bắc “về phép”, Tuệ lại đút túi vài ba chục cây vàng và đòi
đi theo để “tham quan cho biết đất Việt Nam núi rộng sông dài”. Lời đề nghị
lãng mạn của kẻ có tiền chẳng bao giờ làm ai phật ý. Vậy là Tuệ có dịp rong ruổi
khắp nơi, nếm đủ mọi của ngon vật lạ và cảnh đẹp trên đời. Hầu như không có một
thị trấn nào của vùng trung du Bắc Bộ, một thị xã nào của vùng núi non Tây Bắc
mà Tuệ chưa từng thăm viếng. Hắn đi nhiều đến nỗi thuộc làu làu tên hiệu, bảng
giá và món độc chiêu của từng khách sạn ở nhiều tỉnh miền Bắc, dù đó là những
khách sạn heo hút ở vùng sáu tỉnh Cao-Bắc-Lạng-Thái-Hà-Tuyên... Chẳng có gì
ràng buộc, Tuệ chỉ chịu quay về khi túi áo túi quần đã lộn trái. Dăm bữa nửa
tháng, dặt dẹo được vài chục cây vàng, hắn lại ra đi. Tính ra, riêng trong mùa
khô năm 1998, số tiền Tuệ tiêu hết chắc cũng đủ nuôi vài ba chục người... suốt
cả đời. Chính vì máu ham chơi, Tuệ đã trở nên đặc biệt thân thiết với đám lãng
tử dân Bắc trong bãi vàng, được chúng đặt cho một biệt danh khá mỹ miều: “Gã
trai xứ Quảng trong lòng anh em đất Bắc”. Trời ạ, giang hồ cũng có lúc “sến” phải
biết!
Thuở huy hoàng không kéo dài vĩnh cửu. Đến mùa mưa năm 1998,
thì Lê Văn Tuệ bắt đầu lâm vào cảnh khốn khó. Đầu tiên, tình hình khai thác
vàng bỗng cạn kiệt hẳn. Hàng loạt hầm máy đào mãi vẫn chẳng tăm ra vàng, chủ hầm
chủ máy nợ chồng chất và lâm vào phá sản (trung bình mỗi máy + 10 người chi một
ngày hết 2 cây vàng), thợ đào thuê đói hoa cả mắt. Vì thế, nghề dặt dẹo may lắm
cũng chỉ đủ no dạ dày, không đủ no óc (thỏa mãn cơn nghiện). Đói thuốc, Tuệ và
cả chục tên em út vật vã điên cuồng, cuối cùng làm mồi ngon cho sốt rét rừng,
ghẻ lở và đủ loại bệnh tật vốn tiềm ẩn đầy rẫy ở chốn ma thiêng nước độc, môi
trường mất vệ sinh. Để cưỡng lại cơn tù quẫn, Tuệ gia tăng xin đểu, cướp, chấn.
Đang lúc thất bát chẳng có chủ hầm, chủ lán nào chịu nổi cảnh bị sách nhiễu nên
hè nhau chống lại, khiến cả Tuệ lẫn đàn em đều nhiều lần bị trọng thương. Đã vậy,
về Đà Nẵng điều trị thì sợ công an bắt, lại không đủ tiền nên chúng đành liều
chết trụ lại chốn rừng sâu nước độc. Mùa mưa năm ấy, số mồ vô danh mọc lên trên
những lối mòn bạt núi dẫn vào bãi vàng Phước Sơn hình như tăng lên rất nhanh.
Đã thế, đề phòng nạn sập hầm, lở đất sụt bãi gây chết người như mùa mưa năm
1997, công an tỉnh, huyện lại ráo riết truy quét khiến Tuệ và đàn em cứ phải bỏ
bãi chạy trốn liên tục, vết thương này chưa kịp kéo da non, vết thương khác lại
xuất hiện. Các băng nhóm khác cũng không nể nang, đùm bọc gì được vì tình trạng
tự thân của chúng thậm chí còn thê thảm hơn. Băng Thanh sứt, Bắc phò, Hiển bụi
khét tiếng vì đông, mạnh nhất vùng vàng cũng rã đám rồi quay sang đâm chém
nhau. Bị chém 14 nhát trên lưng, Hiển bụi sai đàn em dùng chỉ may đồ
khâu díu lưng mình lại hàng trăm mũi. Nằm ba ngày, “vã” quá, tên tướng cướp bị
thương lại mò dậy, vác nguyên tấm lưng rách như tấm chiếu thuốc phiện tiếp tục
đi cướp. Kết quả là sau đó, hàng chục tên thi nhau vào tù...
Lê Văn Tuệ cũng đành ngậm ngùi tan đàn xẻ ghé với bọn đàn em
để tự cứu mình. May cho Tuệ, đúng lúc khốn quẫn nhất thì hắn gặp được một tay
giang hồ thứ thiệt: Mông cận.
Mông lớn hơn Tuệ gần một con giáp, quê ở Võ Nhai, Thái
Nguyên. Vợ Mông là một cán bộ ở huyện Phước Sơn. Bản thân Mông là một thầy
giáo, kính cận dày cộp luôn đeo trên sống mũi. Nhưng tiếng gọi hoang dã và sự hấp
dẫn của vùng vàng đã kéo Mông ra khỏi bục giảng, trở thành một chủ hầm vàng. Hầm
của Mông toàn là thợ “chiến đấu” đất Thái Nguyên, tay nghề khai thác rất cao
nên anh ta cũng nhiều lần trúng đậm. Vào bãi, song xuất thân là thầy giáo nên
Mông cận sống rất nguyên tắc. Lán của “thầy” Mông cận tuyệt đối không có thuốc
phiện, bài bạc, gái... hay bất kỳ thứ tệ nạn nào bén mảng. Thợ khá đông nhưng kỷ
luật của Mông là dứt khoát không ỷ chúng hiếp cô, không tham gia bất cứ một trò
chèn ép, giành giật nào với các hầm, bãi khác. ít nhiều, nguyên tắc sống của
Mông cũng khiến cho các cư dân bãi vàng vì nể. Vả lại, võ nghệ Mông cận cũng
khá cao, muốn “sờ” vào cũng không phải dễ.
Nhờ tổ chức tốt, đầu tư kỹ nên trong khi toàn bộ vùng vàng
lao đao vì đào đãi không đủ chi tiêu thì lán của Mông vẫn bình chân như vại,
không giàu có lắm song đời sống thợ thuyền vẫn bảo đảm, khai thác có lãi. Chính
vì thế, Mông cận trở thành mục tiêu của lòng tham, gợi lên trong lòng bọn đao
búa vùng vàng ý định cướp hầm. Kẻ ra tay là nhóm Việt Long, quê Đồng Hỷ, Thái
Nguyên. Lừa lúc Mông một mình từ bãi vàng về nhà ở thị trấn Khâm Đức, Việt Long
đã tổ chức “trải đệm” định thịt Mông. Đúng lúc đó, Lê Văn Tuệ đi qua. “Dọc đàng
thấy chuyện bất bằng chẳng tha”, Tuệ dù không biết Mông cận là ai nhưng cũng
múa sợi dây buộc chì xông vào cứu Mông, đánh cho đám Việt Long tan tác. Cảm
nghĩa, lại biết Tuệ tuy khét tiếng vì chấn, dặt dẹo song chưa hề gây nợ máu, lại
càng không phải hạng kẻ cướp tiểu nhân, Mông cận đã vui vẻ mời Tuệ về đứng lán
cho mình. Đứng lán thực chất là giữ chức đốc công, vừa coi sóc thợ làm việc, vừa...
bảo kê ngăn chặn những kẻ tính cướp phá. Nghề này Tuệ khá thạo, lại đang cơn bĩ
cực nên gã nhận lời ngay. Từ 23.10.1998 đến 4.4.1999 là khoảng thời gian thanh
thản nhất của Tuệ ở bãi vàng. Đó là khoảng thời gian không có giành giật, đấm
đá, chỉ có lao động thật sự. Hàng ngày, Tuệ cũng đánh trần đào đất, đãi đá, vừa
làm vừa trông coi thợ, hùng hục và chu đáo như một bác thợ cả thực thụ.
Trong thời gian đó, Tuệ không hề về quê thăm nhà, thăm mẹ.
Nhưng Mông cận thì có. Anh đã nhiều lần đem tiền, quà, thuốc men về Tiên Lộc,
Tiên Thọ thay Tuệ thăm hỏi, biếu mẹ của gã. Không những thế, Mông còn bỏ nhiều
thời gian tìm hiểu gia cảnh, ước mong của bà mẹ có đứa con hư phiêu bạt giang hồ.
Tuệ không hề hay biết rằng, sau nhiều lần thăm hỏi ấy, giữa mẹ gã và Mông cận
đã thỏa thuận một giải pháp: cưới vợ cho Tuệ. Đó là cách duy nhất để buộc chân
con ngựa bất kham. Khi hiểu ra mọi chuyện, Tuệ đã khóc nhiều đêm. Lần đầu tiên,
không hề có một vết thương, không hề có một tiếng chửi nhưng Lê Văn Tuệ đã rơi
nước mắt. Gã khóc vì tình người, vì hàm ơn Mông cận và vì lần đầu tiên trong đời
chợt đắng cay nát lòng vì thương mẹ. Khi nghe lời Mông cận - giờ đây thực sự
trong lòng Tuệ đã coi Mông là một người anh - về thăm mẹ, Tuệ đã khóc thêm lần
nữa. Mẹ gã, 75 tuổi, tóc bạc lưng còng bộc bạch:
- Vàng bạc mà làm gì con ơi, trên đời chỉ nghĩa tình, gia
đình là đáng trọng!
Và bà cũng khóc, cũng hết lời khuyên hắn đoạn tuyệt giang hồ.
Bà chỉ mong ngày nhắm mắt - không xa nữa - được thấy Tuệ cùng con dâu và cháu nội
túc trực bên mình. Nước mắt bà mẹ khiến thằng con hoang dã tỉnh ngộ. Hắn quyết
tâm hoàn lương.
Nói thì dễ, nhưng làm thì không dễ, bởi những cơn nghiện vẫn
còn đeo đẳng. Ngày 4.4.1998, Mông cận đột ngột gọi Tuệ lại bảo:
- Tao đã hứa là không bao giờ để cho ma túy chui vào lán. Tao
biết, mày vẫn hút chích thường xuyên. Giờ có hai cách để chọn: hoặc là cầm tiền
về quê cai rồi ở lại hẳn, không vàng bạc, thuốc men gì cả, hoặc là mày ở tao
đi.
Giá là lúc khác, chắc chắn Tuệ sẽ cười vào mặt kẻ mới dạy
khôn gã. Nhưng với Mông, gã không thể. Về quê cũng không. Sau 13 năm lưu lạc,
Tuệ không chịu nổi cái cảnh tay trắng quay đầu trong bộ dạng tiều tụy vì đói
thuốc.
Nói là làm, Mông cận không so đo, bỏ lại toàn bộ hầm, máng,
máy móc cho Tuệ rồi dẫn thợ vào sâu trong bãi 45 (xã Phước Hiệp) tìm hầm khác.
Bãi 45 là nơi duy nhất trong toàn vùng vàng Phước Sơn không có ma túy. Tuệ sợ,
gã không dám theo Mông, đành bằng lòng ở lại. Mông vừa đi khỏi, đám em út cũ của
Tuệ từ Thái Nguyên mới vào đói quá lại tìm đến xin đầu quân. Vừa thương chúng,
lại đang thiếu quân, Tuệ lại gật đầu.
Tốp thợ cả thầy lẫn tớ đều là con nghiện, kinh nghiệm quản lý
không có, vốn liếng cũng không, đã không moi được thêm một vảy vàng nào từ lòng
đất. Một tuần sau, Tuệ gọi người bán hết toàn bộ hầm máy của Mông để lại. Tiền
thu được chỉ đủ trả nợ và giúp cả đám sống thêm mấy ngày. Trong khi đó, mùa mưa
lại sầm sập kéo về. Cả tốp đói rã họng, đành đi tọ mọ những hầm lán bỏ hoang sống
qua ngày. Và, điều kinh khủng nhất đã đến: sập hầm, một thằng bé trong bọn bị
đá đè giập ống quyển.
Không đồng xu dính túi, trời lại mưa dữ dội, đưa thằng bé đi
bệnh viện là điều không thể vì chưa ra đến nơi thằng bé đã chết vì đói thuốc và
vì vết thương đang hoại tử. Không còn cách nào khác, Tuệ đành cắn răng đóng vai
trò bác sĩ (dù mới học chừng hết lớp 9), tự tay... tháo khớp cho thằng bé. Một
đống lửa to được cả đám trẻ con phiêu bạt đốt lên. Không rửa, không lột vỏ, một
đống củ mì (sắn) vừa xin được trong rẫy của người Mơ-nông được cả lũ vừa luộc,
vừa nướng lên và tranh nhau ăn cho đỡ đói. Ăn xong, sáu, bảy đứa, kẻ
say, người tỉnh thao láo mắt nhìn Tuệ vừa khóc vừa làm bác sĩ. Không thuốc tê,
không thuốc mê, Tuệ dùng dây dù trói chặt hết tay chân thằng bé bị thương xuống
sạp tre. Thêm một sợi dây dù to bản khác thít ngang qua trán cột chặt xuống sạp
để giữ cho nó không ngóc lên hay giãy giụa. Nhặt một thanh tre, nhét chặt vào
giữa hai hàm răng nó, bắt hai đứa khác đè chặt hai bên, Tuệ bắt đầu rạch ống quần
rách tướp đầy bùn đất của nó. Dụng cụ mổ duy nhất là một con dao đã mài sẵn từ
chiều, được tẩy trùng bằng cách hơ trên đống lửa. Kiến thức giải phẫu duy nhất
là kinh nghiệm... mổ gà. Cứ thế, Tuệ rạch ngang đầu gối kẻ bị thương. 5 phút,
10 phút... Nước mắt ròng ròng, những tiếng kêu bị chặn không vọt ra khỏi cổ, thằng
bé bị trói cứ giật đùng đụng, mồ hôi túa ra, mắt trợn ngược rồi ngất đi... Sau
30 phút thì mọi việc hoàn tất, chân thằng bé được cắt cụt đến đầu gối và được
may lại bằng chỉ khâu đồ.
Những ngày sau đó, Tuệ và những đứa khỏe mạnh hầu như không
ngủ, cứ hùng hục đi đánh hóa thuê cho các chủ hầm khác. Toàn bộ tiền kiếm được
chỉ để mua hai thứ: thức ăn và heroin. Thứ thuốc men duy nhất mà kẻ bị thương
được hưởng trong giai đoạn hậu phẫu là heroin. Chính ma túy đã giúp nó sống
sót. Khi nào nó đau quá, Tuệ lại chích cho nó một liều, phần còn lại đem rắc
vào vết thương. Lạ lùng thay, sau đúng 14 ngày thì vết thương lành hẳn. Bù lại,
đô nghiện của thằng oắt con tăng gấp đôi, gấp ba, suốt ngày nó vật vã sùi bọt
mép vì đói thuốc.
Ca mổ kinh hoàng đó đã khiến tâm trí Tuệ thay đổi hẳn. Hắn
đâm ra ghê sợ mọi thứ. Ghê sợ kiếp sống giang hồ và ghê sợ cả bản thân mình. Những
ngày đó, những giọt nước mắt và lời nguyện cầu của người mẹ lại ùa vào óc, giày
xéo tâm can hắn. Sau nửa tháng mất ngủ, Tuệ quyết định cai nghiện và hoàn
lương. Dự định của hắn được những tên em út tán đồng, bởi chúng cũng đã hoàn
toàn rệu rã. Cả đám thống nhất: sẽ chia tay nhau vào ngày 30.5.1999. Kể từ đó,
chúng thi nhau làm hùng hục và cố tiết chế cơn nghiện để dành dụm tiền cho cuộc
hoàn lương.
Nhưng dù tiết kiệm mấy, tiền kiếm được cũng bị đốt hết vào ma
túy nên ngày hẹn đến, cả đám vẫn phải ở yên tại bãi sau đó tan tác mỗi đứa một
phương. Bí thế, Tuệ đành bấm bụng - lần đầu tiên - ngửa tay xin (chứ không cướp)
của một cố nhân. Dù tử tế đến mấy, Lê Văn Tuệ vẫn là một hung thần đầy đe dọa
nên ý định rời vùng vàng của hắn dĩ nhiên là rất đáng được hoan nghênh. Vì vậy,
Điều - kẻ tao ngộ năm nào - đã hào phóng cho Tuệ nguyên cả một mẻ máng, tổng cộng
được 9,3 lượng vàng. Sau một chầu nhậu túy lúy để chia tay và tuyên bố rửa tay
gác kiếm, Tuệ cầm số vàng này ra thẳng Hà Nội, vào nhà một chiến hữu tên Cường
cạnh bệnh viện Bạch Mai thuê bác sĩ đến để điều trị cai nghiện. 11 ngày sau, cắt
cơn, Tuệ gửi hết số vàng cho bác sĩ và “lai hồi cố thổ”. Từ tay trắng ra đi, đứa
con hoang lại trở về nơi hai bàn tay trắng.
Cuộc sống bình thường, vất vả nhưng thanh thản đã đồng hành với
Tuệ được bốn năm. Hắn đã lấy vợ và đã có được một cô con gái gần ba tuổi. Mẹ hắn
đã rời bể khổ ra đi. Ngày mất, bà đã nở nụ cười, bởi đã toại thành tâm nguyện:
có con trai, con dâu và cháu nội quì cạnh bên giường.
Với Tuệ, những năm qua cuộc sống đã gặp không ít khó khăn,
khi nghề đãi cát, sạn trên sông chỉ vừa đủ để lo cơm áo cho gia đình nhỏ. May
mà gã đã đoạn tuyệt với ma túy. Nhờ đó, dù khó khăn, Tuệ vẫn cương quyết không
một lần quay lại bãi vàng trong suốt nhiều năm qua, dù có rất nhiều lời mời
chào, chèo kéo, dù gã biết chắc chỉ cần một chuyến đi mười ngày, nửa tháng
thôi, lúc trở lại túi gã đã có thể có thêm cả chục lượng vàng. Số vàng đó, bây
giờ với Tuệ là cực lớn, lớn hơn cả giấc mơ, nhưng đơn giản, nó không phải là do
mồi hôi đổ ra, Tuệ sẽ cương quyết không màng tới. Hơn nữa, dù không phải là mười
mà cả trăm, cả ngàn cây vàng đi nữa cũng không quí bằng mảnh vườn nhỏ, giấc mơ
con và tiếng bi bô con trẻ - hạnh phúc đơn sơ nhưng rất thật mà Tuệ đang cầm giữ
trong tay. Tuệ không thể và không dám nghĩ tới chuyện mò lên vùng vàng dù chỉ một
lần, bởi “một bước chân sai nghìn thuở hận”, rất có thể bước chân xứ đó sẽ sơ sẩy
khiến kẻ đã buông đao thờ Phật có nguy cơ rời xa tổ ấm vô giá của mình.
Mười ba năm lăn lộn trong kiếp giang hồ, giữa cơ man vàng,
máu, ma túy và nước mắt, Lê Văn Tuệ đã quá đủ kinh nghiệm để hiểu cái giá phải
trả cho hạnh phúc, dù đó chỉ là một hạnh phúc nhỏ nhoi thường gặp giữa đời thường.
Quảng Nam, tháng 10.2002
10- TRÚC LIÊN BANG
Hai lần thâm nhập Việt Nam bất thành của Trúc Liên Bang
Tổ chức thứ ba trong bản đồ tội ác
Tổ chức thứ ba trong bản đồ tội ác
Nhắc đến mafia “Made in Asia” (sản phẩm á Châu), trước hết
người ta phải kể đến ba hắc bang hùng mạnh khét tiếng là Tam Hoàng Hội, Thanh Y
Bang và Trúc Liên Bang. Tam Hoàng nổi tiếng nhờ tuổi thọ cao nhất, hội viên
đông nhất, tổ chức chặt chẽ nhất, trong suốt 200 năm qua đã từng can dự vào
không ít biến cố lịch sử của Trung Hoa đại lục và các khu vực khác trên toàn thế
giới có người Hoa sinh sống. Thanh Y Bang, ngược lại, khiến người Hoa ở khắp
nơi kinh khiếp vì tính chất hoạt động bí mật, “lai vô ảnh, khứ vô hình” của nó,
kèm theo là sự tàn độc vô biên. Cả hai tổ chức tội phạm trên đều bắt nguồn từ Bến
Thượng Hải và Hồng Công, nghĩa là đều bắt đầu nhóm họp và bành trướng thế lực từ
Trung Hoa đại lục. Còn Trúc Liên Bang, nhắc đến nó, người hiểu biết sẽ nghĩ
ngay đến hòn đảo Đài Loan nhỏ bé.
Tuy nhiên, vào hai thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, nghĩa
là từ khoảng năm 1985 lại đây, Trúc Liên Bang đang có xu hướng nuốt dần thanh
thế tội ác của hai tổ chức đàn anh, bởi sự hoạt động táo tợn, liều lĩnh và bởi
những vụ thanh trừng đối thủ gần như đều được báo trước và bao giờ kẻ thủ ác
cũng cố tình để lại “chữ ký” chứng tỏ chính Trúc Liên Bang là kẻ đã ra tay.
Tại Hoa Kỳ và Canada, xé bỏ nguyên tắc kín đáo - một
đặc tính cố hữu của người Hoa - từ khoảng 1985 - 1989, đám thành
viên “Nhicôlai” (trẻ tuổi) của Trúc Liên Bang đã tự tách bầy, cưỡi trên những
môtô cao phân khối, đeo thêm những khẩu Colt, Uzi vào cạnh con dao trên thắt
lưng để cho ra đời một băng đảng mới khét tiếng hung thần có tên là “Born to
kill”, tức “Sinh ra để giết” hay “Thiên sanh sát thủ” trong cách gọi của người
Hoa, với lẽ sống là bạo lực, nhãn hiệu là sự tàn ác và lạm sát.
Tại Châu á, sự bành trướng của Trúc Liên Bang đồng hành với
giai đoạn mở cửa, cựa mình “hóa rồng” của các quốc gia trong khu vực. Nói chính
xác, từ Đài Loan, Trúc Liên Bang phát tán như nấm độc sang Singapore, Mã Lai,
Indonesia, Thái Lan, Campuchia... và cả Việt Nam bắt đầu từ bộ cánh sạch sẽ của
các doanh nhân, với “vốn đầu tư” (chủ yếu vào công nghệ giải trí) là chiêu bài
để rửa tiền bẩn. Mãnh lực cạnh tranh của các doanh nhân có dính líu đến Trúc
Liên Bang không hề thay đổi, luôn gắn chặt với lưỡi dao và viên đạn; chúng sẵn
sàng xuống tay tước bỏ ngay mạng sống của đối thủ kinh doanh mà không cần suy
nghĩ hay thương xót.
Lần thứ nhất: Nhà đầu tư và kẻ lưu vong
Đầu thập niên 90, một số thành viên Trúc Liên Bang, lần đầu
tiên đã tìm được cơ hội trà trộn vào đám doanh nhân tìm cách thò chân vào Việt
Nam. Trong số ít ỏi những tên tội phạm mặc complet này có Hou Ming Chin. Trong
bốn năm 1993-1997, Hou đã xuất nhập cảnh vào thành phố Hồ Chí Minh 10 lần cả thảy.
Với số “vốn đầu tư” ban đầu là 120.000 USD, Hou đã góp cổ phần và trở thành Phó
Tổng giám đốc bộ phận sản xuất sàn gỗ thanh của Công ty Bochang (Đồng Nai). Chỉ
sau một năm (1994), thấy đầu tư ngành này lãi thấp, Hou rút hết vốn và trả lại
chức vụ nhưng vẫn ở lại Việt Nam. Những năm tiếp đó, Hou đã “thử thời vận” trên
nhiều nghề khác nhưng không trụ lâu dài ở nghề nào cả.
Đầu tháng 6-1997, để giải sầu, Hou dắt bạn gái là Yang Smu
Mei sang Quảng Đông, Trung Quốc chơi, nghỉ lại tại khách sạn Đông Hoàn. Gọi là
đi chơi, kỳ thực, đó chính là cuộc hẹn hò giữa Hou với Wang, một tên bạc bịp nổi
tiếng của Trúc Liên Bang. Gặp nhau, Wang giới thiệu với Hou hai tay anh chị của
hắc bang này là Chang và Chien. Trong lúc ăn nhậu và bài bạc, Wang nói rõ cho
Hou biết mục đích của gặp gỡ, đó là bàn cách thanh trừng hai tên bạc bịp đồng
bang là Chang Po Wen và Wu Wen Yu. Cùng với Wang, hai tên này đã giở nghề gian
lận và thắng 14.000 USD, nhưng chỉ chi cho Wang 1.400 USD rồi ôm tiền chạy sang
Việt Nam trốn. Wang muốn nhờ hai tên anh chị Chang và Chien sang đòi nợ, yêu cầu
Hou giúp sức vì y ở thành phố Hồ Chí Minh lâu, thông đường thuộc lối. Wang nói
với hai tên là:
- Nếu chúng không trả, tao muốn chúng bị xử!
Nửa tháng sau, ngày 22.6.1997, Hou gặp lại ba tên tại khách sạn
Chợ Lớn (174 Sư Vạn Hạnh, quận 5). Thái độ muốn rút lui của Hou đã bị Chang dằn
mặt:
- Bọn tao sang Việt Nam để xử hai thằng
kia. Người ngoài chỉ có mình mày là rõ chuyện nên mày phải tham gia, cấm chối.
Biết quá rõ “kỷ luật” của Trúc Liên Bang, Hou chỉ im lặng gật
đầu.
Lúc này, tại thành phố Hồ Chí Minh, hai tên đào tẩu Chang Po
Wen và Wu Wen Yu đã thuê nhà C5, đường Nguyễn Hồng Đào, Tân Bình để sống chung
với cô Huỳnh Lệ Hằng, bạn gái của Chang. Không khó khăn gì lắm, Hou Ming Chin
đã tìm ra được địa chỉ của hai tên này và mời chúng đi theo cả bọn để “nói chuyện
phải quấy”. Dưới áp lực của bốn tên Trúc Liên thạo nghề đao búa, Chang và Wu
đành phải cúi đầu đi theo chúng.
Lọc lõi trong nghề phạm tội, bốn tên Trúc Liên đã vạch một lộ
trình cực kỳ lắt léo chạy khắp nội thành rồi ra Thủ Đức, đi Biên Hòa, trở lại
Bình Chánh và lần lượt ra tay. 0 giờ 30 phút sáng ngày 24.6.1997, tại bãi phế
liệu của Nhà máy cán thép VICASA (Biên Hòa, Đồng Nai), Wu Wen Yu bị tên Chang bắn
chết, sau đó rưới xăng đốt xác. Ngồi trên xe taxi, thấy ánh lửa, Hou Ming Chin
mở cửa chạy xuống. Chưa kịp thốt ra lời nào, Hou đã bị tên Chang chĩa súng vào
ngực cảnh cáo:
- Tao xử nó đúng luật giang hồ, đừng ý kiến. Bây
giờ đưa tụi tao đi xử thằng Chang Po Wen.
Lại thêm hàng loạt đoạn đường theo một lộ trình lắt léo, 3 giờ
sáng hôm đó, chúng lại dẫn tên Chang Po Wen đến một mương nước nhỏ nằm khuất
bên quốc lộ 13 thuộc địa phận xã Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức và bắn chết tên này rồi
hất xác xuống mương. Trước khi rời “pháp trường”, hai tên Chang và Chien đều cẩn
thận đặt cạnh xác hai kẻ bị hành quyết hai viên đạn chưa nổ, coi như chữ ký của
Trúc Liên Bang trong quyết định tử hình!
Hai vụ thanh toán trong cùng một đêm đã khiến dư luận xôn xao
và hoang mang. Hơn một tuần sau, ngày 1.7.1997, Hou Ming Chin bị bắt tại cửa khẩu
Tân Sơn Nhất khi đang cùng bạn gái làm thủ tục tính bay sang Campuchia lẩn trốn.
Khi hình ảnh cả thủ phạm lẫn nạn nhân được báo chí đăng lên, rất nhiều người mới
ngớ ra: họ đã nhẵn mặt tất cả những tên xã hội đen này tại các vũ trường lớn ở
thành phố Hồ Chí Minh. Chỉ ít ngày trước khi chết, những kẻ bị bắn còn thường
xuyên “ngồi đồng” mỗi tối bên chai rượu và một đám “em út” tại vũ trường Ceasar
trong chợ An Đông, quận 5. Cùng bàn với chúng còn có một đám khá đông người Đài
Loan khác. Nhưng, chúng vừa bị giết thì những kẻ này bỗng lặn mất tăm, không
bao giờ còn thấy xuất hiện. Cả ba tên Wu, Chang, Chien - những kẻ trực
tiếp thực hiện “lệnh hành quyết” - cũng đã nhanh chân trốn sang Campuchia trước
khi tên Hou bị bắt và biến mất. Theo kết quả xác minh của PC16, Công an thành
phố Hồ Chí Minh, vào thời điểm đó, tất cả những nhân vật được đề cập ở trên, kể
cả những kẻ lạ mặt từng ngồi chung với chúng tại Ceasar, phía Cảnh sát Đài Loan
đều khẳng định chúng là thành viên của Trúc Liên Bang hoặc ít nhiều có dính líu
đến bang phái tội ác này.
Sự “dính líu” có lúc đồng nghĩa họ là kẻ bị Trúc Liên Bang khống
chế. Theo điều tra của chúng tôi, có một số doanh nhân có máu mặt đang đầu tư,
buôn bán ở Việt Nam, nhất là những người làm ăn riêng lẻ, không thuộc các tập
đoàn lớn, hàng tháng đều phải “đóng hụi chết” cho bọn Trúc Liên bang. Lý do: Tại
Đài Loan, toàn bộ gia đình họ đã bị hắc bang này phong tỏa, khống chế. Nếu người
thân của họ ở Việt Nam ngưng đóng tiền hay báo cho cơ quan an ninh, gia đình họ
tại cố quốc sẽ “có chuyện” ngay tức khắc. Điểm đóng tiền mua sự an
lành thường là các vũ trường đông đúc, ít gây chú ý, trong đó có vũ trường
Ceasar.
Gần như đồng thời điểm xảy ra hai vụ thanh toán, ngay tại Ceasar
cũng xảy ra một sự cố. Vụ này nhỏ, nhưng rất có ý nghĩa đối với những ai quan
tâm đến hoạt động của Trúc Liên Bang tại Việt Nam.
Số là, với trình độ đai đen tứ đẳng Taekwondo, anh X. (chúng
tôi xin không nêu rõ tên), một huấn luyện viên võ thuật đã được Ceasar ký hợp đồng
làm đội trưởng đội an ninh của vũ trường, có nhiệm vụ ngăn cản sự quậy phá của
khách với vũ trường hay giữa các nhóm khách chơi với nhau. Trong số các khách
quen, có một nhân vật Đài Loan thường xuyên đi một mình, ngồi một bàn, không nhảy,
không nói gì, chỉ uống rượu rồi về. Anh ta chẳng bao giờ trả tiền, nhưng đó là
việc của bộ phận khác, X. không bao giờ hỏi. Có điều rất khó chịu: vị khách này
luôn xuất hiện với thái độ nghênh ngang, xấc láo. Một hôm, anh ta ngang nhiên
tiến đến ngồi vào chiếc ghế giành riêng cho đội trưởng an ninh (được đặt ở vị
trí thuận tiện quan sát toàn bộ sàn nhảy). Giải thích bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng
Hoa mỏi miệng, vị khách vẫn không chịu rời chỗ, còn có thái độ thách thức nên với
nhiệm vụ, X. đành phải cứng rắn lôi anh ta ra. Y với chai Remy Martin trên bàn
giáng thẳng vào đầu X. Theo phản ứng, X. gạt ngay cú đòn và tống thẳng một đấm
vào mặt khiến tên càn quấy gục ngay xuống sàn. Một chút náo loạn đã khiến ông
chủ Ceasar phải xuất hiện. Khi nhận rõ mặt kẻ càn quấy thì ông ta tái mặt để rồi
sau đó bảo X.:
- Nếu anh cần bao nhiêu, tôi cũng sẽ trả,
cho anh đi nơi khác tìm việc!
Không hỏi, song X. hết sức ngạc nhiên, không hiểu tại sao
mình bị mất việc dù đã làm rất đúng chức năng. Sự ngạc nhiên này sẽ không xuất
hiện, nếu X. biết rằng, kẻ bị đo ván chính là một thành viên của Trúc Liên Bang
và gia đình một cổ đông của Ceasar tại Đài Loan đang bị đồng bọn của tên này
“ngắm nghía”...
Những vụ việc nêu trên không phải là cá biệt. Nhưng, sau hai
vụ thanh trừng đêm 24-6-1997, bóng dáng những ông khách Đài Loan đáng ngờ này ở
các nhà hàng, vũ trường đột nhiên thưa hẳn. Chính những nỗ lực của cơ quan Công
an đã chặn đứng âm mưu thâm nhập lần thứ nhất của Trúc Liên bang.
Lần thứ hai: Chiến tranh băng đảng
Không chấp nhận nổi sự lộng hành của Trúc Liên Bang và bọn xã
hội đen, năm 1995, chính quyền Đài Loan đã mạnh tay trừng trị, gom hết những
tên lưu manh bất hảo ra đảo Xanh - một hòn đảo nhỏ chuyên giam giữ
tù hình sự trọng án. Số còn lại đành tạm thời nằm im hoặc cao chạy xa bay sang
các nước Đông Nam á khác ẩn náu và gây dựng lại băng nhóm. Cộm nhất trong số
này phải kể đến hai tên: Trần Khởi Lễ biệt danh Lễ Vịt, ông trùm Trúc Liên Bang
và Dương Quang Nam - Phó bang Tứ Hải. Chạy sang Campuchia năm 1997, núp dưới mác
một nhà thầu xây dựng có vốn lớn, Trần Khởi Lễ đã bỏ tiền ra mua hàm Huân tước
danh dự và bắt đầu tìm cách lân la kết giao với các nhân vật tai to mặt lớn
trong chính quyền thành phố Phnompênh và Chính phủ Hoàng gia. Ô dù đã vững, thoắt
cái tiền bạc đã biến ông trùm xã hội đen này thành một doanh nhân có máu mặt, đứng
đắn và đáng kính, giúp hắn trúng rất nhiều vụ thầu béo bở trên đất Chùa Tháp. Đến
lúc đó, Trần Khởi Lễ mới bắt đầu nghĩ cách bành trướng thế lực sang thị trường
thành phố Hồ Chí Minh.
Là một lái súng cáo già, Lễ biết rằng không thể đặt chân sang
thành phố Hồ Chí Minh ở tư thế đồi đầu với giang hồ bản địa, nhất là lúc này
Năm Cam đã ra tù, đang tìm cách khuyếch trương thanh thế và ôm “mộng bá đồ
vương” thống nhất giang hồ Nam Bắc. Do đó, Lễ Vịt quyết định chơi trò “công
ty”, bắt tay với giang hồ Sài Gòn.
Quân sư cho chiến dịch ngoại giao này là Nguyễn Chí Thành, tức
Thành Chân, tay anh chị Hải Phòng nổi tiếng từng một thời dưới trướng Năm Cam.
Năm Cam bị bắt, Thành Chân cũng đào tẩu bằng đường xuất cảnh sang Anh rồi lộn về
Đài Loan, gia nhập đội ngũ lái súng, trở nên thân thiết với nhiều nhân vật của
Trúc Liên bang.
Dưới sự quân sư của Thành Chân, Lễ Vịt đã quyết định trao ấn
tiên phong cho Lee Han Shin, tức A Lý, một kẻ đã chín lần ra vào Việt Nam, khá
quen thuộc với những tên tuổi cộm cán của giang hồ Sài Gòn. Khá tháo
vát, A Lý đã lần lượt qua lại và mua được một số cổ phần, cơ sở kinh
doanh ngành nhà hàng, vũ trường của giang hồ Sài Gòn, trong đó có cả
nhà hàng khách sạn Cam ở đường Nguyễn Tất Thành của Năm Cam, biến nó thành nhà
hàng Tân Hải Hà, lập đại bản doanh cho Trúc Liên Bang ngay tại thành phố Hồ Chí
Minh mà không hề tốn công sức đụng độ với giang hồ bản xứ.
Để tạo vây cánh làm hậu thuẫn cho A Lý, từ Phnômpênh, Trần Khởi
Lễ đã phái sang Việt Nam 7 cao thủ gọi là băng “Thất tinh Bắc đẩu” đi kè kè A
Lý nhằm khuếch trương thanh thế. Đã có máu mặt, A Lý đã đi thêm những nước cờ
táo bạo: cùng vợ là Diệp Hiểu Vân mua 30% (240.000 USD) cổ phần vũ trường
Metropolis đang phất lên, sau đó lại đàm phán mua vũ trường Monaco của Năm Cam
với giá 1 triệu USD, thông qua sự môi giới của một cổ đông khác tại Metropolis
là Hồ Việt Sử. Vụ mua bán bất thành. Không rõ lý do, song A Lý vẫn cho rằng
chính Sử phá đám, nên y găm hận vào lòng chờ cơ trả đũa.
Theo cách lý giải của giang hồ Sài Gòn, vụ mua bán này bất
thành là do Năm Cam - đang rất cần bán Monaco để gom tài sản chuẩn bị
sẵn sàng đào tẩu khi có biến - quá hoảng trước một vụ làm ăn lãi cao
nhưng quá liều lĩnh, đẫm máu và ngu xuẩn mà A Lý bị nghi là tác giả. Vụ này xảy
ra vào giữa năm 2001. Lee Ming Shing, một thương gia Đài Loan bị chặt lìa một
cánh tay trên đường Nguyễn Hồng Đào, Tân Bình. Khi bảo tự chặt, khi nói là tai
nạn, Lee tuyệt đối không khai báo với công an nguyên nhân và thủ phạm đích thực
của vụ “tai nạn”. Nhưng giang hồ thì vẫn có cách giải thích, nghe rất có lý: Biết
Lee - cũng là một tên xã hội đen - đóng bảo hiểm nhân mạng rất cao, băng Trúc
Liên Bang và A Lý đã dụ Lee mượn 40.000 USD sang Việt Nam mua nhà lấy vợ, tất tật
đều do đại ca A Lý giúp đỡ. Khi mọi thứ đã xong xuôi, A Lý lập tức giở trò
phong tỏa, khống chế dọa giết Lee để đòi nợ.
Lee quyết định bán ngôi nhà mới mua để trả nợ nhưng không
xong. Hễ có khách đến xem nhà, trả giá, A Lý lại sai ngay vài tên đàn em vằn vện
đến chặn họ ngay tại cửa, buông lời cảnh cáo:
- Nhà này đã bán cho giang hồ, đừng tranh mua mà rước họa vào
thân.
Để bảo toàn mạng sống, Lee Ming Shing đành chấp nhận cụt một
bàn tay, lấy mức bảo hiểm 25% là 75.000 USD sang trả nợ cả vốn lẫn lời cho A
Lý.
Với Năm Cam, cách hành xử quá “tận mạng” của Trúc
Liên Bang ẩn quá nhiều khả năng dẫn vào cửa tử, khó lòng qua mặt được cơ quan
Công an. Do đó, ông trùm không bán Monaco cho A Lý, tránh dính líu để đề phòng
hậu hoạn.
Đang điên tiết vì sẩy cú làm ăn lớn, A Lý lại nhận thêm một
hung tin: Thị trưởng Phnômpênh Chaxupaila đã mở cuộc tảo thanh chống Trúc Liên
Bang tại thủ đô, sau khi băng đảng này bị nghi là thủ phạm giết Lý Chí Hâm, Hội
trưởng Hiệp hội thương mại Đài Loan tại Campuchia. Đầu tháng 7.2001, với phóng
viên kênh truyền hình hữu tuyến Phnômpênh, sau cái chết của Lý Chí Hâm, Trần Khởi
Lễ đã ngu ngốc ném ra những câu tuyên bố hết sức hớ hênh và ngạo mạn, rằng:
- Ở Campuchia chỉ cần quẳng ra 300 USD là
có thể thuê được một tay đao búa sẵn sàng giết người.
Và:
- Để tự bảo vệ, tôi đã tập bắn súng hai tay
như một...
như một...
Sau đó, y còn khoe trong nhà luôn có sẵn một số... súng đạn đủ
trang bị cho cả trung đội. Kết quả là ngày 8.7.2001, cảnh sát ập vào, lôi ra từ
nhà Trần Khởi Lễ tại biệt thự 62 đường 592, Tây - Bắc thủ đô Phnômpênh 20 khẩu
súng; hơn 2.000 viên đạn, và bắt giữ y.
Đại bản doanh của Trúc Liên Bang ở Campuchia tan nát khiến A
Lý mất chỗ dựa. Hắn bắt đầu hoang mang tợn, tính đánh bài chuồn, dẫn đến một
sai lầm chết người cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Để thu gom tiền bạc, A Lý đã kiếm
chuyện gây sự với Hồ Việt Sử, vô cớ đòi Sử phải trả ngay món nợ 40.000 USD,
trong khi trên danh nghĩa, đây là món tiền cầm cố một chiếc xe
Mercedes Sử mượn của ông Vương và bà Hoặc Huệ Nghị, hai người này không đòi, nợ
cũng chưa đáo hạn. Hành động nôn nóng này đã khiến đám Trúc Liên Bang của A Lý
và băng Hồ Việt Sử lao vào đâm chém nhau, dẫn đến cái chết của tên Trần Ngọc Hiền
vào rạng sáng ngày 12.8.2001. Dấu tích Trúc Liên Bang lộ ra khá rõ: Trần Ngọc
Hiền chết bởi một viên đạn bắn ra từ một khẩu Flairegun đặc chủng, chuyên dùng
bắn pháo hiệu, ở Việt Nam bói cũng không ra, trong khi với Trúc Liên Bang thì lại
khá quen thuộc...
Kết quả là Công an Việt Nam lại ráo riết vào cuộc khiến đám
Trúc Liên Bang mới manh nha đặt được một chân ở thành phố Hồ Chí Minh phải tháo
chạy tan tác. Không còn Trần Khởi Lễ, dù đã trốn sang Campuchia cũng không còn
nơi nương tựa, bí đường A Lý lại gây thêm tội ác (bắn chết một cảnh
sát Campuchia) rồi “lặn” mất tăm mất tích. Có tin cho rằng, chính Trúc Liên
Bang đã “thịt” A Lý, hy sinh tên tướng tiên phong thảm bại để cứu nguy đế chế.
Một lần nữa, âm mưu thâm nhập Việt Nam của Trúc Liên Bang lại bị chặn đứng.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 7.2002
11- HẢI BÁNH
Vậy là cuối cùng phiên tòa xét xử “Vụ án Trương Văn Cam và đồng
bọn” cũng đã kết thúc. Sau Năm Cam, kẻ đứng thứ hai trong danh sách bị can,
cũng là nhân vật số 2 của toàn bộ vụ án lôi kéo được sự chú ý nhiều nhất của dư
luận không ai khác chính là Hải Bánh. Ẩn sau bộ áo sọc của phạm nhân là một
thân hình chằng chịt hình xăm - dấu tích vừa “lừng lẫy” vừa khốn nạn của một kiếp
giang hồ; ẩn sau khuôn mặt khá điển trai và bình tĩnh là một cái đầu máu lạnh ẩn
chứa quá nhiều tội ác... Đó chính là Hải Bánh, kẻ có cái lưỡi vàng đã mở ra
toàn bộ chứng cứ để bắt đầu một vụ án hình sự lớn nhất trong lịch sử tư pháp Việt
Nam. Với giang hồ thì khác, Hải Bánh chính là chìa khóa mở cửa địa ngục đưa
toàn bộ băng tội phạm của Năm Cam xuống đáy mồ. Câm lặng đi giữa hàng bị cáo bước
vào phòng xử, Hải Bánh dư biết hắn đã trở thành một kỷ lục: kẻ đã và sẽ còn bị
truy nã nhiều nhất bởi cả công an lẫn giang hồ, cho dù còn sống hay đã chết.
Tên thật là Nguyễn Tuấn Hải, sinh ngày 7.11.1967, tên giang hồ
khét tiếng này có một tuổi thơ êm đềm, giản dị ở nhà số 36, Hàng Cót, Hà Nội.
Cha Hải là ông Nguyễn Văn Bánh. Theo thói quen, người miền Bắc thường gắn tên
cha vào sau tên con trong cách gọi thân mật cho nên hắn được gọi là Hải Bánh -
một cái tên sau này sẽ trở nên khét tiếng, trong Nam ngoài Bắc đều biết đến.
Sinh ra đã lì lợm nên Hải không màng gì đến sách vở học hành.
Năm 1982, đang học lớp 8, Hải nghỉ ngang để đi học nghề thợ hàn và nghề... đâm
thuê chém mướn. Làm thợ thì... phọt phẹt, nhưng nghề đao búa thì Hải Bánh chẳng
kém cạnh gì ai. Khoảng những năm 1982-1985, dân chợ trời khu vực các Hàng ở Hà
Nội đã nhẵn mặt thằng cu cò Hải Bánh vì cứ sểnh ra món nào là hắn nẫng tay ngay
món đó, nhanh như chảo chớp. Nhưng nhỏ to về hắn, người ta chỉ dám nói sau lưng
còn đối diện thì cạch. Vô phúc để lọt tai, thằng cu cò sẽ trở thành hung thần
ngay và sẵn sàng nện cho kẻ nhiều chuyện nhừ tử. Đã thế, sau lưng hắn còn có
thêm một đám đàn em đầu trâu mặt ngựa, thằng nào cũng tiền án tiền sự nhiều hơn
tiền mặt, sẵn sàng coi việc đụng độ, đấm vỡ mặt người khác là “cái đinh”.
Vì sự lộng hành và những trận loạn đả gây thương tích, ngày
12.5.1985, Hải Bánh bị công an quận Hoàn Kiếm tóm cổ và bị tòa xử 42 tháng tù
giam. Trước đó, hắn đã một lần ngồi tù 24 tháng vì tội trộm cắp. Lương dân 36
phố phường thở phào vì bớt được một hung thần trên lề phố.
Năm 1987, Hải Bánh ra tù. Có vẻ cu cò đã trở nên lương thiện,
an phận làm một chú thợ hàn tàng tàng và lấy vợ sinh con đẻ cái. Vợ hắn là Nguyễn
Hoàng Hà, sinh năm 1970, con nhà tử tế, chắc cũng sẽ bảo ban được thằng chồng.
Vậy mà không. Năm 1990, khi Hà sinh được đứa con gái thì gã chồng lại trộm cắp,
lại vào tù. Hai năm sau, năm 1992, được trả tự do nhưng anh thợ hàn Nguyễn Tuấn
Hải coi như không còn nữa, thay vào đó là một Hải Bánh đại ca, tên tuổi khá cộm
cán trong đám giang hồ.
Có vợ có con cũng coi bằng không, Hải Bánh biến mất mặt và cặp
kè với Thủy bồ, một nữ quái sinh năm 1972, bắt đầu đẩy mạnh việc tác oai tác
quái. Vứt chiếc mỏ hàn vớ lấy con dao hoặc cây mã tấu, Hải Bánh trở thành một
tay bảo kê vằn vện kiêm đại lý thuốc lắc cho dân chơi của nhiều nhà hàng vũ trường
ở thủ đô. Có tiền, có quyền Hải Bánh bắt tay và thu phục được khá nhiều chiến
binh giang hồ có số ở Hà Nội như Hải lớ, Hải hấp, Phát lợn, Trường xoăn, Hưng
chùa... Trong số này, thật ra cũng có một vài thằng còn bé lắm, như Hưng chùa
(Nguyễn Việt Hưng) hay Trường xoăn (Nguyễn Xuân Trường) chẳng hạn. Nhưng mà khổ,
đi với ma thì mặc áo giấy, những thằng bé con mặt búng ra sữa ấy, theo anh Hải
chỉ ít lâu cũng thành sát thủ máu lạnh như ai, từ từ thiên hạ sẽ thấy.
Những cuộc thư hùng đẫm máu trên lề phố đã nhanh chóng đẩy uy
tín Hải Bánh lên hàng “sao” trong giới giang hồ Hà Nội. Hắn lọt vào mắt xanh của
các ông trùm xã hội đen Hà thành lúc bấy giờ như Thắng tài dậu, Sơn bạch tạng,
Khánh trắng, và cả bà chị Phúc bồ, một đàn chị theo nghĩa giang hồ của Thủy bồ
- nữ quái đang cặp kè với Hải. Đám ông trùm bà trùm vừa nể, vừa ngán ngại dè chừng
tên cận vệ của Diêm vương Hải Bánh. Tuy nhiên, cao nhân tất hữu cao nhân trị, đến
lượt Hải Bánh lại thầm kinh một kẻ khác, khổ thay lại là một con mẹ tưởng chừng
có thể coi là nữ nhi thường tình. Không xa lạ gì, kẻ đó là Vũ Hoàng Dung, (tức
Dung Hà), nguyên “giám đốc đen” của công ty cờ bạc Kiến An (Hải Phòng).
Cú chào bàn ngoạn mục của Dung Hà khiến Hải Bánh phải xanh lè
mặt là cuộc tập kích táo bạo của băng Hải Phòng do Dung Hà cầm đầu nhằm tiêu diệt
băng Khánh trắng, ngay sau khi Dung Hà mới ra tù (cuối năm 1995). Lúc này,
Khánh trắng, Phúc bồ... và nhiều ông trùm, bà trùm khác của Hà Nội đang liên
minh với nhau khá chặt, đụng một băng là đụng toàn bộ anh chị thủ đô nhưng Dung
Hà vẫn không ngán. Vụ tập kích (đổ quân bằng ô tô) đã toàn thắng trước khi rút
lui an toàn đã chứng tỏ bản lĩnh giang hồ của Vũ Hoàng Dung và bộc lộ rõ ý đồ
“dẹp loạn sứ quân” để thôn tính lãnh địa Hà Nội của nữ quái này. Vì nể, Hải
Bánh đã mò ngay xuống Hải Phòng ra mắt Dung Hà và được bà chị (Dung Hà chỉ hơn
Hải Bánh một tuổi) tiếp đón nồng hậu. Đế chế cờ bạc Hải Phòng, hậu thân của
công ty cờ bạc Kiến An có thêm một phó tướng dũng mãnh là Hải Bánh, nắm đầu dây
mối nhợ của đường dây cá độ bóng đá xuyên quốc gia. Khi Dung Hà di cư vào thành
phố Hồ Chí Minh, năm 1998, tại Hải Phòng công việc của Hải Bánh vẫn tiếp tục,
ngay sau khi y hoàn tất thêm một bản án 45 tháng tù.
Tháng 10.1998, bà Trương Thị Sẩm, chị ruột của Năm Cam, vợ Bảy
Sy mất, giang hồ toàn quốc về viếng khá đông. Cùng với Hải hấp và Hải lớ, Hải
Bánh cũng được Dung Hà dẫn đến viếng và giới thiệu với Năm Cam - kẻ đã từng nhận
Dung là em kết nghĩa. Đó chính là điểm mốc của một mối giao tình giang hồ đầy
bi kịch và máu.
Hai năm sau, Hải Bánh lỗ nặng trong nghề cá độ bóng đá, xù nợ
của giang hồ Hải Phòng - Quảng Ninh hơn một tỉ đồng, bị đám anh chị đất Cảng tầm
nã ráo riết. Giang hồ Hà Nội cũng không dung kẻ đã bắt tay với cựu thù, tuyên bố
không còn đất cho Hải Bánh dung thân. Lốc ổ, Hải Bánh phải phiêu bạt về phương
Nam, tìm đến Năm Cam cầu cứu mong tìm chỗ náu thân.
Ban đầu, Năm Cam không ưa gì Hải Bánh do đánh giá tên hung thần
này rất thấp ở mức độ trung thành. Mặt khác, ông trùm cho rằng Hải Bánh chỉ là
tên hung thần “hữu dũng vô mưu”, ngại rằng máu liều của Hải Bánh có thể làm
rách toạc vỏ bọc an toàn của đế chế họ Trương nên không muốn dây vào. Nhưng, Hải
Bánh đang thất thế, nhũn như con chi chi, tỏ ra ngoan ngoãn thần phục nên Năm
Cam đổi ý, chìa tay vớt Hải Bánh để tính bề lợi dụng, mục đích là sử dụng Hải
làm đối trọng với chính bà chị Vũ Hoàng Dung đang có những biểu hiện lộng hành
nhằm tiếm ngôi đoạt vị.
Nguyên do để ông trùm đa mưu túc kế và tên hổ tướng ngang ngạnh
xích lại gần nhau là một mỹ nhân mang cái tên khá đẹp: Hạ Giang (tên thật là Hà
Thị Thu Giang).
Khoảng thời gian 1992 - 1996, đồng thời lúc đang cặp kè Thủy
bồ, Hải đã từng yêu và đầu gối tay ấp với Hạ Giang, con thiên nga xinh đẹp của
giới giang hồ. Nhưng vì tính nóng nảy, hung hãn, Hải Bánh đã khiến thiên nga
khiếp sợ bay về phương Nam trú bão. Vì hàng loạt trận thư hùng tóe lửa, Hải
Bánh đã tự gây thù chuốc oán quá nhiều, liên tục bị giang hồ đất Bắc truy đuổi
để phục hận. Khiếp quá, Hạ Giang đành im lặng trốn người tình bỏ vào
thành phố Hồ Chí Minh. Nhờ nhan sắc trời cho, Hạ Giang nhanh chóng trở thành vợ
của ông R. - một tài phiệt có máu mặt của ngành kinh doanh xe du lịch hơn... bố
Hạ Giang chỉ vài tuổi. Nhung lụa của đời sống tư sản làm muợt mà thêm đôi cánh
thiên nga, nhan sắc được chăm sóc kỹ lưỡng của Hạ Giang ngày càng thêm lộng lẫy.
Nhưng cô vẫn chưa quên được người tình hung bạo khi xưa. Khi Hải Bánh mò vào
Sài Gòn, Hạ Giang dù đã có hai mặt con với R. vẫn tức tốc lao trở lại vào vòng
tay của gã. Chưa hết, cả một núi tiền trong két sắt của R. cũng đã bị Hạ Giang
moi ra để cung phụng cho người tình cũ ăn chơi. Quá đau, R. quyết phục hận, nhiều
lần bỏ cả đống tiền chỉ cốt thuê côn đồ dần cho kẻ đã cướp khỏi tay mình cả
vàng lẫn cái ngàn vàng. Khổ nỗi, đó chỉ là mối thù vô vọng. Tất cả những thằng
đầu trâu mặt ngựa nhất của đất Tây Cống (Sài Gòn) đều lắc đầu và trả lại tiền
cho R. khi biết rằng, kẻ mà chúng cần thanh toán là Hải Bánh.
Cùng đường, nhà tư sản đành chơi canh bạc chót: nhờ vả ông
trùm Năm Cam. Ông trùm thủng thẳng:
- Xem như số anh xui tận mạng. Thằng đó (chỉ Hải Bánh) nó có
sợ ai. Cả tôi nó cũng còn coi thường mà đành chịu. Thôi, anh lo thu xếp đi, để
chuyện nhờ vả này đến tai Hải Bánh thì mạng cũng không còn, nói gì vàng với vợ.
Hết cửa, để bảo toàn mạng sống, nhà tư sản (gốc Hoa) đành lặng
lẽ bán tống bán tháo nhà cửa tài sản, mang theo mối hận sầu đau xót bỏ ra nước
ngoài sinh sống. Độc đáo là ở chỗ, toàn bộ thủ tục, giấy tờ cũng như mọi chi
phí để R. ra đi êm thấm, Năm Cam đã hào phóng chi tất, coi như trả nghĩa và
không phụ sự tin cậy của ông R. khi đã tìm đến y cầu cứu.
Trong khi đó, để gây thanh thế, Hải Bánh vẫn cố ý gây ra một
số cuộc loạn đả tấn công một số em út nhà hàng, vũ trường của Năm Cam. Không những
không xuống tay trừng trị, Năm Cam lại hạ mình gặp riêng Hải Bánh, lấy điều hơn
lẽ phải rót mật vào tai gã con trời. Nhắc đến Hạ Giang, ông trùm tỏ ra tử tế
khuyên Hải Bánh:
- Con giun xéo mãi cũng phải quằn, đừng xía vô chuyện nhà người
ta kẻo có ngày giang hồ nó cho ăn đạn. Chỗ anh em có thiếu thốn gì thì qua anh,
anh giúp!
Lời khuyên ngọt ngào nặng mùi cảnh cáo khiến Hải Bánh ngộ ra,
dần dần tỏ ra biết điều và quy thuận ông trùm. Mỗi lần Hải Bánh nhẵn túi, ông
trùm lại xuất hiện đúng lúc, dúi cho hắn mươi “vé”. Sau đó lại bỏ tiền thuê một
căn nhà trên đường Thủ Khoa Huân, quận 1 cho Hải mở tiệm gội đầu Vân’s làm kế
sinh nhai. Dù liều mạng nhưng thân cô thế cô, bị giang hồ Bắc truy đuổi gắt gao
và lại đang rất cần tiền, Hải Bánh đã nhanh chóng bị sợi xích vàng của
Năm Cam trói chặt. Những cuộc tập kích ngông cuồng chấm dứt. Thay vào đó, Hải
nhận lời làm đại diện cho Năm Cam kiêm bảo kê của nhà hàng - vũ trường Phi Thuyền,
mới mở trên đường Tôn Đức Thắng, quận 1 với mức lương 10 triệu đồng/tháng.
Nguyên vũ trường này do một doanh nhân có máu mặt tên là Tống
Việt Hòa, thuê đất đầu tư xây dựng. Không có vốn, Hòa đã mời gọi được một đám
tài phiệt từ Đài Loan kéo sang hùn hạp. Biết tiếng tăm Năm Cam, lại quá sành sỏi
chuyện kinh doanh về đêm, đám tài phiệt này ra điều kiện với Tống Việt Hòa rằng,
họ chỉ chịu rót tiền sang nếu Năm Cam chịu “ăn đèn” tham gia cổ phần. Để dàn xếp,
Tống Việt Hòa đã tổ chức một bữa tiệc chiêu đãi đám tài phiệt tại quán Cánh Buồm,
đường Pasteur, quận 3, vốn là điểm kinh doanh chính của Năm Cam rồi nhân thể mời
luôn anh Năm chủ quán ngồi luôn cho xôm tụ. Động tác bắc cầu của Hòa đạt kết quả
mỹ mãn: Năm Cam nhận lời tham gia với điều kiện Phi Thuyền phải lấy ruợu ngoại
do Năm Cam cung cấp đồng thời trách nhiệm bảo kê cho vũ trường sẽ do đàn em của
Năm Cam đảm nhiệm với giá chính thức mỗi tháng 30 triệu đồng.
Chỉ nửa tháng sau, hơn một triệu USD đã được các cổ đông Đài
Loan - trong đó có anh ruột của ngôi sao phim võ hiệp lừng danh Lương Triều Vĩ
(Tony Lung) rót sang, dựng nên vũ trường Phi Thuyền (Appolo) xôm tụ nhất thành
phố, với mức lãi ròng hơn 100 ngàn USD/tháng. Đến tháng 8 năm 2000, Hải Bánh đã
yên phận với chức danh Security Chief (xếp an ninh) của vũ trường này. Oái ăm
thay, người giới thiệu Hải vào Phi Thuyền, không ai khác lại là Hạ Giang, lúc này
đã sống như vợ chồng với Tống Viết Hòa! Tuy nhiên, dù Hạ Giang có ân sâu nghĩa
dày mấy thì đến lúc đó, hình ảnh cô cũng đã không còn tồn tại trong đầu Hải nữa.
Thay vào đó, một nhan sắc khác: Nguyễn Thị Anh Thư - cô gái được giang hồ mệnh
danh là hoa khôi của những cuộc dạo chơi. Anh Thư sinh năm 1978, tại thành phố
Hồ Chí Minh, quen Hải Bánh vào khoảng tháng 6.2000 trong một đêm nhảy nhót tại
vũ trường Phương Đông, quận 1. Ngày 8.9.2000, khi khai trương tiệm uốn tóc, gội
đầu Vân’s, Hải Bánh đã đưa Anh Thư về, giao cho cô quyền quản lý tiệm, trả
lương hai triệu rưỡi một tháng. Từ đó, Hải và Thư sống với nhau tại tiệm Vân’s
như một cặp vợ chồng.
Trong đời sống giang hồ, sự an lành chỉ là một mỹ từ xa lạ và
xa xỉ, Hải Bánh khai trương tiệm uốn tóc chưa lâu thì Dung Hà đột nhiên xuất hiện.
Là người cưu mang, che chắn cho Hải khi hắn đang bị tầm nã trên đất Bắc, Dung
Hà cho rằng y thị có quyền đòi Hải phải trả ơn. Điều mà Dung Hà muốn là Hải
Bánh phải nhường lại toàn bộ tiền lời của tiệm Vân’s, sau đó nâng lên là phải
bán tiệm cho y thị lấy tiền nuôi quân đang ùn ùn từ đất Cảng kéo vào. Hải Bánh
không nghe. Cho rằng tên đàn em phản phúc, vô ơn, Dung Hà đã nhiều lần đưa đàn
em đến Phi Thuyền quậy, đập phá đồ đạc, đuổi khách khiến “sếp an ninh” Hải Bánh
phải khóc ròng năn nỉ, nhưng thị vẫn không tha. Dã man hơn, Dung Hà còn sai đàn
em xách một xô phân tạt thẳng vào tiệm Vân’s của Hải Bánh. Tiếp đó, đêm
29.9.2000, Dung Hà đã dẫn 15 tên đàn em đến Phi Thuyền để tổ chức sinh nhật với
một ổ bánh toàn... chuột sống, mắm tôm, phân... được thả ra tung tóe, bẩn thỉu
khiến khách chơi trong vũ trường phải chạy toán loạn.
Sau cuộc ẩu đả, bảo vệ vũ trường đã bắt giữ một đàn em của
Dung Hà. Không thèm rời ghế, Dung Hà đã cho đàn em gọi Hải Bánh đến
và ra lệnh: Thả tên đàn em bị bắt ra, đồng thời báo cho chủ vũ trường
và Năm Cam biết là Dung Hà muốn góp cổ phần vào Phi Thuyền. Phần hùn của Dung
Hà chỉ là... một triệu đồng, nhưng phần chia y thị đòi phải bằng phần hùn của
người góp cổ phần cao nhất, nếu không được đáp ứng sẽ quậy tiếp!
Hận nổ đom đóm, nhưng không dám coi thường Dung Hà, Hải Bánh
phải liên tục gọi điện thỉnh ý kiến Năm Cam. Năm Cam điên lắm. Nguyên tháng
8.1998, khi Dung Hà mới chân ướt chân ráo vào Nam, Năm Cam đã nhận Dung Hà làm
em kết nghĩa đồng thời đã từng nhiều lần cho Dung Hà tiền để mở quán bar ở số
17 Bùi Thị Xuân, rồi ủng hộ 30 triệu đồng để Dung Hà mở sòng bạc lụ xây tại chỗ.
Sau đó, thấy chỉ ngay sau ngày đầu tiên hoạt động, sòng của Dung Hà đã lãi ròng
hơn 70 triệu đồng, Năm Cam chóng mặt ra lệnh dẹp ngay. Tiền vô như nước, Dung
Hà không nghe, tiếp tục gá bạc. Đã thế, y thị còn ngang nhiên thách thức ông
trùm bằng cách nhiều lần dẫn đàn em ra Biên Hòa, Đồng Nai phá tan hoang sòng của
Năm Cam do Ba Mậu chỉ huy ở số 180, khu tập thể đoàn 45 phường Long Bình, cố ý
dằn mặt các đối thủ gây thanh thế để tranh giành lãnh địa cờ bạc và tranh quyền
bảo kê.
Không chịu đựng hơn được nữa, Năm Cam ra lệnh cho Hải Bánh:
- Chú gặp Dung Hà, nói với nó là chỗ làm ăn của anh em, đừng
quậy phá nữa. Phải điều đình với nó để sống.
Biết rõ sự ương ngạnh của Dung Hà, Hải Bánh hơi ngại:
- Nếu không điều đình được thì sao?
Câu trả lời của ông trùm chính là lệnh hành quyết:
- Việc của chú là phải biết làm sao rồi, điều đình không được
thì tự chú tính, nếu xảy ra chuyện gì dính dáng đến pháp luật, chính quyền để
anh lo. Anh không muốn thấy mặt Dung Hà nữa.
Không hỏi gì thêm, Hải Bánh lặng lẽ thi hành. Theo lệnh của Hải,
đêm 1.10.2000, hai tên sát thủ Nguyễn Việt Hưng, Nguyễn Xuân Trường đã im lặng
lên đường, mang theo khẩu rulo với năm viên đạn mượn của Đằng tây, tức Lưu Tấn
Nhơn, ông chủ của quán Karaoke Ca Dao trên đường Thi Sách. 0 giờ 25 phút ngày
2.10.2000, một viên đạn duy nhất đã nổ từ trên tay sát thủ Nguyễn Việt Hưng, hạ
gục Dung Hà ngay trước cửa số nhà 17 Bùi Thị Xuân, quận 1, chấm dứt một cuộc đời
đầy tội lỗi của nữ quái Hải Phòng.
Sau vụ hành quyết, Năm Cam và Hải Bánh đều lo sợ bị công an sờ
gáy nên tuyệt đối tránh mặt không gặp gỡ nhau. Cẩn thận hơn, ngay sau đó Năm
Cam còn đổi số điện thoại di động, đề phòng bất trắc. Mãi hai tháng sau, kẹt
quá, Hải Bánh đành liều mạng dắt Hưng, Trường đến tận nơi gặp mặt, Năm Cam mới
chịu ném ra 10 triệu đồng bố thí, kèm theo những câu nói ỡm ờ:
- Đề từ từ rồi anh tính.
Thực tế, điều duy nhất mà Năm Cam tính là tìm cách đưa Hải
Bánh vào chỗ chết, mặc kệ Hải Bánh ngày đêm ngay ngáy vì vừa lo bị công an bắt,
vừa sợ giang hồ Hải Phòng đang sùng sục đòi lấy máu trả thù. Hắn biết, giang hồ
đất Cảng đã ra giá một ngôi nhà giá 150 lượng vàng cho bất cứ kẻ nào hạ được Hải
Bánh.
Biết Năm Cam đang tìm cách bỏ rơi mình, Hải hận bầm gan nhưng
không làm gì được, chỉ còn biết chửi đổng:
- Thằng già chó đểu!
Đang vỡ mật vì lo thì những tháng sau đó, Hải Bánh lại liên tục
phải chống đỡ với hai băng nhóm lạ hoắc liên tục thay nhau đến quậy phá vũ trường.
Có nằm mơ tên giết thuê máu lạnh cũng không thể ngờ những kẻ lạ mặt chính là
đàn em của... Năm Cam gửi đến. Mục đích, ông trùm muốn gây căng thẳng, tạo cớ
cho Hải Bánh nổi nóng, dẫn đến manh động, sẽ sớm vào tù. Nếu điều đó xảy ra, Hải
Bánh vào trước, bàn tay nhám nhúa của ông trùm sẽ thò vào ngay sau đó để điều
khiển đám đại bàng trong trại thủ tiêu Hải Bánh, bịt đầu mối.
Hải Bánh quả thật đã không giữ nổi bình tĩnh. Luôn sống trong
trạng thái phập phồng lo sợ, đầu óc Hải loạn cả lên. Hắn dễ dàng nổi khùng vì bất
cứ lý do nào. Vì một xích mích rất cỏn con (cãi nhau vì không cho mượn điện thoại
di động), ngày 25.5.2001 tại nhà hàng Tân Hải Vân, Hải Bánh đã dùng nguyên một
chồng đĩa giáng xuống đầu một khách ăn khác khiến anh này trọng thương. Vì tội
cố ý gây thương tích, Hải bị công an túm cổ.
Không giống như dự định của Năm Cam, công an đã đưa ngay Hải
Bánh xuống trại giam Công an tỉnh Tiền Giang, khiến mưu đồ với tay theo của ông
trùm hoàn toàn phá sản. Sau nửa năm ngồi tù, đủ thời gian để suy nghĩ đầy đủ
về nghiệp chướng giang hồ, về bộ mặt thật và âm mưu thâm độc của Năm Cam, lại
chẳng thấy “anh Năm” lo lắng được chút nào cả, Hải Bánh quyết định khai hết.
Ngày 5.12.2001, lần đầu tiên tên giang hồ cộm cán chịu vứt bỏ thái độ lì lợm,
khai nhận toàn bộ chi tiết về vụ hạ sát Dung Hà. Cánh cửa bí mật được mở toang,
đường xuống địa ngục mở ra thông thống, cuốn toàn bộ Năm Cam và băng đảng vào
đáy sâu để bắt chúng phải trả giá cho những tội ác mà chúng đã gây ra.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 2.2003
12- VÀNG!
1. Du mục
Rất có thể bạn sẽ chẳng tán đồng, nhưng dù sao, tôi vẫn cứ
tin rằng đôi khi những biến cố lớn, những sự kiện đáng nhớ trong đời lại có khởi
nguồn hoặc đến với chúng ta một cách hết sức ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên, tôi đến với
nghề báo. Ngẫu nhiên, tôi gắn công việc và thời gian của mình với những chuyến
đi... Những lúc một mình với chiếc xe gắn máy cà tàng rong ruổi qua từng miền đất
lạ của rẻo đất cong cong hình chữ S, tôi thường cảm thấy lòng dội lên một cảm
giác lâng lâng khó tả.
Lâu dần thành quen, công việc đã vô tình biến tôi thành một
tín đồ của chủ nghĩa xê dịch, luôn phải đi và muốn đi. Thú vị là ở chỗ, những
lúc rong ruổi đường xa, tôi lại có cơ hội để gặp lại tuổi thơ trong những cơn
mơ mòng hiệp khách, chủ yếu hình thành từ những trang sách ngấu nghiến đọc trộm
và đam mê khám phá.
Cũng ngẫu nhiên như thế, năm 1997, cái địa danh “bãi vàng Phước
Sơn” đã tình cờ lọt vào tai tôi và nằm lại đó như một bí ẩn nhiều sức hút. Năm ấy,
mưa lũ không lớn lắm. Nhưng ở một xứ sở mà cơ sở hạ tầng còn yếu kém như đất nước
thân yêu của chúng ta thì không cần lớn, thiên tai cũng dư sức gây đại họa.
Riêng tại Quảng Nam, với trận lụt “không lớn lắm” năm ấy, toàn tỉnh đã có “97
người chết và mất tích”. Thật ra, “chết” với “mất tích” cần phải được hiểu chẳng
qua cũng chỉ là một! Trước cơn rùng mình, nổi gai ốc của tôi, Thiếu tá Nguyễn Đức
Thành, Phó phòng PX15 Công an tỉnh đã cay đắng bổ sung:
- Đó là chưa kể những người đã bỏ mạng tại bãi vàng Phước Sơn
đấy. Dân đào vàng toàn người tứ xứ, sợ luật pháp nên không ai trình, ai báo. Dù
cố gắng mấy, ngành công an cũng không thể thống kê chính xác được. Chỉ riêng
bãi Nguyễn Văn Ngọc đã có 21 người chết. Tỉnh phải đem máy xúc lên đào suốt cả
tuần mới lấy được xác các nạn nhân!
Biên độ chệch chuẩn quá lớn giữa các con số của báo cáo quan
liêu và thực tiễn sống động đã khiến thói quen phân tích cố hữu của gã nhà báo
là tôi mường tượng ra một đời sống khốc liệt, khốn khổ và đang bị lãng quên ở
vùng vàng. Đối với nghề cầm bút, đó là một đề tài có sức hấp dẫn ghê gớm.
Cho đến lúc đó, thông tin mà tôi có đựơc về “miền đất hứa của
những kẻ liều” vẫn không có gì nhiều hơn đôi dòng vắn tắt: Phước Sơn là một huyện
miền núi phía Tây Quảng Nam, giáp Lào và tỉnh Kon Tum. Cả huyện có 18.000 dân.
Thời chống Mỹ, đó là căn cứ của Cách mạng, nhiều trận đánh ác liệt tốn nhiều
xương máu đôi bên đã nổ ra, hình thành nên những địa danh huyền thoại đã đi vào
văn chương, sách vở: cao điểm E, Sân bay Hiệp Đức, ngầm Phước Mỹ, cầu Đắc Xà
Ê... v.v. Nếu chỉ với từng đó thôi, Phước Sơn cũng đã đủ cuốn hút tôi với bao
nhiêu nỗi tò mò. Nhưng hơn thế nữa, cho dù khuôn mặt đen đúa, không đáng được gọi
là thư sinh, cũng không thuộc vào tuýp người cao quí luôn tin chắc rằng mình có
một tâm hồn lãng mạn thì từ hơn 10 năm trước, tôi cũng đã trót phải lòng mấy
câu thơ của Trinh Đường:
Sông Phước Mỹ đổ xuống nguồn Vu Gia
Anh biết đổ vào đâu quanh năm nước lũ
Xã Phước Mỹ giáp Gia Lai - Kon Tum
Anh giáp với ai trong mang mang hoàn vũ
Quá xã Phước Thành đến huyện Trà My
Quá lòng anh đến đâu xa xứ
Núi Xuân Mãi vươn lên thì gặp trời
Anh vươn lên e cháy đầu nắng lửa
Phước Sơn có vàng có quế có trầm hương
Anh chỉ có một bài thơ viết dở...
(Bài thơ nhờ độc giả huyện Phước Sơn đặt đề)
Hai mươi bảy tuổi, đã qua lâu rồi cái thời sách vở, trong tôi
không còn mơ mộng những chuyện phiêu lưu hão huyền, nhưng niềm đam mê kỳ lạ về
những vùng đất xa xôi, những điều lạ lẫm thì vẫn còn nguyên vẹn. Ngay lập tức,
cái địa danh Phước Sơn xa lạ kia trở thành nơi mà tôi tự nhủ lòng rằng phải đi,
phải đến và phải thấy.
Hùng, một tài xế có “tay lái lụa” ở Công an Quảng Nam bảo
tôi:
- Nếu muốn, sắp xếp thời gian lên đây tôi chở ông đi. Vùng
đó, tôi rành như lòng bàn tay. Còn tính đi xe máy thì quên đi. Khổ không qua nổi
đâu. Tôi cam đoan bãi vàng Phước Sơn không hề giống bất cứ nơi nào mà ông từng
biết.
Tôi không trả lời Hùng. ở cơ quan hoặc đôi lúc ngồi giữa bạn
bè thân, loại người như tôi vẫn thường được những người xung quanh xem là điên.
Tôi cũng chẳng thấy cần phải thanh minh, bởi thằng điên nào cũng có cái lý
riêng của nó. Bạn bè, đồng nghiệp và những người thân của tôi, tất thảy đều tử
tế, đáng kính và cẩn thận. Họ không tài nào hiểu nổi cái lý giản đơn là những
khó khăn, vất vả, thậm chí nguy hiểm nữa, mới chính là ma túy của những kẻ ưa
xê dịch. Thiếu nó, cuộc sống của những kẻ mang máu ngẫu hứng, “rồ dại” như tôi
xem ra chỉ đáng bỏ đi.
Thế nhưng, cũng phải hai năm sau đó, tôi mới có cơ hội biến dự
định của mình thành hiện thực. Lại hoàn toàn là quyết định ngẫu nhiên bởi thật
ra, trong kế hoạch ban đầu, nơi tôi sẽ đến không phải là bãi vàng Phước Sơn mà
là bãi đá saphire Trường Xuân ở Đắc Nông, Đắk Lắk, cách thị trấn Gia Nghĩa
29km.
Ngày 14.5.1999, mưa tầm tã, tôi vượt một lèo 250 km từ Sài
Gòn lên đến Gia Nghĩa. Thuyết phục, năn nỉ mãi các anh công an huyện Gia Nghĩa
vẫn dứt khoát không dẫn đường, cũng không cho phép tôi bén mảng vào bãi đá quí.
Lý do đơn giản: nguy hiểm. Bãi đá saphire Trường Xuân từng được mệnh danh là một
“Texas City ở Việt Nam”. Trong bãi tập trung hầu như không thiếu thứ gì các loại
tệ nạn xã hội. Cư dân của bãi đá này (khoảng hơn 1.000 người) chỉ gồm hai loại:
những tên đầu trộm đuôi cướp trốn lệnh truy nã và những con nghiện oặt xà lai,
thiếu sức sống nhưng thừa máu liều... Không còn cách nào khác, tôi quyết định gửi
đồ đạc lại công an huyện và bắt xe ôm một mình thâm nhập vào bãi đá. Để tăng cảm
giác tự tin, tôi nhét vào trước bụng một khẩu rulô có 5 viên đạn hơi cay và hơi
ngạt, thứ công cụ hỗ trợ “làm dáng là chính” được cơ quan cho phép mang theo
(có giấy phép) trong những chuyến công tác đường dài.
Không người dẫn đường, không quen biết ai, cũng chưa định...
gặp tai nạn, tôi không thể mạo hiểm đột thẳng vào khu vực lán trại của dân đào
đãi đá dựng lên xung quanh hai bờ suối Đăk Tol nằm kẹt giữa những ngọn đồi. Để
nâng tầm quan sát, tôi quyết định rúc lên rừng le mọc kín quanh ngọn đồi phía
Tây Bắc con suối. Chỉ cần có một chút xíu kinh nghiệm đường rừng, bạn đọc cũng
đã có thể hình dung ra tôi đã phạm những hai sai lầm một lúc. Thứ nhất: chỉ có
những kẻ thiếu hiểu biết mới công không đi rừng vào mùa mưa. Thứ hai, lớp lá mục
của rừng le chính là “thiên đường” của các loài vắt, con nào con nấy to nần nẫn
như ngón tay cái. Tiếng bước chân đạp lên cành khô, lá mục của tôi đã khiến lũ
vắt đang “ngủ say” thức giấc. Chúng “nhổm” lên và búng đi nghe rào rào...
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” hay gọi là “có duyên
nghề nghiệp” thì cũng thế. Thiếu kinh nghiệm thậm chí có gọi là dốt nát đi
chăng nữa cũng chưa chắc đã là quá tệ. Khi bò lên hết đỉnh đồi có rừng le, tầm
mắt đủ quan sát mọi động tĩnh của vũng bãi đá, tôi chợt phát hiện ra có 4, 5
người mặc quần áo như dân lao động cũng đang lui cui chui rúc trong rừng le như
tôi. Lúc này, tôi mới chợt nhớ ra: ở trước dãy nhà nát là lán trại của Xí nghiệp
đá quí Đắk Lắk dựng gần bãi khai thác, tôi có trông thấy một chiếc xe Uoát mang
biển số trắng 29L..., có lẽ chiếc xe đó là của những người đang lui cui phía cuối
đồi le. Theo suy đoán, tôi nghĩ rằng họ đang tìm cách phát rừng, tìm đất để làm
rẫy cà phê. Vào thời điểm đó, phá rừng làm rẫy càphê là phong trào đang rầm rộ ở
Đắk Lắk. Nhưng, mất gần trọn buổi chiều bí mật quan sát, tôi vẫn không hề thấy
họ hạ một khúc cây, đốt một vạt rừng nào. Bị kích thích bởi sự ngạc nhiên, tôi
quyết định mò đến tận nơi. Nếu họ cũng như tôi, đến bãi đá saphire mà không phải
để đào đãi thì chắc là không có gì đe dọa, tôi nghĩ thế.
Nhưng, còn cách tốp người nọ cỡ 100m, tôi đã bị chặn lại bởi
một tiếng quát:
- Đứng lại! Ông đi đâu?
Giật bắn mình, tôi thò tay vào báng súng và từ từ quay đầu lại.
Và trợn mắt ngạc nhiên. Hùng, gã lái xe của công an Quảng Nam đang đứng đó há hốc
mồm, y như tôi vậy (!).
- Ông đi đâu đây?
- Vậy anh đi đâu đây?
Thì ra, những người mà tôi ngỡ đi phá rừng trồng cà phê kia,
không ai khác, chính là các cán bộ của Phòng Cảnh sát Điều tra Công an Quảng
Nam. Họ đang mai phục để truy bắt những tên tội phạm nguy hiểm do tên Nguyễn
Văn Thanh, tức Thanh “sứt” cầm đầu. Chúng đã gây hàng chục vụ cướp của hiếp dâm
ở bãi vàng Phước Sơn, sau đó tắt rừng vọt sang Kon Tum rồi mò lên bãi saphire
Trường Xuân trốn tránh. Vô tình, máu mạo hiểm đã đẩy tôi lọt vào giữa một cuộc
truy kích. Cơ hội ngàn vàng, xin thề là có đuổi tôi cũng không đi! Bất đắc dĩ,
Trung tá Huỳnh Đức Cường, Phó phòng Cảnh sát Điều tra Công an Quảng Nam, người
chỉ huy cuộc truy kích đành phải chấp nhận cho tôi nhập bọn, đơn giản vì không
thể để tôi rời ra, dễ lộ khiến đối tượng đánh hơi chạy mất.
Trong hai ngày sau đó, tôi đã theo chân các anh Cường, Trung,
Dũng, Nhậm, Hùng... tiến hành đột kích xuống khu Bờ Suối hai lần, bắt giữ bảy kẻ
tình nghi. Trong số đó, có bốn tên: Bắc phò, Tiên nghiện, Lanh và Thanh Hàng trắng
là những tên cướp đào thoát từ bãi vàng, hiện đang bị truy nã. Riêng Thanh sứt,
tên cầm đầu đã may mắn thoát vòng vây, với một khẩu K54 đầy đạn. Oái ăm ở chỗ,
trên đường chạy, Thanh “sứt” đã vọt xuống phía dãy lán của xí nghiệp và cuống
cuồng chui vào chiếc... U oát của những người Công an truy đuổi để... ăn trộm
quần áo cải trang trước khi chạy mất. Tên Thanh “hàng trắng” cũng lao qua đầu
những người truy kích tính lủi vào rừng le. Nhưng không kịp, chỉ thoáng nửa
giây, khẩu súng trong tay Trung tá Huỳnh Đức Cường đã kịp vẩy theo. Viên đạn
duy nhất thoát nòng găm vào bàng quang đã xô tên tội phạm ngã úp mặt xuống suối,
đành phải tra tay vào còng và được đem đi cấp cứu.
Trong hai chuyến đột kích ấy, tôi, vì không phải cảnh sát điều
tra, không có chuyên môn, nghiệp vụ nên được phân công “lao động giản đơn”, chỉ
phải làm duy nhất một công việc nhẹ nhàng, đó là rút khẩu ru lô của mình ra và
đứng canh không cho những tên cướp đã bị còng tay từng hai tên một chạy trốn.
Dù vậy, cũng có thể xem như tôi đã “đồng cam cộng khổ”, cho nên cánh điều tra mặc
nhiên coi tôi như một “phe ta”, chịu chơi và thân thiết. Dự định vào bãi vàng của
tôi được Trung tá Cường và các trinh sát ủng hộ ngay. Cường hẹn:
- Đúng một tuần nữa gặp nhau ở bãi vàng. Chuyên án này
(chuyên án CD99) mà xong, ông tha hồ tư liệu mà khai thác.
3 giờ chiều ngày 16.5.1999, tài xế Hùng phóng chiếc Uoát chở
tên Thanh về Bệnh viện Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh rồi trở lại ngay. 2 giờ
sáng, anh đã có mặt trở lại ở công an huyện Đắc Nông để sáng hôm sau đưa các
cán bộ điều tra và những tên bị bắt theo quốc lộ 14, rẽ quốc lộ 26 rồi xuôi quốc
lộ 1A về Quảng Nam. Tôi không đi theo họ mà tiếp tục ở lại Đắc Nông thêm một
ngày để hoàn tất nốt phần việc của mình. Ngày hôm sau, chiếc xe máy của tôi đã
dừng lại ở thị xã Plây Cu. Tôi quyết định nghỉ lại ở phố núi một đêm, kiểm tra
xe cộ trước khi “một mình một ngựa” ngược đường 14 để thâm nhập vùng vàng.
Trước khi công trình đường Hồ Chí Minh xuyên Trường Sơn được
khởi công, từ Quảng Nam đi lên Kon Tum xem như hoàn toàn không có đường. Để đến
thị trấn Khâm Đức - thủ phủ của vùng vàng, dân đào vàng thường xuất phát từ TP.
Đà Nẵng hoặc thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam), đi ngược lên. Đoạn này xa hơn - khoảng
200 km - nhưng còn có thể gọi là đường, còn có người qua lại, phòng khi bất trắc.
Đoạn từ thị trấn Plei Cần (Ngọc Hồi, Kon Tum) xuống tuy chỉ dài 130 km nhưng
hoàn toàn xuyên trong rừng già, lại bị chắn ngang liên tục bởi vô số những ngọn
núi có cao độ không dưới 1.400m, hai bên đường hầu như không có dân cư.
Người khai sinh ra con đường độc đạo này không ai khác, chính
là Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm là Tổng thống Việt Nam Cộng hòa thì đúng rồi,
nhưng khổ nỗi ông ta lại là vị Tổng thống có năng lực cai trị của một quan
thanh tra tản mạn. Xuất thân từ tầng lớp quan lại quan liêu, khi trở thành Tổng
thống của cả một “quốc gia dân chủ”, ông Diệm vẫn mang nặng lối tư duy duy ý
chí mà thiếu trầm trọng những năng lực chuyên môn. Để “cải thiện dân sinh”, năm
1957, Diệm đã hô hào dựng lên ở miền Nam hàng loạt khu trù mật, hàng loạt tỉnh
tân lập. Năm sau, 1958, trong tham vọng “nối Cao nguyên với Duyên hải miền
Trung”, ông ra lệnh cho xây dựng một tuyến đường độc đạo xuyên từ Tây sang Đông
Trường Sơn, nối Kon Tum với Quảng Nam, bất chấp con đường đó phải xuyên qua vô
số rặng núi đá hiểm trở của vùng Tây Trường Sơn trước khi đâm chéo sang hướng
Đông Bắc - cũng hiểm trở không kém - đổ vào địa phận tỉnh Quảng Nam. Vào thời
bình, với mục đích phát triển kinh tế, điều kiện thi công thuận lợi, rất có thể
đây là một ý tưởng tốt và khả thi. Khổ nỗi, ông Diệm lại là một Tổng thống của
thời chiến, chỉ quen cai trị bằng mệnh lệnh nhưng thiếu đầu óc bao quát và khả
năng tư duy trừu tượng nên ông bất chấp. Theo lệnh của ông, cuối năm 1958, một
đại đội công binh và hai đại đội Bảo an bảo vệ công trường đã được cắt ra, giao
cho đại úy Trần Văn Kha chỉ huy kéo lên Kon Tum để xây dựng con đường này. Dù
đã hết sức cố gắng đi kèm với hàng loạt phúc trình về điều kiện an ninh không bảo
đảm, Trần Văn Kha vẫn không tài nào hoàn tất nổi nhiệm vụ được giao. Công tác
thi công gần 200km đường qua một địa bàn toàn rừng rậm, núi cao và hầu như
không có dân cư, làng mạc đã khiến cho hai đội Bảo an không thể bảo vệ nổi con
đường trước những cuộc tập kích bất ngờ và liên tục của quân cách mạng. Ngày
21.10.1960, hàng loạt đồn bót, cứ điểm gồm Dakpet, Daksout, Dakse ở Kon Tum bị
“Việt cộng tấn công ồ ạt và tràn ngập”, Ngô Đình Diệm phải gửi gấp ba tiểu đoàn
dù của Nguyễn Chánh Thi lên cứu viện. Một tuần sau, ngày 28.10.1960, đại đội bảo
an và đại đội công binh thi công cùng một loạt đồn bót bảo vệ công trường khác
thuộc địa phận Quảng Nam lại bị tấn công, gây thiệt hại nặng nề: quân lực bị
tiêu hao, phương tiện cơ giới bị phá hủy, đồn bót bị phá vỡ. Trước đó đúng hai
tháng, sân bay Hiệp Đức và căn cứ bố phòng tại cao điểm (thị trấn Khâm Đức)
cũng bị tấn công dữ dội, một máy bay bị bắn cháy, cao điểm E bị quân cách mạng
chiếm giữ sáu tiếng đồng hồ liền, toàn bộ hệ thống bố phòng bị phá hủy, toàn bộ
vũ khí bị tịch thu, trước khi quân tiếp viện kịp tiếp ứng và tái chiếm.
Làm chưa xong đoạn này, đoạn khác đã bị tấn công phá hoại, Trần
Văn Kha không còn cách nào khác, đành viết báo cáo xin từ nhiệm. Đến năm 1962,
công trình đường 14 “nối dài” của ông Diệm đành phải bỏ dở khi chưa thể hoàn
thành.
15 năm chiến tranh sau đó, đoạn đường 14 này đích thực là một
bãi chiến trường, ta và địch giành nhau từng mét một. Đó là cửa ngõ duy nhất tiến
vào vùng Bắc Tây Nguyên, là hành lang cho những đoàn xe tăng, pháo binh quân giải
phóng tiến đánh hàng loạt căn cứ Plei Me, Plei Cần, sân bay Phượng Hoàng, Đắk
Tô, Tân Cảnh... từ đó thọc xuống Kon Tum và Gia Lai. Sau chiến dịch Hạ Lào năm
1971, mặt đường đã bị bom pháo cả hai bên giã nát. Gần 1/4 thế kỷ sau sau ngày
giải phóng, đoạn đường độc đạo này hầu như bị lãng quên, không hề được tu sửa,
không có ai qua lại, bởi quá nguy hiểm. Bằng máu phiêu lưu cá nhân, sau bốn thập
kỷ, tôi đã có dịp dẫm chân lên con đường phiêu lưu chính trị của ông Ngô Đình
Diệm!
Với những người giàu kinh nghiệm thì đây là con đường chỉ
dành cho hai hạng người: những tên cướp từ bãi vàng tắt đường trốn sang Kon Tum
hoặc những anh công an đang truy tìm bọn cướp. Khi quyết định chọn ngả “không
thể vượt qua” được này, xuyên từ Tây sang Đông dãy Trường Sơn, để thâm nhập bãi
vàng, tôi đã tự biến mình thành loại thứ ba, loại người thiếu kinh nghiệm trầm
trọng. Đi là để biết, tôi không muốn chọn cho mình con đường dễ!
2. Xuyên Tây Trường Sơn
8 giờ sáng ngày 18.5.1999, từ thị xã Plei Ku còn đúng 24 giờ
đồng hồ nữa sẽ chính thức trở thành thành phố, tôi bắt đầu xuất phát. Ngoài chiếc
xe Dream lùn làm phương tiện, tôi chỉ có duy nhất một “bạn đồng hành”: một tấm
bản đồ đường sá (Nam) Việt Nam do hãng dầu nhớt ESSO ấn hành năm 1968.
Bản đồ có vẽ nghĩa là có đường. Có đường thì phải có người
đi. Người ta đi được thì tôi đi được... Cái tam đoạn luận trình độ tiểu học ấy
là niềm tin duy nhất để tôi dấn thân vào cuộc hành trình. Cứ nghĩ đến việc được
đạp lên những đoạn đường thời chiến, lửa hăng hái đã cháy lên trong tôi ngùn ngụt.
Đường vắng, nắng nhẹ, sau hai tiếng rưỡi, tôi đã vượt qua Kon Tum rồi Đắc Tô,
Tân Cảnh, sân bay Phượng Hoàng... và có mặt ở thị trấn Plei Cần, cách Plei Cu
đúng 150 km. Trước mặt tấm biển chỉ đường đã mờ nhưng vẫn còn đọc được, đề: Ngã
ba biên giới - 18km. Đá chân chống xe, tôi níu áo một người đàn ông đang lùa bò
qua đường hỏi một câu rất... oách:
- Bác ơi, sang Lào đi ngã nào?
Bên tay phải, con đường xuyên Tây Trường Sơn cũng đã hiện ra.
Mặt đường không khác gì một dòng suối cạn, phủ đầy đá củ đậu, bị nước mưa bào
mòn thành vô số hố rãnh khiến xe máy cứ chồm chồm nhảy từng bước vài mét một.
Sau gần 20 km, khi tay lái đã mỏi nhừ, tôi gặp trục trặc đầu tiên: xì bánh sau.
Nắng như đổ lửa. Hai bên đường là những bản làng dân tộc thưa thớt và heo hút,
không hề có chỗ vá, lại không mang theo đồ nghề, tôi đành lặc lè dắt bộ lên dốc
xuống đèo. Điều an ủi duy nhất là cảnh ven đường tuyệt đẹp. Ngay dưới chân tôi
là sông Krông Pôcô, một dòng sông hẹp nhưng sâu và trong vắt, chảy cặp bên đường.
Giá mà được vứt xe nhảy ùm xuống đó để gột sạch lớp bụi đường và làm dịu cái nắng
cao nguyên đang thiêu đốt thì hay biết mấy. Nhưng không thể. Bờ sông là vách đá
dựng đứng, sâu cách mặt đường từ 30 - 50 m.
Được hơn cây số, vị cứu tinh xuất hiện. Sau khi hoàn tất một
miếng vá với giá 25.000 đồng, gã xe ôm vùng sơn cước tỏ ra áy náy bảo tôi:
- Không có đồ xơ-cua, đi đường rừng nguy hiểm lắm. Nếu anh cần,
tôi tính giá hữu nghị: 100 ngàn cả hai thứ. Cái bơm tôi mới xài hai năm. Cái ruột
(xe) cũng còn tốt chán, mới vá có... sáu lỗ.
Dĩ nhiên, các loại ruột mới vá có sáu lỗ mà vẫn còn tốt chán
không phải là thứ nằm trong ý thích, cho nên tôi chỉ nhã nhặn cảm ơn và chuồn gấp
để bảo vệ sự tồn tại cho 100 ngàn.
Hơn một giờ chiều, dừng ăn trưa tại Đak Glei - thị trấn cuối
cùng của tỉnh Kon Tum - tôi gặp thêm người tử tế thứ hai. Hưởng, như lời tự giới
thiệu, tay bưởng thứ thiệt vừa từ bãi vàng thôn 8, xã Phước Thành mò ra, nhìn
tôi bằng ánh mắt thương hại của một kẻ từng trải:
- Quên chuyện vượt đèo Lò Xo bằng xe của ông đi. Thử tưởng tượng:
Ông sẽ phải vượt 65km đường rừng với vô số đèo dốc và không hề gặp một bóng người.
Chỉ một thân một mình, lỡ ra... Cứ nghỉ lại đây một đêm. Nếu muốn vào bãi, mai
gửi xe lại, tôi đưa ông vào. Đi một mình như ông đừng hy vọng đến nơi, họa có
khùng!
Không nên gọi người chưa quen là “khùng” bởi rất có thể bạn sẽ
gặp một tay... khùng thật, lúc đó thì nguy lắm! Tuổi trẻ cao ngạo và dốt nát,
tôi ném cho gã một cái nhìn khinh mạn:
- Tôi không có thói quen bỏ cuộc chỉ vì một lời khuyên xa lạ!
Với tôi, mối đe dọa trong trí tưởng tượng bao giờ cũng đáng sợ
hơn nhiều so với những đe dọa gặp trong thực tế. Hưởng không tự ái, chỉ trả lại
cho tôi nguyên vẹn cái nhếch mép:
- Được, ông cứ đi đi. Cam đoan chiều nay ta lại có dịp cùng
ăn tối tại quán này! Nên nhớ, những kẻ ông gặp trên đường, không phải thằng nào
cũng tử tế như tôi đâu.
Lại tiếp tục lên đường. Trời đang nắng đột nhiên tối sầm rồi
mưa quất chéo mặt. Chỉ vài cây số, con đường đã mất hút giữa rừng già; dốc, cua
chóng mặt và không một bóng người. Toàn đá, đá và đá. Được đôi đoạn đường đất
thì lại trơn kinh khủng. Khẩu hơi cay giắt trước bụng, cả người lọt thỏm trong
chiếc áo mưa rộng thùng thình của Báo ANTG, tôi gần như chồm người đè lên
guidon để giữ tay lái, mặc kệ cho bánh xe sau cứ tuột quăng quật ra hai bên.
Khoảng một giờ sau, khi vòng tránh một bãi lầy khổng lồ tôi mới thở phào: con
đường có vẻ như rộng ra, dễ đi hơn. Quá tốt, tôi cứ cắm mặt cho xe vượt dốc.
Cho đến khi một đống hoang tàn phủ rêu bỗng nhảy ra trước mặt, tôi mới ngớ ra:
lạc đường. Nơi tôi đang đứng là... ngục Kon Tum. Lại lộn xuống dốc. Hóa ra, bãi
lầy kinh khủng kia là ngã ba, đi thẳng là Quốc lộ 14 về Khâm Đức, còn rẽ phải
là tỉnh lộ dẫn lên ngục Kon Tum!
Mất hơn 15 phút mới vượt hết bãi lầy bất trắc, tôi lại tiếp tục
lóc cóc tiến sâu vào rừng già. Cách 10 m đã không nhìn thấy con đường. Rừng già
giao tán phủ kín lối đi. Thỉnh thoảng bánh xe lại khựng lại vì vấp một cục đá
to, hất tôi ngã nhào xuống mặt đường.
Trời vẫn mưa. Mưa Tây Trường Sơn không lớn lắm nhưng dai dẳng.
Sau hơn chục lần té lên té xuống, tôi mới lần lên được đến đỉnh đèo Lò Xo. Mới
bốn giờ chiều nhưng rừng đã sụp tối. Tịnh không bóng người, chỉ mây núi ken đặc
luồn qua chân, phả vào mặt lành lạnh. Khuỷu tay, đầu gối đều trầy trụa và sưng
vù, bùn ngập từ chân lên đến đầu khiến tôi cảm thấy cô đơn và chán nản ghê gớm.
Nhưng tôi không thể quay lại. Sự lì lợm và cố chấp của tuổi trẻ sẽ khiến tôi
điên mất, nếu quay lại để phải nhận nụ cười độ lượng và thương hại của gã đào
vàng ở thị trấn Đak Glei. Lúc đó, tôi chỉ có một ao ước hết sức nhỏ nhoi là
mình đang có mặt tại Sài Gòn, được mặc một bộ đồ khô ráo, rúc mình vào một quán
càphê ấm áp nào đó với một ly đen không đường và mấy điệu tango dìu dặt...
Những thách thức vẫn chưa giãn ra. Mưa xói, đoạn đường bằng
duy nhất trên đỉnh dốc bị núi lở chắn ngang bằng một bãi bùn khổng lồ. Vặn hết
ga, tôi cho xe liều mạng vút qua. Hực một tiếng, người lao vọt qua guidon xe,
tôi bị ném phịch xuống giữa bãi bùn. Bánh trước bị lút sâu trong bùn nên xe vẫn
không ngả, bánh sau vẫn quay tít.
Nhấc bánh xe trước ấn xuống bùn để xe khỏi ngã, sau đó lại nhấc
bánh xe sau... Thêm gần nửa giờ vật lộn bằng phương pháp “sâu đo” ấy tôi mới vượt
qua được bãi lầy dài chừng hơn 100m. Đến lúc đó tôi mới cảm hết nỗi cô đơn, tuyệt
vọng và nhỏ nhoi của con người trước thiên nhiên hùng vĩ. Lại lên xe, nhưng đề,
đạp cả buổi máy vẫn không nổ. Nổi khùng, tôi đá lung tung vào mây và hét toáng
lên những câu tối nghĩa. Không ai trả lời. Chỉ có tiếng núi âm âm vọng lại. Vài
con bìm bịp - cũng cô đơn như tôi - giật mình bay vút lên!
Có khóc chắc cũng chẳng ai nghe, tôi bất lực ngồi bệt mông xuống
lòng đường nhão nhoét. Vì lẽ gì tôi lại phải ném mình vào bãi bùn trên đỉnh núi
này? Can đảm thì chắc là không, vì lúc này lòng tôi chỉ chất đầy cảm giác lo lắng,
chán nản. Vậy thì đam mê, liều lĩnh? Tôi không biết, chỉ chắc chắn một điều,
tôi sẽ không có mặt ở đây, nếu không trót mang cái chức danh nhà báo. Công việc
tạo ra mục đích, và với chức danh trót nhận, tôi tin là mình có thể đi đến tận
cùng thế giới.
Nói như thế, rất có thể bạn sẽ cho rằng tôi thiếu khiêm tốn.
Quả thật, ngoài một trái tim kiêu ngạo, tôi chẳng còn gì khác. Với những gì đã
và sẽ gặp, tôi luôn tin chắc rằng khiêm tốn thật ra chỉ là đức của những kẻ thiếu
tự tin! Có thể còn có một lý do khác nữa: Tôi đi vì một ánh mắt. Tại sao gã Đon
Kihôtê điên rồ của xứ Mantra thì luôn có hình bóng một nàng Dulcinea để mang
theo trong những chuyến lang thang mà tôi thì không nhỉ? Có điều, nàng Dulcinea
của tôi chắc chắn không ở làng Toboso, cũng chẳng phải là “người muối thịt lợn”
ngon nhất xứ. Nàng Dulcinea của tôi là một cô sinh viên đại học. Lần đầu tiên
chìa bàn tay nhỏ nhắn và nóng ấm cho tôi nắm lấy, em mới 19 tuổi. Ngày tôi đi,
em vẫn 19 tuổi. Năm tháng rồi sẽ trôi đi, nhưng tôi biết, nàng Dulcinea của tôi
sẽ vĩnh viễn cứ 19 tuổi. Nhìn vào đôi mắt trong veo của em, tôi biết mình vẫn
chưa đủ phong trần để đến bên em thay hoa làm quà tặng. Thế là tôi cứ đi, đi và
đi... Khi ngồi bệt trên đỉnh Lò Xo, tôi chợt nghĩ về em, rất lâu, với một chút
hối tiếc: tôi đã không hề nói với em một câu nào về chuyến hành trình sắp tới.
Biết sao được. Tôi không muốn vì tôi, mắt em phải nhuốm màu lo lắng.
Có một điều phi lý: trong bản đồ của hãng ESSO, đỉnh Lò Xo
cao 1448m. Nhưng sau này, ở một bản đồ khác mới xuất bản mà tôi tìm được ở thị
xã Tam Kỳ, cao độ này lại tăng vọt, những 1.600m.
Đúng lúc rơi tõm vào tuyệt vọng, lòng tôi bỗng sáng lên: Trước
mặt là một bãi... phân trâu đang bốc hơi nghi ngút trong mưa. Sự sống!... Nước
mắt tôi trào ra, lòng tôi dội lên một cảm giác hạnh phúc và thân thiết. ở đâu
đó trong sách vở, có lẽ chẳng ai lại ngốc nghếch để lòng mình thổn thức vì một
bãi phân trâu. Cũng phải thôi, các nhà văn đáng kính, họ có thừa trí tưởng tượng
để viết, cần gì phải trèo lên đỉnh núi nên làm sao bắt họ cũng phải
có cảm giác như tôi?
Và tôi đã đoán không lầm. Cách đỉnh Lò Xo chỉ hơn trăm thước
có một bản người dân tộc Giẻ Triêng với hơn một chục nóc nhà heo hắt. Từ trong
những túp lều thấp lè tè và tối nhờ nhờ, những người đàn ông đàn bà tóc bù xù,
ngồi xổm gối chạm mang tai ngó tôi áo tơi sùm sụp lóc cóc lao xe qua bằng cái
nhìn lạ lẫm, dừng lại hỏi gì họ cũng lắc đầu.
Tiếp tục cuộc hành trình, tôi cứ lầm lũi cho xe xuyên rừng,
leo dốc. Trên đầu tôi, đường dây 500 KV sừng sững vắt qua điệp trùng rừng núi. ở
bản người Giẻ Triêng duy nhất ấy, không ai biết đường dây kia là gì cả. Người
già không biết, người lớn cũng không. Chỉ có trí tưởng tượng của mấy đứa con
nít lòi rốn là tỏ ra có hiểu biết! Chúng gọi đó là những... sợi dây buộc trời!
Khi tôi đổ dốc đèo Lò Xo thì buổi chiều sắp qua hết. Trời ngừng
mưa và nắng bỗng ửng lên đợt cuối cùng. Những cánh rừng sũng nước thoắt trở nên
vàng rộm, ngập tràn tiếng vượn hú trượt dài theo những tia nắng xiên khoai đang
rưng rưng chực tắt. Cầu Đắk Chè hiện ra, đã vỡ mất hơn một nửa. Mặt cầu không
hiểu sao lại nhuộm rực một màu vàng non như hoa cải. Khi bánh xe tôi lao qua,
thảm hoa cải vàng đột ngột tung lên. Sau cú giật mình, tôi ngừng xe ngây người,
lần đầu tiên được chiêm ngưỡng một vũ điệu rộn ràng với hàng vạn cánh bướm đang
tung bay giữa lòng khe cạn.
Để vượt qua những chân dốc kinh hồn và khúc khuỷu, không còn
cách nào hơn, tôi đành cho xe bò toàn số 1 và đạp phanh liên tục. Kết quả: kim
đồng hồ xăng tụt rất nhanh, chắc chắn không đủ xăng để đi nốt đoạn
đường còn lại. Để tiết kiệm xăng, tôi nảy ra sáng kiến: chỉ nổ máy khi leo dốc,
còn lúc xuống sẽ tắt máy, và đạp phanh cho xe tự trôi. Trả giá ngay tức khắc: cả
người lẫn xe lộn nhào ngay trong cú trượt dốc đầu tiên. Rừng núi Trường Sơn
không dung những trò diễu cợt. Tôi nằm lăn giữa dốc, tự nhủ lòng: cùng lắm đành
chấp nhận sẽ ngủ qua đêm giữa rừng. Lại lồm cồm bò dậy, lại đi. Khi trời tối hẳn
thì giọt xăng cuối cùng bị đốt hết, tôi đành dắt bộ. Rừng tối như hũ nút. Hàng
chục cú vấp vào đá khiến những ngón chân tôi tê dại, đau buốt óc. Vứt xe vào
ta-luy dương, khóa cẩn thận, tôi quyết định đi bộ để tìm xăng. Nhưng, vừa vượt
qua khúc cua, một thung lũng lưa thưa ánh điện đã hiện ra cách chỗ tôi đứng chỉ
chừng 5, 6 km. Đoán chắc đó là thị trấn Khâm Đức, tôi bèn quay lại dắt xe đi tiếp.
Sau đúng một giờ đồng hồ, cả người lẫn xe mới vượt thêm được đúng 1 km. Dưới chân
cầu Đắc Xà Ê, những người dân đầu tiên tôi gặp ở vùng vàng tò mò nhìn gã khách
lạ dắt xe vào điểm bán xăng như nhìn một kẻ đến từ hành tinh lạ. Còn tôi, quá mệt
mỏi, cả người đau nhừ, đành phớt lờ tất cả, tiếp tục lên xe lết tới thủ phủ
vùng vàng, cách đó chừng 4 km.
Tôi đến Khâm Đức lúc gần tám giờ đêm. Tính ra tôi đã vượt qua
đoạn đường từ Đak Glei đến Khâm Đức dài 65km mất những hơn 5 giờ hồng hồ.
“Đúng là tốc độ tên lửa”, nhận xét của Thiếu tá Đào Quang -
Phó Công an huyện về chuyến hành trình khiến tôi tin chắc ở Phước Sơn, tốc độ
tên lửa chậm hơn nhiều so với các nơi khác, chỉ khoảng độ 13km/h!
3. Đường đến thiên đàng
Thị trấn Khâm Đức chỉ có 7.000 dân nhưng lại có tới hơn 100
hàng quán đủ loại, chủ yếu phục vụ các thượng đế vừa mò ra từ bãi vàng. Với một
ít hiểu biết sơ khai do công an huyện cung cấp, tôi nhét vào túi một cục tiền
và bắt đầu lân la hàng quán bắt chuyện với một số chủ bãi mới mò ra, chìa hẳn
thẻ nhà báo cho họ xem và bắt đầu chơi bài “xì tố”. Tại quán nhậu kiêm nhà trọ
của bác sĩ X., chủ bãi Nguyễn Văn Ngọc là người đầu tiên tôi tiếp xúc.
- Nghe nói bãi anh xài thuốc nổ dữ lắm, từng sập hầm chết hơn
hai mươi người một lúc, đúng không?
Câu hỏi của tôi khiến Ngọc - đang chờ ngày ra tòa - giật nảy
người:
- Ăn nhằm gì anh ơi, bãi tụi Vinh “tóc dài”, Dũng Lai, Quốc
con... còn chơi bạo hơn nhiều...
Cứ thế, Ngọc kể cho tôi vanh vách những thông tin về các vụ
phạm pháp của các hầm, bãi khác. Với những thông tin này, tôi lại tiếp tục chặn
những chủ bãi kia và... tố tiếp. Dù không ưa gì tôi, các ông chủ của vùng vàng
cũng đành nuốt giận bởi không thể tấn công, trừng phạt nhằm bịt miệng tôi khi họ
đang ở ngoài thị trấn. Vậy là họ lại cố thanh minh bằng cách lôi tội kẻ khác ra
kể cho tôi nghe kèm theo lời nhắn:
- Không tin bữa nào anh dzô trỏng coi, tụi em chỉ lo làm ăn,
hiền khô à.
Dĩ nhiên là tôi chấp nhận lời mời của họ một cách vui vẻ. Đã
ngồi chung bàn ở thị trấn thì vào bãi tôi là khách, họ không thể uy hiếp, đe dọa
gì tôi được.
Sau hai ngày, đã thu thập được hơn chục lời mời vào bãi làm
khách, tôi quyết định bắt đầu cuộc chơi. Mọi con đường vào các bãi đào đều giống
nhau: phải đi xe ôm, theo đường mòn vào đến điểm tập kết, sau đó đi bộ cắt núi
vào bãi, gần nhất chừng một, hai giờ, xa nhất khoảng ba ngày đường, nếu thạo
nghề leo núi.
Đội quân xe ôm ở bãi vàng rất đông đảo - lên đến hàng trăm
người - nhưng chỉ độc một loại xe Minsk của Liên Xô cũ. Tất cả chỉ để phục vụ
khách ra vào bãi. Thị trấn bé như lỗ mũi, đi xe ôm chỉ tổ mất công leo lên leo
xuống.
Gọi là đường cho oai, kỳ thực tất cả chỉ là những lối mòn được
bạt sơ sài ôm quanh vách núi. “Thiết kế” và “xây dựng” những con đường này
chính là đồng bào dân tộc Mơ Nông ở địa phương, mục đích để có cớ thu tiền của
những kẻ đào vàng hơn là để phục vụ việc đi lại. Do vậy, những con đường thường
dốc đứng một cách vô lý, rất dễ khiến cả người lẫn xe bật ngửa ra phía sau. Đã
vậy, mặt đường lại hoặc trơn trợt, hoặc nhão nhoét. Nhiều đoạn, xe và người ngập
trong “món cốc-tai của Trời”, bùn lút đến đầu gối. Để vượt qua những đoạn đường
như thế, tất cả xe ôm đều phải gia cố bánh sau. Hai sợi dây xích nối bằng sên
cam xe máy dài đúng bằng chu vi lốp xe, được nối ngang bằng những đoạn sên cam
khác tạo thành một cái “rọ” xích ôm lấy bánh xe sau, hai đầu nối với nhau bằng
hai đoạn ốc tăm xe đạp. Chỉ với những chiếc rọ này, bánh xe mới có thể bám vào
mặt đường để leo dốc, vượt lầy mà không rơi xuống vực, không bị trượt. ở những
đoạn lầy lội, xe sau cứ ngắm thẳng vết bánh xe trước bò qua. Nhiều đoạn, vết
bánh xe bị rọ xích cày thành rãnh, sâu tới 30cm. Người ngồi sau phải co hai
chân lên mới không bị gạt văng mắt cá. Vào mùa mưa, xe ôm bánh xích cũng chỉ chạy
được từng đoạn. Qua những đoạn quá lầy hoặc quá dốc, khách được hét xuống lội
bùn hoặc đẩy xe mà không hề được trừ bớt tiền. Đã vậy, các “thượng đế” cũng chẳng
được đối xử nhẹ nhàng gì cho lắm. Chưa leo lên xe, tôi đã bị Quảng, 31 tuổi, gã
xe ôm mà tôi thuê đe dọa:
- Ngồi sát vào, ôm cho chặt. Coi chừng bung rọ lốp, xích văng
đứt chân ráng chịu!
Tiếp đó là:
- Ngồi yên, nói xuống phải xuống, nói lên là lên, nếu không,
té ráng chịu...!
Để trả cho hàng loạt sự “ráng chịu” ấy gã lái xe bảo tôi gọn
lỏn:
- Năm trăm ngàn.
Tôi trợn mắt:
- Anh có điên không đấy, chỉ có ba mươi tư cây số?
Lần này thì gã xe ôm tỏ ra lễ độ:
- Dạ, không điên. Xe ôm bãi vàng luôn nói đúng giá!
Rồi tỏ ra không cảm, gã tặng cho tôi một lời giải thích miễn
phí:
- Ở đây người ta không tính cây số, chỉ tính ngày đường.
Sau đoạn đường này, tôi tin chắc rằng không ở đâu giá xe ôm đắt
như ở Phước Sơn, nhưng các bác tài xứ này cũng xứng đáng là các cua rơ giỏi nhất.
Nếu được gọi vào đội tuyển quốc gia môn đua xe đạp đội hình, tôi cam đoan mùa
SEAGAME tới, Việt Nam cứ gọi là đem rổ mà đựng huy chương vàng!
Hãi nhất là đoạn men dọc suối Đắk Mỹ, xe và người cứ len lỏi
quanh những đoạn đường hẹp như chiếc thắt lưng, đầy những vòng cua cùi chỏ, những
con dốc như lao bổ xuống địa ngục. Một bên đường liên tục thò ra những gốc cây
nhọn hoắt, chỉ sơ ý một chút là có thể bị cắm ngay vào người. Tránh cũng không
được, vì chỉ chệch chừng vài gang tay là lăn ngay xuống vực. Mặt đường nhão
nhoét, thỉnh thoảng lại có một đoạn được chống lầy bằng những đoạn cây dài chừng
1,2 m lót ngang. Xe đi nép một bên, sức nặng khiến đầu kia của khúc cây chốc
ngóc lên, có lúc văng hẳn lên trời. Vậy nhưng, Quảng vẫn đảo tay lia lịa như
múa mà không hề run. Đã vậy, gã còn luôn miệng nói đủ thứ chuyện trên trời dưới
biển. Nhưng tôi không trợn mắt nữa. Cho tôi một nửa con số 500.000 đồng kia mỗi
ngày chắc là tôi còn huyên thuyên dữ tợn hơn nhiều. Cứ làm xiếc và huyên thuyên
như thế, Quảng lần lượt đưa tôi vượt hết dốc cổng trời Phước Đức, lầy Phước
Chánh, ngầm Phước Kim và cầu treo Đắk Mỹ được ghép bằng cả trăm chiếc thùng
phuy.
Lúc qua dốc Bảy Cua ở xã Phước Chánh, đột nhiên Quảng đánh
tay lái cho bánh trước cạ vào vách núi. Gã giải thích:
Nói là làm, gã giở đồ nghề ra... Chưa hết, lúc đang từ từ đổ
dốc, gã bỗng cho xe đổ đèo nhanh như tên bắn không một lần nhấp phanh. Ngồi sau
xe, tôi sợ vã mồ hôi, không dám nhìn chiếc xe vừa lao vừa đảo như làm xiếc trên
miệng vực. Xuống hết dốc, gã cho xe lao hẳn xuống lòng suối toàn đá trâu đằm phủ
rêu trơn trợt, nước ngập đến thắt lưng. Đồ đạc, máy ảnh, pin, đèn mà tôi mang
theo, tất thảy đều bị ngâm vào nước. Xe khựng lại đổ nghiêng và tắt máy. Tôi vọt
ngay lên bờ, vứt túi đồ xuống mặt đất, vớ ngay một cục đá và lao đến trước mặt
Quảng quát:
- Đồ điên! Định giết bố mày đấy à? Sao không đạp phanh chạy từ
từ?
Bác tài tỉnh bơ giải thích:
- Đứt phanh! Anh bảo làm sao tôi chạy chậm được?
Ngán ngẩm và lạnh toát sống lưng, tôi quăng cục đá, thả bịch
mông xuống phiến đá bên bờ suối. Quảng lúi húi giở đồ nghề. Trong lúc Quảng sửa
xe, tôi tranh thủ đảo mắt quan sát khắp vùng. Bên kia suối, có một tay “mục đồng”
với ngọn roi trong tay đang lùa cả một đàn gần 30 con heo, mỗi con cỡ một tạ lội
qua suối. Chỉ một mình anh ta, nhưng cả bầy heo vẫn ngoan ngoãn vượt suối rồi
chen nhau chạy lon ton dọc con đường mòn. Núi rừng mênh mông nhưng đàn heo vẫn
tỏ ra hết sức kỷ luật, không còn nào lủi vào bụi hay rẽ sang đường khác. Quảng
bù lỗ cú “đứt phanh” khi nãy bằng lời giải thích:
- Trước khi lùa heo đi, mấy chả lấy lửa đốt hết mi mắt chúng.
Tạt ngang ngửa, đụng phải lá cây là xót nên bầy heo cứ thế đi thẳng, không chạy
lung tung đâu cả. Nếu không thì còn mệt.
Ra là thế. Đúng là đi một ngày đàng học một sàng khôn. Nhưng
tôi biết, đến lượt mình tôi sẽ không làm được thế. Kinh nghiệm sống của con người
phần nhiều đồng nghĩa với sự nhẫn tâm, tôi theo không nổi. Có điều, vì được Quảng
giải thích, tôi chợt đâm ra có thiện cảm với tên cà chớn.
Khi bầy heo vừa đi khuất, bác tài lại cho xe nổ máy. Vượt
thêm chừng hai ngọn đồi, gã lại đột ngột cho xe ngoẹo đầu, dừng lại ngay lưng
chừng dốc. Vẫn tỉnh rụi, Quảng thông báo:
- Nghe “cạch” một tiếng là tôi đã nghi. Hóa ra cần đạp số...
rớt mất tiêu rồi.
Sau 15 phút quay lại tìm vẫn không thấy, gã lại trả lời ánh mắt
dò hỏi đầy bực bội của tôi bằng cách ngoắt một xe ôm khác. Tôi tưởng sắp bị giở
trò sang xe, té ra không phải. Dân lái xe ôm xứ này uy tín hơn nhiều. Gã hỏi mượn
“đồng nghiệp” một chiếc kìm con, kẹp chết vào cốt thay cho cần số và bó chặt lại
bằng một đoạn dây thép nhỏ. Cứ thế, lại leo đèo, đổ dốc, quá trưa, chiếc Minsk
không côn, không phanh với chiếc cần số có một không hai ấy đã đưa tôi đến trước
Trụ sở ủy ban xã Phước Thành.
Lấy tiền trả, tôi có cảm giác rất yên tâm vì cái giá “trên trời”
kia là rất “phải chăng”, rất tương xứng với “con đường đau khổ” mà mình vừa trải.
Chỉ hơi lo: Liên Xô tan vỡ, xe Minsk không còn được nhập, dân Phước Sơn sẽ đi
xe gì để vào bãi vàng? Rất có thể họ xe mua xe... tăng. Dân bãi vàng thiếu gì
tiền. Những nòng pháo các loại thì họ không cần thật, nhưng với con đường đầy dốc,
đầy bùn này, vòng bánh xích xe tăng chắc là rất hữu dụng!
Nhưng gian nan của đường vào bãi, đó chỉ mới là khúc dạo đầu.
Để vào được các bãi Một Nước, Một Khô, Muối, Thôn Hai, Vinh Tóc dài, Đồi
Mafia... dân đào vàng còn phải đi bộ qua vô số sườn núi lởm chởm và cao ngất
khác. Toàn những con dốc “kinh người”. Mỗi lúc bò lên - có khi bằng cả bốn tay
chân - đầu người phía dưới cứ ủi thẳng vào... mông người phía trên. Một lần ai
đó bước chệch chân, một tảng đá lở ra, lăn lông lốc theo đường mòn, đe dọa đập
thẳng vào đầu, vào mặt người đi sau. Muốn tránh cũng không có chỗ. Người đi sau
chỉ có duy nhất một chỗ để đặt chân, đó chính là dấu chân của người đi trước,
đã ăn lõm vào vách đất, kẽ đá thành những hố sâu hoắm. Leo chừng 5 phút đã bở
hơi tai, nhưng con dốc ngắn nhất, muốn vượt qua cũng mất không dưới 30 phút. Xuống
dốc càng khổ hơn vì không biết bám vào đâu. Trong giày sũng nước, ngón chân cứ
tõe ra, dọ dẫm lựa thế đặt từng mũi xuống. Chỉ sau một ngày leo núi, xuống dốc,
ngón chân Giao Chỉ đã hành tôi khốn khổ. Vì liên tục bị ấn vào mũi giày khi xuống
dốc trơn như thoa mỡ, mười đầu ngón chân tôi bị co quắp và tê dại, hai ngón
chân cái tụ máu bầm đen, đau buốt óc. Sau chuyến đi này, tôi bị thối mất hai
móng chân cái, các kẽ ngón còn lại đều nứt toác và tróc lở, phải bôi thuốc sáu
tháng trời mới ra móng mới và lành hẳn.
Nguy hiểm nhất là đường vào bãi thôn 4, xã Phước Kim, đoạn
sau Dốc Gió. Từ trên đỉnh núi đi tắt xuống bãi, chúng tôi phải áp ngực vào vách
núi dựng đứng và đi nghiêng. Bàn chân đặt từng bước vào các gờ đá, tay giang rộng
để giữ thăng bằng và bám chặt vào các mỏm đá nhô ra từ vách hoặc các túm rễ cây
dài 4 - 5 mét rủ từ trên cao xuống lòng thòng. Phải mất hơn 20 phút mới vượt
qua nổi một vách núi chỉ dài chừng 150m, chỉ cần sẩy tay là rớt xuống tan
xương. Đi hết đoạn đường, nhìn lại tôi bỗng rùng mình. ở trên vách đá cao chừng
cả trăm mét, những người “cõng chuyến” với bao hàng đè trĩu trên lưng vẫn đang
đu người bám vách lần xuống. Tôi chỉ là một kẻ phiêu lưu tìm cảm giác. Còn họ,
đó là cuộc vật lộn mưu sinh, là hành trình tìm đến miền đất hứa đầy những bụi
vàng. Hóa ra, đường đến thiên đàng gập ghềnh, cheo leo và bất trắc muôn vạn lần
hơn so với trí tưởng tượng. Vậy nhưng, con đường đó vẫn chật cứng những người...
Thậm chí, vì vàng người ta còn cõng cả những khối thiết bị máy móc nặng những
70 - 80kg và theo đúng những con đường bất trắc ấy để đặt chúng vào giữa bãi
vàng.
Kể cũng đúng thôi, để đến được thiên đàng, làm gì có con đường
nào rộng rãi và bằng phẳng!
Vì đường sá cơ cực và nguy hiểm cho nên giá cả ở các bãi đắt
khủng khiếp,- vậy nhưng vẫn có người mua. Trong bãi hầu như không thiếu thứ gì,
từ bia rượu, nước ngọt cho đến lọ dầu gội, mỹ phẩm. Dân bãi vàng tiêu tiền như
rác, xài trước trả sau. Dù vậy, dân buôn bán, người cõng chuyển vào bãi vẫn chẳng
ai trở nên giàu có. Dự, một người cõng chuyến ở bãi Muối đã tính cho tôi nghe.
Cõng được 40 kg từ thị trấn Khâm Đức vào bãi mất những ba ngày đường. Vừa đi vừa
về, ăn uống tiết kiệm lắm cũng mất 150.000 đồng. Trong khi đó nhiều lắm cũng chỉ
lãi được 400.000 đồng, lại phải tốn hơn 100.000 đồng nữa để vượt qua được các
“trạm gác nhân dân” dựng lên nhan nhản dọc các thôn, bản trên đường. Tính ra, mỗi
ngày chỉ lãi được 50.000 đồng. Một cái giá quá bọt bèo so với giá cả vùng vàng
để đánh đu giữa sự sống và cái chết. Mà chưa chắc đã thu được tiền: dân bãi
vàng có người trúng quả, người thua lỗ, mua thiếu là chuyện bình thường. Đó là
chưa kể gặp kẻ cướp - trong bãi vàng Phước Sơn, loại người này nhan nhản - tay
chân lành lặn kể đã là may mắn lắm.
Ngay cả dân chạy xe ôm, không phải khi nào cũng thu được tiền!
Một lần vào khoảng giữa năm 1998, anh lái xe tên H. được gọi chở hai “thợ mỏ” từ
Phước Thành ra Khâm Đức. Dù được xốc nách, một người trong số họ cũng khó khăn
lắm mới ngồi được lên xe. “Bệnh!”, người ngồi sau thông báo gọn lỏn và ôm chặt
lấy bác tài, trong khi suốt đoạn đường đầy đèo dốc, người ngồi giữa cứ liên tục
gật, lắc, vẹo qua vẹo lại bất chấp như vậy sẽ rất nguy hiểm, và không hề nói nửa
câu. Đến thị trấn, H. hỏi tiền xe. Chỉ con bệnh đã được đặt ngồi bệt giữa lòng
đường, người kia bảo “nó trả”. H. tiến lại, nắm tay “chủ chi” lắc lắc. Bàn tay
lạnh ngắt. Mũ trên đầu anh ta rớt xuống, để lộ khuôn mặt trắng bợt, mắt trợn trừng.
Rú lên một tiếng, H. lao lên xe vọt thẳng không dám ngoái đầu, quên luôn cả đòi
tiền. Hóa ra, người ngồi giữa chỉ là một... xác chết, ít ra cũng hồn lìa khỏi
xác đã hai ngày.
Giá cả leo thang đã đẩy cuộc sống của đồng bào dân tộc Mơ
Nông các xã có bãi vàng vào chỗ khốn cùng. Nghề “gia truyền” phát núi trỉa hạt
không đủ thu nhập để duy trì cuộc sống, họ tự đứng ra lập barie ở mỗi thôn,
chia nhau canh gác thu tiền khách qua lại. Đi bộ cõng chuyến: 5 ngàn/người; xe
ôm có khách: 10 ngàn/chuyến. Mỗi tháng cứ bốn, năm nóc nhà được cắt gác một
ngày, coi như lấy đó làm nguồn thu nhập chính để mưu sinh. Để dễ đòi tiền, các
bô và mâm (bố, mẹ) cứ ngồi trạm gác với chai rượu và bộ mặt say khướt. Không
móc tiền, barie không được nhấc lên. Xe ôm cứ liều vượt qua, các bô, mâm sẵn
sàng lăn ngay ra đất, lấy thân chặn trước bánh xe, kêu khóc ầm ĩ. Chỉ khi nào lấy
được tiền, họ mới chịu đứng dậy.
Ngoài mãi lộ, người Mơ Nông còn tìm thu nhập bằng cách bán đất,
bán nguồn nước. Các bãi vàng vừa lập, khi bắt đầu đến vỉa, lập tức sẽ có một bố
người Mơ Nông vác chà gạc tìm đến bảo:
Vậy là chủ hầm đành xì tiền ra: ba triệu, năm triệu hoặc bao
nhiêu tùy thỏa thuận. Kỷ lục về số tiền đất trả cho các “ông nội”, thuộc về Bùi
Vinh (bãi Vinh tóc dài), khai vỉa đầu năm 1997. Để có thể khai thác, anh ta đã
phải trả cho các “ông nội” một lúc 200 triệu đồng.
Xay đá, đãi vàng, các chủ hầm phải tìm các nguồn nước chảy ra
từ các sườn núi có độ cao tương đối, bắt ống cao su dẫn về bãi của mình. Thường
những đường ống này dài từ một đến ba km. ông bắt xong, đột nhiên ngưng chảy. Một
thanh niên người dân tộc nào đó đã chặt nó làm hai khúc, lý do vẫn là “suối của
ông nội tao để lại”. Lại phải tự giác chi ra từ hai đến năm triệu cho mỗi ống dẫn
nước. Nguồn thu này, có thể nói là khổng lồ, vì chỉ riêng bãi thôn 2, xã Phước
Thành, số máy đang hoạt động cũng đã khoảng gần một trăm, mỗi máy nhất thiết phải
có một ống nước. Của thiên trả địa, không một chủ hầm nào nghĩ tới chuyện từ chối
trả “lệ phí” khai thác đất và nước của các “ông nội tao” để lại cả.
Ngày tôi đến, đồng bào dân tộc ở các xã Phước Đức, Phước
Chánh, Phước Hiệp, Phước Kim, Phước Thành đã gần như bỏ hẳn nương rẫy, chỉ suốt
ngày ngồi nhà tu rượu, chờ đến dịp thu tiền “chết” của dân vào bãi. Để hợp thức
hóa việc thu tiền, thỉnh thoảng họ cũng hè nhau phát thêm một vài đoạn đường
vào bãi, hoặc chặt cây lót một số đoạn đường lầy cho người xe ra vào. Thời gian
còn lại, cả làng say khướt. Người già say, thanh niên say, cả trẻ con cũng say
nốt... Bởi không say, họ không đủ dũng khí để hoạnh họe đòi tiền. Xem ra, cái lọc
lõi con buôn đem lên từ miền xuôi đang được đáp lễ cẩn thận bằng chất hoang dã
rừng rú của dân miền ngược. Vàng vẫn ẩn sâu lòng đất, nhưng văn hóa, phong tục
tập quán và những gì tốt đẹp của con người thì đang bị tàn phá và tận diệt dữ dội.
Tất cả đang bày ra trước mắt tại Phước Sơn. Đó là một hệ lụy tất yếu và đau
lòng đi ngay sau sự xuất hiện và tồn tại của những bãi vàng.
4. Bóc vỏ trái đất
Không thể đóng khung số lượng hầm, bãi ở Phước Sơn trong một
“trị tuyệt đối”, bởi lẽ việc bỏ bãi cũ, lập bãi mới liên tục diễn ra mỗi ngày.
Toàn huyện có khoảng một trăm bãi vàng, trong đó bãi thôn 2 và bãi thôn 8, xã
Phước Thành là lớn nhất, mỗi bãi có từ 100-150 hầm với khoảng từ một đến hai
ngàn/người tham gia đào đãi và buôn bán.
Công nghệ đào, đãi vàng ở Phước Sơn đã được chính quy hóa đến
cao độ. Đầu tiên là khâu “tăm vỉa”. Hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm, những gã đào
vàng tìm đến các mạch đá ngầm trồi lên mặt đất, sau đó bắt đầu đục đá đem xay
thử. Nếu có vàng, việc dựng lán, khui hầm sẽ diễn ra cấp kỳ. Gặp được các vỉa
đá “tầng ong” - xốp và lỗ chỗ như tổ ong dân “xúc, lắc” coi như trúng mánh. Loại
này xốp, nhẹ, dễ đào, dễ xay, hàm lượng quặng vàng rất cao, dễ khai thác. Ngược
lại, gặp phải vỉa đá Bê-rít (?) coi như công toi, vì vừa cứng, vừa ăn quá sâu,
rất khó đào.
Để lấy được quặng, người ta phải đào hầm từ trên đỉnh hoặc
lưng chừng núi ăn thông xuống. Hầm cạn nhất cũng phải sâu tới 25 m, còn sâu thì
50, 60 hay 70m vô chừng. Vỉa đá ăn đến đâu, địa đạo được đào đến đấy, có những
hầm hệ thống địa đạo chồng lên nhau thành bốn tầng, mỗi tầng thông nhau bởi một
miệng giếng sâu chừng 10m.
Để khui hầm, toàn bộ cây cỏ trên miệng, trên lối đi dẫn vào đều
bị bóc sạch, đất đá bị lật tung lên, biến cả quả đồi rậm rạp thành vùng đất chết!
Hàng trăm địa đạo chằng chịt ăn vào khiến cả ngọn núi bị rỗng chân, có thể đổ ụp
xuống bất cứ lúc nào. Đêm 20.7.1997, sau một cơn mưa lớn, bãi thôn 8 xã Phước
Thành do Nguyễn Văn Ngọc làm chủ đã ụp xuống bất ngờ, chôn sống một lúc 21 người.
Tỉnh, huyện, đã huy động nhân lực đào xới cật lực nhưng cũng phải mất bảy ngày,
xác các nạn nhân mới được đưa lên. Ngày 14.5.1999, tại bãi Vàng Nhẹ (xã Phước Đức),
một khối đá khoảng 50 m2 bị hổng chân đã ầm ầm lao từ trên đỉnh đồi xuống, đè
chết một người và làm bị thương bốn người khác. Thịnh, một thợ đánh mìn quê ở
Giao Thủy (Nam Định) thoát chết nhờ kịp lao vào hầm, nhưng cánh tay phải bị khối
đá “lướt” qua bóc toàn bộ da thịt, lòi xương trắng hếu...
Tai nạn như cơm bữa, nhưng vì vàng, những người thợ vẫn liều
mình đánh đu với số phận. Để giải quyết những vỉa đá cứng, phương pháp thông dụng
nhất là đánh mìn. Gọi là nhanh, nhưng giỏi lắm một ngày đánh mìn, thợ vàng cũng
chỉ đào sâu xuống được thêm một, hai mét đá. Để tiết kiệm, họ thường không ngần
ngại cắt ngắn... dây cháy chậm đến mức tối thiểu. Bị thách thức, thần chết đã nổi
giận thường xuyên. Đêm 26.5.1999, sau một tiếng nổ “ục” trong lòng núi, bốn thợ
mỏ người Phú Thọ ở bãi thôn 2, Phước Thành đã phải đi bệnh viện. Không bị
thương, họ chỉ bị ngạt vì khói mìn. Trên đường đi, một người đã chết.
Với các ngọn đồi đã bị đào bới, không một thứ cây cỏ nào có
thể tái sinh, bởi tất cả bề mặt đồi núi đều bị hàng vạn m2 đá vụn hất lên phủ
kín. Sau khi khai thác, không một ai nghĩ đến việc lấp lại hầm hố. Thợ đào vàng
không lấp vì việc của họ là tìm vàng chứ không phải là cải tạo môi sinh; dân
không lấp vì không có trách nhiệm; nhà nước cũng không lấp - vì không có tiền.
Vậy là những ngọn núi trở thành một cái “bẫy người” khổng lồ với hàng trăm miệng
hố (nhiều miệng đã bị cỏ dại phủ kín) chỉ cần sẩy chân là sẽ rơi đứng xuống
hàng chục mét.
Quặng khai thác xong sẽ được cho vào máy nghiền nát, sau đó,
được đem xay nhỏ thành cám và cho theo nước chảy vào máng đãi. Những lá nhôm
tráng thủy ngân sẽ giữ vụn vàng lại, còn nước và xái cứ vậy trôi đi.
Khi máng thủy đã “khê”, lớp vàng lấm tấm bám trên thủy ngân
đã dày, người ta sẽ dùng một lá cao su dày, một mảnh đế dép “tông” chẳng hạn,
gom chúng lại. Dùng “con khò” đốt lên, thủy ngân sẽ bốc hơi, để lại vàng nguyên
chất (vàng 9999). Vì công việc quá tốn kém, trung bình cứ xuống sâu một mét tốn
một triệu đồng cho nên nếu mỗi ngày một hầm đào được một lượng vàng, coi như hầm
đó mới chỉ hòa vốn. Nhưng, một trăm hầm thì may lắm chỉ dăm ba hầm đạt được mức
ấy, số còn lại thường chỉ thu được dăm ba chỉ - đủ lo gạo muối hằng ngày. Dù vậy,
dân “xúc lắc” vẫn không từ bỏ “giấc mộng vàng” của họ. Thần tượng cho những giấc
mơ kia có nơi bấu víu là Bùi Vinh, bãi Vinh Tóc Dài, thôn 5, xã Phước Thành.
Năm 1997, Vinh trúng lớn. Mỗi ngày, hầm của anh ta lôi lên mặt đất được trên dưới
1 kg vàng ngân (khoảng 700 gam vàng ròng)!
Nhưng, lượng vàng lớn nhất vẫn còn nằm trong xái. Vì vậy, sau
máng thủy sẽ là công đoạn đánh bể thoòng. Xái được gom lại, dồn vào một bể lớn
quây bằng nilông, bơm nước vào và khoắng lên. Cyanur, nitơ lỏng, và một số phụ
gia khác được thả vào sẽ khiến cả vàng lẫn xái tan thành nước. Nước trong tiếp
tục được chắt sang bể nhỏ, thạp, sau đó thả các thanh nhôm, thiếc vào cho vàng
nguyên chất kết tủa. Sau khi lọc lấy vàng, lượng nước chứa đầy độc chất này đều
tự do tuôn xuống các dòng suối, đổ ra sông Vu Gia, sau đó hợp lưu với sông Thu
Bồn tuôn xuống đồng bằng. Xem ra, hiện tượng hàng loạt trâu bò ở Quế Sơn, một
huyện nằm ngay bên thượng nguồn sông Thu Bồn bỗng dưng lăn ra chết hàng loạt đã
tìm ra được nguyên nhân. Đó mới chỉ là trâu bò, vậy còn người? Không ai trả lời,
việc “đánh hóa” vẫn cứ diễn ra mỗi ngày. Điều đáng nói là, toàn bộ việc khử quặng
này đều được thực hiện bởi những tay thợ vốn có văn hóa vừa đủ... dốt, thậm chí
có người không biết chữ. Công thức hóa học của các loại hóa chất, họ mù tịt. Chỉ
cần biết gọi tắt “xi” là Cyanur, vậy là đủ. Liều mạng hơn, để đề phòng “bể
thoòng” bị cướp, thợ “đánh hóa” còn làm lán bắt ngang trên mặt bể để ngủ canh,
liên tục 72 giờ cho mỗi mẻ lọc, sàn ngủ chỉ cách mặt bể đúng một mét. Hỏi, họ
đáp tỉnh queo:
- Ối dào, vẽ! Cho muối ăn vào rửa tay chân là nó... trung hòa
hết.
Trong khi chỉ 14 mg Cyanur cũng đủ giết chết một mạng người
thì ở Phước Sơn, loại hóa chất cực độc này được mua bán công khai mỗi lúc hàng
chục kg. Ngày 25.5.1998, tại bãi thôn 2, xã Phước Thành, tôi đã chứng kiến cảnh
bắt giữ tên Võ Văn Sơn, quê ở Quế Sơn đang cõng vào bãi một bao 50 kg Cyanur.
Cõng bằng lưng trần, dưới trời mưa như trút. Anh ta khai:
- Không biết của ai, không biết là chất độc, người ta thuê
thì cõng.
Có thể là Sơn không biết thật, bởi ở bãi vàng, chỉ có tiền
công mới là điều đáng quan tâm. Tôi chợt rùng mình: rừng núi cheo leo, đường sá
cách trở, nếu gã “thợ cõng” sơ ý đánh rơi khối chất độc kia xuống đầu nguồn nước,
ắt hẳn 18.000 dân của toàn huyện Phước Sơn sẽ không một ai sống sót. Nhưng, đó
cũng chưa phải là vụ ghê gớm nhất. Trong đợt truy quét cuối năm 1997 loại hóa
chất cực độc này, công an huyện thu được những hơn... một tấn!
5. Trật tự ở chốn vô trật tự
Quyền lực lớn nhất ở các bãi vàng, tất nhiên là các chủ bãi,
chủ hầm. Có lúc, chủ bãi và chủ hầm là một, nhưng cũng có lúc nhiều chủ hầm được
đặt dưới tay một chủ bãi. Nổi tiếng nhất ở Phước Sơn, có lẽ là chủ bãi thôn 8,
xã Phước Thành Nguyễn Văn Ngọc. Ngọc từng là một đại úy, Đội trưởng Đội hình sự
Công an huyện Phước Sơn. Trước khi có chỉ thị 20 của ủy ban nhân dân tỉnh Quảng
Nam về việc cấm đào, đãi vàng, Ngọc đã xin ra khỏi ngành công an và bỏ ra 400
triệu một lúc để mua 350 mét bề rộng của một quả núi ở thôn 8 để đào vàng. Tất
cả dân làm vàng đều cho rằng Ngọc phát rồ. Thôn 8 quá heo hút, núi quá dốc, đi
bộ từ ủy ban nhân dân xã đến đó phải mất những ba ngày đường, chi phí đào đãi
chắc sẽ tăng chóng mặt trong khi chưa chắc đã có vàng.
Chỉ sau đó ít lâu, những “cao thủ” nghề vàng đã phải lác mắt,
bái phục Nguyễn Văn Ngọc là kẻ nhìn xa trông rộng. Vùng đất thuộc quyền của anh
ta trúng đậm, thiên hạ ùn ùn kéo tới xin sang nhượng. Ngọc cắt ngang 280 mét đất
bán lại cho các chủ hầm khác, thu về một lúc đúng... một tỉ đồng. 70 mét còn lại,
Ngọc tiếp tục thuê người tự khai thác, có ngày thu được cả ký vàng ngân (vàng
trộn lẫn thủy ngân, lượng vàng nguyên chất chiếm khoảng 70%). Vậy là cái tên của
anh ta đã được dùng để đặt luôn làm tên bãi của thôn 8, Phước Thành.
Đang lên như diều gặp gió nên khi đã có lệnh cấm, Ngọc vẫn tiếp
tục khai thác. Và vụ sập hầm giết chết 21 người một lúc đã xảy ra, không những
đe dọa phá sản, mà còn khiến Nguyễn Văn Ngọc đứng trước nguy cơ phải đối diện với
luật pháp.
Khác với Ngọc, Dũng lai, Quốc con, Lập Đại liên, các chủ hầm,
chủ đất ở bãi thôn 4, xã Phước Kim đều xuất thân là dân anh chị có máu mặt ở Đà
Nẵng. Đào vàng với họ chỉ là một cuộc chơi. “Máu” nhất là Dũng lai. Mỗi lần
khai vỉa được dăm ba chục triệu, anh ta lại xách tiền, vàng ra Đà Nẵng, bao
nguyên một tầng lầu của nhà hàng khách sạn Phương Đông cùng đàn em ăn nhậu phá
phách thả dàn, hết tiền mới chịu quay vào bãi. Bãi thôn 4 được Dũng, Lập, Quốc
biến thành một vương quốc riêng bất khả xâm phạm với đội bảo vệ hơn mười người,
trang bị đồng phục quần áo rằn ri và đầy đủ “đồ chơi”. Bất cứ ai lên bãi vào
ban ngày, họ đều bị đội bảo vệ chặn lại xét hỏi. Đầy đủ giấy tờ, lý do thì cho
đi, nếu không thì... biến. Ban đêm, bãi thôn 4 “đóng cửa”, tuyệt đối cấm qua lại.
Mỗi lúc cần hàng hóa hay vật dụng gì, Dũng, Lập, Quốc chỉ cần xé vỏ bao thuốc
viết mấy chữ cho người mang đi, ngay lập tức yêu cầu của họ sẽ được các chủ
máy, chủ quán trong khu vực đáp ứng ngay, không một lần từ chối. Được cái cả ba
đều là “dân chơi” khá đúng nghĩa, không bao giờ ăn quịt hay o ép ai nên các chủ
bãi, chủ lán khác đều vừa sợ vừa nể.
Đầu tháng 5.1999, một đoàn chuyên gia Hàn Quốc đã vượt núi
vào Phước Thành khảo sát trữ lượng vàng để lập luận chứng liên doanh, có ghé
vào khu vực bãi thôn 4. Dẫn đoàn đi, ngoài phiên dịch người Việt còn có thêm một
anh công an huyện đi theo bảo vệ. Đến bữa ăn trưa, đám chuyên gia Hàn Quốc tỏ
ra kẻ cả, trịch thượng, đối xử với anh công an trẻ không mấy tế nhị, còn tỏ ra
phân biệt. Dù rất giận, nhưng vì nhiệm vụ, anh công an cố nhịn. Biết chuyện, “tự
ái dân tộc” nổi lên, Dũng, Lập, Quốc quyết định “chơi” cho các tỉ phú Hàn Quốc
“biết lễ độ”. Theo kế hoạch, đoàn Hàn Quốc sẽ được Dũng, Lập, Quốc mời vào lán
và đãi một bữa cơm với cá khô, chủ khách cùng ăn. Sau đó, ba thùng “333” sẽ được
bưng ra, ba tay giang hồ sẽ lần lượt bật nắp bia và... rửa chân cho anh công an
để cho những gã tỉ phú hợm mình chiêm ngưỡng... Nhưng, Dũng lai vì quá nóng nảy
nên đã làm hỏng kế hoạch. Đám chuyên gia vừa tự ý chui vào hầm lôi ra một ít quặng
mẫu, Dũng đã “nổi giận”, hét đàn em bắt trói họ vì tội “xâm nhập lãnh địa không
xin phép”. Hãi quá, đám chuyên gia phải trả ngay toàn bộ số quặng mẫu, xin lỗi
rối rít và hô nhau... bò (vì xung quanh toàn núi, không thể chạy). Khi bị công
an mời lên hỏi vụ này, Dũng “lai” chối biến việc có mã tấu và súng AK tham dự
vào vụ uy hiếp, chỉ nhận là “đùa hơi quá trớn”.
Để “lấy le”, hầu hết các chủ bãi loại “play-boy” đều kiếm cho
mình một cô bồ. Ở trong bãi, phụ nữ không phải là hiếm, gồm đủ mọi thành phần.
Một số có nhan sắc, có vốn vào bãi mở quán bán đủ thứ trên trời dưới biển và
buôn vàng. Nương nhờ bóng vía một chủ hầm chủ bãi có máu mặt, đó là cách tốt nhất
để tránh bị cướp phá hoặc ăn quịt. Tất nhiên, đã có qua ắt phải có lại... Các
cô chủ quán loại này được dân bãi gọi là xe biển số trắng, nghĩa là xe tư nhân,
có chủ quyền. Nhìn xe biển trắng có thể đoán được ngay hiện trạng của người “giữ
giấy chủ quyền”. Khi hầm hố “vào cầu”, xe được gắn đầy vàng lắc, nhẫn, xuyến,
tiền tiêu như nước. Ngược lại, chủ bãi thua lỗ, phải bỏ hầm bỏ bãi, xe cũng bị
“sang tên”, bị “gán nợ”. ở bãi Một Khô (Phước Thành), có một chủ bãi tên là Kỷ
“niệm”, nổi danh vì từng “sang tên” và “xiết nợ” xe “biển trắng” không dưới chục
lần. Kỷ khoe: riêng tiền “đổ xăng”, mỗi tháng cũng tốn không dưới năm triệu đồng.
Đó là lúc bình thường, còn khi trúng mánh, chạy “xe” bạt mạng, số “tiền xăng”
coi như không tính nổi.
Xe biển xanh - tức gái làm tiền - cuộc sống phập phù hơn. Cái
“nghề” dưới đáy xã hội này, vào bãi càng khốn khổ. Họ thường dựng lán ở rìa các
bãi, biệt lập nhưng không quá xa để hành nghề. Bất cứ kẻ nào trong bãi đều có
thể hành hạ hoặc đe dọa họ, nhưng khi có chuyện họ hoàn toàn không được ai bênh
vực. Tại bãi Muối, chúng tôi ghé vào “gara” của một “xe biển xanh” tên là
Đ.T.H.T, sinh năm 1969, tại Hương Điền, Huế. T. bắt đầu lăn lóc ở bãi vàng từ
năm 1992. Ban đầu, cô dựng “gara” ở Trà My, sau đó chuyển qua huyện Hiên và cuối
cùng dừng lại ở bãi Muối - Phước Thành.
Lý do đơn giản: các khách “thuê xe” chuyển bãi, “xe” cũng phải
chuyển theo vì chưa thu hết... nợ. Sau nhiều năm hành nghề, nhan sắc đã trở nên
tàn tạ. Trước, cô được đánh giá là một “dream”, năm tháng cứ giảm dần “giá trị
mẫu mã”, tụt xuống “win” ,”81”, “én”, giờ T. đã bị hạ đến mức chỉ còn là một...
mobillet. Để mưu sinh, cô phải kiêm thêm nghề bán bún nước lèo cho cả hai bãi
Muối và Một Nước. Ngày ngày gánh trĩu trên lưng, chịu bao điều miệt khinh tủi
nhục. Đêm T. quây kín nilông chắn lều, ngồi thu lu trong góc lán tối om với một
cây chùy - một khúc chày gỗ, 1 đầu cắm đầy đinh - nơm nớp lo một kẻ bất lương
nào đó đột ngột xô lán nhảy xổ vào... Dưới áp lực của vàng, cả cái tên người
chưa chắc gì giữ được. ở bãi giá cả mọi thứ đều ngày mỗi tăng, chỉ có giá trị của
nhân phẩm là ngày càng giảm.
Ngoài chủ và “xe”, ở bãi vàng còn rất nhiều hạng người khác.
Những người không vốn, không đủ sức khỏe làm công thì xin đến các hầm đã khai
thác xong, bòn mót chút quặng thừa đem gửi máy xay đãi ăn chia 6:4 với chủ. Họ
được gọi là dân “tọ mọ”. Bần cùng già yếu hơn hoặc nghiện ngập, “tọ mọ” cũng
không đủ sức thì làm “dặt dẹo” đi xin. Những chủ hầm đang trúng không nỡ để dân
“dặt dẹo” chết đói, song nhìn họ bằng nửa con mắt, bởi với các “dặt dẹo” nghiện
ngập, xin chỉ đủ no bao tử chứ không đủ để no “óc”, họ thường “nhanh tay lẹ mắt”
với những hớ hênh của các máy, hầm và tích cực “cầm nhầm”.
Đổi ngôi là chuyện liên tục xảy ra ở bãi vàng. Trước năm
1996, Vinh tóc dài (Bùi Vinh) chỉ là một “tọ mọ” không tên tuổi. Sau lệnh cấm
khai thác năm 1997, một số chủ hầm dỡ lán, bỏ hầm, Vinh mò vào “tọ mọ” và...
trúng đậm. Có tiền, anh ta sắm máy, mua nguyên cả một quả đồi với giá 200 triệu
và trúng luôn 35 kg vàng ngân (khoảng hơn 20 kg vàng ròng). Cú “vào cầu” của
Vinh tóc dài đã kéo các chủ hầm rầm rập quay trở lạ. “Chiến tranh” nổ ra, và
máu người đã đổ trên bãi Vinh tóc dài khiến anh ta vừa khánh tận vừa phải vào
tù...
Dù sao, cái tên Vinh tóc dài cũng trở nên một mơ ước cho cả vạn
người khác, đọng lại trong họ như một niềm khao khát đổi đời dữ dội để tiếp tục
lao theo những hy vọng hão huyền, bất chấp tận thế có xảy ra ngay tức khắc, bất
chấp thiên đàng và địa ngục chỉ cách nhau vừa đúng một gang tay.
6. Sống chung với cướp
Người bình thường chắc hẳn không ai mơ chuyện tự ném mình vào
bãi vàng. Lọt thỏm giữa núi rừng Phước Sơn, những số phận mà tôi gặp hầu như đều
giống nhau ở điểm bi đát trong hoàn cảnh sống. Đến vùng vàng, cuộc đời họ càng
khốn khổ hơn bởi mưa gió, bệnh tật, những thất vọng triền miên cùng số nợ cứ
dày lên. Và, một con đường khác lại mở ra trước mắt họ: nghiện ngập và phạm tội.
Rừng núi điệp trùng cũng là nơi lý tưởng để bọn tội phạm, trong đó có không ít
tên mang hai, ba lệnh truy nã, lấy làm chốn náu thân và tiếp tục gây tội ác.
Khi tôi có mặt, bãi 5A xã Phước Thành tịnh không bóng người, dù ở góc lán này vẫn
còn chén nước bốc khói và góc lán kia, mấy thanh củi vẫn còn cháy dở. Trước mắt
tôi, chiếc chiếu giữa lán lỗ chỗ hàng ngàn vết cháy - một lời tố giác không thể
chối cãi về sự có mặt của thuốc phiện. Đúng vậy, một trăm phần trăm cư dân của
bãi này đều nghiện nặng. Nhác thấy bóng người lạ dưới chân núi, họ vơ vội bàn
đèn, ống tiêm đồng loạt lao xuống hầm. Khoảng 15 phút sau, thấy không thành vấn
đề, họ lại lục tục trồi lên, nhe răng cười với chúng tôi, nụ cười bệnh hoạn, vừa
cầu thân lại vừa đầy nghi kị nở vội trên những cặp mắt vàng võ bủng beo.
Khi trèo lên đỉnh đồi, tôi biết các cư dân trên đó không hiền
lành như vậy. Đỉnh đồi 5A được mệnh danh là đỉnh Mafia, bởi hoàn toàn do các ổ
trộm cướp chiếm cứ. Ban ngày chúng trốn vào rừng hút chích, ban đêm tụ nhau lại
đi trộm cướp, sau đó mò về các lán chia nhau. Nhưng bãi mafia vẫn chưa sợ bằng
bãi Vinh Tóc dài, nơi có mặt nhiều tên cướp lì lợm và hung hãn nhất. Riêng các
tên Nguyễn Hữu Cường (Cường con), Nguyễn Văn Hùng (Tây điên), Phan Văn Tư (Tư
heo) mỗi tên cũng đã gây ra hàng chục vụ cướp của giết người. Khi dân “xúc, lắc”
hoảng sợ bỏ đi, chúng quay sang bắn giết lẫn nhau để đoạt hầm, hố, cướp tài sản
ăn cướp và giành quyền hùng cứ khu vực.
Vũ khí trong các trận thư hùng xem như không thiếu thứ gì, từ
dao gậy, súng, trái nổ. Đáng sợ nhất là các trái canonbi. Loại trái nổ này được
lấy ra từ những quả bom bi chưa nổ do Mỹ thả xuống còn nằm rải rác trong rừng
núi. Mỗi quả bom chứa hàng ngàn quả canonbi to như quả ổi, một đầu có hạt nổ,
khi ném tim hạt nổ luôn hướng về phía trước và nổ khi chạm bất cứ vật gì, dù đó
là lá cây hay mặt nước. Từ trong ruột quả canonbi, hàng ngàn viên bi con sẽ
bung ra.
Theo đánh giá của Công an huyện Phước Sơn, có ít nhất một phần
mười cư dân của bãi vàng từng là kẻ cướp giật. Trong vòng 2 tháng 4 và 5.1999,
chị Nguyễn Thị Hồng, một dân buôn vàng, quê ở Hòa Định, Tuy Hòa, Phú Yên đã bị
băng Thanh sứt, Hiển bụi cướp những ba lần, lấy đi hơn 100 triệu đồng. Trần
Bút, một chủ quán khác ở bãi 45 (xã Phước Sơn) cũng hai lần bị cùng một băng cướp
che mặt tấn công chỉ trong nửa tháng 5.1999. Là con nghiện một trăm phần trăm
nên khi ra tay, bọn cướp vơ tất không chừa thứ gì, từ tiền, vàng cho đến lon nước,
bao thuốc. Oái ăm thay, có lúc người bị hại biết rất rõ ai là kẻ cướp, nhưng
đành... ngậm tăm, sợ bị tái cướp, bị trả thù. Sau ba lần bị cướp, để tránh thêm
lần thứ tư bị chúng viếng thăm đột xuất trong đêm, chị Hồng đành bỏ ra năm triệu
đồng, nhờ một tay “có máu mặt” gầy một độ nhậu mời các tay “lục lâm” nghi vấn đến.
Khi rượu đã ngà ngà, tay anh chị mới chỉ chị Hồng và bảo:
- Cô em tao đấy, để cho nó sống!
Những thằng cướp tỉnh queo:
- Sao không nói sớm? Ai biết!
Sau đó, thay vì bị cướp, thỉnh thoảng chị Hồng phải rút ra một
triệu dúi cho một tên “cô hồn”, còn những vụ cướp vẫn xảy ra trong khu vực, chị
đành coi như không nghe, không thấy. Trước khi đút tiền vào túi, thằng “cô hồn”
còn khoanh tay lễ phép:
- Em xin chị.
Cướp của không đáng sợ bằng cướp bãi chiếm hầm. Đào mãi vẫn
chẳng thấy có vàng, hai anh em Phạm Hữu Cường, Phạm Hữu Cảnh bắt đầu tính kế đoạt
bãi của hai anh em Phan Văn Tư, Phan Văn Phong (thôn 3, Phước Thành) đang ăn
nên làm ra. Vốn là những tên cướp sừng sỏ, anh em Tư, Phong phát hiện ngay ý đồ
của địch, ngay lập tức chỉ đạo thợ tăng cường phòng thủ. Ngày 21.4.1998, Cường và
Cảnh bất ngờ ném hàng chục trái canonbi vào lán của Tư, Phong. Ngay tức khắc,
hàng loạt AK từ trong lán được Tư, Phong tuôn ra đáp lễ. Hoảng quá, Cường, Cảnh
vội tháo lui. Cường bị sa luôn vào bãi chông của anh em Tư, Phong cắm sẵn. Vất
vả lắm Cảnh mới vừa chống đỡ với đạn AK, vừa cõng được Cường thoát hiểm. Thoát
chết nhưng máu hung hãn vẫn không mất, khi vết thương lành lại, Cường lại bày
binh bố trận. Lần này, chúng tấn công một bãi khác. Chờ khi đám thợ đã chui hết
xuống hầm, những tên cướp lập tức xuất hiện và đổ xuống miệng hầm một... can
xăng, sau đó ném lựu đạn xuống! ở bãi vàng, quả thật người với người đã thành
dã thú, mà không chỉ vì nơi họ đang có mặt là giữa núi rừng.
Tuy bị tấn công liên tục nhưng hầu như không một nạn nhân nào
chịu đi trình báo với chính quyền. Đào vàng là phạm pháp, họ rất sợ sự can thiệp
của luật pháp nên thường tìm cách tự giải quyết lấy. Sau nhiều lần bị các tên Đỗ
Duy Lệ, Lưu Văn Thanh chỉ huy cả chục đàn em đánh chém cướp quặng xái, hàng chục
chủ lán trại ở bãi 65, thôn 4, Trà Bui đã họp nhau lại bàn nhau đánh trả. 3 giờ
sáng ngày 3.10.1997, theo hiệu lệnh của một chủ hầm là Lê Xuân Thu quê ở Tam Kỳ,
Quảng Nam, cả trăm chủ hầm, lán và thợ của bãi 65 đã đồng loạt chia ba cánh tấn
công vào lán của đám kẻ cướp. Cuộc chiến diễn ra khá bài bản: đầu tiên là trái
nổ, lựu đạn khói ném tới tấp, sau đó là cả trăm dao, gậy ồ ạt xông lên. Cả chục
tên trong nhóm cướp bị đánh tơi tả, số còn lại bỏ chạy tán loạn vào rừng, bỏ lại
một xác chết và một số tên bị thương quằn quại. Lê Xuân Thu, Phan Văn Vinh, Trần
Phong Trắc, Phạm Văn Lợi đã cướp toàn bộ tài sản trong lán của Đỗ Duy Lệ và đồng
bọn, sau đó châm lửa đốt rụi. Họ còn bắt tên Chiến, một đàn em của Lệ, đổ nước
sôi lên đầu, cạo trọc lóc và bắt viết giấy gọi Đỗ Duy Lệ mang tiền đến chuộc...
Không thể trách lực lượng Công an huyện Phước Sơn và tỉnh Quảng
Nam, bởi họ đã dồn hết công sức, song mọi cố gắng vẫn không đem lại kết quả
mong muốn. Các bãi đều nằm rải rác trong vùng rừng núi, lại quá nhiều, quá rộng,
khó lòng ngăn chặn được dòng người tắt rừng băng núi để tìm đến bãi vàng. Hơn
10 đợt truy quét, trục xuất dân đào vàng trái phép ra khỏi bãi đã được tỉnh,
huyện tổ chức, song kết quả không mấy khả quan, dù rất tốn kém. Công an, du
kích xuất hiện dưới chân núi, những kẻ đào vàng vẫn đủ thời gian tháo máy, dỡ
trại đưa xuống địa đạo cất giấu, còn người trốn vào rừng. Lực lượng truy quét
rút, họ lại quay trở lại.
Khi có tai nạn hoặc bị trộm cướp, không một người bị nạn, bị
hại nào chịu khai báo, rất khó phát hiện. Trong khi đó, cả thủ phạm lẫn nạn
nhân đều là dân tứ xứ, phải tốn rất nhiều công sức để điều tra, truy bắt. Bọn tội
phạm lại là những tên rất liều lĩnh. Tháng 5.1999, chuyên án CA 889 của Công an
Quảng Nam đã phá băng cướp do Thanh sứt, Hiển bụi cầm đầu. Các tên Thanh sứt, Bắc
phò, Tiên nghiện, Lanh... bỏ trốn lên Đăk Nông, Đăk Lăk. Đúng một tuần lễ thức
trắng rúc trong rừng le đầy muỗi, vắt, Công an Quảng Nam mới tóm được chúng.
Còn lại một mình, Hiển bụi trốn từ Phước Thành sang bãi vàng nhẹ Phước Đức và lập
ngay băng mới chỉ sau đúng ba ngày, tiếp tục thêm bốn vụ cướp. Bị một nạn nhân
che mặt chém trọng thương, Hiển vẫn không đi bệnh viện mà nhờ đồng bọn
dùng chỉ may đồ khâu giúp, nằm lại bãi dưỡng thương chuẩn bị cướp tiếp. Rất
may, Hiển và cả băng mới lập đã bị Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh bắt ngay tại
bãi chỉ một tuần sau đó. Khi bị bắt, bọn tội phạm vẫn ngoan cố bởi hy vọng rằng
rừng núi mênh mông, luật pháp khó tìm ra chứng cứ để buộc tội chúng. Phải mất
hàng tháng trời, Phòng Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Quảng Nam mới tìm đủ chứng
cứ để kết tội tên Nguyễn Hữu Cường. Tên Tư heo (Phan Văn Tư) thậm chí còn cố
tình chơi khăm cả công an. Đích thân trung tá Huỳnh Đức Cường và ba cán bộ chiến
sĩ của Phòng PC 16 Công an tỉnh đã phải lặn ngụp trọn một buổi sáng mùa đông dưới
dòng nước lạnh buốt để tìm vớt khẩu súng gây án mà Tư khai đã quẳng xuống suối.
Kết quả chỉ công cốc, khẩu súng này đồng bọn của y vẫn đang giấu và sử dụng để
tiếp tục đi cướp.
Dẫn giải tội phạm cũng là điều không đơn giản. Đường núi dốc
và trơn, đi một người đã khó, huống hồ phải kèm ba, bốn tên tội phạm. Ngày
21.5.1999, lúc dẫn giải những tên trong băng Hiển bụi về ngang bãi 45, ba trinh
sát của chuyên án CA 889 đã đành bất lực để cho một tên chạy thoát. Dù hai tay
bị còng, tên cướp vẫn liều lĩnh ôm đầu và lăn từ đỉnh đồi xuống, theo một lối
mòn đầy rễ cây, cọc nhọn, trốn thoát mang theo cả còng. Mùa mưa năm 1997, trong
khi bị áp giải qua một đoạn vực, cách mặt nước chừng 20 mét, một tên cướp đã để
nguyên cả còng lao thẳng xuống dòng suối đang chảy xiết. Không để phạm chạy
thoát, càng không thể để hắn chết, thượng úy Nguyễn Văn Thanh của Phòng Cảnh
sát Điều tra Công an tỉnh đành phải lao theo, vừa bơi vừa dìu được tên cướp lên
một tảng đá giữa suối, chờ đồng đội quăng dây ra cứu.
Khổ nhất, bọn tội phạm nghiện ngập thường lên cơn vã, nằm
giãy đành đạch trên đường bị dẫn giải. Để đề phòng, mỗi lần vào bãi truy bắt tội
phạm, các chiến sĩ công an đều phải thủ theo một gói đường. Khi đối tượng lên
cơn, anh em lại phải cấp tốc tìm nước pha cho chúng uống vừa để giúp chống vã
thuốc, vừa tăng lực để có thể tiếp tục hành trình. Trong chuyến bắt băng Hiển bụi
tại bãi Vàng Nhẹ, trời mưa dữ dội, các chiến sĩ Nhậm, Tám, Dũng, Cảnh sát Điều
tra tỉnh đã phải cố nhịn thuốc lá để dành cho bọn tội phạm, bởi khi lên cơn,
không có thuốc hút liên tục, rất có thể chúng sẽ ngất xỉu và nằm lại giữa đường.
Để phục vụ cho những chuyến công tác gian khổ ấy, chế độ và
điều kiện làm việc của lực lượng công an vẫn hết sức thiếu thốn. Trong khi một
cuốc xe ôm vào bãi là 500 ngàn đồng thì công tác phí cho một chiến sĩ vẫn chỉ
là 20 ngàn đồng một ngày, không hề có một ngoại lệ nào cả...
Chỉ một vài ví dụ, đủ thấy lực lượng công an ở vùng vàng đã cố
gắng hết mình. Nhưng để giải quyết triệt để tệ nạn và tình hình phạm tội ở nơi
này, không thể chỉ trông chờ vào mỗi sự tận tụy, hy sinh của lực lượng công an.
Cái thiếu vẫn là một chính sách toàn diện và kịp thời, nếu không mọi biện pháp
dù tích cực cũng chỉ là giật gấu vá vai. Cấm khai thác, địa phương mất nguồn
thu lớn, nhưng dân tứ xứ vẫn không ngừng đổ về, thiên nhiên vẫn bị tàn phá, những
mối nguy vẫn đầy ắp mà không thể ngăn chặn nổi. Đại đa số chủ bãi, chủ hầm đều
mong muốn nhà nước có một qui chế cụ thể, cho phép họ đăng ký, đóng góp nghĩa vụ
và khai thác. Như vậy, người khai thác sẽ yên tâm hơn, nhà nước cũng tăng được
nguồn thu cho ngân sách và dễ quản lý hơn. Nhưng theo đúng luật thì việc cấm là
tất nhiên, mà luật thì khó lòng thay đổi. Giải pháp cho bãi vàng, vì thế, vẫn
đang luẩn quẩn trong một mớ bùng nhùng không lối thoát. Và số phận của những
con thiêu thân lao vào bãi vàng vẫn bị treo lơ lửng.
7. Vàng đổi người
Tự coi mình là một thợ mỏ, ngày 25.5.1999, tôi đã thử lần xuống
một miệng giếng ở bãi thôn 5A, xã Phước Thành của ông bà Hoàng Xuân Điền - Lê
Thị Gấm, quê ở Giao Thiện, Giao Thủy, Nam Định. Mầu, người dẫn đường, chui vào
trước. Theo chỉ dẫn của anh ta, tôi đeo máy ảnh ra trước ngực và khom người ngồi
bệt mông xuống nền đất. Một cú trượt đã đẩy tôi chuồi sâu khoảng 15 mét vào
lòng địa đạo tối như hũ nút, nghiêng chừng 150 và cao không hơn 0,8 mét. Xỏ
chân vào miệng gàu - một can nhựa 40 lít cưa bỏ phần trên và chắp thêm một cầu
ngang bằng gỗ - tôi đu người bám chặt dây tời cho Mẫu thả xuống hầm. Dây tời nhả
khá nhanh khiến chiếc gàu đung đưa, liên tục va đập vào hai thành giếng. Tụt khoảng
30 mét, chiếc gàu chạm đất. Tối như địa ngục và nóng hầm hập, hơi ẩm bốc ngùn
ngụt khiến tôi ngộp thở. Nhìn lên trên miệng giếng, bóng đèn điện tròn vo và bé
tí như hạt đỗ. Có vẻ như tôi sắp rờ phải bờ vai xương xẩu của thần chết. Mà có
thể tôi sắp chết thật, vì một tỉ lý do. Sụp hầm: chết, đá lở, một viên rớt
trúng đầu: chết, máy thổi khí (máy hút bụi được chắp ống tizo) ngưng hoạt động:
chết, leo lên đứt dây hoặc tuột gàu: cũng chết. Đó là chưa kể một cái chết
khác, nếu người trên miệng giếng có âm mưu... Sợ vãi cả linh hồn, tôi giương
máy ảnh bấm lia lịa, cái được cái mất để còn rút. Dưới ánh chớp đèn flast, tôi
nhìn thấy một đôi ủng, vài chiếc cuốc chim và một chiếc găng tay nằm lăn lóc.
Vội và vì... sợ, chưa kịp xỏ chân vào gàu, tôi đã giật giật dây
tời. Tưởng đúng ám hiệu, chiếc gàu cứ thế được tời cao dần lên, để lại một mình
tôi giữa đất đen sâu hun hút với trống ngực nện như búa máy. Rất may, chỉ 3
phút sau - mà tôi ngỡ là 3 thế kỷ - gàu lại được thả xuống. Khi trồi lên khỏi mặt
đất, bị lóa mắt bởi ánh sáng mặt trời, tôi mới thở phào tin chắc là mình còn sống.
Cái màu chàm nhợt nhạt trên mặt Mầu lúc đó mới loãng ra. Anh bảo:
- Thấy lên gàu không, tôi tưởng anh rớt rồi. Anh mà tiêu thì
tôi bỏ mẹ!
Ông Điền cười khà khà, chỉ ông Địa trước miệng hầm:
- Chết sao được, lúc cậu xuống, tôi có thắp hương cúng!
Trời ạ, té ra nãy giờ sinh mạng tôi đã được những người đào
vàng gửi tạm vào tay thần thánh. Sau chuyến tham quan địa ngục này, tôi nghĩ đã
có thể xem ông Địa như một người bạn có trách nhiệm. Tốt, dù hơi bị... hồi hộp.
Nỗi hồi hộp của tôi chỉ kéo dài 5, 10 phút. Còn họ, những người thợ, đó là cuộc
sống, là nỗi thắc thỏm triền miên hun hút theo năm rộng tháng dài.
Ông Điền - bà Gấm có 8 người con. Hoàng Xuân Lương là con
trai thứ ba, sinh năm 1972. “Nhâm Tý vi vương”, Lương không chịu nổi cuộc sống
eo hẹp ở quê, 2 sào ruộng với 26 khoản đóng góp, khoản thu nhập nhỏ nhoi cho 8
miệng ăn không đủ để chắp cánh cho những mơ ước. Vậy là Lương tìm đến bãi vàng.
Hơn một năm trời bặt tin con, lại chứng kiến không ít bạn bè cùng lứa với Lương
từ bãi vàng mò về với bộ dạng tiều tụy, có đứa chết vì ốm đau tai nạn, có đứa bị
đánh chém thành thương, hai ông bà đâm hoảng, vội sai hai người anh của Lương
là Biên và Cương vào bãi gọi em về. Những ước vọng đã biến thành cay cú ăn
thua, Lương dứt khoát không quay lui khi hai tay còn trắng.
Chờ mãi đến hết tiền vẫn không thuyết phục được em, Biên và Cương đành ở lại luôn, trở thành thợ mỏ của vùng vàng. Sốt ruột, bà Gấm lần đường tìm vào. Sau nhiều ngày vất vả, bà tìm được con. Lương đã tàn tạ vì thuốc phiện, hai chân khẳng khiu xỏ trong hai ống quần người anh mới đem vào cho. Lúc này, nó đã muốn về, nhưng đào mãi vẫn chưa thấy vàng, tiền đâu mà về. Bà Gấm cũng nhẵn túi, đành phải nán chờ con... Một tháng rồi hai tháng... Đầu tháng 5.1999, ông Điền chờ mãi không thấy vợ con, lại tiếp tục lần vào.
Chờ mãi đến hết tiền vẫn không thuyết phục được em, Biên và Cương đành ở lại luôn, trở thành thợ mỏ của vùng vàng. Sốt ruột, bà Gấm lần đường tìm vào. Sau nhiều ngày vất vả, bà tìm được con. Lương đã tàn tạ vì thuốc phiện, hai chân khẳng khiu xỏ trong hai ống quần người anh mới đem vào cho. Lúc này, nó đã muốn về, nhưng đào mãi vẫn chưa thấy vàng, tiền đâu mà về. Bà Gấm cũng nhẵn túi, đành phải nán chờ con... Một tháng rồi hai tháng... Đầu tháng 5.1999, ông Điền chờ mãi không thấy vợ con, lại tiếp tục lần vào.
Bây giờ, cả gia đình năm người đã “mắc cạn” trên đỉnh núi.
Ngày ngày, khi ba đứa con trai đã mất hút trong bụng hầm vàng, hai ông bà lại
bó gối ngồi trước miệng hầm, ngay ngáy lo những đứa con sẽ chẳng còn cơ hội để
trồi lên. Để tự trấn an, ông Điền lại chắp tay vái trước bàn thờ ông Địa lập
trước cửa hầm. Bà Gấm cũng chỉ biết xách hương lên đỉnh đồi, quì lạy rất lâu
trước mộ phần vô danh của những đứa trẻ cùng tuổi với con bà được bạn bè đào
vàng chôn lại ngay tại bãi. Khi giấc mơ đã khánh kiệt, những cuộc đời khốn khổ ấy
chỉ còn biết đặt hy vọng vào thần thánh.
Không lớn hơn Hoàng Xuân Lương là mấy, nhưng thâm niên đào
vàng của Nguyễn Văn Tân thì dày hơn nhiều. Tân sinh năm 1970, quê ở Ca Đình,
Đoan Hùng, Phú Thọ đi đào vàng từ năm 1988. Ban đầu, anh đãi vàng
cám ở Bắc Kạn, năm 1998 mới theo một ông bạn là Nguyễn Ngọc Thanh vào bãi Phước
Sơn. Thanh quê ở Thái Nguyên, sinh năm 1967, bắt đầu đào vàng từ năm 1991. Đào
mãi chẳng thấy vàng đâu, chỉ tuổi trẻ trai là cứ chôn mãi vào lòng đất. Thậm
chí khi Thái Nguyên tách tỉnh, Thanh cũng chịu, không hiểu nổi quê nó thuộc về
Bắc Kạn hay Bắc Thái. Mùa mưa năm 1998, thấy bảy, tám người bị núi đè chết cùng
lúc, Tân và Thanh mới thấm hết nỗi khổ phong trần. Gom được 2 triệu, hai anh em
quyết định quay về, không bao giờ lên bãi nữa. Nhưng chưa xuống hết dốc núi, họ
lại gặp Nguyễn Văn Lượng và một đám trẻ con cùng quê với Tân lặn lội mò vào.
Thương đám con nít 16, 17 tuổi không biết sống chết là gì, Thanh và Tân đành thở
dài quay trở lại để chỉ bảo, đỡ đần cho đám trẻ con. Hai triệu đồng kia lại phải
chia ra để lo cơm nước, dụng cụ cho đám trẻ, chẳng biết bao giờ mới kiếm đủ để
có thể quay về. Được ít hôm, trời lại mưa, lại gió, người chết lại được mang
đi, đám trẻ sợ hãi khóc thét lên. Có đứa sợ quá, đêm không ngủ được, lại bị sốt
rét quật ngã gục, cứ la hét và chạy bắn ra giữa mưa khuya. Sợ chúng lọt hầm, lạc
rừng thì chết, Tân, Thanh lại đốt đuốc đội mưa đi tìm suốt đêm. Gặp được đứa
em, hai thằng anh cũng chỉ biết đội mưa ngó nhau và khóc.
Đêm cuối cùng ở bãi vàng, tôi đã ở lại làm khách tại lán của
Tân, Thanh và những cậu bé gốc Phú Thọ, Thái Nguyên. Suốt đêm đó và cả năm, sáu
hôm trước, trời vẫn mưa như trút. Cũng may, cám cảnh phận người, trời cũng
thương tình chỉ đổ xuống rú rừng những cơn mưa ấm. Suốt đêm, tôi cứ nằm trằn trọc
đếm mưa rơi, không tài nào ngủ được. Thỉnh thoảng, cơn mơ màng của tôi lại bị bắn
tung lên trời vì một tiếng mìn. Bãi thôn 2 quá lớn. Gần hai ngàn con người chen
chúc nhau giữa ầm ĩ tiếng máy phát điện, máy nghiền đá nổ như đại liên suốt
ngày đêm. Cả hốc núi hoang vu sáng rực ánh điện và mù mịt khói xăng, dầu. Cứ
khoảng 15 phút, tiếng mìn phá đá lại dội ngược lên, hất những cơn mơ chập chờn
bắn lên trời. 2 giờ sáng, ngay dưới lưng tôi, sau tiếng nổ ầm là những bước
chân rậm rịch và tiếng người í ới. Đang chờ thay ca, Tân vội xỏ dép và lật đật
trượt theo dốc núi bò xuống. Lát sau, anh ta bò lên và bảo tôi bằng giọng khô
khốc:
- Tưởng gì, mìn nổ, bốn thằng bị ngạt, đưa đi viện rồi. Ngủ
đi, ở đây ngày nào không có thằng đi viện.
Nghe lời Tân, tôi cố cuộn mình trong chăn thật kỹ nhưng vẫn
không thể nào ngủ được. Lúc đó, tôi mới thấy cảm hết nỗi khốn khổ của những người
giàu. Nằm trên đống vàng, người ta sẽ chẳng bao giờ tìm được một giấc an lành.
Đêm chỉ là những cơn mê phập phù và bất trắc. Dưới kia, ánh điện tham vọng vẫn
sáng rực núi rừng, nhưng ánh sáng vẫn không đủ để xua đi phần tăm tối trong số
phận của những kẻ liều.
Thợ khổ, người làm công cũng khổ. Rồi thì cả chủ hầm, chủ bãi
cũng chưa chắc đã sung sướng gì hơn. Để trở thành một ông chủ ở bãi thôn 4, xã
Phước Kim, Nguyễn Văn Xuân đã phải vay mượn và thế chấp toàn bộ nhà cửa, tài sản,
được gần 200 triệu đồng để khui một hầm vàng. Ròng rã ba tháng vỉa đá mơ ước vẫn
chưa chịu lộ ra. Hết tiền, Xuân phải nhường bớt một miệng hầm cho người khác. Một
tuần sau, ngày 7.5.1999, tai nạn đất rơi đã khiến một người thợ của hầm mới này
chết ngay tại chỗ, trong khi ông chủ hầm kia đã ra Đà Nẵng cách đó mấy hôm. Là
chủ đất, Xuân đành phải vay mượn, gom góp được 10 triệu đồng để người bị nạn được
bạn bè anh ta đưa về quê an táng. Dù chịu bỏ tiền ra, song cho đến lúc bị công
an mời lên, Xuân vẫn ngớ ra, không hề biết nạn nhân tên gì cả. Bãi vàng là thế,
cái đáng quan tâm là vàng, đâu phải là số phận một con người (?!).
Rải rác quanh các lối mòn vào bãi, tôi đã gặp cơ man những phần
mộ vô danh như thế. Số lượng mồ mả có tên và không tên được đắp sơ sài cứ ngày
một dày lên, nhiều lên, lẫn vào các lùm cây búi cỏ, lẫn vào mưa nắng và sự khốn
khổ của một kiếp tìm vàng. Vượt qua những chân dốc đầy mồ hoang tham vọng ấy,
hàng ngàn hàng vạn con người lại tiếp tục bạt núi, xuyên rừng lần đến bãi vàng,
không thèm đếm xỉa đến một ngày chính họ cũng sẽ góp thêm cho núi hoang rừng trọc
một nấm mồ hoang không hương khói. Đào vàng là phạm pháp, nhưng chưa có sự trừng
phạt của luật pháp, những phận người tôi gặp cũng đã đủ cơ cực, khốn khổ lắm rồi.
Chia tay, tôi cứ bị ám ảnh bởi tiếng anh thợ Nguyễn Văn Tân nói gần như khóc:
- Anh thông cảm, đừng chê bọn tôi lỗ mãng. Đã mò vào đây, có
đứa nào dám nghĩ mình là một con người nữa đâu(!).
Theo yêu cầu của công an huyện, chủ bãi Nguyễn Văn Xuân dành
tạm gác công việc đào đãi để về tường trình vụ tai nạn tại hầm của anh. Theo
chân Xuân và những người công an, tôi cũng hạ sơn trở lại đồng bằng. Đến trước ủy
ban nhân dân xã Phước Thành, chúng tôi ghé lại quán nước của Diễm, cô gái 25 tuổi
có đôi mắt buồn và đẹp - người mà tôi đã có dịp làm quen trước đó gần chục hôm.
Tôi hỏi em, vì lẽ gì mà lại bỏ đồng bằng tìm đến tận đây, miền sơn cước hoang
dã, có tìm đỏ mắt cũng không kiếm được một tâm hồn biết trân trọng một đôi mắt
đẹp. Em đáp gọn lỏn:
- Mưu sinh!
Chao ôi, đồng tiền ma lực quá. Xin cam đoan, ở Phước Sơn,
chính tiền và vàng mới là sức mạnh vô địch để con người bạt núi xẻ rừng chứ
hoàn toàn không phải tình yêu. Nhưng khi biết chúng tôi sắp rời bãi vàng, vẻ bất
cần của Diễm hầu như biến mất. Rất yếu đuối, em hỏi tôi một câu tối nghĩa:
- Tại sao các anh lại về?
Không đợi tôi trả lời, mà thực ra hỏi chỉ để mà hỏi chứ em
đâu cần tôi phải trả lời, giọng Diễm chùng đi trong một câu trách móc:
- Ai cũng rứa, lên rồi lại về, có ai chịu ở lại với ai đâu?
Nhoi nhói trong lòng, tôi đi cúi mặt. Được một quãng xa,
ngoái lại tôi vẫn thấy Diễm tần ngần ôm cột quán trông theo. Mắt em hun hút, tiếc
rằng đôi mắt ấy không dành cho tôi, không dành cho Xuân, không dành cho bất cứ
ai trong đoàn người đang sắp rời khỏi vùng vàng. Ráo hoảnh và xa vắng, tôi biết
đôi mắt ấy đang đau đáu dõi theo lầm lũi một kiếp người.
Tự nhiên tôi lại nghĩ đến con số gần một vạn người hiện đang
đứng nghiêng ngả giữa lằn ranh mong manh của sự sống và cái chết, của lương thiện
và tội lỗi, của sự tàn phá và nghiện ngập. Con số một vạn ấy, tôi nghĩ đã quá đủ
để lương tâm buốt nhức, đủ để nghĩ đến việc thay đổi hoặc đề ra một chính sách
phù hợp với thực tế vùng vàng.
Trên đường trở lại đồng bằng, tôi bắt gặp một nhóm năm, sáu
người ngoại quốc, cả đàn ông lẫn đàn bà đang đi ngược về phía núi. Hỏi ra mới
biết, họ là những người Mỹ thuộc tổ chức POW/MIA đang ngược đường lên Trường
Sơn tìm kiếm hài cốt những binh sĩ Mỹ chết và mất tích trong chiến tranh. Họ đi
mà không nói năng gì, chỉ lầm lũi bước, trên lưng là ba lô hàng to như... quả
núi, nặng trĩu. Hiển nhiên thôi, mang cả một quá khứ trên lưng thì nặng phải biết.
Rồi 10 năm, 20 năm và lâu hơn thế nữa, sẽ có bao nhiêu người mẹ, người vợ, người
con trên đất Việt Nam thân yêu của tôi sẽ phải quay lại chốn này để tìm người
thân của họ, cũng đã bỏ mình nhưng là vì một cuộc chiến khác, cuộc chiến vì
vàng, cuộc chiến chống lại chính bản thân mình! Tôi không biết, không trả lời
được, chỉ nghe trong lồng ngực trái tim nặng trĩu đập nhoi nhói.
Người ta bảo:
Trường Sơn Đông nắng Tây mưa.
Ai chưa đến đó như chưa hiểu mình
Lần theo một câu thơ, một khúc hát, tôi đã đến được đầu nguồn
Đăk Mỹ, đã đặt chân đến bãi vàng, đã đến được với Trường Sơn; mà sao suốt dọc
đường về, lòng vẫn tấu vô hồi những khúc ca không quen biết. Đầy hoang mang tôi
cứ tự hỏi: không biết mình có hiểu nổi mình không?.
Phước Sơn, 5.1999.
9.1999
Nguyễn Hồng Lam
Nguyễn Hồng Lam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét