Thứ Tư, 29 tháng 4, 2020

Người của giang hồ 2

Người của giang hồ 2
7- ĐIỀN KHẮC KIM
Trong “bảng phong thần” của giang hồ Sài Gòn trước 1975, tên tuổi Điền Khắc Kim cũng lừng danh không kém gì Đại Cathay, Sơn Đảo, Lâm Chín ngón, Y Càlết... những hung thần lề phố. Nhưng trước sau gì hắn vẫn là một tên tướng cướp không giống ai, một “tướng không quân”. Con đường leo lên vị trí đàn anh của hắn hoàn toàn nằm ngoài quy luật chung của giới giang hồ: không hề gây bè kết đảng, không xưng hùng xưng bá, không hề tổ chức những cuộc thanh trừng đẫm máu để tranh giành lãnh địa.
Điền Khắc Kim nổi tiếng vì là tác giả của hàng chục vụ cướp kinh thiên động địa với giá trị tài sản rất lớn mà nạn nhân tất tật đều là người Mỹ. Cứ cướp xong là hắn hiếp các nữ nạn nhân, sau đó không quên ghim lại một mảnh giấy ghi ba chữ: “Điền Khắc Kim”. Đã là tướng cướp thì chuyện vướng vòng lao lý là lẽ tất nhiên, nhưng với Điền Khắc Kim, nhà tù chỉ là chốn “vui thì ở, buồn là đi”, bắt hắn chỉ như bắt cóc bỏ đĩa. Tất cả những phi vụ kinh hoàng ấy, Điền Khắc Kim cũng chỉ đơn thương độc mã thực hiện, không hề có trợ thủ. Vì lý do này, báo chí Sài Gòn trước năm 1975 mới gán cho hắn biệt danh “Tướng cướp cô đơn” hoặc “Tướng cướp sôlô”. ít ai biết rằng, bức chân dung kinh khủng ấy lại được vẽ nên từ những nét cọ đầu tiên là một chuyện tình buồn trên một nền khung nghèo khó.
Điền Khắc Kim tên thật là Lê Văn Minh, con trai thứ hai trong một gia đình nheo nhóc có bốn anh chị em ở làng Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. Tuổi thơ không êm đềm của hắn trôi qua dưới một mái nhà rách nát, lợp bằng những tấm tôn cũ thủng lỗ chỗ, vách là một hỗn hợp gồm ván ép, mảnh bìa carton, vỏ thùng phuy cũ và vô số mảnh tôn, thiếc đầu thừa đuôi thẹo khác. Mùa nắng, ngôi nhà nóng hầm hập. Mùa mưa, nóc dột tứ tung, nền thấp nên nước mưa từ các đường hẻm, rãnh cứ thi nhau cuốn rác rều ồng ộc tuôn vào nhà. Bốn chị em hắn tha hồ gọi nhau lội tứ tung, nhặt nhạnh lại những đôi dép đứt, giấy vụn, bao nilon đang nổi lều bều giữa nhà đã thành một bể nước bẩn và thi nhau chổng mông lên trời khua xô, thùng tát nước.
Cha mất sớm, toàn bộ gánh nặng mưu sinh đè trĩu lên đôi vai mẹ hắn. Cứ sáng tinh sương, thằng bé con đen đúa, mắt đầy ghèn lại bị lôi cổ dậy để ra lò bánh mì lấy những mẻ bánh đầu tiên đi bán bánh mì “chạy”. 8 giờ sáng, quẳng cái giỏ cần xé đã hết nhẵn, hắn lại lo chạy về phụ giúp mẹ bán bánh mì “nằm”. Tuổi thơ vất vả và thiếu thốn nên Minh không lớn nổi, người cứ loắt choắt, gầy và đem nhẻm, có phần nhút nhát vì mặc cảm. Việc học hành của hắn vì thế cũng chẳng bằng ai, chữ vào tai này lại ra tai kia rồi rụng mất.
Con nít nhà nghèo thế kỷ trước đói ăn nhưng lại dễ no đòn. Mỗi lần Minh bị đánh, có một con bé hàng xóm lại cạy vách nhìn vào trề môi trêu chọc. Con bé tên là Diễm, Nguyễn Thị Diễm, nhưng dân trong xóm cứ nôm na hình hài mà gọi nó là Diễm đèo, cũng như gọi Minh là Minh con bởi cả hai đều gầy quắt như quả dưa chuột đẹt trồng trên đất cằn bị ong chích. Bị trêu, Minh con tức lắm, rắp tâm tìm cách trả đũa. Làng Hạnh Thông Tây có nghề làm pháo gia truyền, hầu như nhà nào cũng có mâm quấn pháo nên quanh năm làng cứ đầy những tiếng đì đùng. Không có tiền mua, thằng oắt Minh con cứ lăn xả vào dưới những bánh pháo đang tóe lửa của các đám giỗ chạp, cưới hỏi, xô nhau giành giật với trẻ con hàng xóm để nhặt pháo lép cất dành, chờ Diễm đèo đi ngang qua đốt ném để “khủng bố”. Ban đầu, Diễm sợ khóc thét lên. Sau, nó lại ton ton chạy theo Minh nhặt pháo, miệng cười rổn rảng trong khi mắt nhắm tịt và hai ngón tay thì bịt chặt hai tai. Lâu dần thành quen, hai quả dưa chuột đẹt bị ong chích phải lòng nhau lúc nào không biết.
Con gái thường mau lớn hơn con trai. 16 tuổi, Diễm đèo trông phổng phao hẳn lên, mái tóc đỏ quạch đã mượt ra, nước da cũng trở nên mịn màng chứ không đen đúa, sần sùi như trước nữa. Đúng thời điểm đó, Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam. Khu vực Hạnh Thông Tây, trại lính, sở Mỹ mọc lên nhan nhản. Trên các trục đường lộ quanh cái xóm nghèo của Minh con, Diễm đèo, quán rượu, nhà chứa, snack-bar cũng thi nhau mọc lên để hứng những tháng lương lính và bán đi tất tật những gì có thể bán. Dù chưa phải thiên nga, Diễm đèo cũng không còn là con vịt trời xấu xí nữa. Chưa kịp ngỏ lời, Minh con đã phải cay đắng nhìn mối tình đầu của mình lột xác thành một Hélen Diễm, cô tiếp viên xinh đẹp với váy ngắn cũn cỡn hằng đêm nằm lọt thỏm trong vòng tay lông lá của những tên lính Mỹ to con gấp đôi nó trong snack-bar. Minh cũng không khá gì hơn, nó bỏ học, trở thành một thằng ma cô dắt mối cho gái điếm. Tháng ngày của hắn được nối nhau bằng những trận đập lộn tóe lửa với đủ loại sắc lính, từ biệt động quân, thủy quân lục chiến, lính dù đến lính bộ binh - những kẻ thường kéo cả đoàn mò vào xóm Hạnh Thông Tây tìm gái chơi bời rồi giở trò ăn quịt. Đánh nhau tay không cũng có mà bằng gậy gộc, gạch đá, dao phay cũng có... Thằng bé hiền lành ngày xưa biến mất, thay vào đó là một thằng Minh con ma cô lầm lì, bất chấp với một vết sẹo dài cỡ hai lóng tay vắt qua má trái, một tay đứng bến được cả vùng Hạnh Thông Tây - ngã ba Chú ía - vành đai sân bay Tân Sơn Nhất nhớ mặt biết tên.
Lì lợm là thế nhưng với Diễm đèo, đúng hơn là với Hélen Diễm, Minh con vẫn không thể can đảm hơn để nói được một câu tỏ tình đàng hoàng thành thật. Chỉ duy nhất một lần, tức quá không chịu nổi, Minh con đã chặn Hélen Diễm khi cô đang cặp kè với một tên lính Mỹ, hỏi dấm dẳn:
- Mấy thằng lông khỉ này có gì hay? Sao cô cứ...
Cơn ghen của nó bị Diễm tàn nhẫn cắt đứt nửa chừng:
- Hỏi dzô duyên. Hổng có gì hay, nhưng tụi nó có tiền!
Rồi cô kéo tên Mỹ trẻ măng đang đứng trố mắt đi một nước, bỏ lại Minh con đứng trơ như phỗng, ngơ ngác giữa đường.
Khoảng cuối năm 1967, một biến cố nho nhỏ đã xô Minh con ra khỏi nghề dắt gái ở Hạnh Thông Tây: mẹ hắn lấy chồng. Bố dượng của hắn là một hạ sĩ quan lái xe người gốc Campuchia nhưng nói tiếng Việt nhuyễn như ăn cháo, tên là Kalon Rim. Bố dượng cũng cục tính, lầm lì y như thằng con, được cái cũng không tệ bạc gì với mấy đứa con riêng của vợ nên Minh con chẳng có lý do gì mà ghét lão. Nhưng chính vì tử tế nên lão đã nhất quyết bắt bốn anh em Minh cải họ theo mình để mang những cái tên rất Miên mà nó không hề thích, cũng chẳng hiểu nghĩa là gì. Minh con trở thành Kalon Theo, con Hòa em nó trở thành Kalon Hòa. Những cái tên có vẻ “cà chớn” khiến thằng ma cô bất mãn. Không nói không rằng, nó bỏ nhà, bỏ miệt Gò Vấp mò lên sống bụi đời ở trước khu chợ Dân Sinh, quận 1. Làm đủ thứ nghề, ngày bán báo, đánh giày, đêm ra lề đường Nguyễn Công Trứ thuê ghế bố ngủ. Không có tiền thì lót báo cũ nằm vạ vật. Chưa hề sung sướng bao giờ nên kiếp bụi đời, với Minh cũng chẳng có gì là khổ sở.
Trước lúc ra đi, thu hết can đảm, nó mò đến cái snack-bar nơi Hélen Diểm làm tiếp viên, trong túi là một bánh pháo dài cả thước. Diễm chưa kịp ngạc nhiên trước sự xuất hiện bất ngờ, Minh con đã lôi bánh pháo ra, cầm trên tay trần, giơ cao và rút điếu thuốc trên miệng châm vào ngòi pháo. Pháo nổ tung tóe khiến gái bán bar và khách làng chơi cả Mỹ lẫn Việt được một phen nhốn nháo. Nhưng Diễm thì không. Không nhắm mắt, không bịt tai cũng không bỏ chạy, cô cứ đứng ngó trân trân dây pháo nổ điếc màng nhĩ trên tay tên bạn bụi đời. Viên pháo cuối cùng, Minh con bóp đít búng tung lên trời đúng khi nó vừa phát ra tiếng nổ. Xong, nó quay lưng đi thẳng, đi một mạch, không hề nói câu nào, bỏ lại một Hélen Diễm phía sau đang ngây người, nước mắt ròng ròng trước lời tỏ tình có một không hai của thằng con trai hàng xóm.
Khoảng nửa tháng sau, tháng 4.1968, tình cờ trên mục “đua xe cán chó” của một vài tờ báo, Minh con đọc được mẩu tin: “Một cô gái điếm cỡ 18 tuổi bị một toán lính Mỹ thay nhau hãm hiếp rồi lột truồng vứt xác ngoài bãi rác ở Gò Vấp”. Lòng điên dại, hắn vứt xấp báo chạy ngay về Hạnh Thông Tây. Nhưng đã quá muộn: cỗ quan tài có Hélen Diễm nằm trong đó đã vùi sâu vào đất lạnh! Mối tình đầu câm lặng kết thúc quá sớm trong bi thảm, hắn nhờ một cô bạn bán bar cùng với Diễm mua giúp khẩu Colt 45 với mấy kẹp đạn giắt vào bụng rồi lặng lẽ bỏ đi.
Ba năm liền sau đó, báo chí Sài Gòn thỉnh thoảng lại bị khuấy động bởi những vụ cướp hết sức kinh hoàng, nghi phạm tỏ ra cực kỳ liều lĩnh, hung hăng như thể đi cướp để mong được chết, như thể chỉ ngày mai là tận thế. Nạn nhân của những vụ cướp này đều là người Mỹ. Kẻ cướp, không ai khác chính là Lê Văn Minh, hắn đi cướp để trả thù.
Giữa tháng 2.1968, cùng một tên du thủ du thực khác là Lê Văn Hùng, Minh con đột nhập vào nhà một kỹ sư công chánh Mỹ trên đường Trần Quang Khải, dùng khẩu Colt 45 khống chế bà vợ ông ta cướp đi 5.000 USD và một số nhẫn, dây chuyền vàng, kim cương trị giá 17 triệu đồng. Đó là một số tài sản kếch xù, bởi vào thời điểm đó, giá vàng chỉ có 25.000đồng/lượng và 1 USD thì trị giá bằng 10 USD theo giá ngày nay. Nhưng vẫn chưa thỏa mãn, sau khi dồn hết số tài sản của viên kỹ sư vào bao tải, Minh con còn bắt tên Hùng cảnh giới để hắn lôi bà vợ Mỹ của ông kỹ sư ra hãm hiếp.
Bảy tháng sau, kịch bản lặp lại nhưng hung thủ chỉ một mình Minh con. Lần này, tại một cư xá Mỹ trên đường Trần Cao Vân, quận 1, gần hồ Con Rùa, Minh con lần lượt “viếng thăm” và dọn sạch 3 căn hộ, cướp đi một số tư trang tiền bạc trị giá 11 triệu đồng. Cả 3 bà vợ Mỹ đều bị hắn giở trò thú vật.
Bảy tháng sau nữa, tháng 5.1969, đến lượt vợ của tay Giám đốc hãng sản xuất băng đĩa Columbia, nhà riêng ở Xóm Chùa, Bình Thạnh trở thành nạn nhân của Minh con. Lần này, hắn cướp được khoảng 8 triệu đồng và hơn 2 kg magne dùng để sản xuất đĩa nhạc.
Cả Sài Gòn nhốn nháo, thất kinh nhưng cảnh sát thì chịu chết, không tài nào mò nổi tung tích hung thủ, bởi hắn hành động cực kỳ xuất quỷ nhập thần. Dù không bị nhận diện danh tánh, bóng ma Minh con cũng trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng của các bà mệnh phụ giàu có có chồng là người Mỹ. An ninh tại nhà riêng và các cư xá Mỹ được tăng cường tối đa, nhưng nỗi khiếp đảm thì vẫn đeo đẳng. Đúng lúc đó, tháng 11.1969, Minh con lại đột nhập nhà một gái bán bar hạng sang lấy chồng Mỹ ở cư xá Đô Thành cướp 6 triệu đồng. Lần này, cô vợ là người Việt nên Minh con chỉ “đùa bỡn” một chốc rồi bỏ đi, không cưỡng đoạt.
Quá ngạc nhiên trước sự may mắn của mình, nàng kiều “me Mỹ” đã buột mồm hỏi thằng cướp vừa quay lưng bỏ ra đến cửa:
- Anh tên gì vậy?
Đến lượt thằng cướp ngạc nhiên. Không lẽ xưng tên thật, hắn bèn xưng đại một cái tên vừa chợt hiện trong đầu:
- Điền Khắc Kim!
Rồi còn cẩn thận viết cái tên này ra giấy ném lại cho cô gái. Trước khi rút lui, không hiểu sao hắn còn giải thích:
- Cô may mắn đấy. Tôi chỉ trả thù mấy thằng Mỹ chứ không trả thù người Việt.
Ngay tức khắc, báo chí Sài Gòn lại tranh nhau chạy những hàng tít giật gân về vụ “cướp nhà người Mỹ”, với đích danh thủ phạm là Điền Khắc Kim, dù chẳng ai có thể xác định được ai là Điền Khắc Kim giữa thành phố 4 triệu dân này. Chưa hết, nhiều tờ báo còn nhanh nhảu tự “điều tra”, gán thêm rất nhiều nguyên nhân ly kỳ rùng rợn, biện minh cho hành động làm nhục nạn nhân của Điền Khắc Kim ở các vụ trước đó là để “trả thù dân tộc (?!)”.
Sau vụ cướp này, để tránh bị tóm, Điền Khắc Kim đăng ký đi quân dịch. Với cái tên giả là Lê Minh Hùng, hắn trở thành một binh nhì mang số quân 71/116964 của Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 48 bộ binh (ngụy). Ba tháng quân trường vừa kết thúc, máu giang hồ trỗi dậy, hắn lại đào ngũ về Sài Gòn tiếp tục đi ăn cướp.
Tháng 5.1970, Điền Khắc Kim đột nhập vào nhà một người Mỹ là Giám đốc Hội cha mẹ nuôi quốc tế trên đường Trần Quí Cáp (nay là Võ Văn Tần). Đi đêm lắm có ngày gặp ma, trong khi hắn sắp sửa giở trò đồi bại với bà vợ ở phòng ngủ thì trong phòng tắm, ông giám đốc đã cởi được dây trói chạy thoát ra ngoài gọi cảnh sát. Hoảng quá, hắn vội bắt cóc bà vợ làm con tin và tẩu thoát xuống quận 8. Sau khi hành hạ bà đầm chán chê, Điền Khắc Kim đã gọi taxi đưa trả bà về với ông chồng Mỹ. Vì sự liều lĩnh bỡn cợt này, hắn đã bị cặp vợ chồng Mỹ kia nhận diện và bị bắt, phải ra tòa lãnh án 20 năm tù.
Vào trại Chí Hòa, họp mặt với toàn những tay anh chị đầu trâu mặt ngựa, Điền Khắc Kim dù không băng đảng, người không một hình xăm vẫn nghiễm nhiên được đám tù hình sự xếp vào “chiếu trên”. Sự táo tợn, liều lĩnh và những cú “trả thù dân tộc” được các báo lá cải khai thác tối đa đã vô tình tạo cho Điền Khắc Kim một lai lịch đầy ánh hào quang, khiến những tên du thủ du thực phục lăn phục lóc. Nhờ có sự hỗ trợ của những tên đại bàng cộm cán ở Chí Hòa, Điền Khắc Kim có đủ tiền để mua được một tờ “giấy đi phép”, tức được phép tự do ra ngoài 12 hoặc 24 giờ, sau đó về trình diện. Lợi dụng “giấy đi phép”, hắn trốn luôn. Vừa ra khỏi nhà giam, hắn đã mò vào nhà một tên thiếu tá CIA Mỹ để cướp. Là một quân nhân quen hoạt động trong bóng tối, tên “xịa” không dễ gì để bị Điền Khắc Kim bắt nạt, đã kịp thời móc súng chống trả. Đang loay hoay trèo qua ban công, tính nhảy từ lầu hai xuống đất, Điền Khắc Kim đã bị tên thiếu tá CIA quất trúng một viên vào bụng, sụm ngay tại chỗ và bị cảnh sát ngụy tóm cổ, đưa vào Tổng Y viện Cộng Hòa (nay là Quân Y viện 175) chữa trị.
Vết thương vừa tạm bình phục, người còn xanh rớt như tàu lá, Điền Khắc Kim lại cưa còng trốn thoát. Sau mấy tháng nằm dưỡng thương, hắn lại lên kế hoạch tấn công một nhà buôn Mỹ trên đường Công Lý (nay là Nguyễn Văn Trỗi), cướp được 5.000 USD và 20 triệu đồng. Đúng lúc hắn đang hành hạ nữ nạn nhân người Mỹ xinh đẹp thì ông chồng bà ta trở về. Một cuộc đọ súng đã nổ ra. Trước khi ngã quị vì đạn khẩu Colt 45 của tên tướng cướp, tay nhà buôn Mỹ cũng đã kịp bấm cò tặng cho tên tướng cướp một viên vào ổ bụng.
Vết thương quá nặng, Điền Khắc Kim đã không còn cơ hội để trốn tù. Lần này, vì là một quân nhân, phạm tội khi đang đào ngũ, Điền Khắc Kim đã bị tống vào quân lao Gia Định, nơi giam giữ toàn những tên du đãng xuất thân từ lính tráng.
Vào tù, để “giựt le” với đám du đãng đa phần thất học, Điền Khắc Kim tự khai đã học hết đệ nhị (lớp 11), dù kỳ thực hắn chưa hề học hết trung học đệ nhất cấp (cấp 2), kiến thức bị gió giang hồ thổi bay gần hết nên chữ xấu như gà bới. Lờ tịt sự khai man này, chỉ nhằm lợi dụng uy thế của tên cướp lừng danh để trị bọn tiểu yêu trong quân lao, đám cai ngục ở đây đã phong cho hắn cái chức “thư ký quân lao”. Dù là tên cướp đang ở tù, hắn vẫn ăn mặc tử tế như một sinh viên với áo sơmi đóng thùng cẩn thận, trên nắp túi còn giắt thêm một cây viết paker cho thêm phần trí thức.
Có một điều kỳ quái là, trong giới giang hồ, ngôi vị cao thấp thật sự chỉ được phân định rạch ròi khi ở... trong tù. Là “thư ký đề lao”, nghiễm nhiên Điền Khắc Kim trở thành vua một cõi. Đó chính là lúc bản chất lưu manh mạt hạng của tên tướng cướp bộc lộ đầy đủ nhất. Không có gì để nghi ngờ, việc Điền Khắc Kim trở thành hung thần, chuyên cướp, hiếp những người Mỹ giàu có khởi nguồn từ cái chết bi thảm của Hélen Diễm, mục đích chính là để trả thù. Nhưng, đó chỉ là những vụ đầu tiên, còn sau này, hắn đi cướp chỉ vì một mục đích duy nhất: kiếm tiền ăn chơi phè phỡn. Diễm đèo chỉ là kỷ niệm thoáng qua, một màn sương mờ cay nồng khói pháo, một gam màu lạ để Điền Khắc Kim tô vào bức tranh đầy hào quang ảo cho thêm phần thê thiết. Đích thực, hắn là một tên bệnh hoạn. Mỗi lần cướp về, hắn thường xổ tung tiền, vàng cho chúng bay vung vãi khắp nhà rồi nằm lăn lộn trên đó để tìm khoái cảm. Trong tù, bao nhiêu tiền làm luật hoặc do đàn em cống nộp, Điền Khắc Kim trải đầy ra dưới tấm drapp để “nằm cấn lưng nghe kêu rột rột đã tai chơi”. Đồng tiền được phong thánh thì nhân cách hóa tên đồ tể. Điền Khắc Kim không tiếc tay đánh đập đàn em, những tên tù hạng tép riu tứ cố vô thân, để thị oai và tiêu khiển. Và, khi gặp đúng đối thủ, hắn sẽ phải trả giá cho điều đó.
Sự buông lơi kỷ luật đã khiến khối hình sự trại giam Chí Hòa ngày càng trở nên hỗn loạn; đâm chém, thanh trừng nhau diễn ra liên miên. Không chịu nổi, cuối năm 1974, nhà tù Chí Hòa đã tiến hành một đợt thanh lọc, tống những tên đầu bò đầu bướu nhất của trại này sang quân lao Gia Định để tiện bề quản lý, tất cả có 32 tên. Vừa đến nơi ngồi tù mới, những tên cộm cán này đã la ó vang trời tính chuyện “làm reo”. Là “thư ký đề lao”, Điền Khắc Kim cũng có mặt trong buổi tiếp nhận những thành viên mới. Muốn thị oai, hắn xông ra quát:
- Muốn làm loạn hả? Không biết ông nội bay đang ở đây sao?
Nổi nóng, Lâm Chín ngón nhảy xổ ra:
- Mày là thằng chó nào?
Điền Khắc Kim tức lắm bảo:
- Đừng lộn xộn, ông nội mày là Điền Khắc Kim đây.
Lời hắn chưa dứt, Lâm Chín ngón đã nhảy xổ tới, một tay kẹp ngang cổ họng, một tay rút luôn cây paker trên túi áo hắn đâm thẳng xuống đầu kẻ mạnh mồm. Hung hăng nhưng nhỏ con, Điền Khắc Kim không chọi lại gã hộ pháp Lâm Chín ngón, cứ quẫy đạp lung tung nhưng vẫn không thoát, lãnh nguyên nhát đâm vào giữa trán. May cho hắn, đầu bút chọc trúng vết thẹo cũ do đạn của Biệt đội hình cảnh trước đây tặng. Thẹo trơn, vết đâm chệch đi nên Điền Khắc Kim không chết nhưng máu cứ tuôn xối xả, đỏ lòm khuôn mặt. Đến lúc đó, Lâm Chín ngón mới chịu buông tay, vứt “thằng oắt” sang một bên mặc cho hắn kêu la chói lói.
Sau trận đó, Điền Khắc Kim mới hết ngổ ngáo, tỏ ra biết điều hơn. Tháng 4.1975, sau khi phân loại, Điền Khắc Kim và một loạt tù trọng án tại quân lao Gia Định bị đổ xuống tàu, tống ra Côn Đảo. Tàu cập bến ngày 22.4.1975 thì 8 ngày sau, Côn Đảo giải phóng. Lợi dụng tình hình lộn xộn, Điền Khắc Kim và nhiều tên tù hình sự khác đã đánh lính gác, cướp súng chạy thoát ra ngoài.
Vừa được hít thở khí trời, hắn đã lập tức xông vào khu gia binh, gây liền hai vụ cướp tại nhà hai cảnh sát chế độ cũ. Côn Đảo đã giải phóng, “thù dân tộc” không còn nhưng trò đồi bại thì vẫn tồn tại, tên súc sinh đã không quên cưỡng đoạt hai bà vợ lính rồi rút lên núi trốn. Nhưng chỉ ba hôm sau, hắn đã bị lực lượng quân quản của đảo tóm cổ.
Sau một thời gian thụ hình tại Côn Đảo, Điền Khắc Kim được chuyển về trại giam Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Tại đây, giữa tháng 5.1978, cùng với tên Nguyễn Ngọc á - một trí thức ngồi tù vì tội... buôn heo lậu - Điền Khắc Kim đã cạy vách tôn nhà xí phòng giam trốn trại, sau đó trốn về Sài Gòn, lén lút trốn tại nhà vợ bé ở đường Hưng Phú, quận 8.
Trước khi trở thành tên cướp lừng danh (1968), Minh con đã lấy vợ - một phụ nữ bình thường nhà ở đường Tôn Đản, quận 4. Khi vợ sinh con đầu lòng, gió giang hồ đã cuốn Minh con đi mất, vợ con hầu như chẳng mấy lúc đoái hoài. Tiền bạc cướp được, hắn chỉ ăn chơi, đập phá cho kỳ hết, chẳng giúp được gì vợ con. Đã thế, hắn lại còn đeo thói trăng hoa. Năm 1969, trong một lần trốn sự truy lùng của Biệt đội hình cảnh (ngụy) tại khu vực Bến Tàu, quận 8, hắn tình cờ gặp chị Phạm Thị Dung. Khuôn mặt ưa nhìn của cô gái bán sương sâm đã khiến tên cướp sa cơ thoáng chạnh lòng. Ngoắt chị Dung lại, tướng cướp Điền Khắc Kim gọi một lúc 10 ly sương sâm, ngồi tì tì húp. Xong xuôi, hắn chùi mép, bảo:
- Đói quá, tôi ăn sương sâm trừ cơm. Bữa nay không có tiền, em cho tôi thiếu, mai mốt muốn bao nhiêu tôi trả bấy nhiêu.
Khuôn mặt hiền lành, khắc khổ, giọng nói có vẻ thành thật khiến cô gái bán sương sâm nghèo không nỡ làm dữ, chỉ im lặng thở dài và quảy gánh đi. Độ một tuần sau, khi quay trở lại chỗ cũ chị đã thấy Minh con đứng từ xa toét miệng cười. Đưa cho chị một xấp tiền dày cộm, hắn bảo:
- Khỏi thối, để đó tôi ăn sương sâm trừ dần.
Rồi hắn lại bắt chị ngồi múc từ từ đủ 10 ly để hắn ngồi nhẩn nha ăn, vừa ăn vừa nói đủ chuyện huyên thuyên chi địa.
Khi số sương sâm đã đủ với số tiền Minh con đưa thì cũng đủ thì giờ để cô chủ buông đòn gánh nằm vào lòng hắn. Hắn bảo:
- Anh làm công nhân, nghèo, không có tiền đám cưới, em chịu không?
Thở dài, chị lại gật đầu. Đã thương rồi thì không đám cưới với ăn sương sâm thiếu nào có khác gì nhau.
... Ở với nhau được một mặt con, chị Dung mới biết Minh con đã có vợ có con, nhưng ván đã đóng thuyền, cũng đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Lâu lâu, hắn tạt về, đưa cho chị một số tiền lớn (vừa cướp được) bảo là mới “trúng áp phe”, để chị sửa lại cái nhà, sắm thêm cho mẹ, cho con vài ba tấm áo mới, thế là đủ mãn nguyện để khoe với xóm giềng. Không ngờ, cuối năm đó, sau nhiều tháng hắn đi biền biệt, Dung mới ngớ ra: Minh con - anh chồng hiền lành tử tế - lại là Điền Khắc Kim, “tướng cướp cô đơn” khét tiếng. Chị khóc, khóc rất nhiều. Sau ba bốn bận thăm nuôi, chị đành xem như Minh con đã chết, chỉ câm nín bán sương sâm nuôi mẹ già và ba đứa con thơ.
Đùng một cái, thằng chồng dối trá quay trở lại. Hung thần với ai, tướng cướp với ai, chứ với chị, hắn mãi mãi là một “anh Minh”, cha của ba đứa nhỏ. Khuyên không được, chị cũng không nỡ tố giác chồng, đành nhẫn nhục cưu mang che giấu Điền Khắc Kim, dù chị biết rất rõ chồng mình là tên tù vượt ngục. Với Điền Khắc Kim, tấm lòng người vợ chính là nơi trú ẩn cuối cùng. Vợ lớn của hắn ở đường Tôn Đản, ngay sau khi hắn bị đày ra Côn Đảo đã bán nhà, ôm con đi biệt xứ, không còn trông mong gì nữa...
ở nhà một thời gian, Điền Khắc Kim mò ra đường Hồ Văn Ngà, tìm một người bạn gái cũ đang sống lắt lay bằng nghề bán hàng lạc-xoong (đồ cũ) tính cậy nhờ để tìm sinh kế. Vừa ra đến nơi, hắn đã bị công an phát hiện và bắt giữ, sau đó bị đưa lên cải tạo tại trại Tống Lê Chân (Sông Bé). Ngồi trại đến tháng 7.1983, hắn lại trốn. Con thú dữ sổng chuồng ngày càng liều lĩnh và hung bạo hơn. Vừa đặt chân trở lại Sài Gòn, hắn đã một mình gây hàng loạt vụ cướp mới. Lần này, đa số nạn nhân của tên cướp hết thời đều là đàn bà, con nít, những kẻ yếu ớt, cô đơn.
Một lần, vừa cướp được một chiếc xe đạp trên đường Nguyễn Thị Minh Khai (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) thì hắn bị công an vây bắt. Cùng đường, hắn kê súng vào bụng anh công an bóp cò nhưng đạn lép, không nổ nên bị tóm tại trận.
Trở vào trại giam, cố hết sức, Điền Khắc Kim vận công, gồng bụng làm bục vết thương Mỹ bắn ngày nào. Được công an đưa vào Bệnh viện Bình Dân cấp cứu. 3 giờ sáng, lợi dụng lúc anh công an gác cửa ngủ gục, hắn lại bẻ còng trốn thoát. Vì vụ đào tẩu này, dư luận Sài Gòn lại có dịp ồn lên.
Trong khi Điền Khắc Kim đang bị truy nã ráo riết thì tại những quầy sách ở đường Đặng Thị Nhu, quận 1 lại có kẻ táo gan xuất hiện xưng danh hắn. Ông ta đi tất cả quầy sách, gom hết những cuốn “Bố già” của Mario Puzzo mà không hề trả tiền. Nghe xưng Điền Khắc Kim, các chủ quầy sách thất kinh, vội đi báo công an. Bị bắt, gã điên này sửng cồ:
- Để xem Điền Khắc Kim với bố già Victor Don Carléon ai bảnh hơn ai. Nó ngon, tôi thách nó đấu súng.
Không thể nhốt một gã điên, công an đành phải cho xe chở hắn về chỗ cũ. Được thả, hắn phản đối quyết liệt:
- Sao không bắt tôi?
Người ta bảo:
- Ông có tội gì mà bắt?
Hắn tỉnh queo:
- Sao không? Điền Khắc Kim là tôi, kẻ cướp, hiếp, bắn lòi ruột cả chục thằng Mỹ, sao không có tội?
Tiếng tăm đen đúa lẫy lừng là thế nhưng đoạn cuối cuộc đời ngang dọc, Điền Khắc Kim đã tự biến mình thành một tên lưu manh mạt hạng. Không còn những vụ đột nhập xuất quỉ nhập thần, không còn các phi vụ rượt đuổi và đấu súng dữ dội, cũng không vấn vương mùi thuốc pháo đớn đau hay vị ngọt mát lãng mạn của ly sương sâm bên bến tàu vất vả, cái còn lại của hắn chỉ là những vụ trộm cắp, cướp giật vặt vãnh của một tên hạ lưu bần tiện. Lần cuối cùng, hắn bị dân phòng phường 12, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh tóm cổ trong đêm khi đang tẩu tán một chiếc xe đạp và mớ quần áo cũ do một đàn em là Lê Văn Thanh trộm được ở một căn nhà bên cầu Rạch Ông, quận 8. Lúc đó là tháng 4.1985. Khi chị Dung dẫn ba đứa con, đứa lớn 15 tuổi, đứa nhỏ mới lên 3 vào trại giam thăm nuôi, Điền Khắc Kim đã ngượng ngùng cúi mặt. Và khóc. Hắn biết thời làm gió làm mưa đã hết. Cái tên Điền Khắc Kim đã vĩnh viễn không còn ám ảnh hay khuấy động được ai nữa.
8- HUỲNH TỲ
Nhị ca mất số
Trong quá trình ngoi lên trở thành ông trùm của giới tội phạm Sài Gòn, Năm Cam đã lần lượt thực hiện các bước núp bóng, lợi dụng rồi hạ bệ hàng loạt đàn anh lớn nhỏ. Giang hồ sợ nhất Năm Cam ở điểm y không từ bất cứ ai và sẵn sàng xuống tay cực kỳ tàn bạo để tiêu diệt tất cả những kẻ cản đường hắn, cho dù người đó từng là chiến hữu, đàn anh hay có tình đệ tử lâu năm ân nghĩa với y. Ngoài Lâm Chín ngón trở thành tàn phế vì acid, Dung Hà bỏ mạng vì ăn đạn, trong danh sách giang hồ cộm cán bị Năm Cam “lấy số” còn phải kể thêm Huỳnh Tỳ - kẻ có thời được giang hồ Sài Gòn xem như nhân vật số 2 chỉ đứng sau Đại Cathay trong nhóm “Tứ đại giang hồ”.
Lai lịch một danh xưng
Huỳnh Tỳ tên thật là Nguyễn Thuận Lai, sinh năm 1944, hơn Năm Cam 3 tuổi. Có lẽ anh ta là tay giang hồ “có số má” duy nhất từ nhỏ chí lớn vẫn không thay đổi chỗ ở, hàng chục năm nay vẫn sống tại nhà số 4/1 Nguyễn Văn Tráng, quận 1. Tp. Hồ Chí Minh.
Năm 1960, học hết đệ tam (lớp 10) ở trường Nguyễn Bá Tòng, chú nhóc Nguyễn Thuận Lai nghỉ ngang, theo cha làm lơ xe đò tuyến Sài Gòn - Nha Trang - Pleiku. Chính nghề lơ xe đường dài đã khiến tên học trò hiền lành nhanh chóng tiêm nhiễm đủ mọi thói hư tật xấu của đàn ông con trai thời chiến. Đến tuổi quân dịch, để tránh bị bắt lính, Nguyễn Thuận Lai đổi tên thành Huỳnh Tỳ - một cái tên gắn chết cả đời với nghiệp chướng giang hồ.
Góc đường Lê Lai, quận 1 có một rạp hát khá nổi tiếng là rạp Aristo.  Năm 1954, gánh hát Kim Chung của ông bầu Long di cư vào Nam, lấy rạp Aristo làm đại bản doanh. Ăn theo gánh hát, những trục đường như Lê Lai, Gia Long (nay là Lý Tự Trọng), Nguyễn Văn Tráng... quán ăn, hàng giải khát nổi lên khá náo nhiệt, đồng thời cũng kéo theo không ít dân trộm cắp, móc túi, trẻ bán báo, đánh giày qui tụ. Khu vực này lại gần chợ Bến Thành và ga Sài Gòn. Mỗi lần “móc đổng” (giật đồng hồ), “ăn kẹp” (móc túi) ngoài chợ xong, đám lưu manh thường chạy ngay về khu Lê Lai để trốn tránh. Tam giác Lê Lai - Nguyễn Văn Tráng - Gia Long nhanh chóng trở thành một mảnh đất màu mỡ để hứng hàng ăn cắp, móc túi bán giá rẻ và tổ chức các loại dịch vụ như sòng bài, động chích, tiệm hút, gái... cho đám cô hồn các đảng này ăn khao bằng tiền trộm cướp. Cùng với hai tay anh chị khác là Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế, Huỳnh Tỳ với kinh nghiệm “du thủ du thực” học được trên những chuyến xe đò đường trường đã đứng ra nhận bảo kê toàn bộ các dịch vụ nhám nhúa này. Thằng lơ xe cục tính nhanh chóng ngoi lên vị trí ông trùm, sau hàng loạt những vụ chém lộn tưng bừng với các băng đảng khác. Ngoài Ngô Văn Cái và Ba Thế, dưới trướng Huỳnh Tỳ còn có thêm một loạt đàn em khác như Cu Ba đen, Tâm vồ, Hùng phốc, Luân sún... Trong gánh hát, bầu Long cũng thu dụng một loạt tay đao búa từng nổi tiếng một thời tại Hà Nội để làm chân bảo vệ. Đám này gồm Sinh càn, Phúc đen, Tâm Ba tai... Ngoài giờ bảo vệ, bọn chúng thường tụ tập tại quán Kiều Chánh cạnh rạp Aristo. Ngứa mắt, Huỳnh Tỳ và đàn em đã gây nhiều trận đập lộn tóe lửa với đám bảo vệ này. Để yên thân, bầu Long đã khôn khéo đãi tiệc dàn hòa hai bên, thu dụng luôn cả băng của Huỳnh Tỳ, chấp nhận đặt các ông tướng gốc Hà Nội vào dưới trướng của y, đồng thời để cho Huỳnh Tỳ và đàn em ra vào rạp Aristo tùy thích. 
Khi quân đã hùng, tướng đã mạnh, nội các tam đầu chế gồm Tỳ, Cái, Thế thường tụ nhau bia rượu, bài bạc suốt ngày tại rạp hát Aristo cho nên được giang hồ gọi luôn là băng Aristo để phân biệt với băng Cathay do Lê Văn Đại cầm đầu có khu vực hoạt động là chợ Cầu Ông Lãnh, cách đó chỉ hơn nửa cây số.
Khoảng năm 1964, nhờ sự liều lĩnh của Đại Cathay, băng Cathay bắt đầu mạnh lên. Sau khi diệt băng Bé Bún, quận 4, đâm tên này đổ ruột, Đại dần dần thôn tính được toàn bộ khu Da Heo (đường Nguyễn Công Trứ) của tay anh chị Tám Lâu, thò tay gom luôn cả sòng bạc hẻm 100 của Bảy Sy (anh rể Năm Cam) rồi vươn ra thâu tóm luôn cả sòng bạc của Đực Bà Tiều tại Chợ Cầu Muối... trở thành đại ca có máu mặt nhất của khu vực quận Nhất, quận Nhì và quận Tư. Lo sợ thế lực của băng Cathay sẽ “nuốt” mất cả khu Lê Lai, Huỳnh Tỳ bàn với hai phó tướng Ngô Văn Cái và Thế Aristo tìm cách diệt Đại. Rủ thêm Hùng phốc và Luân, hai giang hồ cộm cán khác, cả băng Aristo bày tiệc trên lầu rạp hát mời Đại Cathay tới giao lưu. Không mảy may nghi ngờ, Đại Cathay tới ngay. Chưa lên hết cầu thang, Đại Cathay đã chột dạ: nụ cười đón khách của Thế Aristo đột nhiên thay đổi. Chưa kịp hỏi, Đại Cathay đã bị Thế đá lộn cổ xuống thang lầu. Cùng một lúc, Tỳ, Cái, Luân, Hùng bốn kẻ phục kích nhất tề rút dao xông vào chém tới tấp. Vừa đỡ đòn, vừa tìm đường thoát thân, Đại Cathay lết được ra khỏi tử địa, mình mẩy đầy thương tích nhưng may mắn thoát chết. Khi những vết thương vừa bắt đầu kéo da non, Đại Cathay  đã giắt dao, đơn thân độc mã đi tìm từng tên một để trị tội. Huỳnh Tỳ và bốn tên giang hồ đồng mưu lần lượt bị Đại Cathay chém trọng thương trong cùng một hoàn cảnh, là khi chúng đang ngồi nhậu tại quán Kiều Chánh. Nhắm thế không chơi lại Lê Văn Đại, cũng không thể “trải đệm” tên này, vì băng Cathay quá mạnh, Huỳnh Tỳ đành thay mặt cả băng bắn tiếng cầu hòa. Đang say máu, Đại Cathay không nghe, vẫn tiếp tục tìm cả 5 tên để chém. Hoảng quá, cả 5 tên phải mời bầu Long đứng ra tìm Tám Lâu, đàn anh cũ của Đại Cathay nhờ nói giúp. Biết tính Đại Cathay, Tám Lâu lại phải cạy cục nhờ hai tay anh chị lừng danh là Ba Hội và Cảnh Tượng (đều lớn hơn Đại Cathay vài mươi tuổi), bày tiệc tại quán Biên Thùy ở chợ Cầu Muối mời thằng em đến khuyên giải. Nể tình và nể tuổi tác, Đại mới nguôi ngoai, chấp nhận cho Huỳnh Tỳ và 4 tên cùng băng đến dập đầu xin lỗi, để rồi sau đó băng Aristo vĩnh viễn bị xóa sổ, quân tướng đều qui về dưới quyền sai phái của một đại ca duy nhất là Lê Văn Đại. Cuộc hợp nhất giang hồ giữa thập kỷ 1960 đã đẻ ra danh xưng “Tứ đại giang hồ” Đại-Tỳ-Cái-Thế, với Đại Cathay, kẻ không đối thủ đứng đầu và xếp phía sau là ba đối thủ của kẻ... không đối thủ.
Huỳnh Tỳ bị Năm Cam “lấy số”
Mất ngôi đầu lĩnh, Huỳnh Tỳ tự an ủi mình với danh hảo là nhị ca trong “tứ đại giang hồ” hay mỹ miều hơn, gọi là “tứ đại Thiên Vương”, cung cúc phò tá Đại Cathay trong các cuộc thanh trừng theo kiểu xã hội đen. Đáp lại, y được Đại Cathay giao quyền trông coi một loạt các sòng bài, tiệm hút không chỉ trong địa bàn khu Lê Lai mà cả địa bàn khu Cầu Muối. Cứ độ 10 giờ sáng, Huỳnh Tỳ lại có mặt tại các sòng bạc của Đực Bà Tiều và Bảy Sy để thu xâu nộp cho Đại Cathay nuôi quân. Còn buổi tối, hắn lại diện đồ “kẻng” theo đàn anh vào các vũ trường tha hồ đập phá. Thời hoàng kim của băng Đại Cathay kéo dài đến tháng 6.1966 thì chấm dứt, khi Đại Cathay bị bắt, băng Cathay tan rã. Vào thời điểm đó, Năm Cam vẫn chỉ là một tên phá gia chi tử, thường trộm tiền của Bảy Sy ăn xài vung vít, chưa có tên tuổi, số má gì trên chốn giang hồ.
Sau giải phóng, cả Tỳ, Cái, Thế lẫn Năm Cam và nhiều tên xã hội đen vằn vện khác đều thay nhau vào tù ra khám. Ra tù, Năm Cam dần dần củng cố thế lực, ngày một phất lên, đến đầu những năm 1990 đã nghiễm nhiên trở thành ông trùm của thế giới ngầm. Trong khi đó, hầu hết các “đàn anh” cũ của Năm Cam đều vì ma túy mà trở thành dặt dẹo. Ngô Văn Cái quyết cai ma túy bằng cách uống rượu, cuối cùng chết bất đắc kỳ tử vì ung thư gan. Nguyễn Kế Thế không chịu nổi mối giày vò vì lỡ thời phải ăn bám vợ (vốn là chủ một động tiêm chích), khoảng năm 1985 đã lặng lẽ bỏ lại toàn bộ tư trang, tài sản và ra miền Trung nương nhờ cửa Phật, đến nay vẫn không tăm tích. Một cao thủ giang hồ khác là Đức Raymond không chịu nổi cảnh đói thuốc phải ngửa tay xin tiền bạn bè, chịu sự khinh miệt, đã tự xử đời mình bằng thuốc độc.
Huỳnh Tỳ vốn cũng nghiện nặng. Sau giải phóng, giang hồ không còn đất sống, Huỳnh Tỳ thường xuyên đói thuốc vã mồ hôi. Gánh nặng kinh tế gia đình càng chồng chất thêm khi vợ anh ta mất vào năm 1978, để lại cho Tỳ hai đứa con nhỏ dại, trai mới 4 tuổi, gái mới 2 tuổi. Không băng nhóm, không nghề ngỗng, không đủ dũng khí để tự xử như Đức Raymond hay tiếp tục xưng hùng xưng bá như Lâm Chín ngón, Huỳnh Tỳ phải xoay sang mánh mung cò con, từ xóc bầu cua, tổ chức đánh chẵn - lẻ đầu hẻm đến bán lẻ, chích dạo ma túy để nuôi con và nuôi thân, chỉ mong được no cả dạ dày lẫn no óc. Hậu quả là trong vòng 20 năm (1975-1995), Huỳnh Tỳ phải ra vào trại cải tạo, nhà giam hơn chục bận.
Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, khoảng đầu năm 1992, Huỳnh Tỳ đã liên kết được với một số tên giang hồ hết thời như Minh ba giá (Lương Văn Lâm), Trần Thị Ngàn, Minh bu, Lý Đôi, Thành đôla tổ chức được một sòng bạc tại hẻm 98F Lê Lai, gồm cả đánh tài xỉu, chẵn lẻ và xóc đĩa. Chuyện đến tai Năm Cam. Không kiêng nể xót thương gì các đàn anh thất thế, Năm Cam ra lệnh dẹp ngay. Huỳnh Tỳ không nghe, vẫn tiếp tục chơi. Ngay lập tức, sòng bạc này liên tục bị Cảnh sát Hình sự khám xét và giám sát, không con bạc nào dám bén mảng. Biết là Năm Cam ra tay triệt hạ, Huỳnh Tỳ phải mang lễ vật đến ngọt nhạt năn nỉ, mời Năm Cam hùn vốn và được ông trùm đồng ý.
Vốn mà Năm Cam góp vào là Thành Chân, tay giang hồ trẻ tuổi nhưng lão luyện, có đầu óc, được Năm Cam phái đến giám sát, tổ chức sòng. Tên thứ hai là Lê Thị Điệu, vợ Thọ đại úy, được Năm Cam đặc trách cho phép hành nghề cầm đồ và cho vay nặng lãi tại sòng. Ngoài phần ăn chia theo tỉ lệ hùn hạp, mỗi tuần Huỳnh Tỳ phải mang đến nộp cho ông trùm 5 triệu đồng tiền xâu. Kể từ đó, công việc làm ăn trở nên hanh thông, không bị băng nhóm khác hay công an đến hỏi thăm nữa. Tự đánh giá cao vai trò của mình, Năm Cam lại bắt Huỳnh Tỳ nộp thêm mỗi tuần từ 3 - 5 triệu đồng nữa, gọi là “phí ngoại giao”, để ông trùm “hương hoa” cho “người nhà nước”. Dù biết tỏng đây là trò ăn chặn, tiền đưa ra chỉ chảy vào túi tham của Năm Cam, Huỳnh Tỳ vẫn phải cay đắng mở rộng hầu bao, không dám hó hé. Mối quan hệ hùn hạp này kéo dài từ đầu tháng 7 đến tháng 12.1992 thì chấm dứt. Thời điểm này, tên tuổi của Năm Cam bị khui ra trên một tờ báo. Cho rằng ông trùm sắp bị bắt, nghĩa là sẽ quay về vị trí thằng nhãi, chẳng việc quái gì phải sợ, Huỳnh Tỳ bèn ngưng không cúng nộp tiền xâu và chuẩn bị trục xuất đám đàn em Năm Cam. Sự “dại dột” lập tức được trả giá: Ngày 6.1.1993, sòng bạc hẻm 98F bị công an bắt quả tang, hơn 10 “nhân viên” của sòng phải tra tay vào còng, xộ khám.
Vụ bố ráp này Huỳnh Tỳ may mắn cùng với Minh ba giá thoát được, nhưng anh ta hiểu ngay đó là đòn trừng phạt của Năm Cam. Rất dễ hiểu, những kẻ bị bắt đều là chiến hữu của Huỳnh Tỳ, còn những đàn em của Năm Cam phái đến hoặc tin cậy như Thành Chân, Minh bu, Lý Đôi, thị Điệu thì không một ai bị tóm.
Bị truy nã, Huỳnh Tỳ không còn con đường nào khác, lại phải đi “bằng đầu gối” đến tạ tội và cầu cạnh Năm Cam. “Ông trùm” lại gia ân, phái đàn anh đi tổ chức các sòng bạc khác ở quận 4, quận 8 và Biên Hòa. Để tỏ lòng trung thành, Huỳnh Tỳ đã “đau xót” tiếp tay cho Năm Cam trừng phạt dằn mặt một “giang hồ cầm bút” thường ký tên T.
Trước giải phóng, T. là một cây bút phóng sự có hạng, chuyên khai thác đề tài xã hội đen. Giang hồ Sài Gòn rất kiêng ký giả này vì anh ta rất giỏi võ, từng là một đai đen nhị đẳng Taekwondo, sau giải phóng lại trở thành đệ tử chân truyền đời thứ 7 của võ phái Vịnh Xuân nổi tiếng. Tật xấu của anh ta là nghiện thuốc phiện, cho nên không tờ báo nào nhận T., ngay cả đại sư Nam Anh - Chưởng môn phái Vịnh Xuân - cũng phải trục xuất võ sĩ tài năng này ra khỏi võ đường. Để kiếm sống T. phải cộng tác với khá nhiều tờ báo, với sở trường là những phóng sự nóng bỏng về cuộc sống và mánh lới giang hồ. Anh ta là nhà báo đầu tiên ném tên tuổi Năm Cam lên mặt báo. Găm hận vào lòng, Năm Cam rắp tâm dằn mặt T. để trả đũa. Giữa năm 1995, khi ký giả T. đang phê thuốc phiện tại một động hút của Huỳnh Tỳ ở đường Lê Lai thì công an ập vào. Bị bắt quả tang, T. đành khăn gói vào trại, bị cai nghiện bắt buộc. Khi nồng độ ma túy trong máu anh ta đã loãng thì Năm Cam bất ngờ ghé thăm. “Trời đất, chỗ anh em không, sao lại ra nông nỗi này. Để tôi nói với mấy ảnh một tiếng”. Chả biết Năm Cam nói với ai, nói kiểu gì, nhưng chỉ vài giờ sau chuyến thăm viếng bất thường, T. đã được phóng thích. Biết mình không phải đối thủ của Năm Cam, lại xấu hổ với đồng nghiệp nghề báo, ký giả T. sau chuyến ấy đã vĩnh viễn gác bút, chấm dứt một cái tên khá lừng lẫy cả trên mặt báo lẫn chốn giang hồ.
Sau vụ giúp Năm Cam dằn mặt ký giả, Huỳnh Tỳ còn tiếp tục phò tá con cáo già một thời gian, được Năm Cam trả công nên không bị bắt, dù đang có lệnh truy nã. Tháng 9.1995, tội lỗi của Năm Cam lại bị báo chí phanh phui, Huỳnh Tỳ lại trở mặt không nộp xâu nữa. Không lâu sau đó, Năm Cam bị bắt đi cải tạo. Không còn ai bảo kê, ngày 31.10.1995, Huỳnh Tỳ cũng bị tóm cổ và ra tòa lãnh án.
Sau này, khi cả Năm Cam lẫn Huỳnh Tỳ đều đã được trả tự do, Năm Cam đã “cạch” không cho tên đàn anh này bén mảng đến sòng bài của y nữa. Bị thất sủng, song với “nhị ca mất số”, đó lại là điều may, bởi chính vì “mất số” nên anh ta mới không trở thành bị cáo một lần nữa trong chuyên án “Năm Cam và đồng bọn”. Đó là điều an ủi cuối cùng của Huỳnh Tỳ, kẻ đã từng là một nhị ca lẫy lừng trở thành một giang hồ dặt dẹo bị chính giang hồ coi rẻ.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 3.2002
9- LÊ VĂN TUỆ
Bây giờ, hắn là ông chủ nhỏ của một gia đình, có một vợ một con, một ngôi nhà nhỏ mọc giữa khoảng vườn thưa đầy lá rụng. Từ sáng đến tối, hắn cần mẫn úp mặt xuống đáy sông Tiên (xã Tiên Lộc, Tiên Phước, Quảng Nam) đãi sỏi bán cho dân thầu xây dựng, kiếm từng 10 ngàn đồng một để nuôi vợ nuôi con. Những người quen trong xóm đi qua, nhìn cái dáng lụi cụi, vất vả và cam chịu của hắn chỉ lặng lẽ thở dài. Đám trai tráng ria mép chưa kịp cứng thì tròn mắt ngạc nhiên. Không hiểu nổi có thật là hắn - đại ca Lê Văn Tuệ khét tiếng, kẻ từng dám tiêu hoang cho đến hết một lúc hàng trăm cây vàng, kẻ đã từng là nỗi khiếp hãi của cư dân bất hợp pháp vùng vàng Phước Sơn - đấy không? Ai tròn mắt, ai ngạc nhiên... cứ việc. Với Tuệ, tất cả đã thành quá vãng. Cái thời “thò tay vào túi là đụng phải vàng” ấy đã qua rồi, qua mà không có gì đáng để nuối tiếc, bởi đó là đoạn đường đầy những máu hận thù và nước mắt tủi nhục...
Hơn 18 năm trước, Lê Văn Tuệ chỉ là một thằng bé con nhà nghèo, đến lớp với hai chân hai chiếc dép khác màu. Năm 1986, học hết lớp 12, chán cái cảnh đến lớp với cái bụng lúc nào cũng óc a óc ách vì... đói, Tuệ xếp sách vào bao tải treo lên xà nhà, theo bạn bè đi đãi vàng sa khoáng ở Trà Giốc, Trà My, le lói trong lòng một khát vọng đổi đời. Nhưng vàng đâu không thấy, chỉ thấy vàng hai con mắt. Sốt rét rừng quật ngã gục giấc mơ hiền lành của thằng trai 16 tuổi. Tỉnh cơn nóng lạnh, Tuệ cùng đám bạn lại lo... chạy, vì bị công an truy quét liên tục. Túng quá hóa liều, nhóm của Tuệ bàn nhau đi “chấn”. Tháng 2.1992, Tuệ tham gia phi vụ “ăn bay” đầu tiên, chấn được 2,6 cây vàng bổi. Số tiền này, cả bọn không thằng nào dám tiêu, chúng đầu tư hết vào mua máy, máng xay vàng tại bãi Tiên Hiệp, Tiên Phước. Không chút kinh nghiệm, chỉ ít ngày sau, số vàng cướp được đã bốc hơi theo khói máy dầu. Chán nản, cả bọn dàn cảnh đánh nhau để có cớ rã đám. 12 triệu đồng bán máy được chia đều cho 7 thằng, mỗi thằng lận lưng một ít và chia tay nhau. Từ đó, Tuệ bắt đầu một đoạn đời kinh khủng mà dẫu có muốn cũng không quên được.
Ngày 18.3.1992, Tuệ ném mình vào giữa bãi đá Saphre Trường Xuân (Đắc Nông - Đắc Lắc). Bãi vàng hay bãi đá quí thì cũng như nhau, đều là nơi bạo lực đồng nghĩa với quyền lực. Đúng hôm Tuệ mò lên thì máng đãi của sáu thằng oắt con cùng quê Nông Cống, Thanh Hóa vào cầu, nhặt được dăm bảy viên đá “lốt” (deluxe). Lập tức, chiến tranh hầm hố xảy ra. Sáu thằng bé con bị một đám dân anh chị trong bãi tấn công, đòi giao nộp chiến lợi phẩm. “Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã”, Tuệ tự động xắn tay áo xông vào trợ chiến. Thấy có người giúp, bọn nhóc trở nên can đảm hẳn lên, lăn xả vào trận, đánh cho đám gây hấn tan tác. Để trả nghĩa, chúng nằng nặc mời cao thủ Lê Văn Tuệ “ở lại với anh em”. Chưa biết đi đâu, tiền mang theo cũng đã cạn kiệt, Tuệ gật đầu ở lại làm “đấng chăn dắt” đám trẻ con thừa máu liều nhưng thiếu kinh nghiệm và cô thân cô thế. Việc của Tuệ không phải là nai lưng ra đào đãi mà là “bảo kê”, đứng ra dàn xếp những mối bất hòa, thậm chí sẵn sàng động chân động tay khi có kẻ mò đến đòi tiền bãi hay cướp phá. Nghề này Tuệ khá thạo, nhờ vào chút vốn “võ vườn” học được từ những năm còn bé. Buổi tối, bọn trẻ lại vây tròn quanh Tuệ để đại ca chỉ vẽ cho vài thế võ phòng thân.
Rừng không hai cọp, đám anh chị trong bãi Saphre cay lắm, quyết tâm phục kích nhổ bỏ cái gai trong mắt. Biết nguy hiểm đang rình rập, một hôm Tuệ bảo đám em út đưa cho mình ít tiền và mò vào thị trấn Gia Nghĩa (Đắc Nông). ở đó, Tuệ không mua sắm gì, chỉ ghé vào một tiệm tạp hóa và một tiệm hàn, ăn một tô phở rồi về. Trong túi áo Tuệ có thêm một thứ “đồ chơi” lạ mắt: một sợi dây mì đàn ghi ta, một đầu có gắn một cục chì nặng, đầu kia buộc chết vào một chiếc vòng sắt, nắm vừa lọt tay, được ông chủ tiệm hàn chế theo thiết kế của chính Tuệ.
Biết chắc trận địa phục kích đang đợi mình, Lê Văn Tuệ nấn ná mãi đến 2 giờ sáng mới quay vào bãi. Vừa qua khỏi cầu ván thứ nhất, hơn chục thằng cô hồn đã bu lấy Tuệ với đủ thứ đồ chơi, từ cuốc, xà beng đến côn nhị khúc. Nắm chắc chiếc vòng sắt, Tuệ múa tít sợi dây đàn. Đêm đen như mực, “địch quân” không hề phát hiện được “đồ chơi” của Tuệ là thứ gì, chỉ nghe tiếng gió rít vù vù, nhanh như chớp, và tiếng cục chì quật vào đầu, vào lưng lốp bốp. Trận phục kích chỉ kéo dài chừng dăm phút, hơn chục tên lót ổ đã thất kinh bỏ chạy, sau khi đã lãnh hàng chục vết thương. Tuệ không đuổi theo, đúng hơn là không dám đuổi theo, chỉ vội vã thu sợi dây đàn vào tay và bỏ chạy về lán, giấu kín nó vào người.
“Vũ khí bí mật” của Tuệ đã nhanh chóng tạo nên nỗi khiếp hãi cho đám dân anh chị vùng bãi đá. Chưa phát hiện được đích thực loại vũ khí mới, đám cô hồn không dám mạo hiểm tấn công, chỉ lặng lẽ lủi đi, tránh không để Tuệ gặp mặt. Nghiễm nhiên, Lê Văn Tuệ trở thành một đại ca đáng kiêng dè trong mỏ đá, thỉnh thoảng lại được những lán vào cầu đem lễ vật đến biếu xén, cống nộp để mong “được che chở”.
Được yên ổn, sự kính trọng của đám trẻ con Nông Cống dành cho Tuệ đã trở thành nỗi tôn sùng. Gom hết 13 cây vàng bán đá, chúng giao hết cho Tuệ, nằng nặc yêu cầu Tuệ đi “tầm sư học đạo” để về lãnh đạo chúng lập băng, nói trắng ra là đi học nghề... ăn cướp. Những thắng lợi đầu tiên nhờ máu liều và chút khôn vặt đã đun sôi máu phiêu lưu trong huyết quản Lê Văn Tuệ. Dù không biết sẽ phải đi đâu, học cái gì, Tuệ vẫn không thể phụ lòng đám trẻ con, đành im lặng gật đầu và cất gói vàng vào túi. Sau gần một tháng lang thang khắp Tp. Hồ Chí Minh, rồi Sông Bé, Tây Ninh dò hỏi qua đủ loại xe ôm, dân anh chị bến bãi, cả bọn cô hồn đủ mọi xó xỉnh, cuối cùng Tuệ cũng tìm được một chốn có một không hai trên trái đất này, nôm na gọi là “Trường dạy nghề ăn cướp”. Từ nhà máy đường Cu Ba (Tây Ninh) đi thêm khoảng 250 mét có một con đường nhỏ (nay đã là một xa lộ rộng thênh thang dài gần 50 km) dẫn vào xứ Cà Tum, sát với biên giới Việt Nam - Campuchia, một vùng đất trồng nhiều cây ăn trái và hoa cảnh. ở đó, có một tướng cướp đã “về hưu”  tên là Mai Sơn Lộc.
Trước giải phóng, Mai Sơn Lộc là một tướng cướp chuyên “ăn bay” hàng PX (hàng quân tiếp vụ của Mỹ) trên xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa. Cưỡi trên Honda đời 67 hoặc 72 xoáy nòng, Mai Sơn Lộc và đồng bọn thường lao theo những chiếc GMC chở hàng quân tiếp vụ, sau đó nghiêng xe, tăng tốc chui tọt qua gầm xe GMC, bất ngờ mọc lên trước mũi xe hàng, rút súng, khống chế tài xế và cướp hàng. Sự táo tợn, trình độ đi xe máy thượng thừa của các “quái bay” này đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng trên xa lộ một thời của các chú lính hậu cần cả ngụy lẫn Mỹ... Sau giải phóng, nghề “quái bay” không còn đất sống, Mai Sơn Lộc “đê đầu qui cố hương” và chẳng hiểu ma nào dẫn lối, đã tự biến cái thẻo rẫy khuất nẻo của mình thành một trường đào tạo quái nhất thế gian. Khi Tuệ đến “bái sư nhập môn”, trường học quái đản này đã nhận trước một học trò tên là Hoàng Quốc Anh, quê ở Tam Kỳ, Quảng Nam.
Sau sáu tháng miệt mài, “lão hắc đạo” xuất thân là lính Liên đoàn 6 Biệt động quân (đóng tại Tam Hiệp, Đồng Nai) đã dạy cho hai tên học trò đủ mọi cao chiêu của nghề cường đạo. Về lý thuyết, bài học sâu sắc nhất Tuệ thọ giáo được là “tuyệt đối không dùng súng xã hội chủ nghĩa. Lý do, mọi khẩu súng xã hội chủ nghĩa đều có số, chỉ cần giám định vỏ đạn, tông tích khẩu súng có thể bị lần ra ngay”. Về thực hành, Mai Sơn Lộc truyền cho hai tên đồ đệ đủ thứ tuyệt kỹ, từ cận chiến tay không đến cách sử dụng đủ loại hung khí. Thêm vào đó, vì đặc trưng của nghề ăn cướp là luôn luôn phải chạy trốn vì bị săn đuổi nên Mai Sơn Lộc đã bỏ rất nhiều thời gian bắt hai thằng học trò học làu làu hai thứ: kỹ thuật tự cứu thương (dao đâm, đạn bắn) và kỹ thuật đi xe máy trên mọi địa hình. Giáo cụ cho môn học thứ hai là 200 mét đường ray được lắp sẵn trong vườn và chiếc Honda 67 cũ mèm ông thầy dựng bên vách chòi rẫy.
Ngày “hạ sơn”, mọi môn học Lê Văn Tuệ đều xuất sắc hơn hẳn Quốc Anh nhưng đành chào thua bạn đồng môn cái món đi xe 67 một lèo với tốc độ cao hết 200 mét đường ray mà không hề trật bánh. Khoản này, Tuệ không làm nổi.
Kết quả là 13 cây vàng mà Tuệ mang theo đã chuyển sang túi ông thầy. Sau đó, hai trò một thầy, đường ai nấy đi. Giang hồ là thế, quan hệ duy nhất chỉ một chữ tiền, mọi khái niệm lễ nghĩa, tình cảm chỉ là mơ hồ và xa xỉ.
Trở lại bãi đá Saphre, lang thang tìm đỏ con mắt suốt một tuần vẫn không lần ra tông tích sáu “thằng em” Nông Cống là Phúc, Hiền, Ngọc, Thảo, Thắng, Hùng, Lê Văn Tuệ đành “dặt dẹo” (xin đểu) ít tiền rồi tìm đường về quê. Trong thâm tâm, thời điểm đó Tuệ cũng không mong gì chuyện gắn bó với kiếp giang hồ.
Ba năm sau đó, những kiến thức giang hồ tưởng chừng như rơi rụng hết khi Lê Văn Tuệ cứ suốt ngày rị mọ với nghề khoan giếng để kiếm cơm. Lúc này, nghề khoan giếng đang vào cầu, tay nghề cũng khá nên từ Lăng Cô vào đến tận Chu Lai rồi lên Quế Sơn, ở đâu Tuệ cũng có mối mang săn đón. Ngoài cơm rượu đãi đằng, một ngày lao động cật lực cũng giúp Tuệ đút túi vài ba chỉ vàng không mấy khó.
Tình cờ, trong một lần nghỉ lại tại khách sạn Tam Kỳ, Tuệ gặp lại Quốc Anh. Kéo bạn vào quán, gọi rượu Tây uống say túy lúy, Quốc Anh mở samsonite và khoe với bạn những bó tiền đô. Hắn bảo:
- Nếu theo tao, chỉ cần ba tháng, mày thừa sức kiếm gấp đôi số này.
Tuệ hỏi:
- Làm gì?
Quốc Anh đáp:
- Sang K (Campuchia), đi cướp đá quí dọc đường biên giới Thái Lan - Campuchia ở Pailin.
Lần đó, Tuệ lắc đầu.
Không lâu sau đó, nghề khoan giếng bắt đầu tụt dốc thê thảm vì có quá nhiều kẻ cạnh tranh. Đang lúc chán nản thì Quyền Đê, một tay anh chị bãi vàng quê gốc Kim Sơn, Ninh Bình gặp và rủ rê. Lẽ ra, Tuệ đã không đi, Quyền gãi tai than thở:
- Mấy thằng em trên bãi bị ức hiếp quá!
Nghe thế, hắn bắt đầu nóng lỗ tai, gật đầu ngay. Vậy là, ngày 5.5.1994, Tuệ lại lóc cóc tìm đường lần lên bãi vàng Phước Sơn, hành lý mang theo là một bình xịt hơi cay năm tác dụng do Quyền Đê trang bị. Chiếc bình xịt này, trên thị trường có giá 8,3 cây vàng.
Ngay trong đêm đầu tiên có mặt tại bãi vàng Phước Thành (Phước Sơn), Tuệ đã cầm đầu mười tên thợ gốc Bắc xông vào tấn công một số lán trại của bọn anh chị hiềm khích, vừa đánh vừa cướp lại tất cả những gì bọn chúng bị tước mất. Công an xã xuất hiện, Tuệ tấn công luôn cả công an rồi rút lui, sau khi nhận từ đám này một mớ tiền công trị giá gần chục cây vàng. Rút lên bãi Trà Ven (Trà My) đúng lúc bãi này đang ăn nên làm ra, Tuệ kiếm vàng dễ như bỡn. 11 ngày chặn đường, dặt dẹo của các lán vào cầu, khi đem ra chia, phần Tuệ được 63 cây vàng.
Có tiền cũng là lúc con thú hoang trong lòng Tuệ nổi lên. Hắn lao vào ăn chơi, đập phá, hút chích. Ngày đi chấn, tối đánh bạc và hút thuốc phiện, hắn không hề lo lắng đến tương lai. Tình cờ, một đại ca ở bãi tên là Chung bị đánh lén, Tuệ nhảy vào giải thoát, từ đó thành quen. Hai tên giang hồ kết nhau, hùn lại hơn 100 cây vàng rủ nhau về Hà Nội, quê Chung, ăn chơi đập phá cho đến đồng bạc cuối cùng.
Khi tiền sắp cạn, Chung bảo:
- Tao đã từng đi phụ hồ nhiều năm ở K biết nhiều nhà giàu lắm. Hay tao với mày sang K, đi cướp cho... vui?
Không cần suy nghĩ, Tuệ gật đầu ngay, định bụng sang Campuchia sẽ tìm lại Quốc Anh, lập băng nhóm hoành hành bá đạo. Nhưng, lang thang mãi vùng đường biên Pailin cả tháng trời vẫn không gặp được Quốc Anh, Tuệ và Chung đành lộn xuống Pursat cướp hàng lậu. Dặt dẹo nghề này không khá, phải mang vác nặng, đụng độ nhiều mà chẳng kiếm được bao nhiêu, hai tên đâm nản. Chúng quay về Nam Vang, nhờ một tên giang hồ gốc Kiên Giang tiến cử vào làm bảo kê cho một nhà hàng của người Việt ở khu cầu hai tầng. Làm được 1 tháng 17 ngày, Tuệ thấy nhục quá, vì thực chất, chúng đang tự biến mình thành những tên ma cô mạt hạng, ăn chặn, bớt xén mớ tiền còm cõi của các cô gái làm tiền. Hắn gọi chủ quán đến, bảo:
- Ăn tiền của gái chướng lắm, tôi có ăn thì phải ăn tiền của chủ. Đưa đây một mớ để tôi về quê!
Khi nói câu này, mặt Tuệ đằng đằng sát khí, như thể sắp sửa đốt nhà. Hoảng quá, chủ quán đành lòi ra một cục tiền để tống tiễn Tuệ đi. Chung không chịu về, bằng lòng ở lại Nam Vang làm nghề chăn gái.
Ngày 2.9.1995, Tuệ về đến Đà Nẵng. Lẽ ra, đoạn giang hồ đã chấm dứt nhưng vì trong túi chẳng còn một đồng nên Tuệ không thể. Năn nỉ thế nào, tên lơ xe đò cũng không chịu cho Tuệ đi nhờ xe về Tiên Phước, tiền trả sau. Tuệ thấy nhục quá bèn thề độc:
- Phải kiếm đủ 100 cây vàng, sau đó quay lại tìm tên lơ xe, đãi nó một trận và đánh nó một trận, rồi rửa tay gác kiếm.
Nói là làm, Tuệ gọi xe ôm tiến thẳng lên bãi Trà Văn. Như con thú hoang, hắn lao vào cướp lán, bãi như điên để nhanh chóng kiếm cho đủ 100 cây vàng. Gặp máng cướp máng, gặp bãi bật bãi, máng bãi không ăn thua thì cướp của dân buôn. Khi kẹt quá, hắn cướp luôn cả đồ nghề của thợ, làm vàng giả và... bán.
Trong túi hắn, đã có lúc rủng rỉnh một lúc mấy trăm cây vàng.
Không gì đáng ngờ bằng lời thề của thằng nghiện. Có tiền, Tuệ lại ăn, lại hút, lại quên mất ý niệm hoàn lương.
Chẳng bao lâu sau, hắn nổi tiếng như cồn, ân oán đầy rẫy rắc khắp vùng vàng rộng lớn và liên tục bị cả công an lẫn giang hồ truy đuổi.
Vừa cướp, vừa chạy trốn, đến tết năm 1996, Tuệ cùng đường. Khi lọt vào bãi thôn 3 xã Phước Thành thì mụn độc phát lan ăn loét bàn chân, Tuệ không đi nổi nữa. Đúng lúc đó, hắn gặp cố nhân: Bùi Đình Chuẩn. Trước đây, bị Tuệ cướp lán nhiều lần, Hiệp, quê người Nghệ An đã từng thuê Chuẩn thanh toán Tuệ. Với vũ khí lợi hại là sợi dây contermette đúc chì, Tuệ đã đánh cho tám tên đàn em của Chuẩn chạy tan tác, sau đó vào phá tan hoang lán của Hiệp, bắt cả Hiệp và Chuẩn quỳ gối liếm... gót giày xin tha.
Lẽ ra, khi Tuệ đã thân tàn ma dại, Chuẩn đã có thể tính sổ lại món nợ ân oán cũ. Khổ nỗi, lúc này Chuẩn còn tệ mạt hơn, nghiện oặt xà lai gần như không đi đứng nổi. Do đó, thay vì tấn công rửa nhục, Chuẩn lại nhìn thấy cơ hội mượn Tuệ để lợi dụng, nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Vậy là, Chuẩn đem hết những chiến tích thư hùng của Tuệ ra kể cho đám Đỗ Duy Lệ, Hòa lai... nghe. Biết Lê Văn Tuệ là tay hung thần, Lệ đổi ngay nét mặt khinh bỉ ra thái độ niềm nở mời chào. Hàng ngày, Lệ sai đàn em cõng Tuệ đi chơi khắp đầu non cuối bãi, tối về hết lòng lo phục dịch rượu bia và chạy chữa vết thương. Thật ra, Lệ chẳng tốt lành gì (sau này Đỗ Duy Lệ bị bắt, tử hình vì tội tổ chức giết người, cướp máng), hắn chỉ cốt lấy lòng, nuôi Tuệ khỏe để nhờ Tuệ đứng ra làm đầu lĩnh tiến công hạ đối thủ truyền kiếp là tên Điều “tóc lai”, quê ở Đền Hùng, Phú Thọ. Tuệ biết hết. Khi bệnh tình khỏi hẳn, hắn gọi Đỗ Duy Lệ lại bảo:
- Tao từ nhỏ cho tới lớn có ăn cướp cũng cướp một mình, không quen băng nhóm. Tụi mày định mượn tay tao giết thằng Điều, tao sẽ không làm vì với nó, tao không thù oán. Nhưng công phục vụ của bọn mày, tao cũng không quịt. Để trả, tao sẽ đi dặt dẹo ba ngày, được bao nhiêu tụi mày lấy bấy nhiêu, sau đó đường ai nấy đi.
Nói là làm, Tuệ ở lại đến hết Tết, cướp thêm một mớ rồi quyết tâm về Đà Nẵng cai nghiện. Hắn đã quá ngán ngẩm kiếp giang hồ phù hoa, tiền tiêu như nước nhưng đầy điếm nhục.
Nhưng trời ạ, chốn giang hồ đầy gió tanh mưa máu, bước vào thì dễ nhưng làm gì có đường lui. Đã quá nổi tiếng, dù trốn góc nào, Tuệ cũng bị những tên em út lần ra và chèo kéo. Tuệ tự huyễn hoặc mình bằng hình ảnh một tay nghĩa hiệp, chưa thể buông đao thờ Phật vì bọn đàn em còn bị ức hiếp ở bãi vàng. Vậy là, vừa cắt cơn nghiện, hắn lại mò vào bãi, lại đánh người cướp của, lại nghiện oặt xà lai và lại đi cai. Một lần, hai lần, rồi... mười lần. Nghiệp chướng giang hồ không buông tha Tuệ mà Tuệ thì cũng không đủ dũng khí để đoạn tuyệt hoàn toàn. Nếu chịu dừng đúng lúc, hẳn Tuệ đã giàu lắm. Đầu năm 1998, trong khi tọ mọ một hầm vàng của dân Đại Lộc bỏ hoang, cả nhóm của Tuệ đã vơ được 2,3 kg vàng 9999, chỉ sau hai ngày ba đêm làm cật lực. Ngày 14.1.1998, mang theo số vàng, Tuệ dẫn cả bọn về Đà Nẵng ăn chơi đập phá và đánh bạc. Chỉ sau bốn ngày, toàn bộ số vàng này đã tan thành mây khói. Một mình Tuệ quay lại bãi làm tiếp, mót được 21 triệu đồng. Số tiền này cũng chỉ đủ để hắn trả tiền xe ôm và tiền một đĩa cơm, còn bao nhiêu lại dốc cạn vào một đêm cá độ bóng đá. Như con thiêu thân lao vào chỗ chết cháy, Tuệ tự đề ra khẩu hiệu cho cả bọn:
- Đã chơi là phải dốc cạn đồng bạc cuối cùng. Tiêu không được tiếc.
Giai đoạn hoàng kim nhất của nghề dặt dẹo bãi vàng là nguyên cả mùa khô năm 1998. Năm ấy, bãi vàng Phước Sơn trúng lớn và trúng rộng khắp cho nên những tay đại ca danh tiếng như Lê Văn Tuệ không cần làm gì cũng dư giả tiền tiêu. Vừa vào lại bãi thôn 3, Tuệ đã chạm trán ngay với Điều, kẻ được Tuệ từ chối tấn công đánh cướp ngày nào. Đang lúc trúng quả nặng đồng cân, Điều cảm nghĩa xưa, nằng nặc mời Tuệ ở lại lán để anh ta có cơ hội đãi đằng. Tuệ đồng ý. Việc duy nhất mà Tuệ phải làm để giết thì giờ là mua các loại thuốc phiện, heroin về mày mò bào chế để tìm ra liều chích... phê nhất, bất kể tốn kém, tiền bạc đã có các chủ lán lo. Với heroin thì đơn giản, chỉ việc bơm nước cất vào là chích (nghiện quá nặng, đốt giấy bạc hút không phê). Nhưng, chơi heroin không phải là sành điệu. Tuệ “lên hương” đến nỗi đã có thể sắm riêng cho mình một “lái xe” - tay chuyên nghiệp tiêm thuốc phiện - loại thượng thừa mà không thèm hỏi tên nó là gì. Khi rảnh rỗi, tên này đã dạy lại cho Tuệ toàn bộ cao chiêu của nghề “lái xe”.
Đơn giản nhất là gẩy “cống” - thuốc phiện tinh chất - vào thìa hoặc nắp bia nấu sôi lên, lọc qua ba đót thuốc lá sạch, cứ thế trộn vào nước cất chích vào ven. Cách này sang nhưng với những con nghiện đã đạt đến “cảnh giới thượng thừa” thì không mấy phê. Muốn cho đã, chúng bày ra cách trộn thêm tân dược và phụ gia vào thuốc. Công thức đặc biệt nhất là: “cống” + xái 1 + thuốc cảm ABC hoặc Aspirin hoặc Paracetamon + mì chính (bột ngọt) tán nhuyễn thành bột đem nấu, sau đó lăn, đánh miếng, cán mỏng để dành hút dần bằng đèn dầu đậu phộng hoặc nấu, lọc lại đem chích. Cách này rất kỳ công. Hễ “lái xe” non tay hoặc nấu ẩu là cầm chắc chích vào sẽ sốt khặc khừ và ói ra mật xanh mật vàng nên Tuệ cũng không khoái. Để “lên thiên đàng”, hắn tự sáng tạo cho mình một công thức bí mật gồm Dolagan + morphin + sedusel tán nhuyễn + nước cất, chích phê lâu và mạnh hơn cả. Nhưng, dùng liều này rất đắt, giá mỗi mũi chích đúng đô trong bãi phải tốn 350.000 đồng. Để thỏa mãn cơn ghiền, lúc hoàng kim, Tuệ chích mỗi ngày gần 15 cữ, tốn sơ sơ chừng 5 triệu đồng.
Không phải cướp bóc, dặt dẹo, nằm lán hút chích mãi cũng nhàm, Tuệ lân la học nghề “đánh hóa”(cách dùng hóa chất lọc quặng lấy vàng) và nghề tăm vỉa. Đang rộ mùa thu hoạch, tiền vào như nước nên các chủ lán, chủ hầm không tiếc, tha hồ cho Tuệ thử. Gần một năm “nghiên cứu” Tuệ lại danh nổi như cồn, nổi tiếng như tay “đánh hóa” thuộc hàng cao thủ nhất, “tăm vỉa” (thăm dò mạch đá có chứa vàng) cũng được liệt vào loại “cụ”, uy tín cùng mình. Thế là, gần như không cần phải mó tay vào chuyện động dao động thớt, Tuệ tha hồ được các lán mời mọc săn đón và trả công hậu hĩnh với mức lương của một đại chuyên gia.
Giả sử có máu làm giàu, thời kỳ này thừa sức đưa Tuệ lên hàng ông chủ tầm cỡ. Khổ nỗi, xưa nay người ta chỉ bàn chuyện giang hồ chơi, có ai nhắc chuyện giang hồ làm giàu bao giờ. Tiền kiếm được, Tuệ đổ hết vào những cuộc chơi theo cách riêng của hắn là ngao du sơn thủy. Lâu lâu, trong bãi có một tốp thợ vàng quê ở miền Bắc “về phép”, Tuệ lại đút túi vài ba chục cây vàng và đòi đi theo để “tham quan cho biết đất Việt Nam núi rộng sông dài”. Lời đề nghị lãng mạn của kẻ có tiền chẳng bao giờ làm ai phật ý. Vậy là Tuệ có dịp rong ruổi khắp nơi, nếm đủ mọi của ngon vật lạ và cảnh đẹp trên đời. Hầu như không có một thị trấn nào của vùng trung du Bắc Bộ, một thị xã nào của vùng núi non Tây Bắc mà Tuệ chưa từng thăm viếng. Hắn đi nhiều đến nỗi thuộc làu làu tên hiệu, bảng giá và món độc chiêu của từng khách sạn ở nhiều tỉnh miền Bắc, dù đó là những khách sạn heo hút ở vùng sáu tỉnh Cao-Bắc-Lạng-Thái-Hà-Tuyên... Chẳng có gì ràng buộc, Tuệ chỉ chịu quay về khi túi áo túi quần đã lộn trái. Dăm bữa nửa tháng, dặt dẹo được vài chục cây vàng, hắn lại ra đi. Tính ra, riêng trong mùa khô năm 1998, số tiền Tuệ tiêu hết chắc cũng đủ nuôi vài ba chục người... suốt cả đời. Chính vì máu ham chơi, Tuệ đã trở nên đặc biệt thân thiết với đám lãng tử dân Bắc trong bãi vàng, được chúng đặt cho một biệt danh khá mỹ miều: “Gã trai xứ Quảng trong lòng anh em đất Bắc”. Trời ạ, giang hồ cũng có lúc “sến” phải biết!
Thuở huy hoàng không kéo dài vĩnh cửu. Đến mùa mưa năm 1998, thì Lê Văn Tuệ bắt đầu lâm vào cảnh khốn khó. Đầu tiên, tình hình khai thác vàng bỗng cạn kiệt hẳn. Hàng loạt hầm máy đào mãi vẫn chẳng tăm ra vàng, chủ hầm chủ máy nợ chồng chất và lâm vào phá sản (trung bình mỗi máy + 10 người chi một ngày hết 2 cây vàng), thợ đào thuê đói hoa cả mắt. Vì thế, nghề dặt dẹo may lắm cũng chỉ đủ no dạ dày, không đủ no óc (thỏa mãn cơn nghiện). Đói thuốc, Tuệ và cả chục tên em út vật vã điên cuồng, cuối cùng làm mồi ngon cho sốt rét rừng, ghẻ lở và đủ loại bệnh tật vốn tiềm ẩn đầy rẫy ở chốn ma thiêng nước độc, môi trường mất vệ sinh. Để cưỡng lại cơn tù quẫn, Tuệ gia tăng xin đểu, cướp, chấn. Đang lúc thất bát chẳng có chủ hầm, chủ lán nào chịu nổi cảnh bị sách nhiễu nên hè nhau chống lại, khiến cả Tuệ lẫn đàn em đều nhiều lần bị trọng thương. Đã vậy, về Đà Nẵng điều trị thì sợ công an bắt, lại không đủ tiền nên chúng đành liều chết trụ lại chốn rừng sâu nước độc. Mùa mưa năm ấy, số mồ vô danh mọc lên trên những lối mòn bạt núi dẫn vào bãi vàng Phước Sơn hình như tăng lên rất nhanh. Đã thế, đề phòng nạn sập hầm, lở đất sụt bãi gây chết người như mùa mưa năm 1997, công an tỉnh, huyện lại ráo riết truy quét khiến Tuệ và đàn em cứ phải bỏ bãi chạy trốn liên tục, vết thương này chưa kịp kéo da non, vết thương khác lại xuất hiện. Các băng nhóm khác cũng không nể nang, đùm bọc gì được vì tình trạng tự thân của chúng thậm chí còn thê thảm hơn. Băng Thanh sứt, Bắc phò, Hiển bụi khét tiếng vì đông, mạnh nhất vùng vàng cũng rã đám rồi quay sang đâm chém nhau. Bị chém 14 nhát  trên lưng, Hiển bụi sai đàn em dùng chỉ may đồ khâu díu lưng mình lại hàng trăm mũi. Nằm ba ngày, “vã” quá, tên tướng cướp bị thương lại mò dậy, vác nguyên tấm lưng rách như tấm chiếu thuốc phiện tiếp tục đi cướp. Kết quả là sau đó, hàng chục tên thi nhau vào tù...
Lê Văn Tuệ cũng đành ngậm ngùi tan đàn xẻ ghé với bọn đàn em để tự cứu mình. May cho Tuệ, đúng lúc khốn quẫn nhất thì hắn gặp được một tay giang hồ thứ thiệt: Mông cận.
Mông lớn hơn Tuệ gần một con giáp, quê ở Võ Nhai, Thái Nguyên. Vợ Mông là một cán bộ ở huyện Phước Sơn. Bản thân Mông là một thầy giáo, kính cận dày cộp luôn đeo trên sống mũi. Nhưng tiếng gọi hoang dã và sự hấp dẫn của vùng vàng đã kéo Mông ra khỏi bục giảng, trở thành một chủ hầm vàng. Hầm của Mông toàn là thợ “chiến đấu” đất Thái Nguyên, tay nghề khai thác rất cao nên anh ta cũng nhiều lần trúng đậm. Vào bãi, song xuất thân là thầy giáo nên Mông cận sống rất nguyên tắc. Lán của “thầy” Mông cận tuyệt đối không có thuốc phiện, bài bạc, gái... hay bất kỳ thứ tệ nạn nào bén mảng. Thợ khá đông nhưng kỷ luật của Mông là dứt khoát không ỷ chúng hiếp cô, không tham gia bất cứ một trò chèn ép, giành giật nào với các hầm, bãi khác. ít nhiều, nguyên tắc sống của Mông cũng khiến cho các cư dân bãi vàng vì nể. Vả lại, võ nghệ Mông cận cũng khá cao, muốn “sờ” vào cũng không phải dễ.
Nhờ tổ chức tốt, đầu tư kỹ nên trong khi toàn bộ vùng vàng lao đao vì đào đãi không đủ chi tiêu thì lán của Mông vẫn bình chân như vại, không giàu có lắm song đời sống thợ thuyền vẫn bảo đảm, khai thác có lãi. Chính vì thế, Mông cận trở thành mục tiêu của lòng tham, gợi lên trong lòng bọn đao búa vùng vàng ý định cướp hầm. Kẻ ra tay là nhóm Việt Long, quê Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Lừa lúc Mông một mình từ bãi vàng về nhà ở thị trấn Khâm Đức, Việt Long đã tổ chức “trải đệm” định thịt Mông. Đúng lúc đó, Lê Văn Tuệ đi qua. “Dọc đàng thấy chuyện bất bằng chẳng tha”, Tuệ dù không biết Mông cận là ai nhưng cũng múa sợi dây buộc chì xông vào cứu Mông, đánh cho đám Việt Long tan tác. Cảm nghĩa, lại biết Tuệ tuy khét tiếng vì chấn, dặt dẹo song chưa hề gây nợ máu, lại càng không phải hạng kẻ cướp tiểu nhân, Mông cận đã vui vẻ mời Tuệ về đứng lán cho mình. Đứng lán thực chất là giữ chức đốc công, vừa coi sóc thợ làm việc, vừa... bảo kê ngăn chặn những kẻ tính cướp phá. Nghề này Tuệ khá thạo, lại đang cơn bĩ cực nên gã nhận lời ngay. Từ 23.10.1998 đến 4.4.1999 là khoảng thời gian thanh thản nhất của Tuệ ở bãi vàng. Đó là khoảng thời gian không có giành giật, đấm đá, chỉ có lao động thật sự. Hàng ngày, Tuệ cũng đánh trần đào đất, đãi đá, vừa làm vừa trông coi thợ, hùng hục và chu đáo như một bác thợ cả thực thụ.
Trong thời gian đó, Tuệ không hề về quê thăm nhà, thăm mẹ. Nhưng Mông cận thì có. Anh đã nhiều lần đem tiền, quà, thuốc men về Tiên Lộc, Tiên Thọ thay Tuệ thăm hỏi, biếu mẹ của gã. Không những thế, Mông còn bỏ nhiều thời gian tìm hiểu gia cảnh, ước mong của bà mẹ có đứa con hư phiêu bạt giang hồ. Tuệ không hề hay biết rằng, sau nhiều lần thăm hỏi ấy, giữa mẹ gã và Mông cận đã thỏa thuận một giải pháp: cưới vợ cho Tuệ. Đó là cách duy nhất để buộc chân con ngựa bất kham. Khi hiểu ra mọi chuyện, Tuệ đã khóc nhiều đêm. Lần đầu tiên, không hề có một vết thương, không hề có một tiếng chửi nhưng Lê Văn Tuệ đã rơi nước mắt. Gã khóc vì tình người, vì hàm ơn Mông cận và vì lần đầu tiên trong đời chợt đắng cay nát lòng vì thương mẹ. Khi nghe lời Mông cận - giờ đây thực sự trong lòng Tuệ đã coi Mông là một người anh - về thăm mẹ, Tuệ đã khóc thêm lần nữa. Mẹ gã, 75 tuổi, tóc bạc lưng còng bộc bạch:
- Vàng bạc mà làm gì con ơi, trên đời chỉ nghĩa tình, gia đình là đáng trọng!
Và bà cũng khóc, cũng hết lời khuyên hắn đoạn tuyệt giang hồ. Bà chỉ mong ngày nhắm mắt - không xa nữa - được thấy Tuệ cùng con dâu và cháu nội túc trực bên mình. Nước mắt bà mẹ khiến thằng con hoang dã tỉnh ngộ. Hắn quyết tâm hoàn lương.
Nói thì dễ, nhưng làm thì không dễ, bởi những cơn nghiện vẫn còn đeo đẳng. Ngày 4.4.1998, Mông cận đột ngột gọi Tuệ lại bảo:
- Tao đã hứa là không bao giờ để cho ma túy chui vào lán. Tao biết, mày vẫn hút chích thường xuyên. Giờ có hai cách để chọn: hoặc là cầm tiền về quê cai rồi ở lại hẳn, không vàng bạc, thuốc men gì cả, hoặc là mày ở tao đi.
Giá là lúc khác, chắc chắn Tuệ sẽ cười vào mặt kẻ mới dạy khôn gã. Nhưng với Mông, gã không thể. Về quê cũng không. Sau 13 năm lưu lạc, Tuệ không chịu nổi cái cảnh tay trắng quay đầu trong bộ dạng tiều tụy vì đói thuốc.
Nói là làm, Mông cận không so đo, bỏ lại toàn bộ hầm, máng, máy móc cho Tuệ rồi dẫn thợ vào sâu trong bãi 45 (xã Phước Hiệp) tìm hầm khác. Bãi 45 là nơi duy nhất trong toàn vùng vàng Phước Sơn không có ma túy. Tuệ sợ, gã không dám theo Mông, đành bằng lòng ở lại. Mông vừa đi khỏi, đám em út cũ của Tuệ từ Thái Nguyên mới vào đói quá lại tìm đến xin đầu quân. Vừa thương chúng, lại đang thiếu quân, Tuệ lại gật đầu.
Tốp thợ cả thầy lẫn tớ đều là con nghiện, kinh nghiệm quản lý không có, vốn liếng cũng không, đã không moi được thêm một vảy vàng nào từ lòng đất. Một tuần sau, Tuệ gọi người bán hết toàn bộ hầm máy của Mông để lại. Tiền thu được chỉ đủ trả nợ và giúp cả đám sống thêm mấy ngày. Trong khi đó, mùa mưa lại sầm sập kéo về. Cả tốp đói rã họng, đành đi tọ mọ những hầm lán bỏ hoang sống qua ngày. Và, điều kinh khủng nhất đã đến: sập hầm, một thằng bé trong bọn bị đá đè giập ống quyển.
Không đồng xu dính túi, trời lại mưa dữ dội, đưa thằng bé đi bệnh viện là điều không thể vì chưa ra đến nơi thằng bé đã chết vì đói thuốc và vì vết thương đang hoại tử. Không còn cách nào khác, Tuệ đành cắn răng đóng vai trò bác sĩ (dù mới học chừng hết lớp 9), tự tay... tháo khớp cho thằng bé. Một đống lửa to được cả đám trẻ con phiêu bạt đốt lên. Không rửa, không lột vỏ, một đống củ mì (sắn) vừa xin được trong rẫy của người Mơ-nông được cả lũ vừa luộc, vừa nướng lên và tranh nhau ăn cho đỡ đói. Ăn xong, sáu, bảy  đứa, kẻ say, người tỉnh thao láo mắt nhìn Tuệ vừa khóc vừa làm bác sĩ. Không thuốc tê, không thuốc mê, Tuệ dùng dây dù trói chặt hết tay chân thằng bé bị thương xuống sạp tre. Thêm một sợi dây dù to bản khác thít ngang qua trán cột chặt xuống sạp để giữ cho nó không ngóc lên hay giãy giụa. Nhặt một thanh tre, nhét chặt vào giữa hai hàm răng nó, bắt hai đứa khác đè chặt hai bên, Tuệ bắt đầu rạch ống quần rách tướp đầy bùn đất của nó. Dụng cụ mổ duy nhất là một con dao đã mài sẵn từ chiều, được tẩy trùng bằng cách hơ trên đống lửa. Kiến thức giải phẫu duy nhất là kinh nghiệm... mổ gà. Cứ thế, Tuệ rạch ngang đầu gối kẻ bị thương. 5 phút, 10 phút... Nước mắt ròng ròng, những tiếng kêu bị chặn không vọt ra khỏi cổ, thằng bé bị trói cứ giật đùng đụng, mồ hôi túa ra, mắt trợn ngược rồi ngất đi... Sau 30 phút thì mọi việc hoàn tất, chân thằng bé được cắt cụt đến đầu gối và được may lại bằng chỉ khâu đồ.
Những ngày sau đó, Tuệ và những đứa khỏe mạnh hầu như không ngủ, cứ hùng hục đi đánh hóa thuê cho các chủ hầm khác. Toàn bộ tiền kiếm được chỉ để mua hai thứ: thức ăn và heroin. Thứ thuốc men duy nhất mà kẻ bị thương được hưởng trong giai đoạn hậu phẫu là heroin. Chính ma túy đã giúp nó sống sót. Khi nào nó đau quá, Tuệ lại chích cho nó một liều, phần còn lại đem rắc vào vết thương. Lạ lùng thay, sau đúng 14 ngày thì vết thương lành hẳn. Bù lại, đô nghiện của thằng oắt con tăng gấp đôi, gấp ba, suốt ngày nó vật vã sùi bọt mép vì đói thuốc.
Ca mổ kinh hoàng đó đã khiến tâm trí Tuệ thay đổi hẳn. Hắn đâm ra ghê sợ mọi thứ. Ghê sợ kiếp sống giang hồ và ghê sợ cả bản thân mình. Những ngày đó, những giọt nước mắt và lời nguyện cầu của người mẹ lại ùa vào óc, giày xéo tâm can hắn. Sau nửa tháng mất ngủ, Tuệ quyết định cai nghiện và hoàn lương. Dự định của hắn được những tên em út tán đồng, bởi chúng cũng đã hoàn toàn rệu rã. Cả đám thống nhất: sẽ chia tay nhau vào ngày 30.5.1999. Kể từ đó, chúng thi nhau làm hùng hục và cố tiết chế cơn nghiện để dành dụm tiền cho cuộc hoàn lương.
Nhưng dù tiết kiệm mấy, tiền kiếm được cũng bị đốt hết vào ma túy nên ngày hẹn đến, cả đám vẫn phải ở yên tại bãi sau đó tan tác mỗi đứa một phương. Bí thế, Tuệ đành bấm bụng - lần đầu tiên - ngửa tay xin (chứ không cướp) của một cố nhân. Dù tử tế đến mấy, Lê Văn Tuệ vẫn là một hung thần đầy đe dọa nên ý định rời vùng vàng của hắn dĩ nhiên là rất đáng được hoan nghênh. Vì vậy, Điều - kẻ tao ngộ năm nào - đã hào phóng cho Tuệ nguyên cả một mẻ máng, tổng cộng được 9,3 lượng vàng. Sau một chầu nhậu túy lúy để chia tay và tuyên bố rửa tay gác kiếm, Tuệ cầm số vàng này ra thẳng Hà Nội, vào nhà một chiến hữu tên Cường cạnh bệnh viện Bạch Mai thuê bác sĩ đến để điều trị cai nghiện. 11 ngày sau, cắt cơn, Tuệ gửi hết số vàng cho bác sĩ và “lai hồi cố thổ”. Từ tay trắng ra đi, đứa con hoang lại trở về nơi hai bàn tay trắng.
Cuộc sống bình thường, vất vả nhưng thanh thản đã đồng hành với Tuệ được bốn năm. Hắn đã lấy vợ và đã có được một cô con gái gần ba tuổi. Mẹ hắn đã rời bể khổ ra đi. Ngày mất, bà đã nở nụ cười, bởi đã toại thành tâm nguyện: có con trai, con dâu và cháu nội quì cạnh bên giường.
Với Tuệ, những năm qua cuộc sống đã gặp không ít khó khăn, khi nghề đãi cát, sạn trên sông chỉ vừa đủ để lo cơm áo cho gia đình nhỏ. May mà gã đã đoạn tuyệt với ma túy. Nhờ đó, dù khó khăn, Tuệ vẫn cương quyết không một lần quay lại bãi vàng trong suốt nhiều năm qua, dù có rất nhiều lời mời chào, chèo kéo, dù gã biết chắc chỉ cần một chuyến đi mười ngày, nửa tháng thôi, lúc trở lại túi gã đã có thể có thêm cả chục lượng vàng. Số vàng đó, bây giờ với Tuệ là cực lớn, lớn hơn cả giấc mơ, nhưng đơn giản, nó không phải là do mồi hôi đổ ra, Tuệ sẽ cương quyết không màng tới. Hơn nữa, dù không phải là mười mà cả trăm, cả ngàn cây vàng đi nữa cũng không quí bằng mảnh vườn nhỏ, giấc mơ con và tiếng bi bô con trẻ - hạnh phúc đơn sơ nhưng rất thật mà Tuệ đang cầm giữ trong tay. Tuệ không thể và không dám nghĩ tới chuyện mò lên vùng vàng dù chỉ một lần, bởi “một bước chân sai nghìn thuở hận”, rất có thể bước chân xứ đó sẽ sơ sẩy khiến kẻ đã buông đao thờ Phật có nguy cơ rời xa tổ ấm vô giá của mình.
Mười ba năm lăn lộn trong kiếp giang hồ, giữa cơ man vàng, máu, ma túy và nước mắt, Lê Văn Tuệ đã quá đủ kinh nghiệm để hiểu cái giá phải trả cho hạnh phúc, dù đó chỉ là một hạnh phúc nhỏ nhoi thường gặp giữa đời thường.
Quảng Nam, tháng 10.2002
10- TRÚC LIÊN BANG
Hai lần thâm nhập Việt Nam bất thành của Trúc Liên Bang
Tổ chức thứ ba trong bản đồ tội ác
Nhắc đến mafia “Made in Asia” (sản phẩm á Châu), trước hết người ta phải kể đến ba hắc bang hùng mạnh khét tiếng là Tam Hoàng Hội, Thanh Y Bang và Trúc Liên Bang. Tam Hoàng nổi tiếng nhờ tuổi thọ cao nhất, hội viên đông nhất, tổ chức chặt chẽ nhất, trong suốt 200 năm qua đã từng can dự vào không ít biến cố lịch sử của Trung Hoa đại lục và các khu vực khác trên toàn thế giới có người Hoa sinh sống. Thanh Y Bang, ngược lại, khiến người Hoa ở khắp nơi kinh khiếp vì tính chất hoạt động bí mật, “lai vô ảnh, khứ vô hình” của nó, kèm theo là sự tàn độc vô biên. Cả hai tổ chức tội phạm trên đều bắt nguồn từ Bến Thượng Hải và Hồng Công, nghĩa là đều bắt đầu nhóm họp và bành trướng thế lực từ Trung Hoa đại lục. Còn Trúc Liên Bang, nhắc đến nó, người hiểu biết sẽ nghĩ ngay đến hòn đảo Đài Loan nhỏ bé.
Tuy nhiên, vào hai thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, nghĩa là từ khoảng năm 1985 lại đây, Trúc Liên Bang đang có xu hướng nuốt dần thanh thế tội ác của hai tổ chức đàn anh, bởi sự hoạt động táo tợn, liều lĩnh và bởi những vụ thanh trừng đối thủ gần như đều được báo trước và bao giờ kẻ thủ ác cũng cố tình để lại “chữ ký” chứng tỏ chính Trúc Liên Bang là kẻ đã ra tay.
Tại Hoa Kỳ và Canada, xé bỏ nguyên tắc kín đáo -  một đặc tính cố hữu của người Hoa -  từ khoảng 1985 - 1989, đám thành viên “Nhicôlai” (trẻ tuổi) của Trúc Liên Bang đã tự tách bầy, cưỡi trên những môtô cao phân khối, đeo thêm những khẩu Colt, Uzi vào cạnh con dao trên thắt lưng để cho ra đời một băng đảng mới khét tiếng hung thần có tên là “Born to kill”, tức “Sinh ra để giết” hay “Thiên sanh sát thủ” trong cách gọi của người Hoa, với lẽ sống là bạo lực, nhãn hiệu là sự tàn ác và lạm sát.
Tại Châu á, sự bành trướng của Trúc Liên Bang đồng hành với giai đoạn mở cửa, cựa mình “hóa rồng” của các quốc gia trong khu vực. Nói chính xác, từ Đài Loan, Trúc Liên Bang phát tán như nấm độc sang Singapore, Mã Lai, Indonesia, Thái Lan, Campuchia... và cả Việt Nam bắt đầu từ bộ cánh sạch sẽ của các doanh nhân, với “vốn đầu tư” (chủ yếu vào công nghệ giải trí) là chiêu bài để rửa tiền bẩn. Mãnh lực cạnh tranh của các doanh nhân có dính líu đến Trúc Liên Bang không hề thay đổi, luôn gắn chặt với lưỡi dao và viên đạn; chúng sẵn sàng xuống tay tước bỏ ngay mạng sống của đối thủ kinh doanh mà không cần suy nghĩ hay thương xót.
Lần thứ nhất: Nhà đầu tư và kẻ lưu vong
Đầu thập niên 90, một số thành viên Trúc Liên Bang, lần đầu tiên đã tìm được cơ hội trà trộn vào đám doanh nhân tìm cách thò chân vào Việt Nam. Trong số ít ỏi những tên tội phạm mặc complet này có Hou Ming Chin. Trong bốn năm 1993-1997, Hou đã xuất nhập cảnh vào thành phố Hồ Chí Minh 10 lần cả thảy. Với số “vốn đầu tư” ban đầu là 120.000 USD, Hou đã góp cổ phần và trở thành Phó Tổng giám đốc bộ phận sản xuất sàn gỗ thanh của Công ty Bochang (Đồng Nai). Chỉ sau một năm (1994), thấy đầu tư ngành này lãi thấp, Hou rút hết vốn và trả lại chức vụ nhưng vẫn ở lại Việt Nam. Những năm tiếp đó, Hou đã “thử thời vận” trên nhiều nghề khác nhưng không trụ lâu dài ở nghề nào cả.
Đầu tháng 6-1997, để giải sầu, Hou dắt bạn gái là Yang Smu Mei sang Quảng Đông, Trung Quốc chơi, nghỉ lại tại khách sạn Đông Hoàn. Gọi là đi chơi, kỳ thực, đó chính là cuộc hẹn hò giữa Hou với Wang, một tên bạc bịp nổi tiếng của Trúc Liên Bang. Gặp nhau, Wang giới thiệu với Hou hai tay anh chị của hắc bang này là Chang và Chien. Trong lúc ăn nhậu và bài bạc, Wang nói rõ cho Hou biết mục đích của gặp gỡ, đó là bàn cách thanh trừng hai tên bạc bịp đồng bang là Chang Po Wen và Wu Wen Yu. Cùng với Wang, hai tên này đã giở nghề gian lận và thắng 14.000 USD, nhưng chỉ chi cho Wang 1.400 USD rồi ôm tiền chạy sang Việt Nam trốn. Wang muốn nhờ hai tên anh chị Chang và Chien sang đòi nợ, yêu cầu Hou giúp sức vì y ở thành phố Hồ Chí Minh lâu, thông đường thuộc lối. Wang nói với hai tên là:
- Nếu chúng không trả, tao muốn chúng bị xử!
Nửa tháng sau, ngày 22.6.1997, Hou gặp lại ba tên tại khách sạn Chợ Lớn (174 Sư Vạn Hạnh, quận 5). Thái độ muốn rút lui của Hou đã bị Chang dằn mặt:
- Bọn tao sang Việt Nam để xử hai thằng kia. Người ngoài chỉ có mình mày là rõ chuyện nên mày phải tham gia, cấm chối.
Biết quá rõ “kỷ luật” của Trúc Liên Bang, Hou chỉ im lặng gật đầu.
Lúc này, tại thành phố Hồ Chí Minh, hai tên đào tẩu Chang Po Wen và Wu Wen Yu đã thuê nhà C5, đường Nguyễn Hồng Đào, Tân Bình để sống chung với cô Huỳnh Lệ Hằng, bạn gái của Chang. Không khó khăn gì lắm, Hou Ming Chin đã tìm ra được địa chỉ của hai tên này và mời chúng đi theo cả bọn để “nói chuyện phải quấy”. Dưới áp lực của bốn tên Trúc Liên thạo nghề đao búa, Chang và Wu đành phải cúi đầu đi theo chúng.
Lọc lõi trong nghề phạm tội, bốn tên Trúc Liên đã vạch một lộ trình cực kỳ lắt léo chạy khắp nội thành rồi ra Thủ Đức, đi Biên Hòa, trở lại Bình Chánh và lần lượt ra tay. 0 giờ 30 phút sáng ngày 24.6.1997, tại bãi phế liệu của Nhà máy cán thép VICASA (Biên Hòa, Đồng Nai), Wu Wen Yu bị tên Chang bắn chết, sau đó rưới xăng đốt xác. Ngồi trên xe taxi, thấy ánh lửa, Hou Ming Chin mở cửa chạy xuống. Chưa kịp thốt ra lời nào, Hou đã bị tên Chang chĩa súng vào ngực cảnh cáo:
- Tao xử nó đúng luật giang hồ, đừng ý kiến. Bây giờ đưa tụi tao đi xử thằng Chang Po Wen.
Lại thêm hàng loạt đoạn đường theo một lộ trình lắt léo, 3 giờ sáng hôm đó, chúng lại dẫn tên Chang Po Wen đến một mương nước nhỏ nằm khuất bên quốc lộ 13 thuộc địa phận xã Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức và bắn chết tên này rồi hất xác xuống mương. Trước khi rời “pháp trường”, hai tên Chang và Chien đều cẩn thận đặt cạnh xác hai kẻ bị hành quyết hai viên đạn chưa nổ, coi như chữ ký của Trúc Liên Bang trong quyết định tử hình!
Hai vụ thanh toán trong cùng một đêm đã khiến dư luận xôn xao và hoang mang. Hơn một tuần sau, ngày 1.7.1997, Hou Ming Chin bị bắt tại cửa khẩu Tân Sơn Nhất khi đang cùng bạn gái làm thủ tục tính bay sang Campuchia lẩn trốn. Khi hình ảnh cả thủ phạm lẫn nạn nhân được báo chí đăng lên, rất nhiều người mới ngớ ra: họ đã nhẵn mặt tất cả những tên xã hội đen này tại các vũ trường lớn ở thành phố Hồ Chí Minh. Chỉ ít ngày trước khi chết, những kẻ bị bắn còn thường xuyên “ngồi đồng” mỗi tối bên chai rượu và một đám “em út” tại vũ trường Ceasar trong chợ An Đông, quận 5. Cùng bàn với chúng còn có một đám khá đông người Đài Loan khác. Nhưng, chúng vừa bị giết thì những kẻ này bỗng lặn mất tăm, không bao giờ còn thấy xuất hiện. Cả ba tên Wu, Chang, Chien - những kẻ trực tiếp thực hiện “lệnh hành quyết” - cũng đã nhanh chân trốn sang Campuchia trước khi tên Hou bị bắt và biến mất. Theo kết quả xác minh của PC16, Công an thành phố Hồ Chí Minh, vào thời điểm đó, tất cả những nhân vật được đề cập ở trên, kể cả những kẻ lạ mặt từng ngồi chung với chúng tại Ceasar, phía Cảnh sát Đài Loan đều khẳng định chúng là thành viên của Trúc Liên Bang hoặc ít nhiều có dính líu đến bang phái tội ác này.
Sự “dính líu” có lúc đồng nghĩa họ là kẻ bị Trúc Liên Bang khống chế. Theo điều tra của chúng tôi, có một số doanh nhân có máu mặt đang đầu tư, buôn bán ở Việt Nam, nhất là những người làm ăn riêng lẻ, không thuộc các tập đoàn lớn, hàng tháng đều phải “đóng hụi chết” cho bọn Trúc Liên bang. Lý do: Tại Đài Loan, toàn bộ gia đình họ đã bị hắc bang này phong tỏa, khống chế. Nếu người thân của họ ở Việt Nam ngưng đóng tiền hay báo cho cơ quan an ninh, gia đình họ tại cố quốc sẽ “có chuyện” ngay tức khắc.  Điểm đóng tiền mua sự an lành thường là các vũ trường đông đúc, ít gây chú ý, trong đó có vũ trường Ceasar.
Gần như đồng thời điểm xảy ra hai vụ thanh toán, ngay tại Ceasar cũng xảy ra một sự cố. Vụ này nhỏ, nhưng rất có ý nghĩa đối với những ai quan tâm đến hoạt động của Trúc Liên Bang tại Việt Nam.
Số là, với trình độ đai đen tứ đẳng Taekwondo, anh X. (chúng tôi xin không nêu rõ tên), một huấn luyện viên võ thuật đã được Ceasar ký hợp đồng làm đội trưởng đội an ninh của vũ trường, có nhiệm vụ ngăn cản sự quậy phá của khách với vũ trường hay giữa các nhóm khách chơi với nhau. Trong số các khách quen, có một nhân vật Đài Loan thường xuyên đi một mình, ngồi một bàn, không nhảy, không nói gì, chỉ uống rượu rồi về. Anh ta chẳng bao giờ trả tiền, nhưng đó là việc của bộ phận khác, X. không bao giờ hỏi. Có điều rất khó chịu: vị khách này luôn xuất hiện với thái độ nghênh ngang, xấc láo. Một hôm, anh ta ngang nhiên tiến đến ngồi vào chiếc ghế giành riêng cho đội trưởng an ninh (được đặt ở vị trí thuận tiện quan sát toàn bộ sàn nhảy). Giải thích bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Hoa mỏi miệng, vị khách vẫn không chịu rời chỗ, còn có thái độ thách thức nên với nhiệm vụ, X. đành phải cứng rắn lôi anh ta ra. Y với chai Remy Martin trên bàn giáng thẳng vào đầu X. Theo phản ứng, X. gạt ngay cú đòn và tống thẳng một đấm vào mặt khiến tên càn quấy gục ngay xuống sàn. Một chút náo loạn đã khiến ông chủ Ceasar phải xuất hiện. Khi nhận rõ mặt kẻ càn quấy thì ông ta tái mặt để rồi sau đó bảo X.:
- Nếu anh cần bao nhiêu, tôi cũng sẽ trả, cho anh đi nơi khác tìm việc!
Không hỏi, song X. hết sức ngạc nhiên, không hiểu tại sao mình bị mất việc dù đã làm rất đúng chức năng. Sự ngạc nhiên này sẽ không xuất hiện, nếu X. biết rằng, kẻ bị đo ván chính là một thành viên của Trúc Liên Bang và gia đình một cổ đông của Ceasar tại Đài Loan đang bị đồng bọn của tên này “ngắm nghía”...
Những vụ việc nêu trên không phải là cá biệt. Nhưng, sau hai vụ thanh trừng đêm 24-6-1997, bóng dáng những ông khách Đài Loan đáng ngờ này ở các nhà hàng, vũ trường đột nhiên thưa hẳn. Chính những nỗ lực của cơ quan Công an đã chặn đứng âm mưu thâm nhập lần thứ nhất của Trúc Liên bang.
Lần thứ hai: Chiến tranh băng đảng
Không chấp nhận nổi sự lộng hành của Trúc Liên Bang và bọn xã hội đen, năm 1995, chính quyền Đài Loan đã mạnh tay trừng trị, gom hết những tên lưu manh bất hảo ra đảo Xanh -  một hòn đảo nhỏ chuyên giam giữ tù hình sự trọng án. Số còn lại đành tạm thời nằm im hoặc cao chạy xa bay sang các nước Đông Nam á khác ẩn náu và gây dựng lại băng nhóm. Cộm nhất trong số này phải kể đến hai tên: Trần Khởi Lễ biệt danh Lễ Vịt, ông trùm Trúc Liên Bang và Dương Quang Nam - Phó bang Tứ Hải. Chạy sang Campuchia năm 1997, núp dưới mác một nhà thầu xây dựng có vốn lớn, Trần Khởi Lễ đã bỏ tiền ra mua hàm Huân tước danh dự và bắt đầu tìm cách lân la kết giao với các nhân vật tai to mặt lớn trong chính quyền thành phố Phnompênh và Chính phủ Hoàng gia. Ô dù đã vững, thoắt cái tiền bạc đã biến ông trùm xã hội đen này thành một doanh nhân có máu mặt, đứng đắn và đáng kính, giúp hắn trúng rất nhiều vụ thầu béo bở trên đất Chùa Tháp. Đến lúc đó, Trần Khởi Lễ mới bắt đầu nghĩ cách bành trướng thế lực sang thị trường thành phố Hồ Chí Minh.
Là một lái súng cáo già, Lễ biết rằng không thể đặt chân sang thành phố Hồ Chí Minh ở tư thế đồi đầu với giang hồ bản địa, nhất là lúc này Năm Cam đã ra tù, đang tìm cách khuyếch trương thanh thế và ôm “mộng bá đồ vương” thống nhất giang hồ Nam Bắc. Do đó, Lễ Vịt quyết định chơi trò “công ty”, bắt tay với giang hồ Sài Gòn.
Quân sư cho chiến dịch ngoại giao này là Nguyễn Chí Thành, tức Thành Chân, tay anh chị Hải Phòng nổi tiếng từng một thời dưới trướng Năm Cam. Năm Cam bị bắt, Thành Chân cũng đào tẩu bằng đường xuất cảnh sang Anh rồi lộn về Đài Loan, gia nhập đội ngũ lái súng, trở nên thân thiết với nhiều nhân vật của Trúc Liên bang.
Dưới sự quân sư của Thành Chân, Lễ Vịt đã quyết định trao ấn tiên phong cho Lee Han Shin, tức A Lý, một kẻ đã chín lần ra vào Việt Nam, khá quen thuộc với những tên tuổi cộm cán của giang hồ Sài Gòn. Khá tháo vát,  A Lý đã lần lượt qua lại và mua được một số cổ phần, cơ sở kinh doanh ngành nhà hàng, vũ trường của giang hồ Sài Gòn, trong đó có cả nhà hàng khách sạn Cam ở đường Nguyễn Tất Thành của Năm Cam, biến nó thành nhà hàng Tân Hải Hà, lập đại bản doanh cho Trúc Liên Bang ngay tại thành phố Hồ Chí Minh mà không hề tốn công sức đụng độ với giang hồ bản xứ.
Để tạo vây cánh làm hậu thuẫn cho A Lý, từ Phnômpênh, Trần Khởi Lễ đã phái sang Việt Nam 7 cao thủ gọi là băng “Thất tinh Bắc đẩu” đi kè kè A Lý nhằm khuếch trương thanh thế. Đã có máu mặt, A Lý đã đi thêm những nước cờ táo bạo: cùng vợ là Diệp Hiểu Vân mua 30% (240.000 USD) cổ phần vũ trường Metropolis đang phất lên, sau đó lại đàm phán mua vũ trường Monaco của Năm Cam với giá 1 triệu USD, thông qua sự môi giới của một cổ đông khác tại Metropolis là Hồ Việt Sử. Vụ mua bán bất thành. Không rõ lý do, song A Lý vẫn cho rằng chính Sử phá đám, nên y găm hận vào lòng chờ cơ trả đũa.
Theo cách lý giải của giang hồ Sài Gòn, vụ mua bán này bất thành là do Năm Cam - đang rất cần bán Monaco để gom tài sản chuẩn bị sẵn sàng đào tẩu khi có biến - quá hoảng trước một vụ làm ăn lãi cao nhưng quá liều lĩnh, đẫm máu và ngu xuẩn mà A Lý bị nghi là tác giả. Vụ này xảy ra vào giữa năm 2001. Lee Ming Shing, một thương gia Đài Loan bị chặt lìa một cánh tay trên đường Nguyễn Hồng Đào, Tân Bình. Khi bảo tự chặt, khi nói là tai nạn, Lee tuyệt đối không khai báo với công an nguyên nhân và thủ phạm đích thực của vụ “tai nạn”. Nhưng giang hồ thì vẫn có cách giải thích, nghe rất có lý: Biết Lee - cũng là một tên xã hội đen - đóng bảo hiểm nhân mạng rất cao, băng Trúc Liên Bang và A Lý đã dụ Lee mượn 40.000 USD sang Việt Nam mua nhà lấy vợ, tất tật đều do đại ca A Lý giúp đỡ. Khi mọi thứ đã xong xuôi, A Lý lập tức giở trò phong tỏa, khống chế dọa giết Lee để đòi nợ.
Lee quyết định bán ngôi nhà mới mua để trả nợ nhưng không xong. Hễ có khách đến xem nhà, trả giá, A Lý lại sai ngay vài tên đàn em vằn vện đến chặn họ ngay tại cửa, buông lời cảnh cáo:
- Nhà này đã bán cho giang hồ, đừng tranh mua mà rước họa vào thân.
Để bảo toàn mạng sống, Lee Ming Shing đành chấp nhận cụt một bàn tay, lấy mức bảo hiểm 25% là 75.000 USD sang trả nợ cả vốn lẫn lời cho A Lý.
Với Năm Cam, cách hành xử  quá “tận mạng” của Trúc Liên Bang ẩn quá nhiều khả năng dẫn vào cửa tử, khó lòng qua mặt được cơ quan Công an. Do đó, ông trùm không bán Monaco cho A Lý, tránh dính líu để đề phòng hậu hoạn.
Đang điên tiết vì sẩy cú làm ăn lớn, A Lý lại nhận thêm một hung tin: Thị trưởng Phnômpênh Chaxupaila đã mở cuộc tảo thanh chống Trúc Liên Bang tại thủ đô, sau khi băng đảng này bị nghi là thủ phạm giết Lý Chí Hâm, Hội trưởng Hiệp hội thương mại Đài Loan tại Campuchia. Đầu tháng 7.2001, với phóng viên kênh truyền hình hữu tuyến Phnômpênh, sau cái chết của Lý Chí Hâm, Trần Khởi Lễ đã ngu ngốc ném ra những câu tuyên bố hết sức hớ hênh và ngạo mạn, rằng: 
- Ở Campuchia chỉ cần quẳng ra 300 USD là có thể thuê được một tay đao búa sẵn sàng giết người.                          
Và:
- Để tự bảo vệ, tôi đã tập bắn súng hai tay
như một...
Sau đó, y còn khoe trong nhà luôn có sẵn một số... súng đạn đủ trang bị cho cả trung đội. Kết quả là ngày 8.7.2001, cảnh sát ập vào, lôi ra từ nhà Trần Khởi Lễ tại biệt thự 62 đường 592, Tây - Bắc thủ đô Phnômpênh 20 khẩu súng; hơn 2.000 viên đạn, và bắt giữ y.
Đại bản doanh của Trúc Liên Bang ở Campuchia tan nát khiến A Lý mất chỗ dựa. Hắn bắt đầu hoang mang tợn, tính đánh bài chuồn, dẫn đến một sai lầm chết người cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Để thu gom tiền bạc, A Lý đã kiếm chuyện gây sự với Hồ Việt Sử, vô cớ đòi Sử phải trả ngay món nợ 40.000 USD, trong khi trên danh nghĩa, đây là món  tiền cầm cố một chiếc xe Mercedes Sử mượn của ông Vương và bà Hoặc Huệ Nghị, hai người này không đòi, nợ cũng chưa đáo hạn. Hành động nôn nóng này đã khiến đám Trúc Liên Bang của A Lý và băng Hồ Việt Sử lao vào đâm chém nhau, dẫn đến cái chết của tên Trần Ngọc Hiền vào rạng sáng ngày 12.8.2001. Dấu tích Trúc Liên Bang lộ ra khá rõ: Trần Ngọc Hiền chết bởi một viên đạn bắn ra từ một khẩu Flairegun đặc chủng, chuyên dùng bắn pháo hiệu, ở Việt Nam bói cũng không ra, trong khi với Trúc Liên Bang thì lại khá quen thuộc...
Kết quả là Công an Việt Nam lại ráo riết vào cuộc khiến đám Trúc Liên Bang mới manh nha đặt được một chân ở thành phố Hồ Chí Minh phải tháo chạy tan tác. Không còn Trần Khởi Lễ, dù đã trốn sang Campuchia cũng không còn nơi nương tựa, bí đường A Lý lại gây  thêm tội ác (bắn chết một cảnh sát Campuchia) rồi “lặn” mất tăm mất tích. Có tin cho rằng, chính Trúc Liên Bang đã “thịt” A Lý, hy sinh tên tướng tiên phong thảm bại để cứu nguy đế chế. Một lần nữa, âm mưu thâm nhập Việt Nam của Trúc Liên Bang lại bị chặn đứng.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 7.2002
11- HẢI BÁNH
Vậy là cuối cùng phiên tòa xét xử “Vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn” cũng đã kết thúc. Sau Năm Cam, kẻ đứng thứ hai trong danh sách bị can, cũng là nhân vật số 2 của toàn bộ vụ án lôi kéo được sự chú ý nhiều nhất của dư luận không ai khác chính là Hải Bánh. Ẩn sau bộ áo sọc của phạm nhân là một thân hình chằng chịt hình xăm - dấu tích vừa “lừng lẫy” vừa khốn nạn của một kiếp giang hồ; ẩn sau khuôn mặt khá điển trai và bình tĩnh là một cái đầu máu lạnh ẩn chứa quá nhiều tội ác... Đó chính là Hải Bánh, kẻ có cái lưỡi vàng đã mở ra toàn bộ chứng cứ để bắt đầu một vụ án hình sự lớn nhất trong lịch sử tư pháp Việt Nam. Với giang hồ thì khác, Hải Bánh chính là chìa khóa mở cửa địa ngục đưa toàn bộ băng tội phạm của Năm Cam xuống đáy mồ. Câm lặng đi giữa hàng bị cáo bước vào phòng xử, Hải Bánh dư biết hắn đã trở thành một kỷ lục: kẻ đã và sẽ còn bị truy nã nhiều nhất bởi cả công an lẫn giang hồ, cho dù còn sống hay đã chết.
Tên thật là Nguyễn Tuấn Hải, sinh ngày 7.11.1967, tên giang hồ khét tiếng này có một tuổi thơ êm đềm, giản dị ở nhà số 36, Hàng Cót, Hà Nội. Cha Hải là ông Nguyễn Văn Bánh. Theo thói quen, người miền Bắc thường gắn tên cha vào sau tên con trong cách gọi thân mật cho nên hắn được gọi là Hải Bánh - một cái tên sau này sẽ trở nên khét tiếng, trong Nam ngoài Bắc đều biết đến.
Sinh ra đã lì lợm nên Hải không màng gì đến sách vở học  hành. Năm 1982, đang học lớp 8, Hải nghỉ ngang để đi học nghề thợ hàn và nghề... đâm thuê chém mướn. Làm thợ thì... phọt phẹt, nhưng nghề đao búa thì Hải Bánh chẳng kém cạnh gì ai. Khoảng những năm 1982-1985, dân chợ trời khu vực các Hàng ở Hà Nội đã nhẵn mặt thằng cu cò Hải Bánh vì cứ sểnh ra món nào là hắn nẫng tay ngay món đó, nhanh như chảo chớp. Nhưng nhỏ to về hắn, người ta chỉ dám nói sau lưng còn đối diện thì cạch. Vô phúc để lọt tai, thằng cu cò sẽ trở thành hung thần ngay và sẵn sàng nện cho kẻ nhiều chuyện nhừ tử. Đã thế, sau lưng hắn còn có thêm một đám đàn em đầu trâu mặt ngựa, thằng nào cũng tiền án tiền sự nhiều hơn tiền mặt, sẵn sàng coi việc đụng độ, đấm vỡ mặt người khác là “cái đinh”.
Vì sự lộng hành và những trận loạn đả gây thương tích, ngày 12.5.1985, Hải Bánh bị công an quận Hoàn Kiếm tóm cổ và bị tòa xử 42 tháng tù giam. Trước đó, hắn đã một lần ngồi tù 24 tháng vì tội trộm cắp. Lương dân 36 phố phường thở phào vì bớt được một hung thần trên lề phố.
Năm 1987, Hải Bánh ra tù. Có vẻ cu cò đã trở nên lương thiện, an phận làm một chú thợ hàn tàng tàng và lấy vợ sinh con đẻ cái. Vợ hắn là Nguyễn Hoàng Hà, sinh năm 1970, con nhà tử tế, chắc cũng sẽ bảo ban được thằng chồng. Vậy mà không. Năm 1990, khi Hà sinh được đứa con gái thì gã chồng lại trộm cắp, lại vào tù. Hai năm sau, năm 1992, được trả tự do nhưng anh thợ hàn Nguyễn Tuấn Hải coi như không còn nữa, thay vào đó là một Hải Bánh đại ca, tên tuổi khá cộm cán trong đám giang hồ.
Có vợ có con cũng coi bằng không, Hải Bánh biến mất mặt và cặp kè với Thủy bồ, một nữ quái sinh năm 1972, bắt đầu đẩy mạnh việc tác oai tác quái. Vứt chiếc mỏ hàn vớ lấy con dao hoặc cây mã tấu, Hải Bánh trở thành một tay bảo kê vằn vện kiêm đại lý thuốc lắc cho dân chơi của nhiều nhà hàng vũ trường ở thủ đô. Có tiền, có quyền Hải Bánh bắt tay và thu phục được khá nhiều chiến binh giang hồ có số ở Hà Nội như Hải lớ, Hải hấp, Phát lợn, Trường xoăn, Hưng chùa... Trong số này, thật ra cũng có một vài thằng còn bé lắm, như Hưng chùa (Nguyễn Việt Hưng) hay Trường xoăn (Nguyễn Xuân Trường) chẳng hạn. Nhưng mà khổ, đi với ma thì mặc áo giấy, những thằng bé con mặt búng ra sữa ấy, theo anh Hải chỉ ít lâu cũng thành sát thủ máu lạnh như ai, từ từ thiên hạ sẽ thấy.
Những cuộc thư hùng đẫm máu trên lề phố đã nhanh chóng đẩy uy tín Hải Bánh lên hàng “sao” trong giới giang hồ Hà Nội. Hắn lọt vào mắt xanh của các ông trùm xã hội đen Hà thành lúc bấy giờ như Thắng tài dậu, Sơn bạch tạng, Khánh trắng, và cả bà chị Phúc bồ, một đàn chị theo nghĩa giang hồ của Thủy bồ - nữ quái đang cặp kè với Hải. Đám ông trùm bà trùm vừa nể, vừa ngán ngại dè chừng tên cận vệ của Diêm vương Hải Bánh. Tuy nhiên, cao nhân tất hữu cao nhân trị, đến lượt Hải Bánh lại thầm kinh một kẻ khác, khổ thay lại là một con mẹ tưởng chừng có thể coi là nữ nhi thường tình. Không xa lạ gì, kẻ đó là Vũ Hoàng Dung, (tức Dung Hà), nguyên “giám đốc đen” của công ty cờ bạc Kiến An (Hải Phòng).
Cú chào bàn ngoạn mục của Dung Hà khiến Hải Bánh phải xanh lè mặt là cuộc tập kích táo bạo của băng Hải Phòng do Dung Hà cầm đầu nhằm tiêu diệt băng Khánh trắng, ngay sau khi Dung Hà mới ra tù (cuối năm 1995). Lúc này, Khánh trắng, Phúc bồ... và nhiều ông trùm, bà trùm khác của Hà Nội đang liên minh với nhau khá chặt, đụng một băng là đụng toàn bộ anh chị thủ đô nhưng Dung Hà vẫn không ngán. Vụ tập kích (đổ quân bằng ô tô) đã toàn thắng trước khi rút lui an toàn đã chứng tỏ bản lĩnh giang hồ của Vũ Hoàng Dung và bộc lộ rõ ý đồ “dẹp loạn sứ quân” để thôn tính lãnh địa Hà Nội của nữ quái này. Vì nể, Hải Bánh đã mò ngay xuống Hải Phòng ra mắt Dung Hà và được bà chị (Dung Hà chỉ hơn Hải Bánh một tuổi) tiếp đón nồng hậu. Đế chế cờ bạc Hải Phòng, hậu thân của công ty cờ bạc Kiến An có thêm một phó tướng dũng mãnh là Hải Bánh, nắm đầu dây mối nhợ của đường dây cá độ bóng đá xuyên quốc gia. Khi Dung Hà di cư vào thành phố Hồ Chí Minh, năm 1998, tại Hải Phòng công việc của Hải Bánh vẫn tiếp tục, ngay sau khi y hoàn tất thêm một bản án 45 tháng tù.
Tháng 10.1998, bà Trương Thị Sẩm, chị ruột của Năm Cam, vợ Bảy Sy mất, giang hồ toàn quốc về viếng khá đông. Cùng với Hải hấp và Hải lớ, Hải Bánh cũng được Dung Hà dẫn đến viếng và giới thiệu với Năm Cam - kẻ đã từng nhận Dung là em kết nghĩa. Đó chính là điểm mốc của một mối giao tình giang hồ đầy bi kịch và máu.
Hai năm sau, Hải Bánh lỗ nặng trong nghề cá độ bóng đá, xù nợ của giang hồ Hải Phòng - Quảng Ninh hơn một tỉ đồng, bị đám anh chị đất Cảng tầm nã ráo riết. Giang hồ Hà Nội cũng không dung kẻ đã bắt tay với cựu thù, tuyên bố không còn đất cho Hải Bánh dung thân. Lốc ổ, Hải Bánh phải phiêu bạt về phương Nam, tìm đến Năm Cam cầu cứu mong tìm chỗ náu thân.
Ban đầu, Năm Cam không ưa gì Hải Bánh do đánh giá tên hung thần này rất thấp ở mức độ trung thành. Mặt khác, ông trùm cho rằng Hải Bánh chỉ là tên hung thần “hữu dũng vô mưu”, ngại rằng máu liều của Hải Bánh có thể làm rách toạc vỏ bọc an toàn của đế chế họ Trương nên không muốn dây vào. Nhưng, Hải Bánh đang thất thế, nhũn như con chi chi, tỏ ra ngoan ngoãn thần phục nên Năm Cam đổi ý, chìa tay vớt Hải Bánh để tính bề lợi dụng, mục đích là sử dụng Hải làm đối trọng với chính bà chị Vũ Hoàng Dung đang có những biểu hiện lộng hành nhằm tiếm ngôi đoạt vị.
Nguyên do để ông trùm đa mưu túc kế và tên hổ tướng ngang ngạnh xích lại gần nhau là một mỹ nhân mang cái tên khá đẹp: Hạ Giang (tên thật là Hà Thị Thu Giang).
Khoảng thời gian 1992 - 1996, đồng thời lúc đang cặp kè Thủy bồ, Hải đã từng yêu và đầu gối tay ấp với Hạ Giang, con thiên nga xinh đẹp của giới giang hồ. Nhưng vì tính nóng nảy, hung hãn, Hải Bánh đã khiến thiên nga khiếp sợ bay về phương Nam trú bão. Vì hàng loạt trận thư hùng tóe lửa, Hải Bánh đã tự gây thù chuốc oán quá nhiều, liên tục bị giang hồ đất Bắc truy đuổi để phục hận. Khiếp quá, Hạ Giang  đành im lặng trốn người tình bỏ vào thành phố Hồ Chí Minh. Nhờ nhan sắc trời cho, Hạ Giang nhanh chóng trở thành vợ của ông R. - một tài phiệt có máu mặt của ngành kinh doanh xe du lịch hơn... bố Hạ Giang chỉ vài tuổi. Nhung lụa của đời sống tư sản làm muợt mà thêm đôi cánh thiên nga, nhan sắc được chăm sóc kỹ lưỡng của Hạ Giang ngày càng thêm lộng lẫy. Nhưng cô vẫn chưa quên được người tình hung bạo khi xưa. Khi Hải Bánh mò vào Sài Gòn, Hạ Giang dù đã có hai mặt con với R. vẫn tức tốc lao trở lại vào vòng tay của gã. Chưa hết, cả một núi tiền trong két sắt của R. cũng đã bị Hạ Giang moi ra để cung phụng cho người tình cũ ăn chơi. Quá đau, R. quyết phục hận, nhiều lần bỏ cả đống tiền chỉ cốt thuê côn đồ dần cho kẻ đã cướp khỏi tay mình cả vàng lẫn cái ngàn vàng. Khổ nỗi, đó chỉ là mối thù vô vọng. Tất cả những thằng đầu trâu mặt ngựa nhất của đất Tây Cống (Sài Gòn) đều lắc đầu và trả lại tiền cho R. khi biết rằng, kẻ mà chúng cần thanh toán là Hải Bánh.
Cùng đường, nhà tư sản đành chơi canh bạc chót: nhờ vả ông trùm Năm Cam. Ông trùm thủng thẳng:
- Xem như số anh xui tận mạng. Thằng đó (chỉ Hải Bánh) nó có sợ ai. Cả tôi nó cũng còn coi thường mà đành chịu. Thôi, anh lo thu xếp đi, để chuyện nhờ vả này đến tai Hải Bánh thì mạng cũng không còn, nói gì vàng với vợ.
Hết cửa, để bảo toàn mạng sống, nhà tư sản (gốc Hoa) đành lặng lẽ bán tống bán tháo nhà cửa tài sản, mang theo mối hận sầu đau xót bỏ ra nước ngoài sinh sống. Độc đáo là ở chỗ, toàn bộ thủ tục, giấy tờ cũng như mọi chi phí để R. ra đi êm thấm, Năm Cam đã hào phóng chi tất, coi như trả nghĩa và không phụ sự tin cậy của ông R. khi đã tìm đến y cầu cứu.
Trong khi đó, để gây thanh thế, Hải Bánh vẫn cố ý gây ra một số cuộc loạn đả tấn công một số em út nhà hàng, vũ trường của Năm Cam. Không những không xuống tay trừng trị, Năm Cam lại hạ mình gặp riêng Hải Bánh, lấy điều hơn lẽ phải rót mật vào tai gã con trời. Nhắc đến Hạ Giang, ông trùm tỏ ra tử tế khuyên Hải Bánh:
- Con giun xéo mãi cũng phải quằn, đừng xía vô chuyện nhà người ta kẻo có ngày giang hồ nó cho ăn đạn. Chỗ anh em có thiếu thốn gì thì qua anh, anh giúp!
Lời khuyên ngọt ngào nặng mùi cảnh cáo khiến Hải Bánh ngộ ra, dần dần tỏ ra biết điều và quy thuận ông trùm. Mỗi lần Hải Bánh nhẵn túi, ông trùm lại xuất hiện đúng lúc, dúi cho hắn mươi “vé”. Sau đó lại bỏ tiền thuê một căn nhà trên đường Thủ Khoa Huân, quận 1 cho Hải mở tiệm gội đầu Vân’s làm kế sinh nhai. Dù liều mạng nhưng thân cô thế cô, bị giang hồ Bắc truy đuổi gắt gao và lại đang rất cần tiền, Hải Bánh đã nhanh chóng bị sợi  xích vàng của Năm Cam trói chặt. Những cuộc tập kích ngông cuồng chấm dứt. Thay vào đó, Hải nhận lời làm đại diện cho Năm Cam kiêm bảo kê của nhà hàng - vũ trường Phi Thuyền, mới mở trên đường Tôn Đức Thắng, quận 1 với mức lương 10 triệu đồng/tháng.
Nguyên vũ trường này do một doanh nhân có máu mặt tên là Tống Việt Hòa, thuê đất đầu tư xây dựng. Không có vốn, Hòa đã mời gọi được một đám tài phiệt từ Đài Loan kéo sang hùn hạp. Biết tiếng tăm Năm Cam, lại quá sành sỏi chuyện kinh doanh về đêm, đám tài phiệt này ra điều kiện với Tống Việt Hòa rằng, họ chỉ chịu rót tiền sang nếu Năm Cam chịu “ăn đèn” tham gia cổ phần. Để dàn xếp, Tống Việt Hòa đã tổ chức một bữa tiệc chiêu đãi đám tài phiệt tại quán Cánh Buồm, đường Pasteur, quận 3, vốn là điểm kinh doanh chính của Năm Cam rồi nhân thể mời luôn anh Năm chủ quán ngồi luôn cho xôm tụ. Động tác bắc cầu của Hòa đạt kết quả mỹ mãn: Năm Cam nhận lời tham gia với điều kiện Phi Thuyền phải lấy ruợu ngoại do Năm Cam cung cấp đồng thời trách nhiệm bảo kê cho vũ trường sẽ do đàn em của Năm Cam đảm nhiệm với giá chính thức mỗi tháng 30 triệu đồng.
Chỉ nửa tháng sau, hơn một triệu USD đã được các cổ đông Đài Loan - trong đó có anh ruột của ngôi sao phim võ hiệp lừng danh Lương Triều Vĩ (Tony Lung) rót sang, dựng nên vũ trường Phi Thuyền (Appolo) xôm tụ nhất thành phố, với mức lãi ròng hơn 100 ngàn USD/tháng. Đến tháng 8 năm 2000, Hải Bánh đã yên phận với chức danh Security Chief (xếp an ninh) của vũ trường này. Oái ăm thay, người giới thiệu Hải vào Phi Thuyền, không ai khác lại là Hạ Giang, lúc này đã sống như vợ chồng với Tống Viết Hòa! Tuy nhiên, dù Hạ Giang có ân sâu nghĩa dày mấy thì đến lúc đó, hình ảnh cô cũng đã không còn tồn tại trong đầu Hải nữa. Thay vào đó, một nhan sắc khác: Nguyễn Thị Anh Thư - cô gái được giang hồ mệnh danh là hoa khôi của những cuộc dạo chơi. Anh Thư sinh năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh, quen Hải Bánh vào khoảng tháng 6.2000 trong một đêm nhảy nhót tại vũ trường Phương Đông, quận 1. Ngày 8.9.2000, khi khai trương tiệm uốn tóc, gội đầu Vân’s, Hải Bánh đã đưa Anh Thư về, giao cho cô quyền quản lý tiệm, trả lương hai triệu rưỡi một tháng. Từ đó, Hải và Thư sống với nhau tại tiệm Vân’s như một cặp vợ chồng.
Trong đời sống giang hồ, sự an lành chỉ là một mỹ từ xa lạ và xa xỉ, Hải Bánh khai trương tiệm uốn tóc chưa lâu thì Dung Hà đột nhiên xuất hiện. Là người cưu mang, che chắn cho Hải khi hắn đang bị tầm nã trên đất Bắc, Dung Hà cho rằng y thị có quyền đòi Hải phải trả ơn. Điều mà Dung Hà muốn là Hải Bánh phải nhường lại toàn bộ tiền lời của tiệm Vân’s, sau đó nâng lên là phải bán tiệm cho y thị lấy tiền nuôi quân đang ùn ùn từ đất Cảng kéo vào. Hải Bánh không nghe. Cho rằng tên đàn em phản phúc, vô ơn, Dung Hà đã nhiều lần đưa đàn em đến Phi Thuyền quậy, đập phá đồ đạc, đuổi khách khiến “sếp an ninh” Hải Bánh phải khóc ròng năn nỉ, nhưng thị vẫn không tha. Dã man hơn, Dung Hà còn sai đàn em xách một xô phân tạt thẳng vào tiệm Vân’s của Hải Bánh. Tiếp đó, đêm 29.9.2000, Dung Hà đã dẫn 15 tên đàn em đến Phi Thuyền để tổ chức sinh nhật với một ổ bánh toàn... chuột sống, mắm tôm, phân... được thả ra tung tóe, bẩn thỉu khiến khách chơi trong vũ trường phải chạy toán loạn.
Sau cuộc ẩu đả, bảo vệ vũ trường đã bắt giữ một đàn em của Dung Hà. Không thèm rời ghế, Dung Hà đã cho đàn em  gọi Hải Bánh đến và ra lệnh:  Thả tên đàn em bị bắt ra, đồng thời báo cho chủ vũ trường và Năm Cam biết là Dung Hà muốn góp cổ phần vào Phi Thuyền. Phần hùn của Dung Hà chỉ là... một triệu đồng, nhưng phần chia y thị đòi phải bằng phần hùn của người góp cổ phần cao nhất, nếu không được đáp ứng sẽ quậy tiếp!
Hận nổ đom đóm, nhưng không dám coi thường Dung Hà, Hải Bánh phải liên tục gọi điện thỉnh ý kiến Năm Cam. Năm Cam điên lắm. Nguyên tháng 8.1998, khi Dung Hà mới chân ướt chân ráo vào Nam, Năm Cam đã nhận Dung Hà làm em kết nghĩa đồng thời đã từng nhiều lần cho Dung Hà tiền để mở quán bar ở số 17 Bùi Thị Xuân, rồi ủng hộ 30 triệu đồng để Dung Hà mở sòng bạc lụ xây tại chỗ. Sau đó, thấy chỉ ngay sau ngày đầu tiên hoạt động, sòng của Dung Hà đã lãi ròng hơn 70 triệu đồng, Năm Cam chóng mặt ra lệnh dẹp ngay. Tiền vô như nước, Dung Hà không nghe, tiếp tục gá bạc. Đã thế, y thị còn ngang nhiên thách thức ông trùm bằng cách nhiều lần dẫn đàn em ra Biên Hòa, Đồng Nai phá tan hoang sòng của Năm Cam do Ba Mậu chỉ huy ở số 180, khu tập thể đoàn 45 phường Long Bình, cố ý dằn mặt các đối thủ gây thanh thế để tranh giành lãnh địa cờ bạc và tranh quyền bảo kê.
Không chịu đựng hơn được nữa, Năm Cam ra lệnh cho Hải Bánh:
- Chú gặp Dung Hà, nói với nó là chỗ làm ăn của anh em, đừng quậy phá nữa. Phải điều đình với nó để sống.
Biết rõ sự ương ngạnh của Dung Hà, Hải Bánh hơi ngại:
- Nếu không điều đình được thì sao?
Câu trả lời của ông trùm chính là lệnh hành quyết:
- Việc của chú là phải biết làm sao rồi, điều đình không được thì tự chú tính, nếu xảy ra chuyện gì dính dáng đến pháp luật, chính quyền để anh lo. Anh không muốn thấy mặt Dung Hà nữa.
Không hỏi gì thêm, Hải Bánh lặng lẽ thi hành. Theo lệnh của Hải, đêm 1.10.2000, hai tên sát thủ Nguyễn Việt Hưng, Nguyễn Xuân Trường đã im lặng lên đường, mang theo khẩu rulo với năm viên đạn mượn của Đằng tây, tức Lưu Tấn Nhơn, ông chủ của quán Karaoke Ca Dao trên đường Thi Sách. 0 giờ 25 phút ngày 2.10.2000, một viên đạn duy nhất đã nổ từ trên tay sát thủ Nguyễn Việt Hưng, hạ gục Dung Hà ngay trước cửa số nhà 17 Bùi Thị Xuân, quận 1, chấm dứt một cuộc đời đầy tội lỗi của nữ quái Hải Phòng.
Sau vụ hành quyết, Năm Cam và Hải Bánh đều lo sợ bị công an sờ gáy nên tuyệt đối tránh mặt không gặp gỡ nhau. Cẩn thận hơn, ngay sau đó Năm Cam còn đổi số điện thoại di động, đề phòng bất trắc. Mãi hai tháng sau, kẹt quá, Hải Bánh đành liều mạng dắt Hưng, Trường đến tận nơi gặp mặt, Năm Cam mới chịu ném ra 10 triệu đồng bố thí, kèm theo những câu nói ỡm ờ:
- Đề từ từ rồi anh tính.
Thực tế, điều duy nhất mà Năm Cam tính là tìm cách đưa Hải Bánh vào chỗ chết, mặc kệ Hải Bánh ngày đêm ngay ngáy vì vừa lo bị công an bắt, vừa sợ giang hồ Hải Phòng đang sùng sục đòi lấy máu trả thù. Hắn biết, giang hồ đất Cảng đã ra giá một ngôi nhà giá 150 lượng vàng cho bất cứ kẻ nào hạ được Hải Bánh.
Biết Năm Cam đang tìm cách bỏ rơi mình, Hải hận bầm gan nhưng không làm gì được, chỉ còn biết chửi đổng:
- Thằng già chó đểu!
Đang vỡ mật vì lo thì những tháng sau đó, Hải Bánh lại liên tục phải chống đỡ với hai băng nhóm lạ hoắc liên tục thay nhau đến quậy phá vũ trường. Có nằm mơ tên giết thuê máu lạnh cũng không thể ngờ những kẻ lạ mặt chính là đàn em của... Năm Cam gửi đến. Mục đích, ông trùm muốn gây căng thẳng, tạo cớ cho Hải Bánh nổi nóng, dẫn đến manh động, sẽ sớm vào tù. Nếu điều đó xảy ra, Hải Bánh vào trước, bàn tay nhám nhúa của ông trùm sẽ thò vào ngay sau đó để điều khiển đám đại bàng trong trại thủ tiêu Hải Bánh, bịt đầu mối.
Hải Bánh quả thật đã không giữ nổi bình tĩnh. Luôn sống trong trạng thái phập phồng lo sợ, đầu óc Hải loạn cả lên. Hắn dễ dàng nổi khùng vì bất cứ lý do nào. Vì một xích mích rất cỏn con (cãi nhau vì không cho mượn điện thoại di động), ngày 25.5.2001 tại nhà hàng Tân Hải Vân, Hải Bánh đã dùng nguyên một chồng đĩa giáng xuống đầu một khách ăn khác khiến anh này trọng thương. Vì tội cố ý gây thương tích, Hải bị công an túm cổ.
Không giống như dự định của Năm Cam, công an đã đưa ngay Hải Bánh xuống trại giam Công an tỉnh Tiền Giang, khiến mưu đồ với tay theo của ông trùm hoàn toàn phá sản. Sau nửa năm ngồi tù, đủ thời gian để suy nghĩ đầy  đủ về nghiệp chướng giang hồ, về bộ mặt thật và âm mưu thâm độc của Năm Cam, lại chẳng thấy “anh Năm” lo lắng được chút nào cả, Hải Bánh quyết định khai hết. Ngày 5.12.2001, lần đầu tiên tên giang hồ cộm cán chịu vứt bỏ thái độ lì lợm, khai nhận toàn bộ chi tiết về vụ hạ sát Dung Hà. Cánh cửa bí mật được mở toang, đường xuống địa ngục mở ra thông thống, cuốn toàn bộ Năm Cam và băng đảng vào đáy sâu để bắt chúng phải trả giá cho những tội ác mà chúng đã gây ra.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 2.2003
12- VÀNG!
1. Du mục
Rất có thể bạn sẽ chẳng tán đồng, nhưng dù sao, tôi vẫn cứ tin rằng đôi khi những biến cố lớn, những sự kiện đáng nhớ trong đời lại có khởi nguồn hoặc đến với chúng ta một cách hết sức ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên, tôi đến với nghề báo. Ngẫu nhiên, tôi gắn công việc và thời gian của mình với những chuyến đi... Những lúc một mình với chiếc xe gắn máy cà tàng rong ruổi qua từng miền đất lạ của rẻo đất cong cong hình chữ S, tôi thường cảm thấy lòng dội lên một cảm giác lâng lâng khó tả.
Lâu dần thành quen, công việc đã vô tình biến tôi thành một tín đồ của chủ nghĩa xê dịch, luôn phải đi và muốn đi. Thú vị là ở chỗ, những lúc rong ruổi đường xa, tôi lại có cơ hội để gặp lại tuổi thơ trong những cơn mơ mòng hiệp khách, chủ yếu hình thành từ những trang sách ngấu nghiến đọc trộm và đam mê khám phá.
Cũng ngẫu nhiên như thế, năm 1997, cái địa danh “bãi vàng Phước Sơn” đã tình cờ lọt vào tai tôi và nằm lại đó như một bí ẩn nhiều sức hút. Năm ấy, mưa lũ không lớn lắm. Nhưng ở một xứ sở mà cơ sở hạ tầng còn yếu kém như đất nước thân yêu của chúng ta thì không cần lớn, thiên tai cũng dư sức gây đại họa. Riêng tại Quảng Nam, với trận lụt “không lớn lắm” năm ấy, toàn tỉnh đã có “97 người chết và mất tích”. Thật ra, “chết” với “mất tích” cần phải được hiểu chẳng qua cũng chỉ là một! Trước cơn rùng mình, nổi gai ốc của tôi, Thiếu tá Nguyễn Đức Thành, Phó phòng PX15 Công an tỉnh đã cay đắng bổ sung:
- Đó là chưa kể những người đã bỏ mạng tại bãi vàng Phước Sơn đấy. Dân đào vàng toàn người tứ xứ, sợ luật pháp nên không ai trình, ai báo. Dù cố gắng mấy, ngành công an cũng không thể thống kê chính xác được. Chỉ riêng bãi Nguyễn Văn Ngọc đã có 21 người chết. Tỉnh phải đem máy xúc lên đào suốt cả tuần mới lấy được xác các nạn nhân!
Biên độ chệch chuẩn quá lớn giữa các con số của báo cáo quan liêu và thực tiễn sống động đã khiến thói quen phân tích cố hữu của gã nhà báo là tôi mường tượng ra một đời sống khốc liệt, khốn khổ và đang bị lãng quên ở vùng vàng. Đối với nghề cầm bút, đó là một đề tài có sức hấp dẫn ghê gớm.
Cho đến lúc đó, thông tin mà tôi có đựơc về “miền đất hứa của những kẻ liều” vẫn không có gì nhiều hơn đôi dòng vắn tắt: Phước Sơn là một huyện miền núi phía Tây Quảng Nam, giáp Lào và tỉnh Kon Tum. Cả huyện có 18.000 dân. Thời chống Mỹ, đó là căn cứ của Cách mạng, nhiều trận đánh ác liệt tốn nhiều xương máu đôi bên đã nổ ra, hình thành nên những địa danh huyền thoại đã đi vào văn chương, sách vở: cao điểm E, Sân bay Hiệp Đức, ngầm Phước Mỹ, cầu Đắc Xà Ê... v.v. Nếu chỉ với từng đó thôi, Phước Sơn cũng đã đủ cuốn hút tôi với bao nhiêu nỗi tò mò. Nhưng hơn thế nữa, cho dù khuôn mặt đen đúa, không đáng được gọi là thư sinh, cũng không thuộc vào tuýp người cao quí luôn tin chắc rằng mình có một tâm hồn lãng mạn thì từ hơn 10 năm trước, tôi cũng đã trót phải lòng mấy câu thơ của Trinh Đường:
Sông Phước Mỹ đổ xuống nguồn Vu Gia
Anh biết đổ vào đâu quanh năm nước lũ
Xã Phước Mỹ giáp Gia Lai - Kon Tum
Anh giáp với ai trong mang mang hoàn vũ
Quá xã Phước Thành đến huyện Trà My
Quá lòng anh đến đâu xa xứ
Núi Xuân Mãi vươn lên thì gặp trời
Anh vươn lên e cháy đầu nắng lửa
Phước Sơn có vàng có quế có trầm hương
Anh chỉ có một bài thơ viết dở...
(Bài thơ nhờ độc giả huyện Phước Sơn đặt đề)
Hai mươi bảy tuổi, đã qua lâu rồi cái thời sách vở, trong tôi không còn mơ mộng những chuyện phiêu lưu hão huyền, nhưng niềm đam mê kỳ lạ về những vùng đất xa xôi, những điều lạ lẫm thì vẫn còn nguyên vẹn. Ngay lập tức, cái địa danh Phước Sơn xa lạ kia trở thành nơi mà tôi tự nhủ lòng rằng phải đi, phải đến và phải thấy.
Hùng, một tài xế có “tay lái lụa” ở Công an Quảng Nam bảo tôi:
- Nếu muốn, sắp xếp thời gian lên đây tôi chở ông đi. Vùng đó, tôi rành như lòng bàn tay. Còn tính đi xe máy thì quên đi. Khổ không qua nổi đâu. Tôi cam đoan bãi vàng Phước Sơn không hề giống bất cứ nơi nào mà ông từng biết.
Tôi không trả lời Hùng. ở cơ quan hoặc đôi lúc ngồi giữa bạn bè thân, loại người như tôi vẫn thường được những người xung quanh xem là điên. Tôi cũng chẳng thấy cần phải thanh minh, bởi thằng điên nào cũng có cái lý riêng của nó. Bạn bè, đồng nghiệp và những người thân của tôi, tất thảy đều tử tế, đáng kính và cẩn thận. Họ không tài nào hiểu nổi cái lý giản đơn là những khó khăn, vất vả, thậm chí nguy hiểm nữa, mới chính là ma túy của những kẻ ưa xê dịch. Thiếu nó, cuộc sống của những kẻ mang máu ngẫu hứng, “rồ dại” như tôi xem ra chỉ đáng bỏ đi.
Thế nhưng, cũng phải hai năm sau đó, tôi mới có cơ hội biến dự định của mình thành hiện thực. Lại hoàn toàn là quyết định ngẫu nhiên bởi thật ra, trong kế hoạch ban đầu, nơi tôi sẽ đến không phải là bãi vàng Phước Sơn mà là bãi đá saphire Trường Xuân ở Đắc Nông, Đắk Lắk, cách thị trấn Gia Nghĩa 29km.
Ngày 14.5.1999, mưa tầm tã, tôi vượt một lèo 250 km từ Sài Gòn lên đến Gia Nghĩa. Thuyết phục, năn nỉ mãi các anh công an huyện Gia Nghĩa vẫn dứt khoát không dẫn đường, cũng không cho phép tôi bén mảng vào bãi đá quí. Lý do đơn giản: nguy hiểm. Bãi đá saphire Trường Xuân từng được mệnh danh là một “Texas City ở Việt Nam”. Trong bãi tập trung hầu như không thiếu thứ gì các loại tệ nạn xã hội. Cư dân của bãi đá này (khoảng hơn 1.000 người) chỉ gồm hai loại: những tên đầu trộm đuôi cướp trốn lệnh truy nã và những con nghiện oặt xà lai, thiếu sức sống nhưng thừa máu liều... Không còn cách nào khác, tôi quyết định gửi đồ đạc lại công an huyện và bắt xe ôm một mình thâm nhập vào bãi đá. Để tăng cảm giác tự tin, tôi nhét vào trước bụng một khẩu rulô có 5 viên đạn hơi cay và hơi ngạt, thứ công cụ hỗ trợ “làm dáng là chính” được cơ quan cho phép mang theo (có giấy phép) trong những chuyến công tác đường dài.
Không người dẫn đường, không quen biết ai, cũng chưa định... gặp tai nạn, tôi không thể mạo hiểm đột thẳng vào khu vực lán trại của dân đào đãi đá dựng lên xung quanh hai bờ suối Đăk Tol nằm kẹt giữa những ngọn đồi. Để nâng tầm quan sát, tôi quyết định rúc lên rừng le mọc kín quanh ngọn đồi phía Tây Bắc con suối. Chỉ cần có một chút xíu kinh nghiệm đường rừng, bạn đọc cũng đã có thể hình dung ra tôi đã phạm những hai sai lầm một lúc. Thứ nhất: chỉ có những kẻ thiếu hiểu biết mới công không đi rừng vào mùa mưa. Thứ hai, lớp lá mục của rừng le chính là “thiên đường” của các loài vắt, con nào con nấy to nần nẫn như ngón tay cái. Tiếng bước chân đạp lên cành khô, lá mục của tôi đã khiến lũ vắt đang “ngủ say” thức giấc. Chúng “nhổm” lên và búng đi nghe rào rào...
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” hay gọi là “có duyên nghề nghiệp” thì cũng thế. Thiếu kinh nghiệm thậm chí có gọi là dốt nát đi chăng nữa cũng chưa chắc đã là quá tệ. Khi bò lên hết đỉnh đồi có rừng le, tầm mắt đủ quan sát mọi động tĩnh của vũng bãi đá, tôi chợt phát hiện ra có 4, 5 người mặc quần áo như dân lao động cũng đang lui cui chui rúc trong rừng le như tôi. Lúc này, tôi mới chợt nhớ ra: ở trước dãy nhà nát là lán trại của Xí nghiệp đá quí Đắk Lắk dựng gần bãi khai thác, tôi có trông thấy một chiếc xe Uoát mang biển số trắng 29L..., có lẽ chiếc xe đó là của những người đang lui cui phía cuối đồi le. Theo suy đoán, tôi nghĩ rằng họ đang tìm cách phát rừng, tìm đất để làm rẫy cà phê. Vào thời điểm đó, phá rừng làm rẫy càphê là phong trào đang rầm rộ ở Đắk Lắk. Nhưng, mất gần trọn buổi chiều bí mật quan sát, tôi vẫn không hề thấy họ hạ một khúc cây, đốt một vạt rừng nào. Bị kích thích bởi sự ngạc nhiên, tôi quyết định mò đến tận nơi. Nếu họ cũng như tôi, đến bãi đá saphire mà không phải để đào đãi thì chắc là không có gì đe dọa, tôi nghĩ thế.
Nhưng, còn cách tốp người nọ cỡ 100m, tôi đã bị chặn lại bởi một tiếng quát:
- Đứng lại! Ông đi đâu?
Giật bắn mình, tôi thò tay vào báng súng và từ từ quay đầu lại. Và trợn mắt ngạc nhiên. Hùng, gã lái xe của công an Quảng Nam đang đứng đó há hốc mồm, y như tôi vậy (!).
- Ông đi đâu đây?
- Vậy anh đi đâu đây?
Thì ra, những người mà tôi ngỡ đi phá rừng trồng cà phê kia, không ai khác, chính là các cán bộ của Phòng Cảnh sát Điều tra Công an Quảng Nam. Họ đang mai phục để truy bắt những tên tội phạm nguy hiểm do tên Nguyễn Văn Thanh, tức Thanh “sứt” cầm đầu. Chúng đã gây hàng chục vụ cướp của hiếp dâm ở bãi vàng Phước Sơn, sau đó tắt rừng vọt sang Kon Tum rồi mò lên bãi saphire Trường Xuân trốn tránh. Vô tình, máu mạo hiểm đã đẩy tôi lọt vào giữa một cuộc truy kích. Cơ hội ngàn vàng, xin thề là có đuổi tôi cũng không đi! Bất đắc dĩ, Trung tá Huỳnh Đức Cường, Phó phòng Cảnh sát Điều tra Công an Quảng Nam, người chỉ huy cuộc truy kích đành phải chấp nhận cho tôi nhập bọn, đơn giản vì không thể để tôi rời ra, dễ lộ khiến đối tượng đánh hơi chạy mất.
Trong hai ngày sau đó, tôi đã theo chân các anh Cường, Trung, Dũng, Nhậm, Hùng... tiến hành đột kích xuống khu Bờ Suối hai lần, bắt giữ bảy kẻ tình nghi. Trong số đó, có bốn tên: Bắc phò, Tiên nghiện, Lanh và Thanh Hàng trắng là những tên cướp đào thoát từ bãi vàng, hiện đang bị truy nã. Riêng Thanh sứt, tên cầm đầu đã may mắn thoát vòng vây, với một khẩu K54 đầy đạn. Oái ăm ở chỗ, trên đường chạy, Thanh “sứt” đã vọt xuống phía dãy lán của xí nghiệp và cuống cuồng chui vào chiếc... U oát của những người Công an truy đuổi để... ăn trộm quần áo cải trang trước khi chạy mất. Tên Thanh “hàng trắng” cũng lao qua đầu những người truy kích tính lủi vào rừng le. Nhưng không kịp, chỉ thoáng nửa giây, khẩu súng trong tay Trung tá Huỳnh Đức Cường đã kịp vẩy theo. Viên đạn duy nhất thoát nòng găm vào bàng quang đã xô tên tội phạm ngã úp mặt xuống suối, đành phải tra tay vào còng và được đem đi cấp cứu.
Trong hai chuyến đột kích ấy, tôi, vì không phải cảnh sát điều tra, không có chuyên môn, nghiệp vụ nên được phân công “lao động giản đơn”, chỉ phải làm duy nhất một công việc nhẹ nhàng, đó là rút khẩu ru lô của mình ra và đứng canh không cho những tên cướp đã bị còng tay từng hai tên một chạy trốn. Dù vậy, cũng có thể xem như tôi đã “đồng cam cộng khổ”, cho nên cánh điều tra mặc nhiên coi tôi như một “phe ta”, chịu chơi và thân thiết. Dự định vào bãi vàng của tôi được Trung tá Cường và các trinh sát ủng hộ ngay. Cường hẹn:
- Đúng một tuần nữa gặp nhau ở bãi vàng. Chuyên án này (chuyên án CD99) mà xong, ông tha hồ tư liệu mà khai thác.
3 giờ chiều ngày 16.5.1999, tài xế Hùng phóng chiếc Uoát chở tên Thanh về Bệnh viện Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh rồi trở lại ngay. 2 giờ sáng, anh đã có mặt trở lại ở công an huyện Đắc Nông để sáng hôm sau đưa các cán bộ điều tra và những tên bị bắt theo quốc lộ 14, rẽ quốc lộ 26 rồi xuôi quốc lộ 1A về Quảng Nam. Tôi không đi theo họ mà tiếp tục ở lại Đắc Nông thêm một ngày để hoàn tất nốt phần việc của mình. Ngày hôm sau, chiếc xe máy của tôi đã dừng lại ở thị xã Plây Cu. Tôi quyết định nghỉ lại ở phố núi một đêm, kiểm tra xe cộ trước khi “một mình một ngựa” ngược đường 14 để thâm nhập vùng vàng.
Trước khi công trình đường Hồ Chí Minh xuyên Trường Sơn được khởi công, từ Quảng Nam đi lên Kon Tum xem như hoàn toàn không có đường. Để đến thị trấn Khâm Đức - thủ phủ của vùng vàng, dân đào vàng thường xuất phát từ TP. Đà Nẵng hoặc thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam), đi ngược lên. Đoạn này xa hơn - khoảng 200 km - nhưng còn có thể gọi là đường, còn có người qua lại, phòng khi bất trắc. Đoạn từ thị trấn Plei Cần (Ngọc Hồi, Kon Tum) xuống tuy chỉ dài 130 km nhưng hoàn toàn xuyên trong rừng già, lại bị chắn ngang liên tục bởi vô số những ngọn núi có cao độ không dưới 1.400m, hai bên đường hầu như không có dân cư.
Người khai sinh ra con đường độc đạo này không ai khác, chính là Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm là Tổng thống Việt Nam Cộng hòa thì đúng rồi, nhưng khổ nỗi ông ta lại là vị Tổng thống có năng lực cai trị của một quan thanh tra tản mạn. Xuất thân từ tầng lớp quan lại quan liêu, khi trở thành Tổng thống của cả một “quốc gia dân chủ”, ông Diệm vẫn mang nặng lối tư duy duy ý chí mà thiếu trầm trọng những năng lực chuyên môn. Để “cải thiện dân sinh”, năm 1957, Diệm đã hô hào dựng lên ở miền Nam hàng loạt khu trù mật, hàng loạt tỉnh tân lập. Năm sau, 1958, trong tham vọng “nối Cao nguyên với Duyên hải miền Trung”, ông ra lệnh cho xây dựng một tuyến đường độc đạo xuyên từ Tây sang Đông Trường Sơn, nối Kon Tum với Quảng Nam, bất chấp con đường đó phải xuyên qua vô số rặng núi đá hiểm trở của vùng Tây Trường Sơn trước khi đâm chéo sang hướng Đông Bắc - cũng hiểm trở không kém - đổ vào địa phận tỉnh Quảng Nam. Vào thời bình, với mục đích phát triển kinh tế, điều kiện thi công thuận lợi, rất có thể đây là một ý tưởng tốt và khả thi. Khổ nỗi, ông Diệm lại là một Tổng thống của thời chiến, chỉ quen cai trị bằng mệnh lệnh nhưng thiếu đầu óc bao quát và khả năng tư duy trừu tượng nên ông bất chấp. Theo lệnh của ông, cuối năm 1958, một đại đội công binh và hai đại đội Bảo an bảo vệ công trường đã được cắt ra, giao cho đại úy Trần Văn Kha chỉ huy kéo lên Kon Tum để xây dựng con đường này. Dù đã hết sức cố gắng đi kèm với hàng loạt phúc trình về điều kiện an ninh không bảo đảm, Trần Văn Kha vẫn không tài nào hoàn tất nổi nhiệm vụ được giao. Công tác thi công gần 200km đường qua một địa bàn toàn rừng rậm, núi cao và hầu như không có dân cư, làng mạc đã khiến cho hai đội Bảo an không thể bảo vệ nổi con đường trước những cuộc tập kích bất ngờ và liên tục của quân cách mạng. Ngày 21.10.1960, hàng loạt đồn bót, cứ điểm gồm Dakpet, Daksout, Dakse ở Kon Tum bị “Việt cộng tấn công ồ ạt và tràn ngập”, Ngô Đình Diệm phải gửi gấp ba tiểu đoàn dù của Nguyễn Chánh Thi lên cứu viện. Một tuần sau, ngày 28.10.1960, đại đội bảo an và đại đội công binh thi công cùng một loạt đồn bót bảo vệ công trường khác thuộc địa phận Quảng Nam lại bị tấn công, gây thiệt hại nặng nề: quân lực bị tiêu hao, phương tiện cơ giới bị phá hủy, đồn bót bị phá vỡ. Trước đó đúng hai tháng, sân bay Hiệp Đức và căn cứ bố phòng tại cao điểm (thị trấn Khâm Đức) cũng bị tấn công dữ dội, một máy bay bị bắn cháy, cao điểm E bị quân cách mạng chiếm giữ sáu tiếng đồng hồ liền, toàn bộ hệ thống bố phòng bị phá hủy, toàn bộ vũ khí bị tịch thu, trước khi quân tiếp viện kịp tiếp ứng và tái chiếm.
Làm chưa xong đoạn này, đoạn khác đã bị tấn công phá hoại, Trần Văn Kha không còn cách nào khác, đành viết báo cáo xin từ nhiệm. Đến năm 1962, công trình đường 14 “nối dài” của ông Diệm đành phải bỏ dở khi chưa thể hoàn thành.
15 năm chiến tranh sau đó, đoạn đường 14 này đích thực là một bãi chiến trường, ta và địch giành nhau từng mét một. Đó là cửa ngõ duy nhất tiến vào vùng Bắc Tây Nguyên, là hành lang cho những đoàn xe tăng, pháo binh quân giải phóng tiến đánh hàng loạt căn cứ Plei Me, Plei Cần, sân bay Phượng Hoàng, Đắk Tô, Tân Cảnh... từ đó thọc xuống Kon Tum và Gia Lai. Sau chiến dịch Hạ Lào năm 1971, mặt đường đã bị bom pháo cả hai bên giã nát. Gần 1/4 thế kỷ sau sau ngày giải phóng, đoạn đường độc đạo này hầu như bị lãng quên, không hề được tu sửa, không có ai qua lại, bởi quá nguy hiểm. Bằng máu phiêu lưu cá nhân, sau bốn thập kỷ, tôi đã có dịp dẫm chân lên con đường phiêu lưu chính trị của ông Ngô Đình Diệm!
Với những người giàu kinh nghiệm thì đây là con đường chỉ dành cho hai hạng người: những tên cướp từ bãi vàng tắt đường trốn sang Kon Tum hoặc những anh công an đang truy tìm bọn cướp. Khi quyết định chọn ngả “không thể vượt qua” được này, xuyên từ Tây sang Đông dãy Trường Sơn, để thâm nhập bãi vàng, tôi đã tự biến mình thành loại thứ ba, loại người thiếu kinh nghiệm trầm trọng. Đi là để biết, tôi không muốn chọn cho mình con đường dễ!
2. Xuyên Tây Trường Sơn
8 giờ sáng ngày 18.5.1999, từ thị xã Plei Ku còn đúng 24 giờ đồng hồ nữa sẽ chính thức trở thành thành phố, tôi bắt đầu xuất phát. Ngoài chiếc xe Dream lùn làm phương tiện, tôi chỉ có duy nhất một “bạn đồng hành”: một tấm bản đồ đường sá (Nam) Việt Nam do hãng dầu nhớt ESSO ấn hành năm 1968.
Bản đồ có vẽ nghĩa là có đường. Có đường thì phải có người đi. Người ta đi được thì tôi đi được... Cái tam đoạn luận trình độ tiểu học ấy là niềm tin duy nhất để tôi dấn thân vào cuộc hành trình. Cứ nghĩ đến việc được đạp lên những đoạn đường thời chiến, lửa hăng hái đã cháy lên trong tôi ngùn ngụt. Đường vắng, nắng nhẹ, sau hai tiếng rưỡi, tôi đã vượt qua Kon Tum rồi Đắc Tô, Tân Cảnh, sân bay Phượng Hoàng... và có mặt ở thị trấn Plei Cần, cách Plei Cu đúng 150 km. Trước mặt tấm biển chỉ đường đã mờ nhưng vẫn còn đọc được, đề: Ngã ba biên giới - 18km. Đá chân chống xe, tôi níu áo một người đàn ông đang lùa bò qua đường hỏi một câu rất... oách:
- Bác ơi, sang Lào đi ngã nào?
Hỏi chỉ để mà hỏi, kỳ thực tôi không hề có ý định... vượt biên bằng xe máy.
Bên tay phải, con đường xuyên Tây Trường Sơn cũng đã hiện ra. Mặt đường không khác gì một dòng suối cạn, phủ đầy đá củ đậu, bị nước mưa bào mòn thành vô số hố rãnh khiến xe máy cứ chồm chồm nhảy từng bước vài mét một. Sau gần 20 km, khi tay lái đã mỏi nhừ, tôi gặp trục trặc đầu tiên: xì bánh sau. Nắng như đổ lửa. Hai bên đường là những bản làng dân tộc thưa thớt và heo hút, không hề có chỗ vá, lại không mang theo đồ nghề, tôi đành lặc lè dắt bộ lên dốc xuống đèo. Điều an ủi duy nhất là cảnh ven đường tuyệt đẹp. Ngay dưới chân tôi là sông Krông Pôcô, một dòng sông hẹp nhưng sâu và trong vắt, chảy cặp bên đường. Giá mà được vứt xe nhảy ùm xuống đó để gột sạch lớp bụi đường và làm dịu cái nắng cao nguyên đang thiêu đốt thì hay biết mấy. Nhưng không thể. Bờ sông là vách đá dựng đứng, sâu cách mặt đường từ 30 - 50 m.
Được hơn cây số, vị cứu tinh xuất hiện. Sau khi hoàn tất một miếng vá với giá 25.000 đồng, gã xe ôm vùng sơn cước tỏ ra áy náy bảo tôi:
- Không có đồ xơ-cua, đi đường rừng nguy hiểm lắm. Nếu anh cần, tôi tính giá hữu nghị: 100 ngàn cả hai thứ. Cái bơm tôi mới xài hai năm. Cái ruột (xe) cũng còn tốt chán, mới vá có... sáu lỗ.
Dĩ nhiên, các loại ruột mới vá có sáu lỗ mà vẫn còn tốt chán không phải là thứ nằm trong ý thích, cho nên tôi chỉ nhã nhặn cảm ơn và chuồn gấp để bảo vệ sự tồn tại cho 100 ngàn.
Hơn một giờ chiều, dừng ăn trưa tại Đak Glei - thị trấn cuối cùng của tỉnh Kon Tum - tôi gặp thêm người tử tế thứ hai. Hưởng, như lời tự giới thiệu, tay bưởng thứ thiệt vừa từ bãi vàng thôn 8, xã Phước Thành mò ra, nhìn tôi bằng ánh mắt thương hại của một kẻ từng trải:
- Quên chuyện vượt đèo Lò Xo bằng xe của ông đi. Thử tưởng tượng: Ông sẽ phải vượt 65km đường rừng với vô số đèo dốc và không hề gặp một bóng người. Chỉ một thân một mình, lỡ ra... Cứ nghỉ lại đây một đêm. Nếu muốn vào bãi, mai gửi xe lại, tôi đưa ông vào. Đi một mình như ông đừng hy vọng đến nơi, họa có khùng!
Không nên gọi người chưa quen là “khùng” bởi rất có thể bạn sẽ gặp một tay... khùng thật, lúc đó thì nguy lắm! Tuổi trẻ cao ngạo và dốt nát, tôi ném cho gã một cái nhìn khinh mạn:
- Tôi không có thói quen bỏ cuộc chỉ vì một lời khuyên xa lạ!
Với tôi, mối đe dọa trong trí tưởng tượng bao giờ cũng đáng sợ hơn nhiều so với những đe dọa gặp trong thực tế. Hưởng không tự ái, chỉ trả lại cho tôi nguyên vẹn cái nhếch mép:
- Được, ông cứ đi đi. Cam đoan chiều nay ta lại có dịp cùng ăn tối tại quán này! Nên nhớ, những kẻ ông gặp trên đường, không phải thằng nào cũng tử tế như tôi đâu.
Lại tiếp tục lên đường. Trời đang nắng đột nhiên tối sầm rồi mưa quất chéo mặt. Chỉ vài cây số, con đường đã mất hút giữa rừng già; dốc, cua chóng mặt và không một bóng người. Toàn đá, đá và đá. Được đôi đoạn đường đất thì lại trơn kinh khủng. Khẩu hơi cay giắt trước bụng, cả người lọt thỏm trong chiếc áo mưa rộng thùng thình của Báo ANTG, tôi gần như chồm người đè lên guidon để giữ tay lái, mặc kệ cho bánh xe sau cứ tuột quăng quật ra hai bên. Khoảng một giờ sau, khi vòng tránh một bãi lầy khổng lồ tôi mới thở phào: con đường có vẻ như rộng ra, dễ đi hơn. Quá tốt, tôi cứ cắm mặt cho xe vượt dốc. Cho đến khi một đống hoang tàn phủ rêu bỗng nhảy ra trước mặt, tôi mới ngớ ra: lạc đường. Nơi tôi đang đứng là... ngục Kon Tum. Lại lộn xuống dốc. Hóa ra, bãi lầy kinh khủng kia là ngã ba, đi thẳng là Quốc lộ 14 về Khâm Đức, còn rẽ phải là tỉnh lộ dẫn lên ngục Kon Tum!
Mất hơn 15 phút mới vượt hết bãi lầy bất trắc, tôi lại tiếp tục lóc cóc tiến sâu vào rừng già. Cách 10 m đã không nhìn thấy con đường. Rừng già giao tán phủ kín lối đi. Thỉnh thoảng bánh xe lại khựng lại vì vấp một cục đá to, hất tôi ngã nhào xuống mặt đường.
Trời vẫn mưa. Mưa Tây Trường Sơn không lớn lắm nhưng dai dẳng. Sau hơn chục lần té lên té xuống, tôi mới lần lên được đến đỉnh đèo Lò Xo. Mới bốn giờ chiều nhưng rừng đã sụp tối. Tịnh không bóng người, chỉ mây núi ken đặc luồn qua chân, phả vào mặt lành lạnh. Khuỷu tay, đầu gối đều trầy trụa và sưng vù, bùn ngập từ chân lên đến đầu khiến tôi cảm thấy cô đơn và chán nản ghê gớm. Nhưng tôi không thể quay lại. Sự lì lợm và cố chấp của tuổi trẻ sẽ khiến tôi điên mất, nếu quay lại để phải nhận nụ cười độ lượng và thương hại của gã đào vàng ở thị trấn Đak Glei. Lúc đó, tôi chỉ có một ao ước hết sức nhỏ nhoi là mình đang có mặt tại Sài Gòn, được mặc một bộ đồ khô ráo, rúc mình vào một quán càphê ấm áp nào đó với một ly đen không đường và mấy điệu tango dìu dặt...
Những thách thức vẫn chưa giãn ra. Mưa xói, đoạn đường bằng duy nhất trên đỉnh dốc bị núi lở chắn ngang bằng một bãi bùn khổng lồ. Vặn hết ga, tôi cho xe liều mạng vút qua. Hực một tiếng, người lao vọt qua guidon xe, tôi bị ném phịch xuống giữa bãi bùn. Bánh trước bị lút sâu trong bùn nên xe vẫn không ngả, bánh sau vẫn quay tít.
Nhấc bánh xe trước ấn xuống bùn để xe khỏi ngã, sau đó lại nhấc bánh xe sau... Thêm gần nửa giờ vật lộn bằng phương pháp “sâu đo” ấy tôi mới vượt qua được bãi lầy dài chừng hơn 100m. Đến lúc đó tôi mới cảm hết nỗi cô đơn, tuyệt vọng và nhỏ nhoi của con người trước thiên nhiên hùng vĩ. Lại lên xe, nhưng đề, đạp cả buổi máy vẫn không nổ. Nổi khùng, tôi đá lung tung vào mây và hét toáng lên những câu tối nghĩa. Không ai trả lời. Chỉ có tiếng núi âm âm vọng lại. Vài con bìm bịp - cũng cô đơn như tôi - giật mình bay vút lên!
Có khóc chắc cũng chẳng ai nghe, tôi bất lực ngồi bệt mông xuống lòng đường nhão nhoét. Vì lẽ gì tôi lại phải ném mình vào bãi bùn trên đỉnh núi này? Can đảm thì chắc là không, vì lúc này lòng tôi chỉ chất đầy cảm giác lo lắng, chán nản. Vậy thì đam mê, liều lĩnh? Tôi không biết, chỉ chắc chắn một điều, tôi sẽ không có mặt ở đây, nếu không trót mang cái chức danh nhà báo. Công việc tạo ra mục đích, và với chức danh trót nhận, tôi tin là mình có thể đi đến tận cùng thế giới.
Nói như thế, rất có thể bạn sẽ cho rằng tôi thiếu khiêm tốn. Quả thật, ngoài một trái tim kiêu ngạo, tôi chẳng còn gì khác. Với những gì đã và sẽ gặp, tôi luôn tin chắc rằng khiêm tốn thật ra chỉ là đức của những kẻ thiếu tự tin! Có thể còn có một lý do khác nữa: Tôi đi vì một ánh mắt. Tại sao gã Đon Kihôtê điên rồ của xứ Mantra thì luôn có hình bóng một nàng Dulcinea để mang theo trong những chuyến lang thang mà tôi thì không nhỉ? Có điều, nàng Dulcinea của tôi chắc chắn không ở làng Toboso, cũng chẳng phải là “người muối thịt lợn” ngon nhất xứ. Nàng Dulcinea của tôi là một cô sinh viên đại học. Lần đầu tiên chìa bàn tay nhỏ nhắn và nóng ấm cho tôi nắm lấy, em mới 19 tuổi. Ngày tôi đi, em vẫn 19 tuổi. Năm tháng rồi sẽ trôi đi, nhưng tôi biết, nàng Dulcinea của tôi sẽ vĩnh viễn cứ 19 tuổi. Nhìn vào đôi mắt trong veo của em, tôi biết mình vẫn chưa đủ phong trần để đến bên em thay hoa làm quà tặng. Thế là tôi cứ đi, đi và đi... Khi ngồi bệt trên đỉnh Lò Xo, tôi chợt nghĩ về em, rất lâu, với một chút hối tiếc: tôi đã không hề nói với em một câu nào về chuyến hành trình sắp tới. Biết sao được. Tôi không muốn vì tôi, mắt em phải nhuốm màu lo lắng.
Có một điều phi lý: trong bản đồ của hãng ESSO, đỉnh Lò Xo cao 1448m. Nhưng sau này, ở một bản đồ khác mới xuất bản mà tôi tìm được ở thị xã Tam Kỳ, cao độ này lại tăng vọt, những 1.600m.
Đúng lúc rơi tõm vào tuyệt vọng, lòng tôi bỗng sáng lên: Trước mặt là một bãi... phân trâu đang bốc hơi nghi ngút trong mưa. Sự sống!... Nước mắt tôi trào ra, lòng tôi dội lên một cảm giác hạnh phúc và thân thiết. ở đâu đó trong sách vở, có lẽ chẳng ai lại ngốc nghếch để lòng mình thổn thức vì một bãi phân trâu. Cũng phải thôi, các nhà văn đáng kính, họ có thừa trí tưởng tượng để viết,  cần gì phải trèo lên đỉnh núi nên làm sao bắt họ cũng phải có cảm giác như tôi?
Và tôi đã đoán không lầm. Cách đỉnh Lò Xo chỉ hơn trăm thước có một bản người dân tộc Giẻ Triêng với hơn một chục nóc nhà heo hắt. Từ trong những túp lều thấp lè tè và tối nhờ nhờ, những người đàn ông đàn bà tóc bù xù, ngồi xổm gối chạm mang tai ngó tôi áo tơi sùm sụp lóc cóc lao xe qua bằng cái nhìn lạ lẫm, dừng lại hỏi gì họ cũng lắc đầu.
Tiếp tục cuộc hành trình, tôi cứ lầm lũi cho xe xuyên rừng, leo dốc. Trên đầu tôi, đường dây 500 KV sừng sững vắt qua điệp trùng rừng núi. ở bản người Giẻ Triêng duy nhất ấy, không ai biết đường dây kia là gì cả. Người già không biết, người lớn cũng không. Chỉ có trí tưởng tượng của mấy đứa con nít lòi rốn là tỏ ra có hiểu biết! Chúng gọi đó là những... sợi dây buộc trời!
Khi tôi đổ dốc đèo Lò Xo thì buổi chiều sắp qua hết. Trời ngừng mưa và nắng bỗng ửng lên đợt cuối cùng. Những cánh rừng sũng nước thoắt trở nên vàng rộm, ngập tràn tiếng vượn hú trượt dài theo những tia nắng xiên khoai đang rưng rưng chực tắt. Cầu Đắk Chè hiện ra, đã vỡ mất hơn một nửa. Mặt cầu không hiểu sao lại nhuộm rực một màu vàng non như hoa cải. Khi bánh xe tôi lao qua, thảm hoa cải vàng đột ngột tung lên. Sau cú giật mình, tôi ngừng xe ngây người, lần đầu tiên được chiêm ngưỡng một vũ điệu rộn ràng với hàng vạn cánh bướm đang tung bay giữa lòng khe cạn.
Để vượt qua những chân dốc kinh hồn và khúc khuỷu, không còn cách nào hơn, tôi đành cho xe bò toàn số 1 và đạp phanh liên tục. Kết quả: kim đồng hồ xăng  tụt rất nhanh, chắc chắn không đủ xăng để đi nốt đoạn đường còn lại. Để tiết kiệm xăng, tôi nảy ra sáng kiến: chỉ nổ máy khi leo dốc, còn lúc xuống sẽ tắt máy, và đạp phanh cho xe tự trôi. Trả giá ngay tức khắc: cả người lẫn xe lộn nhào ngay trong cú trượt dốc đầu tiên. Rừng núi Trường Sơn không dung những trò diễu cợt. Tôi nằm lăn giữa dốc, tự nhủ lòng: cùng lắm đành chấp nhận sẽ ngủ qua đêm giữa rừng. Lại lồm cồm bò dậy, lại đi. Khi trời tối hẳn thì giọt xăng cuối cùng bị đốt hết, tôi đành dắt bộ. Rừng tối như hũ nút. Hàng chục cú vấp vào đá khiến những ngón chân tôi tê dại, đau buốt óc. Vứt xe vào ta-luy dương, khóa cẩn thận, tôi quyết định đi bộ để tìm xăng. Nhưng, vừa vượt qua khúc cua, một thung lũng lưa thưa ánh điện đã hiện ra cách chỗ tôi đứng chỉ chừng 5, 6 km. Đoán chắc đó là thị trấn Khâm Đức, tôi bèn quay lại dắt xe đi tiếp. Sau đúng một giờ đồng hồ, cả người lẫn xe mới vượt thêm được đúng 1 km. Dưới chân cầu Đắc Xà Ê, những người dân đầu tiên tôi gặp ở vùng vàng tò mò nhìn gã khách lạ dắt xe vào điểm bán xăng như nhìn một kẻ đến từ hành tinh lạ. Còn tôi, quá mệt mỏi, cả người đau nhừ, đành phớt lờ tất cả, tiếp tục lên xe lết tới thủ phủ vùng vàng, cách đó chừng 4 km.
Tôi đến Khâm Đức lúc gần tám giờ đêm. Tính ra tôi đã vượt qua đoạn đường từ Đak Glei đến Khâm Đức dài 65km mất những hơn 5 giờ hồng hồ.
“Đúng là tốc độ tên lửa”, nhận xét của Thiếu tá Đào Quang - Phó Công an huyện về chuyến hành trình khiến tôi tin chắc ở Phước Sơn, tốc độ tên lửa chậm hơn nhiều so với các nơi khác, chỉ khoảng độ 13km/h!
3. Đường đến thiên đàng
Thị trấn Khâm Đức chỉ có 7.000 dân nhưng lại có tới hơn 100 hàng quán đủ loại, chủ yếu phục vụ các thượng đế vừa mò ra từ bãi vàng. Với một ít hiểu biết sơ khai do công an huyện cung cấp, tôi nhét vào túi một cục tiền và bắt đầu lân la hàng quán bắt chuyện với một số chủ bãi mới mò ra, chìa hẳn thẻ nhà báo cho họ xem và bắt đầu chơi bài “xì tố”. Tại quán nhậu kiêm nhà trọ của bác sĩ X., chủ bãi Nguyễn Văn Ngọc là người đầu tiên tôi tiếp xúc.
- Nghe nói bãi anh xài thuốc nổ dữ lắm, từng sập hầm chết hơn hai mươi người một lúc, đúng không?
Câu hỏi của tôi khiến Ngọc - đang chờ ngày ra tòa - giật nảy người:
- Ăn nhằm gì anh ơi, bãi tụi Vinh “tóc dài”, Dũng Lai, Quốc con... còn chơi bạo hơn nhiều...
Cứ thế, Ngọc kể cho tôi vanh vách những thông tin về các vụ phạm pháp của các hầm, bãi khác. Với những thông tin này, tôi lại tiếp tục chặn những chủ bãi kia và... tố tiếp. Dù không ưa gì tôi, các ông chủ của vùng vàng cũng đành nuốt giận bởi không thể tấn công, trừng phạt nhằm bịt miệng tôi khi họ đang ở ngoài thị trấn. Vậy là họ lại cố thanh minh bằng cách lôi tội kẻ khác ra kể cho tôi nghe kèm theo lời nhắn:
- Không tin bữa nào anh dzô trỏng coi, tụi em chỉ lo làm ăn, hiền khô à.
Dĩ nhiên là tôi chấp nhận lời mời của họ một cách vui vẻ. Đã ngồi chung bàn ở thị trấn thì vào bãi tôi là khách, họ không thể uy hiếp, đe dọa gì tôi được.
Sau hai ngày, đã thu thập được hơn chục lời mời vào bãi làm khách, tôi quyết định bắt đầu cuộc chơi. Mọi con đường vào các bãi đào đều giống nhau: phải đi xe ôm, theo đường mòn vào đến điểm tập kết, sau đó đi bộ cắt núi vào bãi, gần nhất chừng một, hai giờ, xa nhất khoảng ba ngày đường, nếu thạo nghề leo núi.
Đội quân xe ôm ở bãi vàng rất đông đảo - lên đến hàng trăm người - nhưng chỉ độc một loại xe Minsk của Liên Xô cũ. Tất cả chỉ để phục vụ khách ra vào bãi. Thị trấn bé như lỗ mũi, đi xe ôm chỉ tổ mất công leo lên leo xuống.
Gọi là đường cho oai, kỳ thực tất cả chỉ là những lối mòn được bạt sơ sài ôm quanh vách núi. “Thiết kế” và “xây dựng” những con đường này chính là đồng bào dân tộc Mơ Nông ở địa phương, mục đích để có cớ thu tiền của những kẻ đào vàng hơn là để phục vụ việc đi lại. Do vậy, những con đường thường dốc đứng một cách vô lý, rất dễ khiến cả người lẫn xe bật ngửa ra phía sau. Đã vậy, mặt đường lại hoặc trơn trợt, hoặc nhão nhoét. Nhiều đoạn, xe và người ngập trong “món cốc-tai của Trời”, bùn lút đến đầu gối. Để vượt qua những đoạn đường như thế, tất cả xe ôm đều phải gia cố bánh sau. Hai sợi dây xích nối bằng sên cam xe máy dài đúng bằng chu vi lốp xe, được nối ngang bằng những đoạn sên cam khác tạo thành một cái “rọ” xích ôm lấy bánh xe sau, hai đầu nối với nhau bằng hai đoạn ốc tăm xe đạp. Chỉ với những chiếc rọ này, bánh xe mới có thể bám vào mặt đường để leo dốc, vượt lầy mà không rơi xuống vực, không bị trượt. ở những đoạn lầy lội, xe sau cứ ngắm thẳng vết bánh xe trước bò qua. Nhiều đoạn, vết bánh xe bị rọ xích cày thành rãnh, sâu tới 30cm. Người ngồi sau phải co hai chân lên mới không bị gạt văng mắt cá. Vào mùa mưa, xe ôm bánh xích cũng chỉ chạy được từng đoạn. Qua những đoạn quá lầy hoặc quá dốc, khách được hét xuống lội bùn hoặc đẩy xe mà không hề được trừ bớt tiền. Đã vậy, các “thượng đế” cũng chẳng được đối xử nhẹ nhàng gì cho lắm. Chưa leo lên xe, tôi đã bị Quảng, 31 tuổi, gã xe ôm mà tôi thuê đe dọa:
- Ngồi sát vào, ôm cho chặt. Coi chừng bung rọ lốp, xích văng đứt chân ráng chịu!
Tiếp đó là:
- Ngồi yên, nói xuống phải xuống, nói lên là lên, nếu không, té ráng chịu...!
Để trả cho hàng loạt sự “ráng chịu” ấy gã lái xe bảo tôi gọn lỏn:
- Năm trăm ngàn.
Tôi trợn mắt:
- Anh có điên không đấy, chỉ có ba mươi tư cây số?
Lần này thì gã xe ôm tỏ ra lễ độ:
- Dạ, không điên. Xe ôm bãi vàng luôn nói đúng giá!
Rồi tỏ ra không cảm, gã tặng cho tôi một lời giải thích miễn phí:
- Ở đây người ta không tính cây số, chỉ tính ngày đường.
Sau đoạn đường này, tôi tin chắc rằng không ở đâu giá xe ôm đắt như ở Phước Sơn, nhưng các bác tài xứ này cũng xứng đáng là các cua rơ giỏi nhất. Nếu được gọi vào đội tuyển quốc gia môn đua xe đạp đội hình, tôi cam đoan mùa SEAGAME tới, Việt Nam cứ gọi là đem rổ mà đựng huy chương vàng!
Hãi nhất là đoạn men dọc suối Đắk Mỹ, xe và người cứ len lỏi quanh những đoạn đường hẹp như chiếc thắt lưng, đầy những vòng cua cùi chỏ, những con dốc như lao bổ xuống địa ngục. Một bên đường liên tục thò ra những gốc cây nhọn hoắt, chỉ sơ ý một chút là có thể bị cắm ngay vào người. Tránh cũng không được, vì chỉ chệch chừng vài gang tay là lăn ngay xuống vực. Mặt đường nhão nhoét, thỉnh thoảng lại có một đoạn được chống lầy bằng những đoạn cây dài chừng 1,2 m lót ngang. Xe đi nép một bên, sức nặng khiến đầu kia của khúc cây chốc ngóc lên, có lúc văng hẳn lên trời. Vậy nhưng, Quảng vẫn đảo tay lia lịa như múa mà không hề run. Đã vậy, gã còn luôn miệng nói đủ thứ chuyện trên trời dưới biển. Nhưng tôi không trợn mắt nữa. Cho tôi một nửa con số 500.000 đồng kia mỗi ngày chắc là tôi còn huyên thuyên dữ tợn hơn nhiều. Cứ làm xiếc và huyên thuyên như thế, Quảng lần lượt đưa tôi vượt hết dốc cổng trời Phước Đức, lầy Phước Chánh, ngầm Phước Kim và cầu treo Đắk Mỹ được ghép bằng cả trăm chiếc thùng phuy.
Lúc qua dốc Bảy Cua ở xã Phước Chánh, đột nhiên Quảng đánh tay lái cho bánh trước cạ vào vách núi. Gã giải thích:
- Côn không nhả, phải cắt ambrayage thôi.
Nói là làm, gã giở đồ nghề ra... Chưa hết, lúc đang từ từ đổ dốc, gã bỗng cho xe đổ đèo nhanh như tên bắn không một lần nhấp phanh. Ngồi sau xe, tôi sợ vã mồ hôi, không dám nhìn chiếc xe vừa lao vừa đảo như làm xiếc trên miệng vực. Xuống hết dốc, gã cho xe lao hẳn xuống lòng suối toàn đá trâu đằm phủ rêu trơn trợt, nước ngập đến thắt lưng. Đồ đạc, máy ảnh, pin, đèn mà tôi mang theo, tất thảy đều bị ngâm vào nước. Xe khựng lại đổ nghiêng và tắt máy. Tôi vọt ngay lên bờ, vứt túi đồ xuống mặt đất, vớ ngay một cục đá và lao đến trước mặt Quảng quát:
- Đồ điên! Định giết bố mày đấy à? Sao không đạp phanh chạy từ từ?
Bác tài tỉnh bơ giải thích:
- Đứt phanh! Anh bảo làm sao tôi chạy chậm được?
Ngán ngẩm và lạnh toát sống lưng, tôi quăng cục đá, thả bịch mông xuống phiến đá bên bờ suối. Quảng lúi húi giở đồ nghề. Trong lúc Quảng sửa xe, tôi tranh thủ đảo mắt quan sát khắp vùng. Bên kia suối, có một tay “mục đồng” với ngọn roi trong tay đang lùa cả một đàn gần 30 con heo, mỗi con cỡ một tạ lội qua suối. Chỉ một mình anh ta, nhưng cả bầy heo vẫn ngoan ngoãn vượt suối rồi chen nhau chạy lon ton dọc con đường mòn. Núi rừng mênh mông nhưng đàn heo vẫn tỏ ra hết sức kỷ luật, không còn nào lủi vào bụi hay rẽ sang đường khác. Quảng bù lỗ cú “đứt phanh” khi nãy bằng lời giải thích:
- Trước khi lùa heo đi, mấy chả lấy lửa đốt hết mi mắt chúng. Tạt ngang ngửa, đụng phải lá cây là xót nên bầy heo cứ thế đi thẳng, không chạy lung tung đâu cả. Nếu không thì còn mệt.
Ra là thế. Đúng là đi một ngày đàng học một sàng khôn. Nhưng tôi biết, đến lượt mình tôi sẽ không làm được thế. Kinh nghiệm sống của con người phần nhiều đồng nghĩa với sự nhẫn tâm, tôi theo không nổi. Có điều, vì được Quảng giải thích, tôi chợt đâm ra có thiện cảm với tên cà chớn.
Khi bầy heo vừa đi khuất, bác tài lại cho xe nổ máy. Vượt thêm chừng hai ngọn đồi, gã lại đột ngột cho xe ngoẹo đầu, dừng lại ngay lưng chừng dốc. Vẫn tỉnh rụi, Quảng thông báo:
- Nghe “cạch” một tiếng là tôi đã nghi. Hóa ra cần đạp số... rớt mất tiêu rồi.
Sau 15 phút quay lại tìm vẫn không thấy, gã lại trả lời ánh mắt dò hỏi đầy bực bội của tôi bằng cách ngoắt một xe ôm khác. Tôi tưởng sắp bị giở trò sang xe, té ra không phải. Dân lái xe ôm xứ này uy tín hơn nhiều. Gã hỏi mượn “đồng nghiệp” một chiếc kìm con, kẹp chết vào cốt thay cho cần số và bó chặt lại bằng một đoạn dây thép nhỏ. Cứ thế, lại leo đèo, đổ dốc, quá trưa, chiếc Minsk không côn, không phanh với chiếc cần số có một không hai ấy đã đưa tôi đến trước Trụ sở ủy ban xã Phước Thành.
Lấy tiền trả, tôi có cảm giác rất yên tâm vì cái giá “trên trời” kia là rất “phải chăng”, rất tương xứng với “con đường đau khổ” mà mình vừa trải. Chỉ hơi lo: Liên Xô tan vỡ, xe Minsk không còn được nhập, dân Phước Sơn sẽ đi xe gì để vào bãi vàng? Rất có thể họ xe mua xe... tăng. Dân bãi vàng thiếu gì tiền. Những nòng pháo các loại thì họ không cần thật, nhưng với con đường đầy dốc, đầy bùn này, vòng bánh xích xe tăng chắc là rất hữu dụng!
Nhưng gian nan của đường vào bãi, đó chỉ mới là khúc dạo đầu. Để vào được các bãi Một Nước, Một Khô, Muối, Thôn Hai, Vinh Tóc dài, Đồi Mafia... dân đào vàng còn phải đi bộ qua vô số sườn núi lởm chởm và cao ngất khác. Toàn những con dốc “kinh người”. Mỗi lúc bò lên - có khi bằng cả bốn tay chân - đầu người phía dưới cứ ủi thẳng vào... mông người phía trên. Một lần ai đó bước chệch chân, một tảng đá lở ra, lăn lông lốc theo đường mòn, đe dọa đập thẳng vào đầu, vào mặt người đi sau. Muốn tránh cũng không có chỗ. Người đi sau chỉ có duy nhất một chỗ để đặt chân, đó chính là dấu chân của người đi trước, đã ăn lõm vào vách đất, kẽ đá thành những hố sâu hoắm. Leo chừng 5 phút đã bở hơi tai, nhưng con dốc ngắn nhất, muốn vượt qua cũng mất không dưới 30 phút. Xuống dốc càng khổ hơn vì không biết bám vào đâu. Trong giày sũng nước, ngón chân cứ tõe ra, dọ dẫm lựa thế đặt từng mũi xuống. Chỉ sau một ngày leo núi, xuống dốc, ngón chân Giao Chỉ đã hành tôi khốn khổ. Vì liên tục bị ấn vào mũi giày khi xuống dốc trơn như thoa mỡ, mười đầu ngón chân tôi bị co quắp và tê dại, hai ngón chân cái tụ máu bầm đen, đau buốt óc. Sau chuyến đi này, tôi bị thối mất hai móng chân cái, các kẽ ngón còn lại đều nứt toác và tróc lở, phải bôi thuốc sáu tháng trời mới ra móng mới và lành hẳn.
Nguy hiểm nhất là đường vào bãi thôn 4, xã Phước Kim, đoạn sau Dốc Gió. Từ trên đỉnh núi đi tắt xuống bãi, chúng tôi phải áp ngực vào vách núi dựng đứng và đi nghiêng. Bàn chân đặt từng bước vào các gờ đá, tay giang rộng để giữ thăng bằng và bám chặt vào các mỏm đá nhô ra từ vách hoặc các túm rễ cây dài 4 - 5 mét rủ từ trên cao xuống lòng thòng. Phải mất hơn 20 phút mới vượt qua nổi một vách núi chỉ dài chừng 150m, chỉ cần sẩy tay là rớt xuống tan xương. Đi hết đoạn đường, nhìn lại tôi bỗng rùng mình. ở trên vách đá cao chừng cả trăm mét, những người “cõng chuyến” với bao hàng đè trĩu trên lưng vẫn đang đu người bám vách lần xuống. Tôi chỉ là một kẻ phiêu lưu tìm cảm giác. Còn họ, đó là cuộc vật lộn mưu sinh, là hành trình tìm đến miền đất hứa đầy những bụi vàng. Hóa ra, đường đến thiên đàng gập ghềnh, cheo leo và bất trắc muôn vạn lần hơn so với trí tưởng tượng. Vậy nhưng, con đường đó vẫn chật cứng những người... Thậm chí, vì vàng người ta còn cõng cả những khối thiết bị máy móc nặng những 70 - 80kg và theo đúng những con đường bất trắc ấy để đặt chúng vào giữa bãi vàng.
Kể cũng đúng thôi, để đến được thiên đàng, làm gì có con đường nào rộng rãi và bằng phẳng!
Vì đường sá cơ cực và nguy hiểm cho nên giá cả ở các bãi đắt khủng khiếp,- vậy nhưng vẫn có người mua. Trong bãi hầu như không thiếu thứ gì, từ bia rượu, nước ngọt cho đến lọ dầu gội, mỹ phẩm. Dân bãi vàng tiêu tiền như rác, xài trước trả sau. Dù vậy, dân buôn bán, người cõng chuyển vào bãi vẫn chẳng ai trở nên giàu có. Dự, một người cõng chuyến ở bãi Muối đã tính cho tôi nghe. Cõng được 40 kg từ thị trấn Khâm Đức vào bãi mất những ba ngày đường. Vừa đi vừa về, ăn uống tiết kiệm lắm cũng mất 150.000 đồng. Trong khi đó nhiều lắm cũng chỉ lãi được 400.000 đồng, lại phải tốn hơn 100.000 đồng nữa để vượt qua được các “trạm gác nhân dân” dựng lên nhan nhản dọc các thôn, bản trên đường. Tính ra, mỗi ngày chỉ lãi được 50.000 đồng. Một cái giá quá bọt bèo so với giá cả vùng vàng để đánh đu giữa sự sống và cái chết. Mà chưa chắc đã thu được tiền: dân bãi vàng có người trúng quả, người thua lỗ, mua thiếu là chuyện bình thường. Đó là chưa kể gặp kẻ cướp - trong bãi vàng Phước Sơn, loại người này nhan nhản - tay chân lành lặn kể đã là may mắn lắm.
Ngay cả dân chạy xe ôm, không phải khi nào cũng thu được tiền! Một lần vào khoảng giữa năm 1998, anh lái xe tên H. được gọi chở hai “thợ mỏ” từ Phước Thành ra Khâm Đức. Dù được xốc nách, một người trong số họ cũng khó khăn lắm mới ngồi được lên xe. “Bệnh!”, người ngồi sau thông báo gọn lỏn và ôm chặt lấy bác tài, trong khi suốt đoạn đường đầy đèo dốc, người ngồi giữa cứ liên tục gật, lắc, vẹo qua vẹo lại bất chấp như vậy sẽ rất nguy hiểm, và không hề nói nửa câu. Đến thị trấn, H. hỏi tiền xe. Chỉ con bệnh đã được đặt ngồi bệt giữa lòng đường, người kia bảo “nó trả”. H. tiến lại, nắm tay “chủ chi” lắc lắc. Bàn tay lạnh ngắt. Mũ trên đầu anh ta rớt xuống, để lộ khuôn mặt trắng bợt, mắt trợn trừng. Rú lên một tiếng, H. lao lên xe vọt thẳng không dám ngoái đầu, quên luôn cả đòi tiền. Hóa ra, người ngồi giữa chỉ là một... xác chết, ít ra cũng hồn lìa khỏi xác đã hai ngày.
Giá cả leo thang đã đẩy cuộc sống của đồng bào dân tộc Mơ Nông các xã có bãi vàng vào chỗ khốn cùng. Nghề “gia truyền” phát núi trỉa hạt không đủ thu nhập để duy trì cuộc sống, họ tự đứng ra lập barie ở mỗi thôn, chia nhau canh gác thu tiền khách qua lại. Đi bộ cõng chuyến: 5 ngàn/người; xe ôm có khách: 10 ngàn/chuyến. Mỗi tháng cứ bốn, năm nóc nhà được cắt gác một ngày, coi như lấy đó làm nguồn thu nhập chính để mưu sinh. Để dễ đòi tiền, các bô và mâm (bố, mẹ) cứ ngồi trạm gác với chai rượu và bộ mặt say khướt. Không móc tiền, barie không được nhấc lên. Xe ôm cứ liều vượt qua, các bô, mâm sẵn sàng lăn ngay ra đất, lấy thân chặn trước bánh xe, kêu khóc ầm ĩ. Chỉ khi nào lấy được tiền, họ mới chịu đứng dậy.
Ngoài mãi lộ, người Mơ Nông còn tìm thu nhập bằng cách bán đất, bán nguồn nước. Các bãi vàng vừa lập, khi bắt đầu đến vỉa, lập tức sẽ có một bố người Mơ Nông vác chà gạc tìm đến bảo:
- Đất của ông nội tao để lại!
Vậy là chủ hầm đành xì tiền ra: ba triệu, năm triệu hoặc bao nhiêu tùy thỏa thuận. Kỷ lục về số tiền đất trả cho các “ông nội”, thuộc về Bùi Vinh (bãi Vinh tóc dài), khai vỉa đầu năm 1997. Để có thể khai thác, anh ta đã phải trả cho các “ông nội” một lúc 200 triệu đồng.
Xay đá, đãi vàng, các chủ hầm phải tìm các nguồn nước chảy ra từ các sườn núi có độ cao tương đối, bắt ống cao su dẫn về bãi của mình. Thường những đường ống này dài từ một đến ba km. ông bắt xong, đột nhiên ngưng chảy. Một thanh niên người dân tộc nào đó đã chặt nó làm hai khúc, lý do vẫn là “suối của ông nội tao để lại”. Lại phải tự giác chi ra từ hai đến năm triệu cho mỗi ống dẫn nước. Nguồn thu này, có thể nói là khổng lồ, vì chỉ riêng bãi thôn 2, xã Phước Thành, số máy đang hoạt động cũng đã khoảng gần một trăm, mỗi máy nhất thiết phải có một ống nước. Của thiên trả địa, không một chủ hầm nào nghĩ tới chuyện từ chối trả “lệ phí” khai thác đất và nước của các “ông nội tao” để lại cả.
Ngày tôi đến, đồng bào dân tộc ở các xã Phước Đức, Phước Chánh, Phước Hiệp, Phước Kim, Phước Thành đã gần như bỏ hẳn nương rẫy, chỉ suốt ngày ngồi nhà tu rượu, chờ đến dịp thu tiền “chết” của dân vào bãi. Để hợp thức hóa việc thu tiền, thỉnh thoảng họ cũng hè nhau phát thêm một vài đoạn đường vào bãi, hoặc chặt cây lót một số đoạn đường lầy cho người xe ra vào. Thời gian còn lại, cả làng say khướt. Người già say, thanh niên say, cả trẻ con cũng say nốt... Bởi không say, họ không đủ dũng khí để hoạnh họe đòi tiền. Xem ra, cái lọc lõi con buôn đem lên từ miền xuôi đang được đáp lễ cẩn thận bằng chất hoang dã rừng rú của dân miền ngược. Vàng vẫn ẩn sâu lòng đất, nhưng văn hóa, phong tục tập quán và những gì tốt đẹp của con người thì đang bị tàn phá và tận diệt dữ dội. Tất cả đang bày ra trước mắt tại Phước Sơn. Đó là một hệ lụy tất yếu và đau lòng đi ngay sau sự xuất hiện và tồn tại của những bãi vàng.
4. Bóc vỏ trái đất
Không thể đóng khung số lượng hầm, bãi ở Phước Sơn trong một “trị tuyệt đối”, bởi lẽ việc bỏ bãi cũ, lập bãi mới liên tục diễn ra mỗi ngày. Toàn huyện có khoảng một trăm bãi vàng, trong đó bãi thôn 2 và bãi thôn 8, xã Phước Thành là lớn nhất, mỗi bãi có từ 100-150 hầm với khoảng từ một đến hai ngàn/người tham gia đào đãi và buôn bán.
Công nghệ đào, đãi vàng ở Phước Sơn đã được chính quy hóa đến cao độ. Đầu tiên là khâu “tăm vỉa”. Hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm, những gã đào vàng tìm đến các mạch đá ngầm trồi lên mặt đất, sau đó bắt đầu đục đá đem xay thử. Nếu có vàng, việc dựng lán, khui hầm sẽ diễn ra cấp kỳ. Gặp được các vỉa đá “tầng ong” - xốp và lỗ chỗ như tổ ong dân “xúc, lắc” coi như trúng mánh. Loại này xốp, nhẹ, dễ đào, dễ xay, hàm lượng quặng vàng rất cao, dễ khai thác. Ngược lại, gặp phải vỉa đá Bê-rít (?) coi như công toi, vì vừa cứng, vừa ăn quá sâu, rất khó đào.
Để lấy được quặng, người ta phải đào hầm từ trên đỉnh hoặc lưng chừng núi ăn thông xuống. Hầm cạn nhất cũng phải sâu tới 25 m, còn sâu thì 50, 60 hay 70m vô chừng. Vỉa đá ăn đến đâu, địa đạo được đào đến đấy, có những hầm hệ thống địa đạo chồng lên nhau thành bốn tầng, mỗi tầng thông nhau bởi một miệng giếng sâu chừng 10m.
Để khui hầm, toàn bộ cây cỏ trên miệng, trên lối đi dẫn vào đều bị bóc sạch, đất đá bị lật tung lên, biến cả quả đồi rậm rạp thành vùng đất chết! Hàng trăm địa đạo chằng chịt ăn vào khiến cả ngọn núi bị rỗng chân, có thể đổ ụp xuống bất cứ lúc nào. Đêm 20.7.1997, sau một cơn mưa lớn, bãi thôn 8 xã Phước Thành do Nguyễn Văn Ngọc làm chủ đã ụp xuống bất ngờ, chôn sống một lúc 21 người. Tỉnh, huyện, đã huy động nhân lực đào xới cật lực nhưng cũng phải mất bảy ngày, xác các nạn nhân mới được đưa lên. Ngày 14.5.1999, tại bãi Vàng Nhẹ (xã Phước Đức), một khối đá khoảng 50 m2 bị hổng chân đã ầm ầm lao từ trên đỉnh đồi xuống, đè chết một người và làm bị thương bốn người khác. Thịnh, một thợ đánh mìn quê ở Giao Thủy (Nam Định) thoát chết nhờ kịp lao vào hầm, nhưng cánh tay phải bị khối đá “lướt” qua bóc toàn bộ da thịt, lòi xương trắng hếu...
Tai nạn như cơm bữa, nhưng vì vàng, những người thợ vẫn liều mình đánh đu với số phận. Để giải quyết những vỉa đá cứng, phương pháp thông dụng nhất là đánh mìn. Gọi là nhanh, nhưng giỏi lắm một ngày đánh mìn, thợ vàng cũng chỉ đào sâu xuống được thêm một, hai mét đá. Để tiết kiệm, họ thường không ngần ngại cắt ngắn... dây cháy chậm đến mức tối thiểu. Bị thách thức, thần chết đã nổi giận thường xuyên. Đêm 26.5.1999, sau một tiếng nổ “ục” trong lòng núi, bốn thợ mỏ người Phú Thọ ở bãi thôn 2, Phước Thành đã phải đi bệnh viện. Không bị thương, họ chỉ bị ngạt vì khói mìn. Trên đường đi, một người đã chết.
Với các ngọn đồi đã bị đào bới, không một thứ cây cỏ nào có thể tái sinh, bởi tất cả bề mặt đồi núi đều bị hàng vạn m2 đá vụn hất lên phủ kín. Sau khi khai thác, không một ai nghĩ đến việc lấp lại hầm hố. Thợ đào vàng không lấp vì việc của họ là tìm vàng chứ không phải là cải tạo môi sinh; dân không lấp vì không có trách nhiệm; nhà nước cũng không lấp - vì không có tiền. Vậy là những ngọn núi trở thành một cái “bẫy người” khổng lồ với hàng trăm miệng hố (nhiều miệng đã bị cỏ dại phủ kín) chỉ cần sẩy chân là sẽ rơi đứng xuống hàng chục mét.
Quặng khai thác xong sẽ được cho vào máy nghiền nát, sau đó, được đem xay nhỏ thành cám và cho theo nước chảy vào máng đãi. Những lá nhôm tráng thủy ngân sẽ giữ vụn vàng lại, còn nước và xái cứ vậy trôi đi.
Khi máng thủy đã “khê”, lớp vàng lấm tấm bám trên thủy ngân đã dày, người ta sẽ dùng một lá cao su dày, một mảnh đế dép “tông” chẳng hạn, gom chúng lại. Dùng “con khò” đốt lên, thủy ngân sẽ bốc hơi, để lại vàng nguyên chất (vàng 9999). Vì công việc quá tốn kém, trung bình cứ xuống sâu một mét tốn một triệu đồng cho nên nếu mỗi ngày một hầm đào được một lượng vàng, coi như hầm đó mới chỉ hòa vốn. Nhưng, một trăm hầm thì may lắm chỉ dăm ba hầm đạt được mức ấy, số còn lại thường chỉ thu được dăm ba chỉ - đủ lo gạo muối hằng ngày. Dù vậy, dân “xúc lắc” vẫn không từ bỏ “giấc mộng vàng” của họ. Thần tượng cho những giấc mơ kia có nơi bấu víu là Bùi Vinh, bãi Vinh Tóc Dài, thôn 5, xã Phước Thành. Năm 1997, Vinh trúng lớn. Mỗi ngày, hầm của anh ta lôi lên mặt đất được trên dưới 1 kg vàng ngân (khoảng 700 gam vàng ròng)!
Nhưng, lượng vàng lớn nhất vẫn còn nằm trong xái. Vì vậy, sau máng thủy sẽ là công đoạn đánh bể thoòng. Xái được gom lại, dồn vào một bể lớn quây bằng nilông, bơm nước vào và khoắng lên. Cyanur, nitơ lỏng, và một số phụ gia khác được thả vào sẽ khiến cả vàng lẫn xái tan thành nước. Nước trong tiếp tục được chắt sang bể nhỏ, thạp, sau đó thả các thanh nhôm, thiếc vào cho vàng nguyên chất kết tủa. Sau khi lọc lấy vàng, lượng nước chứa đầy độc chất này đều tự do tuôn xuống các dòng suối, đổ ra sông Vu Gia, sau đó hợp lưu với sông Thu Bồn tuôn xuống đồng bằng. Xem ra, hiện tượng hàng loạt trâu bò ở Quế Sơn, một huyện nằm ngay bên thượng nguồn sông Thu Bồn bỗng dưng lăn ra chết hàng loạt đã tìm ra được nguyên nhân. Đó mới chỉ là trâu bò, vậy còn người? Không ai trả lời, việc “đánh hóa” vẫn cứ diễn ra mỗi ngày. Điều đáng nói là, toàn bộ việc khử quặng này đều được thực hiện bởi những tay thợ vốn có văn hóa vừa đủ... dốt, thậm chí có người không biết chữ. Công thức hóa học của các loại hóa chất, họ mù tịt. Chỉ cần biết gọi tắt “xi” là Cyanur, vậy là đủ. Liều mạng hơn, để đề phòng “bể thoòng” bị cướp, thợ “đánh hóa” còn làm lán bắt ngang trên mặt bể để ngủ canh, liên tục 72 giờ cho mỗi mẻ lọc, sàn ngủ chỉ cách mặt bể đúng một mét. Hỏi, họ đáp tỉnh queo:
- Ối dào, vẽ! Cho muối ăn vào rửa tay chân là nó... trung hòa hết.
Trong khi chỉ 14 mg Cyanur cũng đủ giết chết một mạng người thì ở Phước Sơn, loại hóa chất cực độc này được mua bán công khai mỗi lúc hàng chục kg. Ngày 25.5.1998, tại bãi thôn 2, xã Phước Thành, tôi đã chứng kiến cảnh bắt giữ tên Võ Văn Sơn, quê ở Quế Sơn đang cõng vào bãi một bao 50 kg Cyanur. Cõng bằng lưng trần, dưới trời mưa như trút. Anh ta khai:
- Không biết của ai, không biết là chất độc, người ta thuê thì cõng.
Có thể là Sơn không biết thật, bởi ở bãi vàng, chỉ có tiền công mới là điều đáng quan tâm. Tôi chợt rùng mình: rừng núi cheo leo, đường sá cách trở, nếu gã “thợ cõng” sơ ý đánh rơi khối chất độc kia xuống đầu nguồn nước, ắt hẳn 18.000 dân của toàn huyện Phước Sơn sẽ không một ai sống sót. Nhưng, đó cũng chưa phải là vụ ghê gớm nhất. Trong đợt truy quét cuối năm 1997 loại hóa chất cực độc này, công an huyện thu được những hơn... một tấn!
5. Trật tự ở chốn vô trật tự
Quyền lực lớn nhất ở các bãi vàng, tất nhiên là các chủ bãi, chủ hầm. Có lúc, chủ bãi và chủ hầm là một, nhưng cũng có lúc nhiều chủ hầm được đặt dưới tay một chủ bãi. Nổi tiếng nhất ở Phước Sơn, có lẽ là chủ bãi thôn 8, xã Phước Thành Nguyễn Văn Ngọc. Ngọc từng là một đại úy, Đội trưởng Đội hình sự Công an huyện Phước Sơn. Trước khi có chỉ thị 20 của ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam về việc cấm đào, đãi vàng, Ngọc đã xin ra khỏi ngành công an và bỏ ra 400 triệu một lúc để mua 350 mét bề rộng của một quả núi ở thôn 8 để đào vàng. Tất cả dân làm vàng đều cho rằng Ngọc phát rồ. Thôn 8 quá heo hút, núi quá dốc, đi bộ từ ủy ban nhân dân xã đến đó phải mất những ba ngày đường, chi phí đào đãi chắc sẽ tăng chóng mặt trong khi chưa chắc đã có vàng.
Chỉ sau đó ít lâu, những “cao thủ” nghề vàng đã phải lác mắt, bái phục Nguyễn Văn Ngọc là kẻ nhìn xa trông rộng. Vùng đất thuộc quyền của anh ta trúng đậm, thiên hạ ùn ùn kéo tới xin sang nhượng. Ngọc cắt ngang 280 mét đất bán lại cho các chủ hầm khác, thu về một lúc đúng... một tỉ đồng. 70 mét còn lại, Ngọc tiếp tục thuê người tự khai thác, có ngày thu được cả ký vàng ngân (vàng trộn lẫn thủy ngân, lượng vàng nguyên chất chiếm khoảng 70%). Vậy là cái tên của anh ta đã được dùng để đặt luôn làm tên bãi của thôn 8, Phước Thành.
Đang lên như diều gặp gió nên khi đã có lệnh cấm, Ngọc vẫn tiếp tục khai thác. Và vụ sập hầm giết chết 21 người một lúc đã xảy ra, không những đe dọa phá sản, mà còn khiến Nguyễn Văn Ngọc đứng trước nguy cơ phải đối diện với luật pháp.
Khác với Ngọc, Dũng lai, Quốc con, Lập Đại liên, các chủ hầm, chủ đất ở bãi thôn 4, xã Phước Kim đều xuất thân là dân anh chị có máu mặt ở Đà Nẵng. Đào vàng với họ chỉ là một cuộc chơi. “Máu” nhất là Dũng lai. Mỗi lần khai vỉa được dăm ba chục triệu, anh ta lại xách tiền, vàng ra Đà Nẵng, bao nguyên một tầng lầu của nhà hàng khách sạn Phương Đông cùng đàn em ăn nhậu phá phách thả dàn, hết tiền mới chịu quay vào bãi. Bãi thôn 4 được Dũng, Lập, Quốc biến thành một vương quốc riêng bất khả xâm phạm với đội bảo vệ hơn mười người, trang bị đồng phục quần áo rằn ri và đầy đủ “đồ chơi”. Bất cứ ai lên bãi vào ban ngày, họ đều bị đội bảo vệ chặn lại xét hỏi. Đầy đủ giấy tờ, lý do thì cho đi, nếu không thì... biến. Ban đêm, bãi thôn 4 “đóng cửa”, tuyệt đối cấm qua lại. Mỗi lúc cần hàng hóa hay vật dụng gì, Dũng, Lập, Quốc chỉ cần xé vỏ bao thuốc viết mấy chữ cho người mang đi, ngay lập tức yêu cầu của họ sẽ được các chủ máy, chủ quán trong khu vực đáp ứng ngay, không một lần từ chối. Được cái cả ba đều là “dân chơi” khá đúng nghĩa, không bao giờ ăn quịt hay o ép ai nên các chủ bãi, chủ lán khác đều vừa sợ vừa nể.
Đầu tháng 5.1999, một đoàn chuyên gia Hàn Quốc đã vượt núi vào Phước Thành khảo sát trữ lượng vàng để lập luận chứng liên doanh, có ghé vào khu vực bãi thôn 4. Dẫn đoàn đi, ngoài phiên dịch người Việt còn có thêm một anh công an huyện đi theo bảo vệ. Đến bữa ăn trưa, đám chuyên gia Hàn Quốc tỏ ra kẻ cả, trịch thượng, đối xử với anh công an trẻ không mấy tế nhị, còn tỏ ra phân biệt. Dù rất giận, nhưng vì nhiệm vụ, anh công an cố nhịn. Biết chuyện, “tự ái dân tộc” nổi lên, Dũng, Lập, Quốc quyết định “chơi” cho các tỉ phú Hàn Quốc “biết lễ độ”. Theo kế hoạch, đoàn Hàn Quốc sẽ được Dũng, Lập, Quốc mời vào lán và đãi một bữa cơm với cá khô, chủ khách cùng ăn. Sau đó, ba thùng “333” sẽ được bưng ra, ba tay giang hồ sẽ lần lượt bật nắp bia và... rửa chân cho anh công an để cho những gã tỉ phú hợm mình chiêm ngưỡng... Nhưng, Dũng lai vì quá nóng nảy nên đã làm hỏng kế hoạch. Đám chuyên gia vừa tự ý chui vào hầm lôi ra một ít quặng mẫu, Dũng đã “nổi giận”, hét đàn em bắt trói họ vì tội “xâm nhập lãnh địa không xin phép”. Hãi quá, đám chuyên gia phải trả ngay toàn bộ số quặng mẫu, xin lỗi rối rít và hô nhau... bò (vì xung quanh toàn núi, không thể chạy). Khi bị công an mời lên hỏi vụ này, Dũng “lai” chối biến việc có mã tấu và súng AK tham dự vào vụ uy hiếp, chỉ nhận là “đùa hơi quá trớn”.
Để “lấy le”, hầu hết các chủ bãi loại “play-boy” đều kiếm cho mình một cô bồ. Ở trong bãi, phụ nữ không phải là hiếm, gồm đủ mọi thành phần. Một số có nhan sắc, có vốn vào bãi mở quán bán đủ thứ trên trời dưới biển và buôn vàng. Nương nhờ bóng vía một chủ hầm chủ bãi có máu mặt, đó là cách tốt nhất để tránh bị cướp phá hoặc ăn quịt. Tất nhiên, đã có qua ắt phải có lại... Các cô chủ quán loại này được dân bãi gọi là xe biển số trắng, nghĩa là xe tư nhân, có chủ quyền. Nhìn xe biển trắng có thể đoán được ngay hiện trạng của người “giữ giấy chủ quyền”. Khi hầm hố “vào cầu”, xe được gắn đầy vàng lắc, nhẫn, xuyến, tiền tiêu như nước. Ngược lại, chủ bãi thua lỗ, phải bỏ hầm bỏ bãi, xe cũng bị “sang tên”, bị “gán nợ”. ở bãi Một Khô (Phước Thành), có một chủ bãi tên là Kỷ “niệm”, nổi danh vì từng “sang tên” và “xiết nợ” xe “biển trắng” không dưới chục lần. Kỷ khoe: riêng tiền “đổ xăng”, mỗi tháng cũng tốn không dưới năm triệu đồng. Đó là lúc bình thường, còn khi trúng mánh, chạy “xe” bạt mạng, số “tiền xăng” coi như không tính nổi.
Xe biển xanh - tức gái làm tiền - cuộc sống phập phù hơn. Cái “nghề” dưới đáy xã hội này, vào bãi càng khốn khổ. Họ thường dựng lán ở rìa các bãi, biệt lập nhưng không quá xa để hành nghề. Bất cứ kẻ nào trong bãi đều có thể hành hạ hoặc đe dọa họ, nhưng khi có chuyện họ hoàn toàn không được ai bênh vực. Tại bãi Muối, chúng tôi ghé vào “gara” của một “xe biển xanh” tên là Đ.T.H.T, sinh năm 1969, tại Hương Điền, Huế. T. bắt đầu lăn lóc ở bãi vàng từ năm 1992. Ban đầu, cô dựng “gara” ở Trà My, sau đó chuyển qua huyện Hiên và cuối cùng dừng lại ở bãi Muối - Phước Thành.
Lý do đơn giản: các khách “thuê xe” chuyển bãi, “xe” cũng phải chuyển theo vì chưa thu hết... nợ. Sau nhiều năm hành nghề, nhan sắc đã trở nên tàn tạ. Trước, cô được đánh giá là một “dream”, năm tháng cứ giảm dần “giá trị mẫu mã”, tụt xuống “win” ,”81”, “én”, giờ T. đã bị hạ đến mức chỉ còn là một... mobillet. Để mưu sinh, cô phải kiêm thêm nghề bán bún nước lèo cho cả hai bãi Muối và Một Nước. Ngày ngày gánh trĩu trên lưng, chịu bao điều miệt khinh tủi nhục. Đêm T. quây kín nilông chắn lều, ngồi thu lu trong góc lán tối om với một cây chùy - một khúc chày gỗ, 1 đầu cắm đầy đinh - nơm nớp lo một kẻ bất lương nào đó đột ngột xô lán nhảy xổ vào... Dưới áp lực của vàng, cả cái tên người chưa chắc gì giữ được. ở bãi giá cả mọi thứ đều ngày mỗi tăng, chỉ có giá trị của nhân phẩm là ngày càng giảm.
Ngoài chủ và “xe”, ở bãi vàng còn rất nhiều hạng người khác. Những người không vốn, không đủ sức khỏe làm công thì xin đến các hầm đã khai thác xong, bòn mót chút quặng thừa đem gửi máy xay đãi ăn chia 6:4 với chủ. Họ được gọi là dân “tọ mọ”. Bần cùng già yếu hơn hoặc nghiện ngập, “tọ mọ” cũng không đủ sức thì làm “dặt dẹo” đi xin. Những chủ hầm đang trúng không nỡ để dân “dặt dẹo” chết đói, song nhìn họ bằng nửa con mắt, bởi với các “dặt dẹo” nghiện ngập, xin chỉ đủ no bao tử chứ không đủ để no “óc”, họ thường “nhanh tay lẹ mắt” với những hớ hênh của các máy, hầm và tích cực “cầm nhầm”.
Đổi ngôi là chuyện liên tục xảy ra ở bãi vàng. Trước năm 1996, Vinh tóc dài (Bùi Vinh) chỉ là một “tọ mọ” không tên tuổi. Sau lệnh cấm khai thác năm 1997, một số chủ hầm dỡ lán, bỏ hầm, Vinh mò vào “tọ mọ” và... trúng đậm. Có tiền, anh ta sắm máy, mua nguyên cả một quả đồi với giá 200 triệu và trúng luôn 35 kg vàng ngân (khoảng hơn 20 kg vàng ròng). Cú “vào cầu” của Vinh tóc dài đã kéo các chủ hầm rầm rập quay trở lạ. “Chiến tranh” nổ ra, và máu người đã đổ trên bãi Vinh tóc dài khiến anh ta vừa khánh tận vừa phải vào tù...
Dù sao, cái tên Vinh tóc dài cũng trở nên một mơ ước cho cả vạn người khác, đọng lại trong họ như một niềm khao khát đổi đời dữ dội để tiếp tục lao theo những hy vọng hão huyền, bất chấp tận thế có xảy ra ngay tức khắc, bất chấp thiên đàng và địa ngục chỉ cách nhau vừa đúng một gang tay.
6. Sống chung với cướp
Người bình thường chắc hẳn không ai mơ chuyện tự ném mình vào bãi vàng. Lọt thỏm giữa núi rừng Phước Sơn, những số phận mà tôi gặp hầu như đều giống nhau ở điểm bi đát trong hoàn cảnh sống. Đến vùng vàng, cuộc đời họ càng khốn khổ hơn bởi mưa gió, bệnh tật, những thất vọng triền miên cùng số nợ cứ dày lên. Và, một con đường khác lại mở ra trước mắt họ: nghiện ngập và phạm tội. Rừng núi điệp trùng cũng là nơi lý tưởng để bọn tội phạm, trong đó có không ít tên mang hai, ba lệnh truy nã, lấy làm chốn náu thân và tiếp tục gây tội ác. Khi tôi có mặt, bãi 5A xã Phước Thành tịnh không bóng người, dù ở góc lán này vẫn còn chén nước bốc khói và góc lán kia, mấy thanh củi vẫn còn cháy dở. Trước mắt tôi, chiếc chiếu giữa lán lỗ chỗ hàng ngàn vết cháy - một lời tố giác không thể chối cãi về sự có mặt của thuốc phiện. Đúng vậy, một trăm phần trăm cư dân của bãi này đều nghiện nặng. Nhác thấy bóng người lạ dưới chân núi, họ vơ vội bàn đèn, ống tiêm đồng loạt lao xuống hầm. Khoảng 15 phút sau, thấy không thành vấn đề, họ lại lục tục trồi lên, nhe răng cười với chúng tôi, nụ cười bệnh hoạn, vừa cầu thân lại vừa đầy nghi kị nở vội trên những cặp mắt vàng võ bủng beo.
Khi trèo lên đỉnh đồi, tôi biết các cư dân trên đó không hiền lành như vậy. Đỉnh đồi 5A được mệnh danh là đỉnh Mafia, bởi hoàn toàn do các ổ trộm cướp chiếm cứ. Ban ngày chúng trốn vào rừng hút chích, ban đêm tụ nhau lại đi trộm cướp, sau đó mò về các lán chia nhau. Nhưng bãi mafia vẫn chưa sợ bằng bãi Vinh Tóc dài, nơi có mặt nhiều tên cướp lì lợm và hung hãn nhất. Riêng các tên Nguyễn Hữu Cường (Cường con), Nguyễn Văn Hùng (Tây điên), Phan Văn Tư (Tư heo) mỗi tên cũng đã gây ra hàng chục vụ cướp của giết người. Khi dân “xúc, lắc” hoảng sợ bỏ đi, chúng quay sang bắn giết lẫn nhau để đoạt hầm, hố, cướp tài sản ăn cướp và giành quyền hùng cứ khu vực.
Vũ khí trong các trận thư hùng xem như không thiếu thứ gì, từ dao gậy, súng, trái nổ. Đáng sợ nhất là các trái canonbi. Loại trái nổ này được lấy ra từ những quả bom bi chưa nổ do Mỹ thả xuống còn nằm rải rác trong rừng núi. Mỗi quả bom chứa hàng ngàn quả canonbi to như quả ổi, một đầu có hạt nổ, khi ném tim hạt nổ luôn hướng về phía trước và nổ khi chạm bất cứ vật gì, dù đó là lá cây hay mặt nước. Từ trong ruột quả canonbi, hàng ngàn viên bi con sẽ bung ra.
Theo đánh giá của Công an huyện Phước Sơn, có ít nhất một phần mười cư dân của bãi vàng từng là kẻ cướp giật. Trong vòng 2 tháng 4 và 5.1999, chị Nguyễn Thị Hồng, một dân buôn vàng, quê ở Hòa Định, Tuy Hòa, Phú Yên đã bị băng Thanh sứt, Hiển bụi cướp những ba lần, lấy đi hơn 100 triệu đồng. Trần Bút, một chủ quán khác ở bãi 45 (xã Phước Sơn) cũng hai lần bị cùng một băng cướp che mặt tấn công chỉ trong nửa tháng 5.1999. Là con nghiện một trăm phần trăm nên khi ra tay, bọn cướp vơ tất không chừa thứ gì, từ tiền, vàng cho đến lon nước, bao thuốc. Oái ăm thay, có lúc người bị hại biết rất rõ ai là kẻ cướp, nhưng đành... ngậm tăm, sợ bị tái cướp, bị trả thù. Sau ba lần bị cướp, để tránh thêm lần thứ tư bị chúng viếng thăm đột xuất trong đêm, chị Hồng đành bỏ ra năm triệu đồng, nhờ một tay “có máu mặt” gầy một độ nhậu mời các tay “lục lâm” nghi vấn đến. Khi rượu đã ngà ngà, tay anh chị mới chỉ chị Hồng và bảo:
- Cô em tao đấy, để cho nó sống!
Những thằng cướp tỉnh queo:
- Sao không nói sớm? Ai biết!
Sau đó, thay vì bị cướp, thỉnh thoảng chị Hồng phải rút ra một triệu dúi cho một tên “cô hồn”, còn những vụ cướp vẫn xảy ra trong khu vực, chị đành coi như không nghe, không thấy. Trước khi đút tiền vào túi, thằng “cô hồn” còn khoanh tay lễ phép:
- Em xin chị.
Cướp của không đáng sợ bằng cướp bãi chiếm hầm. Đào mãi vẫn chẳng thấy có vàng, hai anh em Phạm Hữu Cường, Phạm Hữu Cảnh bắt đầu tính kế đoạt bãi của hai anh em Phan Văn Tư, Phan Văn Phong (thôn 3, Phước Thành) đang ăn nên làm ra. Vốn là những tên cướp sừng sỏ, anh em Tư, Phong phát hiện ngay ý đồ của địch, ngay lập tức chỉ đạo thợ tăng cường phòng thủ. Ngày 21.4.1998, Cường và Cảnh bất ngờ ném hàng chục trái canonbi vào lán của Tư, Phong. Ngay tức khắc, hàng loạt AK từ trong lán được Tư, Phong tuôn ra đáp lễ. Hoảng quá, Cường, Cảnh vội tháo lui. Cường bị sa luôn vào bãi chông của anh em Tư, Phong cắm sẵn. Vất vả lắm Cảnh mới vừa chống đỡ với đạn AK, vừa cõng được Cường thoát hiểm. Thoát chết nhưng máu hung hãn vẫn không mất, khi vết thương lành lại, Cường lại bày binh bố trận. Lần này, chúng tấn công một bãi khác. Chờ khi đám thợ đã chui hết xuống hầm, những tên cướp lập tức xuất hiện và đổ xuống miệng hầm một... can xăng, sau đó ném lựu đạn xuống! ở bãi vàng, quả thật người với người đã thành dã thú, mà không chỉ vì nơi họ đang có mặt là giữa núi rừng.
Tuy bị tấn công liên tục nhưng hầu như không một nạn nhân nào chịu đi trình báo với chính quyền. Đào vàng là phạm pháp, họ rất sợ sự can thiệp của luật pháp nên thường tìm cách tự giải quyết lấy. Sau nhiều lần bị các tên Đỗ Duy Lệ, Lưu Văn Thanh chỉ huy cả chục đàn em đánh chém cướp quặng xái, hàng chục chủ lán trại ở bãi 65, thôn 4, Trà Bui đã họp nhau lại bàn nhau đánh trả. 3 giờ sáng ngày 3.10.1997, theo hiệu lệnh của một chủ hầm là Lê Xuân Thu quê ở Tam Kỳ, Quảng Nam, cả trăm chủ hầm, lán và thợ của bãi 65 đã đồng loạt chia ba cánh tấn công vào lán của đám kẻ cướp. Cuộc chiến diễn ra khá bài bản: đầu tiên là trái nổ, lựu đạn khói ném tới tấp, sau đó là cả trăm dao, gậy ồ ạt xông lên. Cả chục tên trong nhóm cướp bị đánh tơi tả, số còn lại bỏ chạy tán loạn vào rừng, bỏ lại một xác chết và một số tên bị thương quằn quại. Lê Xuân Thu, Phan Văn Vinh, Trần Phong Trắc, Phạm Văn Lợi đã cướp toàn bộ tài sản trong lán của Đỗ Duy Lệ và đồng bọn, sau đó châm lửa đốt rụi. Họ còn bắt tên Chiến, một đàn em của Lệ, đổ nước sôi lên đầu, cạo trọc lóc và bắt viết giấy gọi Đỗ Duy Lệ mang tiền đến chuộc...
Không thể trách lực lượng Công an huyện Phước Sơn và tỉnh Quảng Nam, bởi họ đã dồn hết công sức, song mọi cố gắng vẫn không đem lại kết quả mong muốn. Các bãi đều nằm rải rác trong vùng rừng núi, lại quá nhiều, quá rộng, khó lòng ngăn chặn được dòng người tắt rừng băng núi để tìm đến bãi vàng. Hơn 10 đợt truy quét, trục xuất dân đào vàng trái phép ra khỏi bãi đã được tỉnh, huyện tổ chức, song kết quả không mấy khả quan, dù rất tốn kém. Công an, du kích xuất hiện dưới chân núi, những kẻ đào vàng vẫn đủ thời gian tháo máy, dỡ trại đưa xuống địa đạo cất giấu, còn người trốn vào rừng. Lực lượng truy quét rút, họ lại quay trở lại.
Khi có tai nạn hoặc bị trộm cướp, không một người bị nạn, bị hại nào chịu khai báo, rất khó phát hiện. Trong khi đó, cả thủ phạm lẫn nạn nhân đều là dân tứ xứ, phải tốn rất nhiều công sức để điều tra, truy bắt. Bọn tội phạm lại là những tên rất liều lĩnh. Tháng 5.1999, chuyên án CA 889 của Công an Quảng Nam đã phá băng cướp do Thanh sứt, Hiển bụi cầm đầu. Các tên Thanh sứt, Bắc phò, Tiên nghiện, Lanh... bỏ trốn lên Đăk Nông, Đăk Lăk. Đúng một tuần lễ thức trắng rúc trong rừng le đầy muỗi, vắt, Công an Quảng Nam mới tóm được chúng. Còn lại một mình, Hiển bụi trốn từ Phước Thành sang bãi vàng nhẹ Phước Đức và lập ngay băng mới chỉ sau đúng ba ngày, tiếp tục thêm bốn vụ cướp. Bị một nạn nhân che mặt chém trọng thương,  Hiển vẫn không đi bệnh viện mà nhờ đồng bọn dùng chỉ may đồ khâu giúp, nằm lại bãi dưỡng thương chuẩn bị cướp tiếp. Rất may, Hiển và cả băng mới lập đã bị Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh bắt ngay tại bãi chỉ một tuần sau đó. Khi bị bắt, bọn tội phạm vẫn ngoan cố bởi hy vọng rằng rừng núi mênh mông, luật pháp khó tìm ra chứng cứ để buộc tội chúng. Phải mất hàng tháng trời, Phòng Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Quảng Nam mới tìm đủ chứng cứ để kết tội tên Nguyễn Hữu Cường. Tên Tư heo (Phan Văn Tư) thậm chí còn cố tình chơi khăm cả công an. Đích thân trung tá Huỳnh Đức Cường và ba cán bộ chiến sĩ của Phòng PC 16 Công an tỉnh đã phải lặn ngụp trọn một buổi sáng mùa đông dưới dòng nước lạnh buốt để tìm vớt khẩu súng gây án mà Tư khai đã quẳng xuống suối. Kết quả chỉ công cốc, khẩu súng này đồng bọn của y vẫn đang giấu và sử dụng để tiếp tục đi cướp.
Dẫn giải tội phạm cũng là điều không đơn giản. Đường núi dốc và trơn, đi một người đã khó, huống hồ phải kèm ba, bốn tên tội phạm. Ngày 21.5.1999, lúc dẫn giải những tên trong băng Hiển bụi về ngang bãi 45, ba trinh sát của chuyên án CA 889 đã đành bất lực để cho một tên chạy thoát. Dù hai tay bị còng, tên cướp vẫn liều lĩnh ôm đầu và lăn từ đỉnh đồi xuống, theo một lối mòn đầy rễ cây, cọc nhọn, trốn thoát mang theo cả còng. Mùa mưa năm 1997, trong khi bị áp giải qua một đoạn vực, cách mặt nước chừng 20 mét, một tên cướp đã để nguyên cả còng lao thẳng xuống dòng suối đang chảy xiết. Không để phạm chạy thoát, càng không thể để hắn chết, thượng úy Nguyễn Văn Thanh của Phòng Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh đành phải lao theo, vừa bơi vừa dìu được tên cướp lên một tảng đá giữa suối, chờ đồng đội quăng dây ra cứu.
Khổ nhất, bọn tội phạm nghiện ngập thường lên cơn vã, nằm giãy đành đạch trên đường bị dẫn giải. Để đề phòng, mỗi lần vào bãi truy bắt tội phạm, các chiến sĩ công an đều phải thủ theo một gói đường. Khi đối tượng lên cơn, anh em lại phải cấp tốc tìm nước pha cho chúng uống vừa để giúp chống vã thuốc, vừa tăng lực để có thể tiếp tục hành trình. Trong chuyến bắt băng Hiển bụi tại bãi Vàng Nhẹ, trời mưa dữ dội, các chiến sĩ Nhậm, Tám, Dũng, Cảnh sát Điều tra tỉnh đã phải cố nhịn thuốc lá để dành cho bọn tội phạm, bởi khi lên cơn, không có thuốc hút liên tục, rất có thể chúng sẽ ngất xỉu và nằm lại giữa đường.
Để phục vụ cho những chuyến công tác gian khổ ấy, chế độ và điều kiện làm việc của lực lượng công an vẫn hết sức thiếu thốn. Trong khi một cuốc xe ôm vào bãi là 500 ngàn đồng thì công tác phí cho một chiến sĩ vẫn chỉ là 20 ngàn đồng một ngày, không hề có một ngoại lệ nào cả...
Chỉ một vài ví dụ, đủ thấy lực lượng công an ở vùng vàng đã cố gắng hết mình. Nhưng để giải quyết triệt để tệ nạn và tình hình phạm tội ở nơi này, không thể chỉ trông chờ vào mỗi sự tận tụy, hy sinh của lực lượng công an. Cái thiếu vẫn là một chính sách toàn diện và kịp thời, nếu không mọi biện pháp dù tích cực cũng chỉ là giật gấu vá vai. Cấm khai thác, địa phương mất nguồn thu lớn, nhưng dân tứ xứ vẫn không ngừng đổ về, thiên nhiên vẫn bị tàn phá, những mối nguy vẫn đầy ắp mà không thể ngăn chặn nổi. Đại đa số chủ bãi, chủ hầm đều mong muốn nhà nước có một qui chế cụ thể, cho phép họ đăng ký, đóng góp nghĩa vụ và khai thác. Như vậy, người khai thác sẽ yên tâm hơn, nhà nước cũng tăng được nguồn thu cho ngân sách và dễ quản lý hơn. Nhưng theo đúng luật thì việc cấm là tất nhiên, mà luật thì khó lòng thay đổi. Giải pháp cho bãi vàng, vì thế, vẫn đang luẩn quẩn trong một mớ bùng nhùng không lối thoát. Và số phận của những con thiêu thân lao vào bãi vàng vẫn bị treo lơ lửng.
7. Vàng đổi người
Tự coi mình là một thợ mỏ, ngày 25.5.1999, tôi đã thử lần xuống một miệng giếng ở bãi thôn 5A, xã Phước Thành của ông bà Hoàng Xuân Điền - Lê Thị Gấm, quê ở Giao Thiện, Giao Thủy, Nam Định. Mầu, người dẫn đường, chui vào trước. Theo chỉ dẫn của anh ta, tôi đeo máy ảnh ra trước ngực và khom người ngồi bệt mông xuống nền đất. Một cú trượt đã đẩy tôi chuồi sâu khoảng 15 mét vào lòng địa đạo tối như hũ nút, nghiêng chừng 150 và cao không hơn 0,8 mét. Xỏ chân vào miệng gàu - một can nhựa 40 lít cưa bỏ phần trên và chắp thêm một cầu ngang bằng gỗ - tôi đu người bám chặt dây tời cho Mẫu thả xuống hầm. Dây tời nhả khá nhanh khiến chiếc gàu đung đưa, liên tục va đập vào hai thành giếng. Tụt khoảng 30 mét, chiếc gàu chạm đất. Tối như địa ngục và nóng hầm hập, hơi ẩm bốc ngùn ngụt khiến tôi ngộp thở. Nhìn lên trên miệng giếng, bóng đèn điện tròn vo và bé tí như hạt đỗ. Có vẻ như tôi sắp rờ phải bờ vai xương xẩu của thần chết. Mà có thể tôi sắp chết thật, vì một tỉ lý do. Sụp hầm: chết, đá lở, một viên rớt trúng đầu: chết, máy thổi khí (máy hút bụi được chắp ống tizo) ngưng hoạt động: chết, leo lên đứt dây hoặc tuột gàu: cũng chết. Đó là chưa kể một cái chết khác, nếu người trên miệng giếng có âm mưu... Sợ vãi cả linh hồn, tôi giương máy ảnh bấm lia lịa, cái được cái mất để còn rút. Dưới ánh chớp đèn flast, tôi nhìn thấy một đôi ủng, vài chiếc cuốc chim và một chiếc găng tay nằm lăn lóc.
Vội và vì... sợ, chưa kịp xỏ chân vào gàu, tôi đã giật giật dây tời. Tưởng đúng ám hiệu, chiếc gàu cứ thế được tời cao dần lên, để lại một mình tôi giữa đất đen sâu hun hút với trống ngực nện như búa máy. Rất may, chỉ 3 phút sau - mà tôi ngỡ là 3 thế kỷ - gàu lại được thả xuống. Khi trồi lên khỏi mặt đất, bị lóa mắt bởi ánh sáng mặt trời, tôi mới thở phào tin chắc là mình còn sống. Cái màu chàm nhợt nhạt trên mặt Mầu lúc đó mới loãng ra. Anh bảo:
- Thấy lên gàu không, tôi tưởng anh rớt rồi. Anh mà tiêu thì tôi bỏ mẹ!
Ông Điền cười khà khà, chỉ ông Địa trước miệng hầm:
- Chết sao được, lúc cậu xuống, tôi có thắp hương cúng!
Trời ạ, té ra nãy giờ sinh mạng tôi đã được những người đào vàng gửi tạm vào tay thần thánh. Sau chuyến tham quan địa ngục này, tôi nghĩ đã có thể xem ông Địa như một người bạn có trách nhiệm. Tốt, dù hơi bị... hồi hộp. Nỗi hồi hộp của tôi chỉ kéo dài 5, 10 phút. Còn họ, những người thợ, đó là cuộc sống, là nỗi thắc thỏm triền miên hun hút theo năm rộng tháng dài.
Ông Điền - bà Gấm có 8 người con. Hoàng Xuân Lương là con trai thứ ba, sinh năm 1972. “Nhâm Tý vi vương”, Lương không chịu nổi cuộc sống eo hẹp ở quê, 2 sào ruộng với 26 khoản đóng góp, khoản thu nhập nhỏ nhoi cho 8 miệng ăn không đủ để chắp cánh cho những mơ ước. Vậy là Lương tìm đến bãi vàng. Hơn một năm trời bặt tin con, lại chứng kiến không ít bạn bè cùng lứa với Lương từ bãi vàng mò về với bộ dạng tiều tụy, có đứa chết vì ốm đau tai nạn, có đứa bị đánh chém thành thương, hai ông bà đâm hoảng, vội sai hai người anh của Lương là Biên và Cương vào bãi gọi em về. Những ước vọng đã biến thành cay cú ăn thua, Lương dứt khoát không quay lui khi hai tay còn trắng.
Chờ mãi đến hết tiền vẫn không thuyết phục được em, Biên và Cương đành ở lại luôn, trở thành thợ mỏ của vùng vàng. Sốt ruột, bà Gấm lần đường tìm vào. Sau nhiều ngày vất vả, bà tìm được con. Lương đã tàn tạ vì thuốc phiện, hai chân khẳng khiu xỏ trong hai ống quần người anh mới đem vào cho. Lúc này, nó đã muốn về, nhưng đào mãi vẫn chưa thấy vàng, tiền đâu mà về. Bà Gấm cũng nhẵn túi, đành phải nán chờ con... Một tháng rồi hai tháng... Đầu tháng 5.1999, ông Điền chờ mãi không thấy vợ con, lại tiếp tục lần vào.
Bây giờ, cả gia đình năm người đã “mắc cạn” trên đỉnh núi. Ngày ngày, khi ba đứa con trai đã mất hút trong bụng hầm vàng, hai ông bà lại bó gối ngồi trước miệng hầm, ngay ngáy lo những đứa con sẽ chẳng còn cơ hội để trồi lên. Để tự trấn an, ông Điền lại chắp tay vái trước bàn thờ ông Địa lập trước cửa hầm. Bà Gấm cũng chỉ biết xách hương lên đỉnh đồi, quì lạy rất lâu trước mộ phần vô danh của những đứa trẻ cùng tuổi với con bà được bạn bè đào vàng chôn lại ngay tại bãi. Khi giấc mơ đã khánh kiệt, những cuộc đời khốn khổ ấy chỉ còn biết đặt hy vọng vào thần thánh.
Không lớn hơn Hoàng Xuân Lương là mấy, nhưng thâm niên đào vàng của Nguyễn Văn Tân thì dày hơn nhiều. Tân sinh năm 1970, quê ở Ca Đình, Đoan Hùng, Phú Thọ đi đào vàng từ năm 1988. Ban đầu, anh đãi  vàng cám ở Bắc Kạn, năm 1998 mới theo một ông bạn là Nguyễn Ngọc Thanh vào bãi Phước Sơn. Thanh quê ở Thái Nguyên, sinh năm 1967, bắt đầu đào vàng từ năm 1991. Đào mãi chẳng thấy vàng đâu, chỉ tuổi trẻ trai là cứ chôn mãi vào lòng đất. Thậm chí khi Thái Nguyên tách tỉnh, Thanh cũng chịu, không hiểu nổi quê nó thuộc về Bắc Kạn hay Bắc Thái. Mùa mưa năm 1998, thấy bảy, tám người bị núi đè chết cùng lúc, Tân và Thanh mới thấm hết nỗi khổ phong trần. Gom được 2 triệu, hai anh em quyết định quay về, không bao giờ lên bãi nữa. Nhưng chưa xuống hết dốc núi, họ lại gặp Nguyễn Văn Lượng và một đám trẻ con cùng quê với Tân lặn lội mò vào. Thương đám con nít 16, 17 tuổi không biết sống chết là gì, Thanh và Tân đành thở dài quay trở lại để chỉ bảo, đỡ đần cho đám trẻ con. Hai triệu đồng kia lại phải chia ra để lo cơm nước, dụng cụ cho đám trẻ, chẳng biết bao giờ mới kiếm đủ để có thể quay về. Được ít hôm, trời lại mưa, lại gió, người chết lại được mang đi, đám trẻ sợ hãi khóc thét lên. Có đứa sợ quá, đêm không ngủ được, lại bị sốt rét quật ngã gục, cứ la hét và chạy bắn ra giữa mưa khuya. Sợ chúng lọt hầm, lạc rừng thì chết, Tân, Thanh lại đốt đuốc đội mưa đi tìm suốt đêm. Gặp được đứa em, hai thằng anh cũng chỉ biết đội mưa ngó nhau và khóc.
Đêm cuối cùng ở bãi vàng, tôi đã ở lại làm khách tại lán của Tân, Thanh và những cậu bé gốc Phú Thọ, Thái Nguyên. Suốt đêm đó và cả năm, sáu hôm trước, trời vẫn mưa như trút. Cũng may, cám cảnh phận người, trời cũng thương tình chỉ đổ xuống rú rừng những cơn mưa ấm. Suốt đêm, tôi cứ nằm trằn trọc đếm mưa rơi, không tài nào ngủ được. Thỉnh thoảng, cơn mơ màng của tôi lại bị bắn tung lên trời vì một tiếng mìn. Bãi thôn 2 quá lớn. Gần hai ngàn con người chen chúc nhau giữa ầm ĩ tiếng máy phát điện, máy nghiền đá nổ như đại liên suốt ngày đêm. Cả hốc núi hoang vu sáng rực ánh điện và mù mịt khói xăng, dầu. Cứ khoảng 15 phút, tiếng mìn phá đá lại dội ngược lên, hất những cơn mơ chập chờn bắn lên trời. 2 giờ sáng, ngay dưới lưng tôi, sau tiếng nổ ầm là những bước chân rậm rịch và tiếng người í ới. Đang chờ thay ca, Tân vội xỏ dép và lật đật trượt theo dốc núi bò xuống. Lát sau, anh ta bò lên và bảo tôi bằng giọng khô khốc:
- Tưởng gì, mìn nổ, bốn thằng bị ngạt, đưa đi viện rồi. Ngủ đi, ở đây ngày nào không có thằng đi viện.
Nghe lời Tân, tôi cố cuộn mình trong chăn thật kỹ nhưng vẫn không thể nào ngủ được. Lúc đó, tôi mới thấy cảm hết nỗi khốn khổ của những người giàu. Nằm trên đống vàng, người ta sẽ chẳng bao giờ tìm được một giấc an lành. Đêm chỉ là những cơn mê phập phù và bất trắc. Dưới kia, ánh điện tham vọng vẫn sáng rực núi rừng, nhưng ánh sáng vẫn không đủ để xua đi phần tăm tối trong số phận của những kẻ liều.
Thợ khổ, người làm công cũng khổ. Rồi thì cả chủ hầm, chủ bãi cũng chưa chắc đã sung sướng gì hơn. Để trở thành một ông chủ ở bãi thôn 4, xã Phước Kim, Nguyễn Văn Xuân đã phải vay mượn và thế chấp toàn bộ nhà cửa, tài sản, được gần 200 triệu đồng để khui một hầm vàng. Ròng rã ba tháng vỉa đá mơ ước vẫn chưa chịu lộ ra. Hết tiền, Xuân phải nhường bớt một miệng hầm cho người khác. Một tuần sau, ngày 7.5.1999, tai nạn đất rơi đã khiến một người thợ của hầm mới này chết ngay tại chỗ, trong khi ông chủ hầm kia đã ra Đà Nẵng cách đó mấy hôm. Là chủ đất, Xuân đành phải vay mượn, gom góp được 10 triệu đồng để người bị nạn được bạn bè anh ta đưa về quê an táng. Dù chịu bỏ tiền ra, song cho đến lúc bị công an mời lên, Xuân vẫn ngớ ra, không hề biết nạn nhân tên gì cả. Bãi vàng là thế, cái đáng quan tâm là vàng, đâu phải là số phận một con người (?!).
Rải rác quanh các lối mòn vào bãi, tôi đã gặp cơ man những phần mộ vô danh như thế. Số lượng mồ mả có tên và không tên được đắp sơ sài cứ ngày một dày lên, nhiều lên, lẫn vào các lùm cây búi cỏ, lẫn vào mưa nắng và sự khốn khổ của một kiếp tìm vàng. Vượt qua những chân dốc đầy mồ hoang tham vọng ấy, hàng ngàn hàng vạn con người lại tiếp tục bạt núi, xuyên rừng lần đến bãi vàng, không thèm đếm xỉa đến một ngày chính họ cũng sẽ góp thêm cho núi hoang rừng trọc một nấm mồ hoang không hương khói. Đào vàng là phạm pháp, nhưng chưa có sự trừng phạt của luật pháp, những phận người tôi gặp cũng đã đủ cơ cực, khốn khổ lắm rồi. Chia tay, tôi cứ bị ám ảnh bởi tiếng anh thợ Nguyễn Văn Tân nói gần như khóc:
- Anh thông cảm, đừng chê bọn tôi lỗ mãng. Đã mò vào đây, có đứa nào dám nghĩ mình là một con người nữa đâu(!).
Theo yêu cầu của công an huyện, chủ bãi Nguyễn Văn Xuân dành tạm gác công việc đào đãi để về tường trình vụ tai nạn tại hầm của anh. Theo chân Xuân và những người công an, tôi cũng hạ sơn trở lại đồng bằng. Đến trước ủy ban nhân dân xã Phước Thành, chúng tôi ghé lại quán nước của Diễm, cô gái 25 tuổi có đôi mắt buồn và đẹp - người mà tôi đã có dịp làm quen trước đó gần chục hôm. Tôi hỏi em, vì lẽ gì mà lại bỏ đồng bằng tìm đến tận đây, miền sơn cước hoang dã, có tìm đỏ mắt cũng không kiếm được một tâm hồn biết trân trọng một đôi mắt đẹp. Em đáp gọn lỏn:
- Mưu sinh!
Chao ôi, đồng tiền ma lực quá. Xin cam đoan, ở Phước Sơn, chính tiền và vàng mới là sức mạnh vô địch để con người bạt núi xẻ rừng chứ hoàn toàn không phải tình yêu. Nhưng khi biết chúng tôi sắp rời bãi vàng, vẻ bất cần của Diễm hầu như biến mất. Rất yếu đuối, em hỏi tôi một câu tối nghĩa:
- Tại sao các anh lại về?
Không đợi tôi trả lời, mà thực ra hỏi chỉ để mà hỏi chứ em đâu cần tôi phải trả lời, giọng Diễm chùng đi trong một câu trách móc:
- Ai cũng rứa, lên rồi lại về, có ai chịu ở lại với ai đâu?
Nhoi nhói trong lòng, tôi đi cúi mặt. Được một quãng xa, ngoái lại tôi vẫn thấy Diễm tần ngần ôm cột quán trông theo. Mắt em hun hút, tiếc rằng đôi mắt ấy không dành cho tôi, không dành cho Xuân, không dành cho bất cứ ai trong đoàn người đang sắp rời khỏi vùng vàng. Ráo hoảnh và xa vắng, tôi biết đôi mắt ấy đang đau đáu dõi theo lầm lũi một kiếp người.
Tự nhiên tôi lại nghĩ đến con số gần một vạn người hiện đang đứng nghiêng ngả giữa lằn ranh mong manh của sự sống và cái chết, của lương thiện và tội lỗi, của sự tàn phá và nghiện ngập. Con số một vạn ấy, tôi nghĩ đã quá đủ để lương tâm buốt nhức, đủ để nghĩ đến việc thay đổi hoặc đề ra một chính sách phù hợp với thực tế vùng vàng.
Trên đường trở lại đồng bằng, tôi bắt gặp một nhóm năm, sáu người ngoại quốc, cả đàn ông lẫn đàn bà đang đi ngược về phía núi. Hỏi ra mới biết, họ là những người Mỹ thuộc tổ chức POW/MIA đang ngược đường lên Trường Sơn tìm kiếm hài cốt những binh sĩ Mỹ chết và mất tích trong chiến tranh. Họ đi mà không nói năng gì, chỉ lầm lũi bước, trên lưng là ba lô hàng to như... quả núi, nặng trĩu. Hiển nhiên thôi, mang cả một quá khứ trên lưng thì nặng phải biết. Rồi 10 năm, 20 năm và lâu hơn thế nữa, sẽ có bao nhiêu người mẹ, người vợ, người con trên đất Việt Nam thân yêu của tôi sẽ phải quay lại chốn này để tìm người thân của họ, cũng đã bỏ mình nhưng là vì một cuộc chiến khác, cuộc chiến vì vàng, cuộc chiến chống lại chính bản thân mình! Tôi không biết, không trả lời được, chỉ nghe trong lồng ngực trái tim nặng trĩu đập nhoi nhói.
Người ta bảo:
Trường Sơn Đông nắng Tây mưa.
Ai chưa đến đó như chưa hiểu mình
Lần theo một câu thơ, một khúc hát, tôi đã đến được đầu nguồn Đăk Mỹ, đã đặt chân đến bãi vàng, đã đến được với Trường Sơn; mà sao suốt dọc đường về, lòng vẫn tấu vô hồi những khúc ca không quen biết. Đầy hoang mang tôi cứ tự hỏi: không biết mình có hiểu nổi mình không?.
Phước Sơn, 5.1999.
9.1999
Nguyễn Hồng Lam
Theo https://trieuxuan.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...