Câu truyện triết học: Aristote, Platon
ARISTOTE
Aristote
(384-322 tcn)
|
1. MỘT CHÚT LỊCH SỬ
Aristote sinh tại Stagira tại tiểu quốc Macédoine cách Athènes 200 dặm, vào năm
384 tTL. Cha của ông làm nghề thầy thuốc, bạn thân của quốc vương Macédoine
Amyntas. Ông này là tổ phụ của Alexandre đại đế. Hình như Aristote là đoàn viên
của một y sĩ đoàn danh tiếng thời ấy, ông có tất cả những cơ hội thuận tiện để
học hỏi và phát triển tri thức. Có hai giả thuyết về thời kỳ niên thiếu của
Aristote. Một giả thuyết cho rằng ông là một thiếu niên thích ăn chơi, phung
phí tiền của đến nỗi trở nên nghèo nàn đói rách, không có nghề sinh nhai phải
vào lính trong một thời gian. Mãi đến năm 30 tuổi mới đến xin học và trở thành
môn đệ của Platon (427 - 348 tTL). Giả thuyết thứ hai không chấp nhận thời kỳ
ăn chơi và phung phí tiền của. Theo giả thuyết này Aristote đến Athènes từ lúc
18 tuổi và trở thành môn đệ của Platon bắt đầu từ đó.
Platon (427 - 348 tTL)
Ông học với Platon vào khoảng từ 8 đến 20 năm, con số 20 năm có lẽ đúng hơn nếu
ta xét ảnh hưởng của Platon trong các tác phẩm của Aristote. Người ta có thể tưởng
tượng rằng thời kỳ sống với Platon là một thời kỳ lý tưởng trong cuộc đời
Aristote. Một môn đệ thông minh xuất chúng được ở gần một giáo sư toàn năng. Sự
thật thì mối liên quan giữa hai thầy trò không phải luôn luôn tốt đẹp. Platon lớn
hơn Aristote gần 50 tuổi (43 tuổi - chú thích của người đánh máy!), chỉ sự
cách biệt ấy cũng không làm dễ dàng sự thông cảm. Platon công nhận rằng
Aristote là một môn đệ thông minh xuất chúng, hiếu học vì Aristote là một trong
những người đầu tiên trong lịch sử nhân loại biết sưu tầm những tài liệu viết
tay thời bấy giờ để lập thành một thư viện. Nhà của Aristote được Platon gọi là
nhà đọc sách, nhiều người cho đó là một lời khen, nhưng cũng có người cho đó là
một lời chê có ý ám chỉ đến tinh thần quá chú trọng vào sách vở của Aristote. Một
sự bất hoà khác quan trọng hơn xảy ra vào cuối đời Platon. Aristote có vẻ chống
lại tư tưởng của Platon và nhiều khi không đồng ý với Platon. Thái độ này làm
Platon rất bất bình coi Aristote như một đứa con vô ơn. Một vài học giả cho rằng
Aristote lập một trường hùng biện. Trong số các môn sinh có Hermias sau này
thành người cầm quyền tiểu quốc Atarneus. Để tỏ lòng nhớ ơn thầy cũ, Hermias mời
Aristote về sống tại triều đình và năm 344 tTL, Hermias giới thiệu người chị của
mình làm vợ Aristote. Cuộc hôn nhân là một sự thành công mỹ mãn. Sau đó một năm
quốc vương Macédoine là Philippe mời Aristote về triều đình để dạy cho thái tử
Alexandre. Đó là một vinh dự rất lớn cho Aristote, vì Philippe cũng như
Alexandre là những vị vua danh tiếng và hùng mạnh nhất trong lịch sử nhân loại.
Philipe chinh phục Thrace năm 356 tTL để chiếm những mỏ vàng vô cùng phong phú
gấp 10 lần số vàng của Athènes. Thần dân của Philippe là những nông dân khoẻ mạnh,
những chiến sĩ dũng cảm biết chịu đựng gian khổ. Nhờ những yếu tố ấy Philippe
và Alexandre đã thôn tính hàng trăm tiểu quốc và thực hiện được sự thống nhất
Hy lạp. Philippe không ưa chủ nghĩa cá nhân đương thời mặc dù chủ nghĩa này có
kết quả tốt đẹp đối với nghệ thuật và đời sống tinh thần của dân Hy Lạp.
Philippe cho rằng chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc của sự đồi truỵ kinh tế cũng
như chính trị. Chính dựa vào chủ nghĩa này mà những kẻ lưu manh chính trị có thể
lơi dụng sự tin tưởng quá dễ dãi của dân chúng để mặc tình thao túng chính trường
gây nên bè phái, giai cấp, âm mưu chống đối nhau. Philippe quyết chấm dứt tình
trạng trên để thực hiện một nước Hy Lạp thống nhất và hùng mạnh xứng đáng là
trung tâm chính trị của thế giới thời bấy giờ. Trong thời niên thiếu Philippe
đã học quân sự tại Thèbes. Năm 338 tTL ông chiến thắng tại Athènes và thực hiện
được sự thống nhất của nước Hy Lạp. Ông mong mỏi sẽ cùng người con là Alexandre
tiếp tục cuộc chinh phục thế giới nhưng giấc mộng của ông bị tan vỡ vì ông bị
ám sát.
Khi Aristote đến nhận việc thì Alexandre là một cậu bé 13 tuổi bồng bột và ốm yếu,
ưa cưỡi ngựa và tập ngựa. Những cố gắng của Aristote để làm dịu sự bồng bột của
Alexandre hình như không đem lại nhiều kết quả. Theo một vài sử gia Alexandre
coi Aristote như cha ruột của mình và về phần Alexandre cũng đã từng tuyên bố
muốn học hỏi và coi trọng sự hiểu biết hơn là chinh phục thế giới. Nhưng đó chỉ
là những lời lẽ xã giao vì không đúng với sự thật. Alexandre luôn luôn là một
chiến sĩ thích chinh phục, sau khi thọ giáo 2 năm với Aristote, Alexandre nối
ngôi cha và bắt đầu chinh phục thế giới. Sự thành công của Alexandre có lẽ một
phần nào do ảnh hưởng của Aristote và người ta thường so sánh thiên tài của
Aristote trong lãnh vực triết lý với thiên tài của Alexandre trong lãnh vực
chính trị. Cả hai vĩ nhân này đều có công với nhân loại: một bên thống nhất thế
giới, một bên thống nhất triết lý.
Sau khi cất quân chinh phục Á châu, Alexandre để lại ở Hy Lạp những chính phủ
trung thành với ông nhưng không được dân chúng ủng hộ. Truyền thống dân chủ của
người Hy Lạp không thể một sớm một chiều bị lu mờ trước sức mạnh của đội quân
Alexandre. Tại những chính phủ này, những đảng lên cầm quyền được mệnh danh là
đảng Macédoine hay là đảng thân Alexandre. Năm 334 tTL Aristote trở về Athènes
sau một cuộc du hành và lẽ cố nhiên không dấu cảm tình đối với đảng Macédoine tại
đó. Công trình khảo cứu khoa học, triết lý, chính trị của Athènes tuy rất bao
la nhưng không phải là hoàn toàn theo đuổi trong sự yên tĩnh. Nhiều biến cố
chính trị luôn luôn đe doạ Aristote và nhóm cộng sự viên, công trình này hoàn toàn
tuỳ thuộc vào sự thành công của Alexandre trên lãnh vực chính trị. Những nhận
xét trên đây còn cho phép chúng ta hiểu rõ tư tưởng chính trị của Aristote.
2. CÔNG VIỆC CỦA ARISTOTE
Mặc dù ở trong một tiểu quốc đang sôi sục vì những biến cố chính trị, Aristote
đã thành công trong việc lập nên một trường học lấy tên là Lyceum. Rất nhiều
môn đồ đến xin thụ giáo đến nỗi cần phải đặt ra những phép tắc luật lệ để giữ
gìn trật tự. Những môn đồ này tự bầu cử một uỷ ban để cai quản các công việc của
trường. Họ thường ở lại và ăn uống ngay trong trường, các buổi học thường được
tổ chức ngoài đồng trống. Trước kia Platon cũng đã thành lập một trường lấy tên
là Academy chuyên nghiên cứu về toán học và chính trị. Lyceum của Aristote
chuyên nghiên cứu về sinh lý học và động vật học. Alexandre ra lệnh cho các nhà
săn bắn và chài lưới phải đem nộp cho Aristote tất cả những giống vật mới lạ. Tục
truyền có cả thảy một đội quân 1000 người rải rác khắp Hy Lạp và Á châu để sưu
tầm những giống vật mới lạ, Aristote là người đầu tiên đã lập nên vườn bách thảo
và sở bách thú trên toàn thế giới. Ngoài sự ủng hộ của Alexandre Aristote còn bỏ
vào đó một số vốn rất lớn, ông là một người có nhiều tiền của nhờ cưới vợ giàu
và có quyền thế, có lần bên nhà vợ đã tặng Aristote một số tiền tương đương với
4 triệu Mỹ kim theo thời giá hiện nay để dùng vào việc nghiên cứu khoa học. Có
người cho rằng chính Aristote đã khuyến cáo Alexandre chinh phục Ai cập với mục
đích thám hiểm vùng thượng lưu sông Nil để biết rõ nguyên nhân những trận lụt xảy
ra ở Ai cập. Ngoài ra, Aristote còn sưu tầm 158 bản hiến pháp.
Tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng những phương tiện nghiên cứu của Aristote vô
cùng thô sơ so với những phương tiện nghiên cứu tối tân của chúng ta ngày nay.
Ông phải đo lường thời gian mà không có đồng hồ, đo lường nhiệt độ mà không có
hàn thử biểu, xem thiên văn mà không có viễn vọng kính, đoán thời tiết mà không
có phong vũ biểu. Những phương tiện duy nhất mà Aristote đã sử dụng là một cái
thước và một cái compas. Sức hút của trái đất, hiện tượng phát điện, áp lực
không khí, nguyên lý ánh sáng, nhiệt lượng và hầu hết những lý thuyết tân tiến
của khoa học hiện đại đều hoàn toàn chưa được phát minh.
Những tác phẩm của Aristote lên đến hàng trăm cuốn. Có người
bảo 400 cuốn, có người bảo 1000 cuốn. Những cuốn còn lại đến dời nay chỉ là một
số nhỏ nhưng cũng có thể lập thành một tủ sách. Trước hết là những tác phẩm về
luận lý dạy các cách xếp đặt và phân loại các ý nghĩ. Rồi đến các tác phẩm khoa
học như vật lý học, thiên văn học, khí tượng học, vạn vật học, những sách nói về
sự phát triển và suy tàn, về linh hồn, về cơ thể sinh vật, về cử động và về sự
sinh đẻ. Loại thứ ba là những sách dạy về cách viết văn và làm thơ. Loại thứ tư
là những sách về triết lý như đạo đức học, chính trị học và siêu hình học.
Toàn thể các tác phẩm có thể xem là một bộ bách khoa của Hy Lạp nhưng khác với
bộ bách khoa của các nước khác ở chỗ chỉ do một người viết ra. Công trình của
Aristote xứng đáng được so sánh với công trình của Alexandre. Văn chương của
Aristote không bóng bẩy và thi vị như của Platon, đó là một loại văn chương
chính xác và khoa học. Aristote phải đặt thêm nhiều từ ngữ mới để có thể diễn tả
tư tưởng. Những từ ngữ Âu Mỹ hiện nay phải mượn ở những tác phẩm của Aristote
như "faculty, mean, maxim, category, energy, actuality, motive, end,
priciple, form ...". Những chữ này không khác gì những viên gạch để xây dựng
tư tưởng và góp phần rất lớn trong công cuộc phát triển tư tưởng đời sau.
Aristote còn viết nhiều tác phẩm văn chương nhưng đến nay đã thất truyền.
Có người cho rằng những tác phẩm của Aristote không phải do chính Aristote soạn
thảo mà do các môn đệ soạn thảo sau khi ghi chú các bài giảng của Aristote. Phần
lớn những tác phẩm này được xuất bản sau khi Aristote qua đời. Chỉ có một số ít
tác phẩm về luận lý và văn chương được xuất bản khi Aristote còn sống. Một số
những tác phẩm khác về siêu hình học và chính trị được sưu tầm từ đống giấy tờ
do Aristote để lại. Có người cho rằng trong tất cả các tác phẩm và Aristote
chúng ta có thể tìm thấy một lối viết văn giống nhau, điều này chứng tỏ rằng
các môn đệ của Aristote thấm nhuần tư tưởng của thầy một cách sâu xa, nếu không
phải tự tay Aristote soạn thảo ra các tác phảm của mình thì các tư tưởng trình
bày chắc chắn là của Aristote.
3. NỀN TẢNG CỦA LUẬN LÝ HỌC
Giá trị của Aristote là ở chỗ ông đã phát minh môn học mới, hoàn toàn không dựa
vào các tác phẩm từ trước để lại. Lối suy luận của người Hy Lạp trước thời
Aristote không được minh bạch, chính Aristote đã chấn chỉnh tình trạng này bằng
cách đặt ra những quy luật cho sự suy luận. Ngay cả Platon đôi khi cũng vấp phải
lỗi lầm suy luận không chính xác. Dưới thời trung cổ, một ngàn năm sau khi
Aristote qua đời người ta còn hăng say dịch lại các sách về luận lý để theo đó
mà hướng dẫn tư tưởng.
Luận lý có nghĩa là nghệ thuật và phương pháp suy nghĩ chính xác. Đó là phương
pháp của tất cả các khoa học, tất cả các nghệ thuật kể cả âm nhạc. Luận lý học
là một khoa học vì nó có thể được trình bày dưới nhiều định luật giống như các
định luật vật lý và hình học, nó cũng là một nghệ thuật vì nó tập cho tư tưởng
quen với lối suy nghĩ chính xác.
Socrate rất chú trọng đến những định nghĩa, đó là bước đầu của luận lý học.
Platon luôn luôn tìm cách làm sáng tỏ các ý niệm của mình. Voltaire thường nói:
"Nếu anh muốn nói chuyện với tôi, trước hết hãy định nghĩa các danh từ của
anh!". Rất nhiều cuộc tranh luận vô ích, rườm rà, tốn nhiều giấy mực và
xương máu có thể tránh khỏi nếu các phe liên hệ định nghĩa rõ ràng những danh từ
của mình. Đó là nền tảng của luận lý học, tất cả các ý niệm, các danh từ đều phải
được cân nhắc kỹ càng, đó là một công việc khó khăn, nhưng một khi đã làm xong
thì mọi khó khăn đã bớt đi được một nửa.
Làm thế nào để định nghĩa một vật hoặc một danh từ? Aristote trả lời rằng
trong mọi định nghĩa chính xác cần phải có 2 phần: phần thứ nhất chỉ rõ vật ấy
thuộc loại nào, phần thứ hai chỉ rõ trong loại ấy, vật ấy có những gì đặc biệt? Ví dụ người là một con vật có lý trí. Định nghĩa này nêu rõ 2 phần: phần thứ
nhất chỉ rõ người là một con vật, phần thứ hai chỉ rõ người khác những con vật
khác ở chỗ nào: ở lý trí.
Có một vấn đề đã làm cho Aristote bất đồng với Platon và gây ra nhiều cuộc
tranh luận sôi nổi. Theo Aristote thì những danh từ như: người, sách, cây...
chỉ những vật tổng quát và trừu tượng không có trên thực tế. Những vật có thật
phải được xác định bằng những tên gọi như ông Athènes, ông B.
Theo Platon thì những vật tổng quát có thực chất và tồn tại lâu dài hơn những vật
đã được xác định. Vì lẽ ấy mà Platon đã cho rằng Quốc gia có trước cá nhân. Sự
cách biệt này có ảnh hưởng rộng lớn trong tư tưởng của hai triết gia. Aristote
thì thực tế, luôn luôn chú trọng đến hiện tại và có một thái độ khách quan.
Trong khi Platon thì mơ mộng, luôn luôn nghĩ đến tương lai và có một thái độ chủ
quan. Một trong các phát minh của Aristote trong lãnh vực luận lý là tam đoạn
luận. Đó là một lối suy luận theo 3 phần, phần thứ ba hay là phần kết luận theo
sau phần thứ nhất và phần thứ hai. Thí dụ người là con vật có lý trí, Socrate
là người, vậy Socrate là một con vật có lý trí. Tam đoạn luận có thể được áp dụng
trong toán học theo các công thức sau đây: A = B, B = C vậy C = A. Điều khó
khăn cần phải giải quyết trong một tam đoạn luận là nếu phần thứ nhất không được
chính xác thì phần kết luận lẽ cố nhiên cũng sai. Tuy nhiên, người ta thường
chú trọng đến phần kết luận hơn là phần thứ nhất, do đó tam đoạn luận không đem
đến những kết quả tốt. Với sự trình bày các phương pháp luận lý Aristote đã có
công lớn với nhân loại là đặt nền tảng cho phương pháp suy luận chính xác mặc
dù môn luận lý học gặp những chông gai và được coi như một môn học khó hiểu.
4. HỆ THỐNG KHOA HỌC
4.1. Khoa học Hy Lạp trước thời Aristote
Học giả Renan cho rằng Socrate đem triết lý cho nhân loại, còn Aristote đem
khoa học cho nhân loại. Đành rằng trước Socrate và trước Aristote cũng có khoa
học và triết lý nhưng còn trong trạng thái thô sơ. Đã có nhiều cuộc nghiên cứu
của người Hy Lạp để phát triển khoa học nhưng những cuộc nghiên cứu ấy ngày nay
không thể xem là khoa học mà chỉ có thể xem như một loại thần học. Nói một cách
khác, dân Cổ Hy Lạp có khuynh hướng giảng giải tất cả những hiện tượng thiên
nhiên như là hành vi của các thần linh.
Một vài người tiên phong tìm cách đi ra khỏi ngõ bí ấy. Thalès (649 - 550 tTL)
được coi là cha đẻ của triết lý xuất thân là một nhà thiên văn lên tiếng công
kích thói mê tín, xem các tinh tú trên trời như những thần linh. Môn đệ của
Thalès là Anaximandre có công vẽ những vị trí của những tinh tú và đưa ra thuyết
táo bạo rằng vũ trụ trước kia chỉ là một khối loãng, các hành tinh và định tinh
từ trong khối ấy mà ra. Vũ trụ xoay vần theo từng chu kỳ hợp rồi tan, tan rồi hợp.
Trái đất nằm trên không trung nhờ sức hút, tất cả các hành tinh đều có chất lỏng,
dần dần chất lỏng ấy bốc hơi do ảnh hưởng của mặt trời. Đời sống bắt đầu ở dưới
biển và lần lần xuất hiện trên mặt đất vì biển bị bốc hơi. Những con vật không
còn nước để sống dần dần tập thở không khí, đó là thủy tổ của những giống vật sống
trên đất. Ngay cả loài người cũng phải có một hình dáng khác bây giờ. Vì nếu
loài người quá yếu ớt lúc sơ sinh và đòi hỏi quá nhiều thời gian để trưởng
thành như ngày nay thì không sao có thể tồn tại đến ngày nay.
Một triết gia khác Anaximènes cho rằng vũ trụ bắt đầu bằng một khối chất loãng.
Khối ấy dần dần cô đọng lại thành gió, mây, nước, đất và đá. Ba trạng thái của
vật là trạng thái khí, lỏng và đặc là 3 giai đoạn của sự cô đọng. Động đất là
do sự cô đọng chất lỏng trong lòng đất. Đời sống và linh hồn là một sức mạnh tiềm
tàng có mặt khắp nơi.
Anaxagoras tìm cách giảng giải nhật thực và nguyệt thực. Ông là thầy học của
danh tướng Periclès. Ông khám phá sự hô hấp của cây cỏ và loài vật. Ông đưa ra
giả thuyết rằng sở dĩ loài người thông minh hơn súc vật là nhờ biết đi 2 chân
trong khi dành 2 tay để làm những việc khác.
Một học giả khác tên là Héraclite đã hy sinh tất cả của cải để hiến mình cho sự
nghiên cứu khoa học. Ông tìm thấy rằng tất cả mọi vật đều thay đổi. Tạo hoá
xoay vần theo từng chu kỳ. Sự đấu tranh là cha đẻ của vạn vật. Một học giả khác
đã đưa ra thuyết tiến hoá: ông cho rằng các bộ phận trong cơ thể của muôn loài
đều thay đổi theo với luật đào thải. Những bộ phận nào đáp ứng với nhu cầu và
thích hợp với hoàn cảnh sẽ được tồn tại trong khi những bộ phận khác không
thích hợp sẽ bị đào thãi. Một vài học giả khác đã đi gần đến thuyết nguyên tử
dù một cách rất thô sơ. Họ cho rằng ngoài thế giới hiện tại còn có vô số thế giới
khác. Các hành tinh trong vũ trụ thường va chạm nhau và làm tan vỡ nhiều thế giới.
Trên đây là những điều mà các học giả Hy Lạp dưới thời Aristote đã tìm thấy. Cần
phải công nhận mặc dù với những dụng cụ thô sơ, công trình phát minh của họ
không phải nhỏ. Mặt khác, chính chế độ nô lệ làm trì hoãn các phát minh khoa học
giúp ích đời sống: trong khi các nô lệ làm tất cả những công việc nặng nhọc thì
không ai nghĩ đến việc phát minh máy móc làm gì. Trái lại phần lớn tư tưởng các
học giả hướng về các vấn đề chính trị và xã hội trong một nước Hy Lạp bị chia rẽ
bởi nhiều phe nhóm chống đối nhau gay gắt. Do đó triết lý và khoa học chính trị
có phần phong phú hơn những ngành khoa học khác.
Nếu chúng ta bắt đầu bằng cách khảo sát một tác phẩm của Aristote nhan đề là Vật
lý học, chúng ta sẽ bị thất vọng. Sự thật là trong cuốn vật lý học ấy chỉ trình
bày những khái niệm siêu hình về vật chất, sự chuyển động, không gian, thời
gian, nguyên lý, và những khái niệm tương tự. Một đoạn đặc sắc trong tác phẩm
trên là đoạn công kích khái niệm chân không của một học giả đương thời.
Aristote cho rằng trong vũ trụ không làm gì có chân không. Ngày nay thuyết của
Aristote đã bị khoa học chứng minh là sai, nhưng chính nhờ sự công kích mà
chúng ta biết được một thuyết khoa học có giá trị. Về khoa thiên văn Aristote
không tiến bộ hơn các học giả đương thời là bao. Ông công kích thuyết của
Pythagore cho rằng mặt trời là trung tâm điểm của thái dương hệ, ông một dành
vinh dự ấy cho trái đất. Tuy nhiên ông cũng có nhiều nhận xét giá trị về sức
nóng của mặt trời làm bốc hơi nước biển, làm cạn sông ngòi, nước bốc hơi thành
mây và rơi xuống thành mưa. Ông cho rằng xứ Ai cập là công trình của xông Nil:
chính phù sa của nước sông này trong hàng ngàn thế kỷ đã đem lại cho xứ Ai cập
những vùng đất phì nhiêu. Aristote cũng đã giảng giải một cách thoả đáng sự
thành lập các lục địa trên trái đất, ông cho rằng các lục địa được nảy sinh và
dần dần biến mất dưới đáy biển cùng với tất cả những nền văn minh ở trên ấy
trong một sự thay đổi tuần hoàn. Con người đi từ trạng thái sơ khai đến trạng
thái văn minh cực độ rồi sẽ trở về trạng thái sơ khai do những biến cố vĩ đại của
tạo hoá.
4.3 Nền tảng của khoa sinh vật học
Trong khi Aristote quan sát những loại sinh vật trong vườn bách thảo rộng lớn của
ông, tự nhiên ông nhận thấy rằng những loại sinh vật có thể được xếp hạng và giữa
những hạng ấy có những mối liên hệ mật thiết trong nhiều phương diện khác nhau
chẳng hạn như trong sự cấu tạo cơ thể, cách sinh sống, sự thụ thai, sự cảm
xúc... Những mối liên hệ này nối liền những loại sinh vật thô sơ nhỏ bé nhất đến
những loại sinh vật phức tạp nhất. Trong lĩnh vực những loại sinh vật thô sơ nhỏ
bé người ta rất khó lòng phân biệt một sinh vật và một khoáng chất. Aristote
cho rằng ranh giới giữa một sinh vật và một khoáng chất trong lãnh vực này rất
mơ hồ và đáng nghi ngờ. Mặt khác, người ta không thể phân biệt động vật và thực
vật. Đối với một vài loại có thể xem là thực vật cũng được mà xem là động vật
cũng được. Trong nhiều trường hợp khác rất khó phân biệt một loại này với một
loại khác. Người ta có thể kết luận rằng đời sống trên trái đất phát triển một
cách liên tục từ trạng thái thô sơ nhất đến trạng thái phức tạp nhất. Trí thông
minh cùng phát triển theo với trạng thái, nói cách khác: trạng thái càng phức tạp,
trí thông minh càng phát triển. Đồng thời các cơ quan kiểm soát càng ngày càng
tập trung, thần kinh hệ được phát triển cùng với sự tập trung này.
Mặc dù có những nhận xét xác đáng kể trên, Aristote không chủ trương thuyết tiến
hoá. Ông đả kích thuyết cho rằng các sinh vật đấu tranh để sống và chỉ những
sinh vật nào thích hợp nhất mới được tồn tại. Ông cũng phủ nhận thuyết cho rằng
con người trở nên thông minh nhờ dùng 2 tay để làm việc thay vì để di chuyển.
Ông nói rằng cần phải suy nghĩ ngược lại nghiã là con người biết dùng 2 tay để
làm việc vì đã trở nên thông minh.
Vì các phương tiện nghiên cứu và quan sát trong lãnh vực này còn thiếu sót nên
Aristote có nhiều lầm lẫn: Ông không biết gì về sự hiện hữu của các bắp thịt
trong cơ thể, ông không phân biệt động mạch và tĩnh mạch, ông tưởng rằng khối
óc dùng để làm cho máu trở nên lạnh, ông tin rằng đàn ông có nhiều mảnh xương sọ
hơn đàn bà, ông tin rằng người ta chỉ có 8 cặp xương sườn và đàn bà có ít răng
hơn đàn ông.
Đó là những sự nhầm lẫn tuy rõ ràng nhưng không quan trọng so với sự đóng góp của
Aristote vào nền sinh vật học. Ví dụ ông biết rằng loài chim và loài bò sát có
cơ thể rất giống nhau, loài khỉ là một loài trung gian giữa người và vật 4
chân. Ông nhận xét rằng linh hồn của trẻ sơ sinh cũng giống như linh hồn của
súc vật. Các món ăn quyết định cách sinh sống: có những con thú sống theo đàn,
có những con thú sống cô độc, miễn làm sao chúng có thể kiếm ăn một cách dễ
dàng. Ông đã tìm ra kết luận gần giống như thuyết của Von Baer về các đặc tính
của giống nòi và thuyết của Spencer về sự tương quan của các giống vật và sự
phát triển của chúng. Nói một cách khác, một giống vật càng phát triển thì sự
sinh đẻ càng ít. Ông nhận xét khuynh hướng bình đẳng của các giống vật nghĩa là
những phần tử xuất chúng, do sự giao cấu với các phần tử thấp kém hơn dần dần sẽ
mất các đặc tính của mình. Sau hết Aristote tạo nên một khoa học về sự phát triển
của bào thai. Ông nói rằng muốn quan sát sự vật một cách chính xác không gì bằng
quan sát ngay trong thời kỳ thai nghén. Hyppocrate cũng đã áp dụng phương pháp
này bằng cách quan sát trứng gà lộn trong những thời kỳ khác nhau và đã viết cuốn
sách nhan đề là Nguồn gốc của đứa trẻ. Aristote cũng nghiên cứu hiện tượng này
và những nhận xét của ông còn làm cho các nhà khoa học ngày nay phải ngạc
nhiên. Chắc ông đã làm nhiều thí nghiệm về khoa sinh sản vì ông phủ nhận thuyết
cho rằng nam tính hoặc nữ tính của bào thai phụ thuộc vào vị trí của ngọc hành.
Ông còn đưa ra nhiều vấn đề thời sự về nhân chủng chẳng hạn như ông đã nhận xét
một cuộc hôn nhân giữa người đàn bà da trắng và người đàn ông da đen. Tất cả những
đứa con sinh ra đều da trắng nhưng đến thế hệ thứ hai thì nhiều đứa con da đen
xuất hiện. Đó chỉ là một nhận xét mở đầu cho định luật danh tiếng về nhân chủng
học mệnh danh là định luật Mendel. Nói tóm lại mặc dù những sai lầm trong các
tác phẩm về sinh lý học của ông, Aristote cũng đã đặt nền móng cho khoa học này.
Nếu chúng ta để ý rằng các phương pháp sưu tầm và nghiên cứu thời ấy rất thô
sơ, chúng ta phải công nhận thiên tài vĩ đại của Aristote.
5. SIÊU HÌNH HỌC VÀ THỰC CHẤT CỦA THIÊN CHÚA
Có thể nói rằng siêu hình học theo Aristote là sự tiếp tục của sinh lý học. Tất
cả mọi vật trong vũ trụ đều tiến hoá do một sức mạnh nội tâm. Mỗi một thực thể
có thể được xem như một hình thể do một nguyên thể mà phát sinh ra. Ví dụ con
người là hình thể, do đứa trẻ là nguyên thể phát sinh. Đứa trẻ là hình thể do
bào thai là nguyên thể phát sinh. Bào thai là hình thể do noãn châu là nguyên
thể phát sinh. Nếu chúng ta đi lần mãi vào nguồn gốc của nguyên thể chúng ta sẽ
tìm thấy một ý niệm về nguyên thể mà không có hình thể (tức là Thiên chúa). Tất
cả mọi vật trong vũ trụ đều tiến triển đến một cứu cánh, cứu cánh cuối cùng mới
là quan trọng. Những sự nhầm lẫn của tạo hoá là nguyên do của những quái thai.
Sự phát triển không phải là một việc ngẫu nhiên mà chính đã được hướng dẫn từ
bên trong. Ví dụ cái trứng gà được cấu tạo để thành một con gà chứ không phải một
con vịt, hột bồ đề được cấu tạo để thành một cây bồ đề chứ không phải một cây
lau. Do đó theo quan niệm của Aristote thì quyền lực của Thiên chúa được thể hiện
trong các hiện tượng thiên nhiên.
Aristote quan niệm rằng có một Thiên chúa. Ông đi từ quan niệm cử động trong vũ
trụ: mọi vật trong vũ trụ đều cử động xoay vần mãi mãi, nguyên do sự cử động ấy
là ở đâu ? Aristote cho rằng nguyên do ấy là ở Thiên chúa, đó là vị chúa tể đã
làm cho các tinh tú và hành tinh trong vũ trụ hoặc các yếu tố nhỏ hơn được xoay
vần cử động theo một định luật bất di bất dịch. Vị chúa tể này không có hình thể,
không thể phân chia, không thể thay đổi, không thể bị huỷ diệt. Theo Aristote
thì Thiên chúa không tạo nên vũ trụ, ngài chỉ làm cho vũ trụ cử động. Ngài là cứu
cánh cuối cùng của sự vật, là nguyên thể của vũ trụ, là lẽ sống, là toàn thể những
diễn tiến sinh lý, là động lực của toàn thể. Ngài là năng lực hoàn toàn, có thể
so sánh được với quan niệm năng lực của nền khoa học và triết lý hiện đại.
Aristote còn quan niệm rằng thượng đế là một thực thể có nhiều bí hiểm vì ngài
không bao giờ làm gì, không có ý muốn, không có mục đích, không có hành động.
Vì ngài là đấng toàn năng nên không bao giờ ngài ước muốn, vì không ước muốn
nên không bao giờ ngài hành động.
6. TÂM LÝ HỌC VÀ BẢN CHẤT CỦA NGHỆ THUẬT
Tâm lý học của Aristote cũng có nhiều khó hiểu và mâu thuẫn. Trong của tác phẩm
có nhiều đoạn đáng để ý, chẳng hạn Aristote là người đầu tiên biết đến mãnh lực
của thói quen và xem đó như thiên chất thứ hai của con người. Đối với vấn đề tự
do của ý chí và bất tử của linh hồn thì ý kiến của Aristote không được đồng nhất,
khi thì ông lý luận theo thuyết định mệnh nghĩa là con người không thể làm khác
hơn cái gì định mệnh đã an bài. Khi thì ông cho rằng con người có tự do định đoạt
số phận của mình bằng cách lựa chọn những bối cảnh của cuộc sống, ví dụ chúng
ta có thể tự tạo nên một nhân cách bằng cách chọn lựa bè bạn, sách báo, nghề
nghiệp và các trò giải trí. Aristote không tiên liệu rằng những kẻ theo thuyết
định mệnh sẽ cãi lại ông ta bằng cách nói rằng chính tánh tình của chúng ta ảnh
hưởng đến sự chọn lựa bè bạn, sách báo, nghề nghiệp và trò giải trí của chúng
ta. Aristote còn cho rằng con người muốn được khen và sợ bị chỉ trích, chính yếu
tố này làm cho họ phải chọn lựa và cũng chứng minh sự tự do chọn lựa của con
người. Lý luận này cũng không đứng vững vì chính sự khen chê định đọat hành vi
của con người chứ không phải sự tự do lựa chọn.
Aristote còn đưa ra một lý thuyết về linh hồn. Theo ông thì linh hồn là sức sống
của mọi sinh vật. Trong cỏ cây thì linh hồn chỉ là khả năng dinh dưỡng và sinh
sản, trong loài động vật linh hồn là khả năng di chuyển và cảm xúc, trong loài
người linh hồn là khả năng lý luận và suy tư. Vì là một khả năng, linh hồn
không thể tồn tại ngoài thể chất. Tuy nhiên trong một đoạn khác bằng một lối lý
luận dông dài, Aristote lại cho rằng linh hồn có thể tồn tại. Lối lý luận này tỏ
ra mâu thuẫn và có nhiều chỗ tối nghĩa.
Trong một tác phẩm khác, Aristote bàn về nghệ thuật và thẩm mỹ. Ông nói rằng
nghệ thuật phát minh do nhu cầu của con người muốn diễn tả những cảm nghĩ, cảm
giác của mình. Trong bản chất, nghệ thuật là một sự bắt chước và phản ảnh thiên
nhiên giống như cái kiếng thu những hình ảnh của tạo vật. Trong tất cả mọi người
đều có bản năng bắt chước, một bản năng mà thú vật thấp kém không có. Tuy nhiên
mục đích của nghệ thuật không phải là diễn tả bề ngoài của sự vật mà chính là
diễn tả ý nghĩa ở bên trong.
Nghệ thuật cao cả nhất vừa đánh động lý trí vừa đánh động tình cảm, tạo nên một
khoái cảm cao cả nhất cho con người. Do đó các công tác nghệ thuật phải hướng về
sự đồng nhất. Ví dụ một vở kịch phải có cốt chuyện đồng nhất, nghĩa là không được
có những giai đoạn đi ra ngoài đề. Sau cùng nhiệm vụ của nghệ thuật là sự thanh
lọc: những cảm giác chất chứa trong con người do đời sống xã hội tạo nên có thể
tìm thấy ở nghệ thuật một lối thoát êm đẹp thay vì gây ra sự bạo động. Những ý
nghĩ trên đây ngày nay vẫn còn có giá trị và mở màn cho những thuyết tân kỳ về
sức mạnh của nghệ thuật.
7. ĐẠO ĐỨC HỌC VÀ BẢN CHẤT CỦA HẠNH PHÚC
Số môn đồ đến xin học với Aristote càng ngày càng đông, môn học càng ngày càng
mở rộng từ vấn đề khoa học đến các vấn đề đạo đức. Những câu hỏi sau đây được đặt
ra: cuộc đời lý tưởng phải thế nào ? Cái gì là mục đích tối thượng của cuộc đời? Đạo đức là gì? Làm sao có thể tìm thấy hạnh phúc?
Thái độ của Aristote rất thực tế trước những vấn đề này. Ông không khuyên bảo
môn đệ phải theo những lý tưởng quá cao xa. Quan niệm về bản chất con người của
Aristote là một quan niệm rất lành mạnh: tất cả những lý tưởng đều có một căn bản
thiên nhiên và tất cả những cái gì thiên nhiên đều có thể nẩy nở thành lý tưởng.
Aristote chấp nhận một cách thẳng thắn rằng mục đích trực tiếp của cuộc đời
không phải là cái hay cái đẹp mà chính là hạnh phúc. Aristote nói rằng người ta
tìm kiếm tiền tài, danh vọng, khoái lạc vì người ta tưởng rằng những thứ đó đem
đến hạnh phúc. Tuy nhiên cần phải biết rõ hạnh phúc thật sự là gì và con đường
nào đưa đến hạnh phúc. Aristote trả lời câu hỏi này bằng cách tìm những đặc điểm
phân biệt loài người và những loài vật khác. Ông cho rằng hạnh phúc là sự phát
triển hoàn toàn đầy đủ các đức tính của con người. Đức tính nổi bật nhất của
loài người là khả năng suy luận, chính nhờ đức tính này mà loài người đứng trên
tất cả loài vật khác. Chính vì vậy mà khả năng suy luận một khi được phát triển
hoàn toàn đầy đủ sự đem đến hạnh phúc hoàn toàn cho con người.
Điều kiện của hạnh phúc do đó là sự phát triển của khả năng suy luận. Đạo đức
tuỳ thuộc vào sự suy luận chính xác, sự kiểm soát tinh thần, sự quân bình của
lòng ham muốn. đó không phải là những đức tính của những người thường mà là kết
quả của sự tập luyện và kinh nghiệm trong những người hoàn toàn trưởng thành.
Con đường đi đến mục đích đó là ý niệm trung dung. Mỗi một đặc tính có thể xếp
thành 3 loại: loại đầu và loại chót là những đặc tính quá khích, chỉ loại giữa
mới là đạo đức. Ví dụ sự nhút nhát và tánh liều lĩnh thuộc về loại đầu và loại
chót, nghĩa là những đặc tính quá khích. Tánh rộng rãi nằm giữa tánh biển lận
và phung phí. Tánh khiêm nhượng nằm giữa tánh rụt rè và ngạo mạn. Tánh vui vẻ nằm
giữa tánh cau có và tánh ba hoa sống sượng...
Thuyết trung dung không phải là một thuyết có thể áp dụng một cách máy móc theo
toán học. Điểm trung dung có thể thay đổi tuỳ theo trường hợp và chỉ có thể tìm
thấy bằng sự suy luận trưởng thành. Chính thói quen quy luận đưa người ta đến
chỗ thánh thiện. Một người hành động chính đáng không phải vì lý do họ là một
người có đạo đức nhưng ngược lại chính vì họ có đạo đức do sự huấn luyện suy tư
công phu mà họ hành động chính đáng. Con người có thể được đánh giá bằng những
hành động của họ. Do đó sự thánh thiện không phải là một hành động đơn độc mà
chính là một thói quen. Người ta còn nhớ câu nói bất hủ của Aristote về vấn đề
này: "Một con én không làm nổi một mùa xuân". Tuổi trẻ là thời kỳ quá
khích: nếu một thiếu niên lầm lỗi thì chắc chắn lỗi lầm đó là do sự quá khích
mà ra. Sự khó khăn của tuổi trẻ là làm sao không đi từ thái cực này đến thái cực
khác vì người ta thường có khuynh hướng sửa sai một cách quá đáng. Những người ở
một thái cực có khuynh hướng cho rằng đạo đức không phải nằm ở điểm trung dung
mà nằm ở thái cực kia.
Họ có khuynh hướng sửa mình như một người uốn một khúc tre cong: muốn làm khúc
tre thẳng họ phải uốn cong về chiều ngược lại. Cũng có trường hợp những kẻ quá
khích xem điểm trung dung như một lỗi lầm lớn, người can đảm bị kẻ nhút nhát
xem là liều lĩnh trong khi đó những người liều lĩnh lại xem những người can đảm
như là nhút nhát. Trong lãnh vực chính trị những kẻ ôn hoà bị kẻ quá khích xem
là bảo thủ và bị kẻ bảo thủ xem là quá khích.
Thuyết trung dung là một đặc điểm chẳng những của Aristote mà còn của nền triết
lý Hy Lạp. Platon xem đạo đức là những hành động điều hoà không quá khích,
Socrate xem đạo đức là do sự suy luận mà có, trong đền thờ Apollon người ta có
khắc những chữ meden agan có nghĩa là không làm cái gì quá trớn. Người Hy Lạp
cho rằng sự đam mê tự nó không phải là một điều xấu, nó là nguyên liệu tạo nên
điều xấu hoặc điều tốt tuỳ theo cách sử dụng có chừng mực hoặc không có chừng mực.
Tuy nhiên thuyết trung dung chưa phải là bí quyết đem đến hạnh phúc. Aristote
cho rằng những nhu cầu vật chất cũng cần thiết. Sự nghèo túng quá độ làm cho
con người đâm ra biển lận, một tài sản vừa phải đem đến cho con người một đời sống
tự do không tham lam giành giựt quá đáng, đó cũng là một đặc điểm của chế độ
quý tộc. Một yếu tố khác rất cần thiết cho đời sống hạnh phúc là sự kết bạn.
Càng được san sẻ, hạnh phúc càng tăng trưởng. Khái niệm về công bằng không quan
trọng trong tình bằng hữu, khi đã là bạn, người ta không nghĩ đến sự công bằng
so đo tính toán trong việc giao thiệp. Mặt khác, số bạn chân thật không thể có
nhiều: kẻ nào có quá nhiều bạn thật ra không có người bạn nào. Làm bạn với tất
cả mọi người là một điều không thể thực hiện được. Tình bạn chân thật phải được
thử thách với thời gian, nó đòi hỏi sự ổn định trong tánh tình. Một khi tánh
tình không ổn định thì sự kết bạn lẽ cố nhiên cũng bị ảnh hưởng. Bình đẳng là một
yếu tố cần thiết trong sự giao thiệp, sự biết ơn không làm cho sự giao thiệp được
lâu dài. Những kẻ thi ơn luôn luôn muốn người khác chịu ơn mình mãi mãi trong
khi những kẻ chịu ơn luôn luôn muốn xa lánh kẻ thi ơn càng sớm càng tốt. Do đó,
sự giao thiệp không thể nào được vững bền.
Mặc dù các tiện nghi vật chất cần thiết cho đời sống hạnh phúc, yếu tố chính là
sự sáng suốt của tâm hồn. Những khoái lạc giác quan không phải là chìa khoá của
hạnh phúc. Một đời sống chính trị như làm lãnh tụ một quốc gia hoặc một đảng
phái không thể đi đôi với hạnh phúc. Những người làm chính trị phải chiều theo
sở thích của quần chúng mà không có gì thay đổi bấp bênh bằng sở thích quần
chúng. Hạnh phúc phải là sự khoái lạc của tâm trí.
Con người lý tưởng của Aristote không làm việc nguy hiểm một cách vô ích nhưng
gặp trường hợp cần thiết họ có thể hy sinh tánh mạng vì có nhiều lúc đời sống
thật không còn đáng sống. Họ sẵn lòng giúp đỡ kẻ khác nhưng nhận sự giúp đỡ một
cách rất dè dặt. Họ không tìm cách phô trương, họ thẳng thắn nói lên những điều
ưa và ghét, hành động một cách chân thật.
Họ không bao giờ khen ai quá đáng vì họ nhận thấy rằng ở trên đời thật sự không
có cái gì đáng khen cả. Họ không thể sống a dua với kẻ khác vì tánh a dua là đặc
tính của kẻ nô lệ. Họ không bao giờ muốn làm hại ai và sẵn lòng tha thứ tất cả
những lỗi lầm của kẻ khác. Họ không muốn nói chuyện nhiều, cũng không muốn được
người khác tâng bốc hoặc chỉ trích người khác. Họ không nói xấu người khác dù
đó là kẻ thù của họ. Họ đi đứng khoan thai, nói năng ôn tồn, không bao giờ hấp
tấp vì tâm trí họ không bị bận rộn bởi những điều phức tạp. Họ không bao giờ
hăng hái quá độ vì họ biết rằng trên đời này không có cái gì quan trọng. Họ chịu
đựng những sự bất trắc ở đời một cách vui vẻ và đoan trang, giống như một tướng
lãnh giỏi cầm quân ngoài mặt trận nắm vững chiến thuật chiến lược. Họ thích sống
một mình và không sợ sự cô đơn. Đó là con người lý tưởng của Aristote.
8. KHOA HỌC - CHÍNH TRỊ
8.1. Cộng sản và bảo thủ
Tư tưởng chính trị của Aristote lẽ tất nhiên phải chịu ảnh hưởng của những tư
tưởng về đạo đức kể trên. Nói cách khác Aristote thiên về chế độ quí tộc. Mặt
khác, với tư cách là thầy học của một vị hoàng đế và chồng của một vị công
chúa, Aristote không có lý do để thiên về thuyết dân chủ hoặc có cảm tình với
giai cấp thương gia: Túi tiền của chúng ta nằm ở đâu, triết lý của chúng ta nằm
ở đó.
Thêm vào đó tư tưởng ôn hòa của Aristote có thể xem là hậu quả của những tệ
đoan do một nền dân chủ quá bê bối. Ông ước mong tìm lại nền an ninh trật tự và
hoà bình. Ông cho rằng cần phải chấm dứt những cuộc phiêu lưu chính trị. Chỉ
trong những tình thế ổn định con người mới có quyền quá khích. Aristote nói rằng
:"người ta có thói quen thay đổi luật lệ quá dễ dàng, làm như vậy lợi bất
cập hại. Chúng ta cần phải chịu đựng những điểm thiếu sót nhỏ nhặt của nhà làm
luật hơn là đòi thay đổi luật pháp. Quốc gia sẽ không có lợi gì một khi dân
chúng làm quen với thái độ bất phục tùng và luôn luôn đòi thay đổi luật pháp. Sự
tuân hành luật pháp (rất cần thiết cho sự ổn cố chính trị ) thường bắt nguồn ở
tập tục. Thay đổi luật pháp khác gì phá vỡ nguồn gốc của sự tuân hành luật
pháp.
Aristote chỉ trích chế độ cộng sản của Platon, cho đó là một chế độ không tưởng.
Ông không đồng ý với cuộc sống tập thể của giai cấp thống trị theo kiểu Platon;
ông thích những đức tính cá nhân, sự tự do, sự hữu hiệu và trật tự xã hội. Ông
không muốn xem tất cả người xung quanh là anh chị, xem tất cả người có tuổi là
cha mẹ. Nếu tất cả đều là anh chị, lẽ tất nhiên không có người nào thực sự là anh
chị. Thà rằng có một người bà con xa, song thật sự là bà con còn hơn có những
người bà con theo kiểu Platon. Trong một xã hội mà tất cả phụ nữ và nhi đồng đều
là của chung, tình yêu thương sẽ phai nhạt. Chỉ những cái gì thực sự của ta mới
được chiều chuộng và gắn bó.
Rất có thể rằng trong quá khứ xa xôi có một xã hội sống theo chế độ cộng sản.
Trong xã hội đó một gia đình được coi như một quốc gia và tất cả hoạt động kinh
tế tập trung vào việc cày ruộng và nuôi súc vật. Đối với một xã hội phát triển
hơn, cần có sự phân công phức tạp hơn, khả năng của con người không thể đồng nhất
như xưa và do đó không thể áp dụng chế độ cộng sản được. Cần phải có sự thúc đẩy
tâm lý con người mới chịu tự rèn luyện để đảm nhận những công việc chuyên môn,
cần phải có phần thưởng của tư sản con người mới chịu hăng hái phát triển kỹ
nghệ và chăn nuôi. Khi tất cả tài sản là của chung, thì không một ai chịu lo lắng
giữ gìn tài sản ấy, người ta có khuynh hướng lo lắng cho cái gì thuộc riêng
mình và hoàn toàn lơ là trước các vấn đề chung. Cuộc sống tập thể theo kiểu cộng
sản tạo nhiều vấn đề nan giải, không chóng thì chầy các cá nhân sẽ tìm cách gây
gổ nhau để phân chia của cải.
Người ta thường chỉ trích chế độ tư sản, cho đó là nguyên do của tất cả các tệ
đoan xã hội. Sự thật thì nguyên do của các tệ đoan ấy không phải ở chế độ tư sản
mà ở bản tánh con người. Khoa học chính trị không đủ sức để làm nên những con
người mới mà phải quan tâm đến đặc tánh hiện hữu của con người. Nói một cách tổng
quát, con người gần con thú hơn là gần các thiên thần. Phần đông đều u mê và lười
biếng. Dù ở trong chế độ nào đi chăng nữa những người ấy cũng nằm vào hạng
chót. Chủ trương giúp đữ họ không khác gì chủ trương đổ nước vào một cái thùng
bể. Họ phải được cai trị trên phương diện chính trị và sai bảo trên phương diện
kinh tế, sự đồng ý của họ hoàn toàn không cần thiết. Từ lúc ra đời đã có những
người sinh ra để bị sai khiến và những người khác sinh ra để sai khiến. Những
người có khả năng suy nghĩ và tiên liệu là những người sinh ra để làm chủ, những
người chỉ có thể làm việc bằng chân tay là những người sinh ra để bị sai khiến.
Sự phân công trong xã hội không khác gì sự phân công trong cơ thể: những người
chỉ huy không khác gì bộ óc, những người thi hành không khác gì chân tay, chân
tay phải phụ thuộc vào bộ óc cũng như người thừa hành phụ thuộc vào người chỉ
huy. Người thừa hành là một dụng cụ có đời sống và dụng cụ là một người thừa
hành không có đời sống. Aristote tiên liệu sự tiến triển của xã hội đến một đời
sống máy móc khi ông viết những dòng sau đây: "Nếu tất cả các dụng cụ đều
tự động làm việc, nếu máy dệt tự dệt lấy quần áo, nếu cái đàn tự phát ra những
âm thanh... thì lúc đó người ta không cần đến những kẻ thừa hành hoặc những nô
lệ nữa".
Lối suy nghĩ trên chứng tỏ thái độ khinh nghề lao động chân tay của người Hy Lạp.
Nguyên do là đời sống lúc bấy giờ còn thô sơ và công việc lao động chân tay
không đòi hỏi nhiều khả năng như bây giờ. Aristote xem những người lao động
chân tay như những người hoàn toàn không biết suy nghĩ. Những công việc ấy chỉ
thích hợp với giai cấp nô lệ và cũng dễ nô lệ hoá con người. Aristote cho rằng
công việc lao động chân tay làm cho trí óc cằn cỗi, không có thì giờ hoặc năng
lực để suy nghĩ về chính trị. Do đó Aristote cho rằng chỉ những người rảnh rang
mới được quyền tham gia chính trị. Những kẻ làm thợ nhiều khi còn bị mất quyền
công dân. Ở Thèbes còn có một đạo luật cấm những thương gia giữ chức vụ trong
chính phủ nếu họ chưa hoàn toàn từ bỏ tất cả các hoạt động thương mãi trong thời
hạn 10 năm trở về trước. Những kẻ cho vay, đổi tiền, được Aristote xếp vào hạng
nô lệ. Ông coi việc buôn bán như một hành động bất chính và sự cho vay nặng lãi
như một hành động đáng ghét. Tiền bạc dùng để giao hoán, không phải để sinh lợi.
Sự nghiên cứu tài chánh là những việc đáng làm đối với một triết gia, nhưng các
hoạt động tài chánh là những việc không xứng đáng với một công dân.
8.2. Hôn nhân và giáo dục
Đàn bà là nô lệ, đàn ông là chủ. Sự tương quan giữa đàn bà và đàn ông không
khác gì sự tương quan giữa những kẻ trí thức và những kẻ lao động chân tay hoặc
giữa những kẻ man rợ và những công dân Hy Lạp. Aristote cho rằng đàn bà chỉ có
thể tuân lệnh. Theo bản chất, phụ nữ không có ý chí, do đó không thể tự lập. Việc
làm thích hợp nhất đối với phụ nữ là coi sóc nhà cửa. Không nên làm cho phụ nữ
được ngang quyền với nam giới như Platon đã chủ trương. Trái lại sự cách biệt cần
phải được tăng thêm vì chính sự cách biệt ấy khuyến khích gần gũi giữa nam giới
và nữ giới. Sự can đảm của nam giới không giống như sự can đảm của nữ giới như
Socrate đã chủ trương. Aristote cho rằng sự can đảm của nam giới thể hiện trong
việc chỉ huy, sự can đảm của nữ giới thể hiện trong sự phục tòng. Giữ im lặng
là sự vinh quang của nữ giới.
Trên thực tế Aristote cũng nhận rằng sự phân chia khả năng trên ít khi được thực
hiện. Thường thường trong gia đình chiến thắng không phải về tay kẻ có sức mạnh
vật chất mà về tay kẻ biết nói nhiều và nói dai. Để cứu vãn nam giới khỏi thiệt
thòi, Aristote khuyên nam giới chỉ nên lập gia đình vào lúc 37 tuổi và chỉ nên
cưới những người vợ vào khoảng 20 tuổi. Một thiếu nữ vào khoảng 20 đủ sức đương
đầu với một nam nhi vào khoảng 30, do đó cần phải lấy người chồng vào khoảng 37
thì trật tự gia đình mới bảo toàn. Mặt khác, Aristote bênh vực cho thuyết của
mình với nhận xét rằng với số tuổi chênh lệch ấy, khả năng sinh sản của hai vợ
chồng mới có thể chấm dứt vào một lúc. Nếu người chồng còn khả năng này hoặc
ngược lại thi đời sống gia đình sẽ khó khăn. Đối với nam giới tuổi chấm dứt
sinh sản là 70, đối với nữ giới tuổi chấm dứt sinh sản là 50, do đó tuổi cưới hỏi
cần phải phù hợp.
Nếu 2 vợ chồng trẻ quá thì sức khỏe của con cái sẽ bị tổn thương. Những cặp vợ
chồng trẻ thường sinh con gái nhiều hơn con trai. Sức khoẻ quan trọng hơn tình
yêu giữa vợ chồng. Những phụ nữ lập gia đình quá sớm thường dễ hư hỏng, những
thanh niên lập gia đình quá sớm thường không phát triển được tất cả những khả
năng vật chất và tinh thần của mình. Vấn đề hôn nhân là một vấn đề tối quan trọng
đối với quốc gia xã hội, vì vậy cần phải được hướng dẫn và kiểm soát bởi chính
phủ: chính phủ phải ấn định tuổi tối thiểu và tuổi tối đa để kết hôn cho mọi
công dân nam nữ, những thời kỳ nào được phép sanh sản và mức độ gia tăng của
dân số. Nếu mức độ này quá lớn cần phải áp dụng phương pháp phá thai. Dân số
trong mỗi quốc gia tuỳ thuộc vào các nguồn lợi và vị trí của quốc gia ấy. Nếu
dân số quá ít quốc gia không thể tự túc, nếu dân số quá nhiều các nguyên tắc
dân chủ sẽ khó áp dụng. Dân số một quốc gia không nên quá 10 000 người.
Chính phủ cũng phải kiểm soát nền giáo dục. Muốn chính thể được lâu dài, nền
giáo dục phải thích hợp. Những kẻ xuất chúng phải được huấn luyện để trở nên những
nhà cai trị. Họ sẽ sống một cuộc đời hoàn toàn vì quyền lợi chung, không đếm xỉa
đến của cải riêng. Toàn dân phải được huấn luyện để biết tuân theo pháp luật.
Những công dân tốt trước khi trở thành người chỉ huy giỏi phải là người thừa
hành giỏi. Nền giáo dục còn có tác dụng thống nhất quốc gia, vượt lên trên những
vấn đề chia rẽ địa phương. Các thanh thiếu niên cần phải thấm nhuần các điều lợi
ích do cuộc sống tập thể đưa lại. Một con người có giáo dục là một con vật (người?) tốt nhất, những kẻ sống cô độc làm những kẻ tệ hại nhất. Nếu sự bất công được
sử dụng võ khí thì tệ hại càng lớn hơn. Những kẻ có giáo dục không biết hoà
mình vào đời sống xã hội cũng đáng sợ hơn, chúng là những con vật tham lam, chỉ
sự kiểm soát của xã hội mới đem chúng về con đường đạo đức.Nhờ lời nói con người
họp thành một xã hội, nhờ xã hội con người phát triển trí thông minh, nhờ trí
thông minh con người sống trong trật tự, nhờ trật tự con người đi đến văn minh.
Chính trong xã hội con người mới có những cơ hội để phát triển. Chỉ những thú vật
hoặc những thánh hiền mới sống cô độc.
Những cuộc cách mạng bao giờ cũng đáng trách. Chúng có thể đem lại một vài cải
cách, nhưng con người phải trả giá quá đắt. Khuyết điểm lớn nhất là tình trạng
hỗn độn có thể đưa đến sự phá huỷ trật tự xã hội và cơ cấu quốc gia. Những sự cải
cách đôi khi có thể thấy được hoặc tính toán được nhưng các điều bất tiện thì
thường thường không thể ngừa trước được mà có khi lại rất quan trọng. Sở dĩ người
ta phê phán một cách dễ dàng là vì người ta chỉ nhìn sự vật một cách hời hợt.
Những người trẻ tuổi thường dễ bị lừa gạt vì họ tin một cách quá dễ dàng. Huỷ bỏ
những tập tục cổ xưa là một việc làm rất nguy hiểm có thể đe doạ sự ổn cố của
chính thể. Mặc dù được chính thức huỷ bỏ các tập tục cổ xưa vẫn còn sống trong
dân chúng. Nếu một hiến pháp muốn được tồn tại lâu dài, hiến pháp đó phải được
đại đa số dân chúng tán thành. Một nhà cai trị muốn tránh các cuộc nổi dậy cần
phải làm thế nào để xã hội không có những người quá giàu hoặc quá nghèo. Họ phải
khuyến khích dân chúng ra khai khẩn đất đai ở nước ngoài để sự cạnh tranh ở
trong nước có lối thoát; họ phải khuyến khích và thực hành tôn giáo. Một lãnh tụ
"cần phải tỏ ra ngoan đạo. Nếu dân chúng thấy rằng lãnh tụ của mình ngoan
đạo họ sẽ tin tưởng vào vị lãnh tụ nhiều hơn. Do sự tin tưởng ấy họ sẽ không
tìm cách lật đổ vị lãnh tụ, những kẻ yếu bóng vía còn tưởng rằng vị lãnh tụ của
mình thế nào cũng được các thần thánh giúp đỡ".
8.3. Dân chủ và quý tộc
Với những bảo đảm về phương diện tôn giáo, giáo dục và nền tảng gia đình, cơ cấu
chính trị mới có thể vững chắc. Trong tất cả mọi chính thể đều có những ưu điểm
và những khuyết điểm. Trên lý thuyết, chính thể lý tưởng là sự tập trung tất cả
quyền hành chính trị vào người khôn ngoan nhất. Thi sĩ Homère có nói rằng:
"để cho đám đông cai trị là không tốt, việc cai trị chỉ nên giao cho một
người". Đối với một người như vậy, luật pháp chỉ là một phương tiện hơn là
một giới hạn. Đối với người xuất chúng không thể có luật pháp nào ràng buộc được: chính họ là luật pháp. Trên thực tế, chế độ quân chủ thường là chế độ dở nhất.
Sức mạnh và đạo đức thường không đi đôi với nhau. Do đó chế độ tạm dùng được là
chế độ quý tộc trong đó một số người xuất chúng nắm giữ guồng máy của quốc gia.
Việc cai trị là một việc quá chuyên môn không thể giao cho dân chúng ngu dốt đảm
nhiệm được. Trong ngành y khoa, chỉ những bác sĩ mới được hỏi ý kiến, tại sao
không áp dụng nguyên tắc này trong lãnh vực chính trị. Một nhà toán học có thể
chọn lựa những nhà toán học, một thuyền trưởng có thể chọn lựa những thuyền trưởng,
do đó sự chọn lựa những nhà cai trị phải giao cho những nhà cai trị.
Sự khó khăn của một chế độ quý tộc cha truyền con nối là sự thiếu một căn bản
kinh tế. Trong xã hội luôn luôn có những người đột nhiên trở nên giàu và do đó
đòi quyền được tham dự vào công cuộc chính trị. Họ sẽ bỏ tiền ra để mua bất cứ
cái gì kể cả chức tước. Đó là tình trạng đáng tránh vì khả năng chính trị và khả
năng làm giàu là hai lãnh vực hoàn toàn trái ngược. Để cho kẻ làm giàu lên nắm
chính quyền tức là khuyến khích dân chúng có những thủ đoạn của kẻ gian thương
vì dân chúng luôn luôn có khuynh hướng nghĩ theo và làm theo người lãnh đạo. Một
chế độ quý tộc không căn cứ trên khả năng chính trị không phải là một chế độ
quý tộc thực sự.
Chế độ dân chủ thường thường là kết quả của một cuộc cách mạng chống giai cấp
giàu sang. Aristote đã có một tư tưởng gần như Karl Marx khi ông nhận xét rằng: Sự cạnh tranh để làm giàu khiến cho giai cấp trọc phú càng ngày càng bị thu hẹp,
đám dân chúng vô sản càng ngày càng đông đảo. Những phần tử này sẽ làm cách mạng
để lật đổ giai cấp thống trị." Sự chấp chính của giai cấp vô sản có một
vài ưu điểm. Xét theo từng cá nhân thì giai cấp này không ra gì nhưng xét theo
ý chí chung thì giai cấp này cũng tạm gọi là được. Dân chúng là những người thừa
hưởng và trực tiếp chịu ảnh hưởng những chế độ chính trị, với tư cách đó họ có
nhiều kinh nghiệm quý giá mà giai cấp lãnh đạo không có. Những kẻ hưởng dụng những
tiện nghi của một toà nhà có thể phê bình tòa nhà ấy xác đáng hơn là những kiến
trúc sư. Những thực khách trong một bữa tiệc có thể phê bình những món ăn xác
đáng hơn là những người nấu bếp. Mặt khác, một ưu điểm khác của chế độ dân chủ
mà Aristote đã nêu ra là khi đại đa số dân chúng được tham dự chính quyền, sự
kiểm soát lẫn nhau sẽ làm khó khăn cho các hành vi tham nhũng. Người ta có thể
làm dơ bẩn một ly nước dễ dàng hơn làm dơ bẩn một hồ nước. Hơn nữa, cá nhân dễ
bị chi phối vì tham sân si và dễ có những xét đoán sai lầm trong khi đoàn thể
khó bị rơi vào tình trạng trên.
Tuy nhiên, Aristote vẫn cho rằng chế độ dân chủ không bằng chế độ quý tộc. Ông
không chấp nhận nguyên tắc bình đẳng trong chế độ dân chủ. Ông cho rằng mọi
người có thể bình đẳng trên một vài phương diện nhưng không thể bình đẳng trên
tất cả mọi phương diện. Ông sợ rằng trong chế độ dân chủ các phần tử sáng suốt
sẽ bị hy sinh cho quyền lợi của đa số. Ông còn sợ rằng một thiểu số sẽ nấp sau
đa số mà thao túng chính trường. Vì lẽ đó, ông vẫn chủ trương rằng chỉ nên trao
quyền đầu phiếu cho những kẻ sáng suốt. Ông muốn có một sự dung hoà giữa hai chế
độ dân chủ và quý tộc.
Một nền cai trị theo hiến pháp hình như là câu trả lời cho giải pháp dung hoà
nói trên. Chúng ta cần phải tìm hiểu thế nào là một hiến pháp tốt đẹp nhất cho
hầu hết các quốc gia, thế nào là đời sống lý tưởng nhất cho hầu hết các công
dân. Chúng ta không nên đặt những tiêu chuẩn quá cao hoặc chủ trương một nền
giáo dục quá lý tưởng, chỉ một số ít người theo kịp. Trái lại cần phải đặt những
tiêu chuẩn trung bình khiến cho đại đa số dân chúng có thể đạt được dễ dàng. Cần
dựa vào những lực lượng muốn duy trì hiến pháp. Lực lượng này không thể gồm
toàn dân chúng, hoặc những kẻ có của cải, hoặc những quân nhân, hoặc những công
chức mà phải bao gồm tất cả những thành phần kể trên. Lực lượng nòng cốt phải
được tìm thấy ở giai cấp trung lưu.
Nếu tất cả mọi người đều có cơ hội tham gia chính phủ thì chế độ dân chủ được bảo
đảm. Tuy nhiên Aristote thấy rằng việc chọn lựa người tham gia chính phủ phải
được cân nhắc kỹ lưỡng chỉ những người có đầy đủ điều kiện mới được vào, đó là
nguyên tắc của chế độ quý tộc. Mặc dù nhìn công việc chính trị dưới khía cạnh
nào đi nữa người ta cũng sẽ cùng đi đến một kết luận chung: đó là dân chúng phải
có quyền ấn định mục tiêu của quốc gia trong khi đó chỉ những người chuyên môn
mới có thể thực hiện mục tiêu đó.
9. PHÊ BÌNH
Đối với Aristote chúng ta khó có những cảm nghĩ khen hoặc chê một cách nồng nhiệt
vì chính Aristote cũng chủ trương rằng không có cái gì làm chúng ta hăng hái
quá đáng, không có cái gì đáng khen. Aristote không hăng hái như Platon cũng
không có những tư tưởng độc đáo, trí tưởng tượng cao siêu của Platon. Tuy
nhiên, sau khi thưởng thức những tư tưởng động trời của Platon chúng ta thấy rằng
những tư tưởng của Aristote không khác gì một cơn gió mát thổi vào một buổi
trưa hè.
Chúng ta có thể bất đồng ý kiến với Aristote về một vài điểm chẳng hạn như
Aristote cho rằng tam đoạn luận là một lối suy luận thông thường và chính xác
trong khi ngày nay chúng ta có khuynh hướng coi rằng tam đoạn luận cũng chỉ là
một mánh lới để thuyết phục kẻ khác. Ông tưởng rằng tư tưởng con người đi từ
các nguyên đề để tìm đến kết luận trong khi trên thực tế có rất nhiều trường hợp
con người đi tìm kết luận trước rồi mới cố đặt ra những nguyên đề để chứng minh
kết luận của mình.
Những nhận xét của Aristote về thiên nhiên chứa rất nhiều sai lầm quan trọng.
Ông thường để cho các tư tưởng siêu hình ảnh hưởng đến các nhận xét khoa học.
Đây cũng là một đặc điểm của nền văn hoá Hy Lạp: Các học giả thời ấy thường đi
đến kết luận một cách quá hấp tấp. Trong thế giới hiện nay chúng ta lại gặp một
trường hợp trái ngược: chúng ta có quá nhiều nhận xét đến nỗi chúng ta cảm thấy
vô cùng bối rối khi phải đi đến một kết luận vì các sự kiện, các con số, các nhận
xét không ăn khớp với nhau.
Công trình nghiên cứu của Aristote về đạo đức học bị ảnh hưởng quá nhiều của luận
lý học. Kết quả là một công trình quá khô khan không đủ sức thúc đẩy con người
tự cải thiện. Lý tưởng của Aristote thiên về một đời sống quá bình thản, quá ôn
hoà, một đời sống mà người ta thường gán cho giai cấp thượng lưu ở Anh-cát-lợi.
Một điểm đặc biệt là những tác phẩm về đạo đức học của Aristote được 2 trường đại
học danh tiếng tại Anh-cát-lợi là Oxford và Cambridge dùng làm sách giáo khoa.
Nhiều thế hệ sinh viên Anh-cát-lợi xem tác phẩm của Aristote như kinh nhật tụng.
Tác phẩm nhan đề là "chính trị" đã góp phần xây dựng tư tưởng của người
Anh để đem lại một nền chính trị ôn hoà và hữu hiệu. Nếu thay vì mến chuộng những
tác phẩm của Aristote, người Anh lại ham mê và áp dụng những tư tưởng của
Platon thì bộ mặt của thế giới có lẽ đã đổi khác.
Chúng ta cần phải để ý rằng tư tưởng của Aristote thuộc về một loại riêng biệt
và không có những đặc tính của những tư tưởng thuần tuý Hy Lạp. Khi ông đến
thành Athènes, một thành phố Hy Lạp thì ông đã là một người trưởng thành. Vì lẽ
đó ông không bị ảnh hưởng bởi đặc tính bồng bột của người Hy Lạp, luôn luôn tìm
sự mới lạ trong lãnh vực chính trị, đi từ cải cách này đến cải cách khác cho đến
khi sát nhập vào một chính quyền trung ương. Trái lại Aristote luôn luôn tìm
cách tránh sự quá khích. Đặc tính ôn hoà của ông làm cho tư tưởng ông một đôi
khi có vẻ quá tầm thường. Ông rất sợ những tình trạng hỗn loạn trong xã hội đến
nỗi đã lên tiếng bênh vực chế độ nô lệ. Ông sợ những sự thay đổi và chủ trương
một xã hội trung thành với các tập tục cổ xưa. Ông quên rằng chế độ cộng sản của
Platon chỉ áp dụng đối với giai cấp thống trị, một giai cấp lý tưởng mà Platon
đã coi như hoàn toàn giác ngộ, không còn tham lam vị kỷ. Mặc dù đả kích Platon,
Aristote cũng đi đến kết luận gần giống như Platon khi ông chủ trương rằng các
tài sản trong xã hội cần phải đem ra sử dụng chung. Ông bênh vực quyền sở hữu những
ông không thấy rằng quyền sở hữu chỉ có ích đối với xã hội khi vật sở hữu là những
món đồ dùng cá nhân không quan trọng . Trái lại khi quyền sở hữu cá nhân liên
quan đến các phương tiện sản xuất rộng lớn nó sẽ đưa đến sự tập trung quyền
hành quá mạnh và sự bất bình đẳng quá lớn trong xã hội.
Tuy nhiên những nhận xét kể trên thật ra hoàn toàn không cần thiết đối với một
hệ thống tư tưởng đã ra đời cách đây 2500 năm. Dù sao đi nữa Aristote đã nêu
cao ngọn đuốc văn minh cho nhân loại đồng soi chung. Ông đã đặt nền móng cho một
hệ thống tư tưởng vững chắc và giúp cho các thế hệ tương lai dựa vào đó để phát
triển sự nghiên cứu sưu tầm hầu mạnh tiến trên con đường tìm chân lý. Những nền
văn minh kế tiếp đều mang một món nợ tinh thần đối với Aristote. Những tác phẩm
của ông lần lượt được phiên dịch trong suốt quá trình tiến triển của nhân loại
nhất là vào thế kỷ thứ 5, thế kỷ thứ 10, thứ 13 và thứ 15. Đạo quân thánh chiến
đã đem về Âu châu nhiều tác phẩm của Aristote và các học giả thành
Constantinople đã mang theo những tác phẩm của Aristote như những bảo vật khi họ
phải tản cư khỏi thành phố này trước những đội quân xâm lăng Thổ-nhĩ-kỳ. Các
tác phẩm của Aristote được mến chuộng nhiều cho đến nỗi các cấp lãnh đạo giáo hội
Thiên chúa giáo đem lòng ganh ghét vì sợ làm lu mờ các điều truyền dạy trong
thánh kinh. Năm 1215 việc giảng dạy các tác phẩm của Aristote bị giáo hoàng cấm,
năm 1231 đức giáo hoàng Gregory IX thành lập một uỷ ban để khai trừ Aristote,
tuy nhiên đến 1260 thì thái độ của giáo hội thiên chúa giáo đối với Aristote
hoàn toàn thay đổi. Việc giảng dạy các tác phẩm của ông chẳng những không bị cấm
mà còn bị bắt buộc trong các trường thiên chúa giáo. Những thi sĩ như Chaucer
và Dante không tiếc lời ca tụng Aristote. Một số tư tưởng của ông đã ngự trị trong
lịch sử văn minh nhân loại hàng chục thế kỷ trước khi bị lu mờ bởi những chứng
minh khoa học.
10. TUỔI GIÀ VÀ CHẾT
Cuộc đời của Aristote có rất nhiều nỗi truân chuyên. Ông có sự bất bình với vua
Alexandre vì nhà vua đã xử tử một người cháu của ông. Nguyên do vụ án này là vì
cháu của Aristote không chịu phục tòng Alexandre. Trong lúc đó, Aristote lên tiếng
bênh vực Alexandre trước những chỉ trích của phe chống đối tại Athènes. Ông
binh vực cho sự thống nhất các tiểu quốc người Hy Lạp và muốn thấy tình trạng
chia rẽ chấm dứt càng sớm càng tốt. Ông muốn dành vai trò thống nhất các dân tộc
Hy Lạp cho Alexandre cũng như sau này văn hào Goethe muốn dành vai trò thống nhất
các dân tộc Âu châu cho Napoléon. Trong khi đó các nhóm chia rẽ tại Athènes
càng ngày càng bành trướng, họ cương quyết phản đối việc Alexandre cho đúc một
bức tượng của Aristote và đặt ở Athènes. Trước tình thế này Aristote rất khó
lòng giữ được vẻ lạnh lùng và bình tĩnh trước cuộc đời như ông thường cổ võ
trong tác phẩm „Đạo đức học“. Những môn đệ của Platon phụ họa với các nhóm
chính trị khác vận động để kết tội Aristote.
Năm 323 tTL vua Alexandre chết. Dân chúng thành Athènes thừa dịp đó tuyên bố ly
khai và đánh đổ đảng Macédoine là đảng đã ủng hộ Alexandre. Một nhà lãnh đạo
tôn giáo cầm đầu phong trào chống đối Aristote vì cho rằng Aristote đã phản lại
tôn giáo bằng cách cổ võ dân chúng không nên cầu nguyện và cúng tế. Aristote biết
trước thế nào ông cũng bị đem ra xử trước một đám dân chúng cuồng tín và có nhiều
ác cảm. Ông bèn rời bỏ thành phố Athènes để đi nơi khác. Cử chỉ này không phải
là một cử chỉ ươn hèn vì theo tục lệ thời ấy, nếu một chính trị gia không muốn
bị dân chúng xét xử họ có quyền bỏ thành phố để đi nơi khác. Đến Chalcis
Aristote nhuốm bịnh và chết. Có người cho rằng ông đã uống thuốc độc tự tử vì
quá ngao ngán cho nhân tình thế thái.
Cũng trong năm ấy và cũng trong lứa tuổi 62, một vĩ nhân Hy Lạp khác là
Démosthène cũng uống thuốc độc tự tử. Thế là trong vòng một năm dân Hy Lạp đã mất
một nhà lãnh đạo tài ba nhất, một nhà hùng biện hùng hồn nhất và một triết gia
thông thái nhất. Ngôi sao của Hy Lạp mờ dần trước sự tiến triển vượt bực của
người La Mã. Tuy nhiên sự lộng lẫy của La Mã căn cứ vào sức mạnh hơn là vào nền
văn hóa. Sau đó nền văn minh La Mã cũng tàn rụi. Dân chúng Âu châu phải trải
qua 1000 năm đen tối trong khi chờ đợi sự tái sinh của triết học.
PLATON
1. BỐI CẢNH
Nếu bạn nhìn vào một bản đồ của Âu châu, bạn sẽ thấy rằng Hy
Lạp giống như một bàn tay chìa các ngón ra biển Địa trung hải. Phía nam là hòn
đảo Crète hình như nằm gọn trong các ngón tay, ngàn năm trước Tây lịch (tTL) đó
là nơi khởi đầu của văn minh nhân loại. Về phía đông là lãnh thổ thuộc về Á
châu tuy ngày nay có vẻ lạc hậu nhưng dưới thời Platon là một lãnh thổ rất trù
phú với một nền thương mãi, kỹ nghệ cực thịnh và một nền văn hoá phong phú. Về
phía tây là nước Ý giống như một toà lâu đài ở giữa biển, các đảo Sicile và nước
Y-pha-nho (Tây Ban Nha). Tại những nơi đó có những nhóm người Hy lạp sinh sống;
cuối cùng là xứ Gibraltar, nơi đầy nguy hiểm cho các thuỷ thủ mỗi khi muốn vượt
eo biển này. Về phía bắc là những xứ man rợ như Thessaly, Epirus và Macédonie.
Từ những xứ ấy nhiều bộ lạc xuất phát và mở những cuộc tấn công về phía nam, những
trận đánh do những văn nhân Hy lạp như Homère kể lại mà những chiến sĩ như
Périclès chỉ huy. Hãy nhìn một lần thứ hai vào bản đồ, bạn sẽ thấy nhiều chỗ lồi
lõm ở bờ biển và núi đồi trong đất liền, đâu đâu cũng có những vịnh nhỏ và những
mỏm đá trồi ra biển. Nước Hy lạp bị chia cắt và cô lập bởi những chướng ngại
thiên nhiên đó. Sự đi lại và liên lạc ngày xưa khó khăn hơn bây giờ rất nhiều.
Do đó mỗi vùng tự phát triển lấy nền kinh tế, tự thành lập lấy nền hành chánh
chính trị, tự phát huy tôn giáo, văn hoá và ngôn ngữ của mình. Những quốc gia
như Locris, Etolia, Phocis, Béothia v.v...
Hãy nhìn vào bản đồ một lần thứ ba và quan sát vị trí của tiểu quốc Athènes: đó
là một tiểu quốc nằm về phía cực đông của Hy lạp. Đó là cửa ngõ của Hy lạp để
giao thiệp với các quốc gia thuộc vùng Á châu, đó là cửa ngõ để Hy lạp thu nhận
những sản phẩm và ánh sáng văn hoá từ bên ngoài. Ở đây có một hải cảng rất tiện
lợi, hải cảng Pirus, rất nhiều tàu bè đến trú ẩn để tránh những lúc sóng to gió
lớn. Ngoài ra Pirus còn là nơi xuất phát một hạm đội chiến tranh hùng mạnh.
Vào khoảng năm 490 trước Tây lịch, hai tiểu quốc Sparte và Athènes quên mối hận
thù để hợp lực cùng nhau đánh đuổi quân xâm lăng Ba Tư lăm le biến Hy lạp thành
một thuộc địa của mình. Trong cuộc chiến tranh này, Sparte cung cấp lục quân và
Athènes cung cấp thuỷ quân. Khi chiến tranh chấm dứt, Sparte giải ngũ quân đội
và chịu sự khủng hoảng kinh tế do sự giải ngũ này sinh ra. Trong khi đó thì
Athènes khôn ngoan hơn, biến hạm đội tàu chiến thành một hạm đội tàu buôn và trở
nên một nước buôn bán giàu mạnh nhất thời thượng cổ. Sparte điêu tàn trong nghề
canh nông và bị cô lập với thế giới bên ngoài, trong khi Athènes trở nên thịnh
vượng và là một nơi giao điểm của nhiều chủng tộc, nhiều nguồn tư tưởng, văn
hoá, sự chung đụng nảy sinh sự so sánh, phân tích và suy nghiệm.
Những truyền thống, lý thuyết gặp gỡ nhau, chống đối nhau, tự đào thải nhau và
được cô đọng lại. Trong khi có hàng ngàn tư tưởng chống đối nhau, người ta có
khuynh hướng hoài nghi tất cả những tư tưởng ấy. Có lẽ những thương gia là những
người nhiều hoài nghi nhất vì họ thấy quá nhiều, bị tuyên truyền quá nhiều, họ
có khuynh hướng coi người khác nếu không phải là những người ngu thì cũng là những
người lưu manh, họ hoài nghi tất cả những nguồn tư tưởng. Theo với thời gian họ
phát triển khoa học; toán học nảy sinh nhờ sự giao hoán, thiên văn học nảy sinh
với nhu cầu hàng hải. Với sự phát triển nền kinh tế, con người có nhiều thì giờ
nhàn rỗi, được hưởng nhiều tiện nghi trong một không khí trật tự và an ninh. Đó
là những điều kiện tiên quyết để nghiên cứu và suy tư. Người ta nhìn vào các
ngôi sao trên trời không những để tìm phương hướng cho chiếc tàu đang lênh đênh
trên mặt biển mà còn để tìm bí mật của vũ trụ: những triết gia Ha lạp đầu tiên
là những nhà thiên văn. Aristote nói rằng sau khi thắng cuộc chiến tranh, các
người Hy lạp tìm cách phát huy chiến quả và mở rộng nỗ lực vào nhiều lãnh vực
khác. Người ta cố tìm những lời giải đáp cho những bài toán trước kia được giao
phó cho các thần linh quản trị, những tế lễ tà thuyết nhường bước cho khoa học,
triết lý bắt đầu từ đó.
Khởi đầu triết lý là một môn học có tính cách vật lý, người ta quan sát thế giới
hữu hình với hy vọng tìm thấy yếu tố khởi thuỷ của tất cả vạn vật. Một lối giải
đáp tự nhiên là thuyết duy vật của Démocrite (460 - 360 tTL). Démocrite nói rằng:
"trong vũ trụ chỉ có nguyên tử và hư không", đó là nguồn tư tưởng
chính của Hy lạp, người ta lãng quên nó trong một thời gian nhưng nó lại được sống
dậy với tư tưởng của Epicure (342-279 tTL) và Lucrèce (98-55 tTL). Tuy nhiên
khía cạnh quan trọng nhất và đặc sắc nhất của nền triết học Hy lạp được thể hiện
trong tư tưởng của những nguỵ luận gia đó là những người đi lang thang rày đây
mai đó để tuyên truyền cho chủ nghĩa của mình, họ gắn bó với tư tưởng của mình
hơn tất cả mọi vật trên đời. Phần đông họ là những người rất thông minh hoặc rất
thâm thuý, họ bàn cãi về tất cả những vấn đề mà người đương thời thắc mắc, họ đặt
câu hỏi cho tất cả các vấn đề, họ không sợ đụng chạm đến các tôn giáo hoặc các
tư tưởng chính trị của các vua chúa, họ mạnh dạn chỉ trích tất cả các định chế
xã hội hoặc lý thuyết chính trị trước công luận. Về mặt chính trị họ được chia
làm hai phái. Một phái giống như Rousseau cho rằng thiên nhiên là tốt, văn minh
xã hội là xấu, trong thiên nhiên tất cả mọi người đều bình đẳng và con người trở
nên bất bình đẳng với các định chế xã hội, luật lệ là những phát minh của những
kẻ mạnh để trói buộc và thống trị kẻ yếu. Một nhóm khác giống như Nietzsche cho
rằng thiên nhiên vượt ra ngoài phạm vi của cái xấu và cái tốt, trong thiên
nhiên con người đã mất bình đẳng, luân lý là một phát minh của kẻ yếu để giới hạn
và doạ nạt kẻ mạnh, sức mạnh là nền đạo đức tối thượng và sự ao ước tối thượng
của con người, và chế độ chính trị cao đẹp nhất hợp thiên nhiên nhất là chế độ
quý tộc.
Sự tấn công tư tưởng dân chủ là phản ảnh của sự thịnh vượng của một nhóm người
giàu có ở Athènes họ tự lập một đảng gọi là lực lượng những người ưu tú. Đảng
này chỉ trích tư tưởng dân chủ là vô hiệu lực. Thật ra cái dân chủ mà họ chỉ
trích khác xa cái dân chủ mà chúng ta quan niệm ngày hôm nay. Trong số 400 ngàn
dân của Athènes, đã có 250 ngàn thuộc vào hạng nô lệ bị tước đoạt tất cả quyền
chính trị, trong số 150 ngàn người còn lại chỉ có một thiểu số được đại diện tại
quốc hội để bàn cãi và quyết định về các vấn đề của quốc gia. Tuy nhiên cái nền
dân chủ còn lại đó là một nền dân chủ có thể nói là hoàn hảo nhất từ xưa đến
nay. Quốc hội có quyền tối thượng và là cơ quan tối cao của quốc gia, tối cao
pháp viện gồm trên 1000 thẩm phán (để làm nản lòng những kẻ hối lộ), số thẩm
phán này được tuyển chọn theo thứ tự ABC trong danh sách của toàn thể công dân.
Không một chế độ chính trị nào dám thực hành tư tưởng dân chủ đi xa đến mức độ ấy.
Trong cuộc chiến tranh giữa Sparte và Athènes (430 - 400 tTL) lực lượng các người
ưu tú của Athènes do Critias lãnh đạo, chủ trương nên bãi bỏ chế độ dân chủ vì
cho đó là mầm mống của cuộc chiến bại và thành lập một chính thể giống như
chính thể quý tộc của thành Sparte. Kết quả là nhiều lãnh tụ của lực lượng bị
lưu đày. Sau khi chiến tranh chấm dứt với sự đầu hàng của Athènes, một trong
các điều kiện đình chiến là phải đại xá cho những người trong lực lượng bị lưu
đày. Những người này tôn Critias làm minh chủ và lăm le đảo chánh để thành lập
một chính phủ của lực lượng ưu tú. Cuộc đảo chánh thất bại, Critias tử trận.
Critias là môn đệ của Socrate và có họ hàng với Platon.
Nếu chúng ta suy xét trong khi ngắm bức tượng bán thân của Socrate còn sót lại
trải qua bao nhiêu điêu tàn hoang phế thì ta sẽ nhận thấy rằng Socrate có một
diện mạo không đẹp đẽ gì. Một cái đầu hói, cái mặt lớn và tròn, một cặp mắt sâu
và nhìn thẳng, lỗ mũi lớn... Cái mặt đó làm ta liên tưởng đến một người gác cổng
hơn là một triết gia danh tiếng vào bậc nhất. Nhưng nếu nhìn lại lần thứ hai ta
sẽ thấy rằng, qua những nét khắc trong đá, một cái gì hoà nhã và bình dị thoát
ra từ bộ mặt đó, những nét ấy đã làm cho Socrate được hầu hết các thanh niên
thành Athènes kính mến. Ta biết rất ít về Socrate, nhưng đồng thời ta hiểu
Socrate hơn triết gia có vẻ quý phái như Platon hoặc thông thái như Aristote.
Sau hơn hai ngàn năm, ta còn mường tượng được hình dáng của Socrate với chiếc
áo choàng thụng thịnh bước từng bước khoan thai trước các đền thờ, tâm tư hoàn
toàn không bị ảnh hưởng bởi các biến cố chính trị. Ông tụ họp những thanh niên
và những học giả xung quanh mình vào những nơi có bóng mát trước cửa các đền thờ
để cùng nhau đàm đạo.
Những người đi theo Socrate thuộc rất nhiều thành phần khác nhau, chính những
người này đã tạo nên nền triết lý tây phương. Có những người con nhà giàu như
Platon và Alcibiade, họ thích lối chỉ trích chế độ dân chủ của Socrate, cũng có
những kẻ về phe xã hội chủ nghĩa ưa thích nếp sống nghèo nàn của Socrate và cho
đó là một dấu hiệu của sự thánh thiện, cũng có những kẻ chủ trương diệt trật tự
như Aristippe, họ chủ trương một xã hội không có nô lệ cũng không có chủ nô lệ,
tất cả đều sống tự do và không lo lắng như chính Socrate. Tất cả những vấn đề
làm con người suy nghĩ và làm cho những thiếu niên bàn cãi suốt ngày đều được
đem ra mổ xẻ trong cái nhóm nhỏ ấy, họ tin tưởng một cách thành thật rằng nếu
cuộc đời mà không có bàn luận về triết lý thì đó là một cuộc đời không đáng sống.
Trong nhóm nhỏ ấy hầu hết các nguồn tư tưởng của nhân loại đều được đại diện.
Socrate làm gì để sống? Ít ai biết đến. Ông không bao giờ làm việc, không bao
giờ nghĩ đến ngày mai. Ông ăn khi nào có người mời, có lẽ người ta rất thích mời
ông vì xem ra ông cũng béo tốt phương phi như ai. Đối với vợ con thì ông ta
không được hoan nghênh lắm. Theo Xanthippe, Socrate là một kẻ du thủ du thực chỉ
đem về cho gia đình một ít tiếng tăm mà không bao giờ đem về tiền bạc hoặc
lương thực. Xanthippe cũng thích đàm đạo như Socrate, những cuộc đàm đạo này,
rũi thay, không được lưu truyền. Nhưng chúng ta biết rằng bà ta yêu Socrate và
rất đau buồn trước cái chết của người bạn tinh thần.
Tại sao những môn đệ kính mến Socrate đến thế? Có lẽ tại rằng Socrate là một
người trước khi là một triết gia: ông đã khinh thường gian nguy để cứu
Alcibiade trong vòng tên đạn khói lửa, ông có tửu lượng rất khá, không từ chối
mà cũng không đi đến chỗ say sưa. Nhưng điều làm người ta yêu thích Socrate nhất
có lẽ là sự khiêm nhượng của ông ta: ông không tự cho rằng mình hiểu triết lý,
ông chỉ đi tìm triết lý, ông là người thích triết lý, không phải là triết gia
nhà nghề. Một câu sấm tại đền Delphe cho biết rằng Socrate là người thông minh
nhất của xứ Hy lạp. Socrate cho rằng câu sấm này ám chỉ đến thuyết bất tri của
ông ta: "Tôi chỉ biết một điều, đó là tôi không biết gì hết". Triết
lý bắt đầu khi người ta biết hoài nghi, nhất là hoài nghi những niềm tin của
chính chúng ta. Biết đâu rằng chính những niềm hy vọng ao ước thầm kín, những
khao khát đã trở thành những niềm tin đối với chúng ta? Biết đâu rằng những tư
tưởng có vẻ khách quan chỉ là những niềm ước vọng trá hình. Sẽ không có triết
lý nếu chúng ta không chịu khó đi một vòng quanh và quan sát lại chính chúng
ta: "Hãy tự biết mình!" Socrate nói thế.
Trước Socrate cũng đã có nhiều triết gia. Những người với lý luận đanh thép như
Thalès và Héraclite, tế nhị như Parménide và Zénon, sâu sắc như Pythagore và
Empedocle. Nhưng phần nhiều những người ấy là những triết gia hướng về vật lý,
họ tìm bản thể của sự vật định lý và yếu tố của thế giới bên ngoài. Những nỗ lực
ấy rất đáng khen, Socrate nói, nhưng có một điều vô cùng quý giá hơn những cây
cỏ, sông núi, trăng sao, đó là con người. Con người là gì, và con người sẽ đi đến
đâu?
Rồi từ đó ông chuyên chú vào tâm hồn con người, tìm hiểu những định lý, hoài
nghi những tư tưởng sẵn có. Người ta thường nói đến hai chữ công bằng, Socrate
liền hỏi công bằng là gì? Anh hiểu gì về hai chữ ấy, tại sao anh dám đem hai
chữ ấy để giải quyết vấn đề sống chết của đồng loại? Danh dự là gì? Đạo đức
là gì? Bản ngã của anh là gì? Đó là những vấn đề đạo đức và tâm lý mà Socrate
thường tự hỏi. Có những người lấy làm khó chịu về phương pháp của Socrate, một
phương pháp đòi hỏi những định nghĩa chính xác, những tư tưởng minh bạch, những
phân tích xác đáng. Họ cho rằng Socrate hỏi nhiều hơn trả lời và làm rối trí
con người nhiều hơn sau khi đã thụ huấn với ông. Tuy nhiên Socrate đã để lại
cho triết học hai câu trả lời minh bạch cho hai bài toán khó khăn nhất của
chúng ta: Đạo đức là gì? Quốc gia tốt đẹp nhất là gì?
Không một vấn đề nào thiết yếu hơn những vấn đề trên. Những nguỵ luận gia đã
làm tan rã sự tin tưởng của đám thanh niên thành Athènes đối với các vị thần
thánh và những điều khoản luân lý căn cứ vào sự thưởng phạt của các vị thần
thánh, bây giờ không có lý do nào kềm giữ họ trong các hành vi của họ nếu không
bị pháp luật ràng buộc. Một chủ nghĩa cá nhân lan tràn và làm suy yếu đức tính
của người Athènes khiến cho nước này trở nên một món mồi ngon của liên bang
Sparte. Về phương diện chính trị, thuyết dân chủ cực đoan đã làm say mê dân
Athènes cũng đem đến nhiều điều bất tiện. Quá nhiều quyền hành đã được giao cho
quốc hội, các cuộc bầu cử được tổ chức quá vội vàng, người có trách nhiệm như
các tướng lãnh đã được tấn phong và cách chức một cách quá dễ dàng, sự chỉ định
những nông phu, thương gia làm thẩm phán trong tối cao pháp viện theo thứ tự
ABC là những yếu tố làm tan rã một nền hành chính và chính trị vững mạnh. Làm
thế nào để thiết lập một nền đạo đức mới, làm thế nào để cứu vãn tình trạng suy
đồi của quốc gia do các định chế dân chủ cực đoan gây nên?
Chính vì trả lời cho các câu hỏi trên mà Socrate đã nhận lấy cái chết và đồng
thời trở nên bất tử. Phái thủ cựu có lẽ sẽ thương tiếc ông ta nếu ông lên tiếng
bênh vực lối thờ phượng đa thần của ngày xưa, nếu ông xúi giục các môn đệ của
ông đến các nơi thờ phượng và dâng lễ cúng cho những đấng thần linh ngày trước.
Trái lại, Socrate cho rằng làm như vậy tức là đi ngược với nền tiến triển của
nhân loại, đó là một sự tiến tới diệt vong. Ông chủ trương rằng chỉ có một đấng
tối cao mà thôi, nhưng ông lại cho rằng một nền đạo đức thực tiễn không thể căn
cứ vào một giáo lý mơ hồ, ta có thể tạo dựng một nền luân lý hoàn toàn không lệ
thuộc thần học, hoàn toàn thích hợp với người có tôn giáo cũng như không có tôn
giáo thì xã hội có thể được ổn định mà không cần đến thần học.
Nếu có ai nhận thức rằng con người tốt là con người thông minh, con người đức hạnh
là con người khôn ngoan, nếu họ nhận thức được đâu là quyền lợi chính đáng, thấu
triệt được luật nhân quả, kiểm soát được lòng ham muốn để khỏi cảnh hỗn độn tự
diệt và đi đến một xã hội có kỷ cương, thì họ đã nắm được cái tinh hoa của nền
luân lý, họ không cần dựa theo lời răn dạy của thần học hay những điều ngăn cấm
khác.
Tất cả tội lỗi đều do vô minh mà ra. Người trí huệ cũng bị cám dỗ bởi tham sân
si như người vô minh nhưng họ biết dùng trí huệ để chế ngự sự cám dỗ và không
rơi vào vòng tội lỗi. Một xã hội sáng suốt là một xã hội trong đó người dân cảm
thấy được hưởng quyền lợi thì nhiều, mà bị hạn chế tự do thí ít. Trong xã hội ấy,
ăn ở ngay thẳng là giữ đúng quyền lợi mình và an ninh trật tự cũng như thiện
chí trong xã hội đều phát xuất từ sự nhận định sáng suốt của cá nhân.
Nhưng nếu chính phủ là một sự hỗn độn và phi lý, nếu chính phủ cai trị mà không
giúp đỡ, chỉ huy mà không lãnh đạo thì làm sao có thể thuyết phục người dân đồng
hóa quyền lợi cá nhân với quyền lợi xã hội? Alcibiade nổi loạn chính vì để chống
một chính phủ lung lạc nhân tài và mị dân. Không suy nghĩ sáng suốt tất nhiên
đi đến cảnh hỗn độn, đám đông quyết định trong hấp tấp và vô ý thức tất nhiên
có ngày phải hối hận vì sai lầm. Ai có thể tin rằng đám đông có lẽ phải? Sự thật
thì đám đông luôn luôn ngông cuồng hơn, độc ác hơn những cá nhân hành động đơn
độc. Để cho kẻ miệng lưỡi lung lạc quần chúng là một điều sỉ nhục, họ chỉ là những
cái máy nói, mỗi khi vặn lên là thao thao bất tuyệt. Việc trị nước an dân là một
việc tối quan trọng đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và suy xét. Xã hội chỉ có thể được
cứu vãn và trở nên hùng mạnh nếu được lãnh đạo bởi những người khôn ngoan và
sáng suốt nhất.
Các bạn thử tưởng tượng phản ứng của nhà cầm quyền Athènes khi nghe những lời
trên đúng vào lúc phải giải quyết chiến tranh, đúng vào lúc một thiểu số trí thức
và quí tộc đang âm mưu một cuộc đảo chánh. Các bạn hãy đặt mình vào địa vị của
Anytus nhà lãnh đạo thành Athènes bị cậu con trai về nhà đổ lư hương vì cậu này
là một môn đệ của Socrate.
Rồi cuộc nội chiến bùng nổ, phe trí thức và quý tộc choảng nhau hết mình với
phe nhân dân. Cuối cùng phe nhân dân thắng. Biến cố này quyết định luôn cả số
phận của Socrate: ông là nhà lãnh đạo tinh thần của phe nổi loạn, dù ông có
yêu chuộng hoà bình đến mấy cũng mặc, chính ông đã chủ trương thuyết quý tộc cầm
quyền, chính ông đã xúi giục đám thanh niên hội thảo. Anytus kết luận: Socrate
cần phải chết.
Cái chết của Socrate được Platon kể lại trong một quyển sách bất hủ. Với những
lời lẽ cảm động Platon suy tôn bậc Thầy đã hy sinh vì chân lý, vì tự do tư tưởng,
thà chết chứ không chịu xin đám đông tha tội vì xưa nay Socrate vẫn khinh thường
phán quyết của đám đông.
Socrate bị xử phải uống thuốc độc. Môn đệ của ông tìm cách cứu ông một lần
chót: những kẻ giữ ngục đồng ý nhận một món tiền hối lộ và làm ngơ cho Socrate
trốn đi. Socrate từ chối. Ông đã bảy mươi tuổi, có lẽ ông nghĩ rằng có chết
cũng vừa, vả lại đây cũng là một cơ hội tốt để mà chết. Với các môn đệ đến ngục
thất để tiễn đưa Socrate về cõi chết, Socrate nói: Hãy cứ vui đi, các con chỉ
chôn cái thể phách của thầy.
Nói xong ông đứng dậy và đi vào phòng tắm với Criton. Chúng tôi (theo Platon kể
lại) ngồi đợi ở ngoài, lòng buồn vô hạn. Ông cũng như cha, bây giờ ông chết,
chúng tôi không khác gì những kẻ mồ côi. Giờ mặt trời lặn đã gần kề. Khi ông trở
ra, ông lại ngồi với chúng tôi, chuyện trò rất ít. Chằng bao lâu người giữ ngục
đi vào, đến gần ông và nói như sau: - Ông thật là người cao quý nhất, hiền lành
nhất trong đời. Chắc rằng ông không có ý nghĩ giận tôi giống như những kẻ thường
chửi bới mắng nhiếc tôi khi tôi tuân lệnh trên, đem chén thuốc độc vào đây cho
họ uống. Xin ông thông cảm, tôi với ông không thù hằn gì. Chúc ông can đảm chịu
đựng. Nói xong người giữ ngục oà khóc và ôm mặt đi ra ngoài. Socrate trả lời
như sau: - Tôi sẽ làm như lời ông nói và chúc ông mọi sự tốt lành. Quay về phía
chúng tôi Socrate nói như sau: - Người đó rất tốt với thầy từ lúc thầy vào đây,
y đến thăm hỏi luôn, bây giờ y thực tình mến tiếc, nhưng Criton ơi, hãy đem
chén thuốc vào đây nếu thuốc đã chế xong. Nếu thuốc chưa chế xong, hãy nói người
ta chế. Criton nói: - Thưa sư phụ, mặt trời còn trên đỉnh đồi. Nhiều kẻ đợi trời
tối mới uống và trước khi uống họ được quyền ăn uống no say thoả thích. Xin sư
phụ chớ gấp gáp, hãy còn thì giờ. Socrate nói: - Những kẻ ấy làm rất phải, vì họ
có lợi trong sự chần chờ, nhưng ta thì không thấy có lợi gì khi uống chén thuốc
độc chậm hơn một chút, đời của ta kể như đã hết. Hãy làm như ta đã nói và xin đừng
từ chối. Criton ra dấu cho người giúp việc, người này đi ra một lúc rồi trở lại
với người giữ ngục, tay cầm chén thuốc. Socrate nói: - Ông bạn là người thông
thạo về vấn đề này, xin ông cho biết tôi phải làm thế nào? Người giữ ngục trả lời:
- Uống xong ông nên đi dạo một lúc, khi nào cảm thấy nặng ở hai chân thì nằm xuống,
thuốc sẽ ngấm dần lên đến tim. Nói xong hắn đưa chén thuốc cho Socrate. Socrate
nhận lấy một cách vô cùng nhã nhặn, không chút sợ sệt hoặc thay đổi sắc mặt. -
Trước khi uống, tôi cần dành một phần chén thuốc để dâng cúng thần linh không?
- Chúng tôi chế thuốc vừa đủ. - Tôi hiểu rồi, nhưng dù sao tôi cũng cầu nguyện
thần linh phù hộ cho tôi trong cuộc hành trình sang thế giới bên kia. Nói xong
Socrate cầm chén thuốc đưa lên môi và uống một cách vui vẻ.
Từ trước đến giờ chúng tôi cố nén sự đau buồn thương tiếc, nhưng khi thấy ông uống
cạn chén thuốc, chúng tôi không còn cầm lòng được nữa. Nước mắt tôi tuôn trào,
tôi ôm mặt khóc. Không phải tôi khóc ông, mà chính là tôi khóc tôi từ nay vĩnh
biệt tôn sư. Criton khóc trước tôi, y ôm mặt đi lãng xa vì không thể chứng kiến
nổi cảnh ấy. Tôi cũng ôm mặt theo Criton. Trong lúc ấy thì Apollodorus đang
khóc bỗng thét lên một tiếng làm tất cả chúng tôi đều giật mình. Socrate vẫn
bình tĩnh, ông nói: - Cái gì lạ vậy? Không cho phụ nữ vào đây là để tránh cái
cảnh này. Người ta cần phải chết trong thanh tịnh. Các con hãy bình tĩnh và nhẫn
nại. Nghe những lời nói ấy chúng tôi hổ thẹn và thôi không khóc. Ông đi dạo một
hồi cho đến khi cảm thấy nặng ở chân, rồi nằm xuống đúng theo lời dặn. Người giữ
ngục quan sát tay chân ông, đè mạnh xuống hai bàn chân và hỏi: - Ông cảm thấy
gì không? - Không. Người ấy đi lần lên phía trên, vừa đè vừa hỏi. Chúng tôi thấy
hai chân ông đã cứng và lạnh, Socrate cũng lấy tay ấn thử và nói: - Khi nào thuốc
ngấm đến tim là xong. Khi lạnh đến thắt lưng, ông bỏ miếng vải che mặt và nói:
- Criton, thầy nợ Asclepius một con gà, con nhớ trả món nợ ấy. - Con sẽ trả,
còn gì nữa không?
Không có tiếng trả lời, vài phút sau Socrate cử động, người giữ ngục bỏ miếng vải
che mặt ra, Criton vuốt mắt và miệng cho người chết. Đó là giây phút cuối cùng
của tôn sư chúng tôi, ông là người minh triết nhất, công bằng nhất và tốt nhất.
3. THỜI KỲ HỌC HỎI CỦA PLATON
Cuộc gặp gỡ giữa Platon và Socrate có một tầm quan trọng đặc biệt. Platon thuộc
về giai cấp trung lưu, đẹp trai và khoẻ mạnh. Ông đã từng ở trong quân ngũ và
đã đoạt giải quán quân về thể thao. Không ai có thể ngờ rằng một người như vậy
có thể trở nên một triết gia. Tâm hồn tế nhị của Platon tìm thấy vui thích
trong biện chứng pháp của Socrate. Platon rất sung sướng khi nghiền ngẫm những
lý thuyết của Socrate nhằm đả kích các luận điệu sai lầm đương thời: Platon dự
vào cuộc tranh luận triết lý cũng như ông ta đã dự vào những cuộc tranh giải thể
thao, và từ những cuộc tranh luận đó Platon đã đi đến những suy tư thâm thuý
hơn. Chàng ta trở thành một người yêu triết lý và một môn đệ ưu tú của Socrate.
Chàng thường nói rằng: "Tôi cám ơn trời đã cho tôi làm một người Hy lạp chứ
không phải một dân mọi rợ, một người tự do chứ không phải một người nô lệ, một
người đàn ông chứ không phải một người đàn bà, và quan trọng nhất là được sinh
vào thời Socrate."
Khi Socrate chết, Platon mới được 28 tuổi, và biến cố cảm động này đã in sâu
vào tâm thức của Platon. Nó làm cho Platon thù ghét những tư tưởng dân chủ, thù
ghét quần chúng thêm vào sự thù ghét phát sinh từ giai cấp quý tộc của Platon.
Do đó ông ta chủ trương rằng cần phải tận diệt chế độ dân chủ và thay vào đó một
chính thể do những phần tử quý tộc và sáng suốt lãnh đạo. Một trong những vấn đề
trọng đại mà Platon đã nghiên cứu suốt đời là làm sao tìm ra người khôn ngoan
nhất để giao phó việc lãnh đạo quốc gia.
Trong lúc đó những liên hệ giữa Platon và Socrate làm cho chính quyền đương thời
nghi ngờ Platon. Những bạn bè của ông khuyên ông nên trốn khỏi Athènes và ông
cũng cho rằng đây là một dịp tốt để chu du thế giới. Năm 399 tTL ông xách gói
ra đi.
Những nơi nào ông đã đi qua chúng ta không được biết rõ. Hình như ông đã đi Ai
cập trước tiên và ông rất bất bình khi nghe các nhà lãnh đạo tôn giáo cai trị xứ
này nói rằng Hy lạp là một quốc gia ấu trĩ không có truyền thống và văn hoá và
không thể so sánh được với quốc gia Ai cập. Sự bất mãn này làm ông ta suy nghĩ
nhiều hơn và chuyến đi Ai Cập đóng một vai trò quan trọng trong tác phẩm của
ông nhan đề là Utopia. Sau đó ông đáp tàu qua Sicie và đến Ý. Ở đó ông gia nhập
nhóm triết gia do Pythagore sáng lập. Cảnh tượng một nhóm người có quyền chính
trị rộng rãi lại say mê trong việc nghiên cứu và học hỏi, sống một cuộc đời
bình dị mặc dù nắm nhiều quyền thế trong tay là một đề tài để Platon suy nghĩ.
Ông đi chu du suốt 12 năm, học hỏi tất cả các chính thể, họp bàn với tất cả các
nhóm, tìm hiểu tất cả các học thuyết. Một vài người cho rằng ông đã đến Judée
và đã nghiên cứu học thuyết đượm tính chất xã hội của các triết gia ở đây. Có
người cho rằng ông đã đến tận bờ sông Hằng và học hỏi tư tưởng các triết gia Ấn
độ.
Ông trở về Athènes năm 387 tTL, lúc này ông đã 40 tuổi, một người già dặn sau
nhiều năm học hỏi ở nhiều nước. Ông vẫn còn giữ sự hăng hái của tuổi trẻ nhưng
ông đã nhận thức được rằng tất cả những tư tưởng quá khích chỉ là những chân lý
nửa vời. Ông vừa là một triết gia, vừa là một thi sĩ, lối văn của ông vừa khúc
chiết như một bài luận triết học, vừa đẹp đẽ như một bài thơ: đó là lối văn đàm
thoại. Chưa bao giờ triết học trải qua một thời gian sáng lạn như vậy. Văn thể
của ông sáng chói ngay cả trong những bản dịch. Shelley nhận xét rằng văn thể của
Platon kết hợp luận lý sắc bén và hồn thơ lai láng, vừa dịu dàng trong âm điệu
vừa hùng hồn trong lập luận. Nên biết rằng trước khi trở thành một triết gia
Platon là một nhà soạn kịch.
Sự kết hợp của văn chương và triết lý, của khoa học và nghệ thuật trong các tác
phẩm của Platon đôi khi làm chúng ta khó hiểu: chúng ta không biết rằng những
nhân vật của Platon diễn tả tư tưởng của mình trong trường hợp nào, châm biếm,
pha trò hay nói đứng đắn. Khuynh hướng pha trò châm biếm của Platon đôi khi làm
chúng ta bỡ ngỡ. Những cuộc đối thoại do Platon viết ra là để cho đại chúng: nhờ
trình bày những luận điệu bênh vực và đả kích, nhờ lập đi lập lại những ý tưởng
nòng cốt, các tác phẩm của Platon rất thích hợp với những người muốn học triết
lý cho qua thì giờ. Do đó những lối ngụ ngôn, những giọng văn hài hước thường rất
nhiều. Ngoài ra lẽ cố nhiên còn có những tư tưởng liên quan đến những biến cố
mà Platon cùng người đương thời thường bàn bạc đến, những tư tưởng này rất khó
hiểu đối với một độc giả thế kỷ thứ hai mươi.
Chúng ta phải công nhận rằng Platon có những đặc tính mà ông thường chỉ trích.
Ông không ưa những thi sĩ với trí tưởng tượng quá dồi dào. Ông không ưa những
giáo sĩ, nhưng chính ông là một giáo sĩ, một giảng sư. Giống như Shakespeare,
ông cho rằng mọi sự so sánh đều nhầm lẫn, nhưng ông lại luôn luôn dùng phương
pháp so sánh. Ông chỉ trích các triết gia đương thời là những kẻ miệng lưỡi
nhưng chính ông cũng dùng phương pháp này. Faguet đã nhại lối văn của Platon
như sau: - Toàn thể lớn hơn một phần, phải chăng? - Chắc chắn như vậy. - Và một
phần nhỏ hơn toàn thể phải chăng? - Đúng như thế. - ... Do đó rõ ràng là triết
gia phải lãnh đạo quần chúng. - Ông nói cái gì? - Thật là rõ ràng, chúng ta
hãy lý luận trở lại.
Mặc dù tất cả những lời chỉ trích, những cuốn đối thoại của Platon là một trong
những tác phẩm hay nhất của thế giới. Tác phẩm Cộng hoà là một công trình rộng
lớn dưới hình thức một cuốn sách nhỏ trong đó tập trung những tư tưởng của
Platon về siêu hình, thần học, đạo đức học, tâm lý học, sư phạm, chính trị và
thẩm mỹ. Chúng ta có thể tìm thấy trong đó những vấn đề mà ngày nay chúng ta
đang băn khoăn suy nghĩ: thuyết Cộng sản và xã hội, thuyết nam nữ bình quyền,
thuyết hạn chế sinh sản và phương pháp dạy trẻ. Những vấn đề của Nietzsche về đạo
đức và quý tộc, những vấn đề cũng Rousseau về trạng thái thiên nhiên và tự do
giáo dục, những vấn đề của Bergson về đà sống (élan vital) và những vấn đề của
Freud về phân tâm học. Emerson nói rằng: "Platon là triết lý, và triết lý
là Platon". Đối với ông, thì quyển Cộng hòa của Platon cũng như kinh Coran
và người ta có thể đốt tất cả các thư viện, vì tinh hoa của các thư viện đều nằm
trong cuốn sách này.
Chúng ta hãy nghiên cứu tác phẩm Cộng hòa!
4. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC
Cuộc tranh luận xảy ra trong nhà của Cephalus, một người giàu
có thuộc giai cấp quý tộc. Trong cuộc tranh luận còn có Glaucon và Adeimantus,
anh của Platon, Thrasymachus, một triết gia đương thời. Socrate (mà Platon dùng
như một nhân vật để diễn tả những tư tưởng của chính mình) hỏi Cephalus: - Lợi
ích quan trọng nhất mà tiền của đem lại cho ta, theo ý ông là gì? Cephalus trả
lời: tiền của cho phép ông ta có thể độ lượng, thật thà và công bằng. Socrate hỏi:
công bằng nghĩa là gì? Và mở ra một cuộc tranh luận dài. Không gì khó hơn một
định nghĩa, vì nó đòi hỏi nhiều khôn khéo và sáng suốt trong tư tưởng. Socrate
đả phá tất cả những định nghĩa do cử toạ đưa ra cho đến lúc Thrasymachus mất
bình tĩnh và la lên: - Socrate, ông có điên không? Tại sao các ông lại dẫm
chân nhau như vậy? nếu ông muốn biết công bằng là gì, ông phải trả lời chứ
không được hỏi, ông không nên tự hào vì đả phá được kẻ khác... Có rất nhiều người
có thể đặt câu hỏi nhưng không thể trả lời. Socrate không nao núng. Ông vẫn hỏi
chứ không trả lời, và sau cùng Thrasymachus đưa ra một định nghĩa: "Hãy
nghe đây: tôi cho rằng sức mạnh là lẽ phải, và công bằng là quyền lợi của kẻ mạnh... Những chính thể khác nhau làm nên luật, dù đó là chính thể dân chủ, quý tộc
hay độc tài, tất cả đều nhắm đến quyền lợi của mình; và những điều luật ấy, làm
ra để phụng sự quyền lợi của chúng, được đặt lên đầu nhân dân và gọi là công bằng,
những kẻ nào cưỡng lại sẽ bị phạt và bị xem là không công bằng ...
Tôi nói về sự bất công một cách tổng quát, và ý nghĩ của tôi rất rõ ràng khi
nghiên cứu chính thể độc tài. Trong chính thể này, người ta dùng sức mạnh và sự
gian trá để xâm chiếm tài sản kẻ khác. Khi một người đã lấy tất cả tài sản của
dân chúng và bắt dân chúng làm nô lệ người ta xem nó không phải là một kẻ thượng
lưu. Người ta chỉ trích sự bất công khi người ta là nạn nhân chứ không phải vì
bị lương tâm cắn rứt mỗi khi có hành vi bất công."
Đó là học thuyết mà ngày nay được gán ít nhiều cho Nietzsche. "Tôi thường
cười những kẻ yếu tưởng rằng mình là tốt, chỉ vì chúng nó chân tay què quặt".
Stirner diễn đạt tư tưởng một cách gọn gàng hơn: "một nắm quyền hành tốt
hơn một bao lẽ phải". Tư tưởng trên cũng được Platon diễn tả trong
Gorgias. Calliclès chỉ trích rằng đạo đức là một phát minh của kẻ yếu để vô hiệu
hóa quyền lực của kẻ mạnh.
"Chúng nó khen và chê tuỳ theo quyền lợi của chúng: chúng nói rằng gian
manh là bất công và nhục nhã, chúng nó cho rằng gian xảo là ý muốn có nhiều hơn
người hàng xóm, vì tự biết trình độ thấp kém của mình, chúng chỉ mong được bình
đẳng... Nhưng nếu có một người với đầy đủ quyền lực, người ấy sẽ vượt lên trên
những lý luận này, sẽ chà đạp tất cả những công thức, những luật lệ ...
"Những kẻ sống thực sự cần phải cho ý chí của mình phát triển đến tột độ;
và khi đã phát triển ý chí đến tột độ, họ phải có đủ can đảm và thông minh để
phụng sự ý chí, để thoả mãn tất cả những điều ham muốn. Đó là lẽ công bằng tự
nhiên, sự quý phái tự nhiên. Nhưng đa số không thể làm như vậy, do đó họ chỉ
trích người khác. Chính vì họ nhục nhã trong sự bất lực, chính vì họ muốn che dấu
sự nhục nhã ấy, họ tuyên bố rằng lòng tham vô độ là thấp kém... Họ muốn kìm hãm
những kẻ quý phái hơn và cổ võ sự công bằng chỉ vì họ là những kẻ nhút
nhát".
Sự công bằng ấy là một đạo đức không phải đối với người xuất chúng mà đối với
người hạ cấp; đó là một thứ đạo đức nô lệ không phải là đạo đức xuất chúng, những
đức tính thực sự là của người ta là lòng can đảm và trí thông minh.
Có lẽ rằng những tư tưởng phi đạo đức kể trên phản ảnh sự bành trướng của chủ
nghĩa đế quốc trong chính sách ngoại giao của tiểu quốc Athènes, chính sách này
đối xử rất tàn bạo với những dân tộc nhỏ bé. Trong một bài văn tế, Periclès
nói: "Đế quốc của ngài căn cứ vào quyền lực của ngài chứ không phải là thiện
chí của thần dân". Các sử gia kể lại công cuộc ép buộc Melos phải về phe
Athènes để chống với Sparte như sau: "Ông cũng biết như chúng tôi rằng chỉ
có vấn đề lẽ phải đối với những kẻ quyền lực ngang nhau: kẻ mạnh làm cái gì y
có thể làm và kẻ yếu chịu đựng cái gì y bắt buộc phải chịu đựng". Chúng ta
có ở đây những vấn đề đạo đức căn bản, những lý thuyết căn bản về luân lý. Công
bằng là gì? - Chúng ta cần phải tìm lẽ phải hay cần phải tìm quyền lực?
- Chúng ta nên tốt hay nên mạnh?
Platon giải quyết vấn đề này như thế nào? Sự thật thì ông không giải quyết gì cả.
Ông nhấn mạnh rằng lẽ công bằng là một sự quan hệ giữa cá nhân, tuỳ thuộc vào tổ
chức xã hội và do đó cần phải được nghiên cứu song song với cơ cấu xã hội chứ
không thể được nghiên cứu như một thái độ cá nhân. Nếu chúng ta có thể hình
dung một quốc gia công bằng, chúng ta mới có đủ yếu tố để định nghĩa một cá
nhân công bằng. Platon lấy ví dụ rằng muốn thử con mắt của một cá nhân cần phải
cho họ đọc những chữ lớn rồi dần dần đến những chữ nhỏ. Cũng thế, định nghĩa
công bằng trong mẫu mực lớn là quốc gia giản dị hơn định nghĩa công bằng trong
mẫu mực nhỏ là cá nhân. Sự thật thì Platon muốn dùng lối lý luận này để nối liền
hai phần nghiên cứu. Chẳng những ông muốn thảo luận về vấn đề đạo đức cá nhân
mà ông còn muốn thảo luận cả về vấn đề xã hội và chính trị. Trong cuộc thảo luận
này Platon sắp đưa ra tác phẩm Quốc gia lý tưởng (Utopia).
5. VẤN ĐỂ CHÍNH TRỊ
Công bằng sẽ là một vấn đề giản dị nếu con người cũng giản dị. Platon tưởng tượng
như sau: Trước hết chúng ta thử hình dung nếp sống của một xã hội giản dị. Người
ta sẽ sản xuất lúa, rượu, áo quần, dày dép, nhà cửa. Họ sẽ làm việc lưng trần
và chân không trong mùa hạ, mang giày và áo ấm trong mùa đông. Họ tự nuôi sống
bằng lúa mì, xay bột và nướng bánh, họ ngồi ăn trên chiếu hoặc trên lá, ngả
lưng vào giường hoặc vào thân cây. Họ ăn uống với gia đình, uống rượu do họ tự
làm lấy, mang những vòng hoa trên đầu, hát những điệu ca tụng thần linh, sống
trong sự hoà nhã êm ái không để cho nhân khẩu trong gia đình vượt quá phương tiện
sinh nhai vì họ biết lo xa, sợ nghèo đói và chiến tranh... Lẽ cố nhiên họ có những
món ăn ưa thích: trái ô liu, phó mát, hành, su và những thứ rau khác; họ tráng
miệng bằng xoài, mận, đào, họ nướng những loại bánh và uống rượu có chừng mực.
Với những món ăn như vậy họ có thể sống an nhàn cho đến tuổi già và để lại cho
con cháu một đời sống cũng an nhàn.
Chúng ta hãy để ý đến sự kiểm soát sinh sản, sự ăn chay và sự sống theo thiên
nhiên mà các huyền thoại Do thái dùng để tả thiên đường. Toàn thể đoạn văn làm
chúng ta liên tưởng đến triết lý của Diogène khuyên ta nên trở về sống với thú
vật bởi vì chúng nó sống yên ổn.
Chúng ta cũng còn liên tưởng đến các lý thuyết của Saint Simon, Fourrier,
William Morris và Tolstoi. Nhưng Platon có phần hoài nghi hơn những tác giả ấy,
ông không đi sâu vào vấn đề: tại sao một đời sống gần như thiên đàng không bao
giờ đến với nhân loại? Tại sao những tiểu quốc thuộc loại Utopia chưa bao giờ
nằm trên bản đồ?
Platon trả lời: Đó là tại lòng tham và sự xa hoa. Con người không chịu bằng
lòng với một đời sống giản dị, họ luôn luôn muốn chiếm đoạt, muốn ao ước, muốn
ganh đua, muốn ghen ghét. Họ sẽ bất mãn với những gì họ có và chạy theo những
gì họ chưa có, họ chỉ muốn những cái gì thuộc về kẻ khác. Kết quả là sự xâm chiếm
lãnh thổ kẻ khác, sự cạnh tranh giữa các nhóm để giành giựt tài nguyên và cuối
cùng là chiến tranh. Nền kinh tế phát triển đem lại những giai cấp mới. "Tất
cả những quốc gia đều gồm có hai quốc gia, quốc gia của những người nghèo và quốc
gia của những người giàu, hai quốc gia xung đột nhau gay gắt. Nếu cho rằng đó
chỉ là một quốc gia thì chúng ta lầm lỗi lớn". Một giai cấp thương gia trỗi
dậy muốn dùng tiền của để chiếm địa vị và cổ võ sự tiêu thụ hàng hoá.
"Chúng nó sẽ tiêu những số tiền lớn để các bà vợ trang sức". Những sự
thay đổi trong việc phân phối lợi tức gây nên những sự thay đổi về mặt chính trị
: khi lợi tức của bọn thương gia vượt quá lợi tức của bọn địa chủ, chính thể
phú nông nhường chỗ cho chính thể phú thương. Lúc đó sự phối hợp các lực lượng
xã hội và sự điều chỉnh chính sách quốc gia, nói tóm là nghệ thuật trị nước được
thay thế bằng những thủ đoạn chính trị phát xuất từ những đảng phái và sự háo
danh lợi.
Tất cả những chính thể quốc gia đều có khuynh hướng tự đào thải khi đi vào con
đường quá khích. Chính thể quý tộc tự đào thải khi thu hẹp số người nắm giữ quyền
hành, chính thể dân chủ tự đào thải vì lòng tham giành giựt danh lợi. Trong cả
hai trường hợp thế nào cũng đi đến cách mạng. Khi cách mạng xảy đến, người ta
có cảm tưởng rằng nguyên do là những biến cố nhỏ nhặt, sự thật thì cách mạng là
hậu quả của vô số lỗi lầm chồng chất lại. "Khi một cơ thể đã suy yếu, những
nguyên do rất tầm thường cũng có thể đem đến bệnh tật. Khi chính thể dân chủ đến,
kẻ nghèo chiến thắng đối thủ của họ, tàn sát một số, trục xuất một số và cho tất
cả mọi người những quyền hành và tự do bình đẳng".
Nhưng chính thể dân chủ tự huỷ vì quá dân chủ. họ muốn rằng tất cả mọi người đều
có quyền tham gia chính phủ và ấn định đường lối quốc gia. Mới xem qua thì đó
là một lý tưởng quá tốt đẹp, nhưng thực ra nó trở nên vô cùng nguy hiểm vì dân
chúng không được giáo dục để có thể lựa chọn người tài giỏi ra cầm quyền và ấn
định đường lối thích hợp nhất. "Dân chúng không có kiến thức, họ chỉ lập lại
những điều gì nhà cầm quyền nói với họ". Muốn ủng hộ hoặc đả phá một học
thuyết, chỉ cần soạn những vở kịch trong đó những học thuyết kia được đem ra chỉ
trích hoặc cổ võ trước công chúng. Để cho dân chúng cầm quyền không khác gì cho
con thuyền quốc gia lướt trong vùng bão tố, miệng lưỡi của bọn chính trị gia
làm nước nổi sóng và lật hướng đi của con thuyền. Không chóng thì chầy, một
chính thể như vậy sẽ đi vào con đường độc tài. Dân chúng rất ưa những lời nịnh
hót, những kẻ khôn ngoan và vô liêm sỉ tự gán cho mình cái danh nghĩa bảo vệ
dân chúng rất có cơ hội cầm quyền tối cao.
Càng nghĩ đến vấn đề này, Platon càng kinh ngạc về sự điên rồ khi giao cho quần
chúng trọng trách chọn người cầm giềng mối quốc gia, đó là chưa nói đến những
thế lực kim tiền núp sau sân khấu chính trị dân chủ để điều khiển những chính
quyền bù nhìn. Platon phàn nàn rằng đối với một việc nhỏ như việc đóng giày,
người ta còn phải lựa chọn những người thợ chuyên môn, tại sao trong lãnh vực
chính trị là một lãnh vực trọng đại, người ta có thể tin tưởng rằng bất cứ kẻ
nào chiếm được nhiều phiếu đều biết cách trị nước an dân. Khi chúng ta bị bệnh,
chúng ta mời đến một y sĩ lành nghề đã trải qua nhiều năm đèn sách và thực tập,
chúng ta không mời những y sĩ đẹp trai nhất hoặc những y sĩ miệng lưỡi nhất. Thế
thì tại sao khi quốc gia lâm nguy, chúng ta không tìm đến những người khôn
ngoan nhất, đức hạnh nhất? Tìm ra một phương pháp để loại bỏ bọn bất tài và bịp
bợm ra khỏi chính phủ, chọn lựa những kẻ tài cao đức trọng, đó là vấn đề chính
của triết lý chính trị.
Đằng sau vấn đề chính trị là vấn đề tính chất con người. Muốn hiểu chính trị,
chúng ta cần phải hiểu tâm lý. " Con người thế nào, quốc gia thế ấy";
"Chính thể thay đổi cũng như tính người thay đổi... Quốc gia được cấu tạo
bởi bản chất con người". Do đó, chúng ta không thể mơ tưởng những quốc gia
hoàn hảo hơn khi chúng ta chưa có những con người hoàn hảo. Chúng ta là những
người thật kỳ lạ, luôn luôn uống thuốc chữa bệnh làm cho bệnh trạng càng rắc rối
và nặng hơn, luôn luôn tưởng rằng có thể được chữa lành bởi một vài thứ thuốc rẻ
tiền do một vài người chỉ bày, nhưng không bao giờ khá hơn, trái lại chỉ nặng
thêm mà thôi... Những kẻ ấy thật kỳ lạ khi họ muốn trở thành nhà lập pháp và tưởng
tượng rằng với một vài cải cách họ có thể chấm dứt nạn tham nhũng của nhân loại.
Họ không biết rằng tham nhũng cũng như con rắn thần thoại, chặt đầu này nó mọc
đầu khác".
Chúng ta hãy xem xét con người, chất liệu cấu tạo triết lý
chính trị. Hành động con người có ba nguyên do: tham, sân và trí. Lòng tham muốn,
khao khát, dục, bản năng, tất cả đều thuộc một loại; sân si, giận dữ, can đảm,
tất cả đều thuộc một loại; trí huệ, hiểu biết lý luận, tất cả đều thuộc một loại.
Lòng tham nằm nơi thận, nó là một kho chứa năng lực phần lớn là thuộc tính dục.
Sân si nằm ở trái tim, và bị chi phối bởi áp lực máu trong huyết quản. Trí huệ
nằm trong đầu, và có thể trở thành kẻ hướng đạo cho linh hồn.
Những yếu tố ấy có trong tất cả mọi người, nhưng với mức độ khác nhau. Một số
người chỉ là sự thể hiện của lòng tham, luôn luôn muốn chiếm đọat tiền của, muốn
sống xa hoa và phô trương, muốn chạy theo những gì họ chưa có. Đó là những người
cầm đầu trong giới làm ăn. Một số khác ưa gây gỗ và can đảm, họ thích gây gỗ chỉ
để gây gỗ, họ muốn có quyền hơn là có của, họ sung sướng trên chiến trường hơn
là ngoài đồng áng, những người này cấu tạo những lực lượng lục quân và hải quân
trên thế giới. Cuối cùng, có những người ưa thích suy nghĩ và hiểu biết, họ
không chạy theo của cải hoặc chiến thắng mà chạy theo sự hiểu biết. Họ tránh xa
thị trường và chiến trường để suy tư trong cảnh tịch mịch. Họ là những người
khôn ngoan đứng riêng rẽ và không được ai sử dụng.
Hành vi của con người có giá trị khi lòng tham sân si được hướng dẫn bởi trí tuệ.
Trong một quốc gia lý tưởng, những lực lượng sản xuất chỉ lo sản xuất mà không
cai trị, những lực lượng võ trang chỉ lo bảo vệ mà không cai trị, những lực lượng
trí huệ phải được nuôi dưỡng và bảo vệ và phải cầm quyền cai trị. Nếu không được
hướng dẫn bởi trí huệ, dân chúng chỉ là một đám ô hợp, dân chúng cần sự hướng dẫn
của triết gia cũng như lòng tham cần sự hướng dẫn của trí huệ. "Sự sụp đổ
sẽ xảy đến khi những con buôn nhờ giàu sang đã trở thành những người cai trị".
Hoặc khi một tướng lãnh dùng lực lượng võ trang của mình để lập nên một chính
thể quân nhân. Những người sản xuất rất thích hợp trong lãnh vực kinh tế, những
chiến sĩ rất thích hợp trên chiến trường, nhưng cả hai đều tai hại trong lãnh vực
chính trị, trong những bàn tay vụng về của họ, những thủ đoạn chính trị thay thế
nghệ thuật trị nước an dân. Thuật trị nước vừa là khoa học vừa là nghệ thuật,
nó đòi hỏi nhiều sự tận tâm và học hỏi. Chỉ những triết gia mới thích hợp trong
việc trị nước. "Khi nào triết gia trở thành quốc vương và tất cả quốc
vương trên thế giới đều trở thành triết gia thì những tệ đoan của xã hội sẽ chấm
dứt, đó là tư tưởng nòng cốt của Platon.
7. GIẢI PHÁP TÂM LÝ
Chúng ta phải làm những gì? Chúng ta phải gởi về đồng quê tất cả những công
dân trên 10 tuổi. Một khi đã kiểm soát được đám trẻ con chúng ta sẽ không để
cho lũ trẻ con này bị ảnh hưởng xấu của cha mẹ chúng nó. Chúng ta không thể xây
dựng một quốc gia lý tưởng mà không hoàn toàn dứt khoát với quá khứ. Có thể
dùng một miền đất xa xôi nào đó để thực hiện một quốc gia lý tưởng. Đám trẻ con
ấy sẽ được dạy dỗ đồng đều: những kẻ kỳ tài xuất chúng có thể tìm thấy ở tất cả
mọi giới vậy cần phải cho tất cả trẻ con những cơ hội học hỏi đồng đều.
Trong 10 năm đầu, nền giáo dục sẽ đặc biệt chú trọng đến thể dục, mỗi trường học
đều có một sân chơi và một sân vận động. Chương trình học gồm toàn những môn thể
dục và thể thao. Trong 10 năm đó, lũ trẻ sẽ có một sức khoẻ dồi dào khiến cho
việc khám bệnh và trị bệnh trở nên hoàn toàn vô ích. Sở dĩ người ta thường mắc
bệnh là đã sống một cuộc đời quá nhàn rỗi, quá bê tha, thiếu vận động. Về mục
đích của nền giáo dục trong giai đoạn này là làm cho bệnh tật không có cơ hội để
phát triển. Chính những kẻ nhà giàu vì cuộc sống quá nhàn rỗi đã tự đem bệnh hoạn
đến cho mình. Nếu một kẻ lao động nhuốm bệnh, họ sẽ tìm một loại thuốc nào công
hiệu để chóng khỏi. Nếu có người khuyên nhủ họ phải trải qua một thời kỳ điều
trị công phu như là lựa chọn các món ăn, tắm hơi, đấm bóp... Kẻ ấy sẽ trả lời rằng
họ không có thì giờ và họ cũng không muốn mất công nuôi dưỡng bệnh trạng trong
khi còn bao nhiêu việc khác cần phải làm, họ sẽ chế nhạo ông thầy thuốc đã
khuyên họ những lời khuyên lố bịch ấy, họ sẽ ăn uống như thường ngày. Nếu họ
lành bệnh thì sẽ tiếp tục nghề nghiệp, nếu bệnh không lành họ sẽ chết một cách
giản dị. Chúng ta không thể khoanh tay ngồi nhìn một quốc gia gồm toàn những bệnh
nhân sống không ra sống, chết không ra chết. Quốc gia lý tưởng cần phải được
xây dựng trên sức khoẻ của dân chúng.
Tuy nhiên, những môn thể dục và thể thao có khuynh hướng phát triển con người
chỉ về một chiều. Những kẻ can đảm có sức mạnh siêu quần thường không được nhã
nhặn. Quốc gia lý tưởng không thể chỉ gồm những võ sĩ và lực sĩ. Vậy cần phải dạy
cho dân chúng biết âm nhạc. Nhờ âm nhạc mà tâm hồn con người ý thức được sự điều
hòa và nhịp điệu, do đó ý thức được công lý. Sự điều hoà không bao giờ đi đôi với
bất công. Nhạc lý sẽ thâm nhập vào linh hồn con người khiến cho linh hồn trở nên
đẹp đẽ hơn. Nhạc lý sẽ uốn nắn tính tình con người và do đó đem đến một giải
pháp tốt đẹp cho các vấn đề xã hội và chính trị. Mỗi khi tiết tấu của âm nhạc
thay đổi thì các nguyên lý căn bản của xã hội cũng thay đổi theo.
Âm nhạc chẳng những sửa đổi tánh tình trở nên tế nhị hơn mà còn giữ gìn hoặc bảo
đảm sức khoẻ. Dân Corybantic có tục lệ chữa trị các phụ nữ mắc bệnh điên bằng
âm nhạc. Một khi điệu nhạc trỗi lên các bệnh nhân sẽ nhảy nhót một cách cuồng
loạn cho đến khi kiệt lực và nằm ngủ. Sau giấc ngủ đa số bệnh nhân đã bình phục.
Những tư tưởng bị lãng quên trong vô thức được khơi động bởi những phương pháp
kể trên. Những kẻ xuất chúng là những kẻ có những cội rễ thiên tài bắt nguồn từ
cõi vô thức. Không một người nào trong trạng thái hữu thức có thể có những ý
nghĩ xuất chúng. Những người xuất chúng và những người điên giống nhau ở điểm
này.
Platon đã đề cập đến khoa phân tâm học. Ông nói rằng sở dĩ khoa tâm lý chính trị
của nhân loại còn mơ hồ vì người ta chưa biết rõ và chưa nghiên cứu tường tận những
sở thích và bản năng của con người. Nếu quan sát những giấc mơ, người ta có thể
hiểu rõ hơn về những bản năng ấy. "Một vài loại thú vui được xem như bất hợp
pháp, mọi người ai cũng thích những thú vui ấy nhưng đối với phần đông thì sở
thích bị dồn ép bởi luật lệ và lý trí. Những sở thích luôn luôn có mặt trong tiềm
thức trong khi khả năng của lý trí bị lu mờ. Trong những lúc ấy những sở thích
trỗi dậy như những con vật và có thể gây ra tất cả những tội ác có thể tưởng tượng
được. Đối với những người có sức khoẻ tinh thần họ luôn luôn đủ sức kềm hãm những
khuynh hướng kể trên và không rơi vào vòng tội lỗi". Âm nhạc và nhịp độ
khiến cho tâm hồn trở nên khoẻ mạnh. Tuy nhiên, quá nhiều âm nhạc cũng có hại
như quá nhiều thể thao, thể dục. Những lực sĩ chỉ biết có thể dục không khác gì
một kẻ rừng rú, những nhạc sĩ chỉ biết có nhạc thường trở nên quá yếu mềm. Vậy
cần phải dung hoà cả hai khuynh hướng.
Quá 16 tuổi mọi môn âm nhạc cần phải đình chỉ, trừ những môn đồng ca. Âm nhạc còn cần phải được dùng để giảng giải những môn khó khăn hơn như toán học, sử ký và khoa học. Cần phải phổ nhạc những bài học để cho dễ nhớ hơn. Những kẻ nào không có khiếu để học các môn kể trên được tự do lựa chọn những môn khác, không nên ép buộc trẻ con phải thấu hiểu bất cứ môn học nào. Người ta cần phải được tư do trong vấn đề học hỏi. Những môn học ép buộc không bao giờ thấm nhuần vào tâm trí của người học. Việc học cần phải được tổ chức như một trò chơi và như thế có thể cho phép chúng ta tìm hiểu khuynh hướng thiên nhiên của đứa trẻ.
Quá 16 tuổi mọi môn âm nhạc cần phải đình chỉ, trừ những môn đồng ca. Âm nhạc còn cần phải được dùng để giảng giải những môn khó khăn hơn như toán học, sử ký và khoa học. Cần phải phổ nhạc những bài học để cho dễ nhớ hơn. Những kẻ nào không có khiếu để học các môn kể trên được tự do lựa chọn những môn khác, không nên ép buộc trẻ con phải thấu hiểu bất cứ môn học nào. Người ta cần phải được tư do trong vấn đề học hỏi. Những môn học ép buộc không bao giờ thấm nhuần vào tâm trí của người học. Việc học cần phải được tổ chức như một trò chơi và như thế có thể cho phép chúng ta tìm hiểu khuynh hướng thiên nhiên của đứa trẻ.
Tâm trí cần phải được tự do trong việc phát triển và thể chất cần phải mạnh mẽ
nhờ các môn thể thao và thể dục. Có như vậy quốc gia mới được vững mạnh trên
hai căn bản tâm lý và sinh lý. Tuy nhiên cần phải có một căn bản đạo đức, tất cả
những cá nhân trong một tập thể cần phải được thống nhất, họ phải biết vai trò
của họ trong tập thể, tất cả mọi người đều có quyền hành và trách nhiệm đối với
người khác. Chúng ta phải xử trí cách nào trong khi mọi người đều tham lam,
ganh ghét, dâm dật và ưa gây gổ? Phải dùng đến cảnh sát chăng? Đó là một
phương pháp dữ tợn và tốn kém. Có một phương pháp khác tốt đẹp hơn đó là sự chế
tài của một đấng tối cao: chúng ta cần có một tôn giáo.
Platon tin tưởng rằng một nước không có tín ngưỡng vào một đấng tối cao không thể
là một nước mạnh. Chỉ tin tưởng vào một nguyên lý sơ khai, một sức mạnh vũ trụ
hoặc một sức sống mãnh liệt mà không tin tưởng vào một đấng tối cao thì cũng
chưa đủ để tạo nên hy vọng, sự tận tâm và lòng hy sinh, chưa đủ để an ủi tinh
thần của những kẻ thất vọng hoặc gây sự can đảm cho những kẻ chinh chiến. Chỉ
có một đấng tối cao mới có thể làm những việc sau này, mới có thể bắt buộc những
người ích kỷ phải dằn lòng để sống một cuộc đời tiết độ, kềm hãm sự đam mê. Cần
phải cho dân chúng tin tưởng vào sự bất diệt của linh hồn: chính sự tin tưởng ấy
làm cho người ta có can đảm để đương đầu với sự chết hoặc chịu đựng sự vĩnh viễn
ra đi của những kẻ thân yêu.
Người ta sẽ chiến đấu với nhiều ưu thế hơn khi người ta chiến đấu với lòng tin.
Vẫn biết rằng sự hiện hữu của một đấng tối cao không bao giờ có thể chứng minh
được; vẫn biết rằng đấng tối cao chỉ có trong sự tưởng tượng do hy vọng và lòng
thành kính của con người đặt ra, vẫn biết rằng linh hồn không khác gì những tiếng
nhạc do một nhạc khí phát ra và sẽ tiêu tan cùng lúc với nhạc khí ấy... Nhưng
chúng ta vẫn thấy rằng tín ngưỡng không đem lại điều gì có hại mà chỉ đem lại
những điều lợi cho con em của chúng ta.
Công việc giảng giải những hiện tượng trong vũ trụ trước óc tò mò càng ngày
càng lớn của đám thanh niên là một việc rất khó, nhất là khi chúng đến lứa tuổi
20 và bắt đầu tìm hiểu để thực nghiệm những điều đã học. Đó cũng là lúc chúng
ta tổ chức những kỳ thi tổng quát vừa lý thuyết vừa thực hành. Cần phải cho những
thí sinh các thử thách vật chất cũng như tinh thần. Tất cả những khả năng sẽ có
dịp xuất hiện cùng lúc với những nhược điểm. Những thí sinh nào bị rớt sẽ nhận
những công việc kinh tế của quốc gia, họ sẽ là những nhà buôn bán, thư ký, thợ,
làm ruộng. Cuộc thi phải được tổ chức một cách vô tư, tất cả những người có khả
năng, bất luận họ thuộc thành phần nào đều phải được chấm đậu.
Những người được chấm đậu qua kỳ thi đầu tiên này sẽ học thêm 10 năm nữa để rèn
luyện tinh thần, thể chất và tính tình. Sau 10 năm đó họ sẽ thi một lần thứ hai
khó hơn lần trước rất nhiều. Những kẻ nào rớt sẽ trở thành những người phụ tá,
những sĩ quan tham mưu trong tổ chức chính phủ. Cần phải an ủi những kẻ bị thi
rớt để họ chấp nhận số phận một cách vui vẻ. Làm thế nào để đạt mục đích ấy ?
Chúng ta phải nhờ đến tôn giáo và tín ngưỡng. Chúng ta nói cho họ biết rằng số
trời đã định như vậy và không thể thay đổi được. Chúng ta có thể nói với họ như
sau: "Hỡi các đồng bào, tất cả chúng ta đều là anh em nhưng trời sinh
chúng ta mỗi người một khác, có người có khả năng chỉ huy, những người ấy không
khác gì vàng, họ phải có những vinh dự lớn nhất. Có những người khác được ví
như bạc, họ có thể là những kẻ phụ tá đắc lực. Những người còn lại là những người
nông phu hoặc thợ thuyền, họ có thể ví như sắt và đồng. Có nhiều khi cha mẹ
vàng sinh con bạc hoặc cha mẹ bạc sinh con vàng. Vậy cần phải thay đổi ngôi thứ
để thích hợp với khả năng của mọi người. Những kẻ làm quan to cũng không nên buồn
phiền khi thấy con cái mình phải làm nông dân hoặc thợ thuyền. Trái lại cũng có
những trường hợp con cái nông dân thợ thuyền trở nên quan lớn. Số trời đã định
rằng nếu để những người thuộc hạng sắt và đồng lên cầm quyền thì quốc gia sẽ
điêu tàn".
Có lẽ nhờ huyền thoại ấy mà chúng ta thu hoạch được sự phục tùng của dân chúng
hầu thi hành chính sách quốc gia. Đối với những kẻ thi đậu kỳ thứ hai phải làm
thế nào? Họ sẽ được học môn triết lý. Lúc này họ đã được 30 tuổi vì không nên
cho những người quá trẻ học triết lý quá sớm, họ sẽ quen thói suy luận cãi cọ,
hồ nghi... giống như những con chó con hay cắn xé những miếng giẻ trong các trò
chơi của chúng. Theo Platon thì triết lý có hai nghĩa: Đó là phương pháp suy luận
một cách minh bạch và cai trị một cách khôn ngoan. Trước hết những kẻ trí thức
trẻ tuổi phải học cách suy luận minh bạch, họ phải biết thế nào là một ý nghĩ.
Lý thuyết của Platon về ý nghĩ là một trong những lý thuyết rắc rối và tối tăm
nhất của lịch sử triết lý. Platon cho rằng ý nghĩ có thể bao trùm tổng quát hoặc
có thể là một định luật chi phối vạn vật hoặc có thể là một lý tưởng. Sau thế
giới hiện tượng do các giác quan của con người phát hiện là thế giới của những
ý nghĩ do sự suy luận phát hiện. Thế giới của những ý nghĩ có tính cách trường
tồn hơn thế giới hiện tượng và do đó có thể xem là xác thực hơn. Ví dụ ý nghĩ về
con người trường tồn hơn sự hiện hữu của ông A, ông B hay bà C. Ý nghĩ về vòng
tròn tồn tại mãi mãi trong khi một vòng tròn kẻ trên giấy có thể biến mất. Một
cái cây có thể còn đứng vững hoặc đã ngã xuống nhưng những định luật chi phối sự
đứng vững hoặc ngã xuống của cái cây còn tồn tại mãi mãi. Thế giới của ý nghĩ
do đó có thể coi là đã có trước thế giới hiện tượng và có thể tồn tại sau khi
thế giới hiện tượng đã biến mất. Đứng trước một cây cầu giác quan chỉ cảm thấy
một khối khổng lồ bằng sắt và xi-măng nhưng chính nhờ ý nghĩ mà người kỹ sư
hình dung được các định luật chi phối sự thành hình của cây cầu, các định lý
toán học, vật lý học theo đó tất cả cây cầu phải được xây cất. Nếu những định
luật ấy không được tuân theo, cây cầu sẽ sụp đổ. Có thể nói rằng chính những định
luật đóng vai trò của đấng tối cao để giữ cho cây cầu đứng vững. Các định luật
do đó là một phần cần thiết trong việc học hỏi triết lý. Ở trước cửa đi vào Hàn
lâm viện Platon cho vẽ những chữ sau đây: "Kẻ nào không thông suốt hình học
thì xin chớ vào đây".
Không có thế giới của ý nghĩ mọi vật sẽ hỗn độn và vô nghĩa. Chính ý nghĩ cho
phép con người sắp xếp vũ trụ theo thứ tự. Thế giới không có ý nghĩ là một thế
giới không có thật, không khác gì những hình bóng cử động trên tường. Do đó mục
đích chính của nền đại học là đi tìm những ý nghĩ để biết được hướng tiến lý tưởng,
biết được sự tương quan giữa vật này và vật khác, biết vũ trụ diễn biến như thế
nào. Chúng ta cần phải phối hợp và sắp đặt các kinh nghiệm của giác quan theo
các tiêu chuẩn kể trên, chính điểm này là điểm khác biệt duy nhất giữa người
ngu và người thông minh.
Sau 5 năm học hỏi về thế giới của ý nghĩ, về nguồn gốc và sự diễn tiến của vũ
trụ, sau 5 năm học hỏi khác về cách áp dụng những nguyên lý kể trên trong việc
xử thế và trị nước, sau 10 năm học hỏi để phát triển thể chất và tinh thần, những
kẻ được may mắn chấm đậu đã sẵn sàng để cầm quyền chưa ? Chắc chắn họ đã trở
nên những triết gia lãnh tụ đủ sức để cầm quyền và giải phóng xứ sở chưa?
Platon cho rằng chưa đủ. Sự đào luyện đến đây vẫn còn khiếm khuyết. Sau giai đoạn
đào luyện về lý thuyết cần phải bước qua giai đoạn đào luyện bằng thực hành. Cần
phải cho những ông tiến sĩ ấy hòa mình vào đời sống, các lý thuyết sẽ không có
giá trị nếu chúng không bị thử thách bởi cuộc sống hằng ngày. Những ông tiến sĩ
này phải chung đụng với đời một cách hoàn toàn bình đẳng, họ phải cạnh tranh để
mưu sống với những nhà buôn bán, những phần tử đầy thủ đoạn xảo quyệt, trong cuộc
sống này họ sẽ được đào luyện bởi trường đời, họ sẽ đem mồ hôi để đổi lấy bát
cơm. Cuộc sống này sẽ kéo dài thêm 15 năm. Một số các thí sinh sẽ bị đào thải,
số còn lại sẽ trở nên ôn hoà và tự tin hơn trước, họ không còn tự đắc mù quáng
vào những lý thuyết, họ sẽ có một sự hiểu biết quý báu do truyền thống, kinh
nghiệm và sự đấu tranh đem lại. Những người ấy xứng đáng được cầm quyền trị nước.
8. GIẢI PHÁP CHÍNH TRỊ
Dân chủ có nghĩa là cơ hội đồng đều cho toàn thể công dân nhất là trong lãnh vực
giáo dục. Nó không phải chỉ là để cho mọi người có cơ hội tham gia chính quyền,
điểm quan trọng là tất cả mọi người đều có cơ hội học hỏi để sau này có thể đảm
nhận những phần việc trong chính quyền. Tuy nhiên chỉ những kẻ nào tỏ ra thông
minh xuất chúng mới có đủ điều kiện. Những chức vụ cao sẽ được lựa chọn không
phải bằng cách bầu cử cũng không phải bằng sự đấu tranh giữa các phe nhóm mà
chính là bằng khả năng của từng người. Không một người nào được giữ chức vụ cao
mà không được huấn luyện trước hoặc chưa làm tròn nhiệm vụ ở những chức vụ thấp.
Phải chăng đây là một chính thể quý tộc ? - Vấn đề danh từ không quan trọng lắm,
nó chỉ quan trọng đối với người ngu và các chính trị gia. Chúng ta muốn được
cai trị bởi những phần từ xuất sắc nhất, đó là tinh hoa của chính thể quý tộc.
Tuy nhiên chúng ta thường quan niệm rằng chính thể quý tộc là phải cha truyền
con nối. Về điểm này chúng ta hoàn toàn khác biệt với quan niệm của Platon. Thật
vậy, Platon chủ trương một chính thể quý tộc dân chủ. Thay vì phải chọn lựa những
ứng cử viên do các bè phái đưa ra, người dân có thể tự đề cử mình bằng cách học
hỏi. Ở trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền
con nối, tất cả mọi tài năng đều có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua
chúa hay là con thứ dân cũng đều bắt đầu ngang nhau. Nếu con vua chúa mà không
có khả năng cũng vẫn bị đào thải. Nếu là con thứ dân mà có đủ khả năng cũng vẫn
có thể tiến tới. Đây là nền dân chủ của học đường, một nền dân chủ trăm ngàn lần
đẹp đẽ hơn nền dân chủ của thùng phiếu.
Và như vậy những người cầm quyền sẽ dành tất cả nỗ lực của mình để duy trì tự
do cho xứ sở. Không có vấn đề phân quyền; lập pháp, hành pháp cũng như tư pháp
đều tập trung vào một nhóm người, ngay cả nguyên tắc pháp trị cũng không thể
làm cho họ bó tay trước những tình thế đặc biệt. Quyền hành của họ là một thứ
quyền hành vừa thông minh, vừa mềm dẻo, vừa không có giới hạn.
Làm sao có thể tìm ra những người có đủ sự thông minh và mềm dẻo? Adeimantus (
một nhân vật trong tác phẩm của Platon ) quan niệm rằng triết gia cũng có thể lầm
lạc và ích kỷ, những người này đôi khi trở thành kỳ dị và hoàn toàn vô dụng
trong xã hội. Quan niệm này có thể áp dụng đối với một số người trong xã hội
ngày nay. Platon đã nghĩ đến vấn đề này và chủ trương một lối giáo dục thực tế,
đi đôi với đời sống, song hành với một nền học vấn uyên thâm. Hậu quả của
phương pháp nầy là đào tạo những phần tử nhìn xa thấy rộng và ưa hoạt động.
Platon quan niệm triết lý là một nền văn hoá hoạt động kết hợp được sự khôn
ngoan sáng suốt và nhu cầu hoạt động của con người. Trong lãnh vực này Platon rất
khác biệt với triết gia Kant.
Để đối phó với sự tham nhũng trong giai cấp lãnh đạo, Platon chủ trương một chế
độ cộng sản triệt để: "Trong giai cấp này không ai được quyền có của riêng
ngoài những vật dụng tối cần thiết cho đời sống. Họ không được có nhà riêng có
cửa khoá, vật dụng và đồ ăn uống chỉ vừa đủ cho một chiến sĩ lâm trận. Họ lãnh
một số phụ cấp vừa đủ ăn và sống đời sống tập thể giống như những quân nhân
trong doanh trại. Họ không cần có vàng bạc vì giá trị bản thân họ quý hơn vàng
bạc. Họ không cần phải động đến các thứ đó hoặc đeo chúng vào người. Trong những
điều kiện ấy họ mới có thể duy trì được nước. Nếu trái lại họ ham mua nhà, đất
hoặc tích trữ tiền bạc, họ sẽ trở nên những người chủ nhà hoặc chủ nông trại
thay vì phải là những người giữ nước. Họ sẽ trở nên kẻ thù của những người
khác. Sự căm thù và những âm mưu làm hại nhau là những mầm móng phá tan xã hội
từ bên trong, hiệu quả hơn những kẻ thù từ bên ngoài".
Lối sống kể trên làm cho giai cấp lãnh đạo không nghĩ đến việc bè phái mà chỉ
nghĩ đến ích lợi chung. Họ không thiếu thốn, không cần lo nghĩ về những vấn đề
kinh tế nhưng đồng thời họ cũng không có cơ hội để tham nhũng và đeo đuổi những
khát vọng cá nhân. Họ sẽ ăn chung với nhau, ngủ chung với nhau trong một đời sống
giản dị. Quyền lực của họ sẽ không làm hại kẻ khác, phần thưởng độc nhất của họ
là niềm tự hào đã giúp ích cho xã hội. Chắc chắn sẽ có những người bằng lòng sống
một đời sống như vậy, họ sẽ đánh giá một đời sống tận tụy cho xứ sở cao hơn những
món lợi kinh tế. Do đó sẽ không còn những phe phái cấu xé nhau vì địa vị.
Những người vợ ở nhà thì sao ? Các bà này có chịu hy sinh những xa hoa của đời
sống không ? - Giai cấp lãnh đạo sẽ không có vợ, chế độ cộng sản bao gồm cả những
người vợ. Chẳng những họ không tìm cái lợi cho bản thân mà còn không tìm cái lợi
cho gia đình. Họ không bị các bà vợ thúc giục vơ vét của cải, họ tận tâm với xã
hội chứ không phải với một người. Những đứa con sinh ra cũng không thể gọi là
con của người nào. Tất cả hài nhi đều phải rời mẹ từ khi mới lọt lòng và được
nuôi nấng chung, không ai được giành quyền sở hữu trên những hài nhi ấy. Tất cả
những người mẹ đều chăm sóc cho toàn thể những người con. Tình huynh đệ giữa những
đứa trẻ này sẽ nẩy nở vô cùng tốt đẹp. Tất cả những đứa con trai đều là anh em,
tất cả những đứa con gái đều là chị em, tất cả những người đàn ông đều là cha,
tất cả những người đàn bà đều là mẹ.
Tìm đâu ra những người đàn bà ấy? - Một số sẽ tuyển dụng trong những giai cấp
khác, một số sẽ từ giai cấp lãnh đạo lớn lên. Trong xã hội nầy sẽ không có vấn
đề phân chia nam nữ nhất là trong lãnh vực giáo dục. Con gái cũng có đầy đủ cơ
hội học hỏi như con trai và có thể đảm nhận những chức vụ vao nhất trong xã hội.
Khi Glaucon (một nhân vật trong tác phẩm của Platon) nêu ra ý kiến rằng nếu để
cho phái nữ tham gia chính trị thì nguyên tắc phân công sẽ bị xâm phạm, Platon
trả lời rằng nguyên tắc phân công căn cứ trên khả năng không phải trên điều kiện
sinh lý. Nếu một người đàn bà tỏ ra có khả năng trong lãnh vực chính trị, hãy để
cho bà ta làm chính trị. Nếu một người đàn ông có khả năng rửa chén, hãy để cho
ông ta rửa chén.
Sung công phụ nữ không phải là giao hợp bừa bãi. Ngay trong lãnh vực này cũng
phải có kế hoạch và kiểm soát. Cần phải rút kinh nghiệm trong kỹ thuật nuôi súc
vật: người ta đã thành công trong việc pha giống bò để có những con bò to lớn
khoẻ mạnh, tại sao người ta không áp dụng những kỹ thuật tương tự trong việc
đào tạo giống người. Cho đứa trẻ một nền giáo dục thích hợp chưa đủ, cần phải
cho nó một giống tốt. Sự giáo dục phải bắt đầu trước khi đứa bé ra đời. Vì lẽ
đó, không một người đàn ông hoặc đàn bà nào được phép gầy giống và sinh đẻ nếu
họ không hoàn toàn khoẻ mạnh. Muốn làm giá thú trước hết phải có chứng chỉ sức
khoẻ. Người đàn ông chỉ được phép gây giống nếu trên 30 tuổi và dưới 45 tuổi.
Người đàn bà chỉ được phép sinh đẻ nếu trên 20 tuổi và dưới 40 tuổi. Những người
đàn ông khoẻ mạnh trên 35 tuổi mà không chịu lập gia đình sẽ bị đánh thuế nặng.
Những hài nhi ra đời một cách bất hợp pháp hoặc tàn tật ốm yếu sẽ bị thủ tiêu.
Sự giao hợp được tự do ngoài những thời kỳ cho phép với điều kiện là phải phá
thai. Hôn thú giữa những người bà con sẽ bị cấm vì con cái sinh ra không được
khoẻ mạnh. "Những phần tử ưu tú nhất trong phái nam cũng như trong phái nữ
sẽ được giao hợp càng nhiều càng tốt. Những phần tử yếu kém chỉ được giao hợp với
nhau. Tuy nhiên chỉ những hài nhi do những phần tử ưu tú sinh ra mới được nuôi
dưỡng. Đó là phương pháp duy nhất để có một giống nòi ưu tú!"
Một xã hội như vậy cần phải được bảo vệ chống với kẻ thù bên trong lẫn bên
ngoài. Cần phải sẵn sàng để chiến thắng. Xã hội của chúng ta lẽ cố nhiên là hiếu
hòa và giữ mức độ dân số phù hợp với những phương tiện sinh sống. Nhưng các nước
láng giềng có thể thèm thuồng sự thịnh vượng nầy và đem quân qua cướp phá. Vì lẽ
đó chúng ta sẽ có một giai cấp chiến sĩ sống một cuộc đời khắc kỷ giống như
giai cấp lãnh đạo và cũng do dân chúng chu cấp. Đồng thời tất cả mọi biện pháp
phải được thi hành để tránh chiến tranh. Nguyên do thứ nhất của chiến tranh là
dân số quá đông, nguyên do thứ hai là sự buôn bán giữa các nước. Thật vậy, sự cạnh
tranh trong lãnh vực buôn bán thật ra là một hình thức chiến tranh. Vì lẽ đó xã
hội của chúng ta cần phải ở sâu trong đất liền để không có điều kiện phát triển
ngoại thương. "Đại dương làm cho một quốc gia tràn ngập hàng hoá cùng với
những kẻ làm tiền, những sự mua bán đổi chác nó làm cho con người quen với tánh
tham lam và gian xảo. Nền ngoại thương đòi hỏi một hạm đội để bảo vệ, và hạm đội
là mầm móng của chiến tranh. Trong tất cả các trường hợp, chiến tranh là trách
nhiệm của một thiểu số trong khi đại đa số quần chúng là bạn. Hình thức chiến
tranh tệ hại nhất là nội chiến, giữa người Hy lạp với người Hy lạp. Nếu tất cả
các người Hy lạp biết đoàn kết thành một liên minh thì họ có thể tránh được sự
đô hộ của ngoại bang.
Cơ cấu chính trị của chúng ta sẽ do một nhóm lãnh đạo, nhóm này được bảo vệ bởi
các quân nhân và sau cùng là các nhóm người buôn bán, làm kỹ nghệ, làm ruộng để
nâng đỡ hai nhóm trên. Chỉ có nhóm thứ ba nầy mới được có của cải riêng, vợ chồng
riêng, con cái riêng. Tuy nhiên các ngành thương mãi và canh nông sẽ do nhóm
lãnh đạo điều khiển để tránh những trường hợp quá giàu hoặc quá nghèo, những
người nào có của cải gấp 4 lần trung bình phải nộp số thặng dư cho nhà nước, việc
cho vay nặng lãi bị cấm và tiền lời bị hạn chế. Chế độ cộng sản triệt để áp dụng
cho giai cấp lãnh đạo không thể áp dụng cho giai cấp kinh tế. Đặc điểm của giai
cấp nầy là tánh ưa vơ vét và cạnh tranh, chỉ có một số ít có tâm hồn cao thượng
hơn, còn phần đông chỉ lo chỉ lo chạy theo món lợi thay vì phải chạy theo chân
lý và lẽ phải. Những kẻ chạy theo tài lợi không đủ tư cách để trị nước và chúng
ta hy vọng rằng nếu giai cấp lãnh đạo sống giản dị và làm việc hữu hiệu thì giai
cấp kinh tế sẽ vui lòng chịu nhận sự lãnh đạo của họ. Nói tóm lại một xã hội lý
tưởng là một xã hội trong đó mỗi giai cấp sống theo bản tánh tự nhiên của mình
và không giai cấp nào động chạm đến quyền lợi của giai cấp khác. Trái lại tất cả
ba giai cấp đều phối hợp để hợp thành một xã hội điều hoà, một quốc gia công
bình.
9. GIẢI PHÁP LUÂN LÝ
Chúng ta đã bàn về giải pháp chính trị. Bây giờ chúng ta sẵn sàng để trả lời
câu hỏi đã đặt ra: - Công bằng là gì?
Trên đời nầy chỉ có ba vật đáng giá, đó là công bằng, mỹ thuật và chân lý.
Trong ba ý niệm ấy, không có một ý niệm nào có thể định nghĩa được. Bốn trăm
năm sau Platon, một viên chức La mã, Judea, cũng đặt ra câu hỏi: Sự thật là gì? Và ngày hôm nay các triết gia cũng không thể cho chúng ta biết mỹ thuật là gì?
Đối với ý niệm công bằng Platon cho chúng ta một định nghĩa như sau: Công bằng
là có hoặc làm cái gì thuộc về ta. Định nghĩa này có vẻ làm ta thất vọng. Sau
ba cuộc tham luận chúng ta chờ mong một định nghĩa huyền diệu. Định nghĩa của
Platon diễn tả một cách giản dị rằng công bằng là mỗi người nhận được cái gì
mình đã làm ra và làm công việc thích hợp với bản tánh của mình nhất. Một người
công bằng là một người ở đúng vị trí của mình, làm theo đúng bản tánh của mình
và trả lại cho xã hội những cái gì họ đã nhận của xã hội. Một xã hội gồm có những
người công bằng là một xã hội điều hoà và hữu hiệu vì mỗi phần tử ở đúng vị trí
của họ, làm theo đúng bản tính của họ giống như những nhạc khí trong một ban nhạc
toàn hảo. Sự công bằng trong một xã hội là một yếu tố điều hoà sự di chuyển của
các tinh tú trên bầu trời. Có công bằng xã hội mới có thể tồn tại. Nếu con người
không giữ đúng vị trí của mình, nếu giai cấp kinh tế áp đảo giai cấp lãnh đạo,
nếu giai cấp quân nhân đòi cầm quyền thì sự điều hoà đã bị tổn thương, xã hội sẽ
bị phân hoá và tan rã. Công bằng chính là sự phối hợp tuyệt hảo.
Đối với cá nhân, công bằng cũng là một sự phối hợp của những bản năng, mỗi bản
năng giữ đúng vị trí của mình và làm đúng phận sự của nó. Mỗi một cá nhân là một
sự phối hợp của các ước muốn, các tình cảm và các ý nghĩ. Nếu các yếu tố ấy được
điều hoà thì cá nhân sẽ được tồn tại và thành công. Nếu các yếu tố ấy không giữ
đúng vị trí của mình, nếu để tình cảm hướng dẫn hành động con người sẽ mất
thăng bằng. Công bằng là sự ổn cố của tâm hồn. Tâm hồn cần có công bằng cũng
như thể xác cần có sức khoẻ. Tất cả sự xấu xa trên đời đều do sự thiếu điều hoà
nghĩa là thiếu công bằng : giữa người và vũ trụ, giữa người và người, giữa những
yếu tố trong tâm hồn của một người.
Theo Platon thì công bằng chẳng những là sức mạnh mà còn là sức mạnh điều hòa Công bằng không phải là quyền lực của kẻ mạnh mà là sự điều hòa của toàn thể. Một
người ra khỏi vị trí của mình có thể gặt hái một vài điều lợi, người cuối cùng
họ sẽ bị chế tài một cách tự nhiên. Chiếc đũa của nhạc trưởng luôn luôn kéo những
nhạc khí vào đúng âm điệu và tiết nhịp. Vị sĩ quan đảo Corse có thể muốn đặt
châu Âu dưới một nền quân chủ chuyên chế nhưng cuối cùng ông bị đày ra một hòn
đảo hoang vắng và khi đó ông mới nhận thấy rằng ông chỉ là công cụ của tạo hóa.
Những ý niệm trên không có gì mới mẻ hoặc lạ lùng và chúng ta có thể nghi ngờ
những lý thuyết tự cho là mới mẻ trong lãnh vực triết học. Chân lý có thể mỗi
ngày khoác một bộ áo khác nhưng dưới bộ áo ấy chân lý luôn luôn không thay đổi.
Trong lãnh vực luân lý, chúng ta không nên chờ đợi một cái gì mới lạ: tất cả
các ý niệm luân lý đều quay xung quanh sự điều hoà của tập thể. Luân lý bắt đầu
với tập thể, với sự tương quan, với sự tổ chức. Đời sống trong xã hội đòi hỏi sự
nhượng bộ của một ít quyền lợi cá nhân để góp phần vào trật tự chung. Một xã hội
sẽ được tồn tại nhờ khả năng hợp tác của những phần tử trong xã hội ấy. Còn sự
hợp tác nào đẹp đẽ hơn khi mỗi cá nhân có thể làm việc theo đúng bản tánh của
mình, đó là mục tiêu mà tất cả các xã hội phải tìm đến. Đạo đức đối với Gia tô
giáo là sự thương yêu kẻ yếu hèn, đối với Nietzsche là sự can đảm của kẻ mạnh,
đối với Platon là sự điều hoà của tập thể. Rất có thể cả ba định nghĩa đều đúng
và phải được phối hợp với nhau nhưng chúng ta có thể tự hỏi trong ba định nghĩa
ấy, định nghĩa nào là căn bản?
10. PHÊ BÌNH
Chúng ta có thể nói gì về quốc gia lý tưởng của Platon? Một quốc gia như vậy có
thể được thực hiên không? Nếu không thực hiện được hoàn toàn chúng ta có thể
áp dụng một phần nào vào đời sống chính trị hiện nay không? Có nơi nào đã áp dụng
lý tưởng của Platon hoặc toàn thể hoặc một phần nào không?
Câu hỏi chót trên đây có thể được trả lời một cách thuận lợi cho Platon: Trong
suốt 1000 năm Âu châu bị đặt dưới quyền cai trị của một giai cấp không khác gì
giai cấp cầm quyền lý tưởng mà Platon đã mô tả. Trong thời kỳ trung cổ người ta
thường phân chia dân chúng thành 3 giai cấp: đó là giai cấp cần lao, giai cấp
quân nhân và giai cấp giáo sĩ. Giai cấp sau cùng này, mặc dù chỉ là một thiểu số
đã nắm trong tay tất cả quyền hành và đã cai trị một cách gần như tuyệt đối một
phần nửa lãnh thổ Âu châu. Giai cấp giáo sĩ này được lên cầm quyền không phải
do sự tấn phong của dân chúng mà chính là do công trình nghiên cứu học hỏi, nếp
sống đạo đức và giản dị. Giai cấp giáo sĩ cũng không bị ràng buộc vì nếp sống
gia đình và trong nhiều trường hợp họ được hưởng nhiều tự do trong vấn đề luyến
ái mà Platon chủ trương nên dành cho giai cấp lãnh đạo. Nếp sống độc thân của
giai cấp giáo sĩ là một yếu tố tâm lý rất thuận lợi: phần thì họ không bị cản
trở bởi sự ích kỷ dành cho gia đình, phần thì dân chúng coi họ như những con
người đặc biệt đứng trên sự kêu gọi xác thịt.
Các thủ đoạn chính trị của giáo hội Thiên chúa giáo là sự áp dụng những huyền
thoại mà Platon đã đề ra: Ý niệm về thiên đàng, địa ngục có những liên hệ mật
thiết với những ý kiến trình bày trong cuốn Cộng hoà. Với một mớ lý thuyết như
trên, dân chúng Âu châu đã được cai trị mà không cần dùng đến vũ lực, họ sẵn
sàng chấp nhận sự cai trị ấy và không bao giờ đòi hỏi tham gia trực tiếp vào bộ
máy chính quyền. Những giai cấp buôn bán và quân nhân, những nhóm lẻ tẻ ở địa
phương, tất cả đều một lòng tùng phục La Mã. Giai cấp lãnh đạo thời ấy thật
khôn khéo, họ đã xây dựng nên một tổ chức cai trị vững mạnh và lâu dài nhất thế
giới.
Những giáo phái cai trị xứ Paraguay trước đây là những giai cấp lãnh đạo xứng
đáng với lý tưởng của Platon. Đó là một giai cấp giáo phẩm thượng lưu vừa biết
nhiều hiểu rộng, vừa có biệt tài ở giữa một đám đông dân chúng bán khai. Sau
cách mạng tháng 10 năm 1917 những nhà lãnh đạo cộng sản ở Nga xô cũng sống cuộc
đời mà Platon đã mô tả. Họ là một thiểu số cấu kết với nhau bằng một niềm tin
mãnh liệt. Họ sợ sự khai trừ khỏi đảng hơn là sợ chết, hoàn toàn hiến thân cho
đảng, chết vì đảng không khác gì các thánh tử đạo, họ sống một cuộc đời giản dị
đơn sơ trong khi cầm quyền cai trị một nửa diện tích Âu châu.
Những ví dụ kể trên chứng tỏ rằng lý tưởng của Platon có thể thực hiện được và
chính Platon cũng căn cứ lý thuyết của mình trên các nhận xét thực tế trong các
cuộc du lịch của ông. Ông đã để ý đến giai cấp lãnh đạo thời ấy gồm một thiểu số
giáo sĩ. Platon đã so sánh chính thể Ai cập với chính thể tại thành Athènes và
cảm thấy Athènes còn nhiều khiếm khuyết. Tại nước Ý ông có dịp quan sát một
nhóm lãnh đạo đúng theo chế độ cộng sản và ăn chay trường. Nhóm này cầm quyền
khá lâu và khá vững. Ở Sparte ông cũng quan sát những điều kiện tương tự: Nhóm
lãnh đạo ở đây sống một cuộc đời khắc khổ tập thể, họ rất chú trọng đền việc cải
thiện nòi giống, chỉ những kẻ khoẻ mạnh can đảm thông minh mới được quyền lập
gia đình và sinh con cái. Một tác giả đương thời tên là Euripides cũng đã chủ
xướng một nếp sống cộng sản triệt để. Giải phóng nô lệ, sung công phụ nữ, bình
định các lãnh thổ Hy lạp. Nói tóm lại, khi đề ra chương trình của mình Platon
không coi đó là một chương trình hão huyền, xa vời thực tế.
Tuy nhiên, những kẻ chỉ trích Platon từ thời Aristote đến nay cũng đã đưa ra
nhiều luận cứ đáng để ý, Aristote nói rằng những đề nghị của Platon đã xuất hiện
nhiều lần trong lịch sử nhân loại. Nói rằng tất cả mọi người là anh em thật là
một điều hay ho trên lý tưởng nhưng trên thực tế khi cho rằng tất cả mọi người
là anh em thì mối thâm tình giữa những người anh em thật sự không còn ý nghĩa nữa.
Đối với vấn đề cộng sản cũng vậy, nó sẽ làm cho tinh thần trách nhiệm bị lu mờ.
Khi tất cả của cải đều thuộc quyền sở hữu của tất cả mọi người thì sẽ không còn
ai lo giữ gìn của cải ấy. Sau cùng, chế độ cộng sản bắt buộc dân chúng sống cuộc
đời tập thể nghĩa là giết chế sự độc đáo cá nhân và sự tự do của đời tư, chỉ những
kẻ giác ngộ mới có thể sống đời sống tập thể mà không gây ra những xích mích
nan giải. Đem áp dụng lối sống ấy cho đại đa số quần chúng là một điều sai lầm;
không thể bắt dân chúng sống theo mức sống đạo đức quá cao so với mức trung
bình, không thể bắt dân chúng hấp thụ một nền giáo dục chỉ thích hợp với một
thiểu số xuất chúng. Trái lại chúng ta phải nhắm đến một lối sống trung bình
thích hợp với đại đa số quần chúng và một chính thể mà đại đa số có thể chấp nhận.
Những lời chỉ trích của Aristote, người học trò thông minh nhất của Platon, được
nhiều triết gia hưởng ứng. Platon khinh thường sức mạnh của tập tục đã được xây
dựng lâu đời như phong tục độc thê, ông không tiên liệu tánh ghen tuông tự
nhiên của người đàn ông, tình mẫu tử của người đàn bà. Khi ông muốn phá vỡ đời
sống gia đình, ông đã phá vỡ những điều kiện cho một nếp sống đạo đức. Chế độ cộng
sản chẳng qua cũng chỉ là một chế độ gia đình được nới rộng cho toàn dân, khi đả
kích gia đình Platon không biết rằng ông đã phá vỡ nền móng của xã hội lý tưởng
mà ông sắp xây cất.
Những lời chỉ trích kể trên không phải hoàn toàn xa lạ đối với Platon. Nếp sống
cộng sản do ông chủ xướng không áp dụng đối với quảng đại quần chúng. Platon biết
rằng chỉ một thiểu số giác ngộ mới đủ đức tính tinh thần để sống một cuộc đời
lãnh đạo, chỉ những người lãnh đạo mới xem nhau như anh em, chỉ những người
lãnh đạo mới từ bỏ quyền tư hữu. Đa số dân chúng còn lại được quyền sống theo
các tập tục cổ xưa, họ được phép có của riêng, được phép sống xa hoa, được phép
cạnh tranh, họ có thể sống với gia đình, chồng đâu vợ đó, mẹ đâu con đó v.v. Đối
với giai cấp lãnh đạo họ phải có tinh thần danh dự và sự hãnh diện của giai cấp,
chính những yếu tố này cho phép họ sống cuộc đời khắc khổ tập thể. Đối với tình
mẫu tử, chúng ta phải công nhận rằng tình nầy không mãnh liệt khi đứa trẻ chưa
sinh ra hoặc chưa lớn, người mẹ trung bình chấp nhận đứa hài nhi sơ sanh không
phải bằng sự vui mừng mà bằng sự nhẫn nhục. Tình mẫu tử không phải có ngay lúc
đó mà chỉ lớn dần cùng với đứa con với sự săn sóc của người mẹ, nó trở thành một
mối tình lớn khi đứa con trở thành sự đúc kết của công lao người mẹ.
Nhiều luận điệu chỉ trích khác dựa trên yếu tố kinh tế. Người ta trách Platon
quá chú trọng đến sự phân chia giai cấp.
Sự thật thì nguyên do của sự phân chia là những mâu thuẫn kinh tế trong xã hội. Trong chính thể của Platon giai cấp lãnh đạo đã tự ý từ bỏ sự cạnh tranh để vơ vét của cải. Chúng ta có thể kết luận rằng giai cấp lãnh đạo của Platon là một giai cấp có quyền mà không có trách nhiệm chăng ? - Không phải như vậy, họ có quyền chính trị và quyền điều khiển nhưng họ không có quyền lực kinh tế. Giai cấp kinh tế có thể từ chối cấp dưỡng nếu họ bất bình với giai cấp lãnh đạo, cũng như ngày nay quốc hội kiểm soát hành pháp bằng cách biểu quyết ngân sách. Một số người khác thắc mắc làm sao giai cấp lãnh đạo có thể giữ vững được quyền hành nếu không kiểm soát được những lực lượng kinh tế? Họ dựa vào lý thuyết của Hamilton và Marx cho rằng quyền lực chính trị chỉ là hình ảnh của kinh tế, quyền lực chính trị sẽ không còn gì một khi quyền lực kinh tế đã vào tay một nhóm khác như đã xảy ra tại Âu châu trong thế kỷ thứ 18. Đó là một lý lẽ rất căn bản, tuy nhiên chúng ta thấy rằng quyền lực của giáo hội Thiên chúa giáo La Mã đã có một thời rất oanh liệt không phải nhờ thế lực của kim tiền mà nhờ vào sự tín ngưỡng của dân chúng. Quyền lực của giáo hội ngày xưa một phần là do ở trạng thái nông nghiệp: Những nhà nông thường dễ mê tín vì nghề nghiệp của họ tuỳ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Khi các điều kiện kinh tế thay đổi, khi nền kinh tế kỹ nghệ bắt đầu thay thế cho nền kinh tế nông nghiệp, thì quyền lực của giáo hội bắt đầu sút giảm. Quyền lực chính trị phải luôn luôn được điều chỉnh để ăn khớp với tình trạng kinh tế. Giai cấp cầm quyền của Platon không chóng thì chầy sẽ bị phụ thuộc vào giai cấp sản xuất đã nuôi dưỡng nó. Dù giai cấp cầm quyền nắm trong tay tất cả quân lực cũng không thoát khỏi sự lệ thuộc ấy. Quan niệm chính yếu của Platon có lẽ là muốn chứng minh rằng dù cho các lực lượng kinh tế quyết định chính sách quốc gia, những kẻ thi hành chính sách này phải là những nhà chuyên môn, không thể để những người thương gia, kỹ nghệ gia cầm quyền chính trị vì họ chưa được huấn luyện trong lãnh vực này.
Sự thật thì nguyên do của sự phân chia là những mâu thuẫn kinh tế trong xã hội. Trong chính thể của Platon giai cấp lãnh đạo đã tự ý từ bỏ sự cạnh tranh để vơ vét của cải. Chúng ta có thể kết luận rằng giai cấp lãnh đạo của Platon là một giai cấp có quyền mà không có trách nhiệm chăng ? - Không phải như vậy, họ có quyền chính trị và quyền điều khiển nhưng họ không có quyền lực kinh tế. Giai cấp kinh tế có thể từ chối cấp dưỡng nếu họ bất bình với giai cấp lãnh đạo, cũng như ngày nay quốc hội kiểm soát hành pháp bằng cách biểu quyết ngân sách. Một số người khác thắc mắc làm sao giai cấp lãnh đạo có thể giữ vững được quyền hành nếu không kiểm soát được những lực lượng kinh tế? Họ dựa vào lý thuyết của Hamilton và Marx cho rằng quyền lực chính trị chỉ là hình ảnh của kinh tế, quyền lực chính trị sẽ không còn gì một khi quyền lực kinh tế đã vào tay một nhóm khác như đã xảy ra tại Âu châu trong thế kỷ thứ 18. Đó là một lý lẽ rất căn bản, tuy nhiên chúng ta thấy rằng quyền lực của giáo hội Thiên chúa giáo La Mã đã có một thời rất oanh liệt không phải nhờ thế lực của kim tiền mà nhờ vào sự tín ngưỡng của dân chúng. Quyền lực của giáo hội ngày xưa một phần là do ở trạng thái nông nghiệp: Những nhà nông thường dễ mê tín vì nghề nghiệp của họ tuỳ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Khi các điều kiện kinh tế thay đổi, khi nền kinh tế kỹ nghệ bắt đầu thay thế cho nền kinh tế nông nghiệp, thì quyền lực của giáo hội bắt đầu sút giảm. Quyền lực chính trị phải luôn luôn được điều chỉnh để ăn khớp với tình trạng kinh tế. Giai cấp cầm quyền của Platon không chóng thì chầy sẽ bị phụ thuộc vào giai cấp sản xuất đã nuôi dưỡng nó. Dù giai cấp cầm quyền nắm trong tay tất cả quân lực cũng không thoát khỏi sự lệ thuộc ấy. Quan niệm chính yếu của Platon có lẽ là muốn chứng minh rằng dù cho các lực lượng kinh tế quyết định chính sách quốc gia, những kẻ thi hành chính sách này phải là những nhà chuyên môn, không thể để những người thương gia, kỹ nghệ gia cầm quyền chính trị vì họ chưa được huấn luyện trong lãnh vực này.
Người ta thường chê trách rằng Platon chưa ý thức được sự đổi thay thăng trầm của
tất cả các chế độ kinh tế, văn hoá cũng như chính trị : Ông phân loại người
thành những giai cấp không khác gì nhà côn trùng học phân loại các côn trùng.
Ông còn tạo ra các huyền thoại để bắt buộc dân chúng tin tưởng vào sự phân loại
ấy. Quôc gia của Platon là một quốc gia thủ cựu, thuật chính trị của Platon thiếu
sự tế nhị mềm dẻo, nó đề cao trật tự mà không đề cao sự tự do, nó thích cái đẹp
nhưng không biết nuôi dưỡng các nghệ sĩ.
Platon chủ trương rằng những kẻ cầm quyền phải là những kẻ ưu tú nhất, ông còn
thêm rằng những kẻ cầm quyền phải được huấn luyện chu đáo. Đó là hai ý kiến đã
được đem ra bàn cãi và đã được áp dụng nhiều lần trong lịch sử; sau cùng cần phải
nói thêm rằng quốc gia lý tưởng của Platon không nhất thiết phải là một quốc
gia trên thực tế, nó chỉ ấn định đường hướng cho các quốc gia khác noi theo.
Tuy nhiên đã có lần Platon muốn thực hiện một quốc gia lý tưởng: Đó là vào khoảng
năm 384 tTL, Platon được một quốc vương mời làm cố vấn để thực hiện những cải
cách sâu rộng. Platon nhận lời nhưng lẽ cố nhiên việc của ông không thành tựu
vì quốc vương kia không muốn giảm bớt quyền hạn của mình. Tục truyền rằng
Platon bị kết tội khi quân và bị đem bán làm nô lệ.
Những năm cuối cùng trong đời của Platon có thể gọi là những năm hạnh phúc. Môn
đệ của ông nhiều người giữ địa vị cao trong xã hội. Ông được các môn đệ tìm đến
vì ông luôn luôn giữ được tinh thần sáng suốt cởi mở thông cảm với tất cả mọi
người. Năm 80 tuổi, Platon được một môn đệ mời đi dự đám cưới. Khi tiệc gần tàn
Platon lui vào nhà trong để nằm nghỉ. Sáng sớm người ta đến thức ông dậy thì thấy
rằng ông đã qua đời. Đám táng của ông được tổ chức rất trọng thể với rất nhiều
người tham dự.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét