Thứ Tư, 22 tháng 4, 2020

Dọc đường văn nghệ của tôi 3

Dọc đường văn nghệ của tôi 3
PHẦN 23  
Ở NHA TRANG - KHÁNH HÒA
Khi nghe bản nhạc Nha Trang Ngày Về của nhạc sĩ Phạm Duy không ai không thể không mường tượng, liên tưởng đến một Nha Trang - thành phố biển của tỉnh Khánh Hòa thơ mộng. 
Tôi cũng vậy. Hình ảnh con dã tràng cứ ẩn hiện trong tôi như một phận người kém may mắn với tình yêu, tình người. Ở đó, tôi chưa hề có một tình yêu và tình người, bạn bè thân thiết thì càng hiếm hoi... dẫu đây là vùng đất sản sinh nhiều văn nghệ sĩ lẫy lừng nói chung và thi ca nói riêng. Có những tượng đài sừng sững mà tôi chưa hề gặp dù rất muốn. Vì vậy, trong hồi ức này tôi chỉ quen biết và gặp gỡ được 3 nhân vật. Đó là Trần Vạn Giã, Tôn Nữ Thu Dung và Nguyễn Vũ Sinh. Cho nên xin mọi người cảm thông. Trân trọng.
TRẦN VẠN GIÃ, NGƯỜI THƯƠNG ĐẤT, THƯƠNG LÀNG

Tình bạn giữa tôi và TVG đã ngót nửa thế kỷ. Phần lớn thời gian chúng tôi trôi nổi trong chiến tranh nên ít có dịp gần gũi. Tuy vậy, vẫn luôn mong ngóng, đọc thơ của nhau qua báo chí và bạn bè. Lần gần đây nhất, tôi đã có những suy nghĩ về TVG:
Cách đây gần 50 năm, tôi vẫn nhớ như in những ngày ở Đà Nẵng. Chúng tôi Trần Dzạ Lữ, Vũ Hữu Định, Trần Vạn Giã, Phạm Thế Mỹ, Trường Thi, A Khuê... thường bên nhau dọc sông Hàn say khướt trong men bia Sài Gòn hoặc vượt sông Hàn qua bán đảo Sơn Trà đi trong gió cát tìm Đoàn Huy Giao hay đến một ngôi chùa cô tịch nơi Hồ Đắc Ngọc đang ẩn tu trốn lính...
Trần Vạn Giã và tôi lang thang về quê tôi ở Ngọc Anh thắp nhang ba tôi - Người mất sớm nên giấc mộng văn khoa của tôi tan tành. Thời đó chúng tôi, tuổi vừa đôi mươi, yêu đời, yêu bạn bè văn nghệ, yêu đắm say thơ ca. Thế mà chiến tranh bạo tàn đã đẩy chúng tôi phiêu dạt khắp mọi miền đất nước, đứa vào tù, đứa đi lính, đứa trốn lính, đứa giang hồ, đứa đi tu... mỗi số phận khắc nghiệt trên mỗi đời người, chúng tôi nổi trôi trong chiến tranh Việt Nam ngày càng ác liệt và nỗi khát khao hoà bình về trên quê hương cháy bỏng trong lòng.
Tôi mất liên lạc với Trần Vạn Giã gần 50 năm.
Sau năm 1975, tôi ngóng tin bạn bè văn nghệ ai mất, ai còn, ai đã bỏ quê hương ra đi. Riêng Trần Vạn Giã thỉnh thoảng tôi có đọc thơ anh trên Văn nghệ Tp HCM, Kiến thức Ngày Nay, Thanh niên Cn, Tuổi Trẻ CN... lúc đó tôi tin Trần Vạn Giã còn sống, còn ở Việt Nam. Tôi đã gặp lại Trần Vạn Giã ở Tp. HCM, tóc trên đầu chúng tôi đã bạc và những lần gặp gỡ ấy rồi chia tay vội vàng bởi cơm áo hối thúc. Chia tay để mà nhớ, nhớ ơi trong nỗi nhớ không bao giờ tàn phai... (Với tôi tình cảm văn nghệ không biên giới, chẳng tả khuynh, hữu khuynh. Hồn ai nấy giữ, không đố kỵ dù biết anh cũng ở trường hợp THDV, TNS, NMT, VQ)
Đọc thơ anh tôi luôn cảm nhận: Anh sinh ra để không ngớt thương đất, thương làng. Là người làm thơ không sao tránh khỏi oan nghiệt đời thường và tình yêu mãi là điều bất hạnh (không chỉ riêng anh) mà với hầu hết thi sĩ trên thế gian này. Những bài thơ sau, nghe ra da diết và cảm động khôn cùng:
TRẦN VẠN GIÃ
CHIM QUYÊN XUỐNG ĐẤT ĂN TRÙN

Đành thôi ra ngẩn vào ngơ
Bài thơ cứ gởi. Bến chờ cứ mong
Tội tình con chữ chạy rong
Quanh đi quẩn lại trong vòng nhân gian
Người ta đi hái hoa vàng
Còn tôi cô độc bên hàng cau xanh
Xa em như lá lìa cành
Chim Quyên xuống đất tôi đành lên non
Lên non: nước chảy đá mòn
Lên non: tìm lại đau còn cỏ may
Cát kia cồn nọ lưu đày
Đọng trên đầu lưỡi đắng cay thuở nào
Bên em ruộng thấp bờ cao
Và đi trong giấc chiêm bao đêm này.
THƯA MẸ CON VỀ
Con về lại mái nhà xưa
Rêu phong từ độ nay chưa lụn tàn
Khói rơm bay cuối đường làng
Xa xa bóng núi vắt ngang trời chiều
Tay con níu lại cánh diều
Càng thương dáng mẹ liu xiu cuối đời
Mưa đông đen nghịt góc trời
Thơ con vẫn ấm trong lời mẹ ru
Nửa đời đau bước lãng du
Thương quê, nhớ mẹ cho dù cách xa
Dù con nhung lụa, ngọc ngà
Cũng không quên thuở mẹ già áo nâu
Mẹ và con tóc bạc đầu
Bóng con và mẹ đêm sâu dãi dầu
Dãi dầu trôi dạt về đâu
Về đâu cát bụi nhuốm màu hư không
Mẹ ơi cây lúa ngoài đồng
Gié đang nở rộ những bông đầu mùa.
GẶP BẠN CŨ Ở LONG AN
Mời nhau một trái bần giòn
Mày và tao vẫn cứ còn chất quê
Người xưa uống rượu ăn thề
Ta nay uống rượu và mê đờn cò
Đờn rằng nhớ lẩu mắm kho
Chín dòng sông lớn đủ đo lòng người
Chiều nghiêng theo gió Tháp Mười
Tiếng con cúm núm tiễn người qua sông
Mênh mông mùa lúa chín đồng
Mây tan theo ngọn mưa giông cuối trời
Đi xa gần hết một đời
Gặp nhau rượu ngọt uống lời bạn quê
Người Nam lòng thật khà khề
Nước qua trăm rạch cũng về nghĩa nhân
Phèn ơi hãy dính bàn chân
Để cho chiều rụng trái bần trong mơ.
Có gì mà phải tái tê
Giữ thơm từng hạt gạo quê ở rừng
Trải qua ngày tháng biền bưng
Nồng nàn lối cỏ ta đừng xa nhau
Gian nan thì phải cơ cầu
Đừng quên cái thuở ban đầu lên non.
Và tôi đã dừng lại rất lâu ở bài thơ sau rất đời, rất thật rồi không khỏi chạnh lòng:
THƠ TRẦN VẠN GIÃ
EM ĐÃ LÀ NHƯ THẾ

Alo em đang ở đâu
Cứ thế mỗi chiều anh không biết em đang ở đâu
Anh đón con
Anh giặt đồ
Anh lau nhà
Anh vào bếp
Mâm cơm thường xuyên trống một chỗ ngồi
Mỗi chiều em điện thoại đang tiếp khách
Đang đón bạn đồng môn
Đang tiễn bạn Việt Kiều ra sân bay
Đang sửa xe bị thủng lốp...
Những cái đang cứ đan xen thời gian
Em gom về
Mùi thuốc lá trên môi em và núm nơi đỉnh cao bầu sữa mẹ
Dấu răng nựng trên vai em bệnh hoạn
Em ngủ vùi sau cơn lửa tình dồn dập
Sau cường lực vòng tay của gã tình nhân
Có những đêm trong cơn mơ sâu em ú ớ
Con giật mình
Gọi má má ơi
Khởi thủy là lời
Nhưng bây giờ lời anh đã cạn
Thôi em cứ vô tư đi dọc về ngang
Tình yêu
Không là hữu hạn
Đành vậy thôi
Nếu bây giờ còn là thời trung cổ
Anh không ném đá em
Vì anh biết trái tim em nhiều cửa sổ
Và mùi đàn bà em ô nhiễm gió đa tình
Em đi bình an với những người đàn ông mới
Về nhen con
Ngày sắp tàn và đêm buồn đang đợi
Ba không thể trả lời
Má bỏ con đi đâu???
Trần Vạn Giã
Đến đây tôi nhớ hai câu thơ của thi hào Nguyễn Du:
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới dự phần thanh cao...

Theo tôi hầu hết những thi sĩ trên thế gian này đều chịu phong trần và hạnh phúc với họ là điều xa xỉ... (chỉ hiếm hoi mới có người đẻ bọc nhận niềm hân hoan của Trời ban tặng). Xa cách lâu ngày không hiểu hiện tại thế nào. Nhưng nếu thật như bài thơ thì xin rưng rưng chia sẻ với anh đó Trần Vạn Giã
TÔN NỮ THU DUNG - NIỀM ĐAM MÊ VĂN CHƯƠNG CHÁY BỎNG
Tôn Nữ Thu Dung là tên khai sinh, các bút hiệu khác là Nguyễn Phước Tiểu Di (vì mê bài hát “Bay Đi Cánh Chim Biển”) và Trần Thụ Duy (vì mê bài hát “Khúc Thụy Du”)
Thời đi học, trước 75 viết cho Tuổi Ngọc, Tuổi Hoa và các báo thiếu nhi.
Các tác phẩm đã xuất bản:
Các tập thơ: Kỷ Niệm, Nhật Ký, Tiểu Khúc
Các tập truyện ngắn: Hướng Dương Giấu Mặt, Thiên Thần Không Mang Đôi Cánh
Các tập truyện vừa: Ngày Tháng Nào, Mùi Bánh Kem, Thủy Tinh Tan Vỡ.
Hiện định cư tại Mỹ, nghề tay phải: nhân viên xã hội. Nghề tay trái : Tổng biên Tập trang mạng văn chương TUONGTRI.COM và nhà Xuất Bản TƯƠNG TRI.
Có một số giải thưởng văn chương nho nhỏ như giải đặc biệt viết về nước Mỹ, giải nhất những bài thơ tình thời mới lớn
Tóm một điều: Hạnh Phúc nhất là được nhận xét rằng: Đây là một người làm thơ biết viết văn và luôn có đông đảo những fan hâm mộ nhí!

Lướt qua tiểu sử của nàng Tôn Nữ gốc Huế, sinh sống ở Nha Trang, sau đó định cư tại Mỹ, tôi thấy Dung mang theo bên đời mình niềm đam mê cháy bỏng trong sinh hoạt văn chương. Thời mới lớn, Dung đã là cây bút (cùng Trần Văn Nghĩa) xuất hiện thưòng xuyên trên tuần báo tuổi mới lớn (Tuổi Ngọc) của nhà văn Duyên Anh tại SàiGòn và có nhiều fan nhí hâm mộ nàng. Khi sang Mỹ, Dung viết nhiều hơn không chỉ thơ mà còn truyện ngắn, truyện vừa... Tôi nghĩ chắc một điều là cô em gái này rất khéo vun vén gia đình nên dành nhiều thời gian cho viết lách. Đặc biệt là chăm sóc trang mạng Tương Tri. Com và nhà xuất bản Tương Tri với cương vị là tổng biên tập. Một trang mạng uy tín, quy tụ nhiều tên tuổi lừng danh ở trong và ngoài nước. Phải như con ong, cái kiến cần mẫn cô mới làm được điều này bằng trái tim và trí tuệ của mình. Biết Dung từ thập niên 70 trên báo chí nhưng mãi đến năm 2013 mới gặp lúc cô về VN ra mắt tuyển tập TT ở nhà hàng Sông Trăng của Văn Công Mỹ. Một con người của hoàng tộc nhưng Dung bình dị, nhỏ nhẹ, khiêm tốn gì đâu bởi chẳng thấy cung cách “các mệ” của nàng. Do vậy mà anh em rất dễ thân tình, rất dễ thương mến.
Lần gần đây nhất là TNTD về ra mắt tuyển tập thơ Hư Ảo Tôi 2018-Cũng ở nhà hàng Sông Trăng - Bình Quới có sự hiện diện đông đảo văn nghệ sĩ tên tuổi ở SG. Tuyển tập khác lạ là mỗi bài thơ đều có chữ ký của tác giả. Trình bày đẹp. Thơ hay. Hy vọng thời gian tới Tôn Nữ còn khiến bạn đọc ngạc nhiên đến thú vị từ niềm đam mê văn chương ngồn ngộn của mình.
THƠ TÔN NỮ THU DUNG
NÍU

Chiều níu tay vào gió
Mây níu tay vào trời
Sương níu tay vào cỏ
Em níu tay vào tôi.
Đêm níu tay vào mộng
(Mộng chỉ là hư vô)
Biển níu tay vào sóng
Từng điệu buồn đuổi xô.
Lơ đãng hồn níu bóng
Hạnh ngộ níu tàn phai
Giữa cõi người tuyệt vọng
Tôi níu vào tay ai?
UYÊN
Uyên của ngày thu muộn
Khúc lạc cầm u hoài
Chìm nổi dòng luân lạc
Chiều Nội Thành mây bay.
Uyên của ngày ly biệt
Chạnh lòng mưa cuối sông
Vỡ toang mùa trăng biếc
Rơi những lời ăn năn.
Uyên của ngày hoan lạc
Khắc khoải rèm mi cong
Uyên của ngày hạnh phúc
Đong đưa tình trăm năm.
Uyên của ngày địa ngục
Tan chảy thành tro than
Lửa hành hình bí ẩn
Đốt một đời tan hoang...
KHÚC THÁNG CHÍN
Gác kiếm người xưa quy ẩn
Giang hồ chưa chắc lòng nguôi
Chỉ sợ nhớ thời giông bão
Lời thề lại xóa mất thôi
Qua sông, mịt mờ cố xứ
Ngửa tay, hứng giọt sương buồn
Tiếng sóng, tiếng lòng tan vỡ
Cuối trời... mây khói mênh mông...
Cúi xuống, soi mình bóng nước
Một vầng trăng khuyết chông chênh
Dáng mong manh gầy thuở trước
Chớp mắt... đã là lãng quên.
Bắt chước người xưa quy ẩn
Đừng gọi tôi hoài... lênh đênh
Bắt chước người xưa lận đận
Tình tôi,
chao đảo thác ghềnh...
KHÚC NGÂU
Thiên sứ muôn đời trong sáng
Thiền sư đôi lúc lỗi lầm
Từng ngày chia nhau khổ nạn
Đừng hỏi ai người vô tâm...
Đời vẫn trầm luân nhật nguyệt
Sương tàng rơi ướt đêm thâu
Thảng thốt những hàng lệ tuyết
Bờ xa, bến thẳm về đâu...
Một dòng mong manh khói biếc
Buông tay... gió tạt hiên người
Nhắm mắt... thả lời ly biệt
Một điều không nói
rơi...
PHƯƠNG ẤY
Nắng mật ong cho tôi vàng thương nhớ
Chiều tương tư em tóc xõa trên đồi
Hồn lơ đãng cứ mơ về cố xứ
Gót chân hồng em nhẹ đến xa xôi.
Mây có tụ thành những quầng ngũ sắc
Gió vẫn bay tan tác cuối chân trời
Sương còn đọng long lanh buồn phương ấy
Đêm nghẹn ngào ai thao thức cùng tôi.
Nhớ một thuở có còn đau một thuở
Ngày hoang vu mưa bong bóng chập chờn
Em cầm ngón tay tôi vàng khói thuốc
Lặng thinh nhìn... như gởi một yêu thương.
Tôn Nữ Thu Dung
Và một truyện ngắn rất Huế:
CON TÒ HE
Tôn Nữ Thu Dung
Huế của tôi buồn lắm, một thành phố buồn nhất hành tinh, những ngày mưa bão kéo dài cả tháng úng trời úng đất không nói làm gì sao vẫn buồn cả những ngày nắng hạ chói chang và phượng đỏ rực rỡ như màu môi thiếu phụ. Thành phố lúc nào như cũng đắm chìm trong hồi ức vàng son và trong quá khứ nhạt nhòa rêu phủ.
… Nhưng bây giờ là mùa xuân, những hoa cúc Đại Đóa nở vàng rực trong vườn ông ngoại.
Đăng Tâm nói:
– Đăng Tâm thích màu vàng dễ sợ.
Tôi cười:
– Đó là màu bội bạc.
Đăng Tâm mím môi để lộ hai hạt gạo lún sâu hai bên khóe miệng:
– Ai nói? Màu vàng thật sự là màu cô độc kiêu sa nên dễ bị hiểu lầm là bội bạc.
Bao giờ tôi cũng chịu thua Đăng Tâm để được nhìn nụ cười cô rạng rỡ:
– Đăng Tâm nói đúng, màu cô độc kiêu sa.
Đăng Tâm đốt xong mớ giấy tiền vàng bạc dưới chân trang thờ và rải gạo muối chung quanh… Những con chim se sẻ từ đâu sà tới, ríu ra ríu rít tranh nhau nhặt gạo. Đăng Tâm luôn được bà ngoại phân công việc cúng cô hồn trong những ngày rằm, mùng một… Ông ngoại không thích điều này vì cho rằng bà ngoại hối lộ cô hồn các đảng bằng cô cháu cưng xinh đẹp để mưu cầu lợi ích cho đại gia đình. Ông ngoại giận giữ khi bà ngoại bày cho Đăng Tâm khấn vái cầu xin cô hồn các đảng cho cả nhà mạnh khỏe, bình an… Bà ngoại phải vuốt giận bằng cách khi Đăng Tâm đi ra vườn cúng vào những chiều chạng vạng thì bị bôi lên mặt mấy vết lọ nghẹ và có tôi đi theo hộ tống.
Không một khu vườn nào ở Huế mà không có một trang thờ leo lét ngọn đèn dầu hiu hắt. Huế trải qua bao nhiêu tang thương biến động trong những cuộc chiến, bao nhiêu người chết oan chết ức, bao nhiêu đền đài đổ nát tan hoang. Nhà ông ngoại đã nhiều lần tan nát vì bom đạn nhưng lần nào ông ngoại cũng xây lại với nguyên bản cũ: Một ngôi nhà rường ba gian hai chái, khuất sau một bình phong cổ kính với chiếc hồ bán nguyệt thả sen thả súng cho cô cháu nội cưng Đăng Tâm rửa chân… Cây Ngô Đồng cao rủ bóng thỉnh thoảng rơi vài chiếc lá xuống hồ làm bầy cá quẫy lao xao.
Đăng Tâm đọc:
– Ngô Đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu
Tôi lắc đầu:
– Ngô Đồng nhất lạc diệp
Thiên hạ cộng tri xuân
Đăng Tâm cười:
– Tấn thông minh dễ sợ… Nhất lạc diệp… một chiếc lá reo vui đón mùa xuân đang tới.
Đăng Tâm luôn đem niềm vui cho người khác và cô gặt lại cho mình những mùa buồn đau.
Đăng Tâm rủ:
– Lên Điện Hòn Chén xin xăm đi Tấn. Rủ con Tò He luôn để nó chèo thuyền. Trốn đi chớ bà nội bắt Đăng Tâm vô chia bài tứ sắc bây giờ.
Tôi chọc:
– Nhưng ở nhà có nhiều tiền lì xì hơn. Và chút nữa bác Tạo sẽ dẫn anh con trai bác sĩ ở Mỹ về tới giới thiệu cho Đăng Tâm đó.
Đăng Tâm đỏ hồng hai má:
– Đăng Tâm còn nhỏ mà
– Bác Tạo sẽ mang gạo tới để nuôi Đăng Tâm thêm vài năm nữa.
Đăng Tâm hét lên bỏ chạy vô nhà:
– Tấn còn nói nữa thì Đăng Tâm nghỉ chơi với Tấn đó.
Tôi đã nhìn thấy con bác Tạo sau mười mấy năm không gặp, anh chàng bác sĩ cao ráo đẹp trai … tôi hình dung Đăng Tâm đứng cạnh anh ta, đôi mắt phượng ngơ ngác nhìn anh ta đầy ngưỡng mộ, nụ cười xinh xắn dành cho anh ta tươi tắn dễ thương, bàn tay bé nhỏ mềm mại nằm trong tay anh ta dịu dàng tin cậy… Tôi ghét Đăng Tâm rồi. Người luôn yêu cái màu vàng phản bội. Tôi ghét cái thành phố buồn thỉu buồn thiu này làm người ta đi để mà nhớ chớ không phải là ở để mà thương…
Nhưng tôi đâu dễ dàng bỏ cuộc, Đăng Tâm là của tôi từ nhỏ, chúng tôi là anh em cô cậu, không ai có thể bắt Đăng Tâm của tôi. Tôi tìm con Tò He, con nhóc em họ khác, rất thông minh, lanh chanh như hành không muối và luôn coi tôi như thần tượng.
– Mi tìm cách chia rẻ Đăng Tâm với Phước cho ta
Tò He le cái lưỡi dài nhọn hoắc (thỉnh thoảng nó lại biểu diễn liếm lổ mũi cho bọn tôi coi):
– Em không làm mô, bà ngoại cạo đầu em đó. Bà ngoại nói anh Phước ở Mỹ về mà hiền hậu dễ thương, chị Đăng Tâm khù khờ lấy anh thì không sợ bị ăn hiếp. Mà răng anh ghét anh Phước rứa?
– Mắc chi mà tao ghét Phước, nhưng tao không thích Đăng Tâm lấy chồng.
Tò He nhìn tôi, con mắt nó đọng đầy xót xa:
-Anh thương chị Đăng Tâm hả anh? Mình bà con với nhau mà.
Tôi cáu kỉnh:
– Đồ con nít nhiều chuyện, tao không muốn Đăng Tâm lấy chồng, mà tao cũng không thèm lấy vợ.
Tò He nhíu mày thương cảm:
– Anh nói cũng đúng, ai mà thèm lấy anh!
Phản xạ của Tò He nhanh hơn con sóc nếu không nó đã bị một cái bạt tai, nó mở to hai con mắt nâu khờ khạo hỏi:
– Rứa răng anh không nói với chị Đăng Tâm?
- Chưa thấy ai ngu như mi, nói thì Đăng Tâm sẽ cho là tao ganh tị.
– Được rồi, em hiểu, nhưng em lấy lý do chi để chia uyên rẽ thúy trong khi anh Phước thông minh giàu có đẹp trai phong độ…
Mỗi cái đức tính của Phước mà Tò He nêu ra như một mũi dao cứa vô trái tim tôi vì tôi thấy quá chính xác mình không thể nào bì được. Nhưng biết tẩy Tò He lậm nặng những điển tích cũ hoắc cũ huơ mà bà ngoại cứ bắt võng dưới gốc cây vãi thiều ầu ơ ngâm nga ru nó ngủ ngày xưa… À, nếu mi muốn nghe những câu chuyện lâm ly thì sẽ được nghe những chương hồi bi ai rơi nước mắt.
– Tò He, nghe anh nói đây, anh và Đăng Tâm là thanh mai trúc mã, anh không muốn Đăng Tâm đi lấy chồng xa… chim kêu vượn hú biết nhà mình mô… Anh không muốn bọn anh biến thành uyên ương gãy cánh mõi mòn mà chết!
Tò He hứ một tiếng bắt chước y bà ngoại:
– Rứa mà anh dám nói anh không thương chị Đăng Tâm!
Rồi nó chép miệng cũng y bà ngoại:
– Thôi được, để coi.
Tôi căn dặn:
-Tò He phải hứa danh dự là không được nói với ai.
– Dĩ nhiên rồi, nói thì anh cũng chẳng bị chi mô, bà ngoại cưng anh như vàng ngọc, còn em thì bị bà ngoại cạo đầu… Ủa, nhưng mà em được lợi chi trong việc ni?
Tôi mừng rỡ, biết nó thuộc lòng văn chương thi phú, tôi đốc khứa:
– Quân tử thi ân bất cầu báo, nhưng anh sẽ biết ơn Tò He cho tới mấy kiếp luôn!
Tò He nguýt:
– Thôi thôi, nói rứa chớ em không hứa chi hết đó nghe.
Tôi nịnh nọt:
– Biết rồi, nhưng một lời em nói là Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy!
Tò He lại nguýt, con mắt có cái đuôi ngoe ngoe nguẩy nguẩy.
Bà ngoại giận điên lên khi người Phước đòi cưới là Tò He chớ không phải Đăng Tâm. Trời có sập xuống bà ngoại cũng không tin nỗi là Phước từ chối cô cháu nội cưng tiểu thơ khuê các để chọn một cô cháu ngoại, cũng tiểu thơ nhưng khá Lọ Lem. Cuối cùng bà ngoại chép miệng nhủ thầm: thôi mấy cái hủ mắm treo đầu giàn ai rước hủ nào thì mừng hủ đó!
Ba má Phước khuyên lên khuyên xuống, bà con giòng họ nói tới nói lui, bạn bè bàn qua bàn lại… bởi vì nếu đặt lên cân đo đong đếm thì Tò He nhẹ hổng. Nhưng từ nhỏ tới lớn Phước đã nổi danh là con cua ngang ngạnh đâu dễ gì ai thuyết phục. Hơn thế nữa, Phước thành đạt ở Mỹ mà chịu về Viêt Nam lấy vợ con nhà đàng hoàng do gia đình chọn chứ không dính một cô Mỹ, cô Mễ nào đó thì cũng thiệt là đại phước, cũng làm nguôi ngoai cơn giận của cả nhà. Thế là mâm bưng quả rước, Tò He ngang xương trở thành bà bác sĩ dù chỉ mới học lớp 12. Đã nói con gái học chi cho lắm, muốn được gọi là bà bác sĩ thì cứ lấy một ông bác sĩ; muốn được gọi là bà giáo sư thì cứ lấy một ông giáo sư; muốn được gọi là bà kỹ sư thì chỉ việc lấy một ông cư sĩ, ủa quên, một ông kỹ sư!
Trong thiệp hồng không đề tên Tò He Tò Hiếc, Cô là Hoàng thị Cát Tường, cái tên và con người của cô luôn đem tới niềm may mắn cho người đối diện.
Không ai biết bà ngoại đã âm thầm tự trấn an, ai cũng tưởng bà ngoại buồn giận nên không cho Tò He đến gần bà ngoại. Cho đến khi bà ngoại gọi Tò He vào phòng khóa cửa, ai cũng xanh mặt tái mày lo sợ. Tôi và Đăng Tâm túc trực ở ngoài, chỉ sợ bà ngoại…bức tử Tò He, bắt nó uống thuốc độc hay thắt cổ bằng một dãi lụa trắng như trong kinh điển. Nghe tôi nói, Đăng Tâm tái xanh tái mét gõ cửa dồn dập, bà ngoại nạt:
– Đứa mô ồn rứa.
– Đăng Tâm đây bà nội ơi!
– Vô biểu
Cửa phòng mở hé, Đăng Tâm bước vô, tôi lò dò đi theo:
– Thằng quỷ nhỏ vô luôn đi, khi mô cũng tò tò đi theo con gái như cái đuôi.
Tôi vội vàng nhìn Tò He, nó vẫn tươi tắn chỉ có mấy giọt nước mắt trong veo còn trên má, tôi thở phào nhẹ nhỏm khi nhìn quanh không thấy ly thuốc độc lẫn dãi lụa nào.
Bà ngoại hỏi:
– Bọn mi cần chi mà gấp gáp rứa. Tao đang dạy con Tò He bổn phận làm dâu làm vợ. Tao không muốn về đó họ chưởi nhà mình vô phước!
Tôi lanh chanh:
– Đăng Tâm sợ bà ngoại bức tử Tò He!
– Thằng quỷ, răng mi cứ nhồi vô cái đầu con ngu nớ mấy cái điều bậy bạ?
Đăng Tâm suốt đời là một con nhóc khờ khạo hiền thục không giận hờn ai bao giờ:
- Con sợ thiệt mà bà nội. Rứa là bà nội tha cho Tò He cái tội giựt chồng của con.
Bà ngoại phì cười:
– Chồng mổng chổng mông,
Rồi chép miệng, bày tỏ nhân sinh quan rất hiện đai:
– Tình yêu biết răng mà nói cho ngạ! Tò He có lỗi chi mô khi cái thằng bác sĩ khù khờ nớ thương yêu và muốn rước hắn về thờ?
Tôi lại thở phào, mùa xuân này Tò He lên thuyền hoa (Đăng Tâm đã thiết kế ý tưởng đó, thuyền hoa xuất phát từ bến sông Như Ý trước nhà, xuôi về Vỹ Dạ, cập vào Cồn Hến… ăn chè bắp rồi chụp hình cưới nhìn nắng hàng cau nắng mới lên…)
Không còn ai vét cho tôi lớp mứt gừng cháy thơm phức đáy nồi, không còn ai lột giùm tôi lớp lá bánh tét cho khỏi dơ tay… Từ khi Tò He đi theo chồng tôi bỗng dưng mất mác quá nhiều lợi ích!
Còn Đăng Tâm, nhóc em họ làm tôi điêu đứng suốt tuổi học trò vẫn luôn là một con bé sống ở trên mây…Nhiều năm sau gặp lại, nó đã là một ni sư đáng kính, nhưng tôi cũng vẫn bâng khuâng như cũ… Nếu bà ngoại còn sống, bà ngoại sẽ nạt: Thằng quỷ, khi mô mi mới chịu lớn khôn?!
Nhưng bà ngoại mất lâu lắm rồi, chiều nay, một mình tôi lang thang trên đồi Forest Lawn lộng gió, những ngôi mộ ẩn chìm dưới cỏ, tôi đốt một nén nhang thơm bái vọng quê nhà…
Quê nhà yêu dấu của tôi.
TNTD
NGUYỄN VŨ SINH - NGƯỜI MÊ THƠ ĐẾN CÙNG TẬN

Biết Sinh từ thời đăng thơ trên Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc của SG trước 75 nhưng mới quen nhau trên FB và ngoài đời vài năm trở lại đây. Là người con của Diên Lạc - Diên Khánh - Khánh Hòa vốn chân chất, hiền hậu như khoai như sắn nhưng tâm hồn luôn bay bổng theo văn chương. Sinh đúng là người mê thi ca đến cùng tận sau Trường Thi, Trần Hữu Nghiễm mà tôi đã từng quen biết. Ở đâu, làm gì cũng thơ... đến từng cây số!. Trường Thi vì thơ mà khổ đến cuối đời. Trần Hữu Nghiễm vì thơ và thuốc lá mà chết bởi bệnh ung thư... Cay đắng, xót xa là thế nhưng thơ chính là dưỡng chất nuôi tâm hồn lớn dậy của họ. Chấp nhận đánh đu cùng số phận để cất lên tiếng lòng của mình khi đi qua sự khắc nghiệt của cuộc sống. Những năm sau này Sinh viết nhiều và thường xuyên đăng thơ trên trang Vuông Chiếu của thi sĩ Luân Hoán. Thơ Sinh có bài đọc để giật mình chiêm nghiệm về cuộc đời, song cũng có bài chỉ để đọc lướt qua. Tuy nhiên, đây là cách chơi... đẹp của tâm linh và chữ nghĩa vậy. Nói như nhà thơ Trần Xuân An: “Mình chơi thơ cũng là cách chơi tao nhã và thú vị... thay vì đam mê cờ bạc, ma túy, rượu chè, gái gú... có hại hơn đúng không nhỉ? “Chính xác quá Trần Xuân An ạ. Các bạn cứ phát triển tư duy và cảm hứng. Mỗi người cảm nhận thơ một cách khác nhau. Các bạn cũng như tôi, may lắm là để lại cho đời một hai bài hoặc vài câu thơ cũng quá đủ rồi. Đến như thi hào Nguyễn Du cũng tự nhận” Mua vui cũng được một vài trống canh... ” dù truyện Kiều cho đến nay vẫn là số 1 trong thi ca mà chưa có hiện tượng “sao đổi ngôi” nào sánh được!
Một kỷ niệm nhỏ với Nguyễn Vũ Sinh khiến tôi nhớ hoài: Năm 2017 về Huế giỗ mẹ, tiện đường tôi ghé Diên Lạc thăm Sinh. Nghe tôi điện thoại cậu ta đã mượn một chiếc xe 7 chỗ ra đón tôi. Gặp nhau chúng tôi tha hồ tâm sự như những cố nhân. Sinh mời tôi ở lại một vài bữa để Sinh đưa đi rừng. Nghe thật thích nhưng thấy thời tiết không đẹp nên tôi từ chối. Ở với Sinh vài giờ là tôi chia tay để lên tàu vào SG. Khi tàu đến Phan Rang thì nghe Sinh gọi điện báo bão vừa đổ bộ vào Khánh Hòa. Nhà Sinh cây cối ngã đổ nhưng nhà đúc nên không sao. Hú vía thật. Nếu tôi ở lại thì phải tránh bão thêm vài ngày rồi. Về SG cứ nhớ mãi bữa cơm trưa ở nhà Sinh. Tuy không cao lương mỹ vị gì nhưng vợ Sinh nấu ăn ngon lạ lùng. Tôi cũng khen Sinh là có phước mới lấy được người vợ trẻ, đảm đang, hiền thục và khi Sinh làm thơ thì bóng dáng mỹ nhân ấy hiện lên trong thi ca. Chỉ là những cảm nhận ít oi về NVS như vậy. Có lẽ nên biết về tác giả Nguyễn Vũ Sinh và thơ nhỉ.

Nguyễn Vũ Sinh là tên thật. Bút hiệu là Nguyễn Văn Ngọc Sinh. Sinh ngày16.12.1953 tại Diên Khánh - Khánh Hòa.
THƠ NGUYỄN VŨ SINH
TỰ DO VÀ CÁI CHẾT MỎI MÒN

Dù biết trở về rừng nguyên sinh không còn nữa
Nhưng chim thanh vẫn da diết nỗi mong chờ
Từng ngày qua náu trong lồng tù hẹp
Khát khao một lần quay lại chốn xưa.
Giọng hót mỗi ngày vẫn ngân vang thánh thót
Lòng hằng mong tung đôi cánh giữa bầu trời
Trong chiếc lồng hẹp từng ngày qua vẫn đợi
Như loài chim muông khao khát ánh dương soi.
Thà vòm trời rộng tung bay đôi cánh mỏi
Hít thở tự do hơn chết rũ một đời
Cánh cửa khép bao ngày qua tăm tối
Mong về nguồn xưa xanh bóng núi đồi.
Dù đại ngàn những lòng sông suối cạn
Hàng cây già thưa thớt đứng mồ côi
Lồng son hẹp song khe thưa mắt mỏi
Tiếng chim thanh giờ đã hót nghẹn lời.
LẠC DẤU CHIÊM BAO
Nghe tháng ngày hư hao
Đã qua đi thuở nào
Cánh phượng hồng năm cũ
Lạc mộng giấc chiêm bao.
Mòn mỏi trông trời cao
Chim xoải cánh phương nào
Bóng sa mờ ải nhạn
Tiếng hót gầy âm hao...
Kỷ niệm xa rồi sao
Nghe sóng vỗ thét gào
Lời ru nào cho bãi
Đã úa màu xanh phai.
Vì sao, tại vì sao?
Giọt lệ mãi tuôn trào
Kiệt khô bờ hốc mắt
Bao phận người lao đao?
Có còn đêm trăng sao
Tỏa sáng trên trời cao
Giờ môi thơm mắt biếc
Cũng nhạt nhòa hư hao.
Hương thơm trao ngọt ngào
Cứ mãi đợi khát khao
Bao môi người đã mỏi
Mà chẳng hiểu vì sao?
Vì sao và vì sao?
Nỗi nhớ quê cồn cào
Trông mây mờ viễn xứ
Đã lạc dấu chiêm bao.
MIMOSA
Chân qua bước dạo lang thang
Mimosa nở sắc vàng áo hoa
Phố giờ thưa thớt người qua
Trời Đà Lạt thắm màu hoa dã quỳ
Đường nghiêng níu bước người đi
Mưa bay ướt dấu buồn ghi phố phường
Sớm mai trời đất mờ sương
Ly cà phê nóng quyện hương đại ngàn
Mimosa nở hoa vàng
Tô trời Đà Lạt thêm ngàn sắc hoa
Cao nguyên phố thị bây giờ
Dấu xưa chừng đã phai nhòa nét hương?
Nguyễn Vũ Sinh

Hình 1; Nhà thơ Trần Vạn Giã
Hình 2: Nhà thơ Tôn Nữ Thu Dung
Hình 3: Nhà thơ Nguyễn Vũ Sinh
PHẦN 24
TRẦN HOÀI THƯ - MỘT ĐỜI CẦN MẪN VỚI VĂN CHƯƠNG
Nói đến Trần Hoài Thư, với bất cứ ai có quan tâm đến văn chương thì không thể không biết. Đó là một anh chàng nhà văn với vóc dáng thư sinh (dù là một sĩ quan đầy lang bạt kỳ hồ) có cặp kính cận dày cộm rất dễ nhận thấy. Từ thập niên 60 chúng tôi đã quen biết nhau vì cùng viết trên các tạp chí văn học của SàiGòn. Quý nhau và chân tình vì tác phẩm chứ không vì điều gì khác. Từ đấy, những kỷ niệm nảy sinh khó mà quên được.Tôi nhớ một đêm của năm 1967 Trần Hoài Thư từ Quy Nhơn về Huế ghé thăm nhà văn Lê Bá Lăng ở Vỹ Dạ - sẵn có mặt tôi ở đó. Thế là cuộc rượu bày ra. Thế là tâm sự triền miên về Quê Hương, Chiến Tranh, Tuổi Trẻ... Sau đó cùng thức, cùng viết để ngày mai gửi bài cho tạp chí Văn. Lần ấy, cả 3 bài của 3 chúng tôi được đăng trang trọng trên Văn - lúc ấy Trần Phong Giao là thư ký tòa soạn. Bạn bè gặp nhau như một thứ mồi lửa để cùng cháy khi trước tác. Và đó cũng chính là niềm phấn kích vô biên trên dọc đường văn nghệ. Lúc ấy, Trần Hoài Thư là một sĩ quan của Sư Đoàn 22 Bộ Binh; Lê Bá Lăng là thầy giáo; Tôi thì còn học đệ tam trường Nguyễn Tri Phương. Sau năm 1968 thì mỗi người mỗi ngả. Mỗi cánh đời đu bay theo định phận của mình trong khói lửa... Nhưng luôn đau đáu về nhau qua tin tức anh em, bè bạn.
Anh Trần Hoài Thư lấy vợ ngày tháng nào tôi không còn nhớ... Nhưng tôi biết chắc một điều: Trước khi ký kết bản án chung thân với chị Nguyễn Ngọc Yến thì họ có một mối tình đẹp hơn cả cổ tích. Chị ấy là một độc giả mê văn chương của chàng lãng tử phong trần thường có truyện ngắn đăng trên tạp chí Bách Khoa. Và địa chỉ 160 Phan Đình Phùng -SG trở thành nơi hẹn hò của họ. Sau một thời gian quen biết yêu thương, người đẹp Tây Đô đã gật đầu kết tóc se tơ cùng chàng lính trận - sĩ quan mà diện mạo rất thư sinh ấy. Không được dự đám cưới của anh Trần Hoài Thư song ở nơi cùng cốc khi biết tin tôi cũng mừng cho anh đã chạm vào hạnh phúc sau nhiều năm tháng lẻ loi cùng tận-với trang viết ngồn ngộn hoài bão của tuổi thanh xuân đã trôi mịt mù trong chinh chiến mà chàng cho là vô nghĩa. Do tên tuổi của một nhà văn, sau ngày lấy vợ anh được chuyển về quân khu 4 làm phóng viên chiến trường (Lúc này anh mang lon trung úy). Đơn vị có bản doanh ở Cần Thơ và đây cũng chính là nơi chị Yến sinh sống, làm việc.
Phần tôi, sau khi học khóa 7/73 Thủ Đức tôi về Bến Tre. Thế là gần gũi và liên lạc thường xuyên với anh Trần Hoài Thư. Lần nào gặp nhau chúng tôi cũng mong có được trong tay một tạp chí văn chương để mà viết. Từ anh tôi biết thêm một số bạn ở Cần Thơ như Trần Mộng Hoàng, Minh Nguyễn, Phù Sa Lộc, Trần Kiêu Bạc, Nguyễn An Bình... Thơ văn của họ luôn nói về thân phận, quê hương, tình yêu và quý trọng nhân văn.
Sau 75 tan tác, tôi về Huế làm ruộng. Trần Hoài Thư bị đi cải tạo. Mất liên lạc.
Năm 1980 nghe Trần Hoài Thư cải tạo về đã vượt biên sang Mỹ. Lúc này tôi đã chìm xuống đất đen và ngưng viết (cho đến khi TBT Nguyễn Văn Linh đổi mới thì cầm bút trở lại).
Qua tin tức bạn bè bên Mỹ, Trần Hoài Thư đã học thêm để lấy bằng kỹ sư điện tử (thần phục tinh thần của anh). Sau giờ hành chánh trở về nhà anh cần mẫn viết lách và cùng chị Yến lo việc gia đình.
Ở không gian mới, môi trường mới, anh vẫn miệt mài sáng tác. Tác phẩm của anh có bề dày đáng nể-gấp 3 lần sáng tạo trước 75. Một mình đứng ra thành lập cơ sở in ấn Thư Quán Bản Thảo (có sự trợ lực của nhà văn Phạm Văn Nhàn) với chủ trương gìn giữ văn học miền Nam trước 75. Đến nay đã ra được 80 số. Tạp chí văn học nghệ thuật này quy tụ nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình nổi tiếng.
Tưởng cứ yên ấm theo thời gian. Có ngờ đâu 2 năm gần đây chị Nguyễn Ngọc Yến bị tai biến. Thế là anh gánh thêm chuyện chăm sóc vợ. Nội chuyện lo cho vợ cũng đã hết giờ. Vậy là Trần Hoài Thư phải làm việc gấp 3, 4 lần. Nội lực của anh thật phi thường. Nhưng không biết kéo dài đến bao lâu bởi sức người có hạn? Mới đây nhất anh Nhàn cho tôi biết Trần Hoài Thư lại bị bệnh Gút hành hạ. Ôi trớ trêu thay!
Tôi không bao giờ mong định phận của cặp đôi này như thế cả bởi cái tâm sáng của họ cứ ngời ngời...
Trần Hoài Thư tên thật là Trần Quý Sách, sinh năm 1942 tại Đà Lạt. Tác phẩm đã xuất bản:
Trước 1975:
1. Nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang
2. Những vì sao vĩnh biệt
3. Ngọn cỏ ngậm ngùi
4. Một nơi nào để nhớ
Sau 1975:
VĂN
1. Ra biển gọi thầm (Tập truyện)
2. Ban Mê Thuột ngày đầu ngày cuối (Tập truyện )
3. Về hướng mặt trời lặn (Tập truyện)
4. Mặc niệm chiến tranh (Tập truyện)
5. Đại đội cũ, trang sách cũ (Tập truyện)
6. Thế hệ chiến tranh (Tập truyện)
7. Thủ Đức gọi ta về (Tạp bút)
8. Đánh giặc ở Bình Định (tự truyện)
9. Hành trình của một cổ trắng (truyện vừa)
10. Ở một nơi trên Trường Sơn (tập truyện)
11. Truyện từ Bách Khoa (Tập truyện)
12. Truyện từ Văn (Tập truyện)
13. Truyện từ Trình Bày, Văn Học, Khởi Hành... (Tập truyện)
14. Truyện từ Vấn Đề (Tập truyện)
15. Tản mạn văn chương (tập I)
16. Giấc mơ Giáng Sinh (Tập truyện)
THƠ
1. Thơ Trần Hoài Thư
2. Ngày vàng
3. Nhủ đời bao dung
4. Ô cửa
5. Xa xứ
6.Quán
7. Vịn vào lục bát
Văn của Trần Hoài Thư:
Trần Hoài Thư
NGƯỜI CHA
Bên trời. Ai đã gọi bên trời, lời thất thanh, đêm bật rách ròng ròng lệ đỏ. Ai đã gọi bên trời, ngựa đã nản chân bon, hí lên tiếng hí cuối cùng, và mây ngũ vồng đưa ngựa già về miền tịch lặng. Bên trời, thời đại này, người có thể thấy mặt nhau từ xa vạn dậm, địa cầu gần gũi vô cùng, thư từ đến với nhau trong tích tắc, nhưng cũng có tín hiệu đến quá chậm, quá tức tửi, quá đau. Tuần qua, lúc con ở bên này ung dung lái xe trên xa lộ, ngày 8 tiếng trong hãng miệt mài, đêm ngủ yên lành trên nệm dày, trong chăn dạ, thì bên kia Ba lại bỏ đi. Ba nhắm mắt. Ba không còn đợi thằng con, đứa cháu trở về. Và chấm hết.
Bên trời. Buổi sáng đến sở. Ngồi yên. Ba ơi, chưa bao giờ con lại cảm thấy cô đơn như bây giờ. Muốn bỏ mà đi. Muốn thèm một lần mếu máo. Muốn gọi một tiếng ba từ lâu chưa một lần được gọi. Đi đâu bây giờ để khỏi đập đầu, khỏi đau quặn lồng ngực, để khỏi cắn miệng, cắn môi, mà nuốt dòng lệ mặn. Thì ra, bây giờ con mới hiểu thế nào là một nỗi mất mát của một đời người. Cái mất mát sẽ chẳng bao giờ được đền bù hay có thể được tìm trở lại. Dù là một hạt bụi đi nữa. Dù là một sợi tóc đi nữa. Cái mất mát mà ai cũng có một lần chấp nhận. Nhưng mà thưa ba, chiến tranh giờ đã tàn lụi, đâu còn nỗi mất mát nào như những nỗi mất mát như ngày xưa. Người chết giờ đây, dù sao cũng còn được an ủi. Có nghĩa là, trước khi nhắm mắt vẫn còn nhìn lại một lần những người thân yêu. Trừ ba. Thưa ba, bài này, con viết cho ba.
Trang giấy này con khóc cho ba. Một hai ngày, hay trăm ngàn ngày, con sẽ nói với ba, thầm thì với ba, kể lể với ba. Cái đau này con xin giữ lấy, cho riêng con. Không ai trong nhóm biết cái mất mát này. Con sẽ dấu, như chẳng bao giờ xin cái ngày phép tang chế thường lệ. Bởi vì, với con, ba không chết. Ba sống mãi. Ở mãi trong đời con.
Từ Quảng Bình, mồ mả ông bà ba bỏ lại. Bỏ lại, như lần đầu theo con tàu sắt ra khơi xuôi về Nam. Ba đã lựa chọn đời sống và tương lai cho con cháu. Nhưng vào ngày ấy, ba vẫn còn có một chỗ để mà đến. Dù những ngày đầu tiên lam lũ. Dù chiếc áo lương đen của ba càng lúc càng mờ phai giữa một thành nội đóng cửa. Dù nghề thầy thuốc của ba càng lúc càng khó khăn tội tình giữa một thế giới Tây y. Ba đã chọn lựa. Đau đớn mà chọn lựa. Bỏ Quảng Bình, bỏ Đồng Hới, bỏ mồ mả ông bà, ba lạy ba lạy. Bỏ cơ nghiệp, nhưng cơ nghiệp có gì ở cõi này, trừ tiếng gọi thầm lặng của một kiếp đời: Tự do yêu và ghét. Ngày ấy con còn quá nhỏ để hiểu tại sao người ta dám bỏ cả một phần đời quí báu nhất của con người. Tại sao người ta lại dám chấp nhận đến một nơi vô định, chấp nhận một phần đất lạ lẫm của miền xa. Tại sao người ta lại dám phủi tay, bỏ sạch của cải mồ hôi nước mắt, công lao mà mình đã cố tạo dựng, và cả một nơi chốn yêu dấu nhất của một con người gọi quê hương. Đêm nay, mấy mươi năm trở lại một thời gian, một không gian cũ, để lại càng hiểu hơn về nỗi đau bầm của một người bỏ quê nhà. Ba chưa một ngày dính líu với bộ máy. Ba cũng chưa một ngày tung hô đả đảo. Ba đứng bên lề: giản dị như chiếc áo lương đen ba mặc suốt năm suốt tháng. Cao quí như nghề thầy thuốc mà ba đã giúp đời, giúp bà con, lân láng. Và khổ hạnh như một nhà tu. Và ung dung như một vị đồ nho. Và cô độc như người còn lại cuối cùng của một thế giới. Như vậy tại sao ba lại mang thân gà trống tục tục bầy con xuống con tàu hả mồm. Thì ra, ba đã tiên tri được sự thật. Một sự thật mà ngay cả thế hệ của con sau này cũng chẳng bao giờ biết nổi. Và chao ơi, đến khi biết được thì đã quá muộn màng.

Những ngày đầu tiên ở Huế, thì quá lam lũ. Huế có những ngày mưa dầm, có những buổi trời lạnh căm căm, và gió thì cắt bầm da thịt. Và ba đã đứng ở giữa Huế, đi ở giữa Huế, chống đỡ cùng đời sống ở Huế. Vẫn chiếc áo lương đen bạc màu. Vẫn chiếc áo tơi nylon màu sậm rêu đã rách. Và vẫn chiếc dù đen. Ba đã không những chống cự cùng cơm áo mà còn chống cự cùng cái nền văn minh đang mỗi ngày một lấn áp xã hội. Nhưng nếu cơm áo đã làm ba lao đao lận đận, thì cái nền văn minh kia đã làm ba cô độc hàng vạn lần. Ở đâu người ta cũng quay mặt. Ở đâu, khói bụi, và sản phẩm của những luồng gió từ phương Tây vẫn cuốn lốc, vẫn vần vũ. Ba đã đi tìm lại những người thân chủ cũ. Mong đợi họ để ba bấm tay xem lại kinh mạch, để ba kê toa thuốc, và cuối cùng là ít tiền công. Ba cũng đã đi qua những phòng mạch bác sĩ chen chúc người. Ba nhìn người ta đang bị đầu độc bởi khói xe, dầu mỡ, nước đá, trụ sinh. Và càng đau hơn nữa, ba phải nhìn những trang giấy kinh điển, những giòng chữ hiền nhân, những suy nghĩ vạn đại từ từ bay cuốn hay vùi dập dưới bước chân người không thương tiếc. Khi ấy ba chỉ biết cúi đầu, lưng khom xuống, và lượm và nhặt. Khi ấy ba buồn bã nhìn về phía Đại Nội, trường Quốc Tử Giám, nơi mà ngày xưa ba đã từng học những giòng chữ của thánh hiền. Huế vào những ngày đầu tiên, mây thì màu chì, và sũng nước. Những con quạ đen in bóng trên thành quách cũ, từ Thượng Tứ qua Đông Ba. Huế vào những ngày đầu tiên, đêm thấp thoáng những ngọn đèn lu mờ giữa dòng sông Hương, và tiếng hò Nam Ai thỉnh thoảng cất lên ủ dột. Huế, học trò Đồng Khánh, Quốc Học, bãi học qua cầu như cả một đàn bướm. Huế có đài phát thanh bên cầu, còn nghe âm vang tiếng đôi song ca Ngọc Cẩm và Nguyễn hữu Thiết. Huế có tiếng rao hàng rong não nuột trong bóng tối âm u từ đường Trương Định về Hàng Đoát. Và Huế có một mình ba, đứng lại, còn lại một mình.
Nhưng ba không bao giờ chịu làm kẻ thua cuộc. Ba vẫn mặc chiếc áo lương đen, mang chiếc dù đen, chiếc áo tơi màu rêu sậm, và đi bộ, đi mãi, đi miết. Từ Morin về Đập Đá. Từ Morin lên Phủ Cam. Từ Morin qua cầu Trường Tiền, qua Đông Ba, Thượng Tứ, vào Hồ Tịnh Tâm, ngược lên Bến Ngự. Dáng ba nhỏ, gầy. Hai chân ba khẳng khiu, vai hơi khom xuống. Đôi khi một chiếc xe phóng qua vũng nước, và cả người ba bị nước bắn tung tóe. Đôi khi những con chó hung dữ sẵn sàng nhảy bổ vào người ba, nếu không nhờ cây dù bên người, chắc ba sẽ phải bỏ cuộc. Rồi ba trở về cùng con. Mái nhà tôn nào bên đường Trương Định, nền nhà đất thịt, chiếc giường tre nương tựa cơ hàn. Những đêm mùa đông năm ấy, Huế trở trời, lạnh căm căm da thịt. Vì lạ lẫm, và vì hơi lạnh buốt bốc lên từ nền đất, thấm qua tấm chiếu, qua cả chiếc mền dạ nhà binh, khiến con không thể nào ngủ được. Và ba cũng vậy, nằm bên con, mắt mở. Chúng ta đã không thể tưởng tượng có một ngày chúng ta phải nương thân tại nhà của một người khác, trong khi ở quê nhà, chúng ta có cả ngôi nhà gạch khang trang, có nền xi măng, giường rộng, chiếu hoa. Chúng ta không thể tưởng tượng một ngày ba dẫn con đi tìm quán ăn nghèo nàn bên chợ Đông Ba, để nghe mệ chủ quán bĩu môi nói trắng trợn: Quán tôi dơ bẩn, ông nên tìm chỗ khác, chỉ vì ba cẩn thận lấy tờ giấy mang trong mình lau đôi đũa, cái chén. Mắt ba đã mở trong đêm, nhìn lên chiếc mùng, hay đang trở về cùng quá khứ. Với ba, con biết, lệ thầm ấy là quá khứ. Và với con, lệ thầm ấy là mền không đủ ấm, là khoảng đêm dày dặc, là gió bên ngoài hú từng cơn, đập vào mái tôn kêu âm ỉ, là cả thân thể co rúm lại trước cái lạnh bốc xuống từ mái tôn, bốc lên từ đất... Phải, với ba, lệ thầm ấy là quá khứ. Con người ba đã nặng trĩu quá khứ. Ngay ở hiện tại này, ba cũng là ngọn đèn của quá khứ. Ngày xưa, mỗi lần ba ngủ không được, ba vẫn trở dậy pha trà và đọc sách thánh hiền, hay ngâm những vần thơ cổ. Bây giờ không ai cho phép ba trở dậy, để ngồi độc ẩm cùng bóng đêm. Người ta đang ngủ. Nếu có thức chăng là những hồn ma từ những thành quách rêu rong.
Chúng thức để mà khóc cho một thời đại. Nhưng dù sao, chúng vẫn là hồn ma. Còn ba, ba lại là con người thật. So với chúng, ai khổ hơn ai?
Vâng, ai khổ hơn ai. Dù sao những hồn ma kia cũng vẫn còn bầu bạn. Còn ba, một người còn sót lại cuối cùng, quá chừng lẻ loi, và cô độc. Nếu có bạn chăng là con quạ đen trên nhánh cây phượng gầy bên Thành Nội hay tiếng dế khóc than dưới mấy tầng gạch cổ. Từ một xóm nghèo bên Morin, ba lại dẫn con đi nương nhờ tại Đập Đá, rồi qua Bến Ngự, rồi về Phủ Cam, rồi qua Thành Nội... Cơm áo cuối cùng cũng xong. Những bà chủ nhà nghiệt ngã cuối cùng cũng xong. Những dốc lên dốc xuống cuối cùng cũng xong. Những ngày hừng hực nóng và những đêm buốt tận xương tủy cuối cùng cũng xong. Dòng sông Hương vẫn xanh lơ. Đêm Nam Ai, Nam Bình vẫn bềnh bồng trên những chuyến đò côi cút. Người di cư bắt đầu hòa nhập vào cuộc sống mới. Ông Bá đã trở thành một người thân tín của chế độ, và được giao một nhiệm vụ cao cấp của đảng chính quyền. Anh Trinh được lên Trung sĩ nhất. Bác Cấn được phong trung sĩ nhất hậu cần. Ông Phán lên làm Phó Tỉnh trưởng hành chánh. Bây giờ những người di cư mới tìm lại ba như ngày xưa họ đã tìm đến. Thân chủ của ba đã không còn bao gồm trong thành phố Huế mà đã được bung ra đến Đà Nẵng, Hội An. Người ta cuối cùng đã tìm đến một vị thầy sau bao năm ngoảnh mặt. Và trong lòng chiếc xe hàng Phi Long, Tiến Lực màu vàng da cam ấy, ba vượt đèo Hải Vân, xuống bến xe, và lại đi bộ, đi hoài đi mãi. Áo lương đen, chiếc mũ dạ, chiếc dù đen. Và cái túi áo mỗi lúc mỗi đầy những trang giấy thánh hiền. Phố lầu cao che mái ra bờ lề, bóng ba lẻ loi giữa chợ người. Ngày mưa cũng như ngày nắng. Ngày lạnh căm căm cũng như ngày lửa oi nồng, một mình đông tây nam bắc, bước tới, đi tới. Để làm gì. Hai trăm đồng học phí một tháng cho lớp Đệ Ngũ của trường Việt Hương. Ba trăm đồng học phí cho lớp Đệ Tứ của trường Bán Công, để con tiếp tục đến trường. Và đêm đêm, ba ngồi viết hàng trăm verbe qui tắc hay bất qui tắc, những demander à hay demander pour, thành ngữ, văn phạm trên cuốn sổ tay bìa đỏ. Ba hãnh diện nhắc lại ngày ba cứu dân làng thoát khỏi lần bố ráp của Tây bởi vì ba là người nói và viết được tiếng Pháp. "Ông quan ba đọc xong thơ của ba, bèn kêu ba tới và bắt tay kêu ba là monsieur". Ba nói về cuốn tự điển Larousse dày cả ngàn trang mà ba thuộc lòng. Người ta thường nói về một người mẹ như một hình ảnh yêu quý nhất, tôn thờ nhất, dịu hiền nhất, nhưng với ba, cho con được ngừng lại một giây, một phút, để cho nước mắt cứ tuôn, để đôi mắt con mờ nhạt, để hiểu rằng con được tự hào có một người cha còn tuyệt vời hơn cả một người mẹ nữa. Có lần con thấy con gà trống dẫn đàn con đi kiếm mồi, con vật sao cô đơn quá. Nó có mồng, cựa, bộ lông sặc sở, uy dũng hiên ngang làm sao, thế mà cứ mỗi lần tìm được mồi, nó lại kêu tục tục, gọi đàn con đến... Cũng như ba. Tục tục hoài. Hết tay này quạt lại đến tay kia quạt trong những đêm mùa hè dưới mái nhà tôn. Chiếc mền đắp lại trên người con, trong đêm giá buốt. Và đôi khi, giữa đêm, con còn nghe tiếng ba nằm mớ. Ú ớ. Một ác mộng cũng nên. Tại sao ba không bao giờ kể cho con nghe về cái ác mộng ấy để con hiểu thế nào là lịch sử, những biến cố của đất nước hay cái thảm kịch của chính ba? Phải, ba đã dấu con. Ba đã dấu về một người đàn bà mà ba đã cưới về làm vợ, về một người nào mà lẽ ra con còn được gọi cái tiếng mẹ như mọi người. Ba đã dấu, chẳng bao giờ nhắc nhở, hờn giận. Nhưng ba không thể dấu nỗi những tiếng mớ u uẩn trong đêm. Rằng, nỗi buồn câm nín mà ba mang theo trên hai vai gầy guộc của một ông đồ, một người đàn ông, một người cha hẩm hiu đã trở thành tiếng ú ớ buồn thảm.
Cuối cùng, ba vẫn là người để người ta tìm đến, sau khi bệnh tình của họ, và người thân, bác sĩ đã bó tay. Vợ họ hiếm muộn con cái. Con trai họ mộng tinh di tinh trầm trọng. Có người bị mất ngủ kinh niên. Và mỗi lần kê toa thuốc xong, ba không bao giờ quên một câu dặn dò: Nhớ là đừng bao giờ dùng nước đá. Nước đá hàn, uống vào sẽ hại không ít thì nhiều. Ba đã dặn bệnh nhân của ba như vậy là vì lương tâm của vị thầy thuốc hay là vì cái nền văn minh kỹ thuật đang cuốn lốc mọi thứ cổ truyền mà ba tìm cách chối bỏ? Với con, cả hai. Ba vui mừng khi thấy con bệnh mà ba chữa trị đã bình phục, nhưng ba đau khổ không ít khi nhìn cốc nước đá lạnh mà người ta đã mời ba. Ba đã cố giải thích với họ về một nền văn minh chết người, đang tìm cách làm hủy diệt loài người. Tại sao những người xưa sống lâu cả trăm tuổi? Tại sao người ta mắc bệnh tâm thần ngày càng nhiều? Thuốc trụ sinh là gì chẳng qua là nấm? Và cả bao nhiêu loại thuốc men khác cũng bắt nguồn từ cây cỏ? Đôi khi gặp một vài người tri kỷ, ba lại nói về cái độc hại và phá sản của một nền văn hóa ngoại lai. Nó làm băng hoại gia đình và xã hội. Ba trách thế hệ trẻ tuổi sa đọa, quên hết cội nguồn, thương mây khóc gió, không còn biết trọng thánh hiền. Nhưng ba không biết, con đang ở trong thế hệ trẻ tuổi mà ba đã kết án. Ba không biết tuổi trẻ của con đang nổi loạn. Tuổi trẻ của con đầy những xâu xé, giành giựt, bị hành hạ bởi ý thức. Qua sách vở con đọc, qua lịch sử mà con đã sống và lớn lên để thừa hưởng, qua xứ Huế mà con đã cô đơn, qua cha mẹ phân ly, qua tình yêu mà con đã vấp phải, qua mấy bức tường thành mà con bị giam hãm. Ý thức đẩy con xa ba, và càng xa, ba càng buồn vì con hơn ai hết. Ba muốn con lập thân, có nghĩa là đậu bằng cấp, có chức vụ để người đời trọng nể. Nhưng con thì lại khác, ngồi trong thư viện, đọc trang sách của Sartre mà lạc loài, mà hư vô, mà nôn mửa. Đời là gì. Chiến tranh ở đâu đó, trên những trang nhật báo mỗi ngày. Con đọc Tội ác và Hình Phạt mà tìm hình bóng con qua người trẻ tuổi. Tại sao? Đầu óc con muốn nổ bùng. Con lê dép Nhật, để tóc dài, như thách đố cùng Huế, cùng xã hội. Con bỏ lại sách vở, bằng cấp ở phía sau, để coi đời là áng mây trắng. Con đuổi theo áng mây ảo tưởng. Con coi đời là cuộc chơi. Chẳng cần thắc mắc. Khi người ta bắn con, viên đạn phá toạc da thịt con, những mảnh lựu đạn cắm sâu trong thịt con, con vẫn nhìn lên bầu trời, không oán trách, giận hờn hay đổ tội. Rồi ở đâu, trong cõi này, những áng mây sẽ dịu dàng đậu lại, nương nhờ nhau, che chở nhau. Rồi ở đâu, cũng có ngày người Nam ôm kẻ Bắc, người Bắc ôm kẻ Nam... Nhưng cuối cùng, con đã hiểu. Người thật thà không thể sống chung với ma quỷ.

Thôi thì đành ra đi. Ở Việt Nam đâu còn gì nữa để mà nói về con người, về tình tự, về mây trắng. Nhưng khi bỏ đi, thì phải bỏ những gì yêu dấu nhất trong đời. Bao nhiêu năm trong nước con cứ hẹn lần hồi một ngày về phép thăm ba, thăm Huế, để nói với ba rằng con vẫn còn bình an, và để nhìn lên lư nhang đầy ngập tro và trăm ngàn que nhang tàn chen chúc, nhưng cuối cùng chỉ là một lời vỗ về hoang tưởng. Cháu nội của ba vẫn chưa được thấy mặt nội. Giấc mơ nào về quê, để ba nhìn cháu nội đã vỡ vụn tan tành. Và giờ đây, con lại xa ba thêm một nửa vòng trái đất. Lại còn phải thêm một lần nếm mùi bỏ xứ ra đi. Lại thêm một lần, bóp còi cho tiếng còi lạc vào chốn mịt mùng. Lại thêm một lần, những bánh xe cứ lăn hoài không biết ngày nào trở về cố hương. Ba thì lại xa. Nói gì về một lời tiên tri cũ để chợt giật mình. Thì ra tóc con cũng đã nhuốm bạc rồi. Tin nhà cuối cùng cũng phải đến như qui luật của vũ trụ nhân sinh. Con đang nhắm mắt đây, bởi vì, con biết Đất Trời Tiên Phật đang bao bọc ba, dìu dẫn ba, và chưa chắc, ba đang có mặt tại chốn này. Con nhắm mắt, giòng lệ nóng tuôn trào, không ai biết, mà chẳng cần ai biết. Bởi vì chỉ có ba biết con và con biết ba là đủ. Con biết có một người can đảm nhất trên đời, đạo hạnh nhất trên đời, và cũng buồn bã nhất trên đời. Tháng ba hay tháng chạp, năm này hay năm khác, đêm xứ Mỹ hay ngày xứ Mỹ, qua thị trấn này hay về thị trấn khác, những con đường hun hút mênh mông rồi cũng cuối cùng về lại một điểm. Cái điểm đó, có ba mái tóc bạc phơ, bộ áo lụa trắng, đôi mắt mù lòa, hun hút trong dòng thiên cổ.
Trần Hoài Thư
Thơ Trần Hoài Thư
HUẾ GỌI TA VỀ
Có một dòng sông mềm như dải lụa
Có hai ngôi trường như đôi tình nhân
Có một con đường mỗi ngày hai bận
Anh đưa em về, qua bến qua sông
Có một chiếc cầu bắc qua thành phố
Thành phố mù sương, phố cổ mù sương
Có anh tội tình như loài cổ thụ
Em đậu trên cành, làm anh bâng khuâng
Có buổi trời mưa, trời mưa không ngớt
Có em xăn quần, bên đập chờ ghe
Không biết nhìn lên hay là nhìn xuống
Thôi thì quay về, để khỏi u mê
Có một ngôi nhà, muốn vào không dám
Có một nỗi buồn cứ bám chung thân
Con sóc dại khờ gặm hoài trái đắng
Và anh dại khờ nên mới yêu em.
Trần Hoài Thư
THẾ HỆ CHIẾN TRANH
Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân, vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm không biết về đâu...
Trần Hoài Thư
HỒ TRỌNG THUYÊN - NGƯỜI LÃNG MẠN CỦA THẾ KỶ
Tôi nói câu này về Hồ Trọng Thuyên không ngoa ngôn chút nào bởi vì anh ta sinh ra là để ôm choàng lấy chất lãng mạn từ nơi chôn nhau cắt rún là Huế cho đến vùng đất lành chim đậu như SàiGòn hay Hoa Kỳ xa hun hút. Quen nhau từ thập niên 60. Thuyên là một anh chàng đẹp trai, đàn hay hát giỏi nhưng không hiểu sao trời bắt anh ta luôn thất tình. Lũ chúng tôi của thập niên 60 hồi ấy ở Huế gồm Lê Văn Tài, Viêm Tịnh, Nguyễn Miên Thảo, Từ Hoài Tấn, Huỳnh Ngọc Thương, Ngụy Ngữ... thường tụ hội nhau đàn ca xướng hát, viết báo, làm thơ dù tuổi trẻ chúng tôi không khỏi bị chi phối bởi chiến tranh. Thời ấy, lang thang đường Trần Hưng Đạo Huế, anh nào cũng kè kè tờ bán nguyệt san Văn - để khoe với nhau mình có bài đăng ở đó. Tờ tạp chí nổi tiếng chọn bài khó nhất. Hồ Trọng Thuyên không viết bài nhưng luôn đồng hành cùng chúng tôi. Và anh ta thất tình ai, dù có giấu giếm chúng tôi cũng biết (Thuyên trái ngược với Viêm Tịnh, anh chàng này có tiếng đào hoa ở Huế). Cũng do trời phú, cũng bởi thất tình mà Hồ Trọng Thuyên hát những tình khúc buồn rất truyền cảm và da diết. Đó là những tình khúc của Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Phạm Duy, Phạm Đình Chương... Cho dù ở những quán cà phê nổi tiếng của Huế hay nhà riêng của bạn bè “mệ” Thuyên luôn phơi bày lãng mạn và trái tim đa cảm của mình qua tiếng hát. Thường thì những anh chàng nghệ sĩ ôm đàn hát rất dễ chinh phục trái tim của những thiếu nữ (cho dù thiếu nữ đó có kín cổng cao tường hay có một chút hư thân chăng nữa). Vậy mà với mệ Thuyên tôi không tìm ra dấu tích của ái ân mật ngọt nào. Đời chàng cứ trôi đi như thế cho đến lúc bị động viên vào quân trường Thủ Đức. Ra trường, chàng cũng may mắn hơn người là về đơn vị ngay chính quê nhà. Thời gian này tôi cũng như lục bình trôi. Một ngày của thập niên 70, khi về thăm lại Huế tôi lại gặp mệ Thuyên với cấp bậc thiếu úy làm phân chi phu trưởng. Vẫn lãng mạn như thường. Anh kéo tôi tới đơn vị chơi. Vẫn giọng hát da diết ấy khiến tôi bùi ngùi nhớ người yêu thương cũ học trường Kiểu Mẫu ngày nào. Được biết mệ Thuyên vẫn chưa có ai để mặn muối cay gừng.
Sau năm 75, vẫn như mọi người mệ đi cải tạo. Khi về, không sống nổi ở Huế, Hồ Trọng Thuyên vào Nam. Thời gian này, Thuyên lang thang và gặp bạn đồng hương cũ như Nguyễn Miên Thảo, Từ Hoài Tấn, Vương Kiều, Nguyễn Văn Trai, Quý Lê Thị Ngọc... Họ thường tụ lại ở quán cà phê đầu đường Sương Nguyệt Ánh. Ngoài chuyện văn nghệ, họ thường phơi bày tâm tư mình về một nơi yêu dấu nhất: Huế. Huế ở dễ giận mà đi thì nhớ đến quắt quay, đúng không mệ Thuyên? Nhắc đến quán cà phê thì cũng phải nhắc đến cơ sở tăm nhang ở gần ngã ba Ông Tạ. Đó là cơ sở làm tăm nhang của vợ chồng Tập-Kiều Huệ. Ôi thời gian ấy khó mà quên. Đời sống tuy không khấm khá gì nhưng cặp đôi này rất thích bạn văn nghệ-nhất là bạn bè Huế. Do đó, anh em quần tụ về đây như Vương Kiều, Tôi, Song Đầu Lân, Nguyễn Thu, Nguyễn Duy Công, Hồ Trọng Thuyên... Kỷ niệm còn mãi để nhớ nhưng tôi quên mất ngày, tháng năm nào ... Một đêm trăng đẹp (tôi gọi là đêm thu SG) sau chầu nhậu quất cần câu ở nhà Tập, anh em ra về hết chỉ còn tôi và Hồ Trọng Thuyên ở lại. Tôi kiếm cái võng ngả lưng... Thuyên thì vẫn ôm đàn hát những bản tình ca một mình. Chợp mắt đâu được nửa tiếng, Thuyên lay tôi dậy: “Ui chao ơi! Trăng tuyệt vời rứa mà mi ngủ hí.” Tôi làu bàu: “Xỉn rồi đẹp chi mà đẹp! Để tau ngủ. Mi muốn như thi bá Lý Bạch thì cứ ôm trăng mà chết đi...” Nói là nói vậy nhưng tôi cũng trở dậy thức cùng Thuyên đến tàn khuya. Có ai lãng mạn như Thuyên không? Chắc có anh chàng Trần Thoại Nguyên nhỉ. Nửa đêm leo lên mái chùa nhìn trăng rồi ứa ra thơ đó.
Vì sinh kế tôi phải trôi cùng cơm áo. Bẵng đi một thời gian thì nghe tin Hồ Trọng Thuyên lấy vợ. Có một công chúa tình nguyện thề hẹn trăm năm với chàng Hoàng Tử thất tình rồi. Ngạc nhiên chưa? Thế là mệ Thuyên giã từ những ngày tháng ngao du cũ để làm chồng...
Với tôi đó là niềm vui thứ nhất để được chia sẻ với bạn. Niềm vui thứ 2 là sau mấy năm Hồ Trọng Thuyên và công chúa sang sinh sống ở Mỹ.
Thời gian sinh sống ở Mỹ, qua tin bạn bè là Hồ Trọng Thuyên và họa sĩ Nguyễn Đình Thuần như bóng với hình. Cũng văn nghệ đình đám... Con người tình cảm dù sống nơi đâu, làm gì cũng luôn chân tình và lồ lộ cái tâm. Mệ Thuyên không quên bạn bè.Mỗi năm đều gửi về cho Anh em Huế ở SG ít tiền để lai rai ba xị (và dĩ nhiên là nhớ mệ) và cũng có vài lần Thuyên về thăm quê. Có lần thấy tôi thích cái áo thun Mỹ anh đang mặc trên người, Mệ cởi ra tặng ngay.
Mới đây tôi được hung tin từ Từ Hoài Tấn, Hồ Trọng Thuyên đã qua đời bên Mỹ vì bạo bệnh. Sẽ hỏa thiêu và chị Thuyên cùng con gái mang tro cốt về quê nhà ở Huế. Lá rụng về cội mà.
Tôi sửng sờ thật.
Rồi nhớ một câu nói của ai đó: “Kẻ ác thì sống lâu. Người hiền thì mau chết...” mà xa xót lòng!
Cầu mong hương linh mệ Thuyên sớm an nhiên nơi cõi vĩnh hằng...
Trần Dzạ Lữ

Hình 1: Nhà Văn Trần Hoài Thư thời trẻ
Hình 2: Hồ Trọng Thuyên năm 2017
PHẦN 25
HẠC THÀNH HOA - NGƯỜI CỦA TÌNH VĂN NGHỆ VÔ BIÊN
Tên thật của anh là Nguyễn Đường Thai - thầy giáo dạy văn ở Cao Lãnh, Đồng Tháp. Là người thầy tận tâm, tận lực với học trò. Là người đưa đò không hề mệt mỏi với biết bao thế hệ học sinh, mà khi hỏi tên anh ai cũng biết và là nhà thơ Hạc Thành Hoa, nhà thơ nổi tiếng trước và sau 75 - người của tình văn nghệ vô biên. Tôi biết và quen anh như một mối lương duyên văn nghệ đã non nửa thế kỷ. Bài thơ NƯỚC ĐỤC đăng trên bán nguyệt san Văn - SG là bài thơ khiến bạn đọc xôn xao và rất yêu thích - kể cả tôi - từ đấy cho đến tận bây giờ vì đã bắt gặp mình trong đó. Bài thơ dài hơi nhưng cảm xúc và ngôn ngữ ngồn ngộn... Bài thơ này đã khiến một bạn đọc nữ ở Đà Nẵng đã họa tức thì (dù chưa biết HTH là ai, mặt ngang mặt dọc thế nào) bằng cảm xúc và tâm cảm nhạy bén của mình (mà thi sĩ Hồ Dzếnh gọi đó là Phút linh). Đó là chị Lê Thị Ái Niệm. Lúc ấy chị gửi bài họa vào tạp chí Văn nhờ chuyển tác giả HTH. Không biết thế nào và chắc họ sống trong mường tượng đến mười mấy năm sau mới quen biết nhau (qua tôi). Cũng vì giao cảm này mà chị Niệm, tôi và Hạc Thành Hoa đã kết nối, gắn bó nhau trên tinh thần yêu thi ca, đam mê sáng tạo... Nói về anh thì có nhiều chuyện để kể. Tại sao lại là tình văn nghệ vô biên? Bởi vì anh sống chân thật, hết mình với anh em, bạn bè. Về thi ca, anh là một thi sĩ “ăn ngủ cùng thơ”.  Nói khác hơn là Hạc Thành Hoa đã hôn phối với nàng thơ rất nồng nàn, đắm đuối để khai sinh nhiều tập thơ hay cho đời. Về đời thực, Anh là một thầy giáo dạy văn cấp 3 thời ấy -  lương dư sức nuôi vợ con và còn cưu mang thêm bạn bè văn nghệ tìm đến Cao Lãnh. Trong đó có thi sĩ Vũ Hữu Định là người ăn, ở nhà Hạc Thành Hoa lâu nhất bởi những tháng năm này VHĐ bỏ vợ con ngoài quê, để lang bạt giang hồ tận phương Nam. Cái tâm đẹp ấy có từ Hạc Thành Hoa cùng người vợ trẻ hiền thục, đảm đang... khác chi những bông điển điển vàng trên sông nước miền Tây ngó ra vừa dịu dàng vừa thuần khiết.
Tôi và anh chỉ gặp nhau có một lần ở Sài Gòn nhưng thư từ qua lại thì thường xuyên. Nhớ năm 1995, khi tôi in tập thơ đầu tay: Hát Dạo Bên Trời. Lời chúc mừng của HTH là bài viết (viết tay) dài 2 trang giấy A 4. Chữ nhỏ như con kiến nhưng đẹp lạ thường. Tôi cảm động biết chừng nào và giữ kỷ vật ấy đến bây giờ. Mọi buồn vui trong cuộc sống anh đều kể cho tôi nghe. Có lần anh về Đà Nẵng chấm thi được bạn bè văn nghệ tiếp đón niềm nở và đưa đi tham quan cùng khắp. Khi lên tàu vào lại miền Nam, anh đã điện thoại kể cho tôi nghe và ứa nước mắt khi chia tay ĐN. Đấy, một con người sống tình cảm như thế mà ai không thương? Lại có lần đâu thập niên 90, Hạc Thành Hoa nghe ai kể có một nhà văn nữ ở SG gặp khó khăn, anh đã viết thư kêu tôi cố gắng vận động giúp đỡ. Tôi trả lời anh là tôi biết nhà văn ấy đang có nhà mặt tiền ở quận 3 và đang có quán cà phê để kiếm cơm chưa đến nỗi phải chở từng bó rau đi bán như tôi và ở nhờ nhà vợ trên một căn gác chưa tới 12 mét vuông. Thế là anh im. Vậy đấy, nhà thơ HTH rất dễ mũi lòng... và trong sáng đến lạ!
Cũng năm ấy, chị Lê Ái Niệm từ ĐN bay vào SG thăm tôi và rủ tôi xuống Cao Lãnh thăm nhà thơ Hạc Thành Hoa. Tôi rất muốn nhưng vì phải bỏ mối rau hằng ngày nên để chị ấy đi một mình. Chiều về chị kể: ”Ui chao ơi! Tau tới tận nơi. Hai vợ chồng Hạc Thành Hoa rất ngạc nhiên. Họ đãi tau món ăn ở Cao Lãnh thật tuyệt vời. Tau dọa chị Hạc Thành Hoa - mình ở lại mấy ngày đó hí. Thấy chị ấy bối rối mà thương. Ăn cơm trưa xong tau từ giã hai vợ chồng trở lại SG. Ngạc nhiên chưa?" Tôi nói: "Chị ác rứa! Làm người ta tưởng thiệt!" Chị nói: "Làm người ai làm thế... Chỉ là anh em văn nghệ thôi mà. Chỉ là thơ chứ mô có tình ý chi..." Chị Lê Ái Niệm đọc cho tôi nghe mấy câu thơ chị làm để tặng cho chị Hạc Thành Hoa:
Em trở về nơi nỗi nhớ thẳm sâu
Mùa nước nổi có hoa vàng điên điển
Ăn bát canh chua nghe lòng xao xuyến
Thương bàn tay tảo tần nuôi những tài hoa
Lê Ái Niệm
(Tặng chị Hạc Thành Hoa)
Mấy năm sau này thư anh HTH thưa dần. Tôi điện thoại thì nghe anh đã nghỉ hưu và thường đau ốm. Năm nào cũng vào bệnh viện...và khi tối lửa tắt đèn thì có ai? Là người trăm năm của anh chứ ai. Chị ấy chăm sóc, động viên anh từng giờ phút. Chỉ có tình nghĩa phu thê mới đẹp nồng nàn và dịu êm như thế mà thôi.
Thưa chị Hạc Thành Hoa,
Những dòng tôi viết đây là chân thực của một người bạn trân quý anh Hạc Thành Hoa và cả chị - người bạn đời tuyệt vời của anh ấy cho đến thiên thu. Tôi nghĩ rằng chị đã lắng nghe,  thấu hiểu và cảm thông một tâm hồn thi nhân như anh ấy. Thơ chỉ là thơ. Đời thực mới là quan trọng, đúng không chị? Tôi đã rưng rưng khi đọc bài thơ anh ấy viết cho chị Tạ Lỗi cùng người vợ trẻ. Và nhớ câu nói của ai đó bất hủ: Phía sau thành công của người đàn ông là hình bóng của người đàn bà vĩ đại... Những năm tháng ấy, tôi phải gọi chị là Bồ Tát mới đúng. Bởi vì, chỉ có Bồ Tát mới cứu rỗi linh hồn thi sĩ có lúc đi hoang...
Anh Hạc Thành Hoa ơi!
Tôi rất vui khi thấy anh đã hoàn thành tốt thiên chức nhà giáo. Lừng danh một thi sĩ. Sống trọn nghĩa tình với vợ con. Thâm cảm bạn bè gần xa. Thế là hãy ngẩng cao đầu anh nhé. Nếu có đôi khi miệng đời suy diễn qua thơ thì không nên buồn và đừng chấp. Bởi vì tôi đã từng rơi vào hoàn cảnh như thế. Khi mình tận cùng đất đen chẳng ai ngó ngàng. Khi sáng sũa ra một tí là có kẻ ganh đường, ghét ngõ...(Tôi cũng đã làm tròn bổn phận của một người chồng yêu vợ, thương con. Giờ cũng ngẩng cao đầu mà đi).
Lần này (trong năm nay) chúng tôi nhất định về Cao Lãnh thăm anh chị. Nhất định tận hưởng hương đồng gió nội. Miên man với mùa nước nổi phương Nam. Yêu lắm hoa điên điển vàng trời Cao Lãnh...
THƠ HẠC THÀNH HOA
ĐÊM TRĂNG PHƠI ÁO
Ngày mai đã hết quần áo mặc
Một bộ diện gần cả tháng nay
Ta lười trời đất còn nể mặt
Thì sá gì đôi trận gió bay…
Nhưng đêm trăng sáng trăng huyền diệu
Gác trọ lòng không bóng mây vương
Bạn vừa đi khỏi trăng vừa tới
Đem áo quần ra giặt đỡ buồn.
Dưới bóng trăng mình ta một cõi
Đất trời im vắng giấc cô miên
Bên thau quần áo cao như núi
Nỗi buồn trong dạ cũng cao thêm.
Trăng soi từng chỗ cho ta giặt
Áo quần trắng toát một màu trăng
Vò từng chiếc áo nghe tim buốt
Lòng cũng sầu theo những nếp nhăn.
Ta ngồi nhìn bọt xà bông vỡ
Mỗi bọt tan theo một phiến trăng
Tiếng của đời ai đang nức nở
Giữa tiếng đêm thu mộng xế tàn.
Cố thức giặt cho xong quần áo
Ngậm ngùi vắt những ánh trăng trong
Trăng theo nước chảy về vô tận
Từng giọt trăng dư rụng xuống lòng.
Đêm nay phơi áo trên sân thượng
Phơi cả đời ta giữa quạnh hiu
Phơi cả hồn ta trong sương lạnh
Một trời trong vắt bóng trăng treo
Hạc Thành Hoa
TẠ LỖI CÙNG NGƯỜI VỢ TRẺ
Suốt đời đuổi bắt một vầng trăng
Chưa có được một lời ngợi ca người vợ trẻ
Mười mấy năm cơ cực là thế
Mà vẫn xem như một điều hết sức tự nhiên
Có phải em là một nàng tiên
Từ trong tranh bước ra lần nữa
Anh sống bằng đồng lương nhà giáo
Nên những câu thơ bay lên từ sợi khói thuốc rê
Tội thân em ngày hai buổi đi về
Tâm sự với nắng mưa sương gió
Em vẫn dịu dàng như cây lúa
Dù bây giờ đã nặng hạt oằn bông
Anh và hai con sẽ ra sao nếu thiếu em
Người nhạc trưởng dàn đồng ca nhếch nhác
Em vẫn là cánh trà mộc mạc
Không ướp hương hoa nhưng vị rất đậm đà
Sáng ra đi tối mịt mới về nhà
Chiếc xe đạp cũ không hề sơn lại
Dù bận rộn trăm công nghìn việc
Vẫn không quên mang về một bịch thuốc rê
Người xa nhau tính từng năm từng tháng
Mình xa nhau phải tính từng ngày
Đâu có ngờ sự thật hôm nay
Mình phải xa nhau nhiều đến thế
Một sáng ra thăm em ngoài chợ
Lại gặp nàng tiên bị đày đọa xuống trần
Em vẫn vui cuộc sống nhọc nhằn
Như lẽ thường có chồng con là cực
Anh làm thơ nghĩa là không làm gì khác được
Nên em càng khó nhọc bội phần
Khi ra về lòng thấy phân vân
Anh bất chợt bùi ngùi quay lại
Em vẫn như cây lúa thời con gái
Thương sao nụ cười lẩn với mênh mông
Nghĩ lại giận mình quá đổi vô tâm

Chưa có được một lời ngợi ca người vợ trẻ
Bên anh có một nàng tiên dịu dàng là thế
Mà cứ miệt mài đuổi bắt một vầng trăng
Hạc Thành Hoa
(Trích trong tập thơ Phía Sau Một Vầng Trăng in năm 1995)
TRÊN BỜ ĐÁ TÌNH NGƯỜI
Chồi vui chưa trổ cành không
Mù mưa giăng một nhánh sông âm thầm
Tình người bờ đá trăm năm
Sóng tình tôi cuộn trên dòng nước xuôi
Hang sâu chim ngủ phận người
Trơ vơ cột khói thở trời mây đen
Nẻo đời mai có còn em
Nhìn cây rủ bóng hồn im nắng tà
Ngại mây gió đuổi phương xa
Trời xanh sợi khói giăng qua bãi nào
Những ngày gió đợi trên cao
Trong mưa phố vắng bước sầu ngựa ô
Xe nào mai ngọn gió đưa
Chim quên tiếng hát nghe mưa xuống cành
Hạc Thành Hoa
(Trích trong tập thơ Khói Tóc in năm 1996)
Và thơ giao hòa: (Trích trong tập thơ Khói Tóc in năm 1996)
HẠC THÀNH HOA
NƯỚC ĐỤC
Gửi một người em không quen biết
Giọt lệ sầu ta tự buổi nào
Có vầng mây rớt trên hoang đảo
Ngồi đây mà khóc chuyện chiêm bao
Ngày về quê hẳn xa xôi lắm
Cọc đã chôn sâu dưới lòng sông
Mười năm không thấy con cá lội
Dải nước phù sa đục một dòng
Ở đây họ sống bình yên quá
Trăng sao là chuyện của đất trời
Gió mây là của người khờ khạo
Hạnh phúc đâu cần tìm kiếm xa xôi
Từng đêm ta thấy trăng, sao khóc
Ngày gió mây than thở với trời
Riêng ta cũng cầm lòng không đậu
Bởi chính vì ta cũng lẻ loi
Đến nay đã sống gần mấy kiếp
Bên một dòng sông lá mục nằm
Chỉ thấy hư không lên tiếng gọi
Đã mấy mùa đứng ngó mưa câm
Ở đây ta sống sống độc lắm
Đời vẫn như chiều thu lá bay
Dòng sông quen quá mà sao lạ
Ta vẫn người xa mới tới đây
Nay đã hơn mười năm thèm khát
Thèm áo em bay tiếng hát lưng đồi
Ngày vẫn lang thang cho quên đói
Đêm nghe sóng vỗ thấy bèo trôi
Ta như chiếc bóng trong gương đục
Mỗi ngày cơn bệnh cứ tăng thêm
Nằm đây đã mòn chăn rách gối
Để nghe thạch sùng chắc lưỡi đêm đêm
Ta lỡ chọn lầm căn gác hẹp
Chân mòn trên những lối đi quanh
Đến nay bóng tối càng thêm đậm
Bóng tối muôn đời vẫn lặng thinh
Bạn ta xa lắm nên nào biết
Sông thì đầy mà máu cứ dần vơi
Chiều chiều sóng nổi bùn đen dậy
Ngồi nhìn nước đục xót thương đời
Bạn ta cuộc sống u nhàn lắm
Sao ta còn nặng một chiếc gông
Áo cơm cứ níu chân mây lại
Làm sao chim hót nổi trong lồng
Ôi nợ áo cơm ghì sát đất
Quanh ta nước đục bợn lòng thơ
Những muốn rảnh rang mà trả nợ
Nợ gió trăng và nợ của sông hồ
Từng đêm mộng thấy mình hóa bướm
Thảnh thơi không vướng bận chi đời
Tỉnh dậy giận thân không bằng mộng
Trên nóc mùng treo một cánh dơi
Gửi một người em không quen biết
Thơ ta chưa cạn hết niềm đau
Đời ta nay đã tan thành mộng
Ai người sẽ khóc ta mai sau
(1973)
THƠ HỌA CỦA LÊ THỊ ÁI NIỆM
MỘT CHÚT TÌNH QUEN
(Gửi Hạc Thành Hoa để quen nhân đọc “Nước Đục” của người)
Đọc được thơ người lòng xao xuyến
Tưởng như quen biết tự ngàn năm
Nghe mây rón rén vào cơn mộng
Muốn đạp đất trời để đến thăm
Người bỏ xa quê lâu quá nhỉ
Mười năm người nhớ một dòng sông
Còn em từ thuở rời tay sách
Quê cũ đìu hiu nước mấy dòng
Người ở quanh ta dù hờ hững
Có trăng sao làm bạn tình say
Một sáng trời hồng, hong tóc biếc
Mình đâu ngờ hạnh phúc ở trong tay
Từng đêm người thấy trăng sao khóc
Trời bỗng buồn hiu ở phương này
Tóc dài không buộc chân người được
Chỉ thấy đêm sầu trăng lặng soi
Thời gian em không nghe dài nữa
Tự một đêm nao đọc thơ người
Nghe người cười khóc trên trang giấy
Đã níu hồn em rách tả tơi
Người sống phương trời như lá gió
Quen dòng sông mà lạ dòng sông
Bởi nước trôi hoài không đứng lại
Hay lá còn chờ ngọn thu phong
Muốn vướng chân người tà áo lụa
Sẽ hát người nghe buổi đói lòng
Người sẽ quên đi đời đen trắng
Quên thân bèo sóng vỗ long đong
Sẽ khóc thương người như đã khóc
Thương mình khi thấy bóng gương soi
Muốn đến thăm người khi người bệnh
Nhưng phương trời mù mịt tăm hơi
Gác hẹp người về khi ấm lạnh
Em ước ao là giọt nắng cuối mùa
Soi sáng tình người xua bóng tối
Bởi đời người đã trải lắm thiệt thua
Sông đầy nhưng máu người là biển
Chở mấy dòng sông trở lại nguồn
Em mơ một thuở dừng chân lại
Xõa tóc bên cầu để nhớ thương
Nợ cơm áo níu chân người lại
Tiếng hát người vang mãi đến đây
Gông dù nặng không buộc thơ người được
Bởi hồn người ẩn nấp trong mây
Rồi một sáng chim về mở hội
Mặt trời hồng soi bóng sông xanh
Sẽ kể người nghe cuộc đời ấm lạnh
Giấu sau tay và sau trái tim hồng
Mộng cũng muốn mình là Trang Tử
Mặc tình người xuôi ngược bon chen
Nhưng nước mắt có trong nhịp thở
Máu ưu phiền đã thấm nửa tim quen
Thương một chút tình tìm tri kỷ
Mười năm dài có thấm vào đâu
Suốt một kiếp người chưa chắc được
Đời thả mơ về phố Hợp Châu
Gửi đến người mong manh giọt nắng
Chiều âm thầm chở chuyến ngày qua
Phương trời đó héo hon cánh Hạc
Thơ của người đã hé nụ thành Hoa
LÊ THỊ ÁI NIỆM
(1973)
Tiểu sử HẠC THÀNH HOA:
Hạc Thành Hoa, tên thật Nguyễn Đường Thai. Sinh quán tại Xuân Phổ, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Giáo sư Việt văn Trung học Sa Đéc, Lương Văn Can Quận 8, Cao Lãnh. Anh làm thơ từ năm 1961, đã đăng nhiều thơ trên các báo, tạp chí văn học miền Nam trước năm 1975.
Tác phẩm đã xuất bản:
– Trong nỗi buồn vàng (Nguyễn Đình Vượng, tạp chí Văn Sài Gòn - XB - 1971).
– Một mình như cánh lá (Giao điểm Sài Gòn xuất bản 1973), (Thư ấn quán, Hoa Kỳ tái bản 2006).
– Phía sau một vầng trăng (NXB Thanh niên - Hà Nội - 1995).
– Khói tóc (NXB Lao động - Hà Nội - 1996).
– Tuyển Tập Thơ Hạc Thành Hoa (NXB Văn Học - 2013)
Trần Dzạ Lữ
Hình 1: Hình Hạc Thành Hoa 
gửi tặng TDL năm 1997
Hình 2: Chữ ký Hạc Thành Hoa
Hình 3 và 4: Thư viết tay Hạc Thành Hoa gửi TDL
PHẦN 26
NGUYỄN NHƯ MÂY - THƠ CHÍNH LÀ NGƯỜI
Đúng như cái tên Nguyễn Như Mây. Cả đời anh sống, đi và viết thật cân bằng bởi đam mê văn chương đến tận cùng... Biết nhau trước năm 75 qua thơ văn trên các tạp chí văn học ở SG nhưng mãi đến thập niên 80 tôi mới quen anh. Đó thời chưa mở cửa, đi lại rất khó khăn... Do tôi phải kiếm sống bằng nghề bất đắc dĩ: ”Mua bán răng vàng bạc vụn” mà nhà thơ Bùi Chí Vinh có bài thơ Ve Chai Hành... vậy nên, tôi phải leo xe đò ra Phan Thiết. Việc đầu tiên là ghé thăm nhà thơ Nguyễn Như Mây. Nhà anh ở trên đường Lê Hồng Phong (Gần Ga Xe Lửa)... Lúc tôi gõ cửa và xưng tên, anh à lên một tiếng. Thì ra là TDL.
Anh mời tôi ở lại một đêm. Một đêm mà bằng cả bao nhiêu ngày tháng cho tâm sự đầy vơi. Anh đọc thơ, hát nhạc cho tôi nghe rồi kể chuyện về Phan Thiết (tp có mùi hăng hăng của mắm mặn, chỉ thiếu gừng cay), về bạn bè văn nghệ ở đó như Nguyễn Bắc Sơn (đã qua đời), Từ Thế Mộng (đã qua đời), Lê Nguyên Ngữ, Hồ Việt Khuê, Phan Anh Dũng, Nguyễn Thị Liên Tâm... Anh cũng không quên giới thiệu về người vợ hiền thục, đảm đang của anh. Nhờ “hậu phương vững mạnh” của chị ấy mà anh yên tâm viết lách (trường hợp của anh khiến tôi nhớ đến anh Trần Phong Giao, Dương Nghiễm Mậu, Phong Sơn, Nguyễn Tôn Nhan, Vũ Ngọc Giao... Những người vợ trời cột vào đời văn nghệ sĩ, nếu không như thế thì...) Tán hết chuyện văn nghệ đã hết bình trà Bảo Lộc ngon, Nguyễn Như Mây châm tiếp trà. Lúc này, bệnh nghề nghiệp nổi lên trong tôi. Tôi kể về những kẻ thất thời phải kiếm sống bằng nghề ve chai như Nguyễn Ước, Phù Hư, NTT Đại Đế, Kim Hoa Bà Bà, Sơn Quăn, Mộng Diệp... Sau đó không quên gợi ý anh có gì trong nhà bán cho tôi. Moi trí nhớ một hồi Nguyễn Như Mây à lên: Mình có mấy đồng bạc Pháp. Như buồn ngủ gặp chiếu manh tôi hỏi dồn đâu anh đâu anh? Mấy phút lục lọi, anh mang ra 4 đồng bạc (cở lớn) có hình bà đầm xòe mang niên hiệu 1802.Tôi nói giá mua và đưa tiền. Anh khoát tay từ chối. Mình tặng cậu. Thế là tôi trúng mánh, sẽ có tiền đong gạo cho vợ con cũng 4, 5 ngày. Tôi lí nhí cảm ơn anh. Hết đêm Phan Thiết, sáng tinh mơ chia tay nhau bằng một chầu cà phê rồi tôi tiếp tục cuộc săn lùng răng vàng bạc vụn... Đó là kỷ niệm đẹp mà tôi khó quên.
Thế rồi, đường đời, mỗi người một ngả. Suối cứ trôi và sông cứ chảy theo định phận của mình. Mãi đến năm 2000 tôi mới gặp lại Nguyễn Như Mây khi anh đi Hon Da từ Phan Thiết vào Tp dự buổi ra mắt tập san Quán Văn ở quán Cà phê Lọ Lem nằm trên đường Nguyễn Trọng Tuyển. Vẫn con người ấy, vẫn phong cách ấy tuy thời gian có làm anh già đi đôi chút và bệnh đau xương khớp không tha anh. Tuy thế, anh vẫn say sưa làm thơ và đi phượt khắp mọi miền. Mới đây anh gửi qua bưu điện tặng tôi 2 tập thơ anh chép tay. Thời buổi này in ấn nhanh và đẹp, anh vẫn chọn cách chép tay thơ mình trên giấy. Chữ viết đẹp không thua gì chữ viết của nhạc sĩ TCS và lòng thì trân trọng khi ký tặng. Tôi thật quý phục anh. Anh còn nói mình sắp đi Huế bằng xe Hon Da. Về thăm thần kinh thơ mộng của bạn đấy. Tôi nói sao anh liều thế. Anh nói mình quen rồi... Trong đời tôi 2 điều tôi không làm được là đi phượt và cặm cụi trên trang viết cho đến già bằng thủ công mà anh thì làm được và làm giỏi nữa kìa. Nguyễn Như Mây, tên anh cũng chính là định mệnh của thi sĩ.
Theo Thi Viện.Net thì tiểu sử của Nguyễn Như Mây như sau:
Nguyễn Như Mây tên khai sinh là Nguyễn Dục, sinh năm Kỷ Sửu (1949) tại Phan Thiết, nhưng nguyên quán của ông ở làng Gò Bồi, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định (quê ngoại nhà thơ Xuân Diệu) còn mẹ quê ở Hội An. Ông là một trong những nhà thơ kỳ cựu của đất Phan Thiết, Bình Thuận, cây bút quen thuộc của các tạp chí Bách Khoa, Khởi Hành, Đối Diện... trước 1975. Thơ ông bàng bạc chút mây, chút gió nhưng ăm ắp sự suy tưởng và tràn đầy thân phận, tình cảm.
Cả tuổi thơ ông và đến lúc học hết tú tài 1 ở trường Phan Bội Châu, Nguyễn Như Mây gắn bó với Phan Thiết. Đến cuối những năm sáu mươi của thế kỷ trước, ông vô Sài Gòn học và lấy bằng tú tài 2. Cũng từ đây, Nguyễn Như Mây bắt đầu thời kỳ thanh niên sôi nổi của mình khi tham gia sinh hoạt ở Tổng hội Sinh viên Học sinh Sài Gòn…
THƠ CÓ NHAN ĐỀ CỦA NGUYỄN NHƯ MÂY
LƯU BÚT HỒNG
Tóc con gái đợi ngày hè đến
Nghiêng nửa vai để thấy môi hồng
Rủ nhau ngồi trắng hết bờ sông
Và chép tặng những lời hoa cỏ.
Ai cũng hái theo cành phượng đỏ
Để hoá trang nhân vật của mình
Chín mười năm ngồi ghế học sinh
Giờ lưu bút, viết sao cho hết!
Nước mắt ai để dành trong viết
Chờ thả dòng mực tím bâng khuâng
Nắng chiều hè rưng rức bên sông
Quên nhuộm tím áo dài bè bạn
Chưa bao giờ bọn mình hò hẹn
Để rồi cùng đưa mắt nhìn nhau!
Ai viết xong trước, hãy chiêm bao
Cho lưu bút lắng hồn mực tím.
Ai còn cầm viết và bịn rịn
Xin trao mình một nửa môi cười
Còn nửa kia... mai mốt xa xôi
Đành gói nửa vầng trăng thương nhớ...
Nguyễn Như Mây
CHÂN DUNG MỘT CHỦ QUÁN
Quán không có khách, quán buồn
ly không bàn ghế trống trơn đèn màu
tôi không có khách, chẳng sao!
vẫn phì phèo điếu thuốc nâu với mình
vẫn làm từng ngụm rượu quen
quen tay nâng cốc, quen nhìn đêm khuya
quen mình còn chỗ đi về
thân phù du trễ chuyến xe... cười khà!...
Nguyễn Như Mây
NHẮN TRỜI MƯA
Khi không trời đổ mưa rào
Làm tôi ướt một chút màu bâng khuâng
Phải chi trời ở thật gần
Để tôi nhắn trước mỗi lần muốn mưa
Rằng ông đừng giả ngây thơ
Đôi khi tôi hẹn đem mưa cản đường
Nhớ giùm tôi: lúc yêu thương
Bao nhiêu giông bão chẳng sờn lòng tôi!
Mưa to hơn nữa đi trời
Đây qua hàng xóm sẽ ngồi tới khuya...
NNM
VÀ THƠ KHÔNG ĐỀ:(Trích từ 2 cuốn thơ chép tay của NNM)
Tôi chào tôi ở trong gương
Hằng ngày gặp mặt nên thường chào nhau
Tôi chào tôi ở trên cầu
Bóng ai dưới nước, nhìn sao giống mình?
Tôi chào tôi suốt ngày đêm
Cả trong giấc ngủ cũng nhìn thấy tôi!
Làm sao quên được con người
Đóng hai vai suốt một đời nhân sinh?
Bao giờ tôi hết gặp mình?
Tôi không biết!... kìa, lại nhìn thấy nhau...
Trên sông Mường Mán tôi về
Neo thuyền ngủ với đêm hè đầy trăng
Hai bên bờ gió lang thang
Rủ tôi uống chút trăng vàng, rồi say
Lúc sương khuya đã đầy vai
Tôi và sông chẳng biết ai thấm buồn...
Khuất sâu trong ngàn lá
Khuất hết tận ngàn hoa
Ta muốn khuất cả ta
Sau chỗ ngồi đã khuất
Sau bóng đời hun hút
Ly rượu vừa Hoàng hôn...
Nguyễn Như Mây
Trăng ở đâu cũng có bởi TCS nói: Từ khi em là Nguyệt... Nguyệt chính là Trăng. Trăng trong thơ Lý Bạch, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Như Mây đều tuyệt thú trên ngọn đỉnh trời. Có lần tôi về Phan Thiết một mình nhìn trăng nơi Lầu Ông Hoàng nửa khuya đẹp đến nao lòng... Trăng ở đâu cũng diễm lệ nhưng trăng ở Phan Thiết, Quy Nhơn có gì đó luôn vẫy gọi tôi rất... Hàn Mặc Tử! và tôi phải nghe đi nghe lại bản nhạc của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh viết về thi sĩ HMT mà rưng rưng... (... Lầu Ông Hoàng đó thuở nao chân Hàn Mặc Tử đã qua. Ánh trăng treo nghiêng nghiêng bờ cát dài thêm hoang vắng...)
Trần Dzạ Lữ

Hình 1: Nhà thơ Nguyễn Như Mây 
Hình 2 và 3: 2 tập thơ chép tay của NNM
Hình 4: Chữ viết của Nguyễn Như Mây
PHẦN 27
HỌA SĨ ĐỖ DUY NGỌC - NGƯỜI TÌNH CỦA HỘI HỌA VÀ VĂN CHƯƠNG
Đỗ Duy Ngọc - Họa Sĩ, Sinh tại Quảng Bình - Bắc Trung phần - Việt Nam. Di cư vào Quảng Trị năm 1954, sau đó vào Huế ở một thời gian ngắn và năm 1956 định cư ở Đà Nẵng. Học Mỹ Thuật, Đại học Văn khoa Sài Gòn ban Triết, Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn ban Việt Hán. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài gòn. Là thành viên ban chấp hành Đoàn văn nghệ sinh viên Đại học Vạn Hạnh từ 1972-1975, phụ trách mỹ thuật. Trước 1975, cộng tác với nhật báo Đại Dân Tộc và Sóng Thần, vẽ bìa sách cho nhiều nhà xuất bản và thiết kế sân khấu. Đã triển lãm tranh tại Hội Việt Mỹ Sài gòn, Đại Học Vạn Hạnh, Đường Sơn Quán (trước 1975). Du học Mỹ thuật ứng dụng tại Pháp. Sau 1975: Dạy văn chương các trường phổ thông trung học Năm 1995 bỏ nghề dạy học, hành nghề tự do. Từ 1980 trở lại với nghiệp vẽ bìa sách và thiết kế lịch, đã vẽ hàng ngàn bìa sách và đã nhận được nhiều giải thưởng bìa sách đẹp của Bộ Văn Hóa Việt Nam. Thường sáng tác tranh sơn dầu và đã được các nhà chơi tranh các nước Ý, Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Anh, Hòa Lan sưu tập. Là người có nhiều đồng hồ cổ nhất Việt Nam và Châu Á. Được Guiness Việt Nam công nhận năm 2003. Trong công trình văn hóa Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh do giáo sư Trần Văn Giàu chủ biên, Đỗ Duy Ngọc tham gia viết bài Nghệ thuật chạm khắc gỗ Sài gòn, Chợ Lớn, Gia Định trong cuốn 3: Nghệ thuật. Thành lập nhóm Nghệ thuật Breathing Eyes: quy tụ nhiều nghệ sĩ nhiếp ảnh trong và ngoài nước. Sống bằng lao động nghệ thuật, không lãnh lương của nhà nước và tổ chức nào. Hiện sống tại Sài gòn với vợ và 3 con trai (Trích tiểu sử).
Từ thập niên 70 tôi đã biết và gặp gỡ Đỗ Duy Ngọc trong những ngày phép từ quân trường Thủ Đức về lang thang ở khu đại học Vạn Hạnh (Nay là trường Sư Phạm). Lúc này anh đang học văn khoa và triết. Chúng tôi thường ngồi quán cà phê trước trường giao lưu về hội họa, thơ văn... Có khi anh rủ tôi về nhà trọ của anh ở đường Trương Tấn Bửu (nay là Trần Quang Diệu). Vì là dân văn nghệ nên luôn giắt lưng sách. Có khi là sách dịch của Bùi Giáng ký tên là Vân Mồng. Có lúc là sách dịch về nhà văn Nga Dostoievsky. Lại có lúc là thơ của Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên hoặc truyện của Mai Thảo, Nhật Tiến... kể cả Cô Gái Đồ Long của Kim Dung. Chúng tôi ghiền luôn nhà văn, triết gia hiện sinh Jean-Paul Sartre người Pháp. Phải nói là chúng tôi rất nể lớp văn nghệ sĩ 54. Trang viết của họ luôn đầy ắp khám phá và sáng tạo.. sau đường đi vững chải của Tự Lực Văn Đoàn mà chúng tôi từng yêu mến. Đỗ Duy Ngọc rất chân tình và quý bạn bè. Bẵng đi một thời gian dài vì tôi ra trường về đơn vị mới, anh đi dạy học... Đến thập niên 80 gặp lại nhau thì nghe anh bỏ dạy để theo nghệ thuật vẽ tranh sơn dầu và làm bìa sách. Tranh của anh được nhiều nước sưu tập. Đặc biệt ký họa của anh cũng tài hoa. Sống tự do với nghệ thuật nên anh đi đây đi đó cũng nhiều. Sống được, sống khỏe như anh kể ra thật thú vị. Năm 1995 khi tôi ra tập thơ đầu tay HDBT, anh là người mua thơ giá ủng hộ còn vận động thêm một số bạn bè của anh mua nữa. Nói ra điều này để hiểu thêm về một tâm hồn cởi mở đáng trân trọng như anh. Rồi năm tháng trôi qua, lặn hụp trong dâu bể... với trải nghiệm và đam mê nghệ thuật, trái tim và khối óc anh ngày càng giàu có hơn, bởi không chỉ vẽ tranh, sưu tập đồng hồ cổ, mà anh còn làm thơ, viết truyện và viết những bài nhận định, tản mạn về cuộc sống và xã hội cũng sắc bén như dao... Do vậy, thân xác anh thì ngày càng nhỏ thó lại. Mới đây gặp nhau trò chuyện trước chùa Vĩnh Nghiêm anh kêu bệnh xương khớp hành hạ anh... Hèn gì, mất đi dáng vẻ to, khỏe, đẹp đẽ ngày nào. Dù vậy, tư chất Đỗ Duy Ngọc vẫn còn long lanh trong đôi mắt anh. Và tôi hiểu rõ hành động của anh với đời, với gia đình, bè bạn... luôn mang tính nhân văn. Tuy ít gặp nhau trong những lúc bù khú, nhưng Đỗ Duy Ngọc là người bạn thường hằng trong tôi bởi anh chính là người tình của hội họa và văn chương... Anh vẽ tranh và viết nhiều thể loại. Tôi chỉ có thể giới thiệu với ACE một số ít tác phẩm của anh:
Ký họa:
Trần Dzạ Lữ qua ký họa của Đỗ Duy Ngọc
TRANH SƠN DẦU:


TRUYỆN NGẮN
THẰNG CU TY
Đỗ Duy Ngọc.
Nhà hắn cách nhà tui khoảng năm ba căn, ở phía đối diện. Đó là nhà của bà Bốn Ù, nhà hắn ở thuê. Bà Bốn có chồng là thượng sĩ Bốn, chắc là mãi đi hành quân đâu đó, lâu lâu mới thấy về. Căn nhà nhỏ, ẩm thấp. Bố mẹ hắn là dân di cư năm tư, làm nghề mổ gà bán ngoài chợ Cồn, một ngày làm cả thau gà, chọc tiết, vặt lông nhanh như gió. Bố hắn là lính theo Tây, bị thương ở Điện Biên Phủ, cụt mất một giò, hàng xóm gọi là ông Ty què. Bởi hắn tên Ty. Tụi tui gọi hắn là Cu Ty. Bố hắn là lão gìà cọc cằn, luôn mồm chửi rủa, ăn nói như chọc vào mặt người ta, nên cũng chẳng mấy người ưa.
Hắn thua tui khoảng một hai tuổi, nhưng cao nhồng, mặt đầy mụn trứng cá. Hắn hiền vô cùng hiền, ít nói và không bao giờ gây sự với ai. Hồi mới lớn, tụi tui chia phe đá bóng, hắn chỉ đứng xem, chẳng bao giờ tham gia. Hắn đứng xem với một tác phong rất nghiêm chỉnh, vòng tay trước ngực, người đứng thẳng như pho tượng, thấy vui thì tủm tỉm cười vu vơ. Thế nhưng khi tụi tui bất hoà, tranh cãi vì lí do nào đấy, là có mặt hắn ngay. Hắn nói chuyện như ông già, khuyên bọn tui không gây nhau, giải hoà mọi chuyện bằng một giọng nói nhẹ nhàng mặc dù hắn nhỏ tuổi hơn tụi tui. Thế mà, thường là bọn tui nghe hắn, vì hắn nói có lí, phải trái phân minh. Xử xong, hắn lại vòng tay, đứng im như cũ, nhìn mọi người rồi tủm tỉm cười.
Có một thời, tụi tui tưởng hắn có vấn đề về thần kinh, nhưng không phải. Chẳng qua trời sinh bản tánh nó khác người, trưởng thành sớm, chín chắn trước tuổi thôi. Khi tụi tui tới tuổi trưởng thành, bắt đầu biết o bế đầu tóc, lưu tâm đến cái áo, cái quần cho hợp mốt, thì nó vẫn thế, vẫn chiếc áo vải thô màu cháo lòng cổ bẻ, cái quần ka ki ngắn đưa hai mắt cá chân. Tụi tui tụ họp nhau đầu ngõ, nhìn các cô gái hàng xóm mới lớn đi qua để phẩm bình, để buông lời trêu ghẹo, thì hắn vẫn đứng nghiêm như tượng, tay vòng trước ngực, chẳng có lời nào. Hắn không để ý đến phụ nữ, đối với hắn, đàn bà, cô gái, trẻ em đều giống nhau, đều phải trân trọng và đem tình thương đến cho họ một cách bình đẳng. Cho nên hắn đối xử với phụ nữ rất lễ phép và kính trọng, dù đó chỉ là một đứa bé. Nhìn cách đối xử của hắn, bọn tui chỉ cười, riết rồi quen, cũng chẳng ai để ý nữa.
Chiến sự càng lúc càng căng thẳng, lũ tụi tui lần lượt vào lính, thằng nào còn được đi học thì được hoãn dịch. Hắn là con một, bố mẹ có tuổi, nhà hắn lại chịu chi tiền nên hắn được ở nhà, khỏi nhập ngũ. Tui ra Huế học, vài tuần lại vượt đèo về nhà lấy viện trợ, thấy hắn vẫn thế, chiều chiều lại thấy hắn ngồi thiền trước sân nhà, chẳng biết hắn học trò đó ở đâu.
Thời điểm này, quân đội được tăng cường, lính Mỹ xuất hiện càng nhiều, khu tui ở bỗng dưng biến thành xóm đĩ nổi tiếng vì có ba bốn nhà thấy nghề chứa đĩ có ăn, lần lượt biến thành nhà thổ. Đĩ thời đó đa số là ở quê ra, gia đình túng bấn mà biến thành đĩ. Cũng có một số là dân chơi, trôi giạt bốn phương tụ về thành đĩ. Nhiều lần từ Huế về, tui bắt gặp cả đàn bảy tám cô son phấn loè loẹt ngồi đầu ngõ, thấy tui mang túi xách, tưởng khách xa đến, kéo tay chào mời công khai, tui phải chạy một mạch về nhà. Tui kể mạ tui nghe, mạ tui dạy tui là đừng gọi mấy cô này là đĩ, họ vì hoàn cảnh đưa đẩy thôi, chứ làm nghề này họ cũng chịu nhiều đau đớn lắm. Nhưng không gọi họ là gái đĩ thì biết gọi bằng gì? Mạ tui cũng bảo rằng, chỉ có những người đàn bà không sống bằng nghề này, mà ngủ hết người này đến kẻ khác, phá hại gia cang của người ta, loại ấy mới gọi là đĩ. Bởi vậy, lần nào về cũng bị chọc ghẹo, nhưng tui chẳng giận mà cũng thấy tội cho họ, sống làm vợ khắp người ta, chết xuống âm phủ làm ma không chồng.
Tui vẫn hay gặp hắn, thằng Cu Ty, hắn vẫn thế, không đổi, chỉ thấy cao hơn, cao nhồng, chắc hơn thước tám, thời đó thế là cao lắm. Gặp tui, hắn toàn nói chuyện tha thứ, nhẫn nhịn, ban phát yêu thương. Nhiều khi tui cứ ngỡ hắn là mục sư Tin Lành, hay sư trụ trì chùa nào đó. Hắn vẫn thánh thiện một cách thơ ngây và hồn nhiên như đứa bé, sự hồn nhiên của một đấng tu hành.
Thế mà đùng một cái, tui được tin hắn có vợ. Người hắn lấy làm vợ là cô gái làm đĩ ở động ông Vấn, cách nhà hắn bảy tám căn. Tui ngạc nhiên ghê lắm, hắn vốn không để ý đến đàn bà, lại hay nói cái sắc đẹp bên ngoài của phụ nữ chi là che dấu bộ xương ghê tởm ở bên trong. Bây giờ hắn lấy vợ, ừ thì cũng được đi, đến tuổi thì phải có gia đình, quy luật của đời sống mà. Nhưng mà sao hắn lại lấy một cô làm gái mà mọi người đều biết rõ. Lạ thật, chẳng hiểu nổi! Bố mẹ hắn giận ghê lắm, bố hắn vác cây đuổi cô vợ hắn chạy khắp xóm, đuổi không biết bao lần, nhưng rồi hắn lại dẫn về, quỳ mọp giữa nhà, không ăn uống, cầu xin bố mẹ hắn cho hắn được toại nguyện. Hắn là con một, kẻ nối dõi giòng họ nhà hắn, bố mẹ hắn sợ hắn chết, đành lòng nhắm mắt làm ngơ. Nhưng để khỏi gai mắt, thuê cho vợ chồng hắn căn phòng nhỏ phía sâu trong ngõ, mẹ chồng nàng dâu khỏi khó chịu với nhau.
Ban đầu thì thấy cũng có vẻ hạnh phúc. Sáng sáng hai vợ chồng ra quán bà Sáu. Vợ một ly cà phê sữa, chồng một ly cà phê đen. Vợ phì phèo điếu Salem, chồng tủm tỉm cười nhìn thiên hạ. Trưa một chút, chồng chở vợ ra chợ Cồn, vợ ngồi đó kiếm mối hàng ăn cắp từ PX Mỹ, mua đi bán lại, hồi đó ở chợ Cồn đầy hàng hoá như thế. Đến giờ cơm, vợ vào quán, gọi cơm gà, cơm thịt heo quay tuỳ bữa, còn Cu Ty ở nhà, ăn rau vì hắn không ăn được thịt, chỉ biết ăn rau quả. Thật ra ai cũng biết vợ hắn ra chợ cho vui, có buôn bán chi mấy đâu. Nguồn sinh hoạt của gia đình hắn là do mẹ hắn chu cấp, bởi mẹ hắn thương con, không muốn hắn phải túng thiếu, buồn lo. Nhiều khi may mắn tụi bạn cũ đôi ba thằng gặp nhau, cứ thắc mắc không biết đêm về, hắn có biết làm nghĩa vụ đàn ông với vợ hắn không. Có thằng lại bảo, chúng mày đừng quên vợ hắn là gái giang hồ, biết bao kinh nghiệm giường chiếu, dạy cho hắn mấy hồi.
Nhưng rồi chúng nó sống với nhau chẳng được bao lâu, nghe đâu năm sáu tháng chi đó. Bởi con vợ cứ than buồn, cô ta nhớ những trận cười thâu đêm suốt sáng, những ván bài suốt đêm thâm cả mắt, những li rượu làm nóng ran cả châu thân, những ve vuốt của những gã đàn ông, những lời thì thầm đường mật. Cũng có nhiều lúc nhục, nhưng có lắm đêm vui. Sống thế mới gọi là sống. Sống với anh Cu Ty thì êm ấm đấy nhưng buồn tẻ quá, thân xác cũng chẳng được đáp ứng những cơn thèm khát thình lình của thói quen. Cô đi. Hắn gói ghém áo quần cho vợ vào va li, đưa cho vợ một số tiền rồi dẫn đến tận cửa động bà Vấn mà làm cuộc tiễn đưa. Chẳng có một lời trách móc, chẳng có chút giận hờn. Ai cũng bảo hắn là ông thánh. Vợ hắn cũng bảo hắn là ông thánh, ổng tốt quá nên không ở chung được khi mình đã là con quỷ.
Hắn lại về ở với bố mẹ, bố mẹ hắn là người vui nhất, mừng nhất. Ông bà vào chùa cúng tạ ơn trời Phật đã giúp cho con trai xa lìa được quỹ dữ. Hắn lại sống chẳng khác xưa, sáng đứng nhìn mặt trời, chiều ngồi thiền, cũng chẳng tìm việc chi làm ăn dù thân đã gần 24 tuổi.
Người ta đồn bố mẹ hắn trúng số triệu đồng khi thấy bố mẹ hắn mua cái nhà lầu ba tầng ở đầu ngõ. Căn nhà của ông Đại uý Hiền, ông ta đổi vô Sài Gòn, bán gấp. Nhà rộng, bố mẹ nghe theo lời hắn, làm một cái bàn thờ Phật thật lớn ngay giữa nhà, đèn đuốc lúc nào cũng sáng choang, nhang trầm lúc nào cũng nghi ngút. Hàng xóm lại râm ran hắn đi tu, sáng sáng chiều chiều thấy hắn đọc kinh rất thành tâm. Bố mẹ hắn hàng ngày vẫn chọc tiết hàng trăm con gà cho mấy quán phở, quán ăn và bán lẻ ở chợ. Đôi khi cũng thấy ông bà cũng mặc áo lam, ngồi tụng cùng con. Bố mẹ hắn thấy hắn siêng năng tu hành, cũng mừng, ông bà cứ thấp thỏm sợ chuyện ngày xưa tái lại.
Nhưng sự đời éo le, sợ nhưng rồi cũng không tránh khỏi. Một buổi chiều đẹp trời, thấy hắn chở về một cô, đầu uốn quăn nhuộm vàng, môi tô đỏ, mắt vẽ xanh lè như gái Mỹ. Trên xe cồng kềnh mấy cái va li. Chưa nói gì, mẹ hắn đã ngất. Bố hắn trợn tròn mắt như có lửa. Hắn cũng quỳ mọp như xưa, xin bố mẹ đồng tình cho cô này làm dâu, làm vợ. Hai ông bà già biết nói cũng bằng thừa, lẳng lặng lên lầu. Từ ngày đó hắn lại có thêm cô vợ mới. Hàng xóm đâu để yên, chia nhau đi điều tra. Hoá ra cô này là vũ nữ ở một bar chỗ ngã năm, hơn ba chục tuổi rồi, đã có một đứa con lai Mỹ, gởi đâu đó.
Thế là cảnh cũ lại tái hiện, sáng sáng người ta lại thấy vợ chồng hắn ở quán bà Sáu, vợ ly cối cà phê sữa, trên môi điếu Camel, chồng cà phê đen, tủm tỉm cười. Sau màn cà phê là ăn sáng, lần nào cũng gọi vài món đầy bàn mới thoả chí. Nhưng cô này khác cô trước, cà phê xong là bắt đầu gây độ đánh bài. Độ bài có cả đàn ông lẫn đàn bà, cô ngồi đưa vú lồ lộ, ngã ngớn bên này, cười nói bên kia đùa giỡn với đám đàn ông, mà toàn nói tục tĩu xa gần rồi cả đám cười hô hố. Cu Ty vòng tay đứng nhìn một lát rồi lẳng lặng ra về, lo chuyện cơm nước ban trưa cho riêng mình. Cả xóm, nhất là mấy mụ đàn bà gai mắt lắm. Cứ gặp mặt là liếc là háy là nguýt, chửi lầm bầm trong miệng thôi. Nhưng khó chịu lắm, lúc nào cũng ngay ngáy có ngày nó mồi chài luôn chồng mình. Bởi con mắt nó lẳng quá , tướng đi nó dẻo quá, cái vú nó đong đưa, cái mông nó nây nẩy. Ai cũng lo. Rồi từ gây sòng ở quán, cô ta dời sòng về nhà. Bố mẹ hắn chỉ biết kêu trời, đứng hàng hiên mà gào mà khóc, bố nó thì lấy nạng cứ gõ vào sàn, mắt như bật máu.
Từ bài bạc, dẫn đến rượu chè, nhiều đêm kéo dài qua nửa đêm mới tan hàng. Cô này thâm hiểm và mưu mô hơn cô trước nhiều. Cô trước bố mẹ hắn có chửi cũng im, đánh thì chạy. Cô này dễ gì, mẹ hắn vừa mở miệng than phiền là vợ hắn nhảy vào họng làm một tràng khiến bà cụ muốn nín thở, đành thua. Vợ hắn lại hay đi đêm, lâu lâu có mấy lão già, mấy cậu thanh niên nhìn có vẻ dân chơi đến chở đi thâu đêm. Có khi đi vắng cả vài hôm. Hắn cũng chẳng nói gì. Bởi vợ hắn bảo ở nhà lâu cũng buồn, mà vợ hắn là chân đi, chân nhảy, dân vũ nữ mà. Vợ hắn không chịu được không khí êm ắng, vợ hắn ghiền tiếng cười, tiếng nhạc xập xình. Vợ hắn thích thú khi đêm đêm được chở ra xa lộ, gió thổi bung tóc, rượu tràn môi, nói cười cho thoả chí. Hắn không làm được chuyện đó, nên cứ để cho vợ được vui.
Đi chơi suốt thế nhưng vợ hắn ít khi về thăm con, lâu lắm hoạ hoằn thị mới ghé lướt qua rồi đi. Thế nhưng đêm nào rượu say cũng gào lên nhớ con bé quá, khổ thân con bé quá!!!
Mẹ hắn thì đêm đêm ra sân thắp nhang trước bàn thiên mà lẩm bẩm tai hoạ, tai hoạ, mong sao thoát được kiếp nạn này.
Và tai họa đã đến thật. Sáng ông bà chở nhau đi giao hàng, đàng sau cồng kềnh mấy thau gà làm sẵn, tránh chiếc xe Lambretta đàng trước, bị chiếc xe nhà binh đi đàng sau chèn nát bét. Bố hắn chết ngay, mẹ hắn chết ở nhà thương. Mấy hôm đám ma, trong nhà ê a tiếng tụng kinh của mấy thầy chùa, ngoài sân con vợ hắn vẫn gày sòng và độ nhậu. Nó bảo chết cũng chết rồi, người sống phải vẫn vui vì cuộc đời chẳng biết chết lúc nào. Mọi người giận lắm nhưng chẳng biết tính sao vì cô ấy dữ còn hơn hổ, chả ai dám vướng vào, rách việc.
Bốn chín ngày vừa xong thì vợ hắn dẫn về một đứa bé lai, bảo từ nay cho mẹ con được gần gũi nhau. Con bé dễ thương lắm, tóc vàng hoe, mũi cao, da trắng hồng, đôi mắt xanh biếc nhìn như con búp bê. Con bé sợ mẹ lắm, cứ nhìn thấy mẹ là người co rúm lại, nhìn chung quanh như cầu cứu.
Hắn có bao giờ cãi vợ đâu, nên đương nhiên là hắn bằng lòng. Mọi người ai cũng nghĩ cặp này chắc cũng giống trước, vài tháng là tan hàng. Nhưng không, kéo dài khá lâu và quyền sinh sát, mọi toan tính đều nằm trong tay bà vợ. Trước tiên là cô ta đề nghị bán nhà lớn, mua cái nhà nhỏ gần đó, lấy tiền gởi Việt Nam Thương Tín, lấy tiền lời sống. Ban đầu hắn không đồng tình, lần đầu tiên người ta thấy nó cãi cọ, nhưng vẫn cái giọng nhỏ nhẹ thường ngày. Hắn bảo nhà của bố mẹ, không thể bán được và hắn cương quyết giữ lập trường. Nhưng hai tháng sau, căn nhà có chủ mới, vợ chồng hắn dọn về căn nhà cách đấy ba căn, nhà nhỏ xíu chỉ có một phòng. Dư luận lại xáo xào, dị nghị, nhưng rồi ai cũng tặc lưỡi: thôi kệ, miễn thằng Cu Ty vui. Tội nghiệp nó. Hình như mọi người cũng bắt đầu nhàm chán câu chuyện này, bởi cũng đều đều như thế, chẳng có gì mới để bàn tán thêm, nên lơ.
Nhưng rồi không lơ được, bởi một sáng, mọi người nghe tiếng chửi rủa của cô vợ, tiếng rì rầm của Cu Ty rồi sau đó là chiếc va li quần áo của hắn bị ném tung tóe ra ngõ. Loang thoáng lắng nghe, người hiểu chuyện biết rằng cô vợ đã khôn ngoan mua nhà đứng tên của cô ấy, và đã đến lúc hoàn tất âm mưu, chấm dứt quan hệ và kết cục là hắn mất hết, phải ra đường.
Cu Ty lang thang mọi ngả đường, mấy ngày đầu còn chút tiền để mua, sau đó là xin ăn. Có lúc đói quá lại vào chùa kiếm cơm, ở đôi ba bữa lại đi.
Thời gian sau, người ta gặp Cu Ty đi ngoài đường, đã tiều tuỵ lắm, quần áo tả tơi. Hắn vừa đi vừa làm điệu như vỗ cánh, lâu lâu lại ngồi xuống mổ tìm gì đó ở dưới đất. Hỏi hắn tìm gì, hắn bảo tìm hạt lúa, sao bây giờ lúa hiếm hoi thế. Lắm kẻ độc miệng bảo ngày xưa bố mẹ hắn giết nhiều gà quá, bây giờ hắn phải trả cái nợ đó cho bố mẹ hắn. Mà nhìn cái dáng vỗ cánh và mổ tìm lúa của hắn, nhìn y như con gà.
Sau này, có dịp về lại xóm cũ, hỏi thăm mọi người về Cu Ty, người ta bảo sau khi mất hết nhà cửa rồi điên loạn, hắn được một thầy trụ trì đem về chùa, tu học tinh tấn lắm và sau đó viên tịch ở chùa. Cũng xong một kiếp nạn. Tui chỉ băn khoăn một người hiền như Phật thế kia sao mà khổ thế, chỉ toàn gặp dối lừa, khổ nạn. Có phải vì trời sinh hắn hiền quá chăng? Nếu thế thì chính tâm Phật đã hại hắn rồi.
Saigon. 20.5.2017
ĐỖ DUY NGỌC
Hồi ức:
BÀU THẠC GIÁN
Hồi xưa ở Đà Nẵng có cái bàu lớn lắm. Hoặc có lẽ lúc đó tui còn nhỏ nên thấy nó lớn. Nó nằm ở trong hẻm bến xe chợ Cồn đi vào. Khu đó thì có nhiều hẻm, hẻm nào cũng vô tới bàu. Còn đi đường Ông Ích Khiêm xuống tới Hoàng Diệu thì kiệt nào cũng dẫn đến bàu. Nó nằm song song với đường rầy. Đi từ Ông Ích Khiêm xuống thì gặp một đường xe lửa, cứ men theo đường đấy mà đi thì một bên là nhà dân một bên là bàu nước mênh mông và ở giữa là đường tàu lửa chạy. Hồi tui học lớp nhất, ba tui bệnh một thời gian nằm điều trị trong cơ quan của ba tui là Tổng y viện Duy Tân, ngày nào tui cũng đi dọc theo đường rầy mang cơm cho Ba, thích lắm vì vừa đi vừa bắt chuồn chuồn, châu chấu, ngắm hoa và cỏ dại ven đường. Thú thế cho nên tui hay giành lấy việc này mà chẳng ngại trưa nắng, chiều mưa. Những trò mà ngày thường không thể nào làm được. Nhà tui ở khu Chợ Cồn trên đường Ông Ích Khiêm, hồi đó Ba tui nghiêm lắm, sáng phải thức dậy lúc năm giờ, trưa phải ngủ trưa. Tui hay trốn ngủ mò vô bàu để săn những con chuồn đỏ, những con chuồn chuồn có màu đỏ rực với hai cánh mỏng, đậu lắt lay trên cành lá cỏ hay những đọt cây thấp, những con chuồn chuồn voi to kềnh với hai con mắt to, hàm răng khoẻ cắn đau như kiến. Có khi lại chạy theo những con chuồn kim bé xíu có thân dài ngoằng bé tẹo. Có lúc lại ngồi ở mấy gốc tre nghe mấy con chim chích chòe than hót trầm bổng giữa buổi trưa hè, thú vị lắm. Cũng có khi ngồi nhìn lên mấy đọt tre trên cao đung đưa xào xạc với gió, mê say. Khu này có nhiều cáy tre trồng hai bên vệ đường, lúc đó chỉ là những con đường đất đỏ, nên xóm này còn có tên gọi là xóm Tre. Hậu quả của những buổi trưa thơ mộng đó là những trận đòn nát đít, nhưng tui vẫn không chừa. Và cũng vì nó hoang vắng cho nên Ba tui hay đem quỷ ma ra doạ, Ba tui bảo khu đó toàn ma ở với người nên nhiều lúc trốn vô đó chơi mà thấy vắng quá lòng tui cũng hơi hoảng, nhất là khi nghe hai thân tre cọ vào nhau kêu kót két là lúc trong đầu toàn nghĩ chuyện ma bắt người đem dấu vô bụi.
Khi lính Mỹ đổ quân vào miền Nam, khu đường rầy biến thành xóm đĩ. Lúc đó ai nói đi đường rầy là người ta nghĩ đến đi chuyện giải quyết sinh lý. Nơi nào có đĩ thì có du đãng, bụi đời, xì ke, thuốc phiện. Do đó, có một thời khu này khét tiếng lộn xộn, lính lác, cô hồn choảng nhau như cơm bữa.
Lúc mới lớn, có đôi chút chữ nghĩa tui cứ thắc mắc về cái chữ bàu này. Tìm hiểu thì được giải thích người miền Trung thường gọi hồ là bàu. Tui vẫn thấy hình như chưa đúng. Tìm hiểu mãi cho đến giờ cũng chưa trả lời được khi nào thì gọi là bàu và như thế nào thì gọi là hồ, là ao. Và giờ đây, người ta vẫn gọi là bàu Thạc Gián.
Theo những người nghiên cứu về Đà Nẵng thì xưa kia Đà Nẵng chia làm sáu xứ. Ở hữu ngạn sông Hàn là xứ Bà Thân (một trong các tiền hiền làng An Hải), là làng An Hải ngày nay. Năm xứ còn lại ở tả ngạn, có xứ Bàu Lác (xưa có nhiều cỏ lác, nay thuộc phường Thạc Gián, quận Thanh Khê) là cái bàu mà tui đang nói tới. Rồi đến xứ Rẫy Cu (ngày trước nơi đây có nhiều lùm bụi, vùng lý tưởng cho chim cò trong đó có loài chim cu đất sinh sống và là nơi hội tụ các tay say mê trò gác cu, nay thuộc địa phận các phường Bình Thuận, Hòa Thuận Đông, Hòa Thuận Tây). Xứ Giếng Bộng (gọi tên thế vì nơi đó có một giếng nước ngọt mát phục vụ nhân dân quanh vùng thuộc làng Nại Hiên xưa, nay thuộc phường Bình Hiên, quận Hải Châu). Tiếp đó là xứ Trèm Trẹm (hay gọi tắt là Trẹm, thuộc các phường Thiệu Bình, Thạch Thang). Cuối cùng là xứ Đà Nẵng, tức vùng trung tâm thành phố ngày nay, phần lớn nằm trên địa bàn các phường Hải Châu 1, Hải Châu 2.
Như vậy bàu Thạc gián chính là bàu Lác, một trong sáu xứ của Đà Nẵng xưa. Gọi tên bàu Lác vì khi xưa là vùng mênh mông cỏ lác, sau đó nó nằm trong khu Thạc Gián nên mang tên là bàu Thạc Gián. Hồi tui hay trốn vô đó, đất đai còn mênh mông lắm, đa số nhà nào cũng có vườn trồng tre và cây ăn trái. Nó như một vùng quê yên ả trong thành phố nhộn nhịp. Dân ở đây hồi đó cũng thường là bà con, giòng họ với nhau. Tui có nhiều người bạn ở vùng này, nhưng rất tiếc họ đã qua đời gần hết. Năm 1972, đôn quân, bạn Lưu Văn Thành ở đoạn đầu của xóm Tre tử trận khi mới ra trường Thủ Đức. Tiếp đó là bạn Ý vừa gắn lon thiếu úy cũng bị bắn tỉa trên càu ở Cẩm Lệ. Trong vùng này có ông Tùng, thầu khoán, giàu lắm, nhà cửa đất đai vô số kể. Con trai đầu của ông là anh Thành, du học Pháp, học ngành y, ra trường mở một bệnh viện khá nổi tiếng ở Pháp. Hồi nhỏ tui nể anh này lắm. Kế anh Thành là chị Minh, yêu một anh ở sát nhà tui, ảnh cũng tên Ngọc, đi lính hi sinh năm 1971. Ông Tùng này nhiều vợ, có một đứa con bà thứ, sống lang bạt kỳ hồ sau này vào sống căn biệt thự của ông ở cổng xe lửa số 6 Trương Minh Ký, hơi tưng, cũng chết mấy năm rồi. Một người bạn nữa cũng ở xóm Tre, bàu Thạc Gián, cũng là cháu ông Tùng này, học chung với tui ở trường Kỹ thuật thời trung học, tên Nguyễn Ngọc Chi, một người bạn hiền lành, năm trước đây cũng đi luôn trong giấc ngủ. Tui nhớ năm tui học đệ thất, một hôm được nghỉ mấy tiết cuối, tụi tui rủ nhau về nhà một người bạn ở bàu chơi. Nhà anh này ở bên kia bàu Thạc Gián, hồi đó đi vào như là về quê, trâu bò, rơm rạ đầy đường, lúa phơi giữa lộ, khói đốt mù mịt. Mấy thằng dân phố công tử bột như tui lấy làm lạ lẫm lắm. Đến khi về, đã quá trưa, cả bọn rủ nhau lội qua bàu về. Áo quần ướt sũng, tui sợ về bị đánh đòn nên cởi truồng vắt phơi cho khô, tồng ngồng bên xóm vắng, tui khóc tu tu vì sợ khi nghĩ đến bó roi mây của ba tui. Anh bạn Thể chủ nhà hôm đó giờ cũng mất rồi.
Đất ở khu này như thung lũng, trồi lên trụt xuống ngộ lắm. Tui nhớ ở vùng thung lũng đó có hai gia đình có nhiều cô gái xinh đẹp. Đầu tiên là cô tên Hoá, con ông Giảng. Ông này làm nghề hàn máng xối, cao cao gầy gầy, mặt lúc nào cũng buồn buồn nhưng con gái ông thì quá xinh, bọn con trai ai cũng làm kẻ si tình. Khi tuổi vừa lớn, tui rời Đà Nẵng đi học xa nên không biết có ai trong xóm ấy có lấy được cô này không? Gia đình thứ hai là nhà ông Tư hớt tóc. Ông có một miếng đất ven đường Ông Ích Khiêm làm nơi hành nghề. Ba tui hãy dẫn tui hàng tháng đến đây và ra lệnh: hớt caré cho tui. Tuổi bắt đầu xài lược mà chơi caré là tiêu rồi. Ông có ba bốn cô con gái, tuy nhà nghèo nhưng cô nào cũng có nhan sắc. Tui nhớ tên cô Liễu vì cô này trạc tuổi tui. Mấy cô này mà còn chắc đã lên chức bà cố, bà ngoại hết rồi.
Năm 1956, gia đình tui mới vào Đà Nẵng thì trong khu xóm Tre này có một ông giáo mở một lớp học trường làng. Ông tên Thức nên mọi người gọi là Thầy Thức. Trong khi mấy ông giáo làng còn mặc áo the đen với khăn đóng thì Thầy Thức luôn mang bộ veston trắng, giày da trắng, đội mũ phớt và đôi lúc cầm baton trông rất ư là thanh lịch. Thầy Thức là dân Tây học dù vợ chỉ là người bán gà vịt đã nhổ lông ở Chợ Cồn. Tui không học trường này nhưng anh Hai tui thì tốt nghiệp lớp ba trường làng rồi mới vào trường Nam tiểu học. Tuy không học với Thầy Thức nhưng tui ngưỡng mộ Thầy lắm. Mỗi lần gặp Ba tui, hai người nói chuyện bằng tiếng Pháp với phong cách thật thanh lịch. Cung cách ấy sau này tui không tìm thấy nữa ở ngoài xã hội, kể cả ở miền Nam những năm gần 75.
Năm 1966, tướng Nguyễn Chánh Thi cùng với Phật giáo miền Trung ly khai. Ông tướng này là chồng của Dì Tá, là chị của Mạ tui cho nên tui gọi là dì, gọi tướng Thi bằng dượng. Ông Nguyễn Cao Kỳ cho quân nhảy dù ra đánh, súng nổ tơi bời. Nhà tui dính hai trái M79, sợ quá cả nhà chạy vào xóm Tre tránh đạn. Đó là lần đầu tiên tui biết súng nổ đạn bay của chiến tranh. Cả nhà tui tạm lánh ở nhà ông Tư hớt tóc, nhà có nhiều cô gái xinh xinh đấy. Nhưng lúc đó sợ quá nên cũng chẳng dám nghĩ chuyện ghẹo gái.
Bàu Thạc Gián, xóm Tre là nơi tui có nhiều kỷ niệm. Những kỷ niệm gắn với tuổi thơ và thời mới lớn. Cuối những năm 60 của thế kỷ trước, tui rời Đà Nẵng đi học xa rồi chẳng có dịp trở về. Rồi biến cố của lịch sử, tui chẳng còn ai thân thuộc để có cớ mà về. Đến khi bắt đầu già, nhớ quá khứ, trở về thăm thì cảnh chẳng còn như xưa nữa. Bàu Thạc Gián, xóm Tre giờ giống như bài Sông Lấp của Trần Tế Xương:
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò

Bàu Thạc Gián giờ thuộc quận Thanh Khê, chỉ còn là cái ao bé xíu. Chung quanh người ta xây cao ốc rầm rộ. Bàu lấp thành đất vàng. Vào xóm Tre cũng chẳng còn tre, nhà cửa lố nhố, bạn cũ chẳng còn, người xưa đâu tá? Vẫn biết cuộc bể dâu là quy luật của đất trời, sao lòng bỗng thấy thật buồn. Tìm nhà bạn cũ, cũng một thời học cùng trường, bố bạn ấy làm điền địa, cũng khá thân với Ba tui, lại thấy hình bạn ấy đặt trên bàn thờ, ánh mắt trong hình buồn bã nhìn mọi người. Bạn ấy là Trương Minh Tú có nick name là Tú Bà. Cảnh chẳng còn, người đã mất, lòng lại buồn hơn.
2.9.2018
ĐỖ DUY NGỌC
THƠ ĐỖ DUY NGỌC
CHIỀU Ở LẠI
Chiều gởi lại sóng muôn trùng vỡ nắng
Mộng trùng khơi đã xếp lại bao giờ
Đã ở tuổi tất cả là huyễn mộng
Giờ như thuyền chôn trên bãi bơ vơ
Mây đã tan vội bay về một cõi
Gió đi rồi không lối thổi về đâu
Đêm tang thương mưa nắng rụng trên đầu
Ngày cúi mặt nhận tủi hờn chất ngất
Chiều bỏ lại những phút giây đã mất
Những âm ba vang mãi ở trong lòng
Giữa vô tận còn nỗi đau trú ngụ
Tên quên rồi ta hỏi tuổi còn không?
Trên đồi cũ lá thu vàng thổn thức
Tiếc cành cây chưa héo đã vội lìa
Giữa tịch lặng hơi thở còn một nửa
Một nửa này dành nhớ buổi hôm kia
Chiều cuốn mất ánh trăng nào rất cũ
Trời bao dung mà đất quá hẹp hòi
Ta đứng giữa trần gian không áo mũ
Khêu ngọn đèn cho thiên hạ săm soi
Muốn cởi áo ở trần chơi giữa chợ
Rao chút danh bán nốt chẳng mang về
Chiều đã tới và ta không còn nợ
Rũ hết đời ta kiếm nẻo hồi quê
27.8.2018

ĐỖ DUY NGỌC
LỤC BÁT GIỮA ĐÊM
Giữa đêm cá khóc ngoài ao
Chim kêu dưới núi gió bào mỏng da
Ngẩn ngơ bỗng thấy mình già
Bóng in trên vách nhạt nhòa khói bay
Rượu đâu có uống mà say
Chuyện xưa lâu lắc làm cay xé lòng
Một đời mãi kiếp long đong
Rừng lau trắng xoá ngựa hồng chồn chân
Giữa đêm hoa nở trước sân
Đi lên đi xuống tần ngần vào ra
Loanh quanh dưới mái hiên nhà
Ngó con trăng rụng trên tòa lầu cao
Ngẩng đầu thấy những chòm sao
Rõ thêm thân phận lào xào dưới chân
Chỉ xin một chút ân cần
Để cho khuây khỏa giữa trần gian đau
Vọng trong thiên cổ nát nhàu
Bụi bay khói toả nhuốm màu nhân gian
Bóng cô liêu đứng xếp hàng
Đêm trông tiếng nổ nát tan phận đời
Quẩn quanh chỉ một trò chơi
Sống như ngựa chạy khơi khơi mấy vòng
Thời gian chỉ một đường cong
Leo lên tuột xuống là xong kiếp người.
Xin cho tôi một nụ cười
Rải theo sông suối để người trông theo
Nỗi buồn làm sợi dây leo
Tôi làm trái héo chèo queo giữa trời
19.7.2018
ĐỖ DUY NGỌC

PHẦN 28
HOÀNG HƯƠNG TRANG - NỮ SĨ ĐA TÀI
Biết chị từ thập niên 60 bởi là một nữ sĩ nổi tiếng: “Đầu đội trời, chân đạp đất, không hề biết sợ ai...”. Vậy mà, sau năm 75 mới được quen chị và thân tình. Căn nhà ở đường Tăng Bạt Hổ quận Bình Thạnh là nơi chị ở một mình và khi ghé thăm chị, thường thấy tranh lụa và sách vở ngổn ngang. Thường thì chị nói huyên thuyên về cuộc đời và sự nghiệp của chị. Tôi chỉ lắng nghe để thấu hiểu.
Chị là dòng dõi họ Hoàng ở làng Vân Thê, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên. Một vùng đất sản sinh nhiều đấng tài giỏi về văn và võ (dù là bên ni hay bên tê). Chị tên Hoàng Thị Diệm Phương, thời con gái hay khi đã sồn sồn thì nhan sắc ấy đã khiến nhiều “anh hùng tận”. Tiếng nói chị như chuông ngân và đôi mắt đó dễ hút hồn người đối diện bởi đẹp và sâu như đáy giếng. Là mỹ nhân và đa tài (vẽ tranh, làm thơ, viết văn, sọan nhạc, viết thư pháp) nên hơn nửa thế kỷ qua chị giao tiếp nhiều cây cao, bóng cả trong làng văn, trận bút. Đặc biệt nghe chị hay nhắc về thi bá Vũ Hoàng Chương, kịch tác gia Vi Huyền Đắc, nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Lê Thương, thi sĩ Kiên Giang, nhà văn Toan Ánh, nhà thơ Tế Hanh....
Về quá trình sáng tạo của chị thật đồ sộ ( khi đọc tiểu sử của chị bạn đọc sẽ biết). Về đường tình duyên, tuy quen nhiết nhiều, giao lưu, chạm mặt cũng lắm nhưng cũng như những làn gió đi qua rồi thôi. Chỉ duy nhất một mối tình từ thời con gái cho đến nay (tóc bạc răng long) chị vẫn để ở phía trái trái tim mình trân quý, mến yêu. Đó là một sĩ quan tác chiến (trước 75) rất đẹp trai, hào hoa và mã thượng... Người ấy không may tử trận và chị mang theo hình ảnh ấy bên đời và chắc là hết kiếp? Tôi bái phục nữ sĩ xứ Huế này về mặt chung tình. Chỉ tôn thờ một hình bóng đã trót yêu thương.
Năm 2013 tôi về thăm quê, dì ruột tôi hỏi: ”Mi có biết Hoàng Thị Diệm Phương khôn (nhà văn Hoàng Hương Trang, bà con bên ngoại của mi đó?“ Tôi nói:” Dạ có”. Dì nói: “Mi phải kêu bằng dì đó.”  ”Dạ thưa, con hiểu rồi.” Khi trở về SàiGòn tôi thay đổi cách xưng hô với chị Hoàng Hương Trang. Tôi biết dì già rồi nhưng rất “chịu chơi” vì mỗi lần về Huế dì đều leo xe đò mà không cần tàu hỏa hay máy bay. Dì nói đi bụi rứa mới thú vị. Một con người lẫy lừng như thế mà dì cũng đã ”tri thiên mệnh“ cho mình khi dì kể đã về Huế xây sẳn bia mộ cho mình.
Mới đây nhất năm 2017, xuống thăm dì Hoàng Hương Trang ở căn nhà cũ (Tăng Bạt Hổ) tôi thấy dì đã yếu hơn trước dù hai con mắt vẫn sáng như gương. Dì tâm sự: “Phải về Long Xuyên sống với đứa cháu thôi. Khi nhắm mắt nó đưa mình về Huế chôn cất là xong... một kiếp người!” Dì còn bật mí: “Mình mới yêu.” Tôi giật thót người: ”Mới yêu? Yêu ai?” Dì tâm sự: “Có một thằng bé 20 tuổi yêu mình. Bảo nó hôn là nó hôn liền.” Tôi bật cười: “Nó hôn mạ thì có!“ Dì kể đầu đuôi câu chuyện và tôi hiểu ra: Dì yêu qua hình bóng khác vì thằng bé đó giống vị đại úy ngày xưa như khuôn đúc. Rồi dì còn tặng tôi tập thơ phô tô 50 bài thơ viết cho thằng bé. Tôi nhận cho dì vui vì biết lúc này, thơ này, không phải là thơ của Hoàng Hương Trang của tuổi tứ thập bất hoặc nữa. Nhưng như thế cũng” sướng” chứ bởi vẫn còn một đối tượng để mong chờ, thấp thỏm... trong hoàng hôn thật mà ảo của đời mình. Qua năm 2018, tôi không còn liên lạc được với dì Hoàng Hương Trang. Dù sao, thế nào... tôi cũng vô cùng khâm phục người dì dòng họ Hoàng của Huế bởi một nữ sĩ đã sống tận, sống cùng cho trang viết và chính đời thật của mình một cách trọn vẹn! Vật kỷ niệm của dì tặng tôi là sách báo của dì và người khác viết về dì. Trong đó có một đĩa sứ hình hột xoài dì viết thư pháp trên đó. Câu thơ của Lý Thương Ẩn: “Lưu Đắc Tàn Hà Thính Vũ Thanh” (theo dì dịch nghĩa: Còn mỗi sen tàn để nghe tiếng mưa). Mỗi sáng thức dậy tôi đều thấy câu đó bởi nó nằm trước bàn viết của tôi.
Tiểu sử Hoàng Hương Trang:
Tên thật: Hoàng Thị Diệm Phương, sinh năm 1938 tại thừa Thiên Huế.
Tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ Thuật Huế (1961), Sư phạm Mỹ Thuật Sài Gòn (1962).
Nghiên cứu Mỹ Thuật Á Châu (Tokyo 1963).
Nguyên Giáo Sư môn Văn và Hội Họa các trường trung học.
Nguyên giáo sư Đại học Mỹ Thuật SàiGòn và TP.HCM.
Giải thưởng Nam Phương Hoàng Hậu (Thiếu nhi 1948 Huế).
Giải vẽ biểu mẫu nhà máy xi măng Long Thọ - Huế (1958).
Giải văn học Vì Trẻ Thơ do UNICEF + Hội Nhà Văn Việt Nam + Tạp chí Vì Trẻ Thơ (Hà Nội 2000-2001)
Giải thưởng Âm nhạc Việt Nam 2004 (Đồng tác giả với nhạc sĩ Quỳnh Hợp).
Giải văn xuôi (10 năm NS Vô Ưu Tỉnh Đắk Lắk (2008).
Giải thưởng văn học 1000 năm Thăng Long Báo Giác Ngộ TP.HCM tổ chức 2010.
Đã in thơ văn trên 20 tập và in chung hơn 100 tập cả trong và ngoài nước.
Chủ biên các tuyển tập Hương Thơ và Thơ VN đương đại.
Đã triển lãm tranh trong và ngoài nước từ 1960 đến nay.
Đã được giới thiệu trong Présence Francophone CANADA 1972.
Có tranh treo ở Viện Bảo Tàng Vatican (Italia từ năm 1989)
Có tranh ở sưu tập cá nhân nhiều nước: Anh, Mỹ, Pháp, Canada, Nhật.
Có bài trong Poemes and Shortories (Trung Tâm Văn Bút Việt Nam -SG 1965).

Giới thiệu một ít tác phẩm của Hoàng Hương Trang:
THƠ:
CHÉN TRĂNG KHUYA

Trăng về lay gọi hồn khuya
Nửa đêm nâng chén bốn bề tịch liêu
Rượu nhòa ánh bạc hắt hiu
Làm sao gửi được người yêu chén này
Biết bao giờ có đêm nay
Rót cho nhau chén rượu đầy ánh trăng?
NGHE HÁT QUAN HỌ Ở VĂN MIẾU
Áo tứ thân vui mùa trẩy hội
Nón thượng quai thao, tóc đuôi gà
Giọng bổng trầm quan họ ngân nga
Sân Văn Miếu, ngỡ Cầu Lim Nội Duệ
Hàng bia tiến sĩ im lặng thế
Rùa đá khum lưng gánh thời gian
Hồn xưa khoa bảng soi nghiêng bóng
Đâu đó ngựa quan tiếp võng nàng
Cô gái hát câu quan họ lý
Mắt lúng liêng” Người ở đừng về...”
Giải yếm bắc cầu bao thế kỷ
Quan nghè ruỗi ngựa bái vinh quy
Xốn xang chiêng trống như ngày hội
Khăn lược, áo the, yếm hoa đào
Bia đá mỉm cười, rùa vui bước
Giữa làn giai điệu tự thuở nao...
Cô gái cất cao lời thanh thoát
Phải chăng hồn đá cũng ngẩn ngơ
Hoa cỏ dịu dàng thơm bát ngát
Lời ca, bia đá, thật hay mơ?
Hoàng Hương Trang
TRUYỆN NGẮN
TIẾNG TRỐNG DA TRÂU

https://giacngo.vn/userimages/2010/12/03/1/datrau.jpg
Sau những năm sống cuộc đời lính, lúc ở rừng, lúc ở hang với rau rừng nước suối, có lúc hành quân qua những rừng cây trụi lá, đất bốc oi nồng, mùi thuốc khai quang, nóng rát, cứ như vừa qua một trận hỏa hoạn, không một con thú nào có thể sinh sống được, Vũ bị thương trong một trận đánh lớn, được đưa về tuyến sau chữa trị. Viên đạn đã được bác sĩ gắp ra từ ống xương đùi. Tuy vậy, vài mảnh bom li ti nằm bên sườn không gắp ra được…
Ngày kết thúc chiến tranh, anh giải ngũ với giấy chứng nhận thương binh, và trở về làng quê cũ… Mẹ già đã qua đời. Làng xóm tốt bụng vẫn coi giữ mái tranh nghèo có bàn thờ đơn sơ của mẹ anh…
Anh vội vã đi cám ơn làng xóm và hỏi thăm nơi mộ phần mẹ mình. Bà con cho biết nhà cửa anh được giữ gìn, mộ phần mẹ anh được vun đắp, vườn tược nhà anh được chăm tưới xanh tươi là nhờ bàn tay cô Vân - bạn anh năm xưa, vẫn thường xuyên lui tới với bà cụ trong bao năm anh vắng nhà, và cả sau ngày cụ mất.
Vũ bàng hoàng xúc động nhớ đến cô bạn thuở thiếu thời cùng nhau đi học mấy năm ở trường làng, cùng chăn trâu, cùng tắm suối, cùng thả diều trên rẫy - Biết bao kỷ niệm về cô bạn nhỏ có đôi mắt to tròn và chiếc răng khểnh duyên dáng. Cô bạn dễ thương ấy trước lúc anh lên đường nhập ngũ đã bạo dạn cầm tay anh và bảo: "Em chờ anh trở về…".
Chỉ có thế, một câu nói tưởng chừng bâng quơ đơn giản, người lính ở chiến trường đã bỏ quên trong bom đạn, nhưng người con gái mộc mạc quê mùa ấy lại vẫn nhớ, vẫn chờ…
Vũ tìm đến nhà Vân ở cuối xóm Đồi. Cha mẹ Vân đều đã mất trong thời chiến tranh chống Pháp, chỉ còn lại hai chị em làm nương làm rẫy nuôi nhau. Xuân - chị của Vân - chịu khó làm lụng, cố gắng cho em đi học trường làng. Vũ ngập ngừng đứng lại hồi lâu trước ngõ nhà Vân. Hàng dâm bụt năm xưa vẫn nở hoa đỏ thắm, chỉ có khác là trước ngõ giờ đã có thêm khóm trúc vàng và giàn bông giấy nở đầy hoa tím. Nhìn vào sân, cây mận già vẫn đơm nhiều quả. Ngày trước anh và Vân đã cùng hái mận biết bao lần.
Tiếng chó sủa, người phụ nữ thập thò trong cửa liếp nhìn ra. Vũ nghĩ có lẽ là chị Xuân bèn lên tiếng:
- Chị Xuân ơi, em là Vũ đây! Em đến thăm chị và cô Vân…
Câu chào chưa dứt thì anh đã đến cửa liếp. Người phụ nữ bưng mặt khóc òa, anh bối rối:
- Chị Xuân, có gì xảy ra không chị? Sao chị lại khóc? Còn cô Vân đâu?
Người phụ nữ đã đứng tuổi, đổ ập trên vai anh nức nở:
- Em là Vân đây… chị Xuân em đã vào thanh niên xung phong và hy sinh rồi anh ạ.
Vũ sững sờ, bối rối, cứ đứng trơ trơ như tượng đá. Trên vai anh ấm nóng và nằng nặng. Người con gái vẫn khóc như chưa bao giờ được khóc, để trút hết bao nỗi niềm chất chứa trong lòng. Chờ cho Vân nguôi đi, anh nhẹ nhàng nâng đầu cô bạn gái năm xưa nhìn thật gần để tìm những nét thân quen ngày nào… Anh đau đớn nhận ra khuôn mặt xinh xắn năm xưa, nay đã sạm màu mưa nắng, đôi mắt không còn to đen lay láy như ngày nào. Duy chỉ còn chiếc răng khểnh cho anh cảm nhận sự duyên dáng quen thuộc. Anh dịu dàng:
- Anh không ngờ sau chiến tranh, làng xóm ta nhà nào cũng mất mát nhiều quá, nhà nào cũng có bàn thờ và bằng liệt sĩ, Tổ quốc ghi công. Ruộng rẫy xác xơ tiêu điều, có lẽ thiếu người lao động phải không em?
Vân chỉ gật đầu, cô lặng lẽ nhìn ngắm thật kỹ khắp người Vũ xem anh có còn nguyên vẹn hay không. Vũ hiểu ý, anh dìu Vân đến ngồi trên ghế, rồi đến trước bàn thờ cha mẹ Vân và chị Xuân, đốt ba nén nhang cắm lên và chắp tay lâm râm khấn vái:
- Thưa hai bác, thưa chị Xuân, xin hai bác và chị cho phép Vũ và Vân được thành gia thất, xin hai bác nhận ở con lòng chân thành…
Vân đã đến đứng bên cạnh anh, cô hỏi khẽ:
- Bao nhiêu năm em không hề có tin tức anh, nên không biết anh đã có gia đình chưa? Tuy nhiên lời em đã hứa chờ anh, em vẫn chờ, em vẫn đến với mẹ và mẹ cũng coi em như dâu con, do đó em vẫn an lòng đợi anh…
Vũ quay lại nhìn Vân:
- Chiến tranh ác liệt, cái chết chực chờ, anh đâu có lòng dạ nào nghĩ đến chuyện lập gia đình. Bây giờ anh đã về, anh đã bị thương tật một chân nhưng may không què cụt. Anh cũng đã vừa xin hai bác và chị Xuân chấp nhận anh là con trong nhà, chẳng biết em có nhận lời không? Giờ cả hai ta cũng đâu còn ai nữa…?
Vân đưa cả hai bàn tay chai khô ráp đặt lên hai vai anh, nhỏ nhẹ trả lời:
- Em đã làm dâu mẹ bao năm rồi, khi mẹ mất em đã xin phép làng xóm cho em thọ tang để mẹ khỏi tủi thân. Sao anh còn gọi ba mẹ em là "hai bác".
- Ồ, anh thật vô ý. Em bỏ qua cho người lính vụng về. Từ đây anh gọi là ba mẹ…
Một nếp nhà tranh đơn sơ nhưng gọn gàng ngăn nắp, mái bếp tỏa khói ấm nồng, đôi vợ chồng anh thương binh sống chan hòa hạnh phúc. Cây cỏ vườn tược xanh tươi, họ cùng nhau ngày ngày trồng khoai, trồng lúa, đào ao thả cá, đời sống ngày một tốt hơn. Họ chỉ còn ao ước có một mụn con để chăm chút thương yêu. Họ cũng biết đã sắp hết khả năng sinh nở rồi. Bao nhiêu năm chiến tranh đã cướp mất quãng đời thanh xuân của họ. Mãi gần hai năm trôi qua Vân mới có bầu. Họ sung sướng vô ngần, thầm cám ơn Trời Phật, cám ơn cha mẹ đã phù hộ. Họ sắp được làm cha làm mẹ rồi. Họ cố gắng làm lụng tích lũy để sau này có thể nuôi con học hành nên người. Biết bao hy vọng tương lai. Những chiều muộn bên mâm cơm, họ nói về đứa con yêu quý sắp ra đời với bao lời trìu mến thiết tha.
Rồi ngày khai hoa nở nhụy cũng đến. Vũ đưa vợ ra trạm xá làng. Bụng Vân khá to, nhưng nhờ làm lụng hàng ngày nên cô vẫn nhanh nhẹn khỏe mạnh chứ không quá nặng nề.
Vũ gởi vợ ở trạm xá rồi trở về tranh thủ cuốc cho xong đám rẫy sắp xuống giống cho kịp thời vụ.
Vũ đang cắm cúi cuốc mong cho chóng xong còn về nấu cơm đem lên trạm xá cho vợ. Anh đồ chừng giờ này cô cũng bắt đầu chuyển dạ rồi. Bỗng thằng Tài con bà Thơm hàng xóm la oai oái trên đường làng:
- Chú Vũ, chú Vũ, mau lên trạm xá, cô Vân sinh rồi, mẹ cháu đang ở trên ấy, chú nhanh lên!
Vũ ném cuốc, vui mừng quá, bỏ quên cả bình nước bên bụi cây chạy như bay, quên cả cái chân đã bị thương thỉnh thoảng vẫn còn đau những lúc trái gió trở trời.
Trạm xá kia rồi, Vũ nhảy thoắt lên thềm. Bà Thơm đứng dang cả hai tay chặn cửa, miệng la bài hải không cho Vũ vào:
- Khoan vào đã Vũ! Nghe bác nói đã nào!
Vũ đứng khựng lại, vừa thở hổn hển vừa hỏi bà Thơm:
- Sao rồi bác? Vợ cháu sinh trai hai gái? Cô ấy khỏe không? May có bác ở đây chắc cô ấy cũng đỡ sợ. Cháu chỉ về cuốc chỗ vạt đất dang dở mà không kịp. Gớm! con so mà cũng nhanh quá bác nhỉ?
Mặt bà Thơm lạnh tanh, hai mắt bà cụp xuống. Vũ như linh cảm có chuyện gì, anh lay hai vai bà:
- Sao thế bác? Có chuyện gì à? Để cháu vào xem sao…
Bà Thơm lại ngăn Vũ:
- Khoan đã, nghe bác nói đây, nó sinh một lúc hai thằng cu, con ạ… Nhưng sinh khó quá, nó cũng lớn tuổi rồi mà… một đẻ ngược, một đẻ xuôi, băng huyết ồ ạt, đường từ đây lên huyện quá xa, giờ này làm gì có xe cộ nữa, ở đây chỉ là trạm xá làng, thiếu thốn mọi thứ, mặc dầu cô mụ đã cố gắng hết sức, nhưng con ơi… nghe bác nói đã… sống chết có số trời định cả rồi, con hãy bình tĩnh rồi bác đưa vào vuốt mắt cho vợ con…
Vũ gào lên:
- Sao? Vợ cháu chỉ sinh bình thường thôi sao lại chết được? Còn hai cháu bé sinh đôi đâu? Cháu phải vào xem vợ cháu ra sao, con cháu ra sao?
Anh xô dạt bà Thơm sang bên, kéo cửa bước vào phòng trạm xá. Mùi máu tanh nồng hắt tận mũi. Trên giường trạm, một thi thể đã được đắp tấm vải. Bên dưới gầm giường vẫn còn lênh láng máu.
Vũ giở tấm vải đắp, ôm lấy xác vợ hãy còn nóng ấm, đôi mắt vẫn mở nhìn anh, chờ anh tới. Tóc tai cô tung xõa rũ rượi, mồ hôi còn ướt đẫm cả mớ tóc mai. Vũ nói nghẹn ngào trong nước mắt:
- Vân ơi, em ơi, anh có ngờ đâu, một lần sinh con mà em đã bỏ anh, bỏ con. Rồi đây anh biết làm sao để nuôi con đây? Sao trời lại bất công với em quá, bao nhiêu năm chờ đợi anh... em ơi!
Bà Thơm đã đến bên cạnh. Cô mụ giục Vũ:
- Thôi, đây là trạm xá, đừng khóc gào quá bà con sẽ sợ hãi anh Vũ ạ. Anh hãy vuốt mắt cho chị yên nghỉ đi, rồi nhanh chóng ra làm thủ tục đưa vợ về an táng và làm thủ tục khai sinh cho con anh.
Mãi đau đớn vì cái chết tức tưởi của vợ, anh quên mất con anh hiện ra sao. Anh chưa thấy nó. Anh nói với cô mụ:
- Cô làm ơn cho tôi thăm hai cháu.
Bà Thơm đưa mắt nhìn cô mụ như thầm hỏi có nên đưa Vũ sang xem hai đứa bé không? Cô mụ cũng lưỡng lự giây lát rồi đành nói rõ:
- Con của anh ấy mà, ruột thịt mà, dù sao cũng phải cho cha con gặp nhau chứ biết làm sao bây giờ hở bà?
Bà Thơm và cô mụ đi trước dẫn đường, Vũ theo sau. Cánh cửa phòng mở ra, ba người bước vào, tiếng Vũ thét lên:
- Con tôi đây sao? Trời ơi..., sao lại thế này?
Bà Thơm phải đỡ Vũ mới khỏi ngã quỵ xuống.

Trên mặt bàn trải tấm chăn bông trắng, hai đứa hài nhi đỏ hỏn, một đứa ngọ ngoạy hai tay, một đứa nằm im không nhúc nhích, cả hai đều dị dạng. Đứa ngọ ngoạy có vẻ khỏe mạnh hơn, chiếc đầu to không có mắt, hai hố mắt bằng phẳng, liền da như ai đã dán băng keo lên đó, hai tay có dạng bình thường ngo ngoe liên tục, nhưng lưng thì cong vẹo, xô chiếc bụng nghiêng lệch sang một bên, còn hai chân thì nhỏ xíu và teo lại hình như không có xương ở trong đó. Chỉ riêng bộ phận sinh dục minh chứng nó là con trai. Còn đứa thứ hai, không mắt không mồm, tay chân đều nhỏ xíu không có xương, nằm bất động chỉ còn thoi thóp thở nhè nhẹ rồi lịm dần chỉ vài ba phút sau đó, người nó lạnh dần và tím tái. Cô mụ bảo:
- Cháu đã không thể sống nổi rồi, còn cháu này may ra có sức khỏe hơn, anh cố nuôi cháu, trong nhà có tiếng trẻ thơ cũng vui.
Cô mụ bỗng hỏi Vũ:
- Anh là thương binh phải không?
- Dạ!
- Anh ở chiến trường hay hậu trạm?
- Tôi đi tác chiến mới bị thương chứ ạ!
- Ừ nhỉ, xin lỗi, tôi quên. Thế nơi anh đóng quân là rừng núi hay đồng bằng?
- Dạ, toàn rừng là rừng, rừng trụi lá, chẳng có cây nào sống nổi, cũng chẳng có chim chóc hươu nai gì sống nổi, trơ sỏi đá, nóng hầm hập cứ như cháy rừng ấy cô ạ.
Cô mụ gật đầu:
- Ấy là bị rải thuốc khai quang diệt cây cỏ rồi… thảo nào… thảo nào…
Ấy thế mà cái khối thịt đỏ hỏn chỉ ngo ngoe hai tay ấy đã được anh Vũ chăm sóc, bồng bế đi xin sữa khắp làng… rồi cũng lớn dần… Nhưng cháu không đi được, không nhìn được, cháu chỉ nghe, chỉ nói ngọng nghịu, chỉ có hai tay là toàn vẹn nhất trong cơ thể. Lưng vẹo nên nó chỉ nằm một chỗ. Tuy vậy hai tai nó lại nghe rất thính, nghe rất xa.
Một hôm làng mở hội xuân, tiếng trống rộn ràng, nó lắng nghe rồi hỏi Vũ:
- Ba ơi, tiếng gì nghe rùng rùng, bùng bùng vậy ba?
- À, đó là tiếng trống hội làng đó con.
Nó ngạc nhiên:
- Tiếng trống hả ba? Trống là cái gì ba?
Anh Vũ tìm cách giải thích cho nó hiểu:
- Cái trống làm bằng gỗ, bên trong rỗng, hai đầu bịt bằng da trâu, đánh lên nghe to lắm con ạ. Khi nào có hội hè thì mới đánh lên cho cả làng đến dự hội.
Thằng bé vẫn còn thắc mắc:
- Hai đầu trống bịt bằng da trâu hả ba? Đánh bằng hai tay hả ba? Đánh vậy đau tay lắm phải không ba?
Anh Vũ ôm lấy con mà cười:
- Người ta làm hai cái dùi bằng gỗ để đánh mới kêu to vậy con ạ. Tội nghiệp con của ba không thể nào đi lễ hội để thấy cái trống làng.
Thằng bé lại cười hồn nhiên:
- A ha! Ba quên rồi, con đâu có thấy cái trống được, con chỉ nghe tiếng trống thôi!
Đó là những giây phút hai cha con cười đùa vui vẻ với nhau. Hàng ngày, Vũ bận rộn đi làm rẫy, đến hết buổi về nấu cơm hai cha con ăn với nhau rồi anh lại ra hồ cá chăm sóc đàn cá.
Riêng thằng bé từ khi được cha giải thích cho nó biết về cái trống, nó vô cùng thích thú, suốt ngày cứ dùng hai tay vỗ xuống giường, đánh trống mồm "Tùng tùng, cắc, tùng tùng…" không ngớt. Đó là trò chơi nó thích thú nhất.
Rồi mùa thu đến, bọn trẻ trong làng kéo nhau đi rước đèn, đánh trống, cười đùa ầm ĩ ngoài đường làng. Thằng bé lại hỏi cha về những cái trống bọn trẻ đang chơi ngoài kia với một vẻ thèm thuồng thích thú. Nó khao khát, mơ ước có một cái trống để đánh lên, kêu thật to, cho mọi người nghe thấy và biết có nó đang ở đây.
Trước nỗi khát khao tột cùng của đứa con bất hạnh, Vũ đành phải hứa liều sẽ làm cho nó một cái trống. Vì quá thương con, anh không quản khó nhọc, lò dò ra tận xóm Đình hỏi cụ từ giữ đình về cách làm trống. Rồi anh cất công đi kiếm gỗ tốt; lên tận lò mổ trâu bò trên huyện nằn nì xin được hai miếng da trâu. Dưới sự chỉ bày của cụ từ giữ đình, anh đã mày mò làm được một cái trống da trâu, cỡ bằng cái khạp gạo, mang về cho thằng bé.
Làm sao quên được nét mặt rạng rỡ vui sướng của thằng bé tật nguyền tội nghiệp ấy, khi cha nó hớn hở chạy về trao cho nó cái trống khá to so với cơ thể nó. Rồi sau đó cha nó đã dạy nó ôm cái trống trên bụng, một tay giữ trống, một tay cầm dùi đánh. Tiếng trống đầu tiên vang lên, hai cha con ôm nhau cười ha hả. Kể từ đó thằng bé như được sống trong một cõi thần tiên! Nó suốt ngày đùa vui với cái trống. Vũ lại ra công dạy con hát nhiều khúc đồng dao, nhiều câu hát lý để nó vừa hát vừa đánh trống nhịp nhàng.
Ít lâu sau, anh dạy thằng bé đánh trống theo ám hiệu. Thường anh phải đi làm ngoài rẫy, nó ở nhà một mình với cái trống. Anh dạy nó khi có ai đến nhà tìm anh thì nó đánh nhịp ba "Tùng tùng tùng, cắc, tùng tùng tùng…" để gọi anh về. Khi có việc cấp bách, như có chó vào nhà hay hỏa hoạn, thì nó đánh trống liên hồi cấp bách là anh chạy về ứng cứu ngay. Còn thường ca hát hay chơi một mình thì chỉ chơi nhịp hai,chầm chậm, nhẹ nhàng, anh ở ngoài rẫy nghe là yên tâm. Khi nào không nghe tiếng trống là anh biết nó đang ngủ.
Rồi tiến tới là anh dạy nó học chữ, học số bằng viên phấn cầm tay nắn nót cho nó viết trên mặt trống. Chủ đích của anh là chỉ tìm cho nó một niềm vui để quên đi kiếp sống dị dạng tật nguyền. Nhưng thằng bé rất chăm chỉ, nắn nót rờ rẫm trên mặt trống, nó ghi nhớ rất nhanh. Dần dà, nó đã viết được những câu ngắn trên mặt trống, mặc dầu nó không hề thấy chữ nó viết.
Một hôm đi làm rẫy về, anh bỗng sững sờ thấy trên mặt trống ghi dòng chữ xiên xẹo: "Ba ơi, con thương ba lắm." Vũ đã khóc lặng đi vì quá xúc động.
Từ đấy, cái trống da trâu vừa để cho thằng bé đánh trống "tùng tùng" và hát những bài đồng dao, những bài ca dao, mặt trống cũng là cái bảng đen để nó vui học. Không những thế, nhờ có tiếng trống và những câu hát ngọng nghịu ngây ngô của mình, nó đã có rất nhiều bạn trong xóm lân la đến chơi. Trước đây không một đứa bé nào dám mon men đến nhà Vũ vì rất khiếp hãi thằng bé. Lỡ khi nào cha mẹ có việc gì dắt chúng đến tìm ba của thằng bé thì chúng sợ sệt nép vào người lớn chứ không dám đến gần. Nhưng từ khi có tiếng trống vang xa, đã mê hoặc, quyến rũ chúng đến chơi với thằng bé. Thằng bé dạy cho bạn hát và đánh trống. Có hôm Vũ đi làm về chợt thấy năm, sáu đứa bé hàng xóm đang say sưa vừa múa vừa hát, còn thằng con anh thì đánh trống nhịp. Chúng chơi với nhau thật vui vẻ hồn nhiên, như không còn cái ranh giới sinh động và nằm liệt. Thằng bé học tiến bộ rất nhanh, mặc dầu chỉ có đôi tay mò mẫm chứ không có mắt. Nó cũng mỗi ngày ca hát thêm nhiều bài. Ngoài những khúc đồng dao, ca dao do Vũ dạy, các bạn cũng dạy nó thêm những bài hát ở trường học. Thằng bé sống vui vẻ, hồn nhiên, yêu đời và sinh động hẳn lên. Nó như quên đi những bất hạnh đè nặng lên số phận nhỏ bé của mình.
Năm lên tám thì tự nhiên một cánh tay thằng bé yếu dần rồi mềm nhũn và teo lại. Thế là nó chỉ còn một tay, và sức khỏe nó cũng yếu dần đi, may mà niềm đam mê vào cái trống da trâu vẫn còn nguyên vẹn trong cái cơ thể điêu tàn ấy. Vũ rất lo buồn, anh đã bế thằng bé đi nhiều bệnh viện huyện và cả ở tỉnh, nhưng nơi đâu cũng không giúp gì được cho nó. Tội nghiệp thằng bé, sợ ba nó buồn lo, nên dù sức khỏe đã yếu đi nhiều, hàng ngày nó vẫn cố gắng đánh trống với cánh tay yếu ớt còn lại, đánh trống để ba nó ở ngoài đồng, trên rẫy nghe thấy sẽ yên lòng, đánh trống để các bạn nghe thấy may ra có đứa nào nghỉ học thì chạy đến chơi với nó.
Một hôm làm đồng cả buổi mà Vũ không nghe tiếng trống của thằng bé, anh nghĩ là nó đang ngủ, dạo này nó yếu nên ngủ nhiều. Nhưng càng đến trưa, đã đứng bóng rồi, vẫn không nghe tiếng trống, có bao giờ nó ngủ lâu như vậy? Anh lo lắng, bỏ cuốc chạy về. Nhà yên ắng không một động tĩnh gì, Vũ vừa chạy vào sân vừa gọi con:
- Con ơi, con ngủ hay thức? Sao không đánh trống cho ba nghe?
Nhà vẫn yên ắng, không có tiếng thằng bé đáp lại, khác hẳn với mọi khi, nghe tiếng ba về là nó líu lo ngọng nghịu hỏi đủ thứ, khoe đủ thứ nó làm gì, bạn nó vui chơi trò gì…
Thằng bé nằm im, co quắp rất tội nghiệp, cái lưng vốn đã vẹo vẹo, bây giờ như gồ hẳn lên, vẹo vọ hơn, đầu nó ngoẹo sang một bên, bọt mép sùi ra. Nó đã tắt thở từ lúc nào!
Vũ ôm lấy xác con, bế thốc thằng bé lên lòng, gục đầu vào ngực con khóc tức tưởi. Dù rằng anh biết ngày cuối cùng này rồi cũng xảy ra, vì thằng bé sức khỏe kém dần, nó ăn uống ít dần, nhưng anh không ngờ nó đi nhanh chóng quá, và lại ra đi lúc anh không có mặt bên cạnh nó. Vũ không biết lúc ra đi nó có đau đớn quằn quại gì không? Thôi đành vậy…
Khi Vũ đặt con nằm ngay ngắn xuống giường, kéo tấm chăn đắp lên mình con, thì bắt gặp cái trống nằm nghiêng trên đầu giường. Khi với lấy cái trống, Vũ kêu lên đau đớn:
- Trời ơi, con của ba, trước khi ra đi con còn nhớ thương ba nhiều thế này sao? Trên mặt cái trống, dòng chữ nguệch ngoạc bằng phấn trắng nổi bật trên màu xám của tấm da trâu: "Con thương ba lắm" - chỉ bốn con chữ cuối cùng đơn sơ nó để lại cho ba nó. Có lẽ với sức yếu ớt như thế, nó phải cố gắng lắm, đem chút hơi tàn lực kiệt để viết nên dòng chữ này.
Vũ đọc đi đọc lại dòng chữ trên mặt trống: "Con thương ba lắm… Con thương ba lắm", anh như trong cơn mê, trong nỗi đau đớn tột cùng.
Kể từ ngày đứa con dị dạng tật nguyền mà Vũ đã thương yêu hết lòng hết sức qua đời, ngôi nhà đã trống vắng như càng trống vắng hơn. Chiếc bàn thờ đơn sơ bằng gỗ tạp, nơi thờ Vân bây giờ có thêm một bát nhang và cái trống da trâu, vật kỷ niệm duy nhất của con anh để lại, trên đó vẫn mang dòng chữ "Con thương ba lắm" anh cố trân trọng giữ gìn cho đừng bị phai mờ nét phấn. Mỗi buổi đi làm rẫy về, anh lầm lũi nấu cơm, bữa ăn nào anh cũng xới một bát cơm đặt trước cái trống, rồi đốt nhang gọi con về ăn cơm. Mỗi khi nhìn đến cái trống, Vũ không khỏi rơm rớm nước mắt và lẩm nhẩm đọc: "Con thương ba lắm", rồi anh tự trả lời như đang nói với con: "Ba thương con lắm".
Từ ngày thằng bé dị dạng mất đi, trong xóm không bao giờ nghe tiếng trống da trâu nữa.
Hoàng Hương Trang
(*) Tác phẩm đạt giải nhì giải cuộc thi Văn-Thơ Phật giáo "Hướng về 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội" do báo Giác Ngộ tổ chức.
Trần Dzạ Lữ
PHẦN 29
NHỮNG NGƯỜI VIẾT Ở VÙNG ĐẤT TÔI YÊU:
LAGI - BÌNH THUẬN
Nói về vùng đất biển LaGi thì có nhiều nhà văn, nhà thơ và văn nghệ sĩ tiếng tăm tôi đặc biệt chú tâm và yêu mến.Trong đó có 3 anh mà tôi luôn trân quý.Thứ nhất là bác sĩ, nhà thơ, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê) Anh Đỗ Hồng Ngọc vì quá nổi tiếng và có nhiều bài viết về anh rồi nên tôi chỉ xin cảm ơn anh bởi những giao tình rất đẹp của anh mấy mươi năm qua với người em này. Còn lại là anh Trần Hữu Ngư và anh Lê Ngọc Trác, tuy biết nhau lâu và chỉ mới quen vài năm gần đây nhưng tình cảm dành cho nhau thì nồng đậm như khi ta uống ly cà phê cứt chồn thứ thiệt rồi xuýt xoa vậy.
TRẦN HỮU NGƯ, NGƯỜI "CHUYÊN TRỊ" BOLÉRO và VIẾT KHÔNG HỀ MỆT MỎI:
Thật tình thì tôi có nghe tên anh từ lâu nhưng chưa biết mặt mũi và tính cách ra sao. Mãi đến năm 2014, gặp nhau trên mạng và thực ngoài đời tôi mới vỡ ra một điều: Có những người âm thầm viết, sống mà ta khi nhận biết thì xúc động và biết ơn. Đến thăm anh trong căn nhà nhỏ ở đường Tăng Bạt Hổ-Bình Thạnh (sau khi anh chuyển gia đình từ LaGi về thành phố. Những tâm sự của mấy mươi năm chực òa vỡ khi anh châm bình trà loại ngon (trà phơi sương trên núi cao từ miền Bắc gửi vào). Anh kể anh là người đã viết bài bênh vực dòng nhạc Boléro từ lâu. Kẻ không ưa cũng có nhưng người khen thì nhiều bởi dòng nhạc ấy sống mãi trong trái tim người nghe. Nó như một mạch nước ngầm dữ dội tuôn chảy và bây giờ thì tràn lan...Tôi liếc nhìn trên kệ sách của anh cũng cơ man băng, đĩa. Đúng là một con người đam mê nhạc, ăn ngủ vì nhạc và sống tận cùng vì nhạc. Anh không phải là nhạc sĩ nhưng trời cho anh trái tim và cách thẩm âm đặc biệt. Anh cũng không quên nói về những nhạc sĩ lừng danh và đã từng gặp họ để nhận biết ra mình không hoài công khi đắm chìm vào thế giới âm nhạc của họ như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Lê Thương, Phạm Đình Chương, Trúc Phương, Lê Hoàng Long, Nguyễn Văn Đông, Lam Phương, Nguyễn Văn Tý... Miên man về âm nhạc gần hết buổi sáng rồi anh đọc 4 câu thơ của tôi viết về nhà văn Nhất Linh.Tôi ngạc nhiên bởi trí nhớ của anh thật tuyệt! Trần Hữu Ngư nói thêm: “vì bài thơ này mà mình đi tìm cậu bao lâu nay đó. Nay gặp gỡ đúng là có duyên”. Rồi anh đem ra hai cuốn sách đã xuất bản của anh ký tặng tôi. Đó là cuốn : Ủa, sao kỳ lạ vậy? Và Trời cao, Đất thấp, chúng ta thì... Trong tập thứ 2 này, anh chỉ tôi xem bài của anh viết về Tự Lực Văn Đoàn:
“Ngày nay người ta ít đọc sách. Sách ở đây tôi muốn nói là tiểu thuyết, “còn người ta” là một số không ít học sinh, sinh viên, thậm chí trong đó có giới trí thức. Nhìn chung, cái xu thế bây giờ nếu ai mê đọc sách thì là đọc sách có chọn lựa (theo quảng cáo hoặc giới thiệu trên báo, cũng có đôi khi người giới thiệu thì cho là hay, nhưng người đọc thấy không hay!) để không mất tiền và phí thời gian, vì sách bây giờ không rẻ và thời gian thì quá “mắc”. Cũng có người rất thích đọc sách, nhưng tiếc rằng họ không có thời giờ, thậm chí buổi sáng không kịp đọc một tờ báo! Có lần tôi tặng bạn tôi mấy quyển sách, rồi một tháng, hai tháng, ba tháng... hỏi ông đọc thấy sao, họ trả lời rằng, xin lỗi. Bận quá chưa đọc. Quả thật, họ bận thật, có người làm việc cả ngày lễ và chủ nhật, lúc nào cũng tất bật, những người này tôi đoán rằng trong đầu họ luôn nghĩ không làm hôm nay thì ngày mai trái đất sẽ...sụp mất! Nếu có rảnh đôi chút thì họ giải trí bằng cách xem TV, bóng đá, phim, hát karaoke, cà phê, nhậu nhẹt... Còn tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ văn...năm thì mười họa họ mới nghía một chút, vì đọc sách đâu chỉ để giải trí? Tôi dám cam đoan rằng có những người cũng có học vấn nhưng suốt đời họ rất ít đọc sách, trừ khi họ cần tham khảo tài liệu, hoặc “xem” chớ không phải “đọc” và cũng có người chỉ mê mấy quyển sách có gáy và bìa đẹp mua về chưng trên kệ sách chỉ để... dợt le!
Năm 1960, từ một vùng quê nghèo, tôi ra tỉnh theo học trung học. Đó là tỉnh Bình Tuy được thành lập từ một quận Hàm Tân của tỉnh Bình Thuận. Thư viện không có sách, nhà sách thì rất nhỏ, bán lèo tèo năm ba quyển tiểu thuyết. Chương trình văn, để cho hấp dẫn thầy cô giáo bắt học sinh phải trần thuyết về một cuốn sách nào đó ( có cho đề tài trước). Vì vậy cả lớp ai cũng chuẩn bị cho mình một mớ kiến thức, mà muốn có kiến thức phải đọc sách thôi! Trần thuyết mới mẻ với chúng tôi thời đó và giờ văn chúng tôi học rất thích thú, đứa nào không đọc sách thì chỉ có đứng đó như trời trồng, không thể nào trần thuyết được, cho nên tôi phải cố gắng tìm đọc cho bằng được những tiểu thuyết của Khái Hưng như Trống Mái, Thừa Tự, Tiêu Sơn Tráng Sĩ, Tục Lụy, Đẹp, Nửa Chừng Xuân, Hồn Bướm Mơ Tiên.. Còn tiểu thuyết của Nhất Linh thì có Hai Buổi Chiều Vàng, Xóm Cầu Mới, Bướm Trắng, Lạnh Lùng, Đoạn Tuyệt...Trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn có Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, Xuân Diệu... Suốt những năm trung học tôi chỉ mê tiểu thuyết của hai ông Nhất Linh và khái Hưng, còn thơ tình của Xuân Diệu thì khỏi phải nói!
Ngày 7.7.1963 Nhất Linh uống thuốc độc tự tử, từ chối ra tòa vì dính đến cuộc đảo chánh tháng 11 năm 1960, ông để lại câu nói: ĐỜi TÔI ĐỂ LỊCH SỬ XỬ... Ngày đó báo chí dành cho ông nhiều bài viết trang trọng, nhưng có 4 câu thơ của Trần Dzạ Lữ tiếc thương Nhất Linh, nó ám ảnh tôi mỗi khi tôi đọc lại những cuốn tiểu thuyết của ông và bài thơ có tựa là:
NHỚ NHẤT LINH:
Người đi theo bóng thiên thu
Bỏ đây năm tháng sa mù nhân gian
Nhớ thương chim khóc trên ngàn
Nước ngơ, đất ngẩn, trời mang mang sầu (
TDL)
Và mãi đến gần 50 năm sau tôi mới gặp được Trần Dzạ Lữ, lúc này anh đang giữ xe để kiếm sống...(Trích bài Tôi Mê Tiểu Thuyết của Tự Lực Văn Đoàn - Trần Hữu Ngư)
Anh Ngư còn kể cho tôi nghe trong đám tang của nhà văn Nhất Linh học sinh, sinh viên đã viết 4 câu thơ ấy trên băng rôn khi đi đưa tiễn nhà văn đến nơi an nghỉ cuối cùng. Nghe vậy, tôi thực sự xúc động vì hồi ấy tôi mới học lớp 6 mà đã biết dùng điệp ngữ mang mang, đặt để đúng chỗ cho câu thơ hay hơn.
Quen nhau rồi, tôi hay đi xe buýt 36 xuống thăm anh - căn nhà ở đường Tăng Bạt Hổ - Bình Thạnh. Nhờ đức cha mà con gái anh làm ăn khá lên và đã sửa sang lại căn nhà nhỏ thêm tầng và rất tiện nghi cho anh viết lách. Tôi mừng cho anh lúc tuổi già bóng xế mà được vậy thì quá tốt. Nhưng đời sống vốn vô thường, không may cho anh là bị tai biến, không còn chạy honda như trước đây để đi làm việc hay tiếp xúc báo chí, bạn bè. Tuy nhiên, hai bàn tay anh vẫn còn gõ được máy vi tính... vì thế vẫn còn đọc được bài anh viết - những trang viết nồng nàn lửa của trái tim+ tấm lòng nhân ái. Và quê hương trong anh luôn vẫy gọi, thôi thúc buổi quay về... Một LaGi của biển mặn, gừng cay tình người! Điều này chúng ta dễ dàng nhận thấy qua hai cuốn sách anh đã xuất bản và nhiều bài viết trên Phây mà người đọc rất quan tâm..
LÊ NGỌC TRÁC - NHÀ THƠ, NHÀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CÓ TÂM
Được biết anh Lê Ngọc Trác (Lê Ngọc Khôi) sinh trưởng ở Quãng Ngải nhưng lại chọn LaGi, vùng đất biển đẹp nhất của Huyện Hàm Tân-Bình Thuận làm nơi găm đời mình cho cuộc trăm năm. Bên đời anh là chị Monique Hồng- mỹ nhân của Thừa Thiên Huế. Là người làm việc trong ngành văn hóa nên đó là một thuận lợi cho việc viết lách của anh.
Tuy mới quen nhau vài năm đây thôi. Vậy mà, sợi dây thân ái buộc ràng chúng tôi lại với nhau bởi sự đồng cảm của tình văn nghệ, của sự chân thật rạch ròi không một chút đãi bôi. Tôi đã đọc thơ anh và nhiều bài nghiên cưú về văn học trên các trang mạng và cả trên báo chí. Sự khiêm cung đã khiến cái tên Lê Ngọc Trác đi vào lòng người đọc, bạn bè rất đổi thân thương. Cũng được biết anh là người ít nói nhưng làm nhiều. Tôi càng thích mẫu người như thế. Bởi ba hoa, đại ngôn mà không hành động thì ích gì chứ, anh Lê Ngọc Trác? Chúng ta sinh ra nơi cõi tạm này có nghĩa là rất phù du nên mỗi khắc sống thực hiện được điều gì cho mình, cho người là điều đáng quý lắm thay! Mấy lần hẹn với anh Trần Hữu Ngư về LaGi thăm anh và gia đình thế mà cũng chưa thành hiện thực bởi những vô thường chen ngang như chuyện anh Ngư bị tai biến. Như chuyện anh phải vào bệnh viện Bình Dân... (chuyện anh giấu tất cả bạn bè lúc lâm bệnh vì sợ phiền hà) mà gồng mình chịu đựng những cơn đau hành hạ thân xác. Tôi càng nể phục và xót xa anh. Những lúc này tôi biết chị Hồng là rất quan trọng khi gánh thêm công việc của chồng. Dù sao chăng nữa tôi cũng mong có ngày 3 anh em mình (Anh Ngư, tôi và anh) hội ngộ ở LaGi - vùng đất tôi hằng yêu mến vì cảnh quan và tình người ở đó. Như một người tình mong ngóng một người tình nơi xa xăm mà rất gần gũi anh Lê Ngọc Trác ạ. Một ngày... tôi rất cảm động khi đọc được bài viết của anh:
TRẦN DZẠ LỮ "MỘT ĐỜI THƠM NGỌT NƯỚC HƯƠNG GIANG"
LÊ NGỌC TRÁC

Trong chúng ta, ai cũng có những lúc thả hồn ra bên ngoài cửa lớp, thỉnh thoảng hồn ngẩn ngơ trông vời áo tiểu thư. Đêm đêm nhìn tinh tú đi hoang, lòng chợt xao xuyến trước nụ cười, ánh mắt của người con gái... Trong những năm tháng thời áo trắng chưa xa ấy, chúng tôi thường chuyền tay nhau đọc những tác phẩm của nhà văn, nhà thơ xứ Huế: Hoàng Ngọc Tuấn, Mường Mán, Trần Dzạ Lữ... Những tác phẩm văn thơ thời Tuổi Ngọc đã thu hút chúng tôi mãnh liệt. Nhiều người nhận thấy chính mình trong các thơ văn của Hoàng Ngọc Tuấn, Mường Mán, Trần Dzạ Lữ. Khung trời thơ mộng xứ Huế gần gũi, quen thân tuyệt vời, đầy ắp kỷ niệm.
50 năm trôi qua, tóc xanh ngày ấy đã phai màu, hôm nay, đọc thơ Trần Dzạ Lữ, chúng tôi vẫn còn nguyên cảm xúc mến yêu thuở ban đầu trinh nguyên ngày ấy. Trần Dzạ Lữ sống phiêu bạt nhiều nơi, làm đủ nghề để mưu sinh trong cuộc sống nhọc nhằn. Nhưng anh vẫn gắn bó với thi ca. Thơ là sự sống và là bản mệnh của cuộc đời Trần Dzạ Lữ. Đến hôm nay, nhà thơ Trần Dzạ Lữ đã xuất bản được 4 thi phẩm, gồm: Hát Dạo Bên Trời, Gọi tình bên sông, Thơ tình viết trên bao thuốc lá, Cứa nát muôn trùng. Đồng thời, thơ anh còn góp mặt trong nhiều tuyển tập thơ xuất bản trong và ngoài nước. Chủ đề xuyên suốt trong sáng tác thơ của Trần Dzạ Lữ là tình yêu. Thơ tình của nhà thơ Trần Dzạ Lữ nhiều cung bậc, nhiều sắc thái với nhiều tâm trạng, hoàn cảnh khi yêu, trải dài theo thời gian môt đời người:
"Nụ cười ấy của riêng em
Anh chắt chiu giữ cho mềm mại trăng
Đêm còn nấn ná quỳnh hương
Ngoại ô dấu ngựa mười thương ai về?"
(Trích bài thơ: Tình khúc tháng Hai)

Bên cạnh những câu thơ hoa mộng một thời tuổi ngọc, người đọc còn cảm nhận được hạnh phúc rực hồng trong thơ Trần Dzạ Lữ:
"Tháng Giêng mình về bên nhau
Cây cầu cũng đón, trăng sao cũng chào
Tươi mươi hơn cả tình đầu
Ngọt hoa đào, một sắc màu môi em"
(Trích bài thơ: Tháng Giêng tình)
Yêu. Nhớ. Thất tình và có cả những hờn ghen trong thơ anh:
"Trời sinh ta - gã khờ nhưng nhạy cảm
Gần hết đời gặm nhấm thất - tình - ca
Tuổi con Chuột lại cầm tinh con Ngựa
Chạy rong ngoài đồng cỏ của quê cha...
Bỏ xứ mẹ, đánh đu ngày phương xa
Và tháng tận bên kiếm cùn, chí nản
Yêu ai rồi tình cũng ra hạn hán
Ta giận mình không phải kẻ hào hoa..."
(Trích bài thơ: Thất tình ca)
... Và, có những nỗi đau xé lòng ly biệt người yêu trong cuộc đời:
"Buồn anh cứa nát muôn trùng
Nếu em giũ áo xa trần gian anh!"
Đi qua năm tháng cuộc đời, trải qua những mật đắng trong tình yêu, tưởng rằng tình đã cũ, đã xa, nhưng rồi hồi xuân như một thời đầy mơ mộng, ngát hương tình:
"Chạm mặt rồi chưa thấy dấu chân chim
Da thịt em cứ bừng bừng như sóng
Đuôi con mắt thắp ngọn đèn mơ mộng
Đưa anh về hồn vía tuổi mười lăm...
Tuổi hồi xuân nghe thơm lựng như trầm
Chút môi hôn cũng làm anh nghiêng ngửa
Bên hàng hiên, mùi quỳnh hương chia lửa
Để em thành công chúa của lòng anh..."
(Trích bài thơ: Hồi xuân)
Tình đầu. Tình cuối. Tình xa. Có cả yêu sớm, yêu muộn trong cuộc đời, Trần Dzạ Lữ viết những câu thơ tự đáy lòng cảm ơn tình yêu, cảm ơn thơ, cảm ơn Đời:
"Cảm ơn em đã cho anh nhiều thi hứng
Giữa cuộc phong trần yêu muộn đẹp gì đâu!
Từ đất đen ta bay lên lừng lựng
Chạm thiên đường để ăn nhớ cho nhau..."
(Trích bài thơ: Cảm ơn em...)
Thơ Trần Dzạ Lữ nhẹ nhàng, tình cảm nồng nàn. Trong thơ có cả hạnh phúc lẫn khổ đau giận hờn. Nhưng không dữ dội, bi lụy. Thơ anh như sóng ngầm sông Hương, như hương tóc thề của những người con gái Huế tím trong chiều, nhẹ nhàng thấm sâu vào hồn người đọc.
Trần Dzạ Lữ là một trong những nhà thơ đã đưa ngữ âm địa phương vào thơ của mình một cách tài tình:
"Yêu nhau đổ - nước - nghiêng - thùng
Coi trời xanh ấy bằng vung đó tề
Rứa mà đột ngột O đi
Buồn như ri hí! Tui về mồ côi..."
(Trích bài thơ: Mười o)
"Huế miền chừ đang mở rộng
Mà răng chưa rộng tình O?
Đi chi xa lắc rứa nờ
Mười năm tui ngồi lẻ bóng..."
(Trích bài thơ: Răng rứa)
Đưa ngữ âm xứ Huế vào thơ làm cho bài thơ dễ thương hơn, mới lạ hơn, gần gũi với người đọc. Điều này chứng tỏ Trần Dzạ Lữ là một cây bút nhiều trải nghiệm, giàu vốn sống và từ ngữ phong phú. Có thể nói đây là một cách chơi chữ "mê tự". Qua thơ, chúng ta thấy Trần Dzạ Lữ một người con thân yêu của miền núi Ngự sông Hương nặng lòng với quê hương, thương nhớ Huế không nguôi:
"Sao anh không về thăm lại miền Trung
Câu hát ấy làm xiêu lòng người xa xứ
Chiều cuối năm ta lăn tròn thương nhớ
Huế trong mơ, tình nghiêng ngửa trong hồn...
Bao năm rồi cứ hẹn sẽ về thăm
Nhưng cơm áo dùng dằng không dứt được
Đời viễn phương làm sao em biết được
Vó ngựa hồng đôi lúc nản chân bon
Áo tím ngày xưa và những con đường
Thuở hò hẹn làm sao ta không nhớ
Thương Hàng Me xưa ai qua guốc mộc
Ai giấu tình trong chiếc nón nghiêng nghiêng...
Ai đưa ai về qua phố Bao Vinh
Lý Ngựa Ô lại ngược dòng An Cựu
Ai ru điệu hát Nam Bình
Nghe day dứt đường bay của gió!
Sao anh không về hay anh đã nỡ
Quên người em nhỏ đất Thần Kinh?
Núi Ngự sông Hương và cả mối tình
Ta mắc nợ đến bồn chồn năm tháng...
Chiều cuối năm ta lăn đời đá tảng
Về phía phù hoa tóc trắng bùi ngùi
Vẫn cứ hẹn một ngày về thăm Huế
Dầu là ngày chim đã đổi đường bay..."
(Bài thơ: Chiều cuối năm nhớ Huế)
Khi xa Huế, ta thương Huế quặn lòng. Khi trở về, ta nhớ Huế miên man. Đó là tâm trạng chung của nhiều người đã từng gắn bó với Huế. Đọc thơ Trần Dzạ Lữ chúng ta bắt gặp nỗi niềm của chính mình:
"Lơn tơn anh về với Huế
Một mình không có em theo
Nắng xuân bên đèo ấm thế
Sao lòng chợt nặng đìu hiu!"
(Trích bài thơ: Về Huế một mình)
"Hương bưởi thơm lùng hương tóc em
Về đây đêm Huế nhớ Sài Gòn
Mười năm trở lại nơi vườn cũ
Ngơ ngẩn một vầng trăng lưỡi liềm..."
(Trích bài thơ: Đêm Huế nhớ Sài Gòn)
Yêu Huế. Qua hơn 50 năm đọc thơ Trần Dzạ Lữ, những người yêu thơ nhận ra: Trần Dzạ Lữ một đời thơ xanh mượt, ngọt sóng nước Hương Giang.
Lê Ngọc Trác
La Gi, ngày 6/4/2017
Rất cảm ơn anh. Không chỉ viết về tôi (với cái tình) mà anh đã viết bằng cái tâm của người nghiên cứu văn học các vị chiếu trên như Bích Khê, Hồ Dzếnh, Quách Tấn, Tế Hanh... và cả bạn bè văn nghệ của tôi nữa. Tôi cạn nghĩ: ”Mỗi người đi theo văn chương (như một nghiệp dĩ) thì thời gian và công chúng chính là vị quan tòa công minh nhất để phán xét. Cho nên chúng ta đến với nhau bằng ”cái tình” là điều đầu tiên và cuối cùng bởi vì: “Trăm năm còn có gì đâu/ Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì... (Nguyễn Gia Thiều -Cung Oán Ngâm Khúc) đúng không anh?
Tôi cũng đọc được nhiều thơ anh và tôi thích nhất bài thơ viết về Mẹ:
THƠ:
TÂM SỰ VỚI MÁ

1. Má ơi!
Tóc con giờ đã phai màu
Nếu còn sống
Má sẽ cho tiền con nhuộm tóc
(Bởi con là bé đầu lòng của Má
Má thương con nhất nhà)
2. Tóc bạc trắng rồi
con mới hiểu
lời mắng yêu của Má năm nào
(Mày là thằng thơ thẫn, lông bông)
Ngày xưa
Ba sống ở làng đông
Má ở phố tây
Cách nhau dòng sông nhỏ
Cô gái thành phố về nhà chồng
Không quen cuốc đất trồng khoai
Thế mà
Suốt đời Má phải gánh nặng đường xa
Sáng bán cháo vịt
Chiều bán chè đỗ đen
Nuôi một đàn con dại
(khi Ba con ở tù)
Bảy anh em chúng con lớn lên thành người
Từ máu và mồ hôi của Má
3. Má đi xa đã mười ba năm
Tết đến không có Má
Nhà mình thường kém vui
Năm nay Tết lại về
Con lại nhớ ngày xưa…
Nhà mình nghèo
Không tiền mua áo mới
Má cắt bộ đồ đẹp nhất thời con gái
Sửa thành áo mới cho anh em chúng con
Nhà không tiền mua thịt
Má thường luộc rau xanh
Chúng con giành nhau ăn
Khen ngon

Như chưa từng được ăn…
4. Đã bao lần
Con viết thơ tặng người yêu
Làm thơ tặng bạn rượu
Nhưng
Chưa một lần
Con viết nổi một câu thơ tặng Má
Má có buồn con không
(thật con là thằng lông bông)
5. Chiều nghĩa trang cuối năm
Gió thổi lạnh mấy hàng cây
Hoa mắc cở úa gầy chân mộ chí
Má nằm đây…
Mà ngàn thu cách biệt
Thương nhớ Má vô cùng
Con chỉ biết khóc… Má ơi!
Lê Ngọc Trác
Tiểu sử LÊ NGỌC TRÁC:
Nhà biên khảo. Tên thật Lê Ngọc Khôi
Sinh ngày 29 tháng 12 năm 1952 tại Hải Châu, Nghĩa Hiệp, Tư Nghĩa Quảng Ngãi.
Hiện định cư tại LaGi - Bình Thuận
Tác phẩm đã xuất bản:
Dòng Sông Em Và Tôi (thơ, 1996),
Về (thơ, 2007),
Một Chút Tình Thơ (tiểu luận, 2008),
Miên Thẩm Tùng Thiện Vương Nhất Đại Thi Ông (biên khảo, 2008),
Những Người Ưu Tú Của Núi Ấn Sông Trà (biên khảo - 2009),
Thi nhân - Thi ca & Cảm Nhận (tiểu luận, 2013), Quảng Ngãi - Câu thơ nặng tình cố thổ. Nhà xuất bản Hồng Đức 2017...
Hình 1: Nhà văn Trần Hữu Ngư
Hình 2: Nhà thơ Lê Ngọc Trác và 
chị Monique Hồng: ”Thuở làm thơ yêu em”
PHẦN 30
HOÀNG NGỌC TUẤN
SUỐT CÕI NHÂN GIAN: "HÌNH NHƯ LÀ TÌNH YÊU"
Tên tập truyện được bạn đọc trước và sau 75 yêu thích này cũng chính là định mệnh của chàng suốt 59 năm ở cõi nhân gian này. Cứ mãi đi về không bao giờ cố định (có nhà mẹ ruột ở gần chợ cá Nguyễn Tri Phương song lâu lâu mới về thăm mẹ). Sống không hộ khẩu, không căn cước (trước 75 trốn lính, sau 75 chỉ có một giấy chứng nhận làm báo để đi, viết và sống). Trước 75, tôi đọc chàng trên Văn, Bách Khoa... vì là người cùng thời chứ chưa gặp mặt bao giờ. Nhân một chuyến tôi bay ra miền Trung công tác, trên chuyến bay đó có cô gái đang đọc một tạp chí văn học, lại giở ngay cái truyện ”Cô Bé Treo Mùng” của HNT (ngồi cạnh tôi), tôi tò mò: “Thích truyện của tác giả ni hả?” Cô bé nhanh nhẩu: ”Không những thích mà quen thân nữa kìa.” Tôi nói: ”Rứa à? Nếu tôi không lầm thì cô cũng viết lách. Dạ, em là..." Tôi sửng sờ, thì ra... rất vui khi biết cô. Từ đó tôi quen thêm một người viết trẻ. Tôi cũng rất thích truyện của cô ấy đăng trên Văn viết về vùng đất Phan Thiết. Nhưng sau này cô ngưng viết văn và chuyển qua nghề đạo diễn...
Riêng Hoàng Ngọc Tuấn, trước 75 thời trốn lính chàng được cố nhà văn Nguyễn Mộng Giác cưu mang nhiều nhất ở phố biển Quy Nhơn. Và cả sau 75 (thời Nguyễn Mộng Giác có cơ sở sản xuất mì sợi ở Thị Nghè). Hai thằng Huế lang bạt là tôi và Tuấn không hiểu sao lại được anh Giác quan tâm, thương quý nhất. Tôi thì thật cảm động vì không chỉ anh Giác mà cả chị Nguyễn Khoa Diệu Chi (vợ anh Giác) cũng thế. Chị xem như người thân trong nhà. Điều này thể hiện rõ nhất là những ngày xao xác 75, có gì chị cũng nhắn tôi và Tuấn đến để sẻ chia. Tính cách của Tuấn là ít nói và sống như mấy câu thơ của thi sĩ Phùng Quán: “Yêu ai cứ bảo rằng yêu/ Ghét ai cứ bảo rằng ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chìu/ Cũng không nói yêu thành ghét/ Dù ai cầm dao dọa giết/ Cũng không nói ghét thành yêu (Lời Mẹ Dặn). Những lúc uống bia ở 81 Trần Quốc Thảo, cà phê ở đường bà Lê Chân của thi sĩ Huy Tưởng hay nhà hàng Đất Phương Nam của Bình Huế, Đỗ Bèn, Tuấn thường ngồi một mình (có khi với tôi hay một bạn khác) bởi không thích đám đông. Chàng uống, đốt thuốc Bastos xanh và nhả khói lên trời... (ghiền thuốc đen này một ngày hai gói). Vô phước có anh chàng nào nhào tới tỏ vẻ ”tình thương mến thương?“ là Tuấn không nói không rằng, đứng dậy đi qua bàn khác. Không thích là không ngồi chung nhưng được tính tốt, không nói xấu ai, không “gắp lửa bỏ tay người”, không hề dòm ngó đời riêng của ai. Do vậy mà bạn bè rất thương yêu. Những năm tháng lang bạt, không nhà, thế mà Tuấn chưa bao giờ ngủ bờ ngủ bụi. Vẫn có chỗ, có người lo để chàng trở về ngả lưng qua đêm. Vẫn có ai đó, thương mà không nói, nên chàng cứ sống, viết thầm lặng với mình ” Hình như là tình yêu” cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay.
Trước 75 Tuấn viết rất nhiều truyện ngắn, kể cả truyện dài (dù viết truyện dài chưa thành công lắm). Sau năm 75, chàng ngưng ngang và chuyển qua viết báo để kiếm sống với tên Nhị Ngọc, Huấn Toàn và một vài bút hiệu khác nữa.
Tưởng cứ như vậy mà Tuấn tiếp bước hành trình cô đơn của một nhà văn chân chính với hy vọng của tôi: Sẽ được đọc những truyện ngắn của chàng viết sau này (có khi viết mà không đăng báo hay phổ biến, biết đâu chừng?) Ai ngờ đâu Tuấn bị bạo bệnh, những bạn bè thân thiết đưa Tuấn vào bệnh viện Chợ Rẫy... Thời gian này, những người thương quý Tuấn vận động lo toan (không chỉ trong nước mà cả những người ở ngoài nước). Ở SG có nhà thơ Phù Hư nhiệt tình xắn tay áo lên vận động ACE văn nghệ được một số tiền lo viện phí cho Tuấn (Tôi cũng có góp chút ít vào để mong bạn mình thoát lưỡi hái tử thần). Song nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn không qua khỏi và chàng đã lìa thế gian năm 2005. Mới đó mà đã 13 năm tác giả “Cô bé treo mùng” về cõi thiên thu. Tôi nghĩ chàng sẽ vô cùng an nhiên bởi không còn nặng nợ áo cơm dương thế bằng những trang viết phải ký tên khác. Không còn thấy cảnh bon chen danh lợi, ganh ghét đố kỵ nhau vì lòng người còn lắm tham sân si... Tôi nhớ lời một ni sư nào đó đã nói (theo triết lý nhà Phật) ”Tham, Sân, Si chính là con đường dẫn tới Địa Ngục...”
Viết những dòng này như là nén tâm nhang thắp lên trong lòng mình để nhớ Hoàng Ngọc Tuấn khi đọc lại truyện “Cô bé treo mùng” và “Hình như là tình yêu”. Hai truyện ngắn mà tôi ưa thích nhất trong số gần 50 truyện ngắn chàng viết trước 75. Sau này các nhà xuất bản đã in lại sách của Tuấn. Tôi cũng rất dị ứng khi có người (nhất là trên FB) đã xài mấy chữ "Hình như là tình yêu" mà chẳng “chua” là HNT hay “May mà có em đời còn dễ thương” của Vũ Hữu Định. Cái thời người ta đua nhau copy, có khi là ý tưởng, có lúc là lời của một số nhà văn, nhà thơ mà chẳng cần gốc tích sáng tạo và chẳng mảy may tự trọng. Trên FB, cứ một người làm thơ về một đề tài gì đó là những người sau đua nhau viết mà không cần biết sự trùng lắp đến nhàm chán. Thí dụ một người nói về tháng 9, hôm sau biết bao nhiêu bài nói về tháng 9 mọc lên, không cần biết vần điệu khi làm thơ vần, chính tả sai be bét... Giá phải trả của một người viết là mấy mươi năm, có khi cả một đời người chứ không phải một sớm một chiều đã ung dung thành “thiên tài đột xuất” và họ đếm nhiều like rồi cho mình là “cái rốn của vũ trụ”.  Nếu thi hào Nguyễn Du sống dậy chắc phải nực cười ngao ngán...
Xin gửi đến các bạn truyện “Cô bé treo mùng” mà tôi bị ám ảnh khôn nguôi do ấn tượng kỷ niệm của Tuấn khi viết về Huế. Một nơi ở thì dễ giận (chữ của Vũ Hữu Định) mà đi xa thì nhớ quay quắt đến cuồng điên.
Truyện ngắn HOÀNG NGỌC TUẤN
CÔ BÉ TREO MÙNG
Mọi người trong nhà và nhất là anh, đều gọi đùa Ngâu là “cô bé treo mùng”.
Cái tên thật ngộ nghĩnh và khó quên được. Đêm khuya, mỗi khi đến giờ đi ngủ, các ông anh trai đi chơi đâu về, lười biếng chỉ việc cởi giày dép rồi nhảy phóc lên giường. Năm cô gái bị mẹ phân công ngay theo thường lệ. Mỗi người một việc, người sửa soạn chăn mền, kẻ xếp dọn quần áo, cô lớn nhất đi coi củi lửa trong bếp và lo về đèn đuốc cửa ngõ.
Riêng Ngâu bao giờ cũng thế. Ngâu chỉ làm mỗi công việc nhẹ nhàng nhưng cũng chán nản nhất, là treo mùng trong giường mẹ, giường mấy chị em, giường của mấy ông anh mặt mày đỏ gắt vì rượu bia, chỉ biết lăn đùng ra ngủ.
Mẹ ngồi trên giường, vấn một miếng trầu xanh, tay cầm con dao bổ quả cau. Mẹ nhìn quanh quất trong nhà như tìm đứa nào, rồi gọi lớn:
- Ngâu ơi, lên nhà lo treo mùng đi con.
Ngâu dạ một tiếng nhỏ từ nhà dưới. Hình như có tiếng thở dài chán nản. Ngâu đang cặm cụi ngồi học thuộc lòng một bài Pháp văn. Mai có giờ Pháp của ông giáo rất là hắc ám, học trò cứ bị kêu lên bảng bắt đọc thuộc lòng trơn tru bài giảng văn dài dằng dặc.
Ngâu bực mình xếp sách lại, đánh mạnh một cái trên bàn cho sướng tay. Ngâu vừa đi lên nhà trên, miệng lí nhí:
- Cứ “Ngâu ơi, lo treo mùng đi con” mãi. Con đang bận học bài. Nhỏ Út nó ngồi không, sao mẹ không sai nó làm giùm.
Mẹ âu yếm nhìn Ngâu chưa kịp trả lời thì cô em gái út đã liến thoắng la ầm lên:
- Chị Ngâu nói sướng chưa, bổn phận của chị sao bắt em làm. Em phụ trách việc dọn cơm mỗi ngày hai bữa mệt thấy mồ rồi.
Ngâu bĩu môi nhìn em nhưng cô Út nhoẻn miệng cười tươi như trêu tức làm Ngâu cũng phải mỉm cười. Ngâu biết mình cãi không lại cái miệng của nó.
Trong mấy chị em, Ngâu ít nói và hiền hơn cả nên bị bắt nạt hoài, mỗi khi có cãi nhau với ai là Ngâu đành chịu thua trước.
Treo mùng xong xuôi, Ngâu liếc dòm chừng mẹ rồi nhéo vào cánh tay đứa em út một cái cho bõ ghét và chạy nhanh xuống nhà dưới, cô Út la lên một tiếng nhưng cũng không buồn đuổi theo trả thù, cô đang bận với mấy cái bản nhạc của Đoàn Chuẩn, Từ Linh, giọng hát trong khe khẽ.
Ngâu trở lại với bàn học, ngồi nhìn những chữ in nhảy múa trong sách nhưng bây giờ Ngâu bỗng thấy nó mờ nhạt, không đọc được gì cả. Ngâu đành xếp sách lại, tự nhủ rằng đến mai, ông giáo giỏi lắm cũng chỉ kêu khoảng năm đứa lên dò bài. Trong lớp có sáu mươi người, mình xui lắm mới bị trúng tên được.
Ngâu dùng cây bút chì vẽ vẩn vơ lên trang giấy trắng. Ngâu thích vẽ hình những cô thiếu nữ mười bảy bằng tuổi Ngâu, cũng tóc xoã xuống vai và mặc áo dài như Ngâu. Nhưng hình vẽ lặng yên trên giấy làm sao nói tiếng giống như Ngâu được, không nhớ ai đã bảo rằng Ngâu có tiếng nói ríu rít như một loài chim sâu trong khóm lá nhỉ? Gớm, cái ông nào phát ngôn dông dài thế… À, Ngâu nhớ ra rồi.
Chán anh thật, là người Huế chính cống một trăm phần trăm, đã có hơn mười mấy năm tắm sông Hương, hái phượng, đập những trái bàng xanh trên vỉa hè. Thế mà chỉ trong mấy năm xa Huế, bây giờ trở lại không còn nhớ tên đường.
Anh phải hỏi thăm những bác đạp xích lô, rồi vội vàng đi dọc theo con sông ngắn dừng lại bên chân cầu nhỏ. Trên xa kia, ngôi nhà thờ Phú Cam mà anh vẫn còn nhớ, đổ nát lỗ chỗ những vết bom đạn từ một năm nào. Anh lẩm nhẩm trong miệng hoài cái địa chỉ của một người quen, chạy băng ngang đường thật nhanh cũng không tránh khỏi ngọn gió và roi mưa quất lạnh buốt vào mặt. Mưa ở Huế làm buồn bã và rét chết người cho những ai đang ngơ ngác ngoài đường.
Anh theo lời chỉ dẫn của một con mẹ bán cà-phê, leo lên lầu hai của cư xá. Trước cánh cổng đóng kín của gia đình nào đó, một cô bé đứng dựa vào bao lơn, đang ngắm cảnh trời mưa nên có vẻ giật mình khi anh lên tiếng hỏi:
- Xin lỗi, số nhà… ở đâu?
Cô bé mở mắt nhìn anh ngạc nhiên, một lọn tóc hất ra đằng sau để cho anh thấy rõ chút bối rối trong đôi mắt và miệng ấp úng trả lời:
- Dạ, ở ngay đây.
Cô bé chỉ vào cánh cửa nhà của cô. Anh mừng thầm trong bụng, bây giờ chỉ việc hỏi tên những người quen của anh, theo thứ tự lớn nhỏ.
- Có anh San ở nhà không?
- Dạ không.
- Thế có anh Hạ ở nhà không?
- Dạ không.
- Vậy có anh Tình ở nhà không?
- Dạ không.
- Chắc có chị Thùy ở nhà chứ?
- Dạ… cũng không. Chị Thùy đi học, chiều tối mới về.

Cô bé trả lời “không” bốn cái liên tiếp làm anh lúng túng. Quả là một cuộc đối thoại nản lòng. Anh đứng im, cố gắng nặn óc để nhớ thêm tên của một người quen nào đó trong gia đình này nhưng đành chịu. Nghe nói còn có mấy cô em gái nhỏ nhưng anh chưa quen biết gì cả. Cô bé cũng lặng yên chờ đợi khách. Anh suy nghĩ một chút rồi quyết định hỏi một câu cuối cùng.
- Thôi, đi vắng hết cả nhà cũng không sao. Nhưng… em tên là gì?
Anh đoán chừng anh lớn hơn cô bé cả chục tuổi nên gọi bằng “em” liền cho tiện. Cô bé ngạc nhiên, môi cắn vào nhau, nhưng cũng có một chút gì vui vẻ trong đôi mắt đen lánh:
- Dạ tên… Ngâu.
- Thế Ngâu có ở nhà không?
Đôi má cô bé mà anh vừa biết tên là Ngâu, cười thoáng một chút hồng hào. Giọng nói lí nhí trả lời:
- Dạ… có.
Thế là tốt rồi. Vượt cả ngàn cây số từ Sài Gòn về đây, ít ra cũng phải gặp được một người quen chứ. Anh nói là anh sẽ ngồi chờ mấy ông anh của Ngâu về. Trời mưa lớn thế này chắc họ cũng không đi chơi lâu gì đâu. Lát sau, ngồi trong căn phòng khách ấm áp, anh hút một điếu thuốc thật thú vị, nước mưa thấm ướt tóc tai và áo của anh cũng dần dần khô đi. Trên tường treo bức tranh một người đàn bà ngồi bó gối dã dượi bên bờ biển đen.
Anh giới thiệu anh cho Ngâu rồi tự tin hỏi:
- Ngâu có biết anh không, ở nhà có hay nói gì về anh không?
- Dạ… không.
Thôi anh thề sẽ không nói gì nữa. Ngâu đã trở lại cái điệp khúc lúc đầu rồi đó.
Những ngày đầu năm mới. Mấy chị em rút hết xuống nhà dưới, nhường phòng khách cho bọn đàn ông ồn ào như họp chợ trong màn khói thuốc lá dày đặc.
Những bàn tay thoăn thoắt cỗ bài sắc màu rực rỡ vui mắt trong những ván xập xám gay go. Bao nhiêu câu chuyện thi nhau tuôn ra ào ạt, cốc bia vàng sóng sánh và chiếc gạt tàn đầy ắp những mẩu thuốc lá cháy dở toả khói um lên. Tóm lại, là giang sơn của bọn đàn ông, chẳng thú vị gì cho mấy chị em cả.
Chỉ trong vòng nửa giờ anh thua hết sau vài ván bài tồi tệ. Anh phải đứng dậy nhường chỗ cho một con bạc dài hơi hơn. Đứng bên ngoài sòng bài anh đánh ké theo vài ván rồi cũng thua nốt. Thế là đương nhiên anh bị tống cổ ra khỏi sòng bài của người lớn để xuống nhà lân la đến sòng nhỏ hơn.
Mấy chị em đang chụm đầu vui vẻ chơi bài “tới”, một thứ bài thật quái đản. Thông thường trong những sòng bài gì đó, các con bạc cũng đều câm miệng hết để suy nghĩ hay tính toán. Nhưng đánh bài “tới” lại khác hẳn, người nào cũng háo hức mở miệng thật nhiều, hô nhiều chừng nào thì lại càng có hy vọng chừng ấy.
Thuở nhỏ anh cũng hay chơi thứ bài này nhưng lâu lắm rồi không còn nhớ luật lệ.
Mỗi phe gồm ba người, anh theo phe của Ngâu và Ngâu phải “gà” cho anh trong những lúc ban đầu.
Anh lóng cóng cầm đến mười con bài trên tay, mỗi con đều có những hình vẽ rối rắm thật khó nhớ và những cái tên kỳ cục như Ầm, Đỏ Mỏ, Dọn Mồm, Nọc Đượng v.v... Anh chăm chú nhìn như cố học thuộc lòng mười lá bài trong tay mình, tai hồi hộp lắng nghe phe bên kia “đi chợ”. Có kêu trúng tên lá bài nào của anh là anh hô lên một tiếng hăng hái, bỏ con bài đó xuống rồi đi tiếp một con bài khác của mình. Càng còn ít bài trên tay, càng nhiều hy vọng thắng.
Phe bên kia kêu:
- Đi chợ con Ngủ Trưa.
Anh dáo dác mắt quét nhanh quét dọc thật lanh trên nhưng lá bài nhưng trông thật hoa mắt không thấy gì hết. Ngâu quay sang anh:
- Anh có Ngủ Trưa không?
- Đâu có, xui quá.
Ngâu bỗng chỉ ngay vào một con bài của anh, la lên:
- Trời ơi, con Ngủ Trưa đây này.
- A! Rứa mà nãy giờ không thấy chi hết.
Anh thầm phục đôi mắt quan sát lanh lẹ của Ngâu vô cùng. Anh khoan khoái vứt mạnh con Ngủ Trưa ra chiếu, cái con bài quỷ quái thật đáng ghét, vẽ một bộ mặt méo xẹo lờ đờ trông ngái ngủ ra mặt thế mà mình tìm hoài không thấy.
Mới ra quân mà anh đi được liên tiếp mấy cặp liền. Trong chốc lát, trước ai hết anh chỉ còn lại trong tay hai con bài tẩy giấu kín. Bây giờ chỉ việc ngồi chờ phe bên kia đi trúng một trong hai lá bài của anh là anh thắng cuộc. Anh hí hửng hỏi nhỏ với Ngâu:
- Ván này anh hốt bạc chắc chắn rồi, mình chia hai nghe.
- Thôi, em không thèm.
Phe bên kia, cô Út hơi chồm mình định liếc trộm bài của anh làm anh hoảng sợ nắm chặt mấy con bài quý tử của mình: con Lũng Ruột và con Học Trò. Cô Út chăm chú nhìn anh như đề phòng, môi mấp máy sửa soạn kêu tên con bài. Anh lẩm bẩm rì rầm trong đầu óc… kêu đi, kêu Lũng Ruột hay Học Trò gì ta cũng ăn hết. Trời ơi, mau lên… Lũng Ruột… Lũng Ruột… Học Trò…
- Thầy!
Anh giựt mình la lên:
- Trời ơi!
Ngâu mỉm cười hỏi:
- Anh có con Thầy rồi hả?
- Không… không, trật rồi… phản nghĩa hết trơn rồi.
Phe bên kia, gồm có chị Thùy, Diệu và cô Út hí hửng bàn bạc với nhau để làm sao đoán cho ra con bài đợi của anh.
Anh cứ ngồi hồi hộp chờ đợi mãi, tên của hai lá bài anh đã học thuộc lòng trong đầu nhưng trong một lúc lâu chẳng ai kêu trúng cả. Mọi người thi nhau đi bài liên tiếp, miệng hô đôm đốp thật giòn tan làm như không đếm xỉa gì đến anh cả. Anh nghe những tiếng gọi tên bài rổn rảng thật khó chịu vì không trúng như mình chờ đợi. Nào là Tám Tiền đi Sáu Tiền, đi Xe, Xe đi Tuyết, Tuyết đi Nghèo, Nghèo đi Tràng Ba…
- A! Tràng Ba đây. Em ăn rồi!
Cô Út la lên một tiếng, vứt nhanh bài xuống rồi vừa cười vui vẻ vừa thâu tiền ăn về. Anh cáu sườn càu nhàu luôn miệng. Ngâu mỉm cười xoa những lá bài chạy lôn xộn trên chiếu, rồi chia cho anh mười con để đánh ván khác. Mái tóc của Ngâu khi cúi xuống, xổ xuống một bên má, đen óng ả trên chiếc áo màu nâu có những sọc vàng đan từng hàng đều nhau.
Ván bài chưa được gay cấn bao nhiêu thì mẹ bỗng từ dưới bếp đi lên. Mẹ la lên át hẳn những tiếng hô bài của mấy cô con gái:
- Trời đất ơi! Khuya rồi mà còn cờ bạc. Mấy cô dẹp hết đi cho tôi nhờ.
Mấy chị em đành liếc nhau cười trừ rồi lặng lẽ cất bộ bài, sửa soạn mỗi người đều biến mất trong tấm chăn ấm của mình.
Mẹ kêu lên:
- Cô Thùy xuống bếp bắc nồi nước sôi cho tôi gội đầu…
- Dạ.
- Còn cô Tâm chẻ cau vấn cho tôi miếng trầu coi.
- Dạ.
- Cô Diệu làm ơn đi ủi áo quần, còn cả một đống áo xống dưới bếp.
- Cô Út đi kiếm cái lồng ấp cho tôi.
- Dạ.
- Cô Ngâu…
- Con sắp sửa đi treo mùng cho toàn thể gia đình đây, như thường lệ.

Mẹ mỉm cười cốc đầu Ngâu một cái nhẹ. Ngâu biến đi sửa soạn treo mùng. Chỉ còn có mỗi mình anh, anh nhẹ nhàng lỉnh ra phòng khách, thoát được đôi mắt của mẹ, còn đứng xớ rớ đó không khéo bà chia cho anh một việc gì thật là rất ít khoẻ.
Anh đứng nhìn ra ngoài cửa kính. Trời nửa đêm lóng lánh những chiếc lá chết, cành trơ trụi và đường đêm sâu hoang vắng. Anh cảm thấy cái lạnh như những mũi kim đâm nhè nhẹ vào trong thân thể.
Bây giờ, bao nhiêu lò sưởi, bao nhiêu chăn mền đều vô dụng trước giá rét đã hoà chung trong dòng máu.
Ngâu choàng thêm một chiếc áo dạ của mẹ, áo cũ năm xưa nào, lớp nhung đen trầy trụa đôi chỗ nhưng vẫn còn mướt mềm óng ánh, che lấp làn áo lụa trắng. Mái tóc nhánh đen không thua kém gì lớp áo nhung, ngát thơm mùi bồ kết và chanh tươi. Đó là bí quyết đem lại cho Ngâu những giấc mộng xanh đêm. Ngâu nói:
- Tóc thơm làm mình dễ ngủ lắm. Ban đêm em nằm xổ tóc che lên mặt, dần thấy thơm thơm là ngủ ngon lành liền.
Thế là sau khi đã treo mùng cho mọi người, đêm đêm cô bé yêu kiều nằm trong chăn ấm, mơ màng đi vào giấc mơ bồ kết ngập tràn những mùi hương êm đẹp của riêng mình.
Chìm khuất trong tiếng nói trò chuyện rì rầm của mấy chị em, giọng nói của Ngâu thỉnh thoảng mới vang lên góp chuyện, nhỏ nhắn và rộn rã lạ lùng.
Anh nhớ lại những tấm thiệp xuân đã trao trong ngày mồng một Tết cho mấy chị em của Ngâu, chúc tụng những câu thật hoa hoè hoa sói, kêu vang như tiếng cười của bầy thiếu nữ.
Nào là chúc Thùy bắt gặp được nỗi hạnh phúc đơn giản của riêng mình. Chúc Tâm đan xong áo cưới mùa xuân. Chúc Diệu vẫn nuôi mơ ước trên một chiếc lá bàng khô. Chúc cô Út long lanh như giọt nắng trên sông Hương.
- Anh định chúc Ngâu được gì?
- Dài quá nói không được.
- Anh viết đi, có bút mực đây.
- Chúc Ngâu muôn đời vẫn ríu rít như một loài chim sâu trong khóm lá, và…
- Thôi, chừng đó được rồi. Chữ anh khó đọc dễ sợ.
Học trò đã đi học lại sau những ngày nghỉ. Đứng trên bao lơn trước nhà nhìn xuống, mỗi sáng sớm và mỗi chiều anh sung sướng với hoạt cảnh rộn ràng êm đẹp trên đường đi. Những bầy nữ sinh từ những ngôi nhà kín đáo nào cùng nhau lũ lượt ngập tràn màu trắng lồng lộng của tà áo dài, theo vệ đường dưới những tán cây già cỗi, băng qua cây cầu nhỏ dưới chân nhà thờ, màu nước bàng bạc.
Những con đường im vắng âm u của Huế trở thành những dải lụa mềm kết bằng tiếng guốc khua vang của tuổi xuân xanh. Nhưng không có tiếng guốc của Ngâu trong đó, Ngâu đi một đôi giày đế mềm không hề vang tiếng động. Ngâu lớn hẳn đi như một thiếu nữ lạnh nhạt xa lạ nào, khác hẳn với cô bé khoác áo nhung đen treo mùng mỗi tối.
Khi đi xuống những bực thềm của cư xá, Ngâu chào anh như thường lệ, như với mọi người trong gia đình. Mái tóc không cột lại gọn gàng như lúc phải làm bếp, bây giờ xoã xuống để bay rối tung theo gió. Ngâu mỉm cười chào anh, có nghĩa là tạm biệt trong một buổi học dài tới trưa. Vì thế, anh thầm mong cho tất cả trường học trên thế giới này bị cuốn trôi phăng hết đi vì những trận hồng thủy.
Mùa mưa nước sông Hương lên cao, trường Đồng Khánh của Ngâu học lại nằm bên bờ sông, ngày chủ nhật tới này hy vọng sẽ có bão lụt lớn, nhận chìm chết đuối hết đi những sổ điểm thông tín bạ và những bà hiệu trưởng, những cô giáo khó tính, để cho bọn học trò không còn chỉ biết “mùa xuân trong mùa hạ thôi”, mà là tất cả mùa xuân trong bốn mùa, quanh năm suốt tháng học bài vạn vật trên cánh ve sầu, học bài Việt văn trên dòng sông, học bài sử ký trên những lăng tẩm và thành quách cũ, học bài toán pháp trên những ngón tay tiên, học bài địa lý trên đỉnh núi Ngự Bình, học bài nữ công gia chánh trên những dĩa bánh bèo Vĩ Dạ… Anh sẽ là ông giáo sư cuối cùng còn sót lại trong tỉnh này, anh sẽ mở một lớp tư gia chuyên dạy môn thẩm mỹ học về mưa và nắng.
Nhưng anh chờ hoài vẫn chưa nạn hồng thủy nào đổ xuống cả. Nước sông chỉ xấp xỉ ngang mắt cá chân trên Đập Đá. Mưa đã ngưng, một chút ánh nắng đã trở lại mặc dầu trời vẫn còn lạnh. Ngâu vẫn một ngày hai buổi đến trường, bận rộn suốt ngày với những bài toán mà Ngâu rất ghét, cắn bút suy nghĩ với bài luận văn, chia sẻ cùng cô bạn ngồi cạnh những trái ổi xanh và một gói muối ớt giấu dưới gầm bàn.
Đến chiều trời vẫn xám đen và đổ mưa lớn, vẫn chưa thấy Ngâu về nhà. Cô Út chạy đi tìm anh.
- Chị Ngâu quên đem áo tơi, chắc đang đứng chờ trên trường rồi. Anh lấy xe của em đến đón chị Ngâu về đi, nhớ đem giùm áo tơi.
Thế là như một hiệp sĩ xông pha ngoài mưa gió, anh phóng xe gắn máy như điên trong bầu trời giận dữ cơn mưa thác đổ. Ngâu đang đứng núp dưới mái hiên trường, thân hình mảnh khảnh co ro trong chiếc áo len tím mong manh, làn da xanh run rẩy.
Con đường từ trường về nhà sao mà ngắn ngủi một cách bần tiện thế.
Sau bữa cơm tối, mấy chị em xúm xít lại với nhau chuyện trò đủ thứ. Đến phiên Ngâu, chỉ toàn nói những chuyện trên trời. Ngâu ít nói, nhưng mỗi khi nói cái gì thì lại hối hả như sợ quên hết triệu câu chuyện đang đầy ắp trong người. Phê bình, cho “điểm” mấy ông giáo.
Ông thì chuyên môn bắt học trò làm bài trong lớp để mình rảnh rang ngồi đọc báo, ông thì say sưa đọc bài làu làu cho học trò chép đến rã tay, giọng đều đều như đọc kinh cầu nguyện. Ông nào thuộc loại “đuya” chuyên môn kêu học trò lên bảng đen để tha hồ bắt bẻ, nạt nộ. Có ông trẻ tuổi thì mặt mày cứ lấm la lấm lét trước một lớp toàn là nữ sinh, cứ cúi đầu xuống đất lí nhí giảng bài.
Ngâu cười sung sướng:
- Anh biết không, em hên quá đi. Thầy vừa kêu chúng em lên bảng trả bài thì có phái đoàn đi quyên tiền giúp đồng bào nạn lụt vào lớp. Tụi em cho mỗi đứa năm đồng, mười đồng mà lợi dụng được “thời cơ” nói chuyện, chọc nhau vui kinh khủng.
- Có gì đâu mà hên?
- Để em nói hết đã. Thầy làm “le”, móc ví cho luôn một tờ giấy năm trăm, cả lớp vỗ tay tơi bời. Khi phái đoàn quyên tiền ra khỏi lớp rồi, thầy ngồi dàu dàu mặt mày buồn thiu, chắc là đang tiếc tiền. Thầy cứ ngồi ngẩn ngơ “suy tư” hoài cho đến hết giờ học luôn, quên cả việc bắt em trả bài. Hú vía! Bài đó hôm qua em... quên học.
Anh bình luận:
- Ông thầy hào hoa đó chắc tối nay phải xin dạy thêm giờ để lấy lại vốn.
Mẹ bỗng từ nhà trên đi xuống, cắt đứt câu chuyện giòn giã. Như thường lệ, mẹ ra lệnh cho mỗi cô phải chúi mũi vào vở học của mình. Ngâu nhăn mặt trước một cuốn sách toán đầy hình vẽ rắc rối và những con số chi chít.
- Sao mà em ghét môn toán quá.
- Ghét đến chừng nào?
- Ghét đến nỗi không... thèm hiểu gì hết.
Anh làm tài khôn gật gù suy nghĩ trước một đống hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật chồng chất lên nhau trông thật loạn xà ngầu. Anh nói:
- Để anh giảng lại cho, Ngâu không hiểu từ bài nào?
- Từ năm ngoái lận.
Anh khuyên nhủ:
- Thế thì thôi, cứ lơ hẳn với môn này cũng không sao. Toán học là một môn học vô bổ, không cần thiết, Ngâu chỉ cần biết bốn thứ tính cộng, trừ, nhân, chia là đủ xài rồi.
Ngừng lại một lát, anh nghiêm giọng lên tiếng rao giảng những quan điểm mới của anh về toán học:
- Nếu thấy bốn thứ tính đó vẫn còn nhiều lắm thì chỉ cần biết làm toán cộng thôi cũng đủ rồi. Thời buổi này bất công, không có cái gì được chia đều vậy bỏ toán chia đi. Người tham lam mới học toán nhân, người hà tiện mới học toán trừ. Ngâu chỉ cần nhớ toán cộng cũng được.
- Thôi đi. Nói như anh rồi cuối năm Ngâu lấy gì mà đi thi.
Một lần nữa, sau một cái đằng hắng để lấy giọng, anh trở sang trình bày về vấn đề bằng cấp:
- Con gái học cho lắm mà làm gì? Trước sau rồi cũng đi lấy chồng. Muốn làm một bà tiểu học, thì cứ lấy ngay một ông mới đậu tiểu học. Muốn làm bà tú thì lấy chồng đậu tú tài. Cứ như thế muốn làm bà tiến sĩ...
Ngâu đỏ mặt vùng vằng, cầm cuốn sách đánh vào vai anh:
- Thôi. Anh lên nhà diễn thuyết với mẹ đi, để coi có bị ăn một chổi lông gà không, để yên cho em học bài.
Không tìm được một người thông cảm với mình, anh đành lủi đi mất. Lát sau, khi Ngâu đã học thuộc bài rồi, anh lại trở xuống với Ngâu, đề nghị một bài học mới: bài cào ba lá. Anh nhìn thấy bàn tay trái của Ngâu đeo mấy chiếc nhẫn xinh xắn bằng hột cườm đủ màu. Anh ra điều kiện ăn thua mỗi ván một chiếc nhẫn. Sau gần cả chục ván bài dằng dai, anh gặp may mắn (nếu không kể một vài ván gian lận), anh ăn được của Ngâu một chiếc nhẫn cườm trắng. Anh bèn nghỉ đánh, thà ăn ít mà chắc ăn hơn.
- Anh không được nghỉ ngang xương rứa. Đánh thêm một ván cuối.
- Ừ, đánh thì đánh, sợ gì.
Ván này anh cẩn thận kéo con bài xê dịch chậm chạp từng li từng tí. Những đốm đen hiện dần ra... chết rồi, có hai “nút”.
- A, anh thua rồi. Trả chiếc nhẫn cho em.

- Không trả. Nhẫn đâu có liên quan gì với cờ bạc.
- Thôi được rồi, anh phải bắt đền bằng cách khác.
- Anh có cái gì để đền bây giờ?
- Anh kể chuyện cho Ngâu nghe đi.
- Được rồi... Ngày xưa có một nàng công chúa tên Bạch Tuyết và bảy chú lùn...
- Thôi... thôi. Em lớn rồi, không thèm nghe chuyện cổ tích nữa.
- Vậy biết kể chuyện gì đây?
- Chuyện gì cũng được... hay là anh kể chuyện về anh đi.
Câu nói của Ngâu làm anh đau điếng người. Kể về anh? Một vài ngày ngắn ngủi vừa qua, anh tưởng chừng như đã quên hết đi trong căn nhà này. Ngây ngất với một chút hạnh phúc ấm cúng mà cái thế giới nhỏ nhắn như một trái hồng đào (trong đó dĩ nhiên có Ngâu) đã tình cờ cho anh. Anh không còn muốn biết, muốn suy nghĩ về một điều gì khác. Hãy cho anh tan loãng đi trong những nụ cười thân ái của mọi người, trong màu củi bếp, trong những đêm nghe gió lạnh đập ngoài cửa kính. Cho anh làm một người không tuổi, như vừa mới ra đời, không quá khứ, không ràng buộc, không nợ nần gì với những ngày đã qua, không mơ tưởng gì trong những ngày sẽ tới.
Thế mà Ngâu đã nói: kể chuyện về anh đi. Anh biết bắt đầu từ chỗ nào? Hồi tưởng, chính là điều anh sợ hãi nhất.
Ngày còn ở một thành phố miền biển, anh có quen với một người đàn bà tên là Liên. Nàng già nua trước tuổi, ghiền rượu, trác táng thâu đêm. Tóm lại đây là một nàng kỹ nữ sa sút. Nhưng anh thương nàng vô cùng, bởi vì nàng không che giấu điều gì hết, nàng cho anh thấy rõ đời sống trụy lạc của nàng, nàng không than vãn với ai một cách rẻ tiền về tâm sự hay quá khứ vàng son của nàng.
Liên chấp nhận hết mọi sự đã xảy đến với nàng, và chỉ thú thật một điều, nàng tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng ấy có một vẻ đẹp quyến rũ anh dữ dội. Giữa thể xác tàn tạ của nàng và tâm hồn dễ dàng sa ngã của anh, hình như cùng đập chung một nhịp tim đồng điệu.
Bây giờ người đàn bà ấy là một tấm gương mà Ngâu phải quay mặt đi để khỏi nhìn thấy. Nhưng trước đây nàng cũng có một tuổi mười bảy, đàn bà nào cũng có một thời đó cả. Ngày đó nàng cũng cắp sách đi học như những thiếu nữ khác, như Ngâu, nàng cũng mặc áo dài trắng, cũng thẹn thùng, tinh nghịch, cũng nhiều mơ mộng. Nhưng Ngâu thấy đó, đời sống quả thật dễ sợ. Đời sống của Ngâu ngập tràn hạnh phúc, anh không thể đặt hình ảnh của Ngâu bên cạnh người đàn bà ấy. Sự cách biệt, hố sâu lớn lao giữa khốn cùng và tươi đẹp ấy có một cái vẻ gì làm anh đôi khi không thể chịu nổi. Dĩ nhiên là Ngâu vô tội trước sự bất công đó.
Ngâu có hương thơm ấm cúng của gia đình, tình thương của mẹ và những anh chị em. Niềm vui của trường học, bạn bè, sách vở. Sung sướng khi được mặc một chiếc áo mới, qua cầu Trường Tiền làm những cậu con trai đạp xe đạp đi ngược chiều phải ngoái cổ lại nhìn. Nhiều lúc anh tưởng tượng ra một cái cảnh thật buồn cười: anh và Ngâu như hai tên võ sĩ lên võ đài và chưa gì anh đã thấy mình nhẹ ký hơn rõ ràng. Đối với hạnh phúc của Ngâu, anh không có gì hết, một con số không to tướng vô vọng giống như con số không của nàng kỹ nữ. Gia đình, học đường, bạn bè xa lạ với anh và từ lâu anh đã đánh mất niềm vui của thời nhỏ dại.
Tuổi thơ của anh cũng có được đôi chút cây trái thiên đàng, nhưng tuổi trẻ anh nếm đầy tro đắng sa mạc.
Hạnh phúc êm ấm của Ngâu đã chia cho anh một chút ngây ngất, nhưng cùng một lúc, nó làm anh bỡ ngỡ.
Chuyện của anh không có gì nhiều. Đại khái nó chỉ có vụn vặt những mảnh ý nghĩ như thế, nhưng làm sao anh kể cho Ngâu được, đâu phải chuyện thần tiên diễm ảo. Nếu Ngâu là cô công chúa mơ mộng ngủ say trong rừng thẳm, chờ đợi một chàng hoàng tử đánh thức, thì đáng buồn thay, anh luôn luôn là một chàng hoàng tử bị kẹt xe giữa đường. Có lẽ vì anh không quen trong bộ ngự bào hào nhoáng làm anh cử động luống cuống. Anh không thích hợp với vai trò hoàng tử cao sang, anh chỉ là kẻ lữ hành không tìm thấy đất hứa, đêm đêm gối đầu trên những vệ đường điền dã mà vẫn ngủ say đời.
Thôi thế là hết chuyện, nhưng thật ra câu chuyện đã bắt đầu từ hồi nào đâu. Nãy giờ anh vẫn im lặng, Ngâu cũng thế. Đêm rơi thanh vắng. Anh như nghe thấy tiếng chim hải âu kêu buồn trong đôi mắt Ngâu.
Bỗng giọng nói của mẹ từ nhà trên gọi xuống, như thình lình phá tan khối băng giá trầm lặng.
- Ngâu ơi!
Ngâu mỉm cười với anh, xếp những tập vở học lại cất trong hộc bàn. Ngâu đứng dậy và cố tình kéo lê đôi guốc kêu vang nghịch ngợm.
- Ngâu ơi!
- Con đây, mẹ cứ từ từ, trước sau rồi con cũng lên treo mùng liền mà.
- Quỷ! Tao có thèm nhắc chuyện treo mùng đâu, bổn phận thì phải tự động lo làm. Mới đi ăn kỵ về đây, mang về mấy trái hồng với bánh su sê, có ăn thì chạy lên đây.
Tiếng guốc của Ngâu nhảy rộn rã trên nền nhà. Thoáng một cái, anh chỉ còn nhìn thấy màu đỏ của chiếc khăn quàng vừa rơi.
Một tháng mùa xuân đã hết.
Anh rời Huế vào sáng sớm tinh sương. Ngồi nán lại một chút ở quán bún bò Cô Ba ngay dòng sông. Lát nữa anh sẽ đi bộ một quãng ngắn là đến nhà ga xe lửa, bây giờ làm nhà ga của hãng máy bay.
Trời còn sớm quá, chỉ lưa thưa một vài người cặm cụi đi ngang qua, hơi thở làm những đám khói xanh trong trời lạnh. Con đường rầy xe hỏa nằm sát bên quán, chạy mất hút không biết đến đâu, nghe nói bây giờ xe hỏa chỉ chạy đến được Lăng Cô hay Đà Nẵng gì đó.
Anh uống một tách cà-phê nóng đậm đặc, khói thuốc quyện mờ trước mặt, che kín đôi mắt nhìn về phía cây cầu dưới chân nhà thờ... Ngâu bây giờ chắc đã thức dậy, sửa soạn ủi chiếc áo dài trắng và miệng lẩm nhẩm ôn bài, đêm qua học mãi chưa thuộc mà thỉnh thoảng mẹ cứ réo lên “Ngâu ơi, lên treo mùng” mãi.
Có tiếng còi tàu đàng xa. Trong phút chốc chuyến tàu hỏa chạy rầm rập tràn vào người anh. Còi tàu hú lên từng hồi như tiếng kèn đồng xao xác của một người da đen, âm điệu nghẹn ngào khàn khàn lời vĩnh biệt.
Những bánh xe cuồn cuộn nghiến trên đường sắt chạy băng qua trái tim anh đau nhói.
Hoàng Ngọc Tuấn
1971
Muốn giới thiệu thêm truyện ngắn Hình Như Là Tình Yêu nhưng truyện ngắn của Hoàng Ngọc Tuấn dài lê thê nên đành dừng lại đây.Gửi hương hồn Tuấn với mấy câu thơ bất chợt của mình:
Xong rồi, một kiếp phù sinh
Bạn lên trời, gửi chữ tình cho quê...
Bao năm ngăn ngắt đường về
Biết con mắt ấy còn thề hẹn xưa?
Trần Dzạ Lữ

Hình 1: Nhà Văn Hoàng Ngọc Tuấn
Hình 2: Hoàng Ngọc Tuấn 
qua ký họa của họa sĩ Hoàng Đặng
PHẦN 31
TRẦN ÁNG SƠN,
CUỐI CÙNG ANH TẮM GỘI MÌNH BẰNG THƠ
Mới đó mà đã 4 năm nhà văn Trần Áng Sơn qua đời. Nhưng với tôi và anh em, bè bạn thì anh vẫn còn đó. Vẫn cùng rong chơi trên thế gian này. Nỗi ám ảnh thương quý khôn nguôi này đuổi theo mỗi lần tôi ghé cà phê 64 Trần Quốc Thảo khi quây quần bên Nguyễn Liên Châu, Ngô Đình Hải, Nguyễn Thanh Thủy, Tuấn Polo, Lê Nho Quế Sơn, Vũ Ngọc Giao, Châu Đăng Khoa... Ngồi ngay chỗ anh đã ngồi, kể cả Kim - Long - Huế mà nổi da gà... bởi khuôn mặt trầm tư, nghiêm nghị nhưng không thiếu cởi mở, lịch lãm, hào hoa ngày nào bên tách cà phê, bên chung rượu tiêu sầu... đã khắc ghi kỷ niệm.
Biết anh từ thập niên 60 qua những trang văn thơ đăng trên các tạp chí miền Nam. Vậy mà mãi đến thập niên 80 tôi mới gặp và quen biết Trần Áng Sơn. Đó là thời kỳ những người văn nghệ sĩ cũ không biết mình sống ra sao và về đâu khi quyền lực đã được chuyển giao. Họ kiếm sống bằng đủ thứ nghề (miễn là lương thiện) và tạm thời ngưng viết (cho dù sáng tạo đối với họ là cần như hơi thở), có người bỏ viết vĩnh viễn. Nhưng anh Trần Áng Sơn vẫn âm thầm làm việc và kiếm sống bằng ngòi bút của mình một cách chân chính và khiêm tốn (có tác phẩm ký tên TAS, có tác phẩm ký bút hiệu khác). Vì là thời kỳ đổi mới (1989) nên có nhiều hoạt động in ấn sách. Anh viết đến gần 50 đầu sách. Trong đó đáng kể nhất và cũng là cuốn sách mà bạn bè ưa thích nhất là: Những Trang Sách Khép Mở. Anh khắc họa chân dung nhiều văn nghệ sĩ bằng cách nhìn rất riêng của mình. Do cần mẫn làm việc và hút thuốc lá nên qua năm 2000 anh bị một lúc mấy thứ bệnh hành hạ phải vào bệnh viện. Trong đó bệnh tim phải kể trước nhất. Từ đó anh bỏ thuốc lá, viết ít lại và chữa bệnh ... bằng thơ. Một nhà văn cuối cùng chọn thơ để tắm gội linh hồn mình thì chẳng có gì lạ. Có lẽ thơ khái quát và cô đúc cao hơn những dàn trải khi viết tiểu thuyết. Cũng có thể anh lấy thơ để tắm gội mình bởi bụi bặm trần gian phủ lên đời sống nhiều tầng lớp u minh. Có thể anh trìu mến, vuốt ve khi ”chơi thơ” là thú chơi tao nhã nhất và trong trẻo nhất (tôi trừ ra những người rặn chữ, sắp xếp sao cho lạ, song chẳng đi thẳng vào trái tim người đọc rồi cũng lụi tàn). Vì vậy mà anh Trần Áng Sơn đã trình làng tập thơ lục bát năm 2012. Đó là những câu chữ được viết bằng tim và trí tuệ yêu thương mình, yêu thương người và yêu thương bè bạn của anh sau chót. Anh bước qua phạm trù này rất thanh thản và bình yên mặc dù không khỏi trăn trở về phận người, quê hương. Văn, thơ là thứ vũ khí sắc bén để anh chống lại phiền não và bệnh tật từ năm 2000 cho đến 2014. Người văn nghệ sĩ mãi mãi là người không tuổi đối với tâm hồn nhưng thân xác thì làm sao tránh khỏi quy luật của muôn đời? Những lần gặp sau cùng của năm 2014 thấy anh xuống sắc và chốc chốc lại ôm ngực trái như cố níu giữ trái tim mình ở lại cùng thế gian. Nhưng rồi phải bất lực trước số phận, ngày18.5.2014... anh bỏ lại bạn bè để về bên kia thế giới.
Tôi tưởng tiếc một nhà văn, một người anh lúc nào cũng đem cái tâm của mình ra xử thế. Một vóc dáng cao to, đẹp trai chỉn chu từ cách ăn mặc cho đến lời ăn, tiếng nói. Là em ruột của ca sĩ Mộc Lan, là người rất thân thiết với nhạc sĩ Châu Kỳ và nhiều anh chị em văn nghệ đã thành danh như Trần Tuấn Kiệt, Thế Phong, Cao Thoại Châu, Mai Trinh Đỗ Thị, Kim Tuấn, Tô Kiều Ngân, Nguyễn Thụy Long...
Anh viết truyện ngắn, truyện dài rất nhiều nhưng cuốn Những Trang Sách Khép Mở là cuốn gây tiếng vang nhiều nhất. Thơ anh đăng báo từ 1956 trên Bông Lúa, Nhân Loại... Song với tôi, tập thơ lục bát 68 Khoảnh Khắc, Hội Nhà Văn xuất bản năm 2012 lại rất ấn tượng vì sự ngọt ngào tuôn chảy như sông suối:
Lục Bát TRẦN ÁNG SƠN:
LỤC BÁT BUỒN

Ai chia lục bát hai câu
Một câu thấp một câu cao làm gì
Tôi ở đây, em ngoài kia
Trời ơi chăn chiếu chia lìa được sao
LỤC BÁT BIA BỌT
Lâu rồi không bọt không bia
Thấy thương cái cốc chia lìa cái môi
Thấy thương bó đũa chia đôi
Và thương em hé môi cười… không tên
LỤC BÁT BẤT NGỜ
Ba lô không ở trên vai
Cuộc đời là chỉ lai rai sống còn
Tôi gã đàn ông biết buồn
Biết cay biết đắng biết khôn biết khờ
Thế nên tôi rất ngu ngơ
Để tôi gặp cái bất ngờ… là em
LỤC BÁT SONG SONG
Tôi và em em và tôi
Như con đường sắt suốt đời song song
Suốt đời tìm một đường cong
Trên con đường sắt song song nghịch chiều
LỤC BÁT GIÃ TỪ
Giã từ câu sáu tôi đi
Câu tám níu lại còn gì hành trang
Chỉ là một dấu chấm than
Mà sao tôi phải cưu mang suốt đời
T.A.S
Thơ là chiêm nghiệm, là tiên tri, đúng không anh Trần Áng Sơn? Bài Lục Bát Giã Từ ấy đấy.
Trần Dzạ Lữ
Hình ảnh: Nhà văn Trần Áng Sơn
PHẦN 32
CAO THOẠI CHÂU,
NHÀ THƠ, NHÀ GIÁO VỚI THI PHẨM: BẢN THẢO MỘT ĐỜI
Anh Cao Thoại Châu là một trong số những người viết đất Bắc (54) mà tôi quý trọng. Biết anh trên các tạp chí văn chương nổi tiếng của SG trước 75. Sau năm 75 nghe anh ở Tân An - Long An dạy học (có thời anh dạy học tận Pleiku) tôi cũng chưa có dịp diện kiến. Đến gần năm 2000 anh về SG tôi mới có cơ hội gặp gỡ. Một người luôn mang cặp kính đen và trong giao tiếp thì chẳng niềm nở là mấy. Sau đó cũng gặp vài lần. Tuy không thân tình tôi vẫn mến anh, nhất là khi tôi phát hiện tập thơ: BẢN THẢO MỘT ĐỜI của anh trong gánh ve dọc đường (Tôi hỏi chị ve chai và mua lại đem về tủ sách của tôi). Từ đó, tôi càng thêm đồng cảm sự cô đơn đến lạnh lùng của thi nhân.
Tập thơ Bản Thảo Một Đời in năm 1992, nhà xuất bản LONG AN. Không biết có bao nhiêu trang và có bài thơ Mời Em Uống Rượu của anh mà tôi đã đọc và thích thú trước đó không bởi vì tập thơ bị xé mất bìa, chỉ còn lại 78 trang thôi. Thơ in trên giấy Tân Mai màu ngà không được sang trọng như bây giờ. Nhưng ở đó là chữ nghĩa, là hồn cốt của một nhà thơ nổi tiếng. Là tim óc và trí tuệ của tác giả đã, đang trò chuyện cùng thơ. Ngay trang 7, bài thơ đầu là: THƠ TẶNG VỢ. Tôi đọc một mạch và đọc đi đọc lại nhiều lần dù bài thơ dài đến 23 khổ. Người vợ thế nào mà “ông quan nửa đời ăn lương vợ”? và tôi đã cay xè đôi mắt, nuốt ngược buồn vào trong cùng anh để nhớ câu thơ của thi bá Vũ Hoàng Chương: ”... Lũ chúng ta đầu thai nhằm thế kỷ”. Thời mà vật chất đang gặm nhấm tâm hồn nếu ai không biết giữ... Tôi rất đau lòng khi thấy thơ anh ra gánh ve chai, thơ tôi cũng như bạn bè, chắc cũng cùng chung số phận khi vào tay kẻ (không quý thơ như nhà nông quý lúa - Vũ Hữu Định) không đáng để ký tặng. Tôi vốn xuề xòa nên càng hiểu tính cách của anh hơn đó, anh Cao Thoại Châu. Thơ là trái tim, là chất xám của mình, hãy gìn giữ báu -vật -tinh thần ấy trong ngôi đền thi ca. Những lời tâm huyết với anh cũng chính là tự dặn tôi: Cẩn trọng trong giao tiếp bởi vì một cú nhấp chuột là kẻ xấu có thể biến mình thành nhà thơ, thi sĩ trên FB, chỉ cần xào nấu lại là có bài thơ của “thiên tài tự phong“ ngay. Kinh quá! Kinh quá! Do vậy mà tôi hạn chế bạn bè trên FB (xin quý vị đừng trách). Có lần tôi bị chôm tới 10 bài thơ trong hai thi phẩm tôi đã xuất bản mà không thay đổi một từ nào. Vào nhà kẻ chôm chỉa, tôi chỉ đích danh thì hắn ta xóa ngay những bài đã ăn cắp để phi tang... Ui chao ơi! Trời ơi! Đất ơi! Mạ ơi! Nhớ câu ai đó nói: Thời chi mà lạ quá! Người hiền chết sớm. Kẻ ác sống lâu... mà thắt ruột gan...
Lâu nay không thấy anh lên SG, tôi nghĩ cái tuổi hoàng hôn rất khó xê dịch. Thôi yên lòng hủ hỉ với người trăm năm. Một đời thơ anh thế là tuyệt rồi vì nhân gian không phải tất cả là kẻ xấu để chận đường thi nhân đi đến đích cuối cùng CHÂN THIỆN MỸ. Tôi biết vẫn có người yêu thơ anh da diết và cũng đã tạo điều kiện để anh có thời gian vui sống. Đó chính là cái tình quý hiếm nên lưu giữ mãi mãi. Đó là chất “xúc tác” như suối nguồn để thi sĩ tiếp bước hành trình, phải không anh?
Thơ anh mới chính là THƠ bởi tiếng dội của nó thấu suốt ngàn trùng và tôi không quên giới thiệu tiểu sử và 3 bài thơ của anh với bạn đọc mà tôi tâm đắc (có thể sau này anh viết nhiều hơn, hay hơn?)
Tiểu sử:
Cao Thoại Châu
Nhà thơ Cao Thoại Châu tên thật là Cao Ðình Vưu, sinh năm 1939 tại Giao Thủy, Nam Ðịnh, di cư vào Nam năm 1954.
Ông tốt nghiệp Ðại học Sư phạm Sài Gòn năm 1962. Nhiệm sở đầu tiên của ông là Trường Trung học Thủ khoa Nghĩa ở tỉnh Châu Đốc.
Sau năm 1968 ông bị động viên vào quân ngũ. Năm 1970 ông được biệt phái về Bộ Quốc gia Giáo dục và thuyên chuyển về Trường Nữ Trung học Pleime của tỉnh Pleiku. Cao Thoại Châu dạy học tại đây cho đến ngày 30.4.75.
Sau 1975, ông vào trại cải tạo 3 năm và cũng như nhiều nhà giáo khác, Cao Thoại Châu phải nghỉ dạy trong một thời gian khá lâu. Trong thời gian này ông làm thợ hồ, sau đấy mới được gọi đi dạy lại tại trường Trung học Phổ thông Long An.
Trước năm 1975 Thơ Cao Thoại Châu xuất hiện thường xuyên trên các tạp chí văn học: Văn, Văn Học, Khởi Hành, Thời Tập… Sau 1975 ông nghỉ viết trong 15 năm. Từ 1990 thơ ông mới xuất hiện trở lại trên các báo Thanh Niên, Kiến Thức Ngày Nay, Long An Cuối Tuần…
Tác phẩm đã xuất bản:
• Bản thảo một đời (thơ, 1992)
• Rạng đông một ngày vô định (thơ, 2006)
• Ngựa hồng (thơ, 2009)
• Vớt lá trên sông (tạp bút, 2010)
• Vách đá cheo leo (tạp bút, 2012) (Trích tiểu sử
CTC)
THƠ CAO THOẠI CHÂU
LÝ NGỰA Ô
Vừa chấm bài vừa hát lý ngựa ô
giọng phu nhân khác gì ca sĩ
hai mươi năm nàng lìa xa đất Huế
bắt ta làm con ngựa lý trăm năm
Đêm mịt mùng con ngựa rớt dây cương
tiếng sắt-đá hóa thành điệu lý
bỏ lại sau lưng thành quách cũ
lệ lưng tròng tôn nữ lên yên
Ta gửi phu nhân lòng ngưỡng mộ
trăm năm một điệu lý theo chồng
nàng đi trong cõi đời dâu bể
Một mình một ngựa rớt dây cương
MỜI EM UỐNG RƯỢU
Có những đêm trường gợi tiếc thương
Có ta lấy tóc đếm ưu phiền
Có ta nâng trái sầu chín rã
Có lệ ta hòa chung hơi men
Có mắt ta là ly rượu nhỏ
Có đời ta là quán cô hồn
Và có ta đang ngồi trong quán
Uống cho tàn cho mạt kiếp nhân sinh
Cũng có đau thương làm vui bạn nhỏ
Có hoang đàng tìm thấy giữa cơn say
Có tuyệt vọng trên vành ly rực sáng
Và có em buồn ta cõng trên vai
Có nắng chiều đang rơi ngoài bãi
Bãi vắng chiều xa không bóng người
Chứng kiến giờ ta lên cơn hấp hối
Ta đội nón đi mời em uống rượu
Cuộc tình sầu thôi hãy gác qua bên
Ta đâu có giận hờn chi cuộc sống
Dù thật tình buồn lắm phải không em
Ta là ly vậy mà em biết không
Ta là rượu vậy mà em biết không
Uống đi em bởi ly đã kề
Bởi ta buồn như câu chuyện kể
Câu chuyện buồn kể giữa cơn say
Bởi lát nữa đây mặt trời sẽ chết
Mùa đông về không chỗ dung thân
Ta sẽ đứng run trong giá lạnh
Dáng bơ vơ như kẻ thất tình
Và thấy em như bờ dốc đứng
Ta chiếc xe đò nổ bánh bơ vơ
Mặt trời chết ở nơi nào trong ta
Ta đã say làm sao biết được
Em không uống nên có ta lẻ bạn
Vòng tay ôm hồ rượu thấy mênh mông
Rượu đã hết hay mắt ta vừa cạn
Em chối từ ta biết nói sao hơn
Thôi giã tiệc và xin chào bạn nhỏ
Ta tủi hờn bóp nát chiếc ly không
Và ta tưởng chính mình đang vỡ
Mùa đông dài ta lại rất cô đơn
Có ta trong một toa tàu trắng
Tỉnh rượu nằm nô giỡn một mình
Có em còn đứng sau khung kính
Có nỗi buồn gửi một toa riêng.
Sài Gòn, 26-12-68
THƠ TẶNG VỢ 
(Bài thơ dài 23 khổ nên tôi chỉ trích một số khổ yêu thích)
Không phải vợ ông Trần Tế Xương
nhà thơ có hai bàn tay trắng
có bãi xa thân cò cánh mỏng
tiếng eo sèo như sóng dậy trên sông
Không phải vợ nhà thơ để hiểu nỗi lòng
của ông quan nửa đời ăn lương vợ
nửa đời leo lét ngọn đèn xanh
người tự thắp trên nấm mồ yên nghỉ
Chiều lang thang trên bến Vị Hoàng
để biết thói đời ăn ở bạc
chút sương nắng luồn trong giá rét
cỏ cây buồn vội khép quanh thân
Bà sống mãi trong đời thơ Tú Xương
Giữa thời buổi có nhiều ông phỗng
đêm cô đơn lặng đi từng tiếng trống
gió đông tàn nghe rít lạnh trên thang...
Không phải vợ nhà thơ đất Tiên Điền
hiểu vì sao đời ông khánh tận
giữa chiều vàng mà vó câu Kim Trọng
chàng bù nhìn làm hỏng một tình yêu...
Là vợ nhà thơ để hiểu tiếng đàn
tiếng cuộc sống rơi trên vàng trên đá
tiếng hương bay vào lòng hoa lặng lẽ
tiếng lòng người bị xé lúc sang đông
Tiếng mười năm gửi lại trăm năm
người ra đi tiếp lời dâu bể
áo vẫn xanh trên thân người kỹ nữ
đời vẫn buồn trên vó ngựa Lâm Truy
Ba trăm năm nước sông còn nổi sóng
mặt người thu vẫn nhuộm quan san
cánh hồng gieo trên đời người chết đứng
thi sĩ buồn máu đọng trong tim...
Không phải vợ nhà thơ của nhiều thời đại
đốt đuốc cho chồng viết Cáo Bình Ngô
một trái tim một thanh gươm mở nước
một mái đầu gửi lại đất Đông Đô...
Không phải vợ ông đồ của Vũ Đình Liên
nghe tiếng lá đào rơi trên giấy
lá vẫn rơi, lá còn rơi mãi

khi bóng chiều thời đại đã ra đi...
Là tượng Xi-Va trong cổ viện Chàm
Người đàn bà trong Lệ Chi viên
úp xuống đời tôi án tru di tam tộc
đường gươm ngọt ngào đi rất sắc
Là giọt đắng trong hồn tôi tí tách
tiếng ngựa thồ lóc cóc trong đêm
kinh Sáng thế đọc thành lời hủy diệt
là ảnh một người tôi yêu suốt trăm năm
Cao Thoại Châu
(Tân An tháng 1 năm 1990)
Thật lạ lùng! Thơ Cao Thoại Châu viết thật tự nhiên như là đang thở, đang trò chuyện, mà trò chuyện có lớp có lang, có hồn vía, có vần điệu, rất gợi hình, gợi cảm khi dụng ngữ tài tình và lắm so sánh, ẩn dụ tài hoa. Những bài thơ như thế, thường đánh động và đi thẳng vào trái tim người đọc và sẽ vượt không gian, thời gian để bất tử. Tôi rất tin điều này anh Cao Thoại Châu ạ.
Trần Dza Lữ
(SàiGòn, tháng 10.2018)

Hình 1: Nhà thơ Cao Thoại Châu

Hình 2: Tập thơ bị xé mất bìa trong 
gánh ve chai: Bản Thảo Một Đời
PHẦN 33
NGUYỄN MIÊN THẢO,
NHÀ THƠ MỘT ĐỜI LAO ĐAO...
Nhắc đến Nguyễn Miên Thảo là nhắc đến nhóm Cuồng Biển ở Huế từ thập niên 60. Nhóm này gồm có hai tay chủ biên là Từ Hoài Tấn, Nguyễn Miên Thảo. Cùng lúc là một tập san chép tay có tên Mây Ngàn của tôi. Bằng đam mê và chăm chút sau vài năm, tất cả đã lớn dậy để bước vào các tạp chí văn học một cách đường hoàng ở SG thời ấy mà thư ký tòa soạn Văn gọi là những người viết trẻ. Lúc đó Nguyễn Miên Thảo có bút hiệu rất con gái là Hà Thị Thao. Thơ của HTT chỉ xuất hiện trên bns Văn đâu chừng 5,7 bài gì đó nhưng đã gây tiếng vang bởi những dòng lục bát đẹp với ngôn ngữ rất mới lạ. Để rồi sau đó HTT đã bị Nguyễn Miên Thảo khai tử, chỉ còn bút hiệu này với thơ và những bài viết cuốn hút bạn đọc trên các báo và tạp chí. Thời ấy, Huế có những cây bút khiến SG đặc biệt quan tâm như Ngụy Ngữ, Hồ Minh Dũng, Lê Bá Lăng, Trần Doãn Nho, Mường Mán, Nguyễn Miên Thảo, Từ Hoài Tấn, Tần Hoài Dạ Vũ, Thái Ngọc San, Viêm Tịnh, Kiều Trung Phương, Võ Quê, tôi... Một lực lượng đông đảo nhưng mỗi người viết có phong cách của riêng mình, không bị đồng phục văn chương và điểm rất đáng yêu là anh em quý mến, thúc đẩy nhau đi về phía trước, chẳng ganh ghét, tị hiềm. Tinh thần văn nghệ là trên hết nên rất tôn trọng quan điểm, chính kiến của nhau, không phân biệt “bên ni hay bên tê” mà chỉ thích thú đọc bài của nhau trên trang văn học vừa mới “ra lò” còn mùi thơm của giấy mực. Nói thế, nhưng sự đời có gì là mãi mãi? Sau năm 68, thân phận mỗi người trôi theo một hướng như định mệnh đã an bài... Tôi bỏ Huế mà đi. Nguyễn Miên Thảo cũng trôi giạt vào miền Nam. Khi thì Nha Trang, khi SG, lúc Bình Dương. Bạn lăn lóc kiếm sống bằng ngòi bút của mình. Anh biên tập báo Sóng Thần, Trình Bày, Làm Dân. Thời ấy làm gì dễ dàng điện thoại hay lên mạng như bây giờ. Biết tin của nhau qua báo chí mà thôi.
Một đêm của năm 1973, không hẹn mà gặp nhau ở thành phố biển Nha Trang. Tôi và Nguyễn Miên Thảo vui đến ngỡ ngàng bên ly bia của một quán cóc. Tôi nói tôi đang trên đường vào trường bộ binh Thủ Đức. Còn bạn? Mình kiếm đường vào bưng, Thảo nói. Hơi ngạc nhiên một chút nhưng rồi tôi hiểu câu sau cùng của Thảo: “Mình đi bưng vì mê bài thơ của thi sĩ Chế Lan Viên”... Không ai có thể ngủ yên trong đời chật. Buổi thủy triều vẫy gọi những vầng trăng. Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt. Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm. Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt. Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng... Thì ra vậy! Sau đó chúng tôi chia tay nhau bằng câu chúc bình an.
Sau 9 tháng quân trường, tôi được điều động về Kiến Hòa (Bến Tre) vùng đất cứ nghĩ đi là không có ngày về. Thế mà tôi vẫn sống cho đến ngày đổi đời 30.4.75. Còn Nguyễn Miên Thảo tôi không biết thế nào? Sống chết ra sao...
Thật bất ngờ, vào một ngày của tháng 5.75 tôi lơ ngơ đến trường Đại Học Vạn Hạnh tính trình diện thì thấy Nguyễn Miên Thảo mặc bộ đồ đen ngồi chình ình trước cổng trường. Chúng tôi nhận ra nhau và mừng đến ứa nước mắt. Thảo hỏi tôi” Ra trường bạn về đâu? “Bến Tre” “ Mình cũng ở Bến Tre” “Vậy mà không gặp nhau nhỉ?” Trời đất run rủi!. Nếu bắn nhau thì sao? Tôi và Thảo kể cho nhau nghe những năm tháng đi qua chiến tranh. Bây giờ còn sống là Ok rồi. Sau lần gặp đó, tôi đi trình diện học tập tại quận 2 SG. Thảo về lại Bến Tre làm việc trong ngành văn hóa. Với tâm thế của một người ”lãng mạn cách mạng” như Thảo tôi nghĩ chắc khó làm việc dài lâu. Hình như mười mấy, hai mươi năm sau thì Thảo cũng về SG. Vợ chồng Thảo lại bắt đầu kiếm sống bằng nhiều nghề. Thời gian đi qua đời người thật chóng vánh. Bệnh hoạn lại ập đến cuộc đời nhà thơ gốc Mỹ Lợi, Huế này. Năm 2008, tôi về Huế ra mắt con gái rượu vu quy tại nhà hương hỏa ở Ngọc Anh. Bạn bè tụ lại chúc mừng hạnh phúc cho cháu có chị Lê Bá Lăng, Viêm Tịnh, Ngàn Thương, Nguyễn Miên Thảo... Sau buổi tiệc, Nguyễn Miên Thảo lên Huế thì phải vào bệnh viện vì bệnh tim rất nguy kịch. Mấy ngày sau Thảo bị Tử Thần từ chối. Thế là anh tiếp tục sống để cùng lãng đãng với bạn bè. Mỗi năm Thảo cố gắng về thăm quê Mỹ Lợi hoặc ở căn nhà của Viêm Tịnh ở Hàng Bè. Lúc này không viết báo, Thảo lại làm thơ. Và cũng nhờ sự quan tâm của anh em bè bạn Nguyễn Miên Thảo đã trình làng được tập thơ: NGUYỄN MIÊN THẢO - THƠ TÌNH. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, năm 2013.
Từ năm 2014, ngoài bệnh tim anh còn bị bệnh Gút hành hạ. Năm nào cũng vào bệnh viện như đi chợ. Chị Thảo phải chăm sóc chồng thường xuyên nên cuộc sống càng khó khăn hơn. Đã gần hết đời người mà Nguyễn Miên Thảo chưa có được một căn nhà riêng ở SG (dù nơi quê vợ, hai người có nhà hẳn hoi) mà phải lên tp ở nhà thuê cho tiện việc chữa bịnh. Tiền nhà thì ngày một tăng. Rồi đây anh chị và mấy cháu có vượt qua được bão giông cuộc đời?. Đó là một hỏi khó có câu trả lời. Tôi thật xa xót. Số phận của những nhà thơ phải bơi qua khổ ải mãi thế sao? Chữ tài liền với chữ tai như lời thơ tiên tri của thi hào Nguyễn Du?
Mãi lan man về một nhà thơ lao đao một đời. Có lẽ nên để bạn đọc, đọc tiểu sử và thơ Nguyễn Miên Thảo:
Tiểu sử:
Nhà thơ Nguyễn Miên Thảo sinh ngày 19 tháng 8 năm 1946, quê Phú Vang (Thừa Thiên - Huế), hiện sống ở TP.HCM. Ông từng có thơ trên tập san Trình bày và các báo tranh đấu của sinh viên - học sinh miền Nam chống Mỹ trước 1975 và được đánh giá là “một cây bút thơ cứng cáp trong phong trào đấu tranh đô thị từ Huế đến Sài Gòn”.
Nhà thơ Nguyễn Miên Thảo là tác giả, đồng tác giả của những tác phẩm như: tập thơ ”Hãy Thức Dậy Cùng Ta Thầm Lặng Đêm Nay” (Thơ, NXB Nội Dung,1966), “Những Dòng Sông Đêm” (Thơ in chung, NXB Thuận Hóa, 2007), Tuyển tập 1000 Nhà Thơ Huế Đương Thời (ba tập), đồng chủ biên với Cao Huy Khanh, Viêm Tịnh (NXB Thuận Hóa, NXB Hội Nhà Văn, 2008 - 2012). (tạp chí Sông Hương)
THƠ NGUYỄN MIÊN THẢO:
TUỔI MỘNG
Buổi sáng em ngồi rất khỏa thân
Tay buông ngọn tóc xuống vai trần
Anh ôm thân thể em ngà ngọc
Một phút quên ngoài kia chiến tranh
Anh bắn em bằng súng cá nhân
Bắn xuyên tim nên em từ trần
Bởi muôn kiếp trước anh là cỏ
Đã ngủ sâu trong tháp mộ thần
Em sẽ biến thành con suối tiên
Chờ anh về nhập mộng trần gian
Súng kia sẽ biến thành đũa ngọc
Gõ xuống tim em một giọt vàng
(1966)
TIẾNG MẠ
Nghe em tiếng nói xanh xao
Tự dưng anh nhớ cồn cào sông Hương
Rứa răng ngọt lịm như đường
Từ trong giọng nói tìm phương anh về
NỢ EM, ANH BIẾT ĐỀN BỒI SAO ĐÂY
Nợ em chỉ một tiếng cười
Nghìn năm sau biết đền bồi sao đây?
Khi bàn tay nắm bàn tay
Thì ra trời đất đổi thay bao giờ
Tình yêu là chuyện bất ngờ
Ví như một sáng tình cờ yêu em
THƯ GỬI VỢ TỪ HUẾ
Có phải em bây giờ buồn lắm
Nhớ anh như nhớ kẻ bạc tình
Em đâu biết anh vừa xa cách
Nhớ thương em đến xót xa lòng
Đêm đầu về Huế không ngủ được
Anh nhớ em như nhớ tình nhân
Nửa đời chăn gối tròn hương lửa
Em mãi là em của mặn nồng
Anh trót sinh ra làm lãng tử
Đa tình mà không biết điêu ngoa
Tình yêu, ừ nhỉ, là chi nhỉ
Thật tuyệt vời yêu một bông hoa
Anh dặn lòng mình không bội bạc
Một sợi tóc buồn giữa nắng thu
Phút giây lại nhớ em da diết
Tình yêu em giờ lại xa mù
Có xa cách mới biết lòng nhung nhớ
Anh nhớ em như nhớ tình nhân
Anh vẫn mong mai ngày trở lại
Vòng tay em ấm áp đến vô cùng
TỰ BẠCH
Năm anh ba mươi tuổi
Ngỡ mình đi đúng đường
Giờ sắp tuổi lai hi
Mới biết mình lạc lối
Mười hai năm làm quan
Lòng luôn sao bức bối
Mười tám năm làm dân
Mới biết mình có tội
Mười tám năm làm thinh
Mười tám năm không nói
Em tặng một ngày xuân
Cuộc đời anh phơi phới
Chỉ cần nụ cười em
Cuộc đời anh đã khác
Chỉ cần được yêu em
Anh không còn đi lạc.
Chấm dứt bài viết, tôi vẫn thích bài thơ Tự Bạch của Nguyễn Miên Thảo hơn cả bởi có gì đó xon xót trong lòng...
Trần Dzạ Lữ

Hình 1: Nhà thơ Nguyễn Miên Thảo
Hình 2: Tập thơ Nguyễn Miên Thảo - Thơ Tình.
SG tháng 4. 2020
Trần Dzạ Lữ
Theo http://www.art2all.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...