Hành trình thơ của nữ thi sĩ yêu thơ
Chị tặng tôi 5 tập thơ, được đánh dấu thứ tự từ số 1 đến số
5, nhìn những tập thơ được trình bày trang nhã, đẹp, tôi cảm nhận hạnh phúc của
chị cùng những “đứa con tinh thần” trên những chặng đường sáng tác cùng nàng
thơ đỏng đảnh. Tôi biết chị qua trang Thi ca điểm hẹn (VOH), giọng miền
Trung chân thật, nhẹ nhàng. Tôi gặp chị trên đất Huế (2019) trong ngày hè nóng
bỏng (trên 38 độ C). Nhận thơ chị, tôi như người có lỗi nếu như chưa đọc và cảm
nhận về nó.
Tôi xem bài thơ “Yêu thơ” của
chị trong tập thơ “Dòng sông và nỗi nhớ” như là tuyên ngôn thơ của nữ thi sĩ
Nguyễn Thị Phương Nam: “Tiếng đài khuya vọng ngân nga/ Thơ ơi vang mãi thiết
tha mặn nồng/ Từng câu từng ý vào lòng/ Yêu thơ ta nguyện thủy chung trọn đời”;
“Thơ, làm nhịp cầu nối hai tâm hồn/ Thơ, giúp em vượt qua ngàn cay đắng” (Để em
thức cùng thơ - Gửi vào khoảng lặng). Thơ là cứu cánh cho nữ thi sĩ - nhà giáo,
nữ thi sĩ - quân nhân trong những năm tháng vừa làm tròn nhiệm vụ của một công dân
vừa làm tròn bổn phận của một người vợ thủy chung, một người mẹ đảm đang và cả
khi lên chức bà hiền hậu, thân thương. Thủy chung cùng thơ, yêu thơ và sáng
tác, cho đến nay chị đã lần lượt xuất bản các tập thơ: Dòng sông và nỗi nhớ (2006), Hương
thiên lý (2013), Vọng mãi lời ru (Sưu tầm, 2014), Nơi đó có
tình yêu (2016), Gửi vào khoảng lặng (2018). Chị từng là nhà
giáo (1969 - 1981), rồi chuyển sang công tác tại Tổng công ty 28 thuộc Bộ quốc
phòng và mang quân hàm Trung tá QNCN, chị là Hội viên Hội nhà văn TP. Hồ Chí
Minh.
Tôi khá ngạc nhiên trước dòng chảy thơ ca trong chị không đứt
đoạn trong những năm tháng chiến tranh, những năm tháng đất nước trải qua thời
kỳ kinh tế khó khăn, từ làm mẹ, chị đã làm bà và vẫn miệt mài viết. Đọc
những trang thơ của chị như những trang đời “mãi mãi xanh tươi”. Nơi đó có ký ức
mối tình đầu trong xa cách, nhớ thương: “Hẹn ngày về đón anh, em viết tiếp/ Những
dòng thơ thêu dệt mối tình ta/ Cho tình đầu nồng cháy chẳng phôi pha” (Gửi anh
- Dòng sông và nỗi nhớ). Tôi trân quý tình cảm chân thành, thương nhớ trong thơ
chị trong những tháng năm xa người yêu, rồi xa chồng, thơ chị lúc này như là lời
động viên, lời nhắn nhủ, lời an ủi cho những đôi lứa yêu nhau lúc xa ngái hãy
giữ gìn sự thủy chung và niềm tin mãnh liệt: “Những cánh thư ơi hãy vượt núi
băng ngàn/ Về với em giữa lòng đất mẹ/ Dù xa nhau nơi chân trời góc bể/ Hãy một
lòng chung thủy sắt son/ Hãy yêu nhau dù núi lở non mòn” (Thời gian và xa cách
- Dòng sông và nỗi nhớ). Những ai đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh,
từng cảm nhận sự xa cách chia ly sẽ thấm thía cảm xúc yêu thương nồng cháy
trong thơ chị, lúc này thơ ca không thể “mơ hồ và đa nghĩa” để người đọc phải
đoán non đoán già, mà từng sợi tơ trời khi rót vào cảm hứng sáng tạo của thi
nhân thì cảm xúc tuôn trào là chân thật, khắc khoải, dặn dò, thương mến…
Cảm thức thơ trong chị bắt đầu
từ cái nhìn thương mến cùng những người thân, người thương gần gũi với chị, rồi
tứ thơ lan tỏa tình mến thương đến với mọi người.
“Làn gió nhẹ lùa qua khung cửa
sổ/ Nghe hương xuân ngan ngát cả gian phòng/ Những chậu hoa ngoài hành lang nở
rộ/ Cành lá lắt lay xao động tâm hồn… Muốn gửi vào thơ những dòng tâm huyết/
Sao xuân sang lòng vẫn thấy u buồn…/ Chị có biết ngoài kia xuân vẫy gọi/ Hương
xuân về tìm kiếm bóng người thân/ Giữa nẻo đường quen thuộc, xa gần/ Giờ thiếu
vắng đôi bàn chân của chị…” (Hương xuân - Nơi đó có tình yêu). Nhạc sĩ Quốc
Khanh thật hữu ý khi phổ nhạc bài thơ thành ca khúc “Hương xuân của chị”, bởi
khi đọc bài thơ ta cảm nhận một tâm hồn đa cảm, thương mến, trắc ẩn; giữa niềm
vui khi Tết đến xuân về, thi nhân thương nhớ và xót xa khi “thiếu vắng đôi bàn
chân của chị”; giai điệu của ca khúc luyến thương, dìu dặt, thật vấn vương.
Hình ảnh người chị trong bài thơ “Nhớ lời chị ru” là sự biết ơn của thi nhân: “Ngồi
nhớ lại những lời ru chị hát/ Đưa các em vào giấc ngủ năm nào/ Em không sao
ngăn được dòng nước mắt/ Hình ảnh chị hiền, ôi! Thương nhớ làm sao”.
Tôi gặp chị chỉ vài tiếng đồng
hồ, mà nhận ra nữ thi sĩ mang quân hàm Trung tá quân đội thật tận tình, chân
thành và thương mến; nên khi tôi đọc những vần thơ của chị tôi nhận ra cảm xúc
thơ được viết ra từ tấm lòng thương cảm của chị: “Ai cho con manh áo sợi bạc
màu/ Con mặc nó cả mùa đông, mùa hạ/ Nhớ một chiều/ Nơi làng quê yên ả/ Con
rùng mình/ Thấm thía một nỗi đau/ Cởi áo ra/ Con lại mặc vào/ Lại khoác lên
mình/ Những tủi sầu cay đắng/ Đó là nỗi ám ảnh - tuổi thơ/ Suốt đời không quên
được/ Ôi! Một chiều yên ả chốn làng quê” (Manh áo sợi bạc màu - Hương thiên lý).
Một sự sẻ chia, đùm bọc “lá lành đùm lá rách” trong cảm xúc thi nhân thật xúc động;
manh áo sợi bạc màu là sự cùng cực của nghèo đói, nhận manh áo nhận luôn sự tủi
sầu cay đắng, mà lòng biết ơn thì “suốt đời không quên được”.
Những kỷ niệm thời chiến tranh
dưới mái trường Sư phạm đi vào thơ chị như những câu chuyện kể, lời kể thân
thương cùng thầy cô, bè bạn, đọc thơ chị như đọc cả một vùng ký ức, mà nơi đó
chị cùng những người bạn “cùng một lứa bên trời lận đận”: “Lời tri ân”, “Kỷ niệm
còn đây”… (Hương thiên lý). Tình cảm quê hương, gia đình đậm đặc trong thơ chị:
“Có lúc cồn cào nỗi nhớ quê hương/ Nơi ngày xưa chôn rau cắt rốn/ Nhớ tuổi thiếu
niên mỗi chiều mỗi sớm/ Men theo con mương nhỏ đến trường” (Nỗi nhớ - Hương
thiên lý). Ký ức về mẹ, về gia đình là ký ức của thời đạn bom, nghèo khổ: “Trải
qua bao năm tháng/ Mẹ tần tảo nuôi con/ Đôi vai mẹ gầy mòn/ Đôi bàn tay rám nắng…
Tuổi thơ con chưa biết/ An ủi mẹ một lời…” (Ký ức về mẹ - Hương thiên lý). Đề
tài về mẹ, về chị, về em trở đi trở lại trong thơ chị; khi thì nhớ về nhân ngày
giỗ, khi thì nhớ về nhân ngày xuân, khi thì nhớ về nhân ngày vui, nghĩa là tình
cảm gia đình thường trực trong chị khi chị rời quê hương, gia đình, công tác và
lập nghiệp ở nơi mà “Người Sài Gòn thanh hậu”.
Người đọc cảm mến thơ chị bởi
cái giọng thơ đằm thắm, dịu dàng, nữ tính, tình yêu và sự thủy chung là điểm tựa
cho chị vượt lên tất cả; tôi vô cùng ngạc nhiên khi nghe chị đọc bài thơ anh viết
tặng chị từ thời còn học sinh: “…Nói đi em cho dịu nhẹ lòng mình/ Cho hoa thắm
vẫy chào trong gió lộng/ Để cho má em mỗi ngày thêm chín mọng/ Cho mắt huyền lấp
lánh như sao/ Cho tình ta đẹp tựa cánh hoa đào…”. Có lẽ những câu thơ với phép
tu từ so sánh liên tiếp đã rung động lòng chị, đã khiến tâm hồn chị bay bổng, để
rồi cả hai đã theo nhau đến tận chân trời góc bể, và cùng với tháng năm, chị nhắc
lại kỷ niệm xưa như vẫn rung động của mối tình đầu: “Em đọc đến thuộc lòng/ Bài
thơ đầu anh viết/ Tờ giấy lằn nhiều nếp/ Màu thời gian khô cong/ Nhưng nét chữ
vẫn còn/ In vào trong ký ức?/ Bài thơ đầu anh viết/ Có gì như men say/ Lời
trong sáng thơ ngây/ Tựa hoa hồng hé nở/ Mà gói tròn thương nhớ/ Theo anh tháng
năm dài” (Bài thơ đầu anh viết - Nơi đó có tình yêu). Yêu anh bắt đầu từ những
rung động với bài thơ anh tặng. Thêm một lần lý giải vì sao nữ thi sĩ yêu thơ
ca đến vậy.
Với hành trình thơ của chị ta nhận ra, khoảng thời gian chiến
tranh, xa cách, thơ chị nhớ nhung, chờ đợi; càng về sau giọng thơ lắng đọng
cái nhìn từng trải, lắng đọng tình cảm mến thương cùng người thân, bạn bè, khi
càng ngày chị càng nhận ra cái bi kịch giữa thời gian vũ trụ đến rồi lại đi vần
vũ và nghiệt ngã, và thời gian đời người thì hữu hạn: “Nhìn từng cơn gió thoảng/
Lao xao lá vàng rơi/ Ngắm từng đêm trăng sáng/ Hồn mơ về xa xôi” (Gửi vào khoảng
lặng); nỗi nhớ trong thơ chị dày lên cùng năm tháng với những kỷ niệm thân
thương cùng bạn bè, quê hương: “Đêm Sài Gòn/ Lòng mênh mang nỗi nhớ/ Nơi hẹn hò
ngày đó/ Kỷ niệm xưa/ Sâu lắng tâm hồn” (Nhớ về nơi hò hẹn - Gửi vào khoảng lặng);
những năm gần đây chị được đi về nhiều hơn với những kỷ niệm và giọng thơ chị
có gì đó vừa hoài niệm, vừa lắng sâu: “Về thăm bến đợi năm xưa/ Con đò vắng
bóng người xưa vắng hình/ Chiếc cầu mấy nhịp đứng im/ Bao người qua lại biết
tìm anh đâu?/ Bước đi thơ thẩn trên cầu/ Đâu đây vọng lại những câu tâm tình” (Về
thăm bến đợi - Gửi vào khoảng lặng); quê hương vẫn là nỗi nhớ đau đáu trong
lòng chị: “dù đi khắp nẻo phương trời/ Bến sông xưa vẫn là nơi thâm tình/ Lời
người còn đó đinh ninh/ đến đâu cũng có bóng hình đi theo/ Con đò chở nặng tình
yêu/ Dòng sông là cả sớm chiều quê hương” (Dòng sông thương nhớ - Gửi vào khoảng
lặng)…
Với thi nhân Nguyễn Thị Phương Nam, thơ chị như là quyển “nhật
ký cuộc đời” với đầy đủ các cung bậc cảm xúc, nơi đó chị gửi gắm tình yêu, nỗi
ước mong, hy vọng và những cảm xúc thương cảm trước tình bạn, tình yêu,
tình cảm gia đình… Xem thơ là cứu cánh, là nơi gửi gắm chững cảm xúc vui buồn,
nên khi sáng tác thơ có vần, có điệu thì cảm xúc tuôn trào, do vậy đọc các tập
thơ của chị ta nhận ra thi nhân thường viết bằng nhiều thể loại thơ khác nhau,
câu thơ dài ngắn khác nhau, dường như chị chuộng câu thơ 7 chữ, 8 chữ để diễn tả
hết ý tứ trong lòng. Thi pháp thể loại vì thế không có nhiều đột biến. Giọng
thơ thủ thỉ, tâm tình, ít biến đổi, chứng tỏ nữ thi sĩ đã vượt qua những cảm
xúc thông thường để gửi vào thơ những gì lắng đọng, yêu thương, đó là điều khiến
cho thơ chị có thật nhiều thương mến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét